You are on page 1of 20

1. Vì sao phải kết hợp kinh tế với QPAN?

Kết hợp kinh tế với củng cố QP - AN là sự gắn kết giữa kinh tế với Quốc
phòng trong một thể thống nhất nhằm bổ sung và tạo điều kiện để thúc đẩy
cùng nhau phát triển với hiệu quả kinh tế xã hội cao, kinh tế phát triển, Quốc
phòng vững mạnh góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất
nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ chính quyền toàn vẹn
lãnh thổ đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và có thể đánh thắng trong mọi tình
huống. Sự kết hợp này mang tính biện chứng không coi nhẹ mặt nào cứ như
vậy mới tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Kết hợp kinh tế Quốc phòng đây là yêu cầu khách quan nảy sinh trong
xã hội có giai cấp, Nhà nước, Quốc phòng và chiến tranh.
- Sự kết hợp kinh tế với Quốc phòng là một quy luật của lịch sử, tồn tại
sự kết hợp này biểu hiện thành qui luật mà qui luật này là khách quan, là qui
luật chung cho các dân tộc, cho nhiều xã hội, nhiều giai cấp. Qui lụât này hình
thành từ khi có chiến tranh. Để bảo vệ thành quả của mình trong lao động, sản
xuất thì cần phải củng cố kinh tế với Quốc phòng, là yêu cầu môi sinh của sự
phát triển kinh tế, yêu cầu bảo vệ và tự bảo vệ nền kinh tế.
- Quốc phòng, kinh tế và chính trị có quan hệ chặt chẽ tác động qua lại
lẫn nhau trong đo kinh tế giữ vai trò chủ đạo để tạo ra nguồn lực về cơ sở vật
chất đầu tư cho Quốc phòng.
Trong hoạt động của xã hội thì đều có sự bắt đầu, kết thúc quá trình hoạt
động của nó đều sử dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật của kinh tế nhằm đảm bảo
cho sự sống, hoạt động sống của con người. Quốc phòng và chính trị là lĩnh
vực tiêu tốn cơ sở vật chất của nền kinh tế hay là những hoạt động phi sản
xuất do vậy Quốc phòng và chính trị lấy kinh tế hỗ trợ chủ đạo.
- Xây dựng kinh tế và các hoạt động Quốc phòng thống nhất ở mục đích
nhưng không đồng nhất, có sự ước chế lẫn nhau. Mục đích xây dựng kinh tế
và củng cố Quốc phòng là tạo ra sức mạnh của cả dân tộc, phát triển kinh tế

1
làm cho dân giàu, nước mạnh, là điều kiện, là cơ sở đầu tư cho Quốc phòng
do vậy quá trình kết hợp kinh tế phải hỗ trợ bổ xung cho nhau.
* Sự kết hợp kinh tế với Quốc phòng An ninh được vận dụng trong cuộc
kháng chiến trước đây được thể hiện trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ kinh tế với Quốc phòng ở cả trong thời
bình, khi có chiến tranh, ở thời bình tích cực bồi dưỡng sức dân chuẩn bị lực
lượng trong dân, thực hiện chính sách trăm họ là "binh giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh".
Trong 2 cuộc kháng chiến, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa
phát triển kinh nghiệm truyền thống của cha ông tạo ra chất lượng mới của sự
kết hợp, nó mang tính toàn diện: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, ruộng dãy
là chiến tranh, cuốc cày là vũ khí... Miền Bắc là hậu phương chi viện sức
người, sức của cho miền Nam, miền Bắc là hậu phương lớn (miền Bắc
XHCN), chi viện cho tiền tuyến ở miền Nam và sau 21 năm chúng ta giành
thắng lợi. Từ khi đất nước thống nhất đi lên XHCN: Đảng ta đã xác định 2
nhiệm vụ chiến lược cách mạng chính là việc cụ thể hoá bằng sự kết hợp kinh
tế với Quốc phòng An ninh, sự kết hợp này được thể hiện trong toàn bộ nội
dung đường lối phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những nguồn lực
của sức mạnh tổng hợp để bảo vệ TQVN XHCN.
2. Quan điểm nguyên tắc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ của
Đảng ta:

Dân quân tự vệ là lực lượng quần chúng không thoát li khỏi sản xuất,
công tác là một bộ phận của LLVTNDVN, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, điều hành, sự chỉ đạo chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và
các cơ quan quân sự địa phương.

Trong việc xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, Đảng ta có những quan
điểm:

2
- Xây dựng LLDQTV vững mạnh rộng khắp coi trọng chất lượng là
chính, đây là quan điểm xuyên suốt. Quan điểm này gồm 3 vấn đề.

. Tổ chức biên chế, giáo dục lãnh đạo, có vũ khí đầy đủ, chính trị vững
vàng.

. Rộng khắp, DQTV xây dựng khắp trên cả nước, khắp làng bản, cơ
quan, đây là chiến lược để giải quyết tình huống chiến đấu tại chỗ.

. Coi trọng chất lượng là chính, cốt lõi của chất lượng là chất lượng
chính trị , chất lượng có liên quan đồng bộ với vững mạnh, để đảm bảo chất
lượng cho công cuộc bảo vệ, xây dựng tổ quốc (vd: Trong chiến đấu chíng trị
mà thấp kém sẽ dẫn đến ta lơ là kẻ địch và thất bại là điều chắc chắn xảy ra).
Tiêu chuẩn về DQTV là phải có lai lịch rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, sức
khoẻ tốt đủ để phục vụ tổ quốc.

- Quán triệt quan điểm quốc phòng toàn dân và nguyên tắc công bằng xã
hội, pháp chế hoá nghĩa vụ tham gia tổ chức quân đội.

- DQTV phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; Đảng lãnh đạo trực tiếp về
mọi mặt đối với lực lượng vũ trang trong đó có lực lượng DQTV, đây là
nguyên tắc bất di bất dịch đối với lực lượng vũ trang (lực lượng vũ trang là
công cụ của Đảng nên DQTV phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng).

3. * Quan điểm của Đảng

- Kết hợp kinh tế với Quốc phòng An ninh là một nội dung của đường
lối, quan điểm của Đảng ta trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay, sự kết hợp kinh tế với Quốc
phòng An ninh phải đan xen thâm nhập vào nhau, là điều kiện, nhu cầu của
nhau xen nhập vào nhau, là điều kiện, nhu cầu của nhau để tạo ra được thành
quả, sự ổn định về chính trị, ổn định về môi trường hoạt động, mới bảo vệ
được sự ổn định phát triển của nền kinh tế, thực hiện có hiệu quả về nền kinh
tế.

3
- Sự kết hợp chặt chẽ kinh tế Quốc phòng an ninh trong các chiến lược,
qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, trong khi hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế xã hội phải tính đến những yêu cầu Quốc phòng đặt ra cho
từng ngành, địa phương để lựa chọn phương hướng phát triển thực hiện các
giải pháp tốt nhất, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, vừa củng cố Quốc
phòng an ninh. Việc củng cố Quốc phòng an ninh trong xây dựng thế trận an
ninh nhân dân phải dựa vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội bởi vì việc kết
hợp được thể hiện trong các hoạch định, trong các dự án đầu tư lớn.

Vì vậy việc kết hợp này là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá kết
quả hoạt động.

- Kết hợp kinh tế Quốc phòng an ninh là hoạt động phối hợp của các
ngành, các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước tạo nên sức
mạnh tổng hợp cho cả kinh tế Quốc phòng an ninh.

Sự kết hợp đó là sự phối hợp của các cơ quan, các ngành, các cấp dưới
sự lãnh đạo của Đảng.

Vì sao phải là hoạt động phối hợp vì phạm vi kết hợp có qui mô rất rộng
và mang tính toàn diện; và trách nhiệm của các ngành các cấp của toàn xã
hội; sự phối hợp này còn là hoạt động theo nhiệm vụ, theo tính chất chức
năng của các ngành, các cấp.

* Nội dung kết hợp

- Kết hợp kinh tế Quốc phòng trong phần vùng lãnh thổ

Do kinh tế xã hội giữa các vùng miền của nước ta phát triển không đồng
đều, do đặc thù của địa phương, đặc thù của dân cư, địa lý nên nền kinh tế xã
hội phát triển không đồng đều. Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước chúng ta tạo điều kiện cho tất cả các vùng phát triển kinh tế tại chỗ (giải
quyết thế lợi so sánh gắn với củng cố Quốc phòng an ninh trong đó chú ý một

4
số vấn đề sau: Trong qui hoạch tổng thể các vùng kinh tế của cả nước phải có
kết hợp với thế bố trí kết hợp chiến lược Quốc phòng an ninh

Kết hợp Quốc phòng an ninh với kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực của từng vùng phục vụ cho phát triển kinh tế đồng thời
gắn với yêu cầu đảm bảo cho Quốc phòng an ninh.

- Kết hợp kinh tế Quốc phòng ở địa phương, tỉnh (thành phố)

Đó là những đơn vị hành chính có vị trí chiến lược quan trọng, mặt kết
khác mỗi tỉnh (thành phố) có những đặc điểm thuận lợi khó khăn riêng, xác
định thế trận Quốc phòng an ninh khác nhau do vậy phát triển kinh tế ở địa
phương phải thể hiện tính toàn diện vừa khai thức tối đa lợi thế của địa
phương mình mà vừa phải gắn với xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện
vững chắc bảo đảm làng giữ làng, xã giữ xã, khu vực phòng thủ của từng địa
phương.

Kết hợp kinh tế Quốc phòng ở các tỉnh ven biển, tỉnh biên giới là cực kì
quan trọng do vậy cần phải kết hợp phát triển kinh tế đi đôi với củng cố cơ sở
lí luận chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương.

- Kết hợp kinh tế Quốc phòng với Quốc phòng an ninh trong một số
ngành chủ yếu

+ Ngành công nghiệp: trong qui hoạch phát triển ngành công nghiệp cần
bố trí các khu công nghiệp tương đối đồng đều để sẵn sàng huy động cho
Quốc phòng an ninh khi có chiến tranh đảm bảo thế trận an ninh nhân dân,
sẵn sàng chuyển hoá công nghiệp thời bình sang công nghiệp thời chiến.

+ Trong xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng cơ bản: ví dụ trong giao
thông vận tải để phục vụ giao lưu hàng hoá của các vùng miền.

+ Trong xây dựng và phát triển công nghiệp Quốc phòng.

5
+ Trong các ngành lâm ngư nghiệp: trên cơ sở hoạt động rất rộng của các
vùng miền là nguồn thu nhập cho nền kinh tế của chúng ta phát triển rất dồi
dào.

4. Trình bày nhiệm vụ, vị trí, tác dụng của khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố)

Khu vực tỉnh (thành phố) là một đơn vị Quốc phòng địa phương, bộ
phận hợp thành của nền Quốc phòng, toàn dân, được xây dựng trên địa bàn
tỉnh (thành phố) trong thế trận phòng thủ, thế trận chiến tranh nhân dân của
quân khu và cả nước.

Khu vực phòng thủ bao hàm cả Quốc phòng, an ninh, kinh tế của địa
phương nhằm tạo ra sức mạnh toàn diện để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền
và bảo vệ nhân dân, lãnh thổ của địa phương. Khu vực phòng thủ là một đơn
vị Quốc phòng, tạo ra một vùng có sức mạnh tổng hợp để chiến đấu, chiến
thắng tất cả kẻ thù để bảo vệ Đảng, nhân dân, bảo vệ thành quả của cách
mạng.

Ở mỗi tỉnh có địa lý khác nhau, chính trị khác nhau nên nền kinh tế cũng
khác nhau nhưng do yêu cầu xây dựng khu vực phòng thủ thành khu vực
phòng thủ tỉnh thành phố nên có đặc điểm giống nhau được thể hiện:

- Vị trí: có vị trí chiến lược (được phân thành 3 cấp: chiến dịch, chiến
thuật, chiến lược) cực kỳ quan trọng, chiến lược chi phối tới toàn bộ hoạt
động của đất nước. Khu vực phòng thủ là một bộ phận hợp thành thế trận an
ninh do đó xây dựng thế trận khu vực phòng thủ là xây dựng vững chắc là quá
trình chuẩn bị chiến tranh địa phương và chuyển sang quá trình chuẩn bị
chiến tranh của cả tỉnh và cả nước. Khu vực phòng thủ là khu vực trực tiếp tổ
chức cho nhân dân thực hiện đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, nhà nước
trong từng thời kỳ, là nơi giữ gìn kế thừa và phát triển truyền thống, kinh
nghiệm quân sự của ông cha ta.

6
Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là chỗ dựa vững chắc tạo điều kiện
và phối hợp với bộ đội chủ lực đến tác chiến ở địa phương.

- Tác dụng: Trong thời bình khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là nơi
chuẩn bị tiềm lực sức mạnh vềmọi mặt để kịp thời đối phó với mọi tình huống
nhất là tình huống DBHBBLLĐ.

Thời chiến thì xây dựng tỉnh (thành phố) vững chắc là điều kiện hàng
đầu để địa phương triển khai lực lượng, kịp thời đánh trả quân địch kiên quyết
bảo vệ địa phương đẩy địch vào thế sa lầy, bảo vệ tổ quốc.

- Nhiệm vụ: khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) có nhiệm vụ quan trọng
kết hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể. Thường xuyên giữ vững chính trị
đấu tranh chống mọi hoạt động phá hoại của kẻ thù do đó ổn định chính trị là
vấn đề quan trọng hàng đầu.

Xây dựng lực lượng vũ trang và thế trận chiến tranh nhân dân địa
phương, kịp thời phát triển ngăn chặn đánh bại mọi ý đồ xâm lược của kẻ thù
trên tất cả các tình huống.

Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa sản
xuất, bảo vệ sản xuất góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần, tạo ra
sức mạnh tổng hợp.

Câu 5: Đặc điểm chi phối đến công tác quốc phòng ở Bộ ngành địa
phương và vai trò của Bộ ngành địa phương đối với công tác quốc phòng

Chi phối đến chính trị Quốc phòng ở Bộ, ngành, địa phương và vai trò
Bộ, ngành, địa phương với chính trị Quốc phòng. Công tác Quốc phòng ở Bộ,
ngành địa phương là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác Quốc phòng
của nhà nước, phải do Đảng lãnh đạo bao gồm các vấn đề về giáo dục quốc
phòng, động viên tổ chức toàn dân làm công tác quốc phòng, xây dựng và bảo
vệ tiềm lực quốc phòng, chuẩn bị cho đất nước sẵn sàng đối phó thắng lợi,
cho mọi tình huống bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN giữ vững chủ quyền

7
an ninh quốc gia, đó là công tác được triển khai thực hiện ở mọi cấp, ngành
địa phương, từ trung ương đến cơ sở.

Trong tình huống mới thì công tác quốc phòng (chính trị quốc phòng)
chịu nhiều tác động của các yếu tố ảnh hưởng, đây là giai đoạn cảu chiến lược
chính trị quốc phòng. Tình hình thế giới những năm qua có những biến đổi
sâu sắc từ thế giới đa cực thành thế giới đơn cực. Bên cạnh đó, ở Việt Nam
chúng ta trong những năm vừa qua đã tăng được nền kinh tế đẩy mạnh được
chính trị quốc phòng, đã nâng lên một bước tuy nhiên vẫn chưa tương xứng
với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, còn thể hiện ở khâu nhận thức, thế trận quốc
phòng toàn dân chưa vững chắc nhiều nơi còn xây dựng lỏng lẻo, nhiều cá
nhân còn chưa nhận thức được rõ vấn đề này xây dựng lực lượng nhất là
DQTV còn yếu, cả công tác dự bị động viên yếu, khi có lệnh tập trung thì
phải mất một thời gian khá lâu mới tập trung được, hiệu lực quản lí chính trị
quốc phòng của nhà nước còn chưa vào nề nếp, khoa học, việc quản lí của Bộ
nọ ngành kia chưa thống nhất với nhau, kế hoạch triển khai ra còn chưa đồng
bộ, không đưa đúng tầm do đó đã dẫn đến hậu quả là phá vỡ cơ cấu của tinh,
địa phương đó.

Từ những đặc điểm trên ảnh hưởng đến chính trị quốc phòng ở Bộ,
ngành địa phương thì ta cần phải xác định vai trò của bộ ngành, địa phương
với chính trị quốc phòng thực sự trở nên vững mạnh.

Bộ, ngành, địa phương có vai trò vô cùng quan trọng trong việc chỉ đạo
thực hiện chính trị quốc phòng, trong đó Bộ chỉ đạo còn địa phương là đối
tượng thực hiện tuy nhiên cũng có lúc là chủ thể chỉ đạo thực hiện.

Bộ, ngành là một đơn vị hành chính hoặc kinh tế có tiềm lực và thực lực,
là nơi trực tiếp tổ chức xây dựng thế trận quốc phòng kết hợp với thế trận an
ninh tạo nền tảng cho quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của cả nước.
Sự xây dựng, bố trí các lực lượng quốc phòng, lực lượng an ninh và hoạt động
của các lực lượng này để tạo ra sức mạnh. Thế trận quốc phòng là các lực

8
lượng quốc phòng, tiềm lực quốc phòng chưa biến thành lực lượng quốc
phòng mà được sắp xếp bố trí các lực lượng quốc phòng thể ý định để sử
dụng.

Thế trận an ninh là cách bố trí, sắp xếp lực lượng an ninh hai thế trận
quốc phòng và an ninh gắn kết với nhau chặt chẽ bởi vì trong giai đoạn hiện
nay quốc phòng và an ninh gắn bó biện chứng với nhau, nếu an ninh yếu thì
DBHB - BLLĐ sẽ xảy ra và làm cho quốc phòng suy yếu dần mặt khác nếu
quốc phòng yếu thì không thể đảm bảo được cho an ninh Tỉnh và trên địa bàn
các ngành của tỉnh nếu có sự gắn kết như vậy sẽ tạo ra thế trận chung của cả
nước vững chắc về quốc phòng và an ninh.

6. Trình bày biện pháp xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành
phố)

Khu vực tỉnh (thành phố) là một đơn vị quốc phòng địa phương, bộ phận
hợp thành của nền quốc phòng toàn dân được xác định trên địa bàn tỉnh
(thành phố) trong thế trận phòng thủ, thế trận chiến tranh nhân dân của quân
khu, cả nước bao gồm cả quốc phòng, an ninh, kinh tế của địa phương nhằm
tạo ra sức mạnh toàn diện để bảo vệ Đảng, chính quyền, nhân dân, lãnh thổ
của địa phương, tạo ra vùng có sức mạnh tổng hợp để chiến đấu, chiến thắng
mọi kẻ thù để bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân. Do đó khu vực phòng thủ
tỉnh (thành phố) có vị trí chiến lược tương đối quan trọng nên để xây dựng
khu vực phòng thủ luôn vững mạnh thì Đảng ta có những biện pháp cụ thể:
thường xuyên làm tốt công tác giáo dục quốc phòng cho các đối tượng trong
khu vực, để thấy được giáo dục quốc phòng là vấn đề cấp bách lâu dài trong
khu vực tỉnh (thành phố) đối tượng phải là toàn thể nhân dân nhưng trụ cột là
Đảng viên. Bồi dưỡng kiến thức rõ về nhiệm vụ chiến lược, xây dựng đi đôi
với bảo vệ, vị trí, vai trò nội dung xây dựng khu vực phòng thủ, âm mưu thủ
đoạn của kẻ thù đoạn của kẻ thù trên cơ sở đó nâng cao ý thức cảnh giác, lập
kế hoạch, có biện pháp của thể để đạt được hiệu quả cao nhất.

9
Bên cạnh đó ta cần vận dụng đúng đắn cơ chế lãnh đạo, điều hành chỉ
huy trong khu vực phòng thủ. Trong khu vực phòng thủ Đảng là người lãnh
đạo, chính quyền quân sự các cấp làm tham mưu giao cho chỉ huy trưởng ở
các cấp phải đưa vào thực tiễn, thường xuyên luyện tập để nâng cao vấn đề
này.

Ngoài những yếu tố trên xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố)
cần xây dựng qui hoạch kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, từng năm. Tổ chức xây
dựng kinh tế - xã hội kết hợp với xây dựng khu vực tỉnh (thành phố) tổ chức
tuyên truyền giáo dục nhằm phát động, phát triển ngày hội quốc phòng - an
ninh. Thường xuyên có kế hoạch chặt chẽ tổ chức huấn luyện các phương án,
các biện pháp phòng chống nhằm ngăn chặn xử lý các tình huống kịp thời
trong quá trình xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) cần thực hiện
nghiêm túc pháp luật, chính sách của Đảng, nhà nước, đề cao trách nhiệm
công dân, tích cực xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Tập trung
chỉ đạo, thực hiện nghiêm các Luật của nhà nước. Luật nghĩa vụ quân sự, dự
bị động viên.

Thực hiện chính sách hậu phương quân đội, gia đình,thương binh liệt sĩ,
tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia xây dựng văn bản pháp luật.

7. Trình bày vị trí vai trò của lực lượng DBĐV, ĐVCN

+ Lực lượng dự bị động viên (DBĐV)

Lực lượng DBĐV gồm quân dân dự bị và phương tiện kỹ thuật đã xếp
trong kế hoạch bổ xung cho lực lượng thường trực trong quân đội nhằm duy
trì tiềm lực quân sự, là góp phần quyết định thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ
tổ quốc lực lượng DBĐV gồm sỹ quan dự bị, sỹ quan binh sỹ (đã xếp trong kế
hoạch bổ xung). Phương tiện kỹ thuật gồm phương tiện vận tải, làm đường,
bốc xếp, thông tin liên lạc, y tế và các phương tiện khác, danh mục kỹ thuật
do Chính phủ quy định theo từng thời điểm của đất nước. Quân nhân và
phương tiện kỹ thuật trong kế hoạch biên chế cho lượng thường trực quân đội

10
trong thời binh được quản lý theo trương trình quy định sẵn có, hoạt động
dưới dạng huấn luyện nên khi chiến tranh xảy ra huy động vào các đơn vị
theo kế hoạch. Xây dựng lực lượng DBĐV có vị trị cực kỳ quan trọng trong
chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là nhiệm vụ
cơ bản góp phần xây dựng tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn
dân tạo ra một nguồn bổ xung nhân lực, mở rộng lực lượng quân đội khi đất
nước chuyển trạng thái chiến tranh, thể hiện quán triệt quan điểm kết hợp chặt
chẽ 2 nhiệm vụ chiến lược trong điều kiện mới (bảo vệ tổ quốc và xây dựng
đất nước). Từ xưa đến nay đất nước ta đều thực hiện xây dựng lực lượng này,
từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần được gọi là chính sách "Ngự binh ngư nông", lực
lượng DBĐV là lực lượng nòng cốt trong xây dựng và phát triển kinh tế hiện
tại của địa phương do đó ngày 27/8/. ......Uỷ ban Chính phủ ra pháp lệnh tổng
động viên.

+ Lực lượng DBĐV:

Trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc nhà nước thực hiện động viên nền kinh
tế quốc doanh cho quốc phòng: Ngành khoa học công nghệ, công nghiệp và
các ngành sản xuất khác. ĐVCN một mặt quan hệ, nằm trong động viên nền
kinh tế nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng. ĐVCN thực sự là huy động
nhân lực về cơ sở vật chất, trang bị về ngành công nghiệp trong nhà nước, địa
phương nhằm mục đích xây dựng tiềm lực quốc phòng cho chiến tranh bảo vệ
tổ quốc.

Nhân lực huy động cán bộ công nhân viên chuyên chuyên môn kỹ thuật
ở xí nghiệp và nhà máy của trung ương và địa phương vào trong quốc phòng.
ĐVCN để nâng cao tiềm lực quốc phòng cho chiến tranh bảo vệ tổ quốc, lấy
tiềm năng cho nền kinh tế quốc dân đưa sang thực lực quốc phòng để bảo vệ
tổ quốc. Động viên công nghiệp là một mặt quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân khi đất nước có chiến tranh, khi đất nước có chiến tranh thì động viên
công nghiệp là yếu tố quan trọng góp phần giúp cho quốc phòng vững mạnh

11
để đứng lên bảo vệ tổ quốc. ĐVCN nhằm sắp xếp một cách hợp lý nền kinh tế
quốc dân vừa đảm bảo đời sống nhân dân vừa phục vụ quốc phòng. ĐVCN là
thực hiện trên tất cả mặt con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, trên các lĩnh vực
trực tiếp và các lĩnh vực nghiên cứu khoa học sản xuất thuộc ngành công
nghiệp để chuyển sang chiến tranh bảo vệ tổ quốc.

Câu 8: Tác động của thành tựu KHCN hiện đại đến quân sự

KHCN là tri thức của con người, là phương tiện công cụ hướng vào cải
tạo biến đổi tự nhiên, sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ để đáp ứng yêu cầu xã
hội. Quá trình phát triển KHCN đã tác động đến cả xã hội loài người và quân
sự luôn bị chi phối rất lớn bởi KHCN. Tư tưởng tinh thần theo Lênin đây là
yếu tố quan điểm cơ bản trạng thái của người cầm súng nó bị tác động bởi
KHCN rất lớn. Tư tưởng tinh thần là yếu tố quyết định mặc dù vũ khí trang bị
hiện đại đến đâu chăng nữa. Vũ khí tác động rất lớn đến con người nhất là con
người trên chiến trường, khả năng uy lực của vũ khí tác động đến họ làm cho
họ giảm sút, mất niềm tin trước các loại vũ khí mà chưa nắm được công nghệ
của nó, do đó cần có sự động viên khích lệ họ, giáo dục về mặt tư tưởng chính
trị rất quan trọng giúp người lính hiểu được tác dụng vũ khí của mình, làm
cho người lính thấy rõ được âm mưu của kẻ thù, đồng thời khắc phục được
tâm lý quá sợ hãi đề cao vũ khí công nghệ, vũ khí công nghệ làm họ bị hoang
mang không còn khả năng chiến đấu. Bên cạnh đó cần ngăn chặn tư tưởng
quá coi nhẹ không đề phòng, không có còng sự sẽ có khả năng dẫn đến cái
chết, cần bồi dưỡng cho người chiến sỹ sử dụng thành thạo các loại vũ khí,
phương tiện để phát huy, tạo niềm tin, có các khu vực phòng thủ, phòng thủ
để giảm tối thiểu thương vong.

Sự phát triển khoa học công nghệ đã tác động đến sự phát triển vũ khí và
trang bị. Cùng với sự phát triển xã hội, chiến tranh trải qua 4 giai đoạn: Vũ
khí nóng, vũ khí lạnh, vũ khí nhiệt hạch, vũ khí hạt nhân. Ngày nay sự phát
triển của vũ khí là rất lớn, vũ khí thông thường được sử dụng không bị cấm

12
như pháo phản lực, máy bay chiến thụât, tên lửa có độ chính sách và cơ động
cao, nhờ những thành tựu khoa học công nghệ mà có sự phát triển đáng kể.
Trong thuốc súng, thuốc nổ uy lực lớn, tăng độ chính xác của bom đạn. Vũ
khí hạt nhân có sự diễn biến rất nhanh với cường độ cao, sự phát triển nhanh
xu hướng nhỏ, gọn cỡ hàng trăm kg tấn, sự phát triển cao, lực lượng lớn có
khả năng tiêu diệt môi trường lớn vũ khí công nghệ cao là sản phẩm của thành
tựu công nghệ cao trong quân sự, được sử dụng trong chiến tranh tương lại.
Vũ khí công nghệ cao có khả năng huỷ diệt lớn: Vũ khí hạt nhân nguyên tử,
vũ khí dựa trên kỹ thuật mới như: Vũ khí laze, vũ khí plama, sử dụng năng
lượng điện và biến dạng không khí từ thể khí thành thể ion tốc độ tiêu diệt
mục tiêu lớn gần bằng tốc độ ánh sáng, vũ khí công nghệ cao dựa trên vũ khí
thông thường được xuất hiện cuối đại chiến thế giới thứ hai đến nay là bom
phóng. Đồng thời với VKCNC có các phương tiện quân sự phát triển rất lớn
như: Rôbốt quân sự, Rô bốt máy bay không người lái; xu hướng phát triển
khoa học công nghệ diễn ra rất nhanh toàn diện trên các lĩnh vực điện tử, tin
học, vật liệu, năng lượng, động lực, công nghệ, hoá học, môi trường sinh học
đều có liên quan đến quốc phòng, củng cố, tạo điều kiện cho quốc phòng phát
triển. Khoa học công nghệ tác động mạnh đến tri thức người lính, buộc họ
phải học tập, điều khiển để sử dụng vũ khí, hạn chế sức mạnh về vũ khí của
địch, bên cạnh đó khoa học công nghệ tác động đến lực lượng vũ trang làm
thay đổi cơ cấu lực lượng vũ trang với xu hướng triển khai nhanh, trang bị vũ
khí công nghệ cao, biên chế cao, động cơ nhanh, giảm quân số tối đa nhưng
chất lượng tốt và còn có sự xuất hiện bộ đội tác chiến điện tử, tên lửa chiến
lược. Do sự phát triển khoa học công nghệ quan điểm về chiến trường đã có
sự thay đổi không gian chiến trường mở rộng, không phân biệt tiền tuyến hậu
phương, chiến trường không giới hạn ở biên giới mà ở toàn lãnh thổ. Khoa
học công nghệ đã ảnh hưởng đến cách đánh, hiện nay mục tiêu chủ yếu vũ khí
tinh khôn, ảnh hưởng đến bộ đội hậu cần, hiện nay chiến tranh thì vũ khí
phương tiện phát triển nhiều nên tiêu hao nhiều do đó cần xem xét lại việc bộ

13
đội hậu cần cung cấp một lượng lớn hoặc bằng lượng tiêu hao. Ngày nay các
nước có xu hướng cơ động, vận chuyển tốt. Nước ta khả năng cơ động vận
chuyển trong chiến tranh rất hạn chế do xu hướng là xây dựng vận chuyển tốt
để tại chỗ.

Câu 9: Vị trí vai trò của DQTV hiện nay

DQTV là lực lượng quần chúng không thoát ly khỏi sản xuất công tác là
một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, do Đảng lãnh đạo,
nhà nước quản lý điều hành, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ
quốc phòng và các cơ quan quân sự địa phương. DQTV là lực lượng chiến
lược của chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân (lực lượng này rất đông
có khoảng 5 triệu nhân dân tự vệ), chất lượng cao, bản lĩnh chính trị và chiến
đấu tại địa phương. Trong tình hình hiện nay DQTV là công cụ chủ yếu để
bảo vệ địa phương, là lực lượng chủ yếu chống DBHB - BLLĐ của địa
phương. Đảng và nhà nước ta đã gọi lực lượng này là lực lượng chiến lược.
Bác Hồ nói "lực lượng này là bức tường hễ lực lượng nào động đến sẽ bị thất
bại".

DQTV là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, là cơ sở để tiến
hành vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân ở địa phương và các bộ
ngành, là lực lượng xung kích trong sản xuất, trong chống thiên tai dịch hoạ
và trong khắc phục hậu quả để bảo vệ mùa màng trền địa bàn. DQTV là một
trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang, là cơ sở vững chắc để xây dựng
quân đội, là nguồn bổ xung cho quân đội.

Câu 11. Tác động thành tựu khoa học công nghệ hiện đại tới lực
lượng vũ trang

Khoa học là hệ thống tri thức về các sự vật hiện tượng, qui luật của tự
nhiên xã hội và tư duy. KHCN là tri thức của con người là phương tiện công
cụ hướng vào cải tạo, biến đổi tự nhiên sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để
đáp ứng cho nhu cầu xã hội. Những thành tựu của KHCN đã có tác động

14
mạnh mẽ đến tri thức của người lính, nhờ có KHCN phát triển mà có sự tác
động nhanh mạnh đến vũ khí và kỹ thuật quân sự vịêc phát triển quân số chủ
yếu là phát triển trên chất lượng, phát triển tố chất và tinh thần của người lính
do chiến tranh hiện đại có khả năng rất lớn trong việc tiêu diệt con người, huỷ
hoại tài sản.

Sự phát triển của vũ khí công nghệ ngày một mạnh mẽ là nguyên nhân
bắt buộc người lính phải tìm hiểu để điều khiển, sử dụng thành thạo sẵn sàng
đối phó với mọi tình huống.

Do KHCN phát triển đã làm thay đổi cơ cấu lực lượng vũ trang, xu
hướng chung trên thế giới hiện nay là giảm quân số, tổ chức lại cơ cấu quân
binh chủng, cơ quan, loại hình bộ đội theo hướng mạnh, gọn, cơ động lấy
nâng cao chất lượng làm tiêu chuẩn. Thực tiễn cho thấy trên thế giới nhiều
nước đã thực hiện nguyên tắc là xây dựng lực lượng vũ trang vừa đủ và hợp
lý. Hiện nay cần phải giảm quân số tối đa nhưng phải bảo đảm chất lượng,
các quân binh chủng đã có sự biến đổi đáng kể do sự tác động của thành tựu
KHCN đó là sự xuất hiện bộ đội tác chiến điện tử và tên lửa chiến lược - lực
lượng vũ trang phát triển theo xu hướng: triển khai nhanh, được trang bị vũ
khí công nghệ cao, biên chế gọn, cơ động nhanh.

Câu 12. Nội dung xây dựng DQTV trong tình hình mới

* Tổ chức biên chế

Do Bộ Quốc phòng qui định cụ thể có nghĩa là từng địa phương có qui
định cụ thể do nhu cầu của từng nơi khác nhau. Tổ chức biên chế trang bị do
BQP qui định tương đối thống nhất còn biên chế phải thống nhất. Lực lượng
DQTV được tổ chức thành lực lượng cơ động, lực lượng chiến đấu tại chỗ,
những vùng biên giới hải đảo thì tổ chức lực lượng thường trực. Về qui mô tổ
chức DQTV thì trong thời bình cấp tỉnh tổ chức (d) tự vệ (d bộ binh), (c) tự vệ
phòng không, cấp huyện tổ chức (b) (c) bộ binh, các doanh nghiệp nhà nước
khác có thể tổ chức (a) hoặc (c) hoặc (d) tự vệ trong thời chiến thì tuỳ theo

15
khả năng cơ sở và yêu cầu chiến đấu KVPT tỉnh(thành phố)..., mà kế hoạch
của thời chiến thì qui mô tổ chức từ 7 ÷ 10% dân số, xã (phường) thường tổ
chức thành (c) có những nơi quan trọng tổ chức 1÷2 (c) và có (b) chuyên môn
kỹ thuật. Hệ thống chỉ huy: cấp (a) và tương đương, cấp b và tương đương,
ban chỉ huy quân sự cơ sở gồm chỉ huy trưởng cấp xã do Chủ tịch huyện bổ
nhiệm, cấp phó và uỷ viên do chủ tịch uỷ ban nhân dân xã bổ nhiệm. Vũ khí
trang bị cho DBĐV gồm 3 nguồn do cấp trên, nguồn tự tạo ở địa phương,
nguồn thu được của địch, do từng vùng mà có mức độ ưu tiên khác nhau.

* Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự

Trong quá trình thành lập DQTV phải được giáo dục chính trị, huấn
luyện quân sự về đường lối chủ trương của Đảng, CNMLN, giáo dục về
truyền thống yêu nước, giáo dục về địch nhằm nâng cao ý thức về DQTV.

Trong huấn luyện sử dụng 70÷80 quĩ thời gian trong đó 30÷40% huấn
luyện về kỹ thuật còn lại là cách đánh.

. Xây dựng đội ngũ cán bộ DQTV: có vị trí đặc biệt quan trọng, đội ngũ
này trực tiếp chỉ huy DQTV, qui định chung hàng năm cán bộ được bồi dưỡng
riêng. Cấp xã có cán bộ chuyên trách và hiện nay các cán bộ này phải được
đào tạo qua trường cơ bản và cấp chứng chỉ.

. Tổ chức lãnh đạo và chỉ huy DQTV

Theo cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành trực tiếp ở các cấp,
các đơn vị thuộc ngành nhà nước đóng trên địa phương phối hợp với địa
phương để thực hiện.

. Chế độ chính sách đối với DQTV

Chế độ phụ cấp đối với cán bộ, chế độ trợ cấp đối với gia đình cán bộ,
chế độ miễn trừ lao động công ích, một số chế độ đối với chiến sĩ DQTV: trợ
cấp về lương, hỗ trợ tiền ăn, đồ dùng sinh hoạt trong những lúc hoạt động,

16
chế độ BHXH cho Dân quân: ốm đau hoặc chết được công nhận là liệt sĩ
trong lúc làm nhiệm vụ. Tất cả những chế độ ưu đãi trên đối với DQTV phải
được thực hiện công bằng.

Câu 13. Nêu khả năng quân dân ta có thể chiến thắng VKCNC của
địch

Các nước tư bản có một số lượng vũ khí khổng lồ, vậy ta có khả năng
đánh thắng được xâm lược hay không? đây là vấn đề về khả năng của quân sự
hiện đại.

. Về khả năng chính trị tinh thần.

Các lí luận từ xưa tới nay: Mac-Anghen, Lênin cũng đã chứng minh
nhiều vấn đề, Lênin có khẳng định "chiến thắng hay thất bại trên chiến trường
phụ thuộc vào tinh thần của người lính trên chiến trường"

Hiện nay khả năng chiến tranh để tiêu diệt, chiếm đất là gần như không
còn mà chiến tranh bây giờ đặt vấn đề là khuất phục ý chí, thua hay không,
tiêu diệt chẳng qua là để de doạ, không có cuộc chiến tranh xâm lược mà tiêu
diệt được hết tất cả mà chỉ một phần con người, vũ khí hiện đại chủ yếu là đe
dọa, dẫn đến suy sụp ý chí và đầu hàng do đó khả năng chính trị tinh thần
vững mạnh sẽ có điều kiện để đánh thắng kẻ thù. Thực tiễn đã chứng minh từ
xưa đến nay truyền thống của dân tộc ta vùng lên rất mạnh khi có kẻ thù xâm
lược. Trong giai đoạn hiện nay, chống DBHB - BLLĐ biểu hiện ở sự thống
nhất, điều khiển ý chí xung quanh Đảng và nhà nước nhằm thực hiện đánh
thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc sự điều khiển ý
chí hiện nay là một thế trận lòng dân, là tính quyết định đến xây dựng bảo vệ
tổ quốc, nếu thế trận không còn thì đất nước sụp đổ và ngược lại. Vấn đề đặt
ra bây giờ là chiếm con người, chiếm ý chí của con người. Để điều khiển nhất
trí được thì Đảng phải đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, tạo
ra xoá đói giảm nghèo, nếu kinh tế mà lệch thì sẽ gây ra mất đoàn kết. Để làm
rõ được vấn đề cơ bản đó thì Đảng và nhân dân ta đang tập trung rất lớn

17
chống quan liêu, trì trệ tham nhũng. Những người đứng đầu phải giữ vững kỉ
cương, có dám đứng ra chịu trách nhiệm hết hay không? nếu làm được việc
này thì sẽ đẩy lùi được cuộc chiến tranh xâm lược, nhân dân sẽ đồng lòng
nhất trí. Đất nước mạnh về chính trị, tinh thần, kinh tế sẽ là yếu tố quyết định
thắng lợi cho dù VKCNC có cao đến mấy.

. Khả năng về kỹ thuật quân sự

Chúng ta yếu hơn địch vì địch xâm lược với một thế lực rất mạnh, vấn
đề kỹ thuật quân sự muốn đánh thắng phải có cách đánh, đánh như thế nào?
sử dụng kỹ thuật phải có mưu mẹo và cách thức sử dụng khác nhau. Hiện nay
chúng ta phải tăng cường huấn luyện nắm vững các loại vũ khí để phòng
chống VKCNC của địch, chúng ta cần tổ chức biên chế các đơn vị binh chủng
tác chiến điện tử, lực lượng triển khai nhanh phản ứng nhanh phù hợp với tình
hình nước ta. Khi xảy ra chiến tranh chúng ta phải tổ chức chống phá tác
chiến điện tử nhằm làm tê liệt hệ thống này theo 2 hướng thụ động và tích
cực. Thụ động là nguỵ trang bảo vệ, nguỵ trang các mục tiêu trên mặt đất làm
địch không quan sát được, nguỵ trang và nghi binh để địch đánh vào mục tiêu
đó nhằm chia bớt hoả lực của địch do đó các phương tiện thông tin của ta phải
quản lí một cách nghiêm ngặt về tần số, có khả năng gây nhiều các kênh của
địch.

Tích cực chủ động đánh lừa làm cho địch mất khả năng, tạo giả mục tiêu
dùng rộng rãi ngay trước chiến sự có thể xảy ra. Tác động vào các vấn đề để
chúng ta bắn các tên lửa hành trình, dùng kĩ thuật để điều khiển sai các tên lửa
này, dùng các đường dẫn cho các VTĐ cho các tên lửa chệch đi chỗ khác. Kỹ
thuật địch mạnh hơn ta nên chúng ta chủ yếu là phòng chống để tìm phương
án đối phó với địch, phải dùng kiểu cách khác nhau của địch làm cho địch yếu
đi rất nhiều về mặt cách đánh thậm chí là thất bại.

Khả năng về nghệ thuật tác chiến (cách đánh). Cách đánh là vấn đề làm
phát huy được sức mạnh của vũ khí phương tiện điển hình trong cách đánh sử

18
dụng cách đánh phát huy sức mạnh lớn của ta, ta lợi dụng về các mặt: địa hình
có vai trò quan trọng tạo ra thế trận mà binh khí kỹ thuật của địch không phát
hiện được, chúng ta dùng cách nhử địch vào chỗ ta thuận lợi chiến tranh nhân
dân xen kẽ là cách đánh xen kẽ áp sát pháo binh tên lửa, máy bay dù có hiện
đại đến đâu cũng không đánh được, mất tác dụng của các binh khí tầm xa của
địch. Chiến tranh nhân dân trong cách bố trí là rộng khắp nó làm cho cơ
động của ta rất nhanh, nhanh hơn nhiều lần địch và đây chính là cách mà ông
cha ta đánh thắng địch trong chiến tranh trước đây.

Câu 14. Nội dung chủ yếu công tác xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố)

Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) phải đảm bảo vững chắc
về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về QPAN, văn minh về văn hoá xã hội.

- Xây dựng về mặt chính trị: Là nội dung cơ bản nhằm tạo ra cái gốc, cái
nền cho KVPT, đây là tiền đề đầu tiên để xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố). Về mặt chính trị khi xây dựng KVPT ta cần tuyên truyền, giáo
dục về tư tưởng cho mọi đối tượng, toàn dân, các cấp, bộ, ngành, chú trọng
tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ, giáo dục âm mưu thủ đoạn của kẻ thù với
cách mạng, với địa phương, nâng cao chế độ yêu quê hương, yêu đất nước.

Đối với xây dựng về mặt kinh tế, là nội dung có ý nghĩa quyết định trực
tiếp tạo ra sức mạnh, của KVPT, tạo tiềm lực vật chất cho QPAN. Trong xây
dựng kinh tế ta cần quan tâm đến 5 vấn đề: xây dựng kinh tế luôn nắm vững
quan điểm của Đảng về kinh tế với QPAN; trên cơ sở chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, các địa phương phải định ra kế hoạch phát triển
kinh tế của xã hội của địa phương kể cả trước mắt và lâu dài và phải tính toán
kĩ, vừa ổn định, vừa phát triển. Phải có biện pháp tích cực điều chỉnh dân cư,
xây dựng nền kinh tế trọng điểm, điều hoà giữa các vùng kinh tế nhằm tạo ra
thế và lực rộng khắp. Bên cạnh đó cần kết hợp kinh tế và xây dựng hạ tầng
với CTQP và khi xây dựng các công tác quân sự cũng phải đáp ứng được 2

19
yêu cầu vừa quân sự, vừa dân sinh. Chăm lo cải thiệt vật chất, đời sống nhân
dân đồng thời có kế hoạch phòng thủ giám sát thực hiện chính sách về xã hội
văn hoá xã hội là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tiềm lực quốc phòng góp
phần phát triển về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, thể chất. Về văn hoá cần tập
trung vào 2 vấn đề: bồi dưỡng nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng học hành,
chống bỏ học, thất học, học để nâng cao và giữ vững bản sắc dân tộc, truyền
thống đạo lí của dân tộc, đấu tranh với văn hoá đồi truỵ. Bên cạnh đó cần xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giải quyết 4 vấn đề là: luôn
tạo việc làm cho người lao động, có kế hoạch cụ thể để thực hiện chính sách
xoá đói giảm nghèo, tổ chức tốt lao động và đời sống cho mọi thành viên, trên
cơ sở sinh hoạt, định cư ở các khu vực; duy trì mở rộng phong trào đền ơn
đáp nghĩa.

Trong vấn đề KVPT thì vấn đề về quân sự và an ninh là nội dung tập
trung cốt lõi, có mối quan hệ với các yếu tố khác. Xây dựng quân sự và an
ninh phải toàn diện thể hiện 2 vấn đề: xây dựng lực lượng vũ trang - đây là
nội dung rất lớn, yêu cầu về mặt xây dựng phải xây dựng chủ yếu quan trọng
nhất về mặt chính trị xây dựng thế trận KVPT là sự liên kết giữa các lực
lượng ở từng cấp và trên các địa bàn để tạo thành thế trận QPAN: thể hiện
làng xã phường; KVPT huyện, quận; KVPT then chốt của tỉnh (thành phố);
căn cứ chiến đấu của tỉnh (thành phố); căn cứ hậu phương của tỉnh (thành
phố); các mục tiêu trọng yếu của tỉnh (thành phố); các trận địa của BĐ chủ
lực, các công trình, hệ thống thông tin liên lạc.

20

You might also like