You are on page 1of 2

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG ( LÀ BÓNG HAY LÀ HÌNH)

Ngữ văn 9

Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại
được định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh
Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu
rơi máu chảy chỉ vì bà ghét Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn.

Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại
được định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh
Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu
rơi máu chảy chỉ vì bà ghét Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn.
Chuyện đời vẫn thế, đó là chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì
bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương
nước ta cũng như thế giới không hiếm những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét
riêng của Chuyện người con gái Nam Xương là hai yếu tố thực và truyền kì không đan
xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền kì vùa làm cho câu chuyện thêm
lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để
xây dựng phần truyền kì (phần thực, tôi muốn nói thực của văn học). Bằng mối liên hệ
giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm.

Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt hai phần của tác
phẩm. Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ nương là
người “có tư dung tốt đẹp”. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ
bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác
nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương
Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng
trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên
“nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách
của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến
này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về
mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của
người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của
những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh,
thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng,
nàng nuôi con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra
già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của
nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch,
giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ
phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người
chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn,
chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xử thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương
hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là
một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá.
Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam
vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó
chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn
trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái
Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi
kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là
người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra
bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con
người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống.
Tất nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng
là tác nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó
cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.
Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy
động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp
gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp
gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến
chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con
người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách
của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn
đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một
chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống
vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.

Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước
những vấn đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ
xót xa phức tạp của tâm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội đương thời
như Vũ nương. Cũng qua đó, nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như
trong các truyện cổ dân gian… Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ
mà cũng rất thực.

You might also like