You are on page 1of 5

CÂY SA KÊ – LOẠI CÂY ĐA TÁC DỤNG CẦN ĐƯỢC QUAN TÂM

PHÁT TRIỂN

Trần Thị Minh Huệ


Viện KHKT NLN Tây nguyên
Giới thiệu
Sakê được coi như là một trong những loại cây lương thực thiết yếu (staple crop)
sản xuất ra phần lớn thực phẩm cung cấp cho nhân loại, tuy nhiên không nên đánh giá
thấp sự đóng góp của rất nhiều loài cây thứ yếu khác. Không như các cây lương thực thiết
yếu khác cây sakê ít được quan tâm ở cấp độ lớn hoặc ở địa phương nhất định nhưng cây
sakê là một trong những loại cây chịu được đất nhiễm mặn, đất có tính acid và là cây
trồng đa mục đích nhằm cung cấp thực phẩm, thuốc, vật liệu dệt, vật liệu xây dựng và
thức ăn cho gia súc (Ragone, 1997).
Hình thái
Cây sakê thuộc họ dâu Moraceae, với nhiều tên gọi khác nhau (Artocarpus
communis, Artocarpus altilis and Artocarpus incisa) (Mayaki, 2003). Tên thường gọi là
Artocarpus altilis (Parkinson) Fosberg (Fosberg 1941, 1960). Cây sakê được trồng rộng
rãi ở vùng nhiệt đới nóng ẩm thuộc vùng Đông Nam Châu Á và các đảo trên biển Thái
Bình Dương. Sakê là loại cây lớn, thường xanh có hình dáng đẹp và cao tới 15-20 m, có
vỏ láng, màu nhạt và thân lớn, đường kính 1.2 m, có thể cao đến 4 m trước khi phân
cành, gỗ có màu vàng rất đẹp khi tiếp xúc với không khí thì đổi sang màu sẫm, lá sakê
dày, dai, mặt lá có màu sẫm và bóng, phía dưới mặt lá mờ, gân lá nhô cao và có gân
chính, viền ngòai mặt lá xẻ thùy và có sự biến thiên rất rõ, lá rộng có hình trứng, khác
nhau về kích cỡ và hình dáng thậm chí trên cùng một cây. Cụm hoa sakê là hoa kèm và
lưỡng tính, cụm hoa đực ra trước có đường kính tới 5 cm và dài 45 cm, trục hoa dày được
tạo thành từ rất nhiều hoa nhỏ. Trái sakê có cấu trúc rất đặc biệt từ hình cầu đến hình
thuôn/chữ nhật dài 12 cm, rộng từ 12-20 cm, vỏ trái có màu xanh nhạt, xanh vàng hay
vàng khi chín và khi xanh có màu trắng kem hay vàng nhạt, bề mặt trái biến thiên từ láng
đến có gai nhẹ (Ragone, 1997).
Cách sử dụng
Sakê là cây đa tác dụng cung cấp thực phẩm, thuốc, vật liệu dệt, vật liệu xây dựng
và thức ăn cho gia súc, đây là một trong những loại cây trồng lâu năm thân thiện với môi
trường ở Nigeria, là loại cây quan trọng trong hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống ở
các đảo Thái Bình Dương (Raynor and Fownes 1991). Cây này có thể trồng xen với hệ
thống nhiều cây trồng như cây có củ, chuối, cây công nghiệp, đặc biệt là cà phê và tiêu.
Sakê là loại thực phẩm đa năng có thể nấu hay ăn ở các giai đọan thuần thục khác nhau,
quả thường được thu họach và tiêu thụ khi chín nhưng còn cứng và được sử dụng như
lương thực thiết yếu cung cấp tinh bột, khi nấu sẽ thành bánh, cháo, nướng hoặc chiên..,
trái thuần thục có thể luộc và thay thế cho khoai tây, khi chín rất ngọt và dùng để làm
bánh, thức tráng miệng (Ragone, 1997), sirô, mứt, dấm và tinh bột. Ở Nigeria, sakê được
dùng thay thế cho một số cây có củ bởi vì chi phí chỉ bằng 1/3 chi phí cây có củ (Mayaki,
2003). Phần bên trong của vỏ hay sợi thường dùng để làm vải (Ragone 1991b; Krauss
1993).
Sakê là cây lương thực có giá trị dinh dưỡng ở các vùng nhiệt đới, ngoài trái sakê
đã được nghiên cứu thì lá, mủ và vỏ gỗ cũng đã được xác định các thành phần dinh
dưỡng (Ragone, 1997). Hàm lượng hydrat carbon ở trái sakê bằng hoặc tốt hơn các loại
thực phẩm có nhiều hydrat carbon khác đang sử dụng rộng rãi, protein tốt hơn một số loại
cây có củ như khoai lang và chuối, đây còn là nguồn cung cấp dồi dào sắt, canxi, kali, P,
riboflavin and niacin (Ragone, 1997)
Phân tích thành phần dinh dưỡng của trái sakê (100 g)
bằng các phương pháp khác nhau
(trái tươi, nướng, luộc, lên men và bột nhão)

Nguồn: Ragone (1997)


Lá và hoa: Lá sakê được sử dụng để gói đồ ăn, làm thức ăn cho gia súc, dê lợn và
ngựa (Morton 1987), là thức ăn tốt cho voi (Bennett 1928), đem nướng và làm thành
những miếng kẹo dẻo giúp giảm đau răng (Morton 1987). Ở Vanuatu (Olsson 1991) và
Hawaii, hoa sakê cứng và khô được đốt lên để đuổi muỗi (Krauss 1993) (Ragone, 1997).
Ở Ấn độ lá chuyển màu vàng được dùng để pha trà và làm giảm huyết áp (McIntoch and
Manchew 1993). Một loại acid hữu cơ phức trong dịch chiết lá sakê (gamma-
aminobutyric acid) là thành phần tích cực nhưng chưa rõ liệu có phải chính dịch chiết này
có hiệu quả trong việc làm giảm lượng đường trong máu. Rất nhiều nghiên cứu về dịch
chiết từ nhiều bộ phận của cây sakê cho rất nhiều kết quả khả quan, lá có thể chữa bệnh
thận và sốt ở Đài Loan (Lin et al.1992), và dịch chiết từ hoa có thể hiệu quả trong chữa
trị bệnh phù tai (Koshihara et al.1988).
Mủ: Mủ sakê dùng làm keo dán trong chế tạo canô tránh thấm nước, mủ dùng để
dán bề mặt gỗ, bôi lên da để chữa bong gân, dán lên vùng xương sống để giảm đau thần
kinh tọa, dùng để giảm đau ngòai da, bệnh do nấm gây ra như tưa miệng, hòa loãng
(diluted latex) còn được dùng để chữa bệnh tiêu chảy, đau bao tử và khuẩn lỵ, mủ hòa tan
vào nước ép từ lá được dùng để chữa nhiễm trùng tai.
Rễ: Rễ có vị chát được dùng làm thuốc sổ, khi ngâm được dùng đắp lên chỗ da
đau, dịch chiết từ rễ và thân có khả năng kháng khuẩn Gram dương và có tiềm năng sử
dụng trị u bướu (Sundarrao et al.1993).
Vỏ cây: Vỏ cây được dùng để chữa đau đầu, dịch chiết vỏ có hoạt tính cytotoxic
rất mạnh có thể chống/phòng các tế bào bạch cầu trong mô (Fujimoto et al.1990).
Phần khác: Những phần lõi, hạt, trái chín quá hay phần loại đi khác có thể cho
lợn và gia súc ăn (Massal and Barrau 1954; Morton 1987).
Các bộ phận và cách sử dụng
Bộ phận Các cách sử dụng
sử dụng
Cây Trồng trong hệ thống nông lâm kết hợp, cây che bóng
Gỗ Dùng trong xây dựng, làm canô, bàn ghế và những đồ
trang trí
Mủ Dán, bít canô, làm thuốc
Vỏ Làm thuốc
Sợi (Bên Làm thừng, sợi dệt
trong vỏ)
Lá Gói thức ăn, cho gia súc ăn, làm thuốc.
Cụm hoa đực Làm kẹo, để ăn, làm thuốc, đuổi muỗi
Trái và hạt Nấu cho người ăn và để sống cho gia súc ăn

Yêu cầu về điều kiện sinh thái, giống và canh tác


Yêu cầu về điều kiện sinh thái: Sakê có khả năng thích ứng rộng với điều kiện sinh
thái nhưng sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ 21-32°C (Purseglove 1968), thậm chí cây vẫn
có thể sinh trưởng ở nhiệt độ thấp tới 15°C và cao tới 40°C (Singh et al. 1967; Rajendran
1992), dưới 5°C, cây không sinh trưởng được (Crane and Campbell 1990). Cây Sakê yêu
cầu lượng mưa trung bình 2000-3000 mm/năm (Rajendran 1992), 1525-2540 mm là tối
ưu (Purseglove 1968). Sakê phù hợp trồng ở 17 độ vĩ Nam và Bắc, cao độ từ 600-650 m
so với mặt biển. Trong điều kiện lạnh sa kê sẽ bị giảm năng suất và chất lượng
(Rajendran 1992), tuy nhiên ở Nam Ấn độ sakê có thể trồng ở độ cao 900 m (Singh et al.
1967) và ở New Guinea, cao độ tới 1550 m (Powell 1976).
Giống: Giống sakê được chia làm hai loại: loại có hạt là loại bình thường và loại
không có hạt là loại đột biến. Loại có hạt thường dùng hạt và khá giống hạt dẻ. Loại
không có hạt dùng làm thức ăn. Các giống dùng làm thực phẩm khác nhau ít về chất
lượng (Martin 1998). Loại có hạt nhân giống từ hạt. Loại không có hạt thường được nhân
vô tính từ rễ hoặc chồi. Cây sakê chưa từng được trồng cho mục đích thương mại với
diện tích lớn trên cả thế giới (Ragone, 1997).
Mật độ: Khoảng cách trồng sakê là 12 x 14 m vài tài liệu đề xuất 10 m hay thấp
hơn (Coronel 1983). Khoảng 100 cây/ha ở mật độ 10 x 10 hay 8 x 12 m (Narasimhan
1990). Khoảng trống giữa các cây sakê có thể trồng cây nhỏ hơn như đu đủ, chuối, dứa
hoặc rau cho đến khi cây sakê thuần thục (Ragone, 1997).
Phân bón: Coronel (1983) đề xuất bón 100-200g SA/cây một tháng sau khi trồng
và sau đó 6 tháng/lần. Khi cây bắt đầu cho trái, bón 500-1000g/cây, 2 lần/năm. Khi cây
cho trái nhiều cần bón 2kg/cây. Cây không cần tỉa tạo cành ngoại trừ việc cắt đi cành
chết. Khi cây quá cao có thể cưa ngọn để duy trì độ cao phù hợp cho việc thu họach
(Ragone, 1997).
Nước tưới: Sử dụng tàn dư thực vật giữ ẩm là rất phổ biến cho cây sakê ở vùng
Thái Bình Dương. Thời gian đầu sau trồng, cây cần được tưới nước nhưng sau đó nếu
không tưới cây sakê vẫn sinh trưởng và đậu trái tốt, thậm chí ở vùng có mùa khô rõ rệt
(Ragone, 1997).
Sâu và bệnh hại: Sakê là cây thân cứng và tương đối ít sâu bệnh, tuy nhiên rệp sáp
và bệnh đốm lá có thể gặp ở nhiều cây (Rajendran 1992). Vấn đề sâu bệnh ở sakê mang
tính khu vực, bọ nhảy hai đốm hại lá ở Hawaii, Rastrococcus invadeniss ở Tây Phi
(Agounke et al.1988), Rosellinina.spp. ở Trinidad and Grenada (Marte 1986), tuyến trùng
hại rễ (Meloidogyne.spp.) gây nghiêm trọng ở Malaysia (Razak 1978). Ngoài ra còn có
die-back (Zaiger and Zentmeyer 1966), thối quả, ruồi hại quả (Ragone, 1997)
Thu hoạch và bảo quản: Thường hái trái khi đã già nhưng chưa chín, trái thu
hoạch không rớt xuống nền đất sẽ lưu giữ được lâu hơn. Nghiên cứu cho thấy có thể bảo
quản sakê trong túi P.E. kín ở nhiệt độ thấp nhưng trái dễ bị tổn thương lạnh nếu bảo
quản dưới 12°C. Bảo quản ở 14°C có thể giữ được 10 ngày. Thu hái cẩn thận có thể cải
thiện thời gian bảo quản và chất lượng trái (Maharaj and Sankat 1990). Dùng màng bao
(waxed) và bảo quản ở 16°C có thể kéo dài được 18 ngày. Bảo quản trong điều kiện điều
chỉnh khí 5% CO2 và 5% O2 ở 16°C có thể bảo quản được 25 ngày nhưng giá thành cao
(Ragone, 1997).
Năng suất và sản lượng: Hầu hết các báo cáo cho thấy cây sakê cho 700 quả/cây,
mỗi quả nặng trung bình 1- 4 kg (Purseglove 1968). Tuy nhiên con số này thay đổi tùy cá
thể, có cây đạt 900 trái/cây, có cây chỉ 200 trái/cây, mỗi trái 1-2 kg (Marte 1986). Morton
(1987) đưa ra con số 25 trái/cây ở Tây Ấn trong khi Nam Thái Bình Dương là 50-150
trái/cây (Massal and Barrau 1954). Ở Barbados năng suất trên ha là 16-30 tấn, Western
Samoa là 2 tấn, Indonesia là 50 tấn/ha (100 cây/ha) (Verheij and Coronel 1992). Cây
trồng trong hệ thống nông lâm kết hợp trung bình 93 -219 trái/cây (Ragone, 1997)
Hạn chế-Triển vọng
Sakê được sử dụng trong gia đình bổ sung cho lương thực thiết yếu ở nhiều vùng
trên thế giới như Thái Bình Dương, Indonesia, Philippines, một số vùng ở Tây Phi, Nam
Mỹ, Đông Nam Châu á, Ấn độ và Sri Lanka, chỉ số ít sử dụng để bán cho tiêu thụ nội địa
(Ragone, 1997)
Hạn chế
Hạn chế lớn nhất trong việc sử dụng cây này là bản chất mau hỏng của trái và
mang tính thời vụ. Giữ chất lượng trái sau thu họach bị hạn chế bởi quá trình hô hấp
nhanh và trái bị mềm sau khi hái 1-3 ngày. Trái chín và mềm không được người tiêu thụ
chấp nhận và gây thất thóat lớn trong mùa vụ cao điểm. Đặc tính nhanh hỏng làm cho trái
chỉ tiêu thụ nội địa và hạn chế lớn tiềm năng xuất khẩu. Ở Thái Bình Dương có giống có
khả năng giữ được độ cứng 10 ngày trong điều kiện thường và vì thế kéo dài thời gian
tiêu thụ. Mùa thu họach của sakê từ 4-6 tháng. Loại trái cây rất dễ trồng, giàu hydrat
carbon bổ dưỡng này chỉ có thể là cây trồng quan trọng ở địa phương, muốn thương mại
hóa và xuất khẩu cần có phương pháp bảo quản và chế biến phù hợp (Ragone, 1997).
Triển vọng
Cây sakê cung cấp dinh dưỡng cao, hàm lượng hydrat carbon cao, và có thể tiêu
thụ được ở mọi giai đọan. Cây có tuổi thọ hơn 50 năm và cung cấp dinh dưỡng cho con
người, làm gỗ và thức ăn gia súc. Sakê yêu cầu đầu tư ít, nhân công ít và có thể trồng
trong nhiều điều kiện sinh thái. Bởi sakê thường được sử dụng khi chín nhưng còn cứng,
các nghiên cứu về dinh dưỡng, phát triển thương mại hóa sản phẩm cần lưu ý giai đọan
này để kéo dài thời gian quả cứng. Quả chín thường bị bỏ đi hoặc làm thức ăn cho gia súc
và vì vậy rất ít nghiên cứu để mở rộng khả năng sử dụng quả khi chín. Trái sakê có thể
tiêu thụ nhiều hơn nếu phối trộn sakê trong các sản phẩm khác như thức ăn em bé, đồ
nướng, đồ tráng miệng (Ragone, 1997)
Tài liệu tham khảo
1. Ragon D. (1997). “Breadfruit. Artocarpus altilis (Parkinson) Fosberg”. International
Plant Genetic Resources Institute
2. Martin F.W. (1998). “Banana, coconut & breadfruit”. Echo Technical Note
3. Mayaki1 O.M., Akingbala J.O. et al. (2003). “Evaluation of breadfruit (Artocarpus
communis) in traditional stiff porridge foods”. Food, Agriculture & Environment
Vol.1(2) : 54-59.
4. Obasuyi J.O.I. and S.O. Nwokoro (2006). “Physical and Chemical Characteristics of
Breadfruit (Artocarpus altilis) Seeds Collected from Three Locations in Edo State,
Nigeria”. Pakistan Journal of Nutrition 5 (3): 212-214, 2006

You might also like