You are on page 1of 14

CÔNG NGHỆ KHÍ SINH HỌC VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

1. GIỚI THIỆU CHUNG


Trong những năm gần đây sự chú ý tới các công nghệ năng lượng sinh khối (NLSK) hiện đại nói riêng
và năng lượng tái tạo nói chung đã tăng mạnh trên toàn cầu để thay thế các nguồn năng lượng hoá
thạch vì hai lý do. Một là do các nguồn năng lượng hoá thạch đang ngày càng cạn kiệt dần (dự trữ dầu
được đánh giá cuối năm 2002 vào khoảng 40 năm tiêu thụ với mức độ tiêu thụ như hiện nay) và hai là
các nguồn này gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khác với các công nghệ năng lượng tái tạo khác,
công nghệ năng lượng sinh khối không chỉ thay thế năng lượng hoá thạch mà nhiều khi còn góp phần
xử lý chất thải vì chúng tận dụng các nguồn chất thải để sản xuất năng lượng. Hiện nay trên quy mô toàn
cầu, sinh khối là nguồn năng lượng lớn thứ tư, chiếm tới 14-15% tổng năng lượng tiêu thụ của thế giới.
Vì vậy NLSK giữ một vai trò quan trọng trong các kịch bản năng lượng soạn thảo bởi nhiều tổ chức quốc
tế và có khả năng sẽ giữ vai trò sống còn trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của thế giới trong
tương lai. Nguồn sinh khối rất phong phú và đa dạng. Do vậy công nghệ NLSK cũng rất đa dạng. Chuyên
đề này chỉ đề cập tới khí sinh học (KSH), một nguồn năng lượng quan trọng đối với Việt Nam trong
tương lai không xa. Tổng tiềm năng lý thuyết của khí sinh học ở Việt Nam là khoảng 10 tỷ m 3/năm (1m3
khí tương đương 0,5 kg dầu). Tiềm năng lý thuyết KSH từ phụ phẩm nông nghiệp (Phụ phẩm cây trồng
và chất thải chăn nuôi) khoảng 5 tỷ m 3. Công nghệ KSH trong những năm qua chủ yếu phát triển và ứng
dụng ở quy mô gia đình. Hiện nay chưa có thống kê chính xác nhưng theo đánh giá của chương trình
mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn thì hiện có khoảng 7% chuồng trại chăn
nuôi có xử lý chất thải (mục tiêu đề ra là 30%). Riêng Dự án hỗ trợ chương trình khí sinh học cho ngành
chăn nuôi do Hà Lan tài trợ, trong giai đoạn 2003 – 2005 đã xây dựng được 18 nghìn công trình KSH gia
đình. Chương trình Khí sinh học cho ngành chăn nuôi Việt Nam đã được đề cử Giải thưởng Năng lượng
toàn cầu 2006. Các công nghệ được ứng dụng đều do Việt Nam phát triển và đã được Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn xây dựng thành thiết kế mẫu trong bộ tiêu chuẩn ngành về công trình KSH nhỏ.
Sử dụng cuối cùng chủ yếu là dùng KSH để đun nấu. Thắp sáng và phát điện cũng được ứng dụng
nhưng không phổ biến. Hiện nay nhu cầu ứng dụng công nghệ ở quy mô trang trại và công nghiệp đang
trở nên cấp bách. Việc phát triển chăn nuôi nhanh đã tạo ra nhu cầu xử lý chất thải vật nuôi, thúc đẩy
công nghệ KSH phát triển mạnh mẽ. Trong tình hình đó, việc giới thiệu, quảng bá hoạt động ngành khí
sinh học qua nhiều kênh thông tin khác nhau nhằm nâng cao nhận thức và ứng dụng cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam là rất cần thiết.
1.1. Khái niệm khí sinh học
Các chất hữu cơ như phân động vật, xác động và thực vật thường bị thối rữa và chuyển hoá thành
các chất khác. Quá trình này được gọi là quá trình phân huỷ, xảy ra do tác động của rất nhiều sinh vật
nhỏ bé mắt thường không nhìn thấy được, gọi là các vi sinh vật, mà chủ yếu là các vi khuẩn. Quá trình
phân huỷ xảy ra trong môi trường có oxi được gọi là quá trình phân hủy hiếu khí. Sản phẩm chủ yếu của
quá trình này là khí cacbonic (CO2). Quá trình phân huỷ xảy ra trong môi trường không có oxi được gọi là
quá trình phân hủy kỵ khí (hoặc yếm khí). Sản phẩm khí thu được là một hỗn hợp khí gọi là khí sinh học
(KSH, tiếng Anh là biogas, tiếng Pháp là biogaz). Thành phần chủ yếu của khí sinh học là khí cacbonic và
khí metan (CH4). Khí metan có thể cháy được nên KSH là chất khí cháy được.
1.2. Những lợi ích của công nghệ khí sinh học
Công nghệ khí sinh học là một công nghệ đa lợi ích
1.2.1. Lợi ích về sử dụng khí
a. Tính chất của khí sinh học
Thành phần: CH4 khoảng 50-70% và CO2 khoảng 30-40%.
Nhiệt trị: 4700 - 6500kcal/ m3 (Nhiệt trị của metan: 9.100 kcal/m3).
Cháy cho ngọn lửa lơ nhạt và không có khói bụi.
b. Đun nấu
Bếp đạt hiệu suất: 50-60%. Về nhiệt lượng hữu ích: 1 m 3 KSH (60% metan) có thể thay thế cho 0,76
lít dầu; 5,2 kwh điện; 4,8 kg củi; 8,6 kg rơm rạ. Từ 10 kg phân lợn hàng ngày có thể sản xuất được 400 -
500 lít khí, đủ nấu 3 bữa cho gia đình 3 - 4 người.
c. Thắp sáng
Thắp sáng phải dùng đèn mạng. Đèn mạng có thể đạt độ sáng tương đương đèn điện sợi tóc 60 W,
tiêu thụ khí 70 - 120 lít/giờ ở áp suất 40 cm cột nước. Độ sáng của đèn tăng khi áp suất cao hơn.
d. Chạy các loại động cơ đốt trong
Kéo các máy công tác như bơm nước, máy xay xát, phát điện v.v. Số liệu các nước cho thấy lượng
khí tiêu thụ khoảng 0,45 - 0,54 m3/mã lực giờ hoặc 0,60 - 0,75 m3/kwh điện. Đối với các máy công suất
nhỏ, nhiên liệu tiêu thụ tính cho 1 đơn vị năng lượng lớn hơn. Thí dụ với máy phát điện dùng xăng
Shriram Honda EM650 công suất 450 VA (khoảng 400 W), thí nghiệm của Viện Năng lượng cho kết quả
lượng khí tiêu thụ là 1,3 - 1,7 m3/kwh.
e. Các ứng dụng khác
Sấy chè, ấp trứng, sưởi ấm gà con, chạy tủ lạnh v.v. (Trung Quốc đã sản xuất những lò ấp trứng
công suất 3800 trứng, tiêu thụ 0,06 m3/giờ về mùa đông và 0,018 m3/giờ về mùa hè). Đèn KSH được
dùng để chiếu sáng nuôi tằm vì nó tạo ra ánh sáng và nhiệt độ thích hợp với sự phát triển của tằm. Nhờ
vậy kén hình thành sớm hơn 4 - 6 ngày, chất lượng kén tốt hơn, năng suất tăng khoảng 30%. KSH còn
được dùng để diệt sâu bọ trong việc bảo quản ngũ cốc hoặc dùng để bảo quản rau quả như cam, soài
v.v. cho hiệu quả kinh tế cao.
1.2.2. Lợi ích về sử dụng bã thải
a. Lợi ích về trồng trọt
- Tăng năng suất cây trồng
Bón cho lúa tăng năng suất 6,1 - 19,2% so với phân ủ cùng nguyên liệu ban đầu, cùng số lượng và
chất lượng (TQ, 5 vụ liền 1980 - 1982) Phun trực tiếp lên lá của lúa nước cũng cho hiệu quả cao hơn so
với đạm urê: năng suất tăng 9,7% so với không bón lá và 5,6% so với phân urê.
- Hạn chế sâu bệnh và cỏ dại
Phân KSH có tác dụng hạn chế sâu bệnh: ức chế một số vi khuẩn gây bệnh khô vằn ở lúa, bệnh đốm
nâu ở lúa mì, bệnh thối mền ở củ khoai lang. Với lúa nước: bón phân KSH hạn chế rõ rệt sâu đục thân,
bọ rày xanh, bọ rày nâu, sâu cuốn lá, bệnh khô vằn, bệnh đốm nâu, bệnh đốm than. Như vậy dùng phân
KSH sẽ giảm được thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ, góp phần bảo vệ môi trường.
- Cải tạo đất
Bón phân KSH nhiều năm sẽ có tác dụng cải tạo đất rõ rệt. Đất bón phân KSH liên tục vài năm có
trọng lượng thể tích nhỏ hơn, độ tơi xốp lớn hơn, độ mùn cao hơn. Trung Quốc : sau 6 năm liên tiếp bón
phân KSH cho 106 ha (1982- 1986), hàm lượng chất hữu cơ trong đất từ 1,3% tăng tới 1,7%, năng suất
thóc tăng gấp đôi, đạt 18,705 tấn/ha. So với 1982 số lượng phân hoá học giảm 86%. Thu nhập thực tế
trên 1 ha cao hơn 4 lần so với các làng xung quanh không đùng KSH.
b. Lợi ích về chăn nuôi gia súc, gia cầm
- Vệ sinh chuống trại
Chuồng trại sạch sẽ, gia súc, gia cầm chóng lớn, ít bệnh tật. Nhờ vậy có thể mở rộng chăn nuôi và
đạt hiệu quả cao hơn.
- Sử dụng bã thải làm thức ăn bổ sung cho gia súc
Sử dụng lại bã thải KSH làm thức ăn bổ sung cho lợn và gia cầm đã được chứng minh là một trong
những ứng đụng có hiệu quả. Ở Trung Quốc, ứng dụng này đã trở thành phổ biến. Thí nghiệm của Trung
quốc: bã thải lỏng bổ sung vào thức ăn truyền thống để nuôi lợn với tỷ lệ 20 - 25% cho tốc độ tăng trọng
của lợn cao hơn 15,8 - 16,7% so với đối chứng. Đối với lợn con cho ăn khẩu phần có chứa 15 - 18% bã
thải KSH cho tốc độ tăng trọng 11,25% cao hơn so với đối chứng. Lợn ăn khẩu phần có bổ sung bã thải
đều ăn và ngủ nhiều hơn, di chuyển ít hơn, khoẻ và có lông mượt hơn. Kiểm tra sau khi mổ cho thấy chất
lượng thịt vẫn bình thường.
c. Lợi ích về nuôi thuỷ sản
Khi bã thải được đưa vào các ao để nuôi thuỷ sản, các chất dinh dưỡng kích thích sự phát triển của
tảo và các động vật phù du (thuỷ tức, giáp xác..) là nguồn thức ăn cho cá. Nói chung nuôi bằng phân
KSH cá lớn nhanh và ít bệnh hơn. Viện nghiên cứu thuỷ sản Trung Quốc đã trộn phân KSH với thức ăn
thông thường để đóng thành các viên thức ăn rắc cho cá ăn, tiết kiệm được tới 40% thức ăn thường.
Viện nghiên cứu KSH tỉnh Jiangsu đã thí nghiệm so sánh hiệu quả dùng phân lợn và phân KSH đối với
sản lượng cá và cho thấy sản lượng tăng 27,1%.
Ngoài ra người ta còn ứng dụng bã vào nhiều việc khác: xử lý hạt giống, nuôi giun đất, trồng cây
không dùng đát, trồng nấm.v.v. Các kết quả thí nghiệm cũng như kinh nghiệm thực tế đều cho thấy ứng
dụng bã thải KSH một cách đa dạng đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
1.2.3. Lợi ích về vệ sinh môi trường
a. Cải thiện vệ sinh môi trường nông thôn.
Các thiết bị KSH gia đình thường được nối với nhà xí. Phân người và động vật đưa vào đây để xử lý
nên hạn chế mùi hôi thối. Ruồi nhặng không có chỗ để phát triển. Trong môi trường bể phân huỷ, do
những điều kiện không thuận lợi nên các vi trùng gây bệnh và trứng giun sán bị tiêu diệt gần như hoàn
toàn sau quá trình phân hủy dài ngày. Hố xí KSH do vậy là công trình vệ sinh tốt nhất so với các loại hố
xí khác.
Kết quả điều tra trong 3 năm 1984 – 1986 của Trung quốc tại những làng đã ứng dụng công nghệ
KSH từ năm 1981 (1985: có 216/222 hộ xây dựng thiết bị KSH) và làng đối chứng không ứng dụng KSH
cho thấy:
- Về vi sinh vật: phân tích 99 mẫu lấy ở đầu vào và đầu ra của bể phân huỷ cho thấy E. coli đầu vào
là l0-6 - 10-9, đầu ra ở 26 mẫu là 10-3, 49 mẫu là 10-4, 15 mẫu là 10-5, 8 mẫu là 10-6 và 1 mẫu là 10-7 trong
đó 75 mẫu (75,76%) đạt tiêu chuẩn vệ sinh.
- Số lượng trứng giun đũa ở đầu vào và đầu ra tương ứng là 412 và 42 - 71,86 mẫu (87%) đạt tiêu
chuẩn vệ sinh.
- Mật độ ruồi: trong 3 năm theo dõi, tại mỗi làng số lần đặt bẫy là 50 lần/năm tại 5 diềm.
- Kết quả số ruồi bẫy được ở làng KSH và làng đối chứng trong các năm 1984, 1985, 1986 tương ứng
là 2640, 561, 1214 và 6639, 2347, 3124.
- Mức độ ô nhiễm nguồn nước: Kết quả xét nghiệm trong 3 năm với 132 mẫu/1àng cho thấy số lượng
mẫu đạt tiêu chuẩn vệ sinh ở làng KSH là 56,06% trong khi ở làng đối chứng là 32,56%.
- Mức độ ô nhiễm nguồn đất: Lấy mẫu đất trồng rau và đất sân để xét nghiệm trong 3 năm với 120
mẫu/1àng. Kết quả ở làng KSH có 33 (27,50%) mẫu dương tính khi ly tâm trứng giun móc, 20 mẫu có
trứng giun đũa (16,71%). Tại làng đối chứng: 70 mẫu có trứng giun móc (58,3%), 50 mẫu có trứng giun
đũa (45,87%).
- Mức độ nhiễm ký sinh trùng đường ruột: Tổng kiểm tra sức khoẻ vào tháng 3/1984 và 10/1984 ở
958 và 941 người làng KSH, 641 và 628 người làng đối chứng. Kết quả tỷ lệ người nhiễm ký sinh trùng
đường ruột ở mỗi làng tương ứng như sau: 56,99% và 32,84% ở làng KSH, 69,58% và 49,52% ở làng
đối chứng.
- Mức độ nhiễm bệnh đường ruột; Tỷ lệ người nhiễm bệnh đường ruột hàng năm trong thời gian theo
dõi ở mỗi làng như sau: Làng KSH: 5,13 %, 4,13% và 2,73%. Làng đối chứng: 13,68%, 13,85% và
12,31%. Số người mắc bệnh đường ruột ở làng KSH giảm rõ rệt: năm 1981 là 166 người, 1984: 58;
1985: 51 và 1986 còn 31.
b. Xử lý chất thải công nông nghiệp và thành phố
Trong việc xử lý ở qui mô tập trung lớn các chất thải có hàm lượng chất hữu cơ cao như rác và nước
cống sinh hoạt, nước thải của các lò mổ, các trại chăn nuôi tập trung, các nhà máy rượu, bia, đường,
giấy, da, đồ hộp, dược phẩm v.v. công nghệ KSH cũng có nhiều ưu điểm. Xử lý hiếu khí: vốn đầu tư lớn,
chiếm diện tích đất lớn, tiêu thụ nhiều năng lượng và để lại một lượng bùn lớn khó xử lý. Xử ly kỵ khí sẽ
khắc phục được những nhược điểm trên, đồng thời lại thu hồi được năng lượng phục vụ cho sản xuất và
sinh hoạt.
* Phát triển các bể tự hoại KSH để xử lý nước thải sinh hoạt của các khu chung cư, bệnh viện, trường
học, nhà hàng... đạt hiệu quả xử lý cao hơn các bể tự hoại thông thường. Tới cuối năm 1999 đã có
78.870 bể tự hoại KSH với tổng thể tích 3 triệu m3 khối, xử lý 0,65 triệu m3 nước thải hàng ngày.
* Xử lý rác thành phố: tại các bãi rác, người ta thu hồi KSH để phục vụ phát điện. Nước rác được xử
lý bằng những bể phản ứng KSH để khắc phục ô nhiễm do nước rác thấm vào đất. Các kết quả sau khi
tiến hành xử lý rác tại một số nhà máy ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy, mỗi tấn rác thải
hữu cơ sau khi xử lý sẽ thu được khoảng 300 kg phân vi sinh và 5m3 KSH.
c. Bảo vệ rừng
Nhờ cung cấp chất đốt cho nhân dân nên công nghệ KSH đã góp phần bảo vệ rừng. Số liệu của
Trung Quốc: một thiết bị KSH gia đình mỗi năm có thể tiết kiệm được 2000 - 2500 kg củi, tương ứng với
0,04 : 0,05 ha rừng. Ở huyện tự trị Gong Cheng Yao, kể từ khi phát triển công nghệ KSH, diện tích rừng
che phủ tăng dần hàng năm, lượng gỗ bị chặt giảm từ 50.000 m 3 xuống còn 8.000 m3 vào năm 1990 và
cuối cùng chấm dứt hẳn vào năm 1991. Năm 1995 diện tích rừng che phủ đạt 70,8%. Tính tới cuối năm
1996, 30.300 thiết bị KSH đã được xây dựng, tương đương với việc trồng 1600 ha rừng. Ngoài việc tiết
kiệm được năng lượng, huyện còn cứu được trên 2100 ha rừng, ngăn chặn được nạn đất bị xói mòn, cải
thiện môi trường sinh thái.
d. Bảo vệ tài nguyên đất
Bón phân KSH có tác dụng cải tạo đất, làm tăng độ phì của đất, hạn chế hiện tượng đất bị thoái hoá,
xói mòn. Do đó tài nguyên đất được bảo tồn.
e. Giảm phát thải khí nhà kính
Công nghệ khí sinh học được coi là một công nghệ có thể đóng góp cho việc giảm phát thải khí nhà
kính (KNK). Các chất thải hữu cơ trong điều kiện tự nhiên sẽ bị phân huỷ. Một phần các chất này sẽ phân
huỷ kỵ khí và sinh ra khí metan phát tán vào khí quyển. Khí metan là khí gây hiệu ứng nhà kính lớn hơn
khí cacbonic: 1 tấn metan tương đương 21 tấn khí cacbonic về hiệu ứng nhà kính. Nếu các chất thải hữu
cơ này phân huỷ kỵ khí trong các thiết bị KSH thì metan sẽ được thu lại làm nhiên liệu. Khi bị đốt cháy,
metan sẽ chuyển hoá ra khí cachonic: 1 tấn metan cháy sản ra 2,75 tấn cacbonic. Như vậy tác dụng về
hiệu ứng nhà kính sẽ giảm đi 21/2,75 = 7,6 lần! Ngoài ra sử dụng KSH thay thế than, dầu sẽ giảm phát
thải KNK do đốt than, dầu. Dùng KSH thay thế củi sẽ bảo vệ rừng, nguồn hấp thụ khí cacbonic, cũng góp
phần giảm phát thải KNK. Vì lợi ích này mà nhiều nước công nghiệp đã tài trợ cho các dự án KSH ở các
nước đang phát triển để thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải KNK mà họ đã cam kết khi ký Nghị định thư
Kyoto.
1.2.4. Lợi ích về xã hội
a. Giải phóng phụ nữ, trẻ em, nâng cao trình độ văn minh
Sử dụng KSH để đun nấu sẽ giải phóng phụ nữ và trẻ em khỏi công việc bếp núc nóng nực, khói bụi,
tiết kiệm thời gian kiếm các chất đốt. Sử dụng KSH trong đun nấu, thắp sáng... Làm cho cuộc sống nông
dân văn minh, tiện nghi hơn, rút ngắn sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
b. Các lơi ích khác:
Công nghệ KSH làm thay đổi cách suy nghĩ, cách sống của cư dân nông thôn. Phát triển rộng rãi
công nghệ KSH sẽ tạo ra một ngành nghề mới, giải quyết được công ăn việc làm cho nhiều người. Dùng
KSH thay thế xăng dầu, phân hoá học, thuốc trừ sâu, quốc gia sẽ tiết kiệm được ngoại tệ cần chi để
nhập dầu lửa và các sản phẩm hoá học.

2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ KHÍ SINH HỌC TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NUỚC

2.1. Sơ lược lịch sử phát triển công nghệ KSH trên thế giới
Công nghệ biến đổi các chất hữu cơ thành KSH đã có từ hàng trăm năm nay. Theo huyền thoại, KSH
đã được dùng để đun nước tắm ở Assyri trong thế kỷ thứ X trước CN và ở Ba Tư trong thế kỷ thứ XVI.
Người đầu tiên phát hiện thấy sự phát ra loại khí cháy được từ các chất hữu cơ thối rữa là Van Helmont
(1630). Shirley (l667) cũng đã nói đến khí đầm lầy. Volta (1776) đã tiến hành một loạt quan sát và kết
luận rằng lượng khí đầm lầy được sinh ra phụ thuộc vào lượng thực vật thối rữa trong lớp lắng đọng ở
đáy mà từ đó khí nổi lên và với một tỷ lệ nhất định, hỗn hợp khí thu được và không khí có thể nổ. Trong
những năm 1804- 1810 Dalton, Henry và Davy đã thiết lập được công thức hoá học của metan, khẳng
định rằng khí than đá rất giống khí đầm lầy của Volla và chỉ ra rằng metan được sinh ra từ sự phân rã
của phân bò. France đã được cấp chứng chỉ vì đã có một trong những đóng góp quan trọng cho việc xử
lý các chất rắn lơ lửng trong nước thải. Tới cuối thế kỷ 19 sự sản sinh ra metan đã được phát hiện là có
liên quan với hoạt động của các vi sinh vật. Bunsen (1856), Hoppe Seyler (1886), Bechamp (l868),
Tappeiner (1882) và Gayon (1884)... đã tiến hành nghiên cứu về các khía cạnh vi sinh vật học của quá
trình sản sinh metan. Bechamp (1868) đã đặt tên cho "sinh vật" chịu trách nhiệm về sự sản sinh ra metan
từ êtanol. Sinh vật này dường như là một quần thể hỗn hợp vì Bechamp đã có thể chỉ ra rằng những sản
phẩm lên men khác nhau đã hình thành từ những cơ chất khác nhau. Năm 1875 Popoff trình diễn sự sản
sinh ra hydro và metan từ sự lên men của các nguyên liệu chứa xenlulo được bổ sung thêm bùn sông.
Năm 1876 Herter báo cáo rằng axetat ở bùn cống đã biến đổi thành metan và cacbon dioxit. Gayon, một
học trò của Pasteur, đã cho lên men phân ở 350C và thu được 100 lít metan đối với 1 m3 phân. ông kết
luận rằng sự lên men có thể là một nguồn cung cấp khí để sưởi ấm và thắp sáng. Năm 1884 Pasteur đã
trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Paris những phát hiện thực nghiệm của Gayon. Việc sử dụng khí
thu được lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1859 khi một bể phân huỷ metan được xây dựng tại Bom
bay (Ấn Độ) để xử lý chất thải của người và khí sinh ra đã được dùng để thắp sáng. Năm 1895 tại Anh
Cameron trình diễn việc dùng KSH để thắp sáng. Năm 1986 khí từ hệ thống cống được dùng để thắp
sáng các phố ở Exeter (Anh). Về mặt vi sinh vật học, năm 1901 Schengon đã mô tả những đặc điểm hình
thái của vi khuẩn metan. Năm 1906 Sohngen làm giầu được 2 vi khuẩn sử dụng axetat khác nhau và
phát hiện thấy focmat và hydro cùng cacbon dioxit có thể đóng vai như những tiền chất cho metan. Một
chủng vi khuẩn metan đã được Omelianskii phân lập năm 1916. Năm 1950 Hungate đã thiết lập kỹ thuật
kỵ khí do Bryant phát tnển. Schnellen (1947) phân lập được hai vi khuẩn metan: Methanosarcina barkeri
và Methanobacterium formicicum. Sau dó năm 1967 Bryant đã thuần chủng được vi khuẩn
Methanobacillus omehanskii. Cuối những năm 1920 những nghiên cứu hoá sình về sự phân huỷ kỵ khí
đã được tăng cường. Buswell đã bắt đầu nghiên cứu và giải thích những vấn đề như vai trò của nitơ
trong quá trình phân huỷ kỵ khí, hoá học lượng pháp của phản ứng, việc sản xuất năng lượng từ những
chất thải của các trang trại và ứng dụng quá trình này cho các chất thải công nghiệp. Những nghiên cứu
của Barker đã đóng góp quan trọng cho hiểu biết của chúng ta về các vi khuẩn metan và những cultua
được làm giầu của ông giúp ông thực hiện được những nghiên cứu cơ bản về hoá sinh (1956). Trong
những năm gần đây, phân huỷ kỵ khí đã phát triển từ một kỹ thuật biến đổi sinh khối tương đối đơn giản,
với mục đích chủ yếu là sản xuất năng lượng, thành một hệ thống đa chức năng:
- Xử lý các chất thải hữu cơ và nước thải với phạm vi tải lượng hữu cơ và nồng độ cơ chất rộng;
- Sản xuất và sử dụng năng lượng;
- Cải thiện vệ sinh, giảm mùi hôi thối;
- Sản xuất phân bón chất lượng cao. Hoạt động nghiên cứu chuyển từ những nghiên cứu cơ bản về
quá trình phân huỷ kỵ khí của các cơ chất tương đối đồng nhất với hàm lượng chất rắn hữu cơ trong giới
hạn khoảng 5 - 10%, sang sự phân huỷ của những nguyên liệu phức tạp hơn đòi hỏi những kiểu bể phân
huỷ cải tiến hiệu quả hơn. Công nghệ phân huỷ kỵ khí đã được phát triển rộng lớn ở cả các nước công
nghiệp (Đức, Đan mạch, Pháp...) và các nước đang phát triển (Trung Quốc, Ấn Độ...) với đa chức năng
như trên.
2.2. Tình hình phát triển công nghệ KSH ở Việt Nam
- Thời kì 1960 – 1975
Miền Bắc: nhiều người đã chú ý đến thông tin về công nghệ KSH. Tài liệu dịch "Cách sinh hơi mê tan
nhân tạo và lấy hơi mê tan tự nhiên" được Bộ Công nghiệp xuất bản năm 1960. Một số cá nhân và tổ
chức đã xây thử một số công trình ở vài nơi như Hà Nội, Bắc Thái (xây "Xưởng phát điện mê tan" đầu
tiên của Việt Nam năm 1964). Hà Nam Ninh, Hải Hưng nhưng đều bị ngừng hoạt động vì lí do kỹ thuật.
Miền Nam: Năm 1960, Nha Khảo cứu Nông lâm súc đã nghiên cứu sản xuất khí mê tan từ phân động
vật, nhưng không ứng dụng triển khai được vì khí hoá lỏng và phân bón vô cơ được nhập khẩu ồ ạt. Một
số công trình đã xây dựng cũng không được duy trì hoạt động. Từ cuối những năm 60 đến đầu những
năm 70, công nghệ KSH gần như bị lãng quên
- Thời kì 1976 - 1980
Năm 1975, Việt nam thống nhất, Nhà nước đã chú ý tới nguồn năng lượng tái tạo. "Đề án sử dụng
KSH ở Việt Nam" (1976) đề tài cấp nhà nước "Nghiên cứu ứng dụng hầm ủ lên men sinh khí mê tan" đã
khởi động hoạt động nghiên cứu - triển khai công nghệ KSH. Thiết kế ban đầu được chọn thử nghiệm là
loại nắp nổi bằng tôn, bể phân huỷ xây gạch, được xây dựng ở Bắc Thái và Hà Bắc (1977- 1978). Những
công trình loại này đã bị bỏ dở do khả năng kỹ thuật và quản lý. Cuối năm 1979 xây dựng thành công
công trình nắp nổi có Thể tích phân huỷ Vd = 27 m3 ở nông trường Sao Đỏ (Mộc Châu, Sơn La), đã đặt
cơ sở cho việc triển khai sau này. Nhiều Viện nghiên cứu, Ban KHKT và nhiều tổ chức, cá nhân cũng đã
tiến hành thiết kế xây dựng, nhưng kết quả rất hạn chế. Tháng 12/1979, UBKHKT nhà nước đã tổ chức
"Hội nghị chuyên đề về bể khí sinh học" để sơ kết công tác thiết kế, xây dựng, vận hành thí điểm một số
bể KSH.
- Thời kì 1981 – 1990
Chương trình nghiên cứu Nhà nước về Năng lượng mới (mã số 52C) được ưu tiên trong hai kế
hoạch năm năm 1981 - 1985 và 1986 - 1990 do Viện Nghiên cứu KHKT điện chủ trì. Một số Viện, Trung
tâm nghiên cứu, các trường Đại học; các Ban KHKT tỉnh, nhiều cơ quan, địa phương, đơn vị quân đội, cá
nhân cũng tham gia chương trình này. B? Y tế cũng thực hiện một số dự án ứng dụng KSH với mục tiêu
vệ sinh môi trường. Một số tổ chức quốc tế cũng đã giúp đỡ và hợp tác nghiên cứu, triển khai công nghệ
KSH: Viện Sinh lý Sinh hoá Vi sinh vật (Liên xô cũ), Tổ chức OXFAM (Anh), UNICEF (Liên hợp quốc),
ACCT (Tổ chức các nước nói tiếng Pháp), SIDA (Thuỵ Điển)… Hội thảo quốc gia lần thứ nhất về KSH
được tổ chức vào năm 1990 của Chương trình nhà nước về Năng lượng Mới đã đánh dấu bước phát
triển kỹ thuật KSH của Việt Nam trong nghiên cứu và triển khai. Đến năm 1990, có khoảng 2000 công
trình KSH trên toàn quốc cỡ từ 2 m3 - 200 m3, nhưng đa số là cỡ gia đình từ 2 m3 - 10 m3 (TP Hồ Chí
Minh - 700, Đồng Nai - 468, Hậu Giang - 43).
- Thời kỳ 1991 đến nay
Sau năm 1990, chương trình Năng lượng Mới kết thúc. Viện Năng lượng vẫn tiếp tục hoạt động
nghiên cứu-triển khai về sử dụng KSH để phát điện, bảo quản rau quả, xử lý nước thải công nghiệp Từ
1993. đến năm 2001, công nghệ KSH đã phát triển mạnh trong khuôn khổ các dự án về vệ sinh môi
trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn. Giai đoạn này không có tổ chức đầu mối quốc gia, nên sự
phát triển KSH có phần vô tổ chức. Đến tháng 3/2002, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Tiêu chuẩn
ngành về Công trình KSH nhỏ Dự án "Hỗ trợ chương trình KSH cho ngành chăn nuôi ở một số tỉnh Việt
Nam" được triển khai ở 12 tỉnh, do chính phủ Hà Lan tài trợ không hoàn lại với tổng giá trị 2 triệu USD.
Đây là dự án lớn nhất trong số các dự án được tài trợ cùng loại được triển khai (2/2003 - l/2006). Dự án
được triển khai một cách khoa học, tổ chức nhiều lớp tập huấn cho kỹ thuật viên và thợ xây về công
nghệ KSH. Dự án đã thu được kết quả rất khả quan. Nhiều hộ dân đã tự nguyện bỏ tiền để xây dựng
công trình KSH do tính hiệu quả của nó về mặt năng lượng, vệ sinh môi trường, nâng cao năng suất cây
trồng, tăng thu nhập... Giai đoạn 2 của dự án sẽ được tiếp nối đến năm 2011 trên khắp các tỉnh của Việt
Nam. Thiết kế được lựa chọn trong dự án này là kiểu nắp cố định dạng vòm cầu xây gạch kiểu KT.1 và
KT.2 vì những ưu điểm nổi bật của nó. Tính đến nay, tổng số công trình các loại đang hoạt động trên
toàn quốc là gần 73.000, trong đó dạng túi ni lông có gần 32.000 (Kiên Giang - 8.000, Đồng Nai = 6.500,
Tiên Giang - 5000, Đắc Lắc - 3000 túi).

3. CÁC NGUYÊN LIỆU ĐỂ SẢN XUẤT KSH

3.1. Các loại nguyên liệu và đặc tính của chúng


a. Phân loại nguyên liệu
Nói chung các chất hữu cơ có nguồn gốc sinh học đều có thể làm nguyên liệu nạp cho các thiết bị
KSH. Các nguyên liệu này có thể được chia thành hai loại: nguyên liệu có nguồn gốc động vật và nguyên
liệu có nguồn gốc thực vật.
- Nguyên liệu có nguồn gốc động vật
Thuộc loại này là các loại phân như phân gia súc, gia cầm, phân bắc..., các bộ phận cơ thể của động
vật như xác động vật chết, rác và nước thải các lò mổ, cơ sở chế biến thuỷ, hải sản... Các loại phân đã
được xử lý trong bộ máy tiêu hoá của động vật nên dễ phân huỷ và nhanh chóng tạo KSH. Tuy vậy thời
gian phân huỷ của các loại phân không dài (khoảng từ 2-3 tháng) và tổng sản lượng khí thu được từ 1 kg
phân cũng không lớn. Phân gia súc như trâu, bò, lợn phân huỷ nhanh hơn phân gia cầm và phân bắc,
nhưng sản lượng khí của phân gia cầm và phân bắc lại cao hơn. Sản lượng phân trên một đầu gia súc
phụ thuộc vào trọng lượng cơ thể và chế độ nuôi dưỡng. Nhìn chung hàm lượng chất khô của các loại
phân tươi vào khoảng 20%, còn lại là nước. Các loại phân thường giàu ni tơ, hiệu suất sinh khí của các
loại phân tính cho chất khô nằm trong khoảng từ 0,2-0,3 m3/kg/ngày và hàm lượng metan của khí sinh
học sản xuất từ phân chiếm khoảng 50-70%.
- Nguyên liệu có nguồn gốc thực vật
Các nguyên liệu thực vật là những lá cây và cây thân cây thảo như phụ phẩm cây trồng (rơm, rạ,
thân lá ngô, khoai, đậu…), rác sinh hoạt hữu cơ (rau, quả, lương thực bỏ đi...) và các loại cây xanh
hoang dại (rong, bèo, các cây phân xanh...). Gỗ và thân cây già rất khó phân huỷ nên không dùng làm
nguyên liệu được. Nguyên liệu thực vật thường có lớp vỏ cứng rất khó bị phân huỷ. Để quá trình phân
huỷ ky khí diễn ra được thuận lợi, người ta thường phải chặt nhỏ và xử lý sơ bộ (đập dập, ủ hiếu khí) các
loại nguyên liệu này trước khi đưa vào thiết bị để phân huỷ, mục đích của công việc này là phá vỡ lớp vỏ
cứng của nguyên liệu và tăng bề mặt cho vi khuẩn tấn công. Thời gian phân huỷ của nguyên liệu thực vật
thường dài hơn so với các loại phân (có thể kéo dài hàng năm). Do vậy nguyên liệu thực vật nên được
sử dụng theo cách nạp từng mẻ, mỗi mẻ kéo dài từ 3-6 tháng. Các loại nước thải như: nước thải chế
biến bánh, bún của các cơ sở chế biến thực phẩm... có chứa nồng độ chất hữu cơ cao. Các chất hữu cơ
là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nếu để chúng phân huỷ trong tự nhiên. Vì thế cần phải được xử
lý trước khi thải vào hệ thông thoát nước chung. Các hợp chất hữu cơ có trong các loại nước thải này là
nguồn dinh dưỡng cho vi khuẩn phát triển. Tuy nhiên trong một số trường hợp cần phải xử lý sơ bộ để
loại các độc tố ảnh hưởng đến sự phát triển và tăng trưởng của VSV kỵ khí trong môi trường xử lý.
b. Sản lượng KSH thực tế của các loại nguyên liệu
Trong thực tế sản lượng khí thu được khi lên men nguyên liệu trong các thiết bị khí sinh học thường
thấp hơn so với lý thuyết vì chúng được phân huỷ trong một thời gian nhất định và chưa phân huỷ hoàn
toàn. Bảng dưới đây cho chúng ta số hệ tham khảo đối với một số nguyên liệu thường gặp. Sản lượng
khí hàng ngày được tính theo lượng nguyên nạp hàng ngày (lít/kg/ngày). Phân động vật được nạp theo
phương thức liên tục bổ sung hàng ngày. Thực vật được nạp từng mẻ.
Bảng 3.1. Đặc tính và sản lượng KSH của một số nguyên liệu thường gặp

Lượng phân + Hàm Sản lượng khí


Tỷ lệ
Loại nguyên nước tiểu thải lượng hàng ngày
cacbon/nitơ
liệu hàng ngày chất khô (lít/kg nguyên
(C/N)
(kg/đầu vật nuôi) (%) liệu tươi)
Phân bò 18-25 18-20 24-25 20-32
Phân trâu 30-40 16-18 24-25 20-32
Phân lợn 3,5-7 24-33 12-13 40-60
Phân gia cầm 0,07-0,10 25-50 5-15 50-60
Phân người 0,18-0,34 20-34 2,9-10 60-70
Bèo tây tươi 4-6 12-25 0,3-0,5
Rơm rạ khô 80-85 48-117 1,4-2,0

3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản sinh khí sinh học
Quá trình phân huỷ tạo KSH chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Chúng ta sẽ xét tới những yếu tố quan
trọng nhất cần thiết trong xây dựng và vận hành thiết bị để đảm bảo cho thiết bị vận hành tốt nhất và sản
sinh ra sản lượng KSH như người ta mong muốn.
3.2.1. Môi trường ky khí
Quá trình lên men tạo khí sinh học có sự tham gia của nhiều vi khuẩn, trong đó các vi khuẩn sinh
metan là những VK quan trọng nhất, chúng là những vi khuẩn kỵ khí bắt buộc. Sự có mặt của oxy sẽ kìm
hãm hoặc tiêu diệt các VK này, vì vậy phải đảm bảo điều kiện kỵ khí tuyệt đối của môi trường lên men.
Sự có mặt của oxy hoà tan trong dịch lên men là một yếu tố không có lợi cho quá trình phân huỷ kỵ khí.
3.2.2. Nhiệt độ
Hoạt động của VK sinh metan chịu ảnh hưởng rất lớn của nhiệt độ. Trong điều kiện vận hành đơn
giản, nhiệt độ lý tưởng vào khoảng 350C. Sản lượng khí giảm rõ rệt khi nhiệt độ môi trường giảm. Dưới
100C quá trình sinh metan hầu như ngừng hẳn. Đồ thị ở hình 3.2.2 cho thấy ảnh hưởng của nhiệt độ đối
với sản lượng khí với thời gian phân huỷ 120 ngày với các loại phân.
Hình 3.2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đối với sản lượng khí

Các vi khuẩn sinh metan không chịu được sự thăng giáng nhiệt độ quá nhiều trong ngày. Điều này
sẽ làm giảm sản lượng khí. Vì vậy vào mùa đông cần phải giữ ấm cho thiết bị, thậm chí đối với những
vùng lạnh cần phải đảm bảo cách nhiệt tốt cho quá trình lên men. Đôi khi ở những quá trình lên men
nhanh người ta phải gia nhiệt cho dịch lên men để giảm thời gian lưu trong các thiết bị lên men.
3.2.3. Độ pH
Độ pH tối ưu với hoạt động của VK là 6,8-7,5 tương ứng với môi trường hơi kiềm. Tuy nhiên VK sinh
metan vẫn có thể hoạt động được trong giới hạn độ pH từ 6,5-8,5.
3.2.4. Đặc tính của nguyên liệu
a. Hàm lượng chất khô
Hàm lượng chất khô thường được biểu thị là phần trăm. Quá trình phân huỷ sinh metan xảy ra thuận
lợi nhất khi môi trường có hàm lượng chất khô tối ưu vào khoảng 7-9%. Đối với bèo tây hàm lượng này
là 4-5%, còn rơm rạ là 5-8%. Nguyên liệu ban đầu thường có hàm lượng chất khô cao hơn giá trị tối ưu
nên khi nạp vào thiết bị KSH cần phải pha thêm nước. Tỷ lệ pha loãng thích hợp là 1-3 lít nước cho 1 kg
phân tươi.
Hình 3.2.4 - Quan hệ giữa hàm lượng chất khô và sản lượng khí

b. Tỷ lệ cacbon và nitơ của nguyên liệu


Các chất hữu cơ được cấu tạo bởi nhiều nguyên tố hoá học trong đó chủ yếu là các bon (C), hydrô
(H), ni tơ (N), phôtpho (P) và lưu huỳnh (S). Tỷ lệ giữa lượng cacbon và nitơ (C/N) có trong thành phần
nguyên liệu là một chỉ tiêu để đánh giá khả năng phân huỷ của nó. Vi khuẩn kỵ khí tiêu thụ các bon nhiều
hơn ni tơ khoảng 30 lần. Vì vậy tỷ lệ C/N của nguyên liệu bằng 30/1 là tối ưu. Tỷ lệ này quá cao thì quá
trình phân huỷ xảy ra chậm. Ngược lại tỷ lệ này quá thấp thì quá trình phân huỷ ngừng trệ vì tích luỹ
nhiều amôniắc là một độc tố đối với vi khuẩn ở nồng độ cao. Nói chung phân trâu bò và lợn có tỷ lệ C/N
thích hợp. Phân người và gia cầm có tỷ lệ C/N thấp. Các nguyên liệu thực vật tỷ lệ này lại cao, nguyên
liệu càng già thì tỷ lệ này càng cao. Để đảm bảo tỷ lệ C/N thích hợp đối với các loại nguyên liệu này ta
nên dùng hỗn hợp nhiều nguyên liệu.
3.2.5. Thời gian lưu
Trong thực tế, quá trình phân huỷ của nguyên liệu trong điều kiện nhiệt độ khí quyển xảy ra với tốc độ
chậm hơn bảng 3.2.6 nhiều vì điều kiện nhiệt độ không thuận lợi: Thấp hơn nhiệt độ tối ưu (37 0C) và
thăng giáng ngày đêm. Đối với phân động vật thời gian phân huỷ hoàn toàn có thể kéo dài tới vài tháng.
Đối với nguyên liệu thực vật, thời gian này kéo dài tới hàng năm. Tuy nhiên tốc độ sinh khí chỉ cao ở thời
gian đầu, càng về sau tốc độ sinh khí càng giảm. Quá trình phân huỷ của nguyên liệu xảy ra trong một
thời gian nhất định.
Hình 3.2.5. Quan hệ giữa sản lượng khí với thời gian phân huỷ và nhiệt độ

Ta gọi thời gian lưu là thời gian nguyên liệu nằm trong thiết bị phân huỷ. Đây là khoảng thời gian dịch
phân huỷ sản sinh ra khí sinh học. Đối với chế độ nạp liên tục, nguyên liệu được bổ sung hàng ngày. Khi
một lượng nguyên liệu mới nạp vào, nó sẽ chiếm chỗ của nguyên liệu cũ và đẩy dần nguyên liệu cũ về
phía lối ra. Thời gian lưu chính bằng thời gian nguyên liệu chảy qua thiết bị từ lối vào tới lối ra. Thời gian
này được tính bằng tỷ số giữa thể tích phân huỷ và thể tích nguyên liệu nạp bổ sung hàng ngày. Trong
điều kiện nhiệt độ khí quyển, nếu chúng ta lưu giữ nguyên liệu trong bể phân huỷ cho tới khi chúng phân
huỷ hoàn toàn thì chúng ta phải xây bể phân huỷ rất lớn. Thí dụ để phân lợn phân huỷ hết phải mất trên
120 ngày. Nếu mỗi ngày ta nạp 10 kg phân (thể tích gần bằng 10 lít) pha với 10 lít nước thì ta phải có bề
chứa dung tích: (10 lít phân + 10 lít nước) x 120 ngày = 2400 lít = 2,4m3 Mặc dù thời gian lưu càng lớn thì
khí thu được từ một lượng nguyên liệu nhất định càng nhiều. Song như vậy thiết bị phân có thể tích phân
huỷ rất lớn và vốn đầu tư sẽ nhiều. Vì thế người ta phải lựa chọn thời gian lưu sao cho trong khoảng thời
gian này tốc độ sinh khí là mạnh nhất và sản lượng khí thu được chiếm khoảng 75% tổng sản lượng khí
của nguyên liệu. Thời gian này phụ thuộc vào loại nguyên liệu và nhiệt độ môi trường. Trong điều kiện
Việt Nam, Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 492 - 2002 đã qui định thời gian lưu đối với phân động vật như
sau :
Bảng 3.2.5- Thời gian lưu đối với phân động vật theo Tiêu chuẩn ngành

Vùng Nhiệt độ trung bình về mùa đông (0C) Thời gian lưu (ngày)
I 10 - 15 60
II 15 - 20 50
III > 20 40
Thời gian lưu đối với nguyên liệu thực vật được qui định là 100 ngày.
3.2.6. Các độc tố
Hoạt động của vi khuẩn chịu ảnh hưởng của một số các độc tố. Khi hàm lượng của các loại này có
trong dịch phân huỷ vượt quá một giới hạn nhất định sẽ giết chết các vi khuẩn, vì thế không cho phép các
chất này có trong dịch phân huỷ. Trong thực tế các loại thuốc hoá học như thuốc trừ sâu, diệt cỏ, thuốc
sát trùng, các chất kháng sinh, nước xà phòng, thuốc nhuộm, dầu nhờn không được phép đổ vào các
thiết bị KSH. Tóm tắt các điều kiện tối ưu cho quá trình sản xuất khí sinh học được cho ở bảng dưới đây.
Bảng 3.2.6. Điêu kiện tối ưu cho quá trình lên men tạo khí sinh học

TT Yếu tố ảnh hưởng Giá trị tối ưu


1. Nhiệt độ (0C) 30 - 40

2. pH 6,5 - 7,5

3. Thời gian lưu (ngày) - Phân động 30 - 60


vật
4. Thời gian lưu (ngày) - Thực vật 100

5. Hàm lượng chất khô (%) - Phân 7 - 9


động vật

6. Hàm lượng chất khô (%) - Thực 4 - 8


vật
7. Tỷ lệ C/N 30/1

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 – 2010, một
trong những chủ trương lớn của Chính phủ trong những năm tới là đầu tư xây dựng một nền nông
nghiệp công nghệ cao. Những năm gần đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã coi việc ứng
dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất như một yếu tố đột phá, như "chìa khoá" cho sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn bền vững. Các phong trào “Cánh đồng 50 triệu đồng/ha”, “hộ thu nhập 50 triệu
đồng/năm” đều là những hình thái tiệm cận về một nền nông nghiệp tiên tiến. Nông nghiệp nước ta đang
có xu hướng chuyển mạnh mẽ từ nông nghiệp truyền thống sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trường.
Chuyển nền nông nghiệp “số lượng” sang “chất lượng và giá trị” bằng cách ứng dụng công nghệ cao.
Hiện tại, Bộ Nông nghiệp và PTNT đang xây dựng chiến lược và chính sách phát triển khoa học công
nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, tập trung phát triển công nghệ sinh học, xây dựng các mô hình nông
nghiệp công nghệ cao.
Thành công của một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở Hà Nội, TP.HCM, Lâm Đồng…
tuy còn nhỏ nhưng đã chứng tỏ tiềm năng đóng góp của công nghệ cao đối với phát triển nông nghiệp
trong giai đoạn hội nhập với nhiều yêu cầu khắt khe. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ cao trong điều
kiện thực tế của Việt Nam và vai trò của công nghệ cao trong sự phát triển nông nghiệp, nông thôn bền
vững thì còn nhiều luận điểm khác nhau.

You might also like