You are on page 1of 11

Chiều quay của chữ Vạn

■ Chữ Vạn của Phật (mẫu A hay: Svastika or Evolution.

■ Chữ Vạn của Hitler (mẫu C): Sauvastika or Destruction.

Chữ Vạn là một biểu hiệu chớ không phải chữ viết.

Bốn cánh của chữ Vạn tạo thành như 4 cái bóng của 4 cái đầu của hình chữ Thập + khi
quay tròn.

Do đó, chữ Vạn có chiều quay.

- Theo mẫu (A): chữ Vạn có chiều quay ngược chiều kim đồng hồ, đây cũng là chiều quay
tự nhiên của các quả địa cầu quanh mặt trời và cũng là chiều tự quay của nó.

- Theo mẫu : chữ Vạn có chiều quay đồng chiều kim đồng hồ, tức là theo chiều tương
sanh trong Ngũ Hành.

Các nhà Phật học đã bàn cãi rất nhiều về hai chiều quay của chữ Vạn, cho rằng phải quay
theo chiều nầy mới đúng, quay theo chiều kia là sai. Chúng ta sẽ xem chi tiết sự bàn cãi về
chiều quay nầy trong phần dưới.

Chữ Vạn của Phật thì vẽ chữ Thập + ở giữa thẳng đứng.

Chữ Vạn của Hitler thì vẽ chữ Thập x ở giữa nằm xiên (mẫu C) làm biểu hiệu của Đảng
Quốc Xã nước Đức.

CHỮ VẠN QUAY THEO CHIỀU NÀO ĐÚNG?

Những nhà Phật học không thống nhứt nhau về chiều quay của chữ Vạn, mỗi nhà nêu ra
một cách, xin lược kê ra sau đây: Lấy 2 mẫu chữ VẠN bên trên:

- mẫu A: 卐 chiều quay ngược chiều kim đồng hồ.


- mẫu B: 卍 chiều quay cùng chiều kim đồng hồ.
1. Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, trang 68:

Chữ nầy trong kinh truyện không có, chỉ trong nhà Phật có thôi. Nhà Phật nói rằng: khi
Phật giáng sinh, trước ngực có hiện ra hình chữ Vạn 卐 (A), người sau mới biết chữ ấy.
Trong bộ Hoa Nghiêm Âm Nghĩa nói rằng: Chữ Vạn (A) nguyên không có, đến niên hiệu
Tràng Thọ thứ 2 đời nhà Chu mới chế ra và âm là VẠN nghĩa là muôn đức tốt lành đều hợp
cả ở đấy. Lại chữ Vạn (A) nguyên tiếng Phạn là Srivatsalaksana. Các Ngài La Thập, Huyền
Trang dịch là ĐỨC, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch là VẠN.

Ở bên Ấn Độ thì tương truyền là cái tướng cát tường, dịch là ĐỨC là nói về phần công đức,
dịch là VẠN là nói về phần công đức đầy đủ.

Song, Vạn (A) nguyên là hình tướng chớ không phải là chữ, cho nên dịch là cát tường hải
vân tướng, mà theo cái hình xoay về bên hữu (A) là phải hơn. Vì xem như nhiễu Phật thì
nhiễu về bên hữu, hào quang của Phật ở khoảng lông mày phóng ra cũng xoay về bên
hữu, thì viết xoay về bên hữu mới là tướng cát tường, có chỗ làm xoay về bên tả (là lầm).

Vậy theo Thiều Chữu, hình chữ Vạn (A) đúng, (sai).

2. Phật học Từ Điển của Đoàn Tr. Còn, tr 600, Q.3:

VẠN TỰ: Svastika, chữ Vạn 卍 (cũng kêu Kiết tường).


Ấy là một chữ linh bên Ấn Độ, chữ ấy có sức đưa lại, nêu ra các điểm tốt lành, vui vẻ,
phước đức. Vì vậy nên gọi là: Kiết tường, Vạn tự, Đức tự.

Sức lành của chữ Vạn 卍 (sâu rộng như biển, cao lớn như mây).
Chư Phật Thế Tôn đều có hình chữ Vạn nổi nơi ngực. Ấy là một tướng quí của các Ngài, và
tóc của các Ngài cũng có hình chữ Vạn nữa.

Vì chữ Vạn tiêu biểu cho các điều may mắn, phước đức, tốt lành, cho nên ở trước các ngôi
chùa Phật, người ta thường thấy vẽ hình chữ ấy.

NÊN CHÚ Ý: Không nên viết chữ Vạn ngược, vì các nhà học đạo cho là 4 cái đầu lửa, quay
thuận chiều thì diệt sạch các phiền não, đem lại sự an lạc; mà quay nghịch chiều thì thiêu
hủy các công đức, các thiện căn, thật rất nguy hại!

Vậy theo Đoàn Trung Còn, hình chữ Vạn (A) sai, (đúng).

Điều này trái ngược với Thiều Chửu mà chúng ta đã thấy ở phần 1 bên trên. Nhưng cả hai
ông đều không giải thích được lý do tại sao: chữ Vạn quay theo chiều nầy thì cát tường,
quay theo chiều ngược lại thì nguy hại.

Cả hai vị đều không nêu ra được cái lý do xác đáng và có sức thuyết phục mà người ta
không thể bài bác được.

3. Từ Điển Phật Học Hán Việt của Giáo Hội PGVN

Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học, chủ biên Kim Cương Tử, Q2 tr1822:

VẠN TỰ: Svastika hoặc Srivatsalaksara (thuật ngữ).

Chữ Vạn có hình dáng là: Vạn (A). Đây là tướng biểu thị sự tốt lành lưu truyền ở Ấn Độ,
Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo, đều sử dụng. Sớm nhất là trên tượng Phạm Thiên,
Visnu, Krisna. Âm tiếng Phạn là Thất-lị-mạt-sa-lạc-sát-nẵng, tức là tướng hải vân cát
tường.

Các tôn sư Cư-ma-la-thập, Huyền Trang dịch là Đức.

Bồ Đề Lưu-Chi đời Ngụy trong Thập Địa Kinh Luận quyển 12 dịch tiếng nầy là chữ VẠN
(Vạn tự), trong đó Thất-lị-mạt-sa tức là chữ Vạn (A) dịch là Vạn với nghĩa là công đức viên
mãn, nên có nghĩa là hải vân cát tường, còn dịch là không có lầm lỗi. Chỉ có lạc-sát-nẵng
dịch là Tự (chữ). Đây là sự lầm lẫn với từ ác-sát-na. Tiếng Phạn lạc-sát-nẵng tức là tướng
ác-sát-na là Tự.

Nay chữ Vạn (A) là tướng chớ không phải Tự (chữ), vậy nên có thể dịch là: cát tường hải
vân tướng, tức là vạn tướng.

Thế nhưng hình dáng nầy vòng bên phải là Vạn (A) tương tự như khi kính lễ Đức Phật,
hoặc vòng về bên phải ba vòng, tương tự như sợi lông trắng ở giữa hai lông mày của Đức
Phật chuyển vòng về bên phải. Tóm lại coi việc vòng về bên phải là tốt lành (cát tường).

Xưa nay, có khi viết là Vạn 卍 (là nhầm). Cao Ly Bản Tạng Kinh và Tuệ Lâm Âm Nghĩa
quyển 21, Hoa Nghiêm Âm Nghĩa đều viết là Vạn 卐 (A).
Lại nữa, để biểu thị tướng vòng về bên phải, nên ghi là

Theo thuyết của Kinh Đại Thừa thì điều đó biểu thị tướng cát tường trên ngực của Đức Phật
và Thập Địa Bồ Tát. Đây là một trong 32 tướng tốt.

Theo thuyết của Tiểu Thừa thì tướng nầy không chỉ giới hạn ở ngực. Xét hình Vạn (A) nầy
là tướng tốt lành của bậc Phạm Thiên. Phàm khi vẽ các bức tôn tượng đều có vẽ hình Vạn
(A) nầy, ở trong khuôn vẽ hình thể làm pháp, đó là hình ngọn lửa cháy rực. Pháp của
Phạm Thiên coi lửa là thanh tịnh nhất, cát tường nhất, nên sáng tạo ra tướng nầy.

Vậy theo Kim Cương Tử và các Hòa Thượng soạn giả, hình chữ Vạn (A) đúng, (sai)

4. Theo Từ Điển Phật Học VN của Thích Minh Châu - Minh Chi, trang 757:

"VẠN: Một trong 32 tướng đẹp của Phật, vị trí trên ngực của Phật. Nó biểu thị công đức vô
lượng của Phật, lòng từ bi và trí tuệ vô lượng của Phật.

Là phù hiệu, không phải là chữ viết.

Viết xoay bên trái, hay bên phải, đều được, tuy rằng có một số nhà Phật học tranh luận
nhau về hướng xoay của phù hiệu nầy.

Nhà độc tài Phát xít Hitle cũng dùng phù hiệu nầy cho Đảng áo nâu của mình, nhưng đặt
nghiêng.

Vậy, theo Tiến sĩ Triết học Hòa Thượng Thích Minh Châu và nhà Phật học Minh Chi thì chữ
Vạn (A) hay (đều được cả, vì sự tranh luận của hai nhóm Phật học về chiều quay của chữ
Vạn không bên nào đạt được lý lẽ thuyết phục.

5. Vài ý kiến khác:

* Có học giả so sánh chiều quay của chữ Vạn với chiều tương sinh trong Ngũ Hành (Kim,
Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ) đặt theo 4 hướng Tây, Bắc, Đông, Nam và Trung ương, và cho rằng:
chữ Vạn quay theo chiều kim đồng hồ thì cùng chiều tương sinh của Ngũ Hành, mới đem
lại sự an lạc, công đức viên mãn, cát tường; còn nếu quay ngược với chiều tương sinh của
Ngũ Hành thì nó thiêu hủy hết công đức, đem lại phiền não, rất nguy hại.

Nhưng có điều là tại sao lại liên kết chiều quay của chữ Vạn với chiều tương sinh của Ngũ
Hành? Giữa hai chiều nầy có gì liên hệ nhau? Tại sao không so sánh chiều quay của chữ
Vạn với chiều quay của trái đất tự quay hay chiều quay của các địa cầu quanh mặt trời, tức
là chiều quay tự nhiên trong vũ trụ? Đây mới thực là chiều quay tự nhiên, thuận dòng tiến
hóa và Thiên lý; còn chiều tương sinh của Ngũ Hành chỉ là chiều qui ước do con người đặt
ra mà thôi, không phải là chiều tự nhiên, hay chúng ta bị chữ tương sinh ám ảnh: "tương
sinh" của Ngũ Hành cũng tương sinh công đức?

* Cũng có vài học giả cho rằng: Khi xưa, vẽ hình chữ Vạn quay theo chiều kim đồng hồ:
Vạn 卍 (tượng trưng Nhứt bổn tán vạn thù; ngày nay là thời kỳ Vạn thù qui nhứt bổn, nên
phải vẽ chữ Vạn quay theo chiều ngược lại: Vạn 卐 (A).

* Việc tranh cãi chiều quay của chữ Vạn, chiều nào đúng, chiều nào sai, đều căn cứ trên
những nhận thức riêng của mỗi người hay mỗi nhóm người, nhưng không có cơ sở nào đủ
sức thuyết phục một cách tuyệt đối, cho nên chúng ta không thể kết luận một cách khách
quan bên nào hoàn toàn đúng, bên nào hoàn toàn sai.

Việc nầy giống như việc tranh cãi của hai người nói về sự xa và gần của mặt trời lúc sáng
sớm và lúc trưa.

- Ông nầy thì cho rằng, buổi sáng sớm nhìn thấy mặt trời lớn hơn lúc buổi trưa. Vậy thì lúc
sáng sớm, mặt trời ở gần nên thấy nó lớn, còn buổi trưa mặt trời ở xa hơn nên thấy nó nhỏ
hơn.
- Ông kia cãi lại: buổi sáng sớm trời mát chứng tỏ mặt trời ở xa, còn buổi trưa thì nóng bức
chứng tỏ mặt trời ở gần hơn, giống như khi ta đứng gần đống lửa vậy.

Hai ông có hai cái nhìn khác nhau đối với cùng một sự kiện nên có hai nhận định trái ngược
nhau, ai cũng có lý cả, nên dầu cãi nhau cho đến tận thế thì không ai thắng ai và cũng
không ai thua ai. Nhưng chân lý vẫn có một.

Kết luận:

Hình chữ Vạn quay theo chiều ngược kim đồng hồ (mẫu A) hay quay cùng chiều kim đồng
hồ (mẫu thì đó chỉ là hai cái nhìn khi đứng ở hai vị trí trước mặt hay sau lưng của cùng
một chữ Vạn mà thôi.)

Trên nóc tháp chuông của Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, có gắn hình chữ
VẠN: nếu chúng ta đứng trước Báo Ân Từ tại cột phướn nhìn lên, chúng ta thấy chữ Vạn
theo (mẫu A) tức là quay ngược chiều kim đồng hồ; nếu chúng ta bước đến ngang hông
Báo Ân Từ nhìn lên, tức là nhìn phía sau lưng chữ Vạn thì thấy theo 卍 (mẫu nghĩa là quay
theo chiều kim đồng hồ.)

Chữ Vạn tượng trưng chơn lý, và chơn lý nầy chỉ có một. Nhưng tùy theo vị trí đứng nhìn
mà thấy chơn lý theo kiểu nầy, mang hình thức nầy; nếu đứng ở vị trí khác nhìn chơn lý thì
thấy chơn lý theo kiểu khác với hình thức khác. Khi chúng ta hợp lại tất cả nhận thức, hợp
lại tất cả kiểu dáng của tất cả sự mô tả chơn lý thì may ra chúng ta mới có thể hiểu được
chơn lý một cách toàn vẹn đủ các mặt.

Cho nên, chúng ta không nên lấy cái quan điểm riêng của mình, ở tại vị trí của mình với
cái nhìn của mình mà cho rằng, chỉ có mình là đúng, rồi phê bình chê bai những nhận thức
khác là sai.

Chữ Vạn tượng trưng điều lành, điều tốt đẹp, vì nó hiện ra trên ngực của Đức Phật, nó là
một trong 32 tướng tốt của Phật. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng, nếu chữ Vạn quay theo
chiều nào đó thì nó thiêu hủy công đức. Cái công đức của ta, chỉ có những việc làm sai trái
của ta mới tiêu hủy được công đức của ta, như cái lửa giận của ta chẳng hạn, ngoài ra
không có điều gì bên ngoài khác mà thiêu hủy được công đức của ta.

Chúng ta là những tín đồ Cao Đài đang ở trong Trường thi công quả do Đức Chí Tôn tạo
lập, chúng ta cứ để mặc cho chữ Vạn quay tự do theo chiều quay của nó mà không cần
bàn cãi, chúng ta cố gắng lo làm tròn nghĩa vụ của mình, lập công bồi đức càng nhiều càng
tốt, vì cái công đức nầy mới đem chúng ta lên những ngôi vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng.

Chữ Vạn trong lịch sử nhân loại

Chữ Vạn bắt đầu được sử dụng đặc biệt rộng rãi tại Ấn-độ từ hơn 2500 năm trước, khi
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền xuất ra pháp môn tu tập của mình. Chữ Vạn —swastika
hoặc svástika— là có gốc từ chữ svasti, tiếng Ấn-độ cổ với hàm nghĩa may mắn. Khi Phật
giáo truyền sang Trung Quốc, ngươì Hoa gọi đó là chữ Vạn, là ký hiệu của nhà Phật, và
biểu tượng của “cát tường như ý”. Văn hoá truyền thống của người Việt chúng ta cũng
mang theo nét văn hoá ấy.

Chữ Vạn thường hay được thấy ở trên tượng Phật và chùa triền Phật giáo:
Dưới đây là hình chữ Vạn tìm thấy trong một bức tranh lụa 2300 năm trước ở Trung Quốc:

Tấm lụa được tìm thấy trong những năm 1970 tại Mawangdui, gần Changsa, trong Mộ Cổ
Số 3. Có 29 hình “sao chổi” trong tấm lụa, và 4 “sao chổi” có hình như trên. Như quý vị có
thể thấy, cái bên trái mang hình chữ Vạn (cũng là cuối cùng trong tấm lụa, theo thứ tự từ
phải sang trái).

Chữ Vạn không chỉ xuất hiện trong văn hoá Trung-Ấn. Người ta còn tìm thấy chữ Vạn tại
những nơi khác trên thế giới trong lịch sử. Có lẽ hình chữ vạn cổ xưa nhất mà người ta tìm
thấy được là chữ vạn được vẽ trong một hang động 10000 năm trước, thời kỳ đồ đá cũ.

Cận đại, vì Hitle sử dụng một ký hiệu tương tự, do vậy một số người, nhất là người dân ở
Đức hoặc ở châu Âu, có thể hiểu nhầm khi nhìn thấy chữ Vạn này.

Một ví dụ nữa về chữ Vạn trong Phật giáo: chữ Vạn ở một ngôi chùa tại Triều tiên:
Dưới đây là hình chữ vạn xoay theo chiều ngược lại. Những hình chữ vạn xoay theo cả hai
chiều như vậy vẫn luôn phổ biến trong Ấn-độ giáo cho đến ngày nay.

Chữ Vạn tại một chiếc vòng cổ xưa tìm thấy ở Iran:

Chữ Vạn trên một chiếc mũ của người Hy-lạp:


Hầu hết các nhóm, tộc người trong lịch sử đều từng biết đến mẫu hình chữ Vạn. Ngay tại
Đức, các bộ tộc xưa vẫn gọi mẫu hình đó là “Cross of Thor” (chữ thập của thần Thor). Tại
Anh quốc, những người dân mở đất Scandinavi cũng mang mẫu hình chữ Vạn trong văn
hoá của họ đến vùng Lincolnshire và Yorkshire.

Trong một ngôi đền cổ 2000 năm tuổi ở Palestine của người Do Thái, người ta cũng thấy có
vẽ mẫu hình chữ Vạn này. Ở châu Mỹ, ở các di tích lịch sử của người bản địa cũng có thấy
mẫu hình chữ Vạn, cả ở Bắc, Trung và Nam Mỹ.

Ngày nay, nhìn hình của các thiên hà, chúng ta có thể liên tưởng đến đồ hình thái cực của
Đạo gia hoặc hình chữ Vạn của Phật gia vốn được các thế hệ trong lịch sử nhìn nhận là
biểu trưng cho vũ trụ:
--------------------------------------
Dưới đây là các tư liệu mà chúng tôi tham khảo để có thông tin về chữ Vạn trong
lịch sử nhân loại:

1. Thomas Wilson, Curator, Department of Prehistoric Anthropology, U.S. National


Museum, Chapter “The Swastika, the earliest known symbol and its migrations; with
observations on the migration of certain industries in prehistoric times.” from “Report of
National Museum” (1894), pp. 757-1030.

2. Barbara G. Walker, “THE WOMAN'S ENCYCLOPEDIA OF MYTHS AND SECRETS” (1983),


and “THE WOMAN'S DICTIONARY OF SYMBOLS & SACRED OBJECTS” (1988), both
published by Harper & Row;

3. James A. Michener, “THE SOURCE”;

4. Ernest Klein, “KLEIN'S COMPREHENSIVE ETYMOLOGICAL DICTIONARY OF THE ENGLISH


LANGUAGE” (Elsevier, 1971);

5. Robert H. Mathews, “MATHEWS' CHINESE-ENGLISH DICTIONARY” (Harvard, 1966);

6. The book “In Search of the Cradle of Civilization” by Georg Feuerstein, Subhash Kak,
and David Frawley (Quest 1995) describes the history of India from a perspective different
from that of English colonialists.

7. Sagan and Druyan, book “Comet”, Random House 1985

8. http://en.wikipedia.org/wiki/Swastika

9. http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2007/9/16/89609.html

Tham chiếu: http://www.falundafa.org/intro/0-falun.htm.

CHỮ VẠN
Ngày Tết, người Việt Nam chúng ta thường vào chùa lễ Phật. Ai cũng nhận thấy
trên ngực tượng Phật trang nghiêm thờ giữa chính điện thường có dấu chữ vạn.
Dường như đây là một biểu tượng đặt trưng của Phật giáo ?

Hồi còn bé, tôi đã chú ý và có nhiều thắc mắc về ý nghĩa của dấu hiệu này. Tôi hỏi sư, sư
bảo:
“Đó là chữ Vạn, biểu tượng của đức Phật. Nó tượng trưng cho đức Đại Hùng , Đại Lực, Đại
Từ bi của Phật . Nó là hình tượng của “ Bánh xe Pháp luân “đang vận động. Bốn cánh của
chữ Vạn còn mang ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, tức là Khổ Tập Diệt Đạo.
Có người còn gọi đó là Tứ khổ hải: Sinh – Lão- Bệnh-Tử. Nó nói lên vòng luân hồi bất tận
của kiếp người trầm luân".
Tôi nghe vậy thì biết vậy thầm nghĩ đạo phật thật cao siêu, chỉ có một dấu hiệu nhỏ mà
mang bao nhiêu ý nghĩa thâm thuý. Sau này đọc lại trong tạp chí Indochine số 126 ngày
28 tháng Giêng năm 1943, tôi thấy có một bài viết về chữ Vạn ở trang 15, có đoạn khá
ngộ nghĩnh. Tôi tạm dịch ra để hiến các độc giả trẻ hiếu học. Bài có tựa: Chữ Vạn với
người An Nam :
“Đây là dạng cổ nhất của chữ thập (+)[La croix], có tên gọi là Swastika.

Swastika là biểu tượng của Đạo Phật, nói lên sự toàn thiện, toàn mỹ của Đức Phật. Đó là
dấu hiệu của sự giải thoát.
Người Ấn Độ đã khắc chữ vạn (Swastika) lên ngực tượng Phật, coi như dấu hiệu tối thượng
của sự toàn thiện, toàn mỹ.
Những nhà sư Việt Nam tiếp tục tôn thờ dấu hiệu này mà chẳng hiểu nó có ý nghĩa như
thế nào (?!) . Họ gọi đó là “ Chữ Vạn Thiên Trúc” có nghĩa là “ chữ Vạn của nước Ấn
Độ”. Và có người đã giải thích sự hiện diện của chữ Vạn trên ngực Đức Phật như thế này:

“Một tên bạc ác ngày nọ đã đâm một nhát giáo lên ngực của Đức Phật nên Ngài
đã giữ mãi vết tích đó suốt đời để nhắc nhở mọi người lánh xa điều ác” .
( Viết theo Dumoutir)

Bài báo còn một đoạn nói về dấu chữ Vạn đã được dùng rất nhiều trong nghệ thuật trang
trí của người Việt Nam ở Bắc Bộ, trên các bức chạm trổ và điêu khắc bằng gỗ hay kim loại,
để trang trí bàn, ghế, tủ và các đồ dùng nội thất: Tứ bình , diềm cửa, phủ thờ, viền câu đối
v..v..

Còn một đoạn khác quan trọng hơn Dumoutier viết thế này:
” Những người phụ nữ của bộ tộc Mán hiện đang sống trên các đỉnh núi Ba Vì ở hai bên bờ
sông Đáy, thường sống tập trung thành các cụm dân cư rải rác trên các vùng Thượng du
đấy núi non sứ Bắc kì. Họ thuường mặc những bộ quần áo bằng vải thô màu xanh dương
có mang hằng dải dài những chữ Vạn thêu màu đỏ hay trắng”

Đây mới là điều lạ. Người Mán cũng tôn thờ Đạo Phật hay Đạo Bà La Môn?. Hay họ tôn thờ
một đấng thiêng liêng nào khác có nguồn gốc thật xa xưa? Điều này xin đặt câu hỏi cho
các nhà dân tộc học và phong tục học nước ta.

Nhưng sau khi đọc một quyển sách xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1969 do nhà sưu tầm cổ vật
James Churchward viết, có tựa đề : The lost continent of MU (MU, Đại lục bị tiêu
trầm)(1) tôi dần nghiệm ra, tuy chưa hẳn hoàn toàn tin tưởng vào những điều giải mã và
lý giải trong sách.

Theo James Churchward thì chữ Vạn là biểu tượng không phải chỉ riêng của Phật giáo hay
Ấn giáo mà là biểu tượng chung của toàn thể nhân loại, trên khắp thế giói. Nó xuất phát từ
những kí hiệu tượng hình được ghi trên các linh bài bằng đất thô có độ tuổi hàng vạn năm,
tìm được ở Ấn Độ, được cất giấu trong các ngôi đền thật xưa.

J. Churchward đã phân tích và giải mã chữ Vạn thật chi li. Ông khẳng định chữ Vạn chỉ là
biến thẻ của chữ thập (+) tượng trưng cho “Tứ Đại Nguyên Động Lực” (Nước, gió, lửa,
sấm, sét) = Four Great Primary Forces. Chữ thập và chữ Vạn, cũng như thạch trụ, (pylone,
pilier) là những vật biểu tượng có tính tôn giáo, được tôn thờ từ lục địa MU, được truyền
sang bờ Tây Thái Bình Dương qua ngõ Miến Điện, Nepal, Ấn Độ, sang Ba Tư, tới Lưỡng Hà,
Ai Cập, Hi Lạpv..v.. và Mu được xem như là miền đất mẹ (Morther land) của nhân loại từ
đó xuất phát mọi nền văn minh cổ nhất thế giới. MU thờ Mặt trời nên tất cả các dân tộc
nào trên thề giới thờ Mặt Trời đều chịu ảnh hưởng của nền tôn giáo nguyên thuỷ của MU và
J. Churchward phân tích sự tiến triển của chữ Vạn như sau (hình2)

Hình A: Chữ thập (+) hình ảnh tièn khởi, tuợng trưng cho Tứ Đại Nguyên Động Lực

Hình B: Chữ thập nằm trong vòng tròn. Vòng tròn tượng trưng cho Mặt TRời và Vũ Trụ,
trong đó bao hàm Tứ Đại Nguyên Động Lực. Các động lực vận hành trong vũ trụ tạo ra
sinh vật, nên hình số 2 này nói lên sự Sáng Tạo ( biểu tượng của Đấng Sáng Tạo = Tạo
Hoá = Hoá Công).

Hình C: Bốn cánh của chữ Vạn xoay quanh vòn tròn có chấm. Vòng tròn tượng trưng cho
Đấng Sáng Tạo. Mặt trời nằm ở trung tâm: Vũ trụ xoay quanh Mặt Trời. Tứ Đại Nguyên
Động lực làm cho vũ trụ vận hành. Các cánh của chữ Vạn đều xoay về hướng Tây, diễn tả
vũ trụ vận hành từ Tây sang Đông (Theo chiều kim đồng hồ).

Hình D: chữ Vạn không có vòng tròn ở giữa, chiều xoay từ tây sang Đông) Trong hình này
biểu tượng về Đấng Sáng Tạo bị mất hẳn, chỉ còn lại bọ liên hợp 4 cánh gamma. (L) là chữ
của người Kiu xưa, sau được người Hy Lạp dùng làm chữ gamma, và người La Mã biến
thành chữ L. L là cái ê-ke vuông góc (Thước thợ nề) nói về “Người xây dựng” (builder).
Bốn vị “Builders” này kết hợp lại thành “Bộ tứ Builders” gọi là “Tứ Đại Hùng Nhân” (The
Four Great Strong Ones) chữ Vạn từ đó lưu truyền đến ngày nay.

Có điều chúng ta nên lưu ý về chữ Vạn dã được phân tích trên đây có bốn cánh xoay về
hướng Tây. Còn chữ Vạn của Phật Giáo Việt Nam và của Đức Quốc Xã thời Hitler lại có
cánh xoay về hướng Đông. Biểu tượng chữ Vạn của người Naacal và chữ Vạn nguyên thuỷ
ở xứ MU cũng có cánh quay về hướng Đông

. Sự thay đổi hướng xoay của chữ Vạn xảy ra từ lúc nao không ai hiểu rõ. Chỉ thấy trên
hoa văn một lọ chum đựng hài cốt tìm được ở Ý, có niên đại vào thời đồng khí, in trong
sách Chemin de Sagese – Traité du Labyrinthe (Con đường Đạo Lý - Luận về Ma Trận) của
Jacques Âttli, do Fayard xuất bản năm 1996 lại có cả hai chữ Vạn ngược chiều nhau.
Nhưng chữ Vạn của Đức Quốc Xã (cũng giống như chữ Vạn Phật Giáo, có cánh xoay về
phải) lại mang ý nghĩa khác. Hitler dùng chữ Vạn trên lá cờ tượng trưng cho Quyền năng
của Tạo hoá, để gây niềm tin vào lý tưởng ưu việt của tộc người Aryen thuần chủng (Nhật
Nhĩ Man = Normand = Người Đức) theo học thuyết Siêu Nhân = Surhomme”của Nietzsche
đã được tác giả phác hoạ trong Ainsi parlait Zarathoustra (Zarathoustra đã nói thế). Hitler
kêu gọi người Đức tàn sát người Do Thái vì sợ giáo thuyết “ Do Thái giáo” của họ mê hoặc
tư tưởng người Nhật - Mỹ - Man. Họ kết tội dân Do Thái đã tố cáo Chúa Jésus khiến người
La Mã hành hình Chúa, là hành vi đê tiện đáng trừng phạt nên đã có hàng vạn người Do
Thái bị sát hại trong thời Thế Giới Chiến Tranh thứ hai.

Hiện nay ở Châu Âu đang có một bọn người phát xít toan đề xướng thuyết “Tân Phát Xít”
(Néo-Frascisme) và khôi phục lại chữ “Vạn” của Hitler. Nhưng như chúng ta đã thấy, chủ
nghĩa phát xít Đức đã gây racuộc đệ II Thế Chiến tàn hạibao nhiêu triệu nhân mạng trên
thế giới, nhất là nó tàn sát người Do Thái rất dã man. Và chữ Vạn, khi còn là biểu tượng
tôn giáo có ý nghĩa tuyệt vời, trái lại là huy hiệu của phát xít, nó đã gây ra bao nhiêu điều
tàn ác.

TRƯƠNG MINH HIỂN


(Trích trong XƯA NAY, số 132-133)
Thiên Sứ giới thiệu

You might also like