You are on page 1of 15

8 BÀI ĐỌC THÊM VỀ DỊCH BỆNH THỦY SẢN

Bài 1.Khái quát về quản lý dịch bệnh thuỷ sản


Dịch bệnh thủy sản (thường gọi là bệnh cá tôm) là khó khăn đầu tiên, gây trở
ngại lớn đối với sự phát triển cả về mặt kinh tế và xã hội của nhiều nước trên thế giới.

Tổ chức Dịch tễ động vật Thế giới (Office International des Epizooties, viết tắt
OIE) được thành lập năm 1923, có trụ sở tại số 12, đường Prony, F-75017 – Paris
(Pháp) hiện có 164 quốc gia là thành viên. Việt Nam đã (tái) gia nhập OIE vào năm
1991, vì vậy các bộ luật (code) của OIE có hiệu lực thi hành ở nước ta. Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn là cơ quan đại diện của Việt Nam tại Tổ chức OIE.

Tổ chức OIE trong Aquatic Animal Health Code 2008 gọi tắt là Aquatic code
2008 đã nêu danh sách 37 loại bệnh của cá (17), nhuyễn thể (8), giáp xác (10),
lưỡng thê (2) có ý nghĩa quan trọng về kinh tế với yêu cầu phải khai báo với tổ chức
này (xem phụ lục). Những tiêu chuẩn khai báo là: Những bệnh phải khai báo với OIE
là những bệnh có thể lây lan, có ảnh hưởng lớn đến kinh tế-xã hội, sức khỏe con
người và có ý nghĩa lớn trong thương mại quốc tế về động vật thuỷ sinh và sản
phẩm động vật thuỷ sinh. Báo cáo phải được đệ trình mỗi năm một lần, nhưng có
những trường hợp phải được báo cáo thường xuyên hơn theo quy định tại các điều
khoản 1.2.1.2, 1.2.1.2., 1.2.1.3 và 1.2.1.4. Những thông tin ngắn gọn về các tác nhân
gây nên các bệnh trong danh mục bệnh phải báo cáo với OIE cũng như những bệnh
đáng kể khác đều được OIE giới thiệu. Những bệnh đáng kể khác được hiểu là những
bệnh nguy hiểm hoặc có nguy cơ tiềm ẩn lớn cho nghề NTTS nhưng không có trong
Danh mục bệnh phải báo cáo với OIE hoặc là vì chúng ít nguy hiểm hơn, hoặc vì chúng
chỉ giới hạn trong một số địa phương hẹp, hoặc là chưa được xác định đầy đủ, nguyên
nhân gây bệnh, hoặc chưa có phương pháp chẩn đoán bệnh. Các báo cáo và hồ sơ về
những bệnh này được Văn phòng trung tâm (Central Bureau) trong đó có bộ phận
Veterinary Administration) OIE cung cấp để cập nhật tình hình phân bố của bệnh. Trong
quá khứ đã có những bệnh chưa đưa vào danh mục của OIE vẫn gây tác hại lớn cho sự
phát triển nuôi trồng thủy sản ở một số khu vực. Ví dụ, trong Aquatic Code 2000 chưa
đề cập đến một số bệnh xảy ra nghiêm trọng châu Á như tình trạng cá vược
(Dicentrarchus labrax and Lates spp.) và cá song (Epinephelus spp.) chết hàng loạt vì
một số bệnh do vius gây nên; Bệnh đốm đỏ cũng đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
việc nuôi cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) ở Việt Nam và bệnh lở loét - xuất huyết
(EUS) cũng đã gây nên hiện tượng chết hàng loạt ở nhiều loài cá nuôi và cá hoang dại
ngoài tự nhiên ở châu Á và Ôxtrâylia… nhưng trong Aquatic Code 2008, một số bệnh
trên cá, trên giáp xác, trên lưỡng thê đã được bổ sung, từ 29 bệnh lên đến 37 bệnh.

Các quy định trong Aquatic Code rất chặt chẽ. Thí dụ trong AC 2008 có nêu
danh sách 10 bệnh ở giáp xác (tăng 2 bệnh so với AC 2000), trong đó có hội chứng
Taura (Taura syndrome - TSV), bệnh đốm trắng (White spot disease - WSSV hoặc
WSV) và bệnh đầu vàng (Yellowhead disease); Luật quy định các tổ chức có thẩm
quyền của nước nhập khẩu ấu trùng tôm, tôm con, tôm bố mẹ và tôm chết (tôm nguyên
liệu) có thể yêu cầu các nước xuất khẩu phải đáp ứng các điều kiện về việc đảm bảo
tôm không có những dấu hiệu bị nhiễm các bệnh trên.

1
Các tiêu chuẩn về xét nghiệm và chẩn đoán được mô tả trong sách “Diagnostic
Manual for Aquatic Animal Diseases “ (2006) của Tổ chức này.

Một số vấn đề nổi lên trong việc phát triển nuôi trồng thủy sản ở những năm gần đây:

1) Việc sử dụng hoá chất và thuốc thú y thủy sản khá phổ biến. Các tác nhân này trong
một số trường hợp có thể gây nên những hiệu ứng phụ, ảnh hưởng trực tiếp đến động
vật thủy sinh, kể cả các đối tượng nuôi và các quần thể sống trong môi trường tự nhiên.
Việc sử dụng hoá chất trong nuôi trồng thủy sản cần được cân nhắc thận trọng hơn và
các giải pháp khống chế bệnh dịch phải được xem xét chu đáo.

2) Các bệnh không lây nhiễm thường ít được chú ý hơn so với những bệnh truyền
nhiễm, trong nuôi trồng thủy sản nhưng nó cũng đã gây nhiều tổn thất cho người nuôi.
Những bệnh này thường do những yếu tố hữu sinh và điều kiện môi trường không thuận
lợi gây nên. Ví dụ, việc quản lý không phù hợp, chất lượng nước nuôi kém, chế độ cho
ăn không tốt, môi trường suy thoái và ảnh hưởng ô nhiễm nước thải sinh hoạt trong quá
trình đô thị hoá hoặc ô nhiễm môi trường cấp tính (như sự cố tràn dầu) đều có thể gây
chết hàng loạt đối với nhiều loài thủy sản sống trong tự nhiên và các đối tượng nuôi
trồng.

3) Một vấn đề liên quan khác giữa bệnh thủy sản với sức khỏe con người và vệ sinh an
toàn thực phẩm cũng ngày càng được quan tâm nhiều hơn như vấn đề dư lượng thuốc
trong động vật thủy sinh có vỏ, gây suy thoái chất lượng nước, gây hiện tượng nở hoa
của tảo độc và vi khuẩn coliform; như ngộ độc cá nóc, thịt cóc,... Sự phát triển của nghề
nuôi thường nhanh hơn tốc độ phát triển, nghiên cứu và kỹ năng quản lý sức khỏe vật
nuôi của những người tham gia NTTS; ví dụ như sự thiếu hiểu biết trình độ quản lý kém,
kỹ thuật nuôi lạc hậu v.v đã dẫn đến rất khó vượt qua các thách thức trên, dẫn đến sự
thiệt hại trong NTTS và ảnh hưởng tới môi trường sinh thái nói chung.

Tóm lại, trong thập kỷ qua, ngành NTTS đã phát triển rất mạnh, đối tượng nuôi
được mở rộng, hình thức nuôi ngày càng đa dạng, phong phú, kỹ thuật nuôi ngày càng
hiện đại và năng suất nuôi ngày càng cao. Xu hướng này đã được khởi đầu bởi tình
hình kinh tế xã hội nói chung, và đặc biệt là xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, mặt trái của những quan điểm và phương hướng mới này, cũng đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự xâm nhập ngẫu nhiên của bệnh vào các quần thể động vật thủy
sinh và vùng địa lý mới, ví dụ, thông qua việc lưu thông con giống sản xuất nhân tạo và
các đối tượng nuôi mới cũng như thông qua sự phát triển kinh doanh cá cảnh. Những
tiến bộ trong việc kinh doanh động vật thủy sinh tươi sống cùng với việc sử dụng các
phương tiện vận chuyển hiện đại …. đã góp phần trong việc du nhập và phát tán mầm
bệnh và lây lan nhanh bệnh vào nhiều hệ thống nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, hơn lúc nào
hết, việc quản lý dịch bệnh thủy sản càng trở nên cấp thiết, cần được quan tâm đúng
mức của cộng đồng, đặc biệt của các đội ngũ quản lý, các chuyên viên thú y hoạt động
trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản!

Bài 2.Tác động của ngành thuỷ sản tới


môi trường sinh thái và tài nguyên thuỷ sản
Tác động chính của ngành Thuỷ sản tới môi trường sinh thái và tài nguyên thuỷ sản
thông qua hoạt động của ba ngành sản xuất khai thác hải sản, nuôi trồng thuỷ sản, chế

2
biến thuỷ sản. Trong khuôn khổ đề tài chưa có khả năng lượng hoá đầy đủ được các
tác động này, đề tài đánh giá tác động của ba lĩnh vực sản xuất này thông qua một số
tiêu chí như sau.
1. Tác động từ hoạt động khai thác hải sản
a) Xu hướng biến động của nguồn lợi hải sản: Trong giai đoạn 1991 - 2001 tốc độ
tăng số lượng tàu thuyền máy bình quân hàng năm là 6% và tổng cộng suất tăng bình
quân 18%/năm và năng suất bình quân đã giảm từ 0,9 tấn/cv năm 1991 xuống còn 0,43
tấn/cv năm 2001. Cùng với mật độ tàu thuyền khai thác tăng là hiện tượng khai thác
bằng các ngư cụ phạm pháp: mắt lưới quá nhỏ, mìn, điện, chất hoá học đều gây nên tác
động xấu tới nguồn lợi hải sản và môi trường biển. Kết quả của nhiều cuộc điều tra đều
cho thấy tới hơn 50% số ngư dân được phỏng vấn đều cho rằng sản lượng khai thác có
xu hướng giảm. Mặc dù những con số này không đánh giá chính xác được sự suy giảm
nguồn lợi từ hoạt động khai thác hải sản nhưng vẫn có thể khẳng định rằng khuynh
hướng này chắc chắn đang đe dọa tính bền vững của nguồn lợi hải sản.

b) Hàm lượng xianua và dầu trong môi trường nước biển: Theo Báo cáo hiện trạng
môi trường Việt Nam năm 2000 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường thì từ năm
1999, do ngư dân bắt đầu sử dụng xianua trong khai thác nên có tới 50% số mẫu khảo
sát cho thấy có hàm lượng xianua vượt quá giới hạn cho phép. Mặt khác, với mật độ tàu
thuyền khai thác lớn thì lượng chất thải, dầu, nước dằn tàu xả ra môi trường nước xung
quanh cũng là một vấn đề gây nên ô nhiễm môi trường biển. Bên cạnh đó là các sự cố,
tai nạn hàng hải đều là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển, phá huỷ môi trường
sống thuỷ sinh. Tổng lượng dầu xâm nhập vào môi trường biển Việt Nam năm 1992 là
7.380 tấn, năm 1995 là 10.020 tấn và năm 2000 con số này đã là 17.650 tấn (Cục Môi
trường, Trimar - AB, 1995).

c) Chỉ số an toàn của rạn san hô: Tình trạng dùng chất nổ và cả xianua trong khai
thác hải sản đã đe dọa 85% diện tích rạn san hô ở Việt Nam. Những nghiên cứu từ
1994 đến 1997 cho thấy chỉ còn khoảng 1% rạn san hô ở Việt Nam được xếp loại tốt.

2 Tác động từ hoạt động nuôi trồng thuỷ sản


Nuôi trồng thuỷ sản mặn lợ được xác định như hướng phát triển mang tính đột phá
của ngành thuỷ sản với mục tiêu tăng tỷ lệ sử dụng mặt nước tiềm năng cho nuôi trồng
thuỷ sản cũng như tăng hơn nữa sản lượng nuôi trồng thuỷ sản. Vì vậy rất nhiều diện
tích rừng ngập mặn, đất trồng lúa đã và đang được chuyển đổi sang làm đầm nuôi tôm,
cùng với các chất thải từ ao nuôi đã trở thành những nguy cơ gây ô nhiễm hữu cơ
nghiêm trọng cho các vùng ven biển.

a) Diện tích rừng ngập mặn: Tác động trước tiên có thể kể đến là việc phát triển nuôi
trồng thuỷ sản làm thu hẹp diện tích rừng ngập mặn. Năm 1943 cả nước có gần
400.000 ha rừng ngập mặn, trong đó rừng ngập mặn ven biển Nam Bộ chiếm tới
250.000 ha. Do chiến tranh và do con người tàn phá, bao gồm cả việc phá rừng ngập
mặn để làm đầm nuôi tôm, đến năm 2001 cả nước chỉ còn chưa tới 150.000 ha rừng
ngập mặn, trong đó 70% là rừng trồng, chất lượng rừng ở mức nghèo kiệt. Mất rừng
ngập mặn đi đôi với mất cái nôi sinh trưởng của tôm, cá nhỏ không những ảnh hưởng
tới môi trường mà còn dẫn đến tình trạng suy giảm nguồn lợi hải sản.

3
b) Ô nhiễm và nhiễm mặn nguồn nước: Theo điều tra, hầu hết các hộ gia đình nuôi
trồng thuỷ sản đều không tiến hành xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường, trong
khi phần lớn họ đều sử dụng các hoá chất trong quá trình nuôi. Thậm chí ngay cả khi
không sử dụng hoá chất thì các chất thức ăn dư thừa, các chất hữu cơ cũng có thể là
nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước. Các loại phân bón, thức ăn nhân tạo... sử dụng trong
nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong nuôi lồng bè ở các vùng với mật độ lồng cao đã
làm cho môi trường nước nuôi ở đây bị ô nhiễm, gây ra dịch bệnh không những cho
thuỷ sản nuôi mà còn cho cả con người sử dụng nguồn nước ô nhiễm này trong sinh
hoạt.

Hiện nay nuôi tôm trên cát đang là một hướng mở mới cho ngành nuôi trồng thuỷ
sản, tuy nhiên do phát triển chưa có quy hoạch nên mới trong một thời gian ngắn đã có
hiện tượng suy giảm và nhiễm mặn nguồn nước ngầm tại các vùng sử dụng nước ngầm
cho nuôi tôm. Có tới 41% số hộ gia đình nuôi tôm được điều tra tại Ninh Thuận cho rằng
chất lượng nguồn nước bị xấu đi và hiện tượng nhiễm mặn nguồn nước ngọt trở nên
khá phổ biến (có những ao nuôi tôm có nguồn nước ngọt có độ mặn lên tới 16-17).

Ô nhiễm và nhiễm mặn nguồn nước là một vấn đề hết sức nghiêm trọng vì nó vừa
ảnh hưởng đến sản xuất lại vừa ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt và sức khoẻ của con
người.

c) Xu hướng thay đổi môi trường: Qua kết quả điều tra 116 hộ nuôi trồng thuỷ sản, có
tới 73,8% cho rằng nuôi trồng thuỷ sản có làm thay đổi môi trường và điều đáng nói ở
đây là các thay đổi đó lại là thay đổi không tốt. Ðây là điều rất đáng lo ngại cho chất
lượng môi trường sinh thái cũng như việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản một cách bền
vững.

3. Tác động từ chế biến thuỷ sản

Ngành chế biến thuỷ sản cũng gây ra khá nhiều tác hại cho môi trường bằng số
lượng lớn nước thải (10-12 triệu m3/năm) và chất thải rắn và phế thải (khoảng 170.000-
180.000 tấn/năm). Ngoài ra, số lượng lớn tiếng ồn, độ ẩm, nhiệt, khí thải, mùi có nguồn
gốc từ các hoạt động chế biến thuỷ sản cũng là một nguyên nhân đáng kể ảnh hưởng
trực tiếp đến môi trường xung quanh và cả sức khoẻ người lao động.

Ngành chế biến đã có các bước cải thiện tích cực trong công tác bảo vệ môi trường
như nâng cấp, cải tạo nhà xưởng, đầu tư đổi với trang thiết bị, công nghệ, áp dụng quy
phạm sản xuất tốt-GMP, quy phạm vệ sinh tốt-SSOP, chương trình quản lí chất lượng
HACCP, thực hiện các tiêu chuẩn ngành, quản lí vệ sinh an toàn thực phẩm trong cả
quá trình từ nuôi trồng thuỷ sản cho tới khâu tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên, do
phần lớn các xí nghiệp chế biến đã được xây dựng từ lâu, điều kiện tài chính hạn hẹp,
công nghệ và thiết bị xử lí lại quá đắt tiền cộng với công tác quản lí môi trường còn lỏng
lẻo nên kết quả là hiện chỉ có khoảng trên 40 cơ sở trong tổng số các cơ sở chế biến
thuỷ sản trong cả nước có hệ thống xử lí nước thải đáp ứng yêu cầu chất lượng nước
thải sau xử lí (Báo cáo Ðánh giá tác động môi trường trong chế biến thuỷ sản năm
2002, Vụ KHCN-Bộ Thuỷ sản).

Ngành Thuỷ sản của Việt Nam vẫn đang tiếp tục phát triển một cách nhanh chóng
nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của thị trường tiêu dùng cả trong nước và
trên thế giới. Tuy nhiên, để ngành có thể phát triển một cách bền vững và toàn diện thì

4
cũng cần có một quy hoạch phát triển toàn diện và mang tính bền vững. Trong đó, chắc
chắn yếu tố bảo vệ môi trường phải được đặt vào vị trí xứng đáng của nó. Có như vậy,
ngành Thuỷ sản mới vừa có thể tiếp tục thu được những thành tựu to lớn hơn nữa và
đồng thời vẫn đảm bảo được yếu tố phát triển bền vững.

Bài 3. KÝ SINH TRÙNG GÂY BỆNH CÓ NGUỒN GỐC THỦY SẢN


FIBOZOPA là dự án do Danida tài trợ nhằm hỗ trợ nghiên cứu và xây dựng năng lực
cho các cơ quan trong nước có liên quan với mục đích ngăn ngừa sự xuất hiện và lan
truyền của ký sinh trùng gây bệnh có nguồn gốc thủy sản.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Lương nông Thế giới (FAO) năm 2004 ước
tính rằng ký sinh trùng gây bệnh có nguồn gốc thủy sản(FZPs) đã lây nhiễm trên 18
triệu người, hơn nửa tỉ người đứng trước nguy cơ lây nhiễm đặc biệt là dân cư các
nước khu vực Đông Nam Á. FZPs cũng rất phổ biến tại Việt Nam, được coi như một
mối nguy đối với sức khỏe cộng đồng và an toàn thực phẩm trong các sản phẩm thủy
sản. Sự tăng trưởng nhanh chóng trong nuôi trồng thủy sản tại các nước Đông Nam
Á (trong đó sản lượng thủy sản nước ngọt của Việt Nam tăng 9.3 lần trong vài thập
kỷ qua) đã làm tăng sự liên quan về vai trò của nuôi trồng thủy sản trong sự lây
nhiễm FZPs.
Năm 2004 pha I của dự án nghiên cứu và xây dựng năng lực (FIBOZOPA) đã được
khởi động nhằm xây dựng năng lực đánh giá hiện trạng và nguy cơ của FZPs trong
ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam. Thực hiện dự án bao gồm các cơ quan của Việt
Nam và Đan Mạch, chú trọng vào 3 trở ngại chính trong vấn đề kiểm soát bền vững
FZPs tại Việt Nam.
1) Hạn chế về năng lực trong việc xác định FZPs
2) Thiếu thông tin về sự lan truyền và phân bố của FZPs;
3) Sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu có liên quan còn hạn chế.
Sau hai năm rưỡi tiến hành, dự án FIBOZOPA đã thực hiện hầu hết các noi dung đặt
ra nhằm hoàn tất mục tiêu trước mắt là “Mô tả những yếu tố chính của quá trình
nhiễm FZPs cho con người và thủy sản, đề xuất các biện pháp phòng ngừa và phổ
biến đến các bên liên quan trực tiếp”.
Các hoạt động xây dựng năng lực và nghiên cứu đa ngành đã và đang được thực hiện
bởi 12 cơ quan đối tác trực thuộc 5 Bộ khác nhau tại Việt Nam. Thông qua các kết
quả đào tạo và nghiên cứu, dự án FIBOZOPA đã thể hiện vai trò quan trọng trong
việc thiết lập nhận thức tầm quốc gia về sự xuất hiện, các mối nguy của sự lây
nhiễm FZPs trong người và cá, tầm quan trọng của việc quản lý các vấn đề trên ở
mức quốc gia và địa phương.
Dự án đã có các tài liệu cụ thể chứng minh sự lây lan của FZPs trong nuôi trồng thủy sản
tại Việt Nam, đặc biệt tại các hệ thống nuôi quảng canh/kết hợp và tại các trại giống (có
liên quan đặc biệt tới việc kiểm soát). 7 loại ký sinh trùng mới có nguồn gốc thủy sản tại
Việt Nam đã được phát hiện và các bằng chứng thuyết phục cho thấy vai trò quan trọng
của các động vật lưu trữ trong việc duy trì sự lây truyền FZPs trong tự nhiên, cho dù chưa
thấy xuất hiện sự lây nhiễm ở con người. Các nghiên cứu đang tiến hành xác định loài ốc,
đánh giá các yếu tố sinh thái quy định mật độ phân bố của chúng cũng như sự phát triển
của các thiết bị nghiên cứu ở mức phân tử.

Các cơ quan chịu trách nhiệm chính và đại diện liên hệ:
Giáo sư Anders Dalsgaard,
Viện Thú y
Khoa Khoa học đời sống, Đại học Copenhagen

5
Stigboejlen 4, DK-2000 Frederiksberg C , Đan Mạch
Tel: +45 35 282720, Fax: +45 35 282755
Email: ad@life.ku.dk

Bài 4.TÀI NGUYÊN BIỂN VÀ VI TẢO ĐỘC


Một nghiên cứu cơ bản về vi tảo độc để bảo vệ nguồn lợi sinh vật biển, ví dụ như hải
sản, ở Việt Nam.

Khoảng 100 loài vi tảo được biết đến là gây hại cho sức khỏe cộng đồng, nuôi trồng
thủy sản, các nguồn lợi sinh vật biển, nguồn nước uống, hay du lịch. Nguyên nhân là
do chất độc sinh học cực mạnh hoặc quần thể đông đúc của chúng.

Những đánh giá nhu cầu của quốc tế tiến hành định kỳ ghi rõ rằng: một thành tố cơ
bản trong năng lực quốc gia để giám sát và phát triển các kế hoạch làm giảm lượng
tảo có hại là phải có khả năng xác định các sinh vật là nguyên nhân gây nhiễm độc
và kiểm tra độc tố trong các sản phẩm từ hải sản.

Việc giám sát vi tảo độc có hại yêu cầu các kỹ năng phân loại vững chắc, các nhóm
nghiên cứu có năng lực có thể miêu tả các loài mới và đưa ra các đặc điểm nhận
dạng cơ bản và phát triển các công cụ mới giúp nhận dạng các loài.

Dự án ‘Nghiên cứu cơ bản về vi tảo độc để bảo vệ nguồn lợi sinh vật biển ở Việt
Nam: HABViet’ được bắt đầu vào năm 1998 và hiện tại đang ở giai đoạn thứ ba
(2005-2007).

HBAViet III sẽ tiếp tục củng cố, phát triển và tổng hợp kiến thức chuyên môn về
phân loại và sinh vật học của vi tảo biển có hại đã được hình thành trong các giai
đoạn I - II. Điều này cũng sẽ đảm bảo rằng các chương trình trong tương lai về quản
lý và giảm thiểu tảo có hại để kiểm soát an toàn cho nguồn hải sản nuôi trồng và tự
nhiên ở Việt Nam có thể được xây dựng trên một cơ sở khoa học hình thành trong
nước.

Giai đoạn III tập trung chủ yếu vào: Các nghiên cứu về đa dạng sinh học, hệ sinh
thái, độc học về các loại vi khuẩn cyano và sinh vật đáy hình roi có hại ở vùng nước
mặn và nước lợ; sự khác nhau theo không gian và thời gian ngắn hoặc trung hạn của
các cộng đồng phiêu sinh vật phyto để hiểu hơn về cơ chế sinh sôi phát triển; và tiếp
tục xây dựng giáo trình giảng dạy tại Đại học Huế.

HBAViet phối hợp với Chương trình Hỗ trợ Ngành Thủy sản do Danida tài trợ và với
SEAQIP, Dự án Cải thiện Chất lượng Xuất khẩu Thủy sản thuộc Trung tâm Giám định
và Đảm bảo Chất lượng Thủy sản Quốc gia (NAFIQCEN) của Bộ Thủy sản Việt Nam.

Thông tin liên hệ: Henrik Enevoldsen (PRP), Trung tâm Khoa học và Truyền
thông về Tảo Có hại IOC, Đại học Copenhaghen, Øster Farimagsgade 2D,
1353 Copenhagen K
Đan Mạch, Điện thoại: +45 33134446, Fax: +45 33134447, henrike@bi.ku.dk

Đối tác : Viện Hải dương học Hải Phòng và Viện Sinh vật học Nhiệt đới Thành
phố Hồ Chí Minh.
---------------------------------------------------------------------------------------------------
Bài 5. Bệnh nấm thủy my ở động vật thủy sản nước

6
ngọt
Tác nhân gây bệnh Gây bệnh là một số loài thuộc các giống:
Leptolegnia, Saprolegnia và Achlya; Họ Saprolegniaceae; Bộ
Saprolegniales.

Đây là các nấm dạng sợi, thuộc nhóm nấm bậc thấp, cấu tạo sợi nấm đa bào
nhưng không có các vách ngăn. Sợi nấm có chiều dài từ 3-5mm, đường kính
sợi nấm khoảng 20-42µm, có phân nhánh và chia làm 2 phần, một phần gốc
bám chắc vào cơ thể cá, phần ngọn tự do ngoài môi trường nước. Nấm có khả
năng sinh sản bằng nhiều hình thức khác nhau: Sinh sản dinh dưỡng bào tử,
sinh sản vô tính bằng túi bào tử kín, sinh sản hữu tính bằng tiếp hợp. Bào tử
nấm có tiên mao, có thể vận động trong nước nên khả năng lây lan bệnh rất
cao.
Dấu hiệu bệnh lý
Khi cá bị bệnh nhẹ rất khó phát hiện bằng mắt thường, khi phát hiện được
bằng mắt thường thì bệnh đã nặng. Đầu tiên, trên da cá xuất hiện các vùng
trắng xám, sau vài ngày tại đó mọc lên các sợi nấm mảnh và phát triển lên
thành từng búi nấm trắng như bông, 1 đầu sợi nấm bám vào da của cá, đầu
kia tự do ngoài môi trường nước. Nấm thủy mi có thể tiết ra chất làm tan rã
protein của tế bào tổ chức cơ thể cá, kích thích tế bào tổ chức tiết ra dịch
nhờn làm cản trở hô hấp và tuần hoàn. Cá bị bệnh nấm thủy mi có hiện tượng
bơi lội hỗn loạn, không bình thường, do bị kích thích ngứa ngáy, thích cọ sát
vào các vật thể trong nước, làm tróc vẩy trầy da tạo cơ hội thuận lợi cho vi
khuẩn và kí sinh trùng gây bệnh xâm nhập làm cá bị bệnh nặng hơn và tác
hại sẽ nghiêm trọng thêm.
Nấm thủy my còn có thể ký sinh làm ung trứng cá. Phần gốc của sợi nấm cắm
sâu vào màng trứng, phần ngoài của sợi nấm lơ lửng trong nước tủa ra xung
quanh, nhìn trứng cá giống bị nấm thủy my giống như hoa gạo. Trứng cá bị
nhiễm nấm thường chết (ung), với nhân trứng chuyển sang màu trắng đục.
Trong bể ấp, nấm thủy my thường phát triển đầu tiên ở các trứng ung do
không được thụ tinh, sau lây sang các trứng khỏe và làm trứng bị chết. Nếu
không có tác động kịp thời có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ cá bột, hoặc đôi khi
phải xả bỏ hoàn toàn.
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh nấm thủy my xảy ra ở nhiều loài cá ngọt và trứng cá, bệnh có thể gặp ở
khắp mọi nơi trên thế giới và trứng của chúng. Trong các loài cá nuôi phổ
biến ở Việt Nam, như cá chép, cá mè, cá trắm cỏ, cá trê, cá trôi và một số đối
tượng nuôi đặc sản khác như baba, ếch,... đều có thể bị nhiễm bệnh nấm
thủy my.
Nấm thủy my còn ký sinh gây chết trứng của các loài cá nước ngọt, đặc biệt
là trứng của cá chép (Cyprinus Carpio) chịu ảnh hưởng rất lớn của loại bệnh
này. Trong thực tế, nếu không có biện pháp thích hợp để phòng bệnh, thì hiệu
quả của các đợt sinh sản nhân tạo cá chép thường rất thấp do tác hại của
nấm thủy my. Bệnh hay phát triển ở các đàn cá bị thương tổn trên da do tác
động đánh bắt, vận chuyển hay do ký sinh trùng ký sinh.
Bệnh nấm thủy my thường phát triển vào mùa có nhiệt độ thấp, thích hợp ở
nhiệt độ nước từ 18-250C, đây là nhiệt độ vào mùa đông xuân, mùa thu ở
miền bắc và mùa mưa ở miền Nam. Tuy vậy, có một số loài thuộc giống
Achlya có thể phát triển tốt ở mức nhiệt độ cao hơn thế. Các mùa đông xuân

7
và mùa thu là những mùa cho cá sinh sản trong các trại cá giống nước ngọt ở
Việt Nam, do vậy bệnh này gây tác hại nhiều trong các ao nuôi vỗ cá bố mẹ,
các ao lưu giữ giống qua đông và các bể ấp trứng trong các trang trại cá
giống.
Bệnh phát triển thuận lợi trong các ao nuôi có mật độ cao, nước tù bẩn, hàm
lượng chất hữu cơ cao và trong các bể ấp có nhiều trứng bị ung. Nấm thường
phát triển đầu tiên ở các trứng bị ung, sau lây lan nhanh sang các trứng khỏe
và gây chết hàng loạt.
Phương pháp chẩn đoán
Khi cá nhiễm nấm, các dấu hiệu bên ngoài thể hiện khá rõ ràng. Tuy vậy, để
chẩn đoán chính xác cần lấy bệnh phẩm từ cá bệnh, kiểm tra dưới kính hiển
vi để phát hiện các sợi nấm dài 5-6mm, phân nhánh nhiều. Nếu muốn xác
định tên giống loài của nấm, cần nuôi cấy trên các môi trường nấm và quan
sát quá trình hình thành cơ quan sinh sản và và tạo bào tử của nấm để phân
loại.

8
Hình ảnh cá và trứng cá bị nhiễm nấm thủy my
A- Các hình thức sinh sản dinh dưỡng, sinh sản vô tính bằng động bào tử và
sinh sản hữu tính của giống nấm Saprolegnia; B- Các hình thức sinh sản dinh
dưỡng, sinh sản vô tính bằng động bào tử và sinh sản hữu tính của giống nấm
Achlya; C- Cá trê giống bị nhiễm bệnh nấm thủy my; D-Trứng cá bị nhiễm
nấm thủy my; E- Cá mè trắng bị bệnh nấm thủy my.
Phương pháp phòng và trị bệnh
- Phòng bệnh cho cá:
+ Thực hiện kỹ thuuật tẩy dọn ao trước mỗi vụ nuôi: vét bớt bùn đáy, phơi
nắng đáy ao, dùng vôi bột để sát trùng, diệt tạp và cải thiện độ pH.
+ Nuôi cá với mật độ thích hợp và tránh những tác động cơ học hoặc do ký
sinh trùng làm cá bị thương tổn, tạo điều kiện cho bào tử nấm xâm nhập và
gây bệnh.
+ Về mùa đông cần quan tâm tới vấn đề dinh dưỡng đầy đủ để cá chống rét
và duy trì sức đề kháng. Ngoài ra cần áp dụng các biện pháp để duy trì và ổn
định nhiệt độ trong ao bằng nhiều cách: chuyển cá vào ao có độ sâu lớn, phủ
bèo tây trên 2/3 mặt ao.
+ Định kỳ phun xuống ao thuốc phòng nấm cho cá: không dùng malachite
green (MG) 0,1-0,2ppm (vì MG bị cấm sử dụng bởi Liên minh châu Âu từ
tháng 10 năm 2003 và MG sẽ được thay thế bằng loại thuốc khác không nằm
trong danh mục cấm- LĐ )
+ Với đàn cá bố mẹ, kết hợp trong các lần kiểm tra cá, để dùng các loại thuốc
sát trùng bôi lên các vết thương tổn để phòng sự phát triển của nấm: Cồn iod
bão hòa, thuốc tím 1%, thuốc chống nấm khác.
- Phòng bệnh cho trứng cá:
+ Nuôi vỗ cá bố mẹ, nhất là cá chép theo đúng quy trình kỹ thuật để cá bố
mẹ có chất lượng tưyến sinh dục tốt. Cho cá đẻ với tỷ lệ đực cái phù hợp để tỷ
lệ thụ tinh là cao nhất, giảm lượng trứng ung do không thụ tinh trong bể ấp.
Chọn ngày cho cá đẻ có nhiệt độ thích hợp, không nên cho đẻ vào các ngày
có nhiệt độ thấp, thời gian phát triển phôi kéo dài tạo điều kiện cho nấm xâm
nhập và phát triển. Trong quá trình ấp trứng, phải thường xuyên vệ sinh
mạng tràn để nước lưu thông tốt.
+ Đối với trứng cá chép, cần lựa chọn giá thể và sát trùng giá thể bằng thuốc
sát trùng trước khi cho vào bể đẻ. Khi trứng đã bám vào giá thể, ngâm giá thể
có trứng trong NaCl 2%, MG 0,5 - 0,7ppm trong 10 -15 phút. 1-2lần/ ngày.
Cũng có thể áp dụng phương pháp ấp khô, hoặc cho cá chép thụ tinh nhân
tạo, khử dính và ấp bằng bình vây để hạn chế tác hại của nấm thủy my.
Trong bể ấp trứng cá chép, phun vào bể MG nồng độ 0,1- 0,15 ppm, sau 6 - 8
h lặp lại.

- Phương pháp trị bệnh:

+ Đối với cá bệnh, có thể dùng một số hóa chất để trị bệnh nấm thủy my:
Methylen 2-3ppm và lặp lại 2 lần trong 1 tuần.

+ Đối với trứng cá, khi bệnh mới xuất hiện, dùng thuốc kịp thời cũng chỉ cứu
được những trứng còn khỏe mạnh, phôi phát triển tốt.

Thường dùng các loại hóa chất sau: NaCl 2-3%, Methylen 2-3ppm, formol
1/500-1/1000 tắm cho trứng trong thời gian 5-15 phút, tắm 2 lần/ngày.

9
+ Năm 1997, Kishio Hatai và các cộng sự của ông đã thử nghiệm nước
Hydrogen Peroxide (nước oxy già-H2O2) ở tỷ lệ hoạt tính là 31%, để diệt nấm
ở trứng cá hồi, kết quả cho thấy ở nhiệt độ 130C, trong thời gian 60phút, H2O2
ở nồng độ d" 1000 µg/ml không gây hại cho trứng cá hồi. Đặc biệt khi dùng
H2O2 ở nồng độ 250-1000 µg/ ml có khả năng ức chế, kìm hãm và tiêu diệt sự
phát triển của nấm Saprolegnia và Achlya và hạn chế gần như hoàn toàn sự
nẩy mầm của các bào tử nấm. Khi dùng để trị bệnh nấm thủy my trên trứng
cá hồi ở nhiệt độ 130C, sau thời gian 60 phút cho kết quả rất khả quan, tỷ lệ
nở của các lô thí nghiệm có dùng thuốc với nồng độ 250, 500 và 1000 µg/ml
có tỷ lệ nở tương ứng là 37,4%, 46,6% và 67,6%, trong khi ở lô đối chứng, là
7,8%. Như vậy, H2O2 là một loại thuốc có tác dụng diệt nấm ở động vật thủy
sản, tuy vậy, tùy theo điều kiện nhiệt độ nước mà lựa chọn nồng độ cho thích
hợp.
-------------------------------------------------

Bài 6.Bảy biện pháp phòng bệnh cho cá


Cá là loài động vật sống ở dưới nước, do vậy người nuôi cá
muốn kiểm tra tốc độ sinh trưởng cũng như sức khoẻ của cá để
phát hiện bệnh dịch là rất khó khăn.

Vậy để nuôi cá đạt hiệu quả tốt, ngoài việc thực hiện đúng kỹ thuật nuôi, người
nuôi còn phải theo dõi hoạt động của cá để phát hiện bệnh dịch, kịp thời có biện
pháp điều trị thích hợp. Muốn phòng bệnh cho cá đạt kết quả tốt, cần thực hiện
đúng 7 nguyên tắc cơ bản.
1.Vệ sinh ao đìa sạch sẽ trước khi thả nuôi nhằm mục đích ngăn chặn sự lây
nhiễm từ đáy ao. Vét bùn tích tụ đáy ao do thức ăn dư thừa phân huỷ. Nên bón
vôi với lượng 10-15 kg/100m2. Phơi đáy 3-5 ngày nhằm tiêu diệt mầm b ệnh
nấm, rong, rêu... các ký chủ trung gian. Còn với ao bị nhiễm phèn thì không nên
phơi đáy ao. Chú ý lấy nước vào ao phải qua lưới lọc, nguồn nước không bị ô
nhiễm. Gây tảo, màu nước làm thức ăn tự nhiên cho cá.
2. Chọn giống tốt không mang mầm bệnh. Trước khi thả cá vào ao phải tắm
cá qua nước muối 200-300g/10 lít nước trong khoảng 10-15 phút.
3. Mật độ nuôi thích hợp sẽ hạn chế sự ô nhiễm trong quá trình nuôi và sự lây
lan bệnh dịch nên cá ít bị nhiễm bệnh. Mật độ thích hợp là 4-5 con /m2.
4. Chăm sóc cho ăn đúng KHKT hướng dẫn.
5. Quản lý chất lượng nước ao tốt.

10
6. Về mùa mưa nên đào rãnh và rải vôi quanh bờ ao để ngăn ngừa phèn,
với lượng 7-10kg/10m2.
7. Quản lý các yếu tố môi trường khác nhau (nhiệt độ, độ sâu, nước ao, hàm
lượng oxy hoà tan pH).
Ngoài ra trong quá trình nuôi còn sử dụng một số cây thuốc nam như lá
giác, lá xoan... từ 3-5 kg/100m2 để phòng bệnh cho cá.
Dưới đây là một số nguyên tắc chọn thuốc sử dụng trong NTTS:
- Chọn thuốc có tính diệt trùng cao và chọn lọc thập.
- Chọn thuốc có biên độ an toàn cao. Nếu hai loại thuốc có tác dụng như nhau
thì chọn thuốc có biện độ an toàn cao.
- Chọn thuốc rẽ tiền và dễ kiếm.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
-
Bài 7. NHIỄM BẨN THỰC PHẨM THỦY SẢN
DO Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ QUÁ TRÌNH CHẾ BIẾN
NHIỄM BẨN NGUYÊN LIỆU CHẾ BIẾN DO CÁC CHẤT KÍCH THÍCH SINH TRƯỞNG VÀ
CÁC CHẤT PHÒNG CHỮA BỆNH
Do môi trường ngày càng bị ô nhiễm, nên trong quá trình chăn nuôi và
trồng trọt trong những năm gần đây, người ta thường cho thêm các hocmon
kích thích sinh trưởng, các chất kháng sinh và các chất hóa học chống vi
khuẩn, chống các ký sinh đơn bào có khả năng gây bệnh cho động thực vật
nuôi. Những chất này, khi mới sử dụng có tác dụng phòng và chữa bệnh cũng
như kích thích sinh trưởng cho động thực vật nuôi, cải thiện tác động của sự
ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, khi đã sử dụng nhiều trong môi trường, thì sẽ gây nên hiệu
ứng không có lợi. Một mặt, chúng có những tác dụng không đặc hiệu kích
thích sinh trưởng, mặt khác chúng tạo ra các loại vi khuẩn nhờn với các chất
kháng sinh và các vi khuẩn kháng thuốc này sẽ chuyển từ đông thực vật nuôi
và môi trường sang người. Nhiều chất kích thích sinh trưởng và chất kháng
sinh được sử dụng đã theo dây chuyền thực phẩm cũng như nhiều con đường
khác xâm nhập vào cơ thể con người, gây hại cho con người.
Quá trình nuôi trồng các động thực vật thủy sản, người ta cũng sử
dụng vô số các chất kích thích sinh trưởng và chất kháng sinh để phòng và trị
bệnh cho các đối tượng nuôi trồng. Ở những ao nuôi tôm thâm canh, nhiều
loại hóa chất, dược liệu khác nhau để sát trùng, phòng trị bệnh, quản lý môi
trường hoặc chuyển đổi giới tính động vật thủy sản, được sử dụng phổ biến.
Bao gồm: thuốc sát trùng (Disinfectants), thuốc trừ dịch hại
(Pesticides), thuốc diệt tảo (Algicides), thuốc diệt ký sinh trùng
(Parasiticides), thuốc kháng sinh (Antibiotic). Các chất diệt tạp thường được
sử dụng là: Rotense, Saponin, Nicotine, Calcium hypochlorite. Ngoài ra, còn
dùng DDT, Endrin, Aldrin là những chất có độc tính cao để tiêu diệt các loài
thân mềm. Các chất diệt khuẩn như Formalin, Malachite lục được dùng rộng
rãi. Tuy nhiên, hàm lượng các chất nầy, nếu dư quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến
tôm và chất lượng hàng hóa cũng như gây độc cho người, cho động vật theo
dây chuyền thực phẩm.

11
Hiện nay, hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã có mặt trên 30 nước
và theo Trần Thị Dung (Bộ Thủy Sản, 10/05/2002) thì trong năm 2001, giá
trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 1,76 tỉ USD. Trong năm 2002, chỉ tiêu
về kim ngạch xuất khẩu hàng chế biến thủy sản là 2,1 tỉ USD đang là một
thách thức lớn đối với ngành chế biến thủy sản Việt Nam.
Một điều cần phải lưu ý là, hàng chế biến thủy sản hiện nay, đang có
nguy cơ không xuất được nhiều sang thị trường EU, thị trường Mỹ, thị trường
Canada. Theo Ðoàn Cung (Tạp chí thương mại số 23//2002), thì mặt hàng
thủy sản xuất khẩu vào thị trường EU giảm 30% so với năm 2001, là do dư
lượng thuốc kháng sinh có trong hàng hóa, vượt quá qui định của EU. Ðối với
thị trường Mỹ thì sau khi Bang Alabama phát hiện chất kháng sinh
Chloramphenicol, đã cấm bán 6 mặt hàng tôm của Trung Quốc thì tôm Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng lây.
Từ 15/07/2002, Hàn Quốc bắt đầu kiểm tra dư lượng thuốc kháng sinh
trong các lô hàng tôm sú và cua ghẹ nhập khẩu vào nước nầy. Canada thì
công bố áp dụng chế độ lấy mẫu phân tích Chloramphenicol đối với 100% lô
hàng thủy sản nhập khẩu từ Việt nam.
Chính vì vậy, ngày 22/01/2002, Bộ trưởng Bộ thủy sản đã ban hành
quyết định số 01/2002/QÐ-BTS về việc cấm sản xuất, lưu thông và sử dụng
một số hóa chất, kháng sinh trong sản xuất, kinh doanh thủy sản. Bao gồm
10 hóa chất sau:
1. Aristolochia và các chế phẩm của chúng.
2. Chloramphenicol
3. Chloroform
4. Chlorpromazine
5. Colchicine
6. Dapson
7. Dimetridazole
8. Metronidazole
9. Các nitrofuran (bao gồm cả furazolidone)
10. Ronidazole
Phạm vi cấm sử dụng là: thức ăn, thuốc thú y, hóa chất, chất xử lý môi
trường, chất tẩy rửa, kem bôi da tay trong tất cả các khâu sản xuất giống,
nuôi trồng thủy sản, dịch vụ nghề cá và bảo quản , chế biến thủy sản.

Bài 8. Độc tố thủy sản tự nhiên


1.Tetrodotoxin (Puffer Fish Poisoning)

• Tetrodotoxin (Puffer Fish Poisoning) là một loại độc tố thần kinh sinh ra do sự
cộng sinh giữa vi sinh vật lên cơ thể cá nóc.

12
• Nguồn gốc: tetrodotoxin tìm thấy trong da, gan, cơ thịt một số loài như: cá nóc,
bạch tuộc. Nguồn gốc sinh ra tetrodotoxin hiện nay còn chưa biết rõ. Người ta
cho rằng, tetrodotoxin sinh ra do sự ký sinh của một số loài phiêu sinh động vật
lên cơ thể thủy sản.
• Cấu trúc Octahydro-12-(hydroxymethyl)-2-imino-5,9:7,10a-dimethano- 10aH-
[1,3]dioxocino[6,5-d]pyrimidine-4,7,10,11,12-pentol
• LD_50 8-20 mg/kg lượng sử dụng

• Triệu chứng: Tê, ngứa môi và phía trong miệng, yếu, liệt cơ hoành và cơ ngực,
hạ huyết áp, triệu chứng xảy ra sau 10 phút và dẫn đến tử vong sau 30 phút.
• Cơ chế tác động: Vận chuyển ion thần kinh; tetrodotoxin ngăn cản sự tăng điện
áp gây ra bởi Na của tế bào thần kinh, sự truyền dẫn xung thần kinh.
Guanidinium của độc tố làm nghẽn mạch,vì gây ra sự thay thế Na trong việc phát
điện khi màng tế bào bị kích thích, và vật còn lại của phân tử máu trong mạch.
• Đặc tính: Trọng lượng phân tử: 319.27, C11H17N3O8
• Đường xâm nhập: Ăn phải, hít phải, dính trên da.

2.DSP (Diarrhetic Shellfish Poisoning)

Độc tố gây tiêu chảy là nhóm gồm nhiều độc tố, sinh ra do nhuyễn thể ăn phải tảo độc
thuộc nhóm dinoflagellates loài Dinophysis spp, Aurocentum, prorocentrumlima.

• LD_50: 192 µg.kg (i.p.) ở chuột.


• Triệu chứng: biểu hiện bệnh sau 30 phút cho đến vài giờ sau khi dùng phải
nhuyễn thể có chứa độc tố. Rối loạn đường ruột (tiêu chảy, nôn mửa, đau bụng)
nạn nhân có thể bình phục sau 3-4 ngày không cần điều trị. Chưa thấy tử vong
• Đường xâm nhập: Đường miệng

3.PSP (Paralytic Shellfish Poisoning)

Độc tố gây liệt cơ

• Mã số CAS 35554-08-6
• Nguồn gốc: Sinh ra bởi vi sinh vật sống cộng sinh trên một sinh vật khác, gồm
các tảo dinoflagellates Gonyaulax catenella và G. tamarensis; tìm thấy ở các loài
nhuyễn thể ở vùng Alaska, Saxidomus giganteus và các loài, Mytilus
californianeus. Độc tố có thể sản sinh riêng biệt bởi S. giganteus hay M.
californianeus.
• LD_50 10 µg.kg (ăn phải); 2.0 µg.kg (Ngửi)
• Triệu chứng: Tê, yếu cơ, khó thở, liệt cơ
• Cơ chế tác động: Ưc chế enzyme Cholinesterase
• Đặc tính Trọng lượng phân tử: 299.29 C10H17N7O4
• Xâm nhập: Ăn phải, ngửi phải.

4. NSP (Neurotoxic Shellfish Poisoning)

Độc tố thần kinh

13
• Nguồn gốc: Sinh ra bởi trùng roi đáy Gymnodinium breve, và loài trùng roi khủng
Ptychodiscus trevis là một loại dinoflagellate tìm thấy ở Vịnh Mexico và vùng
Caribbean. Mặc dù vậy, loài này cũng gây ra các vụ tương tự trên thế giới. Tìm
thấy trong suốt thời kỳ thủy triều đỏ từ cuối mùa hè cho đến mùa thu hàng năm
ngoài khơi Florida tiêu diệt lượng lớn cá và chim.
• Cấu trúc Có các đồng phân: Brevetoxins 1- 9 (PbTx1 -9). Trong đó: PbTx1 – 3 là
dạng chiếm ưu thế, PbTx1 có tác dụng mạnh nhất
• LD_50 180ηg.kg ở chuột, 4ng.ml ở cá.
• Triệu chứng: Giống độc tố PSP
• Cơ chế tác động: Giải phóng Na+ trong quá trình vận chuyển ion vào trong tế
bào. Không điều chỉnh được Na+ vào trong tế bào. Thay đổi đặc tính của tế bào,
Brevetoxin có thể nối với phần rời ở cổng h kênh Na+, gây ra sự giải phóng thần
kinh phá huỷ Acetylcholine gây co cơ.
• Đặc tính: Trọng lượng phân tử: 900
• Đường xâm nhập: Đường miệng

5.ASP (Amnestic Shellfish Poisoning)

Độc tố gây mất trí nhớ

• Nguồn gốc ASP, domoic acid sinh ra từ tảo đỏ Chondiria armuta, sản sinh từ tảo
đỏ Digenea simplex, Pseudo – nitzschia pungren f. multiseries. Domoic acid
thuộc nhóm protein gọi là kainoid, thuộc nhóm kích thích thần kinh hay độc tố
kích thích, gây trở ngại cho chu trình vận chuyển thần kinh ở não.
• Cấu trúc Domoic acid, kainic acid và các đồng phân: 5’ epi – DA,Isodomoic acid
A – H.
• LD_50 4 mg.kg ở chuột
• Triệu chứng: Gây buồn nôn và tiêu chảy sau 30 phút – 6 giờ, tác động dạ dày,
thần kinh gây hoa mắt, choáng, ngất có thể bình phục sau vài ngày. Nếu nồng
độ cao có thể phá huỷ tế bào thần kinh tạm thời hoặc vĩnh viễn gây mất trí nhớ,
có thể dẫn đến tử vong.
• Cơ chế tác động: Hoạt hóa thụ quan Kainate Glutamate, kết quả làm tăng Ca^2+
nội bào. Liên kết với NMDA và NMDA glutamate thụ cảm, điện áp phụ thuộc vào
kênh calcium. Độc tố thần kinh, DA làm tăng cao Ca^2+ và thương tổn tiếp theo
vùng não nơi đường dẫn glutaminergic có nồng độ tăng cao, đặc biệt trong vùng
CA1 và CA3, vùng chịu trách nhiệm về việc việc học và nhớ. Tuy vậy, liều lượng
gây mất trí nhớ thấp hơn mức gây độc. Mức tác dụng của việc ăn phải về thực
chất thấp hơn (35-70 mg.kg).
• Đặc tính: Trọng lượng phân tử: 311,14 C15H21NO6
• Đường xâm nhập: Ăn phải.

6. CFP (Ciguatera Fish Poisoning)

Ciguatera Fish Poisoning là loại độc tố gây độc phổ biến nhất. Có khoảng 400 loài cá có
thể nhiễm độc. Liều lượng gây hại là 1 ppb.

• Nguồn gốc: Sinh ra bởi loài trùng roi đáy Gambierdicus toxicus ký sinh trên cá.
• Cấu trúc: Gồm 2 độc tố chính là: Ciguatoxin và Maitotoxin
• LD_50 0,1g.kg Maitotoxin, 0,4g.kg Ciguatoxin ( chuột)

14
• Triệu chứng: Xuất hiện vài giờ sau khi ăn: nôn, tiêu chảy, ngứa, yếu, mệt kéo dài
2 – 3 ngày có khi đến 1 năm. Có thể gây vỡ mạch máu dẫn đến tử vong.
• Cơ chế tác động: Ciguatoxin tan trong dầu, ngăn cản kênh vận chuyển ion Na+
trong màng tế bào dẫn đến sự không cực của màng (depolarization) làm ngừng
xung điện thần kinh. Gây ra chứng tắt nghẽn thần kinh. Nạn nhân tử vong do tê
liệt hô hấp.
• Trọng lượng phân tử: ciguatoxin: 1.000; Maitotoxin: 3.400
• Đường xâm nhập: Đường miệng

------------------------------------------------------------------------------------------------

• SƯU TẦM : TRẦN THANH PHONG

15

You might also like