Professional Documents
Culture Documents
Ô NHIỄM NƯỚC VÀ
BIỆN PHÁP XỬ LÍ
GVHD: HÀ QUANG HẢI
NHÓM: 05MT1
DANH SÁCH NHÓM 05MT1
Sự đe dọa bùng phát dịch bệnh đánh dấu một thảm họa kế tiếp sau động đất,
lũ lụt, và bão, bởi vì những sự kiện này có thể gây thiệt hại đến cống rãnh
hoặc làm chúng quá tải, là kết quả của sự làm ô nhiễm nguồn nước.
VIỆT NAM
Hiện nay tỷ lệ người nhiễm giun sán, giun đũa, giun móc... ở Việt Nam được
xem là cao nhất thế giới. Những khảo sát gần đây cho thấy gần 100% trẻ em
từ 4 - 14 tuổi ở nông thôn nhiễm giun đũa, từ 50 - 80% nhiễm giun móc. Các
bệnh viêm da dị ứng, sán lá gan, lá lợn vẫn đang hoành hành… "Vấn nạn" ô
nhiễm nguồn nước và môi trường càng trở nên cấp bách hơn, khi các loại
bệnh xảy ra, đặc biệt là ỉa chảy, lỵ ngày càng có xu hướng gia tăng. Trong 6
tháng đầu năm 2003, dịch bệnh viêm não cấp của trẻ nhỏ dưới 15 tuổi lây
truyền qua đường tiêu hoá đã gây ra 323 ca mắc bệnh trong đó có 33 ca tử
vong.
Các bệnh lây lan qua đường nước:
Hiện ở Việt Nam chưa phát hiện loại bệnh nào có liên quan đến asen, nhưng
theo nhiều nghiên cứu của thế giới, người uống nước ô nhiễm asen lâu ngày
sẽ có triệu chứng đầu tiên như có các đốm sẫm màu trên thân thể hay đầu
các chi, đôi khi gây niêm mạc trên lưỡi hoặc sừng hoá trên bàn tay, bàn
chân. Asen có thể gây ung thư gan, phổi, bàng quang và thận, gây bệnh tim
mạch, cao huyết áp...
Trầm trọng hơn trong những năm gần đây xuất hiện các “Làng ung thư” do
ô nhiễm môi trường đặc biệt là sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm như ở Hà
Tây, Thạch Sơn, Nghệ An, Quảng Trị… do tiếp súc và sử dụng nguồn nước
và môi trường ô nhiễm trầm trọng trong thời gian dài.
Qua số liệu điều tra các hộ gia đình tại một số quận huyện ngoại thành trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh như Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh …, Các
gia đình đều sử dụng nước giếng khoan hoặc giếng đào nhưng phần lớn
không có hệ thống xử lý nước, nước bơm lên là dùng ăn uống trực tiếp, đây
chính là nguyên nhân dể mắc phải các chứng bệnh nêu trên.
-Kim loại nặng: như chì, thủy ngân, kẽm và catmi (dung làm hợp kim)
là những chất ô nhiễm nguy hiểm thường lắng đọng cùng với trầm tích dưới
đáy sông. Nếu những kim loai này được đưa vào vùng ngập lụt, chúng có thể
hòa tan vào thực vật, bao gồm cây trồng và động vật. Nếu chúng được phân
hủy và khi nước rút lại để cho nông nghiệp và con người sử dụng, gây ra ô
nhiễm kim loại nặng.
Kim loại nặng có Hg, Cd, Pb, As, Sb, Cr, Cu, Zn, Mn, v.v... thường không
tham gia hoặc ít tham gia vào quá trình sinh hoá của các thể sinh vật và
thường tích luỹ trong cơ thể chúng. Vì vậy, chúng là các nguyên tố độc hại
với sinh vật. Hiện tượng nước bị ô nhiễm kim loại nặng thường gặp trong
các lưu vực nước gần các khu công nghiệp, các thành phố lớn và khu vực
khai thác khoáng sản. Ô nhiễm kim loại nặng biểu hiện ở nồng độ cao của
các kim loại nặng trong nước. Trong một số trường hợp, xuất hiện hiện
tượng chết hàng loạt cá và thuỷ sinh vật.
Nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm kim loại nặng là quá trình đổ vào môi
trường nước nước thải công nghiệp và nước thải độc hại không xử lý hoặc
xử lý không đạt yêu cầu. Ô nhiễm nước bởi kim loại nặng có tác động tiêu
cực tới môi trường sống của sinh vật và con người. Kim loại nặng tích luỹ
theo chuỗi thức ăn thâm nhập và cơ thể người. Nước mặt bị ô nhiễm sẽ lan
truyền các chất ô nhiễm vào nước ngầm, vào đất và các thành phần môi
trường liên quan khác. Ðể hạn chế ô nhiễm nước, cần phải tăng cường biện
pháp xử lý nước thải công nghiệp, quản lý tốt vật nuôi trong môi trường có
nguy cơ bị ô nhiễm như nuôi cá, trồng rau bằng nguồn nước thải.
-Nguyên tố phóng xạ : có thể là nhân tố gây ô nhiễm rất nguy hiểm. Điều
quan tâm đặc biệt là có thể ảnh hưởng tới con người, động vật , thực vật lâu
dài dù chỉ liều lượng thấp.
Dầu tràn ở nơi được xem là nơi có môi trường sơ khai và giàu sinh thái của
thế giới, và sự cố này được biết như là sự cố tràn dầu tệ nhất trong lich sử
nước Mĩ. Nó lan rộng ra khu vực rộng lớn.
a)Trầm tích:
Trầm tích bao gồm đá và mảnh vỡ khoáng vật có đường kính từ hạt
cát nhỏ hơn 2mm đến đường kính hạt bùn, hạt sét và hạt keo. Thể tích nước
ô nhiễm của chúng ta rất lớn, trầm tích là tài nguyên thoát khỏi nơi đó. Nó
làm suy yếu tài nguyên đất, giảm chất lượng tài nguyên nước mà nó đi vào,
làm đất trồng cằn cỗi.
b) Ô nhiễm nhiệt:
Ô nhiễm nhiệt là sự nóng lên không tự nhiên của nước, chủ yếu bởi sự thải
ra nước nóng từ hoạt động công nghiệp và sản xuất năng lượng. Nước bị
nung nóng gây ra một số vấn đề. Thậm chí nước chỉ ấm hơn một chút cũng
chứa ít oxy hơn những vùng nước xung quanh đó. Nước ở trạng thái ấm hơn
gây ảnh hưởng nhiều hơn so với nước lạnh, làm giảm sự phát triển của các
sinh vật kém thích nghi bao gồm thực vật trong nước và cá. Mặt khác, nước
ấm có thể thu hút và tạo điều kiện sống tốt hơn cho các loài cá, đặc biệt là
trong mùa đông
3. Ô nhiễm nước mặt và biện pháp xử lí:
Sự ô nhiễm nước mặt xảy ra khi có quá nhiều dòng chất có hại trong nước,
nhiều hơn khả năng của hệ sinh thái cho phép, để sử dụng hoặc di chuyển
chất ô nhiễm, hoặc biến đổi nó thành dạng ít có hại hơn.
Nước ô nhiễm được phát tán từ nguồn tập trung (ô nhiễm điểm) hoặc được
khuếch tán từ các nguồn không tập trung (ô nhiễm diện).
Các nguồn gây ô nhiễm tập trung:
Các nguồn gây ô nhiễm rời rạc và hạn hẹp, như là các ống dẫn đổ ra sông
suối từ các khu công nghiệp hoặc đô thị. Thông thường, nguồn gây ô nhiễm
từ khu công nghiệp được kiểm soát trong khâu xử lí và được điều chỉnh
bằng giấy phép. Trong các thành phố lâu đời thuộc vùng đông bắc và hồ lớn
của Mĩ, phần lớn các nguồn gây ô nhiễm được đổ ra từ các hệ thống cống
kết hợp hệ thống dòng chảy của nước lũ và rác từ các khu đô thị. Trong lúc
mưa lớn, dòng nước chảy mạnh trong thành phố vượt quá sức chứa của hệ
thống cống làm cho nước dâng lên và tràn ra ngoài, làm phát tán chất ô
nhiễm lên tầng nước mặt.
Một nguyên tắc quan trọng của việc hạn chế chất ô nhiễm là nước từ các
nguồn khác nhau thì không nên hòa lẫn vào nhau. Chúng phải được tách
nhau ra theo các mục đích đã định trước. Ví dụ, dòng chất thải nông nghiệp
có chứa nhiều nitrat và thuốc trừ sâu nên được giữ xa dòng nước chảy phục
vụ cho nhu cầu sử dụng ở đô thị. Đây là vấn đề quan trọng nhất của hệ thống
phân phối nước trên diện tích rộng (ví dụ, ở California) cung cấp cho nhiều
người sử dụng khác nhau theo các yêu cầu chất lượng nước khác nhau.
Các nguồn gây ô nhiễm không tập trung:
Các nguồn gây ô nhiễm không tập trung khuếch tán và không liên tục.
Chúng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như việc sử dụng đất, khí hậu, thủy hệ,
địa hình, thực vật tự nhiên, và địa chất. Chất ô nhiễm từ nguồn không tập
trung hay dòng chảy ô nhiễm rất khó kiểm soát. Những nguồn gây ô nhiễm
không tập trung phổ biến ở thành phố là từ những con đường, các cánh đồng
có chứa các loại chất ô nhiễm, và từ các kim loại nặng, các chất hóa học, và
trầm tích. Khi chúng ta rửa xe trên đường lái xe vào nhà, chất tẩy rửa và dầu
trên bề mặt sẽ chảy xuống cống đổ ra kênh rạch, góp phần gây ô nhiễm dòng
chảy. dòng chảy bị ô nhiễm còn được tạo ra khi phun thuốc trừ sâu cho cây
trồng, sau đó dòng chảy chảy vào sông suối hoặc thâm nhập vào nước mặt
làm nhiễm bẩn nước ngầm. Tương tự, nước mưa và dòng chảy từ nhà máy
và bãi kho là những nguồn ô nhiễm không tập trung. Những nguồn ô nhiễm
không tập trung ở ngoại thành thì liên quan tới nông nghiệp, lâm nghiệp và
khai thác khoáng sản.
Biện pháp hạn chế ô nhiễm nước mặt:
Một thủ thách lớn ở Mĩ là giảm ô nhiễm nước, và bằng cách ấy để tăng chất
lượng nguồn nước. Sự thật là con người cần phải có được điều cơ bản là
phải có nước sạch để uống, tắm rửa, và dùng trong nông nghệp và công
nghiệp. Có thời điểm mà chất lượng nước gần trung tâm thành phố còn tệ
hơn ngày nay, ví dụ, năm 1969, sông Cuyahoga chảy qua Cleveland,
Ohio,tình cờ bị hỏa hoạn tấn công. Sự việc đã tác động tới thành phố và
chính quyền, đã đáp lại bằng việc thong qua luật giảm phát thải chất ô nhiễm
vào sông. Ngày nay sông đã sạch hơn và được sử dụng cho nhiều mục đích.
Trong những năm gần đây, những câu chuyện thành công trong đó có
Cuyahoga rất đáng khuyến khích. Có lẽ trường hợp được biết đến nhiều nhất
là sông Detroi. Vào những năm 50 gần 60, sông Detroi gần như chết, chất
thải, nước cống, chất hóa học, bao bì, và rác thành phố đổ vào. Hàng tấn
photpho đổ vào mỗi ngày, và lớp dầu lên đến 0.5 cm. sinh vật dưới nước bị
đe dọa, hàng ngàn con vịt và cá chết. Ngày nay, sông Detroi không còn như
xưa nữa, đã được kiểm soát ô nhiễm công ngiệp và ô nhiễm thành phố. Chất
thải dầu mỡ đã giảm được 82%, photpho và nước cống đã giảm đáng kể. Cá
một lần nữa được tìm thấy ở Detroi, và bờ sông nước luôn sạch sẽ. Những
câu chuyện thành công khác như là sông Hudson ở Newyork, sông
Pemigewasset ở New Hampshire, sông French Broad ở bắc Carolina và sông
Savannah ở Mĩ. Những ví dụ này là bằng chứng cho thấy hiệu quả của việc
giảm ô nhiễm nước.
Một hệ thống cách tân đã sử dụng vật liệu tự nhiên của trái đất để lọc nước
cho người tiêu dùng được áp dụng ở cộng đồng Michigan (tiểu bang Mĩ) ở
bờ hồ Michigan. Thành phố của Ludington có dân số chừng 10000 người, sử
dụng đất và cát dưới đáy bờ hồ để lọc và xử lí nước hồ cho việc sử dụng.
Một hệ thống lấy nước được chon vùi trong cát và đá, sâu 4-5m dưới đáy hồ,
nơi mà mực nước sâu tối thiểu là 5m. Nước được bơm ra ngoài sử dụng, và
trong một vài trường hợp là chỉ dùng thêm biện pháp xử lí bằng clo. Chúng
ta sẽ nói về khả năng lọc nước của đá và đất ở phần sau.
Sự acid hóa nước(từ mỏ):
Sự acid hóa nước từ các khu mỏ không chỉ nói đến sự acid hóa, mà nước có
tính acid chảy từ mỏ. Đặc biệt, sự acid hóa nước này có nồng độ H2S04 cao
quá mức cho phép, gây ô nhiễm nguồn tài nguyên nước mặt từ các khu vực
khai mỏ. Các acid này được hình thành do quá trình phong hóa đơn giản: khi
sulfua kết hợp với than đá, hoặc kim loai (chì, kẽm, đồng), tiếp xúc với nước
giàu oxi gần bề mặt thì bị oxi hóa. Ví dụ, quặng pyrite FeS2 thường tác dụng
với than đá, sự oxi hóa quặng cùng với sự tham gia của nước hình thành
H2SO4. N, nguồn gốc của nước là nước mặt, thấm vào trong mỏ qua các
mạch nước ngầm phí trên di chuyển trong mỏ.
Tương tự, nước mặt và tầng nước nông , tiếp xúc với các chất khai khoáng
(chất thải mỏ) phản úng với sulfua làm cho nước giàu tính acid.
Khi nước với H2SO4 quá mức cho phép di chuyển ra khỏi khu vực khai mỏ,
nó có thể là nguyên nhân gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm. Nếu nước có
tính acid cao chảy trong các sông, suối hay hồ tự nhiên có thể gây tổn thất
sinnh học, bởi vì những chất độc vào trong sinh vật hay động vật thủy hệ. Sự
acid hóa nước này đang là một vấn đề quan trọng của nhiều khu vực ở Mĩ,
bao gồm những phần của Wyoming, Illinois, Indiana, Kentucky, Tennessee,
Missouri, Kansas, Oklahoma, West Virginia, Maryland, Pennsylvania, Ohio
và Colorado. Đây là vấn đề nghiêm trọng vì hàng ngàn km sông suối đã bị ô
nhiễm.
Khu vực Tar Creek của Oklahoma từng được coi là nơi có chất thải nguy
hiểm, được đo bởi cục bảo vệ môi trường (EPA). Nhánh sông của khu vực
từng bị ô nhiễm bởi nước có nồng độ acid cao từ các khu mỏ bỏ hoang ở khu
mỏ Tri-State, quận Akansas, Oklahama và Missouri. Những trầm tích sulfua
xúc tác với cả chì và kẽm từ khi bắt đầu khai mỏ từ sau thế kỉ 19 và kết thúc
vào những năm 60 thế kỉ 19. Trong suốt quá trình hoạt động của khu mỏ, lớp
dưới bề mặt luôn được giữ khô bởi nước thấm phía dưới luôn được bơm ra
ngoài. Sau khi ra khỏi mỏ, tầng nước ngầm lại ngấm vào tự nhiên, với số
lượng nhiều tạo thành lũ chảy tràn vào gần các con sông , suối, gây ô nhiễm
chúng.
Tác động hóa học của HĐKS tới nguồn nước
Song song với những tác động cơ học đến nguồn nước nói chung và nguồn
nước nông nghiệp nói riêng, những tác động hóa học đối với nguồn nước
cũng rất đáng kể.
Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan nổ
sẽ thúc đẩy các quá trình hòa tan, rửa lũa các thành phần chứa trong quặng
và đất đá, quá trình tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước, chất thải
rắn, bụi thải không được quản lý, xử lý chặt chẽ, tham gia vào thành phần
nước mưa, nước chảy tràn cung cấp cho nguồn nước tự nhiên,... là những tác
động hóa học làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần hoá học của nguồn
nước xung quanh các khu mỏ.
Mức độ ô nhiễm hóa học các nguồn nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
đặc điểm thân quặng, thành phần thạch học và độ bền vững của đất đá chứa
quặng, phương pháp và trình độ công nghệ khai thác, chế biến quặng, biện
pháp quản lý và xử lý chất thải,....
Nước ở các mỏ than thường có hàm lượng cao các ion kim loại nặng, á kim,
các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ... cao hơn so với nước mặt và
nước biển khu vực đối chứng và cao hơn TCVN từ 1-3 lần. Đặc biệt là khu
vực từ Quảng Yên đến Cửa Ông. Sự biến đổi chất lượng nguồn nước, tải
lượng một số chất thải trong nước tháo khô các mỏ than .
Trong các mỏ thiếc sa khoáng, biểu hiện chính của ô nhiễm hoá học là làm
đục nước bởi bùn - sét lơ lửng, tăng hàm lượng các ion sắt và một số khoáng
vật nặng.
Việc khai thác và tuyển quặng vàng phải dùng đến thuốc tuyển chứa Hg,
CN-... ngoài ra, các nguyên tố kim loại nặng cộng sinh như asen, antimoan,
các loại quặng sunfua, có thể rửa lũa hòa tan vào nước. Vì vậy, ô nhiễm hóa
học do khai thác và tuyển quặng vàng là nguy cơ đáng lo ngại đối với nguồn
nước sinh hoạt và nước nông nghiệp. Tại những khu vực này, nước thường
bị nhiễm bẩn bởi bùn sét và một số kim loại nặng và hợp chất độc như CN-,
Hg, As, Pb v.v... mà nguyên nhân chính là do nước thải, chất thải rắn không
được xử lý đổ bừa bãi ra khai trường và khu vực tuyển.
Các giải pháp khoa học và công nghệ giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi
trường nước
Từ việc đánh giá mức độ ô nhiễm và nguyên nhân gây ra các sự cố môi
trường đối với môi trường nước trong các khu HĐKS nêu trên, có thể nhận
thấy rằng nguồn gây ô nhiễm nước ở các khu mỏ gồm: Nước mưa chảy tràn
qua khu mỏ, nước ngấm từ các bãi thải rắn nước tháo khô mỏ nước thải do
tuyển khoáng. Các mỏ cần có hệ thống xử lý các nguồn gây ô nhiễm nói trên
theo các sơ đồ công nghệ như sau:
- Đối với nguồn nước chảy tràn qua khu mỏ và nước ngầm từ bãi chứa
chất thải rắn: Xung quanh khu mỏ và bãi chứa chất thải rắn cần xây
dựng hệ thống mương thu gom nước dẫn về hồ chứa nước. Tại đây
nước thải được xử lý bằng phương pháp hóa học (thông thường dùng
bột vôi để trung hòa), sau đó kiểm tra độ pH và một số ion kim loại đạt
tiêu chuẩn cho phép mới được đổ thải ra môi trường.
- Đối với nước tháo khô mỏ: Sau khi bơm tập trung vào hồ chứa để láng
sơ bộ, một phần được bơm trở lại phục vụ sản xuất của mỏ (tuyển
quặng, tưới ẩm,...), phần còn lại bơm lên bể xử lý bằng phương pháp
hóa học và sinh học làm nguồn nước cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt
của khu mỏ.
- Đối với nước thải sau khi tuyển quặng: Nước từ các xưởng tuyển được
thu gom lại, sau đó được lắng lọc cơ học và hóa học trong trường hợp
cần thiết, bơm tuần hoàn trở lại cung cấp cho hệ thống tuyển khoáng.
Bằng các biện pháp sử dụng tuần hoàn các nguồn nước thải từ quá trình
HĐKS nêu trên, hầu hết các nguồn thải có khả năng gây ô nhiễm môi trường
nước trong khu mỏ đều được kiểm soát, vì vậy sẽ giảm thiểu được ô nhiễm
môi trường nước trong khu mỏ và khu vực lân cận.
Nằm tại khu vực chính giữa đất nước Trung Quốc, dòng sông Huai dài
1978 km được coi như nơi ô nhiễm nhất của nước này do các chất thải
công nghiệp, động vật và nông nghiệp, Mức độ mắc các bệnh cao bất thường
của cộng đồng dân cư sống gần lưu vực sông đã khiến chính phủ phải xếp
nguồn nước của con sông ở mức độ ô nhiễm độc hại nhất. Tuy nhiên, chính
phủ Trung Quốc hiện đang cùng với Ngân hàng thế giới nỗ lực giải quyết
tình trạng này.
Cơn bão Katrina đã gây thiệt hại lớn nhất về tiền của cũng như sinh mạng
trong lịch sử nước Mỹ và cũng đã gây ra hàng loạt những trận lụt ở New
Zealand, điều đó kéo theo sự ô nhiễm trên diện rộng do kim loại nặng có lẫn
trong đất và cặn dầu ở hai nước này. Những nỗ lực khắc phục ô nhiễm đang
được các nhà chức trách liên đoàn và quốc gia nghiên cứu cùng với kế hoạch
xây dựng lại các thành phố bị tàn phá.
Năm 2000, vụ tai nạn hầm mỏ xảy ra tai công ty Aurul (Rumani) đã thải
ra 50-100 tấn xianu và kim loại nặng (như đồng) vào dòng sông gần Baia
Mare (thuộc vùng Đông- Bắc). Sự nhiễm độc này đã khiến các loài thuỷ sản
ở đây chết hàng loạt, tổn hại đến hệ thực vật và làm bẩn nguồn nước sạch,
ảnh hưởng đến cuộc sống của 2,5 triệu người.
Năm 1984, Bhopal (Ấn Độ) là nơi đã xảy ra một tai nạn kinh hoàng khi nhà
máy sản xuất thuốc trừ sâu Union Carbide India. thải ra ngoài môi trường 40
tấn izoxianat và metila. Theo viện Blacksmith, chính lượng khí độc hại này
đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ của hàng trăm nghìn người dân
và khiến 15.000 người tử vong. Thật đáng lo ngại khi vấn đề ô nhiễm ở khu
vực này vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Người ta nghi ngờ rằng
các mạch nước ngầm đã bị nhiễm độc.
4. Ô nhiễm nước ngầm và biện pháp xử lí:
Khoảng một nửa dân số Mĩ phụ thuộc nước ngầm, vì đây chính là nguồn
nước uống của họ. Chúng ta quan tâm và nói đến lớp đất đá giữ nước của
nguyên tố hóa học, hợp chất,vi sinh vật mà không có trong tự nhiên. Mối
nguy hiểm hiện diện, khi các tác nhân gây ô nhiễm phụ thuộc vào các nhân
tố, bao gồm dung lượng của chất ô nhiễm đưa vào, nơi tập trung chất độc
của tác nhân ô nhiễm, mức độ ảnh hưởng tới con người và sinh vật.
Hầu hết chúng ta đều nghĩ nước ngầm sạch và an toàn để uống, nhưng sự
thật nó rất dễ bị ô nhiễm bởi các nguồn khác. Thêm vào đó, nhân tố gây ô
nhiễm thậm chí rất độc, có thể khó nhận biết. Một trường hợp được biết đến
nhiều là Love Canal, gần Niagara Fall, New York, nơi chon lấp chất thải
chất hóa học gây ra ô nhiễm nặng nề và ảnh hưởng đến sức khỏe.
Không may là Love Canal không phải là trườn hợp riêng biệt. Những chất
hóa học nguy hiểm được tìm thấy hay nghi ngờ có trong nước ngầm ở khắp
nơi trên thế giới, cả nước đã phát triển và đang phát triển. Những nước phát
triển công nghiệp sản xuất hàng ngàn chất hóa học, nhiều loại, đặc biệt là
thuốc trừ sâu, được xuất khẩu tới các nước đang phát triển, nơi mà họ bảo vệ
cây trồng, rồi cuối cùng lại được nhập khẩu trở về các nước công nghiệp, kết
thúc một vòng tuần hoàn. Ví dụ, Coast Rica nhập khẩu thuốc trừ sâu, bao
gồm DDT, aldrin, endrin, thuốc sát trùng, những chất này bị cấm và xử phạt
rất nặng ở Mĩ. Vì thế, những chất này làm ô nhiễm nước mặt và nước ngầm
ở Coasta Rica, và một số nơi mà người ta vẫn còn sử dụng, và tập trung
phần còn dư lại trở về với chúng ta trong những nông phẩm mà chúng ta
nhập khẩu.
Nước ngầm là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu ở nhiều quốc gia và
vùng dân cư trên thế giới. Do vậy, ô nhiễm nước ngầm có ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng môi trường sống của con người. Các tác nhân gây ô nhiễm và
suy thoái nước ngầm bao gồm:
• Các tác nhân tự nhiên như nhiễm mặn, nhiễm phèn, hàm lượng Fe,
Mn và một số kim loại khác.
• Các tác nhân nhân tạo như nồng độ kim loại nặng cao, hàm lượng
NO-3, NO-2, NH4+, PO4 v.v... vượt tiêu chuẩn cho phép, ô nhiễm bởi
vi sinh vật.
Suy thoái trữ lượng nước ngầm biểu hiện bởi giảm công suất khai thác, hạ
thấp mực nước ngầm, lún đất.
Ngày nay, tình trạng ô nhiễm và suy thoái nước ngầm đang phổ biến ở các
khu vực đô thị và các thành phố lớn trên thế giới. Ðể hạn chế tác động ô
nhiễm và suy thoái nước ngầm cần phải tiến hành đồng bộ các công tác điều
tra, thăm dò trữ lượng và chất lượng nguồn nước ngầm, xử lý nước thải và
chống ô nhiễm các nguồn nước mặt, quan trắc thường xuyên trữ lượng và
chất lượng nước ngầm.
Hình minh họa: Các nguồn gây ô nhiễm nước ngầm
1. Nhiệt độ: Nhiệt độ của nước ổn định và phụ thuộc vào điều kiện môi
trường. Nhiệt độ của nước ảnh hưởng đến quá trình xử lý và các nhu cầu tiêu
thụ.
2. Độ màu: Màu của nước do các chất lơ lửng trong nước tạo nên, các chất
lơ lửng này có thể là thực vật hoặc các chất hữu cơ dưới dạng keo. Độ màu
không gây độc hại đến sức khỏe.
3. Độ đục: Độ đục để đánh giá sự có mặt của các chất lơ lửng trong nước
ảnh hưởng đến độ truyền ánh sáng. Độ đục không gây độc hại đến sức khỏe
nhưng ảnh hưởng đến quá trình lọc và khử trùng nước.
4. Mùi vị: Các chất khí, khoáng và một số hóa chất hòa tan trong nước làm
cho nước có mùi. Các mùi vị thường gặp: mùi đất, mùi tanh, mùi thúi, mùi
hóa học đặc trưng như Clo, amoniac, vị chát, mặn, chua…
5. Cặn: Gồm có cặn lơ lửng và cặn hòa tan (vô cơ và hữu cơ), cặn không gây
độc hại đến sức khỏe nhưng ảnh hưởng đến quá trình xử lý nước.
6. Tính phóng xạ: Nước ngầm thường nhiễm các chất phóng xạ tự nhiên,
thường nước này vô hại đôi khi có thể dùng để chữa bệnh. Nhưng nếu chỉ
tiêu này bị nhiễm bởi các chất phóng xạ từ nước thải, không khí, từ các chất
độc hại vượt quá giới hạn cho phép thì rất nguy hiểm.
1. Độ pH: Phản ánh tính axit hay tính kiềm của nước. pH ảnh hưởng đến các
hoạt động sinh học trong nước, tính ăn mòn, tính hòa tan.
2. Độ axít: Trong nước thiên nhiên độ axít là do sự có mặt của CO2, CO2
này hấp thụ từ khí quyển hoặc từ quá trình oxy hóa các chất hữu cơ trong
nước thải công nghiệp (chiếm đa số) và nước phèn. Độ axít không gây độc
hại đến sức khỏe con người nhưng ảnh hưởng đến quá trình xử lý nước cấp
và nước thải.
3. Độ kiềm: do 3 ion chính HCO3-, OH-, CO32-làm cho nước có độ kiềm.
Nước có độ kiềm cao làm cho người sử dụng nước cảm thấy khó chịu trong
người. Độ kiềm ảnh hưởng đến quá trình keo tụ, khử sắt, làm mềm nước,
kiểm tra độ ăn mòn, khả năng đệm của nước thải, của bùn.
4. Độ cứng: Độ cứng của nước biểu thị hàm lượng các ion Ca2+ và Mg2+.
Độ cứng không gây độc hại đến sức khỏe con người, nhưng dùng nước có
độ cứng cao sẽ tiêu hao nhiều xà bông khi giặt đồ, tăng độ ăn mòn đối với
các thiết bị trao đổi nhiệt, nồi hơi tạo nên cặn bám, khe nứt gây nổ nồi hơi.
5. Clorua (Cl-): Clorua trong nước biểu thị độ mặn. Clorua không gây độc
hại đến sức khỏe con người nhưng dùng lâu sẽ gây nên bệnh thận.
6. Sunfat (SO42-): Sunfat tiêu biểu cho nguồn nước bị nhiễm phèn hoặc
nước có nguồn gốc khoáng chất hoặc hữu cơ. Sunfat gây độc hại đến sức
khỏe con người vì sunfat có tính nhuận tràng. Nước có Sunfat cao sẽ có vị
chát, uống vào sẽ gây bệnh tiêu chảy.
7. Sắt (Fe2+, Fe3+): Sắt tồn tại trong nước dạng sắt 3 (dạng keo hữu cơ,
huyền phù), dạng sắt 2 (hòa tan). Sắt cao tuy không gây độc hại đến sức
khỏe con người nhưng nước sẽ có mùi tanh khó chịu và nổi váng bề mặt,
làm vàng quần áo khi giặt, hư hỏng các sản phẩm ngành dệt, giấy, phim ảnh,
đồ hộp, đóng cặn trong đường ống và các thiết bị khác làm tắc nghẽn các
ống dẫn nước.
8. Mangan (Mg2+): Mangan có trong nước với hàm lượng thấp hơn sắt
nhưng cũng gây nhiều trở ngại giống như sắt.
9. Ôxy hòa tan (DO): Ôxy hòa tan trong nước phụ thuộc vào các yếu tố:
nhiệt độ, áp suất và đặc tính của nguồn nước (thành phần hóa học, vi sinh,
thủy sinh). Xác định lượng ôxy hòa tan là phương tiện để kiểm soát ô nhiễm
và kiểm tra hiệu quả xử lý.
10. Nhu cầu ôxy hóa học (COD): Là lượng ôxy cần thiết để ôxy hóa hết các
hợp chất hữu cơ có trong nước. Nước nhiễm bẩn sẽ có độ ôxy hóa cao phải
tốn nhiều hóa chất cho công tác khử trùng.
11. Nhu cầu Ôxy sinh hóa (BOD): Là lượng ôxy cần thiết để vi khuẩn sử
dụng phân hủy chất hữu cơ dưới điều kiện hiếu khí. Chỉ tiêu này để đánh giá
khả năng tự làm sạch của nguồn nước. BOD càng cao chứng tỏ mức độ ô
nhiễm càng nặng.
12. Florua (F-): Trong thiên nhiên, các hợp chất của florua khá bền vững, ít
bị phân hủy bởi quá trình làm sạch. Nếu thường xuyên dùng nước có florua
lớn hơn 1,3mg/l hoặc nhỏ hơn 0,7mg/l đều dễ mắc bệnh hư hại men răng.
13. Dihydro sunfua (H2S): Khí này là sản phẩm của quá trình phân hủy các
chất hữu cơ, rác thải. Khí này làm nước có mùi trứng thối khó chịu, với nồng
độ cao, nó có tính ăn mòn vật liệu.
14. Các hợp chất của axít Silicic (Si): trong nước nếu có các hợp chất axit
silicic sẽ rất nguy hiểm do cặn silicát lắng động trên thành nồi, thành ống
làm giảm khả năng truyền nhiệt và gây tắc ống.
15. Phốt phát (PO42-): Có phốt phát vô cơ và phốt phát hũu cơ. Trong môi
trường tự nhiên, phốt phát hữu cơ hầu hết là những chất mang độc tính mạnh
dưới dạng thuốc diệt côn trùng, các vũ khí hóa học. Phốt phát làm hóa chất
bón cây, chất kích thích tăng trưởng, chất tạo bọt trong bột giặt, chất làm
mềm nước, kích thích tăng trưởng nhiều loại vi sinh vật, phiêu sinh vật,
tảo… phốt phát gây nhiều tác động trong việc bảo vệ môi trừơng.
16. Nitơ (N) và các hợp chất chứa Nitơ (NH4+, NO2-, NO3-): Sự phân hủy
của rác thải, các chất hữu cơ có trong nước thải sinh hoạt, nước thải công
nghiệp tạo thành các sản phẩm amoniac, nitrít, nitrát. Sự hiện diện của các
hợp chất này là chất chỉ thị để nhận biết trạng thái nhiễm bẩn của nguồn
nước.
17. Kim loại nặng: có mặt lợi và mặt hại:
- Mặt lợi: với hàm lượng hữu ích, giúp duy trì và điều hòa những hoạt động
của cơ thể.
- Mặt hại: với hàm lượng cao gây khó chịu hoặc dẫn đến ngộ độc.
18. Các thành phần độc hại khác: Là thành phần các chất mà chỉ tồn tại trong
nước với một hàm lượng rất nhỏ cũng đủ gây độc hại đến tính mạng con
người, thậm chí gây tử vong, đó là các chất: Asen (As), Berili (Be), Cadimi
(Cd), Xyanua (CN), Crôm (Cr), Thủy ngân (Hg), Niken (Ni), Chì (Pb),
Antimoan (Sb), Selen (Se), Vanadi (V). Một vài gam thủy ngân hoặc Cadimi
có thể gây chết người, với hàm lượng nhỏ hơn chúng tích lũy trong các bộ
phận của cơ thể cho tới lúc đủ hàm lượng gây ngộ độc. Chì tích lũy trong
xương, Cadimi tích lũy trong thận và gan, thủy ngân tích lũy trong các tế
bào não.
19. Chất béo và dầu mỡ: Chất béo và dầu mỡ dễ phân tán và khuyết tán
rộng. Chất béo đưa vào nguồn nước từ các nguồn nước thải, các lò sát sinh,
công nghiệp sản xuất dầu ăn, lọc dầu, chế biến thực phẩm… Chất béo ngăn
sự hòa tan ôxy vào nước, giết các vi sinh vật cần thiết cho việc tự làm sạch
nguồn nước.
20. Thuốc diệt cỏ và trừ sâu: Thuốc diệt cỏ và trừ sâu ngoài việc gây ô
nhiễm vùng canh tác còn có khả năng lan rộng theo dòng chảy, gây ra các
tổn thương trên hệ thần kinh nếu tiếp xúc lâu ngày, chúng cũng có thể tích tụ
trong cơ thể gây ra những biến đổi gen hoặc các bệnh nguy hiểm.
21. Tổng số vi trùng: Chỉ tiêu này để đánh giá mật độ vi trùng trong nước,
các vi khuẩn này hoặc sống trong nước, hoặc từ đất rửa trôi vào nước hoặc
từ các chất bài tiết. Chỉ tiêu này không đánh giá về mặt độc hại đối với sức
khỏe mà chỉ đánh giá chất lượng nguồn nước.
22. Coliform: Coliform sống ký sinh trong đường tiêu hóa của người và
động vật, chỉ tiêu này dùng để xem xét sự nhiễm bẩn của nước bởi các chất
thải.
23. E. Coli: Chỉ tiêu này đánh giá sự nhiễm phân của nguồn nước nhiều hay
ít (nhiễm phân người hoặc động vật), gây ảnh hưởng đến sức khỏe con
người, đôi khi thành dịch bệnh lan truyền.
Hành động phỏ biến ở Mĩ, tử thành thị đến nông thôn. Mặc dù phương pháp
không tuyệt đối an toàn nhưng vẫn được sử dụng để xử lí vì dễ thực hiện.
Việc xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh thường không theo kịp sự tăng tiến.
Do đó, hố rác tự hoại cá nhân là một phương pháp xử lí quan trọng. Có trên
22 triệu hệ thống đang hoạt động, và khoảng nửa triệu hệ thống mới được
đưa vào sử dụng mỗi năm. Do đó, hố phân hủy được khoảng 30% người dân
Mĩ sử dụng. Không phải tất cả địa phương, tuy nhiên thích hợp cho việc đặt
hệ thống hố tự hoại, nên sự định giá mỗi hệ thống là cần thiết và thường cần
phải có điều lệ trước khi được sử dụng.
Các phần cơ bản của hố tự hoại được thể hiện như trong hình. Ống nước thải
từ nhà hoặc cở sở kinh doanh nhỏ dẫn đến hố tự hoại dưới mặt đất trong
vườn. Chất rắn hữu cơ lắng dưới đáy của hố, nơi mà chúng được phân hủy
và hóa lỏng bởi hoạt động của vi khuẩn. Chất lỏng đã được lọc được đưa vào
nơi tháo nước, bao gồm các ống dẫn thẳng mà nước có thể thấm vào đất
xung quanh. Khi nước di chuyển vào trong đất, nó sẽ được xử lí và lọc nhiều
hơn bởi các quá trình lọc và oxi hóa tự nhiên.
Các nhân tố địa chất ảnh hưởng là: loại đất, chiều sâu mực nước, chiều sâu
nền đá và địa hình. Các biến số này thường được liệt kê với sự mô tả về đất
liên quan với sự xem xét đất đai ở vùng đó và các vùng khác. Sự nghiên cứu
đất được thành lập bởi Tổ Chức Bảo Tồn đất đai, có ý nghĩa quan trọng
trong việc giải thích khả năng sử dụng đất, như việc sử dụng cho hố tự hoại.
Tuy nhiên, sự tin đáng tin cậy của bản đồ đất còn hạn chế đối với vùng đất
rộng khoảng vài ngàn m², và loại đất có thể thay đổi vài m nên rất cần thiết
nếu có một định giá của các nhà khoa học và kĩ sư. Để tính kích thước của
đất hấp thụ, cần biết tốc độ dòng nước di chuyển trong đất, đây là cách tốt
nhất để xác định khả năng lọc nước.
Khả năng lọc rác thải của đất có thể gặp một vài lí do hạn chế. Nguyên nhân
phổ biến là khả năng rút nước của đất kém, làm cho nhánh sông dâng lên khi
thời tiết ẩm ướt. Việc tháo nước kém có thể được mong đợi ở nơi đất sét
hoặc đất rắn với tính dẫn nước thấp, và những vùng có mực nước cao, đá
gần bề mặt dẫn nước kém, hoặc hay bị ngập lụt.
Nếu hố tự hoại bị rò rỉ, chất thải chảy ra ngoài sẽ rất nguy hiểm cho sức
khỏe. Sự cố này rất hay gặp. Không may là, những gì xảy ra bên dưới mặt
đất không dễ thấy, nếu quá trình lọc nước trên diện rộng xảy ra, thì tài
nguyên nước ngầm có thể bị ô nhiễm. Một điều liên quan đặt biệt là hố rác
được cung cấp cho các cơ sở kinh doanh và công nghiệp nhỏ, những nhu cầu
này gây ra nhiều vấn đề ô nhiễm nước ngầm hơn là hố ở nhà. Có những
nguy cơ từ những hoạt động này, các tác nhân gây ô nhiễm có thể là : Nitrat,
kim loại nặng, kẽm, đồng, chì, các chất hữu cơ tổng hợp, benzene, carbon
tetraclorua, vinyl clorua.