Professional Documents
Culture Documents
1:
2. Khí hậu:
Tỉnh Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, có những đặc điếm nổi bật sau :
- Nhiệt độ trung bình trong năm 22oC – 23oC, cứ lên độ cao 100m nhiệt độ giảm 0.6oC biên độ nhiệt dao động
trong ngày 8 – 9oC.
- Mối năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng. 12 đến
tháng 3 năm sau.
- Lượng mưa: Trung bình hàng năm khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260mm, năm thấp nhất
1.234mm, tháng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khô hướng gió thịnh hành theo hướng đông bắc đây là mùa rất
dễ xảy ra cháy rừng. Mùa mưa, gió thịnh hành theo hướng tây nam.
- Độ ẩm : Kon Tum có độ ẩm cao tuyệt đối 90%, thấp tuyệt đối 13% bình quân hàng năm 78% - 87%. Độ ẩm
không khí tháng cao nhất là tháng 8 - 9 khoảng 90%, tháng thấp nhất là tháng 3 khoảng 66%.
3. Sông ngòi:
* Nguồn nước mặt: Chủ yếu là sông suối bắt nguồn từ phía bắc của tỉnh Kon Tum thường có lòng dốc, thung
lũng hẹp, nước chảy xiết bao gồm các hệ thống:
Hệ thống thông đầu nguồn sông Ba: Bắt nguồn từ vùng núi Konklang (huyện Konplong), qua tỉnh Gia Lai, tỉnh
Phú Yên và đổ ra biển Đông. Hệ thống này tạo nên sông Ba có công trình thuỷ lợi Ayunpa hạ, tưới cho 13.500
km2 tỉnh Gia Lai.
Hệ thống sông Sê San: Hệ thống này bao gồm các con sông Sông Dak Bla: Được tạo nên bởi các con sông nhỏ:
Sông Da Nghe; sông Dak Pôkô
Ngoài ra còn có sông Tranh, sông Cái bắt nguồn từ Ngọc Linh và chảy về phía Quảng Nam và một số sông suối
nhỏ khác.
* Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm ở tỉnh Kon Tum có tiềm năng và trữ lượng công nghiệp cấp C2:
100.000m3/ngày, nhất là từ độ sâu 60m - 300m có trữ lượng tương đối lớn. Ngoài ra ở huyện Đăk Tô,
Konplong phát hiện được 9 điểm có nước khoáng nóng có khả năng khai thác, sử dụng làm nước giải khát và
chữa bệnh tốt.
* Tiềm năng nước mặt: Nhìn chung vùng Kon Tum chủ yếu là nguồn nước mặt, nhưng hiện nay do tình trạng
đốt và phá rừng đầu nguồn làm nương rẫy, phương pháp canh tác không hợp lý, tình trạng khai thác khoáng sản
bừa bãi do đó gây nên tình trạng ô nhiễm nguồn nước, do đó cần phải có giải pháp tích cực để bảo vệ nguồn
nước mặt này.
4. Dân cư: với các dân tộc bản địa là Xê Đăng, Jẻ Triêng, Ja Rai, Ba Na, Brâu, Rơ Mâm và dân tộc Kinh và
nhiều dân tộc thiểu số khác cùng chung sống.
Dân số: 430.037 người, trong đó số nam: 218.375 người; số nữ: 211.662 người (điều tra dân số ngày
01/04/2009).
Kon Tum là tỉnh có mật độ dân số thấp nhất trong 63 tỉnh, thành phố. Trên địa bàn Kon Tum có 35 dân tộc,
trong đó người Kinh chiếm 46,4% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Xơ Đăng chiếm 25,1% ; người Ba Na
12,0% ; người Giẻ Triêng 8,1% ; người Gia Rai 5,1%...
Tình hình dân số tỉnh Kon Tum
Dân số tỉnh Kon Tum tăng qua các năm, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2003-2007 là 2,4%. Tuy nhiên nhờ đẩy
mạnh công tác Kế Hoạch Hoá Gia Đình nên Tỉnh đã giảm được tỷ lệ sinh, theo đó tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đã
giảm: 2,23%( năm 2003) xuống còn 2.0% (năm 2007), cơ cấu dân số trẻ, có sự cân bằng giữa nam và nữ. Tuy
nhiên, dân số ở thành thị tăng nhanh hơn các năm nhưng dân số Kon Tum vẫn tập trung phần lớn ở vùng nông
thôn.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế thay đổi theo hướng tăng dần ở ngành CNXD- TMDV. Tuy nhiên, lực
lượng lao động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Ngoài việc tăng dân số tự nhiên hàng năm còn
cao : 2,0% năm 2007 và sự gia tăng dân số cơ học làm tăng lực lượng lao động trẻ và mức tăng lao động cơ học
này sẽ còn duy trì ở mức độ cao ở những năm đến, đặc biệt vài năm gần đây giá cà phê, cao su, mì,…tương đối
cao và ổn định cũng như khả năng rút bớt lao động ra khỏi ngành nông- lâm nghiệp có hạn, điều đó lý giải vì
sao có sự gia tăng liên tục của lực lượng lao động nông nghiệp. Một điều lưu ý là tỉ lệ tăng dân số do tỉ lệ tăng
tự nhiên chi phối, tỉ lệ tăng cơ học rất nhỏ. Rõ ràng lượng dân số tăng thêm chủ yếu là trẻ em mà sau 15 năm
mới có thể trở thành lực lượng lao động. Trong khi đang thiếu lao động, tỷ lệ tăng cơ học thấp nghĩa là lao động
nhập cư – lao động có thể tham gia ngay vào hoạt động kinh tế không nhiều.
Người Ba Na là một trong những dân tộc bản địa của Kon Tum.
Diện tích và dân số qua các thời kỳ
1971: 10.181 km², 117.046 người
1975: 10.839 km², 117.000 người
1991: 10.519 km², 258.138 người
1996: 9.934 km², 265.300 người
1998: 9.934 km², 280.200 người
1999: 9.615 km², 314.042 người
2004: 9.614,5 km², 366.100 người.
2009: 9.614,5 km2, 430.037 người.
5. Kinh tế: Kể từ khi tách tỉnh ( tháng 10 năm 1991), Kon Tum cùng với nền kinh tế cả nước đã đi dần vào
thế ổn định và có sự tăng trưởng kinh tế khá (bình quân thời kỳ 2003- 2007 là 11,96%) từng bước hoà nhịp và
phát triển theo cơ chế thị trường, đời sống nhân dân được cải thiện một bước cơ bản. Nhưng đánh giá tổng quát
chung, Kon Tum vẫn là một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước, kinh tế kém phát triển, thu nhập dân cư thấp
( GDP/người là 434USD người/ năm). Trình độ dân trí thấp kém, số hộ đói nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Theo
số liệu từ năm 2003-2007 cho thấy, cơ cấu GDP theo khu vực lớn của nền kinh tế có sự thay đổi theo xu hướng
chung của quá trình CNH là tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 51,57% năm 2003 xuống còn 43,44% năm 2007; Tỷ
trọng của ngành công nghiệp- xây dựng tăng từ 18,06% năm 2003 đến 23,02% năm 2007, còn dịch vụ từ
30,07% năm 2001 tới 33,54% năm 2007.
Trong giai đoạn 2003-2007, tỉnh Kon Tum, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong GDP (trên 50%), công nghiệp
- xây dựng và dịch vụ chiếm tỉ trọng thấp hơn. Kon Tum là một tỉnh có nền kinh tế phụ thuộc vào nông- lâm
nghiệp là chủ yếu. Năm 2007: % tăng trưởng nông-lâm-thuỷ sản là : 7,92% % tăng trưởng công nghiệp-xây
dựng là : 35,56% % tăng trưởng dịch vụ : 13,10% .