You are on page 1of 11

GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ác nưPGSTS Trần Quang Nhiếp


Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam ; kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ; là lý luận
chiến lược, sách lược về cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội ; là
khoa học về những vấn đề có tính quy luật của sự phát triển một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến nền kinh tế chưa phát triển ; là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân
dân các dân tộc Việt Nam ở thời đại mới...
Tư tưởng Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ truyền thống lịch sử yêu nước thiết tha của
dân tộc với ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, kiên quyết đấu tranh đến cùng,
không sợ hy sinh, gian khổ để giữ vững nền độc lập tự chủ của dân tộc. Truyền thống
ấy được tiếp thêm sức mạnh bởi những kinh nghiệm và ý chí của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị áp bức
khắp năm châu trên thế giới. Tư tưởng ấy được soi sáng và tiếp thu những nguyên lý lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và thực tiễn hoạt động sôi nổi, đầy sáng tạo của bản
thân Nguyễn Ái Quốc suốt mấy chục năm trong phong trào cộng sản quốc tế. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là sự kết hợp những tinh hoa văn hóa phương Đông với tinh hoa văn hóa
phương Tây, là sự hội tụ các tư tưởng tiến bộ Đông - Tây, kim - cổ. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành
động, lấy mục tiêu cải tạo xã hội theo quy luật vận động và phát triển của lịch sử, mang
lại hạnh phúc cho nhân dân.
Hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh trên những nét cơ bản như vậy để thấy rõ những giá trị to
lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Giá trị lớn nhất, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó hữu cơ giữa giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta
trong việc kết hợp biện chứng vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề nhân loại. Tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn chặt với sự nghiệp
giải phóng giai cấp. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới ; lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đó là con đường phát triển tất
yếu của cách mạng Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề cách
mạng ở Việt Nam. Khi chưa có Đảng, nhân dân ta sống chìm đắm trong vòng nô lệ của
chế độ thực dân phong kiến, tưởng như không có lối ra. Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn cho sự phát triển của nước ta. Nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, cách
mạng Việt Nam đã tìm ra con đường đi đúng vượt qua mọi thử thách đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức và hành động đúng
trong việc đề ra các mục tiêu chiến lược, chiến thuật của cách mạng ; huy động tối đa
nguồn sức mạnh của nhân dân ; đường lối đối nội, đối ngoại sáng tạo.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Những
chỉ đạo của Người về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để thực sự là hạt nhân
lãnh đạo của cách mạng nước ta về xây dựng nhà nước, hệ thống chính quyền thực sự
của dân, do dân, vì dân ; xây dựng các đoàn thể, cán bộ là công bộc của dân, mãi mãi
vẫn còn nguyên giá trị.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô
tận để chiến thắng mọi kẻ thù, bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Người chỉ rõ đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết ; thành công, thành công, đại thành
công. Muốn vậy phải đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong nhân dân và đoàn kết quốc
tế. Đoàn kết vì lợi ích chung và sự phát triển của các thành viên của cả cộng đồng.
Đoàn kết vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cao giá trị nhân văn. Đó là lòng yêu thương hết mức con
người, nhất là những người lao động, bị áp bức, đau khổ, thiệt thòi. Cao hơn nữa là Hồ
Chí Minh đặt niềm tin cao độ vào phẩm giá và sức mạnh của con người. Vì vậy Hồ Chí
Minh sẵn sàng hy sinh, chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng con người.
- Về phương pháp luận, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta cách nhìn nhận và hành động
khoa học, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc hoặc xét lại, bảo thủ trì trệ. Hồ Chí
Minh luôn nhắc chúng ta học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Người cán
bộ bất cứ làm việc gì, ở cấp bậc nào đều phải đi sâu nghiên cứu lý luận, không ngừng
học tập nâng cao trình độ, đồng thời phải coi trọng tổng kết thực tiễn, bổ sung, làm
sáng rõ cho lý luận. Hồ Chí Minh nhấn mạnh : Thực tiễn không có lý luận soi đường là
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông. Trong công tác
luôn hướng về cơ sở, tin ở dân, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong đấu tranh cách mạng luôn chủ động, sáng tạo, biến yếu thành mạnh, biến ít thành
nhiều, tạo thế để phát triển. Người luôn nhắc chúng ta phải kiên định, khôn khéo, biết
dĩ bất biến, ứng vạn biến ; biết biến cái đại sự thành cái tiểu sự ; biến cái tiểu sự thành
cái vô sự. Tuyệt đối không để cái vô sự thành cái đại sự... Vì thế Hồ Chí Minh giản dị
đến vĩ đại và vĩ đại một cách giản dị.
Những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh rất lớn và là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và
của dân tộc ta. Giá trị ấy được khai thác có hiệu quả tới đâu tùy thuộc vào ý thức, trình
độ, năng lực vận dụng của mỗi người chúng ta

TÁC PHẨM HỒ CHÍ MINH


Thứ Năm, 20/08/2009, 12:20 (GMT+7)
Tư tưởng Hồ Chí Minh: Sinh khí của một học thuyết

Tư tưởng Hồ Chí Minh, sắc lại, vì con người, do con người. Suy thoái đạo đức là
khởi điểm cho mọi suy thoái. Tư tưởng Hồ Chí Minh từng chấp nhận cái mềm dẻo
cần thiết cho đại cục nhưng chính trong những hy sinh thông minh ấy, phẩm chất
con người, xã hội phải được củng cố hơn bao giờ hết, nếu không, những bước lùi sẽ
là quá trình tuột dốc “không phanh” chẳng hé ra tiền đề cho những bước tiến...

..................................................
1. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, theo tôi nghĩ, là nghiên cứu đồng thời ba bộ phận
hợp thành một tổng thể:

- Trước tác.

- Cuộc đời.

- Diễn biến của đất nước, xã hội và con người Việt Nam từ khi tư tưởng Hồ Chí Minh tác
động tại đây cho đến hôm nay.

Cả ba bộ phận hợp thành đều mang tầm quan trọng như nhau, bổ sung cho nhau, cả ba
cộng lại mới đủ sức vẽ lên trung thực toàn bộ và hệ thống một tư tưởng lớn của Việt Nam
và thời đại.

Trước tác là mặt biểu thị trực tiếp nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua các bài báo, phát
biểu, sách, sáng tác văn học, lời kêu gọi… suốt 5 thập kỷ (1919 – 1969), chúng ta biết
được quan điểm của Người trước các vấn đề đặt ra cho vận nước và một số vấn đề đặt ra
cho loài người. Tuy nhiên, sẽ chỉ tiếp cận một phần tư tưởng Hồ Chí Minh nếu chúng ta
chủ yếu nghiên cứu tư tưởng của Người qua trước tác, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng
gắn chặt tư duy với hành động thực tiễn.

Cuộc đời của Người từ buổi thanh niên đến khi vĩnh biệt chúng ta nối dài một chuỗi hoạt
động cách mạng không ngơi nghỉ. Tư tưởng của Người hóa thân vào các ứng xử cả tầm
chiến lược lẫn trong giao tiếp đời thường. Chính phạm vi hoạt động của Người, công tác
mà Người đảm trách, mối quan hệ của Người với đủ đối tượng và nhất là chính với tư
cách con người mà Người sống với chung quanh đã nói thậm chí nhiều hơn những gì
Người lưu lại cho chúng ta trong Toàn tập.

Cái mà có người gọi là tác phong Hồ Chí Minh phản ánh một lối sống gần với tự nhiên,
xuất phát từ sự chân thật trong cốt cách. Trước tác và cuộc đời của Hồ Chí Minh rất
phong phú, song cũng chưa phản ánh trọn vẹn tư tưởng của Người. Không thể xem quá
trình diễn biến của cách mạng, đất nước, xã hội và con người Việt Nam từ 1920, 1930,
đặc biệt từ 1945 và nhất là hiện nay như ngoại biên của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Làm sao hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh nếu không hiểu cái gì là trung tâm dẫn đồng bào ta
thực hiện toàn thắng cuộc cách mạng tháng Tám, hai cuộc kháng chiến và đang thực hiện
thắng lợi bước đầu sự nghiệp Đổi mới. Sự đứng vững của Việt Nam trước cơn khủng
hoảng cực kỳ gay gắt dẫn đến sự sụp đổ của nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có
Liên Xô, cơn thoái trào cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới và ngay những thành tựu
kinh tế hiện nay của nước ta cũng không ra khỏi sự hướng dẫn của tư tưởng Hồ Chí Minh
– có những thoát ly đấy và đã thoát ly tư tưởng Hồ Chí Minh thì không phải là thành tựu
mà trái lại hoặc dự báo cho cái rất xấu khó tránh khỏi dù với toàn cục hay với từng cá
nhân.

Như vậy, quỹ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Việt Nam hết sức rộng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh được ấp ủ lâu dài trong cái nôi chủ nghĩa yêu nước, tẩm mình
sâu sắc trong hồn dân tộc, là kết tinh của truyền thống nhiều nghìn năm dựng nước và giữ
nước của nhân dân Việt Nam. Trên cái nền kiên cố ấy, trên mảnh đất phì nhiêu ấy, tư
tưởng Hồ Chí Minh gạn lọc các hạt giống trí tuệ cổ kim phương Đông, phương Tây và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, sản phẩm khoa học hiện đại vào một đất nước
cụ thể. Người ta không thể tìm thấy chủ nghĩa quốc gia cực đoan, thủ cựu, hẹp hòi, vị kỷ,
cũng như người ta không thể tìm thấy chủ nghĩa quốc tế không tưởng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.

Hồ Chí Minh – lúc còn là Nguyễn Ái Quốc – đã nói rõ chủ nghĩa Lênin cung cấp cho
Người chủ yếu nhất là điều gì và tại đại hội Tours, một đại hội của những đảng viên xã
hội và cộng sản, Người nhấn mạnh quan điểm của mình. Chủ nghĩa quốc tế vô sản đến
với Người tức đến với nước Việt Nam thuộc địa, chậm tiến và Người thể hiện sự nghiệp
quốc tế qua sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người – giải phóng tập thể dân tộc thoát
khỏi ách nô lệ nước ngoài đồng thời giải phóng những “cùng đinh” thoát khỏi “giặc đói,
giặc dốt”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Mác-Lênin đã được tiêu hóa vào không gian và thời
gian xác định, lấy cái cốt lõi giải phóng con người khỏi ách áp bức, tự do hóa tiềm năng
con người bắt đầu từ một đối tượng cụ thể là đồng bào của Người. Để thực hiện nhiệm vụ
đó, tư tưởng Hồ Chí Minh dựa trên nguyên lý giải phóng con người bị áp bức trong xã
hội tư bản, trong các xứ thuộc địa nói chung để tìm ra phương thức giải phóng con người
Việt Nam. Tất nhiên, trào lưu giải phóng vốn đa dạng, tư tưởng Hồ Chí Minh chọn khả
năng tối ưu hơn cả.

Tư tưởng Hồ Chí Minh chấm dứt ở Việt Nam mặc cảm “nỗi buồn nhược tiểu” và trang bị
cho những người dân Việt Nam bình thường niềm tự tin khả năng “đào núi lấp biển, có
chí cũng làm nên”.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh tất nhiên là tư tưởng chính trị, định hướng chính trị song mang
đặc thù dễ phân biệt với các tư tưởng đương thời khác ở phần lớn biểu hiện của tư tưởng
dưới dạng văn hóa. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh tác động vào xã hội như một
sức mạnh văn hóa, sức mạnh hợp chất lý và tình, tổng quát và đơn lẻ, thuyết phục bằng
cảm hóa. Đặc thù này bộc lộ rõ và trở thành xuyên suốt từ 1945, tức từ khi nước ta giành
được độc lập, Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một thành tố quan trọng trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam,
là chuẩn mực bổ sung cho nền luân lý truyền thống. Cũng có thể xem tư tưởng Hồ Chí
Minh đã hiện đại hóa nền luân lý lâu đời của Việt Nam. Cái đáng lưu ý là tư tưởng Hồ
Chí Minh như giáo huấn xã hội chủ nghĩa mà không mâu thuẫn với giáo huấn dân tộc cổ
truyền thậm chí dân gian. Gạch nối này tôn tạo văn hóa dân tộc, đồng thời truyền bá các
tri thức hiện đại, các khái niệm đạo đức hiện đại.

Tự biểu hiện đến trình độ một nền văn hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh thâm nhập vào xã hội,
ảnh hưởng đến nếp nghĩ, nếp sống hàng chục triệu người, đến quan hệ cộng đồng và đến
sự tu thân cá nhân. Đạo đức Hồ Chí Minh, phần kết tinh lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chúng ta có thể cắt nghĩa hiện tượng trên ở chỗ tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ chữ
“Cứu” – cứu nước, cứu dân, cứu người – và ở chỗ một tư tưởng đạt mức xã hội hóa như
thói quen cần phải giữ gìn, vun bồi của mọi người Việt Nam thuộc mọi giới, mọi lứa
tuổi…

Theo tôi, về phương diện này, tư tưởng Hồ Chí Minh đã “đắc đạo”.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi rất trọng đoàn kết dân tộc trong các lĩnh vực đấu tranh.
Việt Nam là nước nhỏ, luôn phải đối phó với nạn xâm lược nước ngoài, tồn tại trong điều
kiện thiên nhiên có nơi rất khắc nghiệt. Cho nên, những “tình làng, nghĩa xóm”, “đồng
bào”, “người chung một nước”, v.v… đã nối liền nhân dân ta suốt nhiều nghìn năm. Đó
cũng là cái lẽ sinh tồn của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh thừa kế gia tài đồ sộ, giàu có
ấy, mở rộng biên độ khái niệm quần chúng đến tất cả những ai vẫn còn thừa nhận mình là
con dân nước Việt Nam.

Sáng tạo này nắm được cái hồn của nhận thức đấu tranh giai cấp và nhờ đó đã hóa giải
khôn ngoan những đối kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định
phục vụ tập trung cao nhất cho quyền lợi toàn cục, bởi vì mục tiêu của cách mạng đồng
thời phải là mục tiêu của nhân dân lao động và, trong các trường hợp xác định, mục tiêu
ấy thống nhất với đòi hỏi của dân tộc và tình thế. Chỉ có như vậy, hành động cho cái
chung mới huy động được đông đảo người tham gia.

“Đại đoàn kết” của tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư duy triết học, khác với một số nhà tư
tưởng đương thời khi họ có quan điểm cực đoan về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc,
tách biệt hoặc đối lập một cách siêu hình các tầng lớp xã hội cơ bản với các tầng lớp xã
hội khác, khiến quá trình cách mạng vừa chậm vừa khó khăn không đáng có. Tư tưởng
Hồ Chí Minh cố tìm mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt
tiến trình xoáy trôn ốc đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ.

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiệm vụ lịch sử: Đưa Đảng Cộng sản trở nên
chính đảng đại biểu của dân tộc mà không làm nhòa tính công nhân tiền phong. Chính ý
thức thời đại cho phép tư tưởng Hồ Chí Minh thành đạt trong vấn đề mấu chốt này cả trên
bình diện lý luận lẫn thực tiễn, cả trong quá trình giành độc lập dân tộc lẫn thời kỳ xây
dựng xã hội mới.

Xử lý vấn đề mấu chốt này liên quan đến ba trọng điểm: một, Đảng Cộng sản của giai
cấp công nhân phải thể hiện cho được ý nghĩa tiền phong chính yếu là đi đầu một đội ngũ
quần chúng đông đúc, gồm tuyệt đại đa số dân tộc, không biệt phái, không đứng trên mà
đứng trong đội ngũ ấy; hai, chủ nghĩa quốc tế vô sản hòa nhập với dân tộc, cái phổ cập
phải được đặc thù hóa, Đảng Cộng sản phải tự trở thành đảng của dân tộc; ba, khi đảng
đã cầm quyền, sự thống nhất lên đến mức cao giữa giai cấp, nhân dân, dân tộc, quốc gia
và đảng mà lợi ích bao trùm là lợi ích dân tộc – dân tộc không tự tôn, không tham vọng
bá quyền, thông cảm và đoàn kết với mọi lực lượng tiến bộ, tán thành, ủng hộ cái đúng,
chống cái sai bất kể từ đâu đến, khôn khéo (song tự trọng), tự xếp mình như mọi dân tộc
khác trong cộng đồng thế giới.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, nó luôn tiếp nhận sự bồi bổ từ trí tuệ, thực tế
phát triển của Việt Nam và thế giới. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh vào đầu thế kỷ
XXI này tức nghiên cứu một tầng nấc cụ thể của tư tưởng ấy sau nhiều chục năm vận
động. Cũng như nghiên cứu các học thuyết Phật, Lão, Khổng, Thiên Chúa, Mác… điều
chúng ta quan tâm phát hiện là phương pháp tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù rằng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh không hiếm những giáo huấn đã dân gian hóa.

Giữa một thế giới biến động – và đảo lộn nữa – Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh và
đôi phần khiêm tốn mà chúng ta vừa giành được trong những năm qua khẳng định rằng
con đường chúng ta đi dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng. Tuy nhiên, nếu nhìn
thực trạng Việt Nam hiện nay, chúng ta dễ dàng thấy sự tuân thủ tư tưởng Hồ Chí Minh
chưa nghiêm, nếu không nói là lơi lỏng.

Trong thứ tự: tu thân, tề gia, trị quốc, chúng ta đã vấp hai cái đầu, do vậy, trị quốc rơi vào
chỗ khó khăn – sẽ còn khó khăn hơn. Bên ngoài – những người Cộng sản, những người
xã hội chủ nghĩa, những người tiến bộ và đương nhiên, luôn kẻ thù – theo dõi chúng ta
với niềm tin, nỗi lo và sự đố kỵ. Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta vượt cơn thử thách
một cách ngoạn mục, nhưng sự suy thoái đạo đức đe dọa chúng ta. Trong sự suy thoái ấy,
óc độc tôn, độc quyền tất nhiên đẻ ra đẳng cấp “ăn trên ngồi trước”, hủy hoại thành quả
cách mạng, nguy hiểm hơn mọi âm mưu thâm độc nhất của kẻ thù.

Trong bối cảnh thế giới hiện nay, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời có nghĩa
nghiên cứu về một thời sự: chủ nghĩa xã hội, chế độ định hướng xã hội chủ nghĩa phát
triển đất nước trong lúc cả phong trào xã hội chủ nghĩa gặp khó khăn nghiêm trọng ở một
nước không đông lắm về dân số, không rộng lắm về đất đai, không phát triển lắm về kinh
tế. Tất nhiên, đây là một chủ nghĩa xã hội xét từ thực chất, tức không phải mang trong nó
chủ nghĩa bành trướng, không đối địch với nhân quyền, kết hợp dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng và đạo lý trong một thể hài hòa, nói cách khác, phù hợp với tư trào hiện
đại của loài người.

Tất nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh không thể cho tất cả đáp số của mọi bài toán nảy sinh
trong mọi điều kiện lịch sử, đó cũng không phải là thánh kinh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh, sắc lại, vì con người, do con người. Suy thoái đạo đức là khởi
điểm cho mọi suy thoái. Tư tưởng Hồ Chí Minh từng chấp nhận cái mềm dẻo cần thiết
cho đại cục nhưng chính trong những hy sinh thông minh ấy, phẩm chất con người, xã
hội phải được củng cố hơn bao giờ hết, nếu không, những bước lùi sẽ là quá trình tuột
dốc “không phanh” chẳng hé ra tiền đề cho những bước tiến.

Đến nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã 34 năm. Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống với
chúng ta. Nhưng, cần phải nhớ chính hôm nay, ngày mai, chính những người Cộng sản
Việt Nam, chính nhân dân Việt Nam là tác giả nối tiếp trên tư duy, trong tình cảm và trên
thực địa tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo vệ thành công sự nghiệp xây dựng đất nước, xã hội, con
người Việt Nam qua bao nhiêu giông tố – không phải lãnh tụ của quốc gia nào cũng làm
được như thế.

Đó là một học thuyết đầy sinh khí.

Hạnh phúc đối với dân tộc Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam có tư tưởng Hồ Chí
Minh. Càng hạnh phúc khi tư tưởng ấy, học thuyết ấy được kế thừa theo tinh thần trung
thành các nguyên lý bản chất và luôn được bổ sung, đổi mới.

05-08-2009, 09:54 PM
Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại”. Ở đây, xin làm rõ phần nào nhận định đúng đắn của Đảng ta về tư tưởng vĩ
đại của Người.

1-Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ
chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền
thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân
của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu
cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau…

Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho
mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị truyền thống tốt
đẹp và cao quý.

Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước. Đây là một trong những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh
lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã
có quá trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc như: yêu nước gắn
liền với yêu quê hương, yêu con người Việt Nam, yêu truyền thống văn hóa quý giá. Thời
kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung quân ái quốc, lợi ích giai cấp thống trị phù
hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.

Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước đối với
Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng thương yêu nhân dân và nhân loại
của Người không bao giờ thay đổi…Người có một ham muốn tột bậc là làm sao nước ta
được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Người đã nêu ra chuẩn mực
“trung với nước, hiếu với dân” và phát triển những nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước.
Đó là yêu nước dựa trên quan điểm giai cấp công nhân, yêu nước mở rộng ra thành tình
yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động, những người cùng khổ, đối với giai cấp
công nhân cớc trên thế giới. Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân, Người đã nêu ra
nội dung mới: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có
chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ quốc ngày một giàu
mạnh thêm.

Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết,
tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình thành một lúc
với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và
giặc ngoại xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm. Hồ Chí
Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu sống với nhau có tình có
nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào,
đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận Mác-Lênin-
đỉnh cao của trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị truyền thống. Người
nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu
thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người, là cứu nước, độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển. Trong văn hóa đạo đức Việt
Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải, ngay thẳng. Nguyễn Trãi đã từng nói: Phàm
mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên “công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”,
Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để phân rõ bạn thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân dân, cho
Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc đều là kẻ thù.

Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh thần
cộng đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những thuần phong mỹ tục, trở thành những
yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt,
người đã nói đến đời sống mới của một người, một nhà, một làng và khắp cả nước. Xoay
quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh đã nói đến
thuần phong mỹ tục, không có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người nhắc đến tục
ngữ “lá lành đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”. Và, nếu một mình no ấm mà nỡ
để đồng bào xung quanh đói rét…, thì dù giàu cũng không hưởng được. Người nói: Cách
cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ…Nhiều lần, Người
nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục, tức là phát triển một
trong những giá trị truyền thống. Mặt khác, khi trân trọng giữ gìn thuần phong mỹ tục,
Hồ Chí Minh luôn gắn với việc phê phán, bài trừ đồi phong, bại tục. Người đã nói đến
việc “khôi phục vốn cũ” với một tinh thần trân trọng các giá trị của người xưa để lại như:
tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân…Song, Người yêu cầu xóa bỏ
cái xấu (tính lười biếng, tham lam…), sửa đổi các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa
xỉ…).
quangtrung
05-08-2009, 09:55 PM
2- Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại

Nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ đại nhất và ảnh hưởng lớn nhất đối với Hồ Chí
Minh là phải nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin và ứng dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa
cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại và cống hiến nhiều vào kho tàng lý luận
mác-xít cũng như phương pháp hoạt động sáng tạo của cuộc cách mạng vô sản.

Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thông minh tuyệt vời, từ nhỏ, Hồ Chí
Minh đã được giáo dục Hán học và đã tiếp thu nền văn hóa phương Tây tại trường Quốc
học Huế. Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Người vừa hoạt động cách mạng, vừa học
hỏi không ngừng. Người đã thông thạo các ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của
nhân loại, am tường các nền văn hóa Đông, Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa,
Người bao giờ cũng phân tích các yếu tố giá trị toàn nhân loại và vĩnh cửu. Người đã làm
giàu trí tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa nhân loại. Người là tượng trưng cho sự kết
hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương lai.

Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng
đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác
những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo.

Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong
Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao
động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí
Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo
Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo
hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ
cai trị.

Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù hợp để phục vụ
cho nhiệm vụ cách mạng.

Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ
lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.

Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương
thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim muông,
cây cỏ.

Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.

Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng
cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất
thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng.
Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất
khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam,
chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất
nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.

Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần
dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với
nông dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương Đông
như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như
sau này, khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu thêm về Chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với điều
kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do;
dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết
khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng nước ta.

Lĩnh hội tư tưởng văn hóa phương Tây: Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước
ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của
nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây

Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc, làm thuê và thường đến
thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí
đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong Tuyên
ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng nhân quyền với
nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn này. Sau này Người
đã phát triển nó thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới trong
Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945.

Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và hoạt động ở thủ đô nước
Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong cuộc đời mình.

Là thủ đô của nước Pháp, Pa-ri cũng đồng thời là trung tâm văn hóa - nghệ thuật của châu
Âu. Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều
được hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi hợp lưu của các dòng văn hóa thế
giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại,
đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp.

Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh được tiếp xúc
trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…
những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh thần pháp luật của Mông-tét-
xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có
ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Ngoài ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ
và hình thành được phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng
là, ở Pháp, Người đã có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do,
thuận lợi hơn ở trên đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.

Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của
nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cu-tuya-ri-ê, G.
Mông-mút-xô…mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con người ấy, trên hành
trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây,
vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa
chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.

Kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh của Thiên chúa giáo: Nói đến việc kết hợp văn hóa
Đông, Tây trong con người Hồ Chí Minh, không thể không đề cập đến sự kế thừa lòng
nhân ái, đức hy sinh, những giá trị cơ bản của Thiên chúa giáo. Người đã cống hiến cả
cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp
bức, bóc lột; đã là hiện thân của lòng nhân ái và đức hy sinh cao cả. Sau này, Người luôn
luôn giáo dục cán bộ, đảng viên về lòng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ
ngoài mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang tính nhân loại
mà Thiên chúa giáo đã khởi xướng và răn dạy.

Người lên án gay gắt những kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện những “hành vi ác quỷ”:
dẫn đường cho đội quân viễn chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết người (đặc biệt là trẻ
em); chiếm ruộng đất canh tác, v.v…Người coi những hành động đó là sự đi ngược lại và
phản bội lòng nhân ái cao cả của Chúa, làm hoen ố tư tưởng lớn của Ngài là muốn mưu
cầu phúc lợi cho xã hội. Người viết: “Nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đanh trên cây
thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy “các môn đồ
trung thành” của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào”.

Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương Tây, những kẻ nhân
danh Chúa để quan hệ mật thiết với thế lực thực dân, tham gia vào guồng máy của chủ
nghĩa thực dân, xâm nhập về kinh tế và quân sự, áp đặt nền văn hóa thực dân, làm xuất
hiện nguy cơ bá quyền văn hóa, v.v…

Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi
vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân
tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích
cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
vBulletin® v3.6.8, Copyright ©2000-2009

You might also like