You are on page 1of 26

FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

MỤC LỤC
Trang

LỜI NÓI ĐẦU


Internet băng rộng với công nghệ ADSL (sử dụng cáp đồng) đã tạo nên
bước tiến bùng nổ trong việc truyền tải dữ liệu. Với khả năng kết nối,truyền dữ
liệu gấp hàng chục đến hàng trăm lần modem quay số, ADSL đã biến Internet
trở nên gần gũi và phổ biến với bất kỳ quốc gia nào.
Tuy nhiên, công nghệ ADSL đang đứng trước nguy cơ phải nhường vị trí
thống trị bấy lâu nay cho một loại công nghệ truyền dẫn mới hơn, đó là công
nghệ truyền dẫn cáp quang, thông qua kiến trúc mạng sử dụng cáp quang để
kết nối viễn thông có tên FTTx (Fiber To The x).
Mạng FTTx (Fiber-to-the-x) hiện đang được xem là sẽ đóng một vai trò
quan trọng trong 2-3 năm tới do tiềm năng cung cấp băng thông cho khách
hàng lớn hơn so với cáp đồng, đáp ứng nhu cầu truyền thoại, dữ liệu và video
trên nền IP. Các công nghệ thường được sử dụng để tạo dựng các mạng FTTx,
bao gồm cả các mạng quang thụ động, các đường dây thuê bao số (DSL), và
các công nghệ nén video.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 1


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

ADSL Asymmetric Digital Subscriber Line


AON Active Optical Network
APON ATM Passive Optical Network
BPON Broadband PON
C0 Central Office
CPE Customer Premises Equipment
DSLAM Digital Subscriber Line Access Multiplexer
FTTB Fiber To The Building
FTTC Fiber To The Curb
FTTH Fiber To The Home
FTTN Fiber To The Node
GPON Gigabit PON
OLT Optical Line Terminal
ONT Optical Network Terminal
ONU Optical Network Unit
PON Passive Optical Network
STB Set Top Box
TDM Time-Division Multiplexing
WDM Wavelength Division Multiplexing

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 2


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

I. TỔNG QUAN VỀ FTTx


1. Giới thiệu chung
FTTx (Fiber to the x) là một thuật ngữ chung cho bất kỳ kiến trúc mạng
băng rộng sử dụng cáp quang thay thế tất cả hay một phần cáp kim loại thông
thường dùng trong mạch vòng ở chặng cuối của mạng viễn thông.Thuật ngữ
chung này bắt nguồn như một sự tổng quát hóa một vài mô hình mạng triển
khai sợi quang (FTTN, FTTC, FTTB, FTTH, FTTP…),tất cả bắt đầu bằng FTT
nhưng kết thúc bởi các ký tự khác nhau, được thay thế bằng x mang tính chất
tổng quát hóa.
Ngành công nghiệp viễn thông đã phân biệt một vài mô hình riêng biệt, rõ
ràng. Trong đó được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là:
 Fiber To The Home (FTTH): sợi quang
được dẫn tới ranh giới không gian sống, như một hộp cáp quang
được đặt trên tường bên ngoài của một ngôi nhà.
 Fiber To The Building (FTTB): sợi
quang được dẫn tới chân của một tòa nhà cao tầng, từ đó thông

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 3


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

qua phương tiện chuyển đổi (quang-điện) đấu nối tới từng
người sử dụng riêng biệt.
 Fiber To The Curb (FTTC): sợi quang
được dẫn tới tủ cáp đặt trên lề đường cách khu vực khách hàng
gần hơn 300m,từ đó sử dụng cáp đồng đấu nối tới người dùng.
 Fiber To The Node (FTTN): sợi quang
được dẫn tới node, nó cũng tương tự như FTTC, nhưng khoảng
cách từ node tới khu vực khách hàng thì xa hơn, có thể tới vài
kilomet.

Hình 1: Các mô hình mạng FTTx

Nhu cầu sử dụng hạ tầng cáp quang tới hộ gia đình FTTH (Fiber to the
Home) đã xuất hiện từ những năm 1980 khi mà các công ty điện thoại thấy lợi
ích mang lại trong việc cung cấp các dịch vụ băng rộng tới các thuê bao.
Những tiến bộ nhanh chóng trong lĩnh vực thu phát và cáp sợi quang đã mở ra
một tiềm năng lớn trong việc phát triển hạ tầng FTTH. FTTH được xem như
một giải pháp hoàn hảo trong việc thay thế mạng cáp đồng hiện tại nhằm cung
cấp các dịch vụ “triple play” (bao gồm thoại, hình ảnh, truy cập dữ liệu tốc độ
cao) và các ứng dụng đòi hỏi nhiều băng thông.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 4


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Hiện nay, ở Việt Nam có một số nhà cung cấp dịch vụ FTTH sau :
 Tháng 8/2006 FPT Telecom chính thức trở thành đơn vị đầu tiên
cung cấp loại hình dịch vụ tiên tiến này.
 Ngày 1/5/2009, VNPT cung cấp dịch vụ Internet FTTH trên cáp
quang với tốc độ cao đến 20Mbps/20Mbps.
 Ngày 15/05/2009, Viettel chính thức triển khai cung cấp dịch vụ
truy nhập Internet FTTH (Fiber To The Home) – Cáp quang siêu
tốc độ nhằm phục vụ khách hàng doanh nghiệp mà dịch vụ truy cập
Internet hiện tại (ADSL và Leased Line) chưa đáp ứng được về tốc
độ và chi phí sử dụng.

Hình 2: Mạng FTTx khi triển khai

2. So sánh mạng ADSL và FTTx


2.1. Cáp quang và cáp đồng
Trên thực tế, để khắc phục nhược điểm trong truyền dẫn thông tin của cáp
đồng, đã từ lâu người ta đã cho ra đời cáp quang cùng với những tính năng ưu
việt hơn. Không giống như cáp đồng truyền tín hiệu bằng điện, cáp quang dùng
ánh sáng để truyền tín hiệu đi. Chính vì sự khác biệt đó mà cáp quang ít bị

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 5


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

nhiễu, tốc độ cao và có khả năng truyền xa hơn. Tuy vậy phải đến giai đoạn
hiện nay thì cáp quang mới được phát triển bùng nổ, nhất là trong lĩnh vực kết
nối liên lục địa, kết nối xuyên quốc gia. Và việc sử dụng công nghệ truyền dẫn
hiện đại này cũng đang bắt đầu thay thế dần mạng cáp đồng ADSL phục vụ
trực tiếp đến người sử dụng.
Cáp quang dài, mỏng với thành phần của thủy tinh trong suốt bằng đường
kính của một sợi tóc. Chúng được sắp xếp trong bó được gọi là cáp quang và
được sử dụng để truyền tín hiệu trong khoảng cách rất xa. Cáp quang có cấu
tạo gồm dây dẫn trung tâm là sợi thủy tinh hoặc plastic đã được tinh chế nhằm
cho phép truyền đi tối đa các tín hiệu ánh sáng. Sợi quang được tráng một lớp
lót nhằm phản chiếu tốt các tín hiệu.
Cáp quang gồm các phần sau:
 Core : Trung tâm phản chiếu của sợi quang nơi ánh sáng đi
 Cladding : Vật chất quang bên ngoài bao bọc lõi mà phản xạ ánh
sáng trở lại vào lõi.
 Buffer coating : Lớp phủ dẻo bên ngoài bảo vệ sợi không bị hỏng
và ẩm ướt
 Jacket: Hàng trăm hay hàng ngàn sợi quang được đặt trong bó gọi
là cáp quang. Những bó này được bảo vệ bởi lớp phủ bên ngoài của
cáp được gọi là jacket.
Khi phát tín hiệu thì một điốt phát sáng (LED) hoặc laser sẽ truyền dữ liệu
xung ánh sáng vào cáp quang. Còn khi nhận thì sẽ sử dụng cảm ứng quang
chuyển xung ánh sáng ngược thành dữ liệu. So với cáp đồng, cáp quang chỉ
truyền sóng ánh sáng (không truyền tín hiệu điện) nên nhanh, không bị nhiễu
và bị nghe trộm (tín hiệu ánh sáng từ sợi quang không bị nhiễu với những sợi
khác trong cùng cáp, điều này làm cho chất lượng tín hiệu tốt hơn). Độ suy dần
thấp hơn các loại cáp đồng (tín hiệu bị mất trong cáp quang ít hơn trong cáp
đồng) nên có thể tải các tín hiệu đi xa hàng ngàn km. Dung lượng tải của cáp
quang cao hơn, vì sợi quang mỏng hơn cáp đồng, nhiều sợi quang có thể được
bó vào với đường kính đã cho hơn cáp đồng. Điều này cho phép nhiều kênh đi
qua một sợi cáp.
Cáp quang cũng sử dụng điện nguồn ít hơn, bởi vì tín hiệu trong cáp
quang giảm ít, máy phát có thể sử dụng nguồn thấp hơn thay vì máy phát với
điện thế cao được dùng trong cáp đồng.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 6


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Còn tín hiệu số thì cáp quang rất lý tưởng thích hợp để tải thông tin dạng
số mà đặc biệt hữu dụng trong mạng máy tính. Cáp quang cũng không cháy, vì
không có điện xuyên qua cáp quang, do đó không có nguy cơ hỏa hạn xảy ra.
Tuy vậy, cáp quang và các thiết bị đi kèm lại rất đắt tiền so với các loại cáp
đồng.
2.2. Một số tiêu chí về chất lượng dịch vụ giữa ADSL và FTTx
Hiện nay, công nghệ FTTH (Fiber-To-The-Home là mạng viễn thông
băng thông rộng bằng cáp quang được nối đến tận nhà để cung cấp các dịch vụ
tốc độ cao như điện thoại, Internet tốc độ cao và TV) đang được triển khai khá
mạnh mẽ trên thế giới. Khi dùng công nghệ FTTH, đường truyền dẫn hoàn toàn
bằng cáp quang tới tận phòng máy của người sử dụng. Chất lượng truyền dẫn
tín hiệu bền bỉ ổn định không bị suy hao tín hiệu bởi nhiễu điện từ, thời tiết hay
chiều dài cáp như đối với ADSL. Độ bảo mật rất cao. Với ADSL, khả năng bảo
mật thấp hơn vì có thể bị đánh cắp tín hiệu trên đường dây, còn với FTTH thì
hầu như không thể bị đánh cắp tín hiệu trên đường dây. Với công nghệ FTTH,
nhà cung cấp dịch vụ có thể cung cấp tốc độ download lên đến 10 Gigabit/giây,
nhanh gấp 200 lần so với ADSL 2+ (hiện chỉ có thể đáp ứng 20 Megabit/giây).
Tốc độ truyền dẫn với ADSL là không cân bằng, có tốc độ tải lên luôn nhỏ hơn
tốc độ tải xuống (Bất đối xứng, Download > Upload) và tối đa 20 Mbps. Còn
FTTH cho phép cân bằng, tốc độ tải lên và tải xuống như nhau (Đối xứng,
Download = Upload) và cho phép tối đa là 10 Gbps, có thể phục vụ cùng một
lúc cho hàng trăm máy tính. FTTH đặc biệt hiệu quả với các dịch vụ: Hosting
Server riêng, VPN (mạng riêng ảo), Truyền dữ liệu, Game Online, IPTV
(truyền hình tương tác), VoD (xem phim theo yêu cầu), Video Conferrence
(hội nghị truyền hình), IP Camera…với ưu thế băng thông truyền tải dữ liệu
cao, có thể nâng cấp lên băng thông lên tới 1Gbps, An toàn dữ liệu, Độ ổn định
cao, không bị ảnh hưởng bởi nhiễu điện, từ trường...
Bảng 1: So sánh ADSL và FTTx dựa trên một số tiêu chí

Yếu tố so sánh ADSL FTTx


Môi trường truyền tín Cáp đồng Cáp quang
hiệu
Độ ổn định Dễ bị suy hao do tín hiệu Không bị ảnh hưởng
điện từ, thời tiết, chiều
dài cáp…

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 7


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Bảo mật Độ bảo mật thấp, dễ bị Độ bảo mật cao, không


đánh cắp tín hiệu đường thể đánh cắp tín hiệu trên
dây đường truyền
Tốc độ truyền dẫn Bất đối xứng : Cho phép cân bằng :
(Upload và download ) Download > Upload Upload = download
Tốc độ tối đa là 20 Mbps Tốc độ cho phép là
10Gbps
Chiều dài cáp Tối đa là 2,5 km để đạt Tối đa 10 km
được sự ổn định
Khả năng đáp ứng các Không phù hợp vì tốc độ Rất phù hợp vì tốc độ rất
dịch vụ băng rộng: thấp cao và có thể tùy biến
Hosting server riêng, tốc độ.
VPN, hội nghị truyền
hình

II. KỸ THUẬT TRIỂN KHAI MẠNG FTTx


Các hướng chính triển khai FTTx (cụ thể với FTTH ) :
 Home Run (Point-to-Point).
 AON - Active optical network: Mạng quang chủ động hay
mạng quang tích cực.
 PON - Passive optical network: Mạng quang thụ động .

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 8


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Hình 3: Các hướng triển khai mạng FTTx


1. Home run
Phương pháp này sử dụng kết nối điểm tới điểm ( point-to-point ),nghĩa là
dây quang sẽ được đưa trực tiếp từ CO ( Central Office ) đến tận nhà của người
sử dụng. Đây là phương pháp đơn giản nhất nhưng hiện nay ít được sử dụng
phổ biến bởi hiệu quả thương mại thấp, tốn kém.

Hình 4: Kiểu triển khai Home run

2. Mạng quang chủ động (AON)

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 9


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Hình 5: Mạng quang chủ động

Để phân phối tín hiệu, mạch quang chủ động sử dụng các thiết bị sử dụng
điện để phân tích dữ liệu như một chuyển mạch, router hoặc multiplexer. Dữ
liệu từ phía nhà cung cấp của khách hàng nào sẽ chỉ được chuyển đến khách
hàng đó. Dữ liệu từ phía khách hàng sẽ tránh xung đột khi truyền trên đường
vật lý chung bằng việc sử dụng các bộ đệm của các thiết bị chủ động.
Từ năm 2007, hầu hết các các hệ thống mạng quang chủ động được gọi là
Ethernet chủ động. Ethernet chủ động sử dụng các chuyển mạch ethernet quang
để phân phối tín hiệu, do đó sẽ kết nối các căn hộ khách hàng với nhà cung cấp
thành một hệ thống mạng Ethernet khổng lồ giống như một mạng máy tính
ethernet thông thường ngoại trừ mục đích của chúng là kết nối các căn hộ và
các tòa nhà với nhà cung cấp dịch vụ. Mỗi tủ chuyển mạch có thể quản lý tới
1000 khách hàng, thông thường là 400-500 khách hàng. Các thiết bị chuyển
mạch này thực hiện chuyển mạch và định tuyến dựa vào lớp 2 và lớp 3.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 10


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Active Ethernet: Thuật ngữ này đuợc hiểu như thực hiện một kết nối điểm
điểm giữa nguời sử dụng và Ethernet Switch của nhà cung cấp dịch vụ, các
Ethernet Switches có thể đuợc đặt tại nhà cung cấp dịch vụ hoặc đôi khi đuợc
đặt như một tủ cung cấp mạng gần phía khách hàng. Thiết bị chuyển đổi
(Media Converter) được đặt ở phía khách hàng có nhiệm vụ chuyển quang điện
(quang đơn mode thành CAT 5 có thể sử dụng 100 Base – T hoặc 1000 Base-T
(GigabitEthernet).
Một nhược điểm rất lớn của mạng quang chủ động chính là ở thiết bị
chuyển mạch. Với công nghệ hiện tại, thiết bị chuyển mạch bắt buộc phải
chuyển tín hiệu quang thành tín hiệu điện để phân tích thông tin rồi tiếp tục
chuyển ngược lại để truyền đi. Điều này sẽ làm giảm tốc độ truyền dẫn tối đa
có thể trong hệ thống FTTX. Ngoài ra do đây là những chuyển mạch có tốc độ
cao nên các thiết bị này rất đắt, không phù hợp với việc triển khai đại trà cho
mạng truy cập.
3. Mạng quang bị động (PON)
3.1. PON là gì

Hình 6: Mạng quang thụ động

PON là kiểu mạng Điểm – Đa điểm (P2M). Mỗi khách hàng được kết nối
tới mạng quang thông qua một bộ chia quang thụ động, vì vậy không có các

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 11


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

thiết bị điện chủ động trong mạng phân chia và băng thông được chia sẻ từ
nhánh (feeder) đến người dùng (drop). Tín hiệu download được broadcast tới
các hộ gia đình, tín hiệu này được mã hóa để tránh việc xem trộm. Tín hiệu
upload được kết hợp bằng việc sử dụng giao thức đa truy nhập phân chia theo
thời gian (TDMA). OLT sẽ điều khiển các ONU sử dụng các khe thời gian cho
việc truyền dữ liệu đường uplink.

Hình 7: Cấu trúc mạng quang thụ động

3.2. Thành phần mạng PON


Thiết bị đường truyền quang (OLT: Optical Line Terminal): OLT cung
cấp giao tiếp giữa hệ thống mạng truy cập quang thụ động EPON và mạng
quang đường trục của các nhà cung cấp dịch vụ thoại, dữ liệu và video. OLT
cũng kết nối đến mạng lõi của nhà cung cấp dịch vụ thông qua hệ thống quản
lý EMS (Element Management System).
Thiết bị kết cuối mạng quang (ONU: Optical Network Unit): ONU cung
cấp giao tiếp giữa mạng thoại, video và dữ liệu người dùng với mạng PON.
Chức năng cơ bản của ONU là nhận dữ liệu ở dạng quang và chuyển sang dạng
phù hợp với người dùng như Ethernet, POST, T1...
Hệ thống quản lý (EMS: Element Management System): EMS quản lý các
phần tử khác nhau của mạng PON và cung cấp giao diện đến mạng lõi của các

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 12


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

nhà cung cấp dịch vụ. EMS có chức năng quản lý về cấu hình, đặc tính và bảo
mật.
Trong công nghệ PON, thiết bị OLT (Optical Line Terminal, thiết bị kết
cuối kênh quang) được đặt ở phía nhà cung cấp dịch vụ, còn các thiết bị ONT
(Optical Network Terminal, thiết bị kết cuối mạng quang) được đặt phía nguời
sử dụng. Thiết bị OLT cung cấp nhiều kênh quang, mỗi kênh quang đuợc
truyền trên một tuyến cáp quang trên đó có bộ lọc (splitter). Nhiệm vụ của bộ
lọc là thu và nhận các tín hiệu quang đuợc nhận và phát bởi OLT. Các đôi dây
quang truyền từ OLT sẽ trải dài và kết nỗi tới mỗi ONT. Các bước sóng truyền
1490 nanometers (buớc chọn lựa, 1550 nm) đuợc dùng cho băng thông chiều
xuống từ OLT, trong đó các bước sóng 1310 nm sẽ đuợc truyền theo huớng lên
bởi mỗi thiết bị ONT. Hệ thống cung cấp địa chỉ, cung cấp băng thông một
cách tự động tự động cũng như việc mã hóa được sử dung để truy trì và phân
tách lưu lựợng giữa OLT và ONT.
3.4. Đặc tính
Đặc tính nổi bật của công nghệ PON có thể được hiểu ngắn gọn bởi hai ý
sau:
 Khả năng tận dung phuơng pháp WDM, ghép kênh phân chia theo
dải tần và cung cấp băng thông tự động để giảm thiểu số lượng cáp
quang cần thiết để kết nối giữa OLT và bộ lọc.
 Lợi điểm loại bỏ hoàn toàn sự cần thiết của nguồn ngoài.Ưu điểm
của PON là nó sử dụng các thiết bị splitter không cần cấp nguồn,
có giá thành rẻ và có thể đặt ở bất kì đâu, không phụ thuộc và các
điều kiện môi trường, không cần phải cung cấp năng lượng cho các
thiết bị giữa phòng máy trung tâm và phía người dùng. Ngoài ra,
ưu điểm này còn giúp các nhà khai thác giảm được chi phí bảo
dưỡng, vận hành. Kiến trúc PON cho phép giảm chi phí cáp sợi
quang và giảm chi phí cho thiết bị tại CO do nó cho phép nhiều
người dùng (thường là 32) chia sẻ chung một sợi quang.
3.5. Các chuẩn mạng quang bị động PON
 ITU-T G.983
 APON (ATM Passive Optical Network): Đây là
chuẩn mạng PON đầu tiên. Nó chủ yếu được sử dụng cho các ứng
dụng kinh doanh và dựa trên ATM.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 13


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

 BPON (Broadband PON): là một chuẩn dựa trên


APON. Nó hỗ trợ thêm công nghệ WDM, băng thông giành cho
đường uplink là động và cao hơn. Nó cũng cung cấp một giao diện
quản lý chuẩn OMCI giữa OLT và ONU/ONT cho phép nhiều nhà
cung cấp dịch vụ cùng hoạt động.
 ITU-T G.984
 GPON (Gigabit PON): là sự nâng cấp của chuẩn BPON. Nó hỗ trợ
tốc độ cao hơn, bảo mật được tăng cường và sự đa dạng trong việc
lựa chọn giao thức lớp 2 :ATM, GEM, Ethernet.
 IEEE 802.3ah

 EPON (Ethernet PON) là một chuẩn của IEEE/EFM cho việc sử


dụng Ethernet trong việc truyền dữ liệu.
3.5. WDM PON

Hình 9: Cấu trúc TDMA-PON và WDM-PON

Ở hướng xuống (từ OLT đến ONU), mạng PON là mạng điểm-đa điểm.
OLT chiếm toàn bộ băng thông hướng xuống. Trong hướng lên, mạng PON là
mạng đa điểm-điểm: nhiều ONU truyền tất cả dữ liệu của nó đến một OLT.
Đặc tính hướng của các bộ tách ghép thụ động là việc truyền thông của một
ONU sẽ không được nhận biết bởi các ONU khác. Tuy nhiên các luồng dữ liệu
từ các ONU khác nhau được truyền cùng một lúc cũng có thể bị xung đột. Vì
vậy trong hướng lên, PON sẽ sử dụng một vài cơ chế riêng biệt trong kênh để
tránh xung đột dữ liệu và chia sẽ công bằng tài nguyên và dung lượng trung kế.
Một phương pháp chia sẽ kênh ở hướng lên của ONU là sử dụng ghép
kênh phân chia theo bước sóng WDM, với phương pháp này thì mỗi ONU sẽ
hoạt động ở một bước sóng khác nhau. Giải pháp WDM yêu cầu một bộ thu
điều khiển được hoặc là một mảng bộ thu ở OLT để nhận các kênh khác nhau.
Thậm chí nhiều vấn đề khó khăn cho các nhà khai thác mạng là kiểm kê từng
bước sóng của ONU: thay vì chỉ có một loại ONU, thì có nhiều loại ONU dựa

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 14


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

trên các bước sóng Laser của nó. Mỗi ONU sẽ sử dụng một laser hẹp và độ
rộng phổ điều khiển được cho nên rất đắt tiền. Mặc khác, nếu một bước sóng bị
sai lệch sẽ gây ra nhiễu cho các ONU khác trong mạng PON. Việc sử dụng
Laser điều khiển được có thể khắc phục được vấn đề này nhưng quá đắt cho
công nghệ hiện tại. Với những khó khăn như vậy thì WDM không phải là giải
pháp tốt cho môi trường hiện nay.
Một số giải pháp khác dựa trên WDM cũng được đề xuất nhưng giá cả
khá cao. Do vậy, TDM PON đã ra đời. Trong TDM PON, việc truyền đồng
thời từ vài ONU sẽ gây ra xung đột khi đến bộ kết hợp. Để ngăn chặn xung đột
dữ liệu, mỗi ONU phải truyền trong cửa sổ (khe thời gian) truyền của nó. Một
thuận lợi lớn của TDM PON là tất cả các ONU có thể hoạt động cùng một
bước sóng, OLT cũng chỉ cần một bộ thu đơn. Bộ thu phát ONU hoạt động ở
tốc độ đường truyền, thậm chí băng thông có thể dùng của ONU thấp hơn. Tuy
nhiên, đặc tính này cũng cho phép TDM PON đạt hiệu quả thay đổi băng thông
được dùng cho từng ONU bằng cách thay đổi kích cở khe thời gian được ấn
định hoặc thậm chí sử dụng ghép kênh thống kê để tận dụng hết băng thông
được dùng của mạng PON.
Trong mạng truy cập thuê bao, hầu hết các luồng lưu lượng lên và xuống
không phải là Peer to Peer (user to user). Vì vậy điều này dường như là hợp lý
để tách kênh lên và xuống. Một phương pháp tách kênh đơn giản có thể dựa
trên ghép kênh phân chia không gian(SDM) mà nó tách PON được cung cấp
theo hướng truyền lên xuống. Để tiết kiệm cho sợi quang và giảm chi phí sửa
chữa và bảo quảng, một sợi quang có thể được sử dụng cho truyền theo hai
hướng. Trong trường hợp này, hai bước sóng được dùng là: hướng lên
λ 1=1310nm, hướng xuống λ 2=1550nm. Dung lượng kênh ở mỗi bước sóng
có thể phân phối linh động giữa các ONU.
Ghép kênh phân chia theo thời gian là phương pháp được ưu tiên hiện nay
cho việc chia sẽ kênh quang trong mạng truy cập khi mà nó cho phép một bước
sóng đơn ở hướng lên và bộ thu pháp đơn ở OLT đã làm cho giải pháp này có
ưu thế hơn về chi phí đầu tư.
4. So sánh giữa 2 kỹ thuật AON và PON :

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 15


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Hình 10: So sánh AON và PON

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 16


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Hình 11: GPON và Active Ethernet

Các yếu tố được đem ra so sánh:


 Tổng dung lựơng, băng thông một thuê bao có thể tận hưởng
 Các dịch vụ hai công nghệ cung cấp cho ngừơi dùng đầu cuối.
Như đã đề cập phía trên, GPON dùng hai buớc sóng khác nhau, chiều
xuống bước sóng 1490 nm, và chiều lên 1310 nm (coi OLT làm mốc). Và buớc
sóng 1500 nm là buớc sóng chọn lựa để sử dụng cho các thông tin quảng bá và
tín hiệu video số. Tại thời điểm hiện tại, tốc độ chiều xuống của GPON khoảng
2.5 Gbps, và chiều lên là 1.25 Gbps . Nếu 1 OLT phục vụ duy nhất một thuê
bao thì thuê bao đó có thể đuợc tận hửong toàn bộ băng thông như trên, tuy
nhiên thông thường trong các mạng đã triển khai tại một số nuớc trên thế giới,
các kỹ sư thường thiết kế tốc độ cho một thuê bao sử dụng PON vào khoảng
100 Mbps cho chiều xuống và 40 Mbps cho chiều lên. Với tốc độ truy nhập
như vậy thì quá thừa thãi cho các ứng dụng cao cấp như HDTV (khoảng 10
Mbps, chiều lên chiều xuống, chiều lên cho peer-to-peer HDTV). Active
Ethernet thông thường cung cấp tốc độ chiều lên và chiều xuống 100 Mbps tới
mỗi thuê bao. Active Ethernet cũng có thể cung cấp tốc độ lớn hơn vậy với
thiết bị đầu cuối GbEthernet, tuy nhiên các thiết bị hỗ trợ Gb Ethernet Switch
bị hạn chế về giá thiết bị (thường đắt hơn ít nhất gấp 6 lần so với active
Ethernet thông thường).
Trong một vài thử nghiệm gần đây đuợc tiến hành bộc lộ khả năng hạn
chế của Active Ethernet đó là: khi download 1 bộ phim HDTV 5.8 GB, khoảng
47 gigabits thông tin cần truyển tải, GPON mất 2 phút còn Active Ethernet mất
8 phút tại tốc độ truyền 100 Mbps. Một trong những điều đáng thuyết phục các
Operator để triển khai GPON đó chính là khả năng Broadcast TV, và IPTV nhờ

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 17


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

vào buớc sóng 1550 nm. (quảng bá tv số và analog), trong khi Active Ethernet
chỉ hỗ trợ IPTV. Sự khác biệt lớn nhất của GPON và Active Ethernet nắm ở
khía cạnh đầu tư và hiệu quả kinh tế:
- Để cho cùng đạt đuợc khoảng cách tới thuê bao là 20Km, Inactive
Ethernet cần thiết trên 4Watts/port; trong khi đó GPON cần không tới 1Watt.
Nói một cách chân phuơng Inactive cần nguồn gấp 4 GPON và cần hệ thống
điều hòa gấp 4 GPON.
- Ngoài ra về diện tích và số luợng thiết bị GPON tỏ ra đỡ tốn kém hơn
Active Ethernet nhiều.
Bảng 2: So sánh một số tiêu chí cụ thể giữa GPON và Active Ethernet

Các nhược điểm của GPON:


 Thiếu tính hội tụ IP (IP convergence)
 Có một kết nối duy nhất giữa OLT và spitter, nếu kết nối này mất
toàn bộ ONT không được cung cấp dịch vụ.
 Active Ethernet có thể triển khai cấu hình mạng Ring sẽ tạo nên
đường dự phòng. Trong khi đó GPON thì không.

III. CÁC DỊCH VỤ TRÊN MẠNG FTTx


Các nhà cung cấp dịch vụ đang sử dụng mạng FTTx (Fiber-to-the-x) như
một trong những công cụ hữu hiệu của chiến lược cạnh trạnh để cung cấp bộ 3
dịch vụ - Triple Play, bao gồm: thoại, dữ liệu và video trên nền IP. Các công
nghệ thường được sử dụng để tạo dựng các mạng FTTx, bao gồm cả các mạng
quang thụ động, các đường dây thuê bao số (DSL), và các công nghệ nén video
đều tiếp cận đến mức giá cả cạnh tranh.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 18


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Do yêu cầu để triển khai mạng FTTx không quá khó khăn, các nhà cung
cấp dịch vụ phải bảo đảm dịch vụ Triple Play mà họ cung cấp hoạt động hoàn
hảo. Nếu mạng cơ sở hạ tầng FTTx đã được triển khai mà chất lượng lại không
cao thì các nhà cung cấp dịch vụ sẽ phải đối mặt với nguy cơ vĩnh viễn mất đi
các khách hàng trung thành vào tay các đối thủ cạnh tranh, những người cung
cấp các gói dịch vụ tương tự nhưng với chất lượng cao hơn.
1. Xây dựng các khối bộ ba dịch vụ (Triple Play)
Các dịch vụ Triple Play có thể được cung cấp nhờ nhiều công nghệ truy
cập khác nhau trên cùng một mạng là FTTx. FTTx thực ra là một tập hợp các
kiến trúc mạng mới được thiết kế để mang các dịch vụ băng rộng tới các khách
hàng cuối cùng. Sợi quang có hoặc không được sử dụng trong tất cả các kết nối
từ nhà cung cấp đến khách hàng cũng như trong kiến trúc FTTP. Công nghệ
xDSL, ví dụ ADSL2+, có thể được sử dụng ở những kilomet cuối nhằm kết nối
từ nút quang tới thiết bị cuối phía khách hàng (CPE).
Thực tế, ở hầu hết các mạng FTTx, sợi quang, cáp đồng, cáp đồng trục,
giao tiếp không dây hoặc một vài sự kết hợp của những phương tiện này sẽ
mang các tín hiệu truyền tải các ứng dụng Triple Play tới các thiết bị mạng tích
hợp, các máy thu hình, và các bộ chuyển đổi trong các ứng dụng VoIP và thoại
thông thường.
Khi triển khai các dịch vụ Triple Play theo kiến trúc FTTx thì việc kiểm
tra tất cả các phương tiện truyền dẫn vật lý được sử dụng, đặc biệt là phần
mạng truy cập bằng cáp đồng, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Việc kiểm tra nhiều lớp của mạng cùng với các ứng dụng cung cấp phải
được tiến hành trong toàn bộ vòng đời của mạng - từ giai đoạn lắp đặt, cung
cấp dịch vụ, và bảo đảm dịch vụ. Để kiểm tra lớp vật lý cũng như các ứng dụng
trong toàn bộ chu kỳ sống của mạng, rất nhiều phương pháp đo và loại thiết bị
khác nhau cần được sử dụng ở rất nhiều điểm khác nhau trên mạng.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 19


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Hình 12. Các kiến trúc dịch vụ mạng FTTx

Trong giai đoạn lắp đặt mạng, cần tiến hành xác định đặc tính sợi quang
và các thông tin về suy hao chèn (insertion loss) và suy hao phản xạ ngược
(optical return loss). Trong giai đoạn cung cấp dịch vụ, cần tiến hành đo công
suất quang, hiệu suất truyền dữ liệu xDSL, đánh giá chất lượng thoại, video và
dữ liệu. Khi mạng đã được triển khai và cung cấp các dịch vụ, việc kiểm tra
đảm bảo dịch vụ trở thành một yêu cầu bắt buộc. Các kỹ thuật viên trên tuyến
phải có khả năng cách ly các lỗi hiệu quả, thực hiện đánh giá dịch vụ đầu cuối-
đầu cuối, và hỗ trợ quá trình phân tích sự cố một cách hiệu quả.
2. Kiểm tra các dịch vụ Triple Play
Tương tự như việc triển khai lớp vật lý, việc triển khai các dịch vụ Triple
Play được thực hiện theo ba giai đoạn khác nhau: lắp đặt các thành phần mạng
và đánh giá sơ bộ chất lượng mạng, cung cấp dịch vụ tới khách hàng, và bảo
trì, bảo đảm dịch vụ. Mỗi giai đoạn trong vòng đời của mạng lại mang đến
những thách thức khác nhau cho mỗi dịch vụ Triple Play.
2.1. Dịch vụ IP Video
Trước khi cung cấp dịch vụ IP video, nhà cung cấp dịch vụ phải xác định
sự phù hợp của mạng truy cập của khách hàng với dịch vụ IP video. Các cơ chế
quản lý Lớp dịch vụ Video (Video Class of Service), ví dụ như việc phân chia

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 20


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

nhãn VLAN (VLAN tag segregation), lập kế hoạch tải lưu lượng, và đảm bảo
phải được xác định. Thiết bị DSLAM phải được nâng cấp để hỗ trợ chức năng
thu phát gói (Internet Group Management Protocol-IGMP) và chức năng IP
multicast. Cấu hình phía mạng truy cập cũng cần được thiết lập để có thể hỗ trợ
các băng thông được yêu cầu đối với dịch vụ IP video. Đặc biệt, nó phải thoả
mãn được yêu cầu truyền 3 kênh video đồng thời.
Sau khi tất cả những vấn đề trên đã được giải quyết, tiến trình cung cấp
các thành phần cần thiết của mạng và việc kết nối có thể bắt đầu. Các thành
phần mạng cần lắp đặt và kiểm tra bao gồm các cổng DSLAM, Gateway phía
khách hàng, các dây mạng đi trong nhà khách hàng và các bộ giải mã tín hiệu
truyền hình số (STB -Set Top Box). Ngoài ra, việc đánh giá lại chất lượng của
liên kết mạng truy cập cũng cần tiến hành.
Khi tạo mới và cung cấp dịch vụ IP video, cần phải đánh giá và thu thập
thông tin về chất lượng dịch vụ và các lỗi xảy ra. Việc khắc phục sự cố dựa
trên những tình huống giả lập phải được thực hiện trước khi hoàn tất việc cài
đặt dịch vụ. Trường hợp lý tưởng nhất là lưu lại được các bản báo cáo đo của
khâu này trong quá trình triển khai dịch vụ và sau này dùng để tham chiếu cho
các hoạt động bảo trì và bảo đảm dịch vụ. Sử dụng dữ liệu đã được lưu lại này
sẽ được góp phần cải thiện đáng kể thời gian sửa chữa, khắc phục sự cố (Mean-
time-to-repair MTTR) mà nhờ đó, khách hàng được sử dụng dịch vụ chất lượng
ổn định.
Để cải thiện quá trình lắp đặt mạng và dịch vụ, các thiết bị đo kiểm có thể
giúp kỹ thuật viên trên tuyến kiểm tra ba tham số trước khi cung cấp dịch vụ IP
video, bao gồm: hiệu suất đường xDSL, cung cấp dịch vụ video, và chất lượng
dịch vụ video (QoS) . Thiết bị phải có khả năng mô phỏng STB của khách
hàng, lấy các luồng dữ liệu chương trình video, và xác định tính hợp chuẩn của
các giá trị QoS được thiết lập bởi nhà cung cấp dịch vụ cho mỗi tham số.
Các kết quả đo kiểm QoS Video hiển thị trên thiết bị đo kiểm của kỹ thuật
viên sẽ cho biết tất cả các tham số quan trọng ảnh hưởng tới luồng video. Ví
dụ, nếu jitter tham chiếu đồng hồ chương trình (Program Clock Reference -
PCR) cao, bộ giải mã không thể giải mã đúng tải video. Vấn đề trễ đối với
IGMP ảnh hưởng tới thời gian cần để chuyển đổi giữa các kênh video quảng bá
và do đó, là một yếu tố quan trọng liên quan đến cảm nhận của khách hàng về
chất lượng dịch vụ mà họ nhận được (customer experience). Số gói tin bị mất
trong luồng truyền dẫn video, được đo bằng bộ chỉ thị lỗi liên tiếp, là tham số
quan trọng nhất trong số 3 tham số được nêu ra ở đây. Thiết bị cũng nên có khả

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 21


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

năng thiết lập các giới hạn Đạt/Không đạt (Pass/Fail) cho mỗi tham số này, làm
tăng tính chắc chắn tổng các hoạt động vận hành thực tế và giúp cải thiện quá
trình đảm bảo dịch vụ IP video.
Để khắc phụ sự cố của IP video, các kỹ thuật viên trên tuyến có thể sử
dụng thiết bị đo kiểm của họ để phát hiện trường hợp lỗi IP, ví dụ như lỗi điểm
ảnh video hoặc lỗi đứng hình. Hai lỗi trên xảy ra là do mất gói dữ liệu, jitter gói
quá lớn, hoặc cả hai. Nếu không phát hiện ra lỗi nào ở lớp vật lý của liên kết
truy cập được kiểm tra thì có thể việc mất gói xảy ra ở đường lên (upstream)
của DSLAM. Jitter PCR liên quan tới một kênh video, xác định vấn đề xảy ra ở
headend, với việc chèn thêm các Local Ad, hoặc với các hoạt động chuyển đổi
mã tín hiệu nguồn. Việc mất gói tin gây ra nhiều ảnh hưởng khác nhau. Ví dụ,
nếu mất một gói mang khung B trong một tín hiệu video MPEG-2 sẽ chỉ ảnh
hưởng tới một hoặc hai khung của luồng video; nếu mất một gói mang một
khung I thì sẽ ảnh hưởng tới tất cả các khung cho tới tận khung I tiếp theo.
Thường thì từ 14 đến 15 khung sẽ bị ảnh hưởng tùy thuộc vào thiết lập kích
thước nhóm hình (Group of Picture – GOP).
Việc giám sát liên tục luồng các gói tin là cần thiết để đảm bảo rằng các
ứng dụng IP video đạt tới chất lượng mà các khách hàng trông đợi từ những
nhà cung cấp dịch vụ video cạnh tranh. Yêu cầu về chất lượng mà họ mong
muốn nhận được phải tốt hơn, hoặc ít nhất là bằng với chất lượng mà họ đã
nhận được trước đó.
2.2. Dịch vụ thoại IP
Muốn tạo và cung cấp một ứng dụng thoại IP cho doanh nghiệp thì phải
xác định được tính phù hợp của mạng doanh nghiệp khi lưu lượng nhạy cảm
với trễ của dịch vụ VoIP. Các tính năng lớp dịch vụ (Class-of-Service-CoS)
phải tồn tại trong các bộ định tuyến (router), và mạng phải được sửa hoặc lắp
đặt lại để phù hợp với lưu lượng thoại được thêm vào. Kế hoạch tải lưu lượng
có thể ảnh hưởng tới thiết bị mạng, đặc biệt là với các yêu cầu về băng thông
giao diện WAN. Các thỏa thuận về mức dịch vụ mới (Service Level Agreement
- SLA) cần được thiết lập.
Trong giai đoạn lắp đặt, cần lắp đặt và kiểm tra các thiết bị truy cập tích
hợp (Integrated Access Device–IAD), gateway thoại, bộ định tuyến và điện
thoại IP. Việc kiểm tra lớp vật lý của các liên kết WAN cũng phải được thực
hiện. Theo đó, các thành phần mạng và các kết nối cần thiết có thể được cung
cấp, và đường cáp mới được lắp đặt cho những điểm kết cuối mới (ví dụ các
điện thoại IP hoặc các bộ chuyển đổi (adapter).

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 22


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Khi dịch vụ được triển khai, kỹ thuật viên tập trung vào việc kiểm tra QoS
VoIP và bố trí các điện thoại IP trong thực tế. Họ cũng cần xử lý lỗi và các vấn
đề liên quan đến chất lượng dịch vụ trước khi hoàn tất việc cung cấp dịch vụ
cho khách hàng. Tương tự như với ứng dụng IP video, cần phải thu thập các
báo cáo kết quả đo ở giai đoạn này và lưu lại để sử dụng trong tương lai. Khi
xảy ra sự cố dịch vụ thì những bản báo cáo này sẽ giúp rút ngắn thời gian giải
quyết sự cố.
Khi triển khai dịch vụ thoại IP, các kỹ thuật viên cần xác định tính kết nối
từ phía khách hàng tới các gateway báo hiệu, cung cấp dịch vụ và chất lượng
cuộc gọi. Họ có thể đánh giá chất lượng cuộc gọi bằng cách thực hiện các cuộc
gọi kiểm tra trong nội bộ mạng IP (on-network test call) và các cuộc gọi sang
mạng PSTN (off-network test call). Các tham số cuộc gọi quan trọng cần kiểm
tra bao gồm: trễ gói, mất gói và jitter. Tuy nhiên, MOS (Mean Opinion Score)
sẽ là tham số SLA quan trong nhất được sử dụng để đo chất lượng VoIP một
cách tổng thể.

Hình 13 – Cấu trúc một mạng IP Video

Ở giai đoạn đảm bảo dịch vụ, rất nhiều vấn đề có thể làm giảm chất lượng
dịch vụ VoIP, bao gồm vấn đề liên quan tới khu vực mạng phía khách hàng gây
ra bởi bộ đàm thoại, hiệu suất của bộ xử lý/DSP, thiết bị thu/phát âm thanh, và
hiệu suất hoạt động của bộ loại bỏ tiếng vọng trong mạng. Các chuyển giao
mạng giữa mạng gói và mạng TDM thường được quản lý bởi một chuyển mạch
gateway thoại là những điểm kiểm tra quan trọng trong tất cả các mạng.
2.3. Dịch vụ dữ liệu IP Internet

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 23


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

Để cung cấp dịch vụ dữ liệu IP Internet tới các thuê bao FTTx thì mỗi
khách hàng cần được thiết lập một tài khoản ISP (Internet Service Provider
account – ISP account). Bên cạnh đó, kế hoạch về lưu lượng tải cũng cần sửa
đổi để phù hợp với luồng dữ liệu được thêm vào. Các máy chủ truy cập dịch vụ
băng rộng ở xa (Broadband Remote Access Server – BRAS) sẽ bị ảnh hưởng,
do đó việc hoạch định băng thông và định tuyến/điều khiển phải được hoàn
thiện. Bên cạnh việc thiết lập kết nối tới các ISP và cung cấp các thành phần
mạng cần thiết cho luồng dữ liệu tăng thêm và xử lý lớp dịch vụ (CoS), các
cổng DSLAM có thể được cấu hình lại để hỗ trợ tuyến trễ kép (dual-latency
path) trong môi trường ứng dụng hỗn hợp này.
Để kết thúc quá trình cài đặt, các kỹ thuật viên phải đánh giá hiệu suất
hoạt động lớp vật lý DSL, mức độ kết nối tới ISP, và thông lượng của dịch vụ
dữ liệu. Việc này được tiến hành bằng cách sử dụng một công cụ kiểm tra với
khả năng tích hợp trình duyệt Web (Web Browser) và thông lượng FTP. Sử
dụng các tập tin (file) kiểm tra có dung lượng có thể lựa chọn được bởi người
dùng và tiến hành kiểm tra cả đường lên và đường xuống, bài đo thông lượng
FTP sẽ kiểm tra hiệu suất của liên kết sát với các mô hình triển khai trong thực
tế hơn là chỉ kiểm tra đơn giản mỗi đường xuống của liên kết. Thực hiện bài
kiểm tra HTTP sử dụng một trình duyệt Web cũng có lợi trong việc đảm bảo
rằng kết nối/truy cập ISP của người dùng cuối vẫn chạy hoàn hảo.
Một khi dịch vụ dữ liệu IP Internet được triển khai thì độ chính xác của
dịch vụ cung cấp cũng cần phải được đánh giá xem có hợp chuẩn hay không.
Và một lần nữa, các bản báo cáo về bất kỳ sự cố hay vấn đề gì đều nên được
lưu lại để sử dụng làm tài liệu tham khảo trong tương lai.
2.4. Gói ba dịch vụ (Triple Play) cần Bộ đo kiểm cả ba dịch vụ
(Triple Testing)
Việc kiểm tra phải được thực hiện ở rất nhiều lớp, bao gồm: lớp vật lý,
lớp liên kết dữ liệu, lớp mạng và lớp ứng dụng. Nếu chỉ đơn thuần kiểm tra lớp
vật lý ở mạng truy cập thì không thể phát hiện ra các vấn đề QoS tiềm ẩn mà có
thể ảnh hưởng tới các ứng dụng Triple Play dựa trên gói.
Hiển nhiên là việc truyền gói tin chịu ảnh hưởng của luồng gói đầu cuối
tới đầu cuối. Các nhà cung cấp dịch vụ triển khai các mạng FTTx cần có chiến
lược hoàn chỉnh về dịch vụ và đo kiểm tin cậy dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về
ứng dụng được cung cấp để theo đó sẽ lắp đặt, cung cấp và bảo dưỡng chất
lượng của các dịch vụ.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 24


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

IV. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN


Dự kiến FTTH sẽ dần thay thế ADSL trong tương lai gần một khi băng
thông ADSL không đủ sức cung cấp đồng thời các dịch vụ trực tuyến trong
cùng một thời điểm. FTTH cung cấp 1 IP tĩnh thích hợp với các doanh nghiệp,
tổ chức triển khai dễ dàng các dịch vụ trực tuyến như IP Camera, lưu trữ mail,
truyền dữ liệu tốc độ cao...Theo một báo cáo mới nhất của Heavy Reading, số
hộ gia đình sử dụng kết nối băng rộng FTTH trên toàn thế giới sẽ tăng trưởng
hàng năm trên 30% cho đến năm 2012 và đạt 89 triệu hộ khi đó. Hiện Nhật
Bản, Trung Quốc và Mỹ là các quốc gia đi đầu trong lĩnh vực băng thông rộng
sử dụng công nghệ cáp quang này.

Hình 14: Tỉ lệ băng thông rộng trên thế giới theo thống kê quý 4 năm 2007

Công nghệ FTTH đã có khoảng 20 triệu kết nối toàn cầu, chỉ tính riêng ở
3 nước Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ đã có thêm khoảng 6 triệu thuê bao,
trong đó châu Á được đánh giá là thị trường có tiềm năng phát triển lớn. Theo
dự đoán, vào cuối năm 2012, riêng châu Á sẽ có 54 triệu kết nối FTTH, tiếp
theo là châu Âu/ khu vực Trung Đông/ châu Phi với 16 triệu, rồi đến Bắc Mỹ
và Nam Mỹ với 15 triệu. Hiện nay, quá trình chuyển đổi sang FTTH đang được
thực hiện ở nhiều nước, gồm Đan Mạch, Pháp, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Thụy Điển, Đài Loan và Mỹ.

PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 25


FTTx và một số dịch vụ trên FTTx

STT HỌ VÀ TÊN NỘI DUNG THỰC HIỆN


1 Lê Xuân Long Tổng quan về FTTx
2 Nguyễn Văn Minh
Các kỹ thuật triển khai FTTx
3 Nguyễn Văn Nam
4 Phạm Tuấn Việt Các dịch vụ trên FTTx
5 Champi Namaxay Xu hướng phát triển

TÀI LIỆU THAM KHẢO


 http://en.wikipedia.org/wiki/Fiber_to_the_x
 Thomas Martin, Fiber To The Home, Cisco Networkers, 2007
 Paul E. Green JR, Fiber To The Home – The new empowerment,
A John Wiley & Sons, Inc., Publication, 2006
 G. Kramer, Ethernet Passive Optical Networks, McGraw-Hill
Professional.

Nhóm 1 - Lớp D06VT2 26

You might also like