Professional Documents
Culture Documents
1 GIỚI THIỆU
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái rất hữu ích, nó tạo ra vật chất hữu cơ để cung cấp cho nhiều
loài sinh vật (Odum and Heald, 1975; Lee, 1989). Các vật chất hữu cơ này có thể có ảnh
hưởng đến chuỗi thức ăn vùng ven biển (Alongi, 1990). Trong các thập niên gần đây, dưới áp
lực của việc gia tăng dân số nhanh chóng, rừng ngập mặn đã và đang chịu tác động của việc
phá rừng và chuyển đổi đất rừng thành vuông tôm với qui mô lớn, đặc biệt là ở các nước
Đông Nam Á. Sự phát triển nhanh chóng của việc nuôi trồng thủy sản đã dẫn đến kết quả là
hệ thống canh tác không bền vững (Graaf and Xuan, 1998). Bảo tồn rừng ngập mặn là một
vấn đề quan trọng để duy trì cân bằng hệ sinh thái và cải thiện chất lượng nước vùng ven
biển. Vì vậy, sự cần thiết để bảo vệ vành đai rừng ven biển đã và đang là vấn đề quan trọng
(Loi và et al., 2002). Trong những năm gần đây, ở Việt Nam có nhiều nghiên cứu về sự phân
loại, sự tăng trưởng, quá trình diễn thế, lâm học, sử dụng đất rừng và vật rụng của rừng ngập
mặn (Nam và Thủy, 1997; Clough và et al., 2000). Tuy nhiên, dữ liệu về vật rụng của rừng
ngập mặn ở Việt Nam vẫn chưa đầy đủ.
Tỉnh Cà Mau (bán đảo Cà Mau) thuộc Tây Nam Đồng Bằng Sông Cửu Long là tỉnh có bờ
biển dài và đây là nơi có tình trạng phá rừng ngập mặn trầm trọng nhất. Sau chiến tranh, diện
tích rừng ngập mặn ở bán đảo Cà Mau được khôi phục lại do sự tái sinh tự nhiên và trồng
rừng với loài cây chính là đước đôi (Rhizophora apiculata Blume). Tuy nhiên, việc mở rộng
diện tích nuôi tôm trong những năm gần đây trong vùng là nguyên nhân chủ yếu đã làm giảm
diện tích rừng ngập mặn. Nghiên cứu này là một phần của chương trình nghiên cứu về Quản
lý tổng hợp tài nguyên ven biển (dự án MHO8) Đồng Bằng Sông Cửu Long, Việt Nam. Nơi
đây chính quyền các tỉnh đã thiết lập mô hình tôm - rừng kết hợp. Trong các mô hình tôm -
rừng kết hợp này, tôm và các loài thủy sản khác phụ thuộc
1
Bộ môn Môi trường và QLTNTN, Khoa Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ, Việt Nam
2
Bộ môn Khoa học Môi trường, nhóm nghiên cứu quản lý chất lượng nước và sinh thái thủy vực, Đại học Wageningen,
Hà lan
42 Tạp chí Khoa học 2004:1 42-51 Trường Đại học Cần Thơ
phần lớn vào nguồn thức ăn tự nhiên. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sản phẩm phân hủy từ
vật rụng rừng ngập mặn có thể là nguồn cung cấp cacbon chính cho chuỗi thức ăn vùng ven
biển nhiệt đới và cận nhiệt đới (Odum and Heald, 1972; Malley, 1978; Robertson and Daniel,
1989; Daniel and Robertson, 1990). Nghiên cứu này chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề
về động thái và chất lượng của vật rụng rừng ngập mặn cung cấp cho thủy vực giữa các khu
rừng có cấp độ tuổi khác nhau.
43
Đến 2010: Mười khu rừng ngập mặn cần ưu tiên quản lý
Thứ sáu, 16 Tháng bảy 2004, 19:37 GMT+7
Tags: rừng ngập mặn, quản lý, ưu tiên, Khu Rừng, quốc gia, diện tích, tiêu chí, mười, sinh, đến, nước
Tám tiêu chí quốc gia vừa được đề xuất trong mục tiêu ưu tiên quản lý bền
vững mười khu vực rừng ngập mặn trên cả nước. Đây là tin nổi bật về môi trường
trên các báo ra hôm nay.
Nhằm bảo vệ và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn
hiện nay, Viện Khoa học Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn - NN&PTNT) đã đưa ra mười khu vực rừng ngập
mặn trọng điểm cần ưu tiên quản lý tại các địa phương đến năm
2010: Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau (Cà Mau), Ram Sar (Nam
Định); Khu Bảo tồn thiên nhiên Thanh Phú (Bến Tre), Tiên Yên
(Quảng Ninh); Khu Bảo tồn loài và sinh cảnh cửa sông Văn Úc
(Hải Phòng), Thái Thuỵ (Thái Bình), Sóc Trăng (cửa sông Hậu),
Khu rừng phòng hộ xung yếu và sản xuất Lâm ngư trường 184 (Cà Mau), Khu Dự trữ sinh
quyển Cần Giờ (TP.HCM) và Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Các khu rừng ngập mặn này được Viện Khoa học Lâm nghiệp đề xuất quản lý bền vững
dựa trên tám tiêu chí quốc gia (về điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, tiềm năng kinh
tế...). Trong đó, các rừng ngập mặn phải có diện tích tối thiểu từ 1.000ha trở lên, diện tích
rừng ngập mặn chiếm trên 50% diện tích rừng tự nhiên của địa phương, diện tích rừng
nhiên còn lại lớn hơn 30% diện tích rừng ngập mặn hiện có và có đa số các loại động, thực
vật thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn. Ngoài ra, việc xác định các khu rừng ngập mặn còn
dựa vào tiêu chí vùng (xuyên quốc gia), tức là có cùng điều kiện sinh cảnh tương quan với
các nước trên thế giới về rừng ngập mặn...
Rừng ngập mặn Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia về kinh tế, xã hội, môi
trường, với nhiều tác dụng: bảo vệ tính đa dạng sinh học của thảm thực vật ngập mặn;
phòng hộ ven biển và mở nhanh diện tích các bãi bồi ra biển; giảm bớt sự xáo trộn đất đai
và ô nhiễm nguồn nước ven biển: tạo sinh kế cho ngư dân nếu được quản lý bền vững.
(Theo Econet)
Tags: bảo vệ môi trường, thay đổi khí hậu, thế giới, chúng ta, tương lai, thông điệp, thành phố, xanh, điện, công,
bạn, xe
Hãy tạo ra những thay đổi mà bạn muốn thấy trong thế giới của chúng ta, và hãy bắt
đầu việc bảo vệ môi trường bằng những việc đơn giản nhất.
Cựu Phó tổng thống Mỹ Al Gore đã đi khắp thế giới thuyết phục mọi người bắt tay đối phó
sự thay đổi khí hậu. Mỗi lần đáp máy bay, ông đều gửi tiền thuê trồng giúp một cây ở đâu
đó; “Cánh rừng Gore” hiện đã có hơn 1000 cây.
Trồng rừng để bảo vệ môi trường sống của bạn.
Sự kiện này mang rất nhiều ý nghĩa biểu tượng. Nó cho thấy thế giới đã nhận ra tầm quan
trọng của vấn đề thay đổi khí hậu. Hơn nữa, nó còn thể hiện triết lý “Hãy tạo ra những thay
đổi mà bạn muốn thấy trong thế giới chúng ta” (Mahatma Gandhi). Thay vì kêu ca về tình
trạng thay đổi khí hậu của thể giới, Al Gore đã chọn cách hành động và những nỗ lực không
mệt mỏi của ông đã tạo ra sự thay đổi.
Ông Al Gore đã đưa ra những lời khuyên nên làm để bảo vệ môi trường:
Thay bóng đèn thường bằng bóng tiết kiệm điện năng
Tăng cường tái chế những vật dụng quanh mình, đơn giản là… bán ve chai.
Bơm bánh xe: điều này nghe có vẻ lạ, nhưng thực sự xe căng bánh sẽ tiết kiệm xăng dầu
đáng kể.
Dùng ít nước nóng hơn xưa. Sẽ tốn rất nhiều năng lượng để nấu nước.
Đừng dùng những vật phẩm tốn quá nhiều giấy, hộp khi đóng gói, bởi những thứ này làm
hại môi trường.
Dùng máy lạnh, máy điều hòa một cách tiết kiệm.
Cũng với tinh thần xông xáo đó, diễn đàn “Tôi yêu thành phố của tôi” đang được tổ chức
trên báo Thanh Niên với sự phối hợp của nhãn hiệu Dulux (tập đoàn sơn AkzoNobel Việt
Nam). Diễn đàn là nơi các công dân có ý thức bảo vệ môi trường tham gia hiến kế cho
chính phủ các giải pháp vì một Việt Nam xanh, sạch, đẹp hơn.
Có rất nhiều những ý kiến tham gia diễn đàn “Tôi yêu thành phố của tôi” trích dẫn những
phương thức bảo vệ môi trường mỗi ngày. Bạn Nguyễn Bình An ở khu công nghiệp Sóng
Thần (Bình Dương) chọn giải pháp đi xe đạp đến công sở, vừa tập thể dục, vừa chống kẹt
xe lại vừa bảo vệ môi trường.
Bạn Trần Quốc Mạnh ở công ty tư vấn B.U.N chọn phương án mở cửa sổ văn phòng để tiết
kiệm điện sau khi đã trồng một dải cây xanh ngay cửa sổ. Bạn Phạm Đình Phong đang bán
hàng điện máy ở chợ Bến Thành (TP.HCM) luôn nhắc nhở khách hàng hạn chế tối đa việc
sử dụng những thiết bị điện có công suất cao nếu không cần thiết và hãy nhớ tắt điện khi
không dùng đến…
Nguyễn Nguyên Hồng Thuận, nhân viên kinh doanh một hãng dược phẩm của Đức tại
TP.HCM cho biết: “Tôi chọn cách thể hiện tình yêu thành phố bằng việc hạn chế in ấn tài
liệu mỗi ngày”.
Bạn Thuận giải thích: “Chúng ta có thói quen bấm nút “in” một cách vô tội vạ, mà ít khi nghĩ
đến cái giá phải trả cho nó. Tiền giấy, tiền mực, tiền điện, tiền hao mòn… có thể do công ty
chịu, không liên quan trực tiếp đến chúng ta. Nhưng nghĩ xa hơn, mỗi tờ giấy ta dùng là một
thân cây rừng bị hạ gục”.
“Nghĩ rộng hơn, mỗi hạt mực in là một quá trình ô nhiễm mới bắt đầu vì mực in khó phân
giải hết, nguồn điện năng tiêu thụ cũng đang cạn dần đi. Và thế giới chúng ta đang sống là
một thực thể gần, rất gần nhau. Thành phố chúng ta sẽ ngập trong biển nước do biến đổi
khí hậu, khi băng tan, khi rừng mất đi… Vì thế, tôi nghĩ việc làm của mình hết sức nhỏ nhoi,
nhưng vẫn thể hiện tình yêu với thành phố”.
• Duy Bảo
Dieu tra dang gia hien trang cay ngap man o pia tay dam lap an
Rừng ngập mặn: “Bức tường xanh”
giảm thiểu thiên tai
05-12-2007
Theo đánh giá của Ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu
(IPCC) thuộc Liên hiệp quốc, Việt Nam và Bangladesh là
hai nước chịu thiệt hại nặng nề nhất do nước biển dâng
vì tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở TP.HCM, tình
trạng ngập lụt do triều cường ngày càng tăng cao, mức
ngập ngày càng sâu và lan rộng từ mấy năm nay, ngoài lý
do đô thị hóa, còn là hậu quả của nước biển dâng. Việc
“phục hồi rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu,
hướng tới phát triển bền vững” ngày càng trở nên cấp Rừng ngập mặn ở Rạch Chàm - Phú Quốc.
thiết giữa bối cảnh ấy.
Rừng ngập mặn giúp giảm 50% - 90% năng lượng của sóng thần
Ai cũng biết vai trò của rừng ngập mặn (RNM) trong việc bảo vệ môi trường, là “lá phổi xanh” rất
quan trọng đối với các thành phố, nhưng vai trò của RNM còn nhiều hơn, nó còn như những
“bức tường xanh” có tác dụng phòng hộ trước gió và sóng biển.
Nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được trồng và bảo vệ tốt thì
các đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng gió lớn, dù là đê biển được đắp từ đất nện, trong
khi những tuyến đê biển được xây dựng kiên cố bằng bê tông hoặc kè đá nhưng RNM bị chặt
phá để chuyển sang nuôi tôm như Cát Hải (Hải Phòng), Hậu Lộc (Thanh Hóa) thì bị tan vỡ.
Theo nhóm khảo sát của GS-TSKH Phan Nguyên Hồng (Trung tâm Nghiên cứu hệ sinh thái
RNM, ĐH Sư phạm Hà Nội), độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi qua dải RNM, với mức biến đổi
từ 75% đến 85%, từ 1,3m xuống 0,2m - 0,3m.
Tương tự, đợt sóng thần khủng khiếp ngày 26/12/2004, hơn 2 triệu người ở 13 quốc gia châu Á
và châu Phi bị thiệt mạng, môi trường bị tàn phá nặng nề, nhưng kết quả khảo sát của IUCN
(Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới) và UNEP (Chương trình Môi trường thế giới) cùng các nhà
khoa học cho thấy, những làng xóm ở phía sau “bức tường xanh” RNM với băng rừng rộng gần
như còn nguyên vẹn vì năng lượng sóng đã được giảm từ 50% đến 90%, nên thiệt hại về người
rất thấp hoặc không bị tổn thất… RNM ở Ấn Độ, khoảng từ làng xóm ra bờ biển 1 km, so với nơi
không có rừng thiệt hại giảm 50% - 80%. Ở Phuket (Thái Lan) cũng vậy.
Theo tiến sĩ Vũ Văn Triệu, Trưởng đại diện IUCN tại Việt Nam, RNM là hệ sinh thái đặc biệt, có
giá trị và ý nghĩa to lớn về đa dạng sinh học đối với việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế -
xã hội. Nhưng, RNM của nước ta đứng trước nguy cơ bị khai thác quá mức để phục vụ phát triển
Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, năm 1943 diện tích RNM Việt Nam
trên 400.000 ha, đến năm 1996 giảm còn 290.000 ha và 279.000 ha vào năm 2006.
Những hạn chế bộc lộ thời gian qua trong quản lý và sử dụng RNM là nhận thức xã hội còn thấp,
ngay cả việc nghiên cứu khoa học cũng chưa tương xứng, quản lý chưa thống nhất.
Vì vậy, nếu không gắn kết giữa hệ sinh thái RNM với việc phát triển bền vững, sẽ khó có thể tiếp
tục giữ diện tích rừng hiện có nhằm giảm bớt thiệt hại do thiên tai gây ra.
Bộ NN - PTNT đang dự thảo kế hoạch phục hồi RNM cả nước đến năm 2015 với kinh phí là
1.900 tỷ đồng và bài toán đặt ra là cần có giải pháp gì để khôi phục, bảo vệ và lượng giá về giá
trị RNM đối với các tỉnh ven biển.
Theo GS Nguyễn Mạnh Trí, Tổng thư ký Ủy ban MAB VN (Chương trình con người và sinh
quyển) có 3 giải pháp chính: Nâng cao nhận thức người dân - không ở mức bình thường mà là
báo động - về tác hại của việc thay đổi khí hậu toàn cầu. Cộng đồng dân cư cùng tham gia trồng
rừng, thay vì chỉ có nhà nước.
Và sự tham gia của nhà khoa học, nhà quản lý tạo ra kịch bản những nguy cơ có thể xảy ra để
tính toán trước những thiệt hại ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và đời sống xã hội nếu thiếu
RNM.
Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái đa dạng, có vai trò rất quan trọng, được ví như
lá chắn xanh bảo vệ vùng cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn chế tác hại của
gió bão, mở rộng đất liền.
RNM còn được ví như một nhà máy lọc sinh học khổng lồ, nó không chỉ hấp thụ
khí CO2 do hoạt động công nghiệp và sinh hoạt thải ra, mà còn sinh ra một lượng ô-
xy rất lớn, làm cho bầu không khí trong lành. Về kinh tế, tài nguyên RNM rất đa
dạng, như: Gỗ, than, ta-nin, chim, thú và nhiều loài hải sản có giá trị xuất khẩu...
Ai cũng biết vai trò của RNM trong việc bảo vệ môi trường, là “lá phổi xanh” rất quan
trọng đối với các thành phố, nhưng vai trò của RNM còn nhiều hơn, nó còn như
những “bức tường xanh” có tác dụng phòng hộ trước gió và sóng biển. Nhiều cơn bão
lớn đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được trồng và bảo vệ tốt thì các
đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng to gió lớn.
Theo nhóm khảo sát của GS-TSKH Phan Nguyên Hồng (Trung tâm Nghiên cứu Sinh
thái Rừng Ngập mặn, Đại học Sư phạm Hà Nội), độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi
qua dải RNM
Theo tiến sĩ Vũ Văn Triệu, Trưởng đại diện IUCN tại Việt Nam, RNM là hệ sinh thái
đặc biệt, có giá trị và ý nghĩa to lớn về đa dạng sinh học đối với việc bảo vệ môi
trường và phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng, RNM của nước ta đứng trước nguy cơ bị
khai thác quá mức dẫn tới bị tàn phá nặng nề.
Số liệu của Bộ Nông nghiệp&Phát triển Nông thôn (NN - PTNT) cho thấy, năm 1943
diện tích RNM Việt Nam trên 400.000 ha, đến năm 1996 giảm còn 290.000
ha và 279.000 ha vào năm 2006.
Còn có thể kể đến những hậu quả tai hại khác như gây ô nhiễm đất và nước đầm
nuôi trồng thủy sản, giảm nguồn lợi sinh vật cũng như giống thủy sản tự nhiên, giảm
năng suất nuôi tôm, nhất là ảnh hưởng đến sinh kế người dân và phân hóa giàu
nghèo.
Các giải pháp khắc phục khả thi: có 3 nhóm giải pháp chính
- Nâng cao nhận thức người dân - không ở mức bình thường mà là báo động về tác
hại của việc thay đổi khí hậu toàn cầu. Cộng đồng dân cư cùng tham gia trồng rừng,
thay vì chỉ có nhà nước. Và sự tham gia của nhà khoa học, nhà quản lý tạo ra kịch
bản những nguy cơ có thể xảy ra để tính toán trước những thiệt hại ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế và đời sống xã hội nếu thiếu RNM.
Để bảo vệ rừng ngập mặn, Việt Nam cần phải rà soát lại quy hoạch phát triển thủy
sản ven biển, điều chỉnh theo hướng ưu tiên bảo tồn rừng ngập mặn hiện có, phục
hồi rừng ngập mặn bị suy thoái và thậm chí hoàn nguyên một số khu rừng ngập mặn
đã sử dụng thiếu hợp lý. Trong các quy hoạch nuôi trồng thủy sản ven biển phải
dành đất để trồng các dải rừng ngập mặn làm vành đai xanh bảo vệ bờ biển, đầm
nuôi với diện tích hợp lý theo quy hoạch tùy theo địa hình để giảm nhẹ thiệt hại khi
có thiên tai xảy ra.
Đặc biệt, cần phải nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và người dân về vai trò,
giá trị của rừng ngập mặn, đặc biệt là phát triển thủy sản bền vững.
Rừng ngập mặn bị tàn phá ảnh hưởng đến sinh kế của người dân. Ảnh: BAĐM
(LĐĐT) - Phó Giáo sư-Tiến sĩ (PGS-TS) Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng
cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết: Hiện rừng ngập mặn ở nước ta đang bị phá hủy
nghiêm trọng, với tốc độ bình quân khoảng 3%/ năm làm tăng diện tích đất hoang, tăng
xâm nhập mặn, xói lở bờ biển và sông, gây ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Tan hoang rừng ngập mặn
Lý giải về tác hại của việc tàn phá rừng ngập mặn ở nước ta, PGS-TS Nguyễn Chu Hồi
cho rằng: Đó là do sự phát triển ồ ạt của các khu sản xuất nông nghiệp, khu dân cư, khu
nuôi tôm ven biển, ven sông khiến diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp, cách biệt dần khỏi
ảnh hưởng của thủy triều. Điều này dẫn đến giảm đáng kể diện tích phân phối nước triều,
đặc biệt là lúc triều cường gây ra hiện tượng xâm nhập mặn sâu vào nội đồng.
Việc quai đê lấn biển lấy đất rừng ngập mặn trồng lúa, đắp đầm với diện tích lớn cũng
thu hẹp bãi bồi ven sông ven biển, làm giảm lượng phù sa bồi đắp cho các bãi triều, mất
đi bình phong bảo vệ đê biển.
Đất rừng ngập mặn thường có các tầng khử màu xám xanh. Khi chuyển mục đích sử
dụng đất rừng ngập mặn sang các hoạt động khác khiến đất rừng ngập mặn bị suy thoái
làm cho nước bị chua phèn, bị bỏ hoang không có khả năng canh tác và nuôi trồng thủy
sản hoặc phục hồi rất chậm.
Còn có thể kể đến những hậu quả tai hại khác như gây ô nhiễm đất và nước đầm nuôi
trồng thủy sản, giảm nguồn lợi sinh vật cũng như giống thủy sản tự nhiên, giảm năng suất
nuôi tôm, nhất là ảnh hưởng đến sinh kế người dân và phân hóa giàu nghèo.
Để bảo vệ rừng ngập mặn, Việt Nam cần phải rà soát lại quy hoạch phát triển thủy sản
ven biển, điều chỉnh theo hướng ưu tiên bảo tồn rừng ngập mặn hiện có, phục hồi rừng
ngập mặn bị suy thoái và thậm chí hoàn nguyên một số khu rừng ngập mặn đã sử dụng
thiếu hợp lý. Trong các quy hoạch nuôi trồng thủy sản ven biển phải dành đất để trồng
các dải rừng ngập mặn làm vành đai xanh bảo vệ bờ biển, đầm nuôi với diện tích hợp lý
theo quy hoạch tùy theo địa hình để giảm nhẹ thiệt hại khi có thiên tai xảy ra.
Đặc biệt, cần phải nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và người dân về vai trò, giá trị
của rừng ngập mặn, đặc biệt là phát triển thủy sản bền vững.
Vấn đề cốt yếu để giải quyết cơ bản việc phát triển rừng ngập mặn, nuôi trồng thủy sản
hiệu quả, bền vững là cân nhắc đầy đủ 3 yếu tố gồm kinh tế (hiệu quả kinh tế), xã hội
(xóa đói giảm nghèo), môi trường (an ninh sinh thái) và lồng ghép chúng vào các kế
hoạch sử dụng rừng ngập mặn.
Có thể nói, trên địa bàn tỉnh TT Huế diện tích rừng cây ngập mặn đang còn tồn tại và phát triển ở một số địa phương như ở
sông BùLu Lộc Vĩnh rú chá Hương Phong… Để góp phần vào chống biến đổi khí hậu đang ngày càng được xã hội quan tâm,
đã có nhiều tổ chức đơn vị tham gia trồng cây ngập mặn để bảo vệ môi trường sống của chính mình một cách thiết thực và
hiệu quả tại địa phương. Qua những đợt thiên tai một điều dễ dàng nhận thấy ở đâu có rừng ngập mặn được phát triển thì ở
đó thiệt hại do thiên tai gây ra ít hơn. Do đó, trong những ngày đầu năm 2010, Chi cục bảo vệ môi trường tỉnh TT Huế đã ra
quân tổ chức trồng cây ngập mặn để bảo vệ môi trường trong khuôn khổ dự án “thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý tài
nguyên nước ở cấp độ công đồng tại một số địa phương có điều kiện phù hợp. Hơn 3000 cây đước, cây mắm, sú, vẹt, bần
được người dân tham gia trồng tại Cồn Tề Thôn Thuận Hoà xã Hương Phong huyện Hương Trà. Đây là vùng đất do quá trình
bồi lấp nằm gần cửa biển và vùng đầm phá Tam Giang nên nhiều người dân cho biết nếu trồng rừng ngập mặn ở đây sẽ góp
phần rất lớn vào bảo vệ cửa biển cửa sông khi thiên tai bão lụt xảy ra, bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học cũng như có tác tác
dụng lớn vào bảo vệ môi trường sống của cộng đồng dân cư trong vùng.
Những mầm xanh đang được người dân thôn Thuận Hoà đã cùng với Chi cục bảo vệ môi trường tỉnh TT Huế tích cực trồng
cây rừng ngập mặn và họ cho biết sẽ cố gắng bảo vệ để cây phát triển tốt. Bởi bảo vệ những mầm xanh phát triển cũng chính
là góp phần vào bảo vệ cuộc sống của chính mình gia đình và thôn xóm.
Cùng với việc trồng cây rừng ngập mặn tại Cồn Tè , xã Hương Phong, chi cục bảo vệ môi trường còn thực hiện trồng cây bản
địa và cây ngập mặn tại khu tái định cư xã Hải Dương huyện Hương Trà và khu bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản Cồn Chìm xã Vinh
Phú huyện Phú Vang.
Như vậy, trong quá trình bảo vệ môi trường bảo tồn thiên nhiên thì cộng đồng có vai trò hết sức quan trọng. Ở đâu phát huy
được sức mạnh của tập thể, của cộng đồng thì công tác bảo vệ môi trường bảo tồn thiên nhiên thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Mùa xuân đang về với mọi người, trồng cây vào đầu năm mới là một việc làm thường niên để mang đến những mầm xanh, một
sức sống mới cho tương lai.
Phục hồi rừng ngập mặn: bảo vệ bờ biển và giảm nhẹ tác động
biến đổi khí hậu
Cuối tháng 11/2007, IUCN đã cùng với các đối tác địa phương và quốc tế tổ chức
Hội thảo "Phục hồi rừng ngập mặn để thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu và
phát triển bền vững” tại huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.
Mục đích của buổi hội thảo nhằm tăng cường những biện pháp bảo vệ đa dạng sinh học
cho rừng ngập mặn Cần Giờ, cũng như áp dụng các bài học thu được cho những khu rừng
ngập mặn khác tại Việt Nam.
Hơn 120 đại diện từ ban ngành chính phủ, cơ quan nghiên cứu và tổ chức đoàn thể đã
tham dự buổi hội thảo, cùng thảo luận những giải pháp lý luận và thực tiễn nhằm khôi
phục rừng ngập mặn tại Việt Nam. Sau buổi hội thảo, các đại biểu đã có chuyến đi thăm
rừng ngập mặn Cần Giờ, từ đó có cái nhìn thực tế về các vấn đề đã được bàn luận trong
buổi hội thảo.
Rừng ngập mặn là hệ thống sinh thái có giá trị bảo vệ môi trường cao vì chúng đóng vai
trò quan trọng trong hoạt động ngăn ngừa thiên tai và phát triển kinh tế xã hội. Những
khu rừng ngập mặn dọc vùng ven biển Việt Nam làm giảm thiểu tác động tiêu cực của lũ
lụt và những điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Chúng cũng đồng thời làm nhẹ các tác động
tiêu cực của biến đổi khí hậu đã được các chuyên gia thay đổi khí hậu dự báo là vô cùng
khắc nghiệt ở Việt Nam. Rừng ngập mặn Việt Nam hiện tại đang bị suy thoái nghiêm
trọng do sự phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ, do đó đặt ra nhu cầu cấp bách cho việc
phục hồi rừng ngập mặn.
Buổi hội thảo đồng thời hỗ trợ chương trình mở rộng tại châu Á của IUCN: "Rừng ngập
mặn vì tương lai". Chương trình này nhắm tới các quốc gia bị ảnh hưởng từ trận sóng
thần 2004 ở Ấn Độ Dương, cũng như các quốc gia trong khu vực Châu Á - Ấn Độ Dương
trong đó có Việt Nam. Đây là một sáng kiến đa cơ quan, đa quốc gia hướng tới việc bảo
tồn lâu dài và phát triển bền vững cho hệ thống sinh thái vùng ven biển.
Kết thúc buổi hội thảo, người tham dự và ban tổ chức, bao gồm cả Trung tâm phục hồi hệ
thống sinh thái rừng ngập mặn (MERC), Đại học Quốc gia Hà Nội, Tổ chức Hành động
Khôi phục rừng ngập mặn Nhật Bản (ACTMANG) và ban quản lý Rừng ngập mặn phòng
hộ Cần Giờ, khẳng định cam kết hỗ trợ hoạt động khôi phục rừng ngập mặn và ủng hộ
chính phủ Việt Nam ban hành những biện pháp phục hồi rõ ràng.
Photo: IUCN
Để phục hồi những cánh rừng ngập mặn, từ năm 1994 đến nay Hội, Chữ thập đỏ Việt Nam đã
phối hợp với các địa phương ven biển tổ chức trồng khoảng 22.000 ha rừng ngập mặn. Mặc dù
để trồng và bảo vệ được những cánh rừng ngập mặn này phải tiêu tốn tới 1,1 triệu USD, nhưng
lại tiết kiệm được 7,3 triệu USD mỗi năm đầu tư cho việc bảo dưỡng đê điều. Ước tính có khoảng
7.750 gia đình được hưởng lợi trực tiếp và lâu dài từ nguồn thu hoạch cua, ghẹ, tôm và các động
vật nhuyễn thể do chương trình phục hồi rừng ngập mặn mang lại. Việc duy trì những giống cây
truyền thống là một công cụ quan trọng trong việc thích nghi với biến đổi khí hậu, đảm bảo sẵn có
những giống cây trồng thích hợp với các điều kiện khác nhau. Bên cạnh đó, bảo tồn gen nói
chung và bảo tồn nguồn gen thực vật rừng ngập mặn góp phần tăng đa dạng sinh học, đóng vai
trò trung tâm trong nhiều chiến lược thích nghi với biến đổi khí hậu.
Theo đánh giá của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới, rừng ngập mặn có vai trò quan trọng
trong việc giảm nhẹ lực tác động của sóng và bảo vệ dân cư cũng như hạ tầng cơ sở vùng ven
biển. Nơi nào có rừng ngập mặn còn nguyên vẹn thì thiệt hại rất ít vì rừng ngập mặn có thể làm
giảm 50-75% chiều cao của sóng và 90% năng lượng của sóng lớn. Rừng ngập mặn có khả năng
chống lại sự tàn phá của sóng thần và bão lớn nhờ hai phương thức khác nhau. Đó là khi năng
lượng sóng không quá lớn, quần xã các loài có thể đứng vững (hoặc chỉ bị tàn phá ở viền ngoài)
bảo vệ hệ sinh thái của chính mình và bảo vệ cộng đồng dân cư ở đằng sau chúng. Còn khi năng
lượng sóng rất lớn phá huỷ rừng ngập mặn thì chúng có thể hấp thu nguồn năng lượng khổng lồ
bằng cách hy sinh chính mình bảo vệ cuộc sống của con người./.
Các từ khóa theo tin:
Tuấn Nghĩa
Khám phá vùng đầm phá lớn nhất Đông Nam Á với những vẻ đẹp khó cưỡng
Cái tên Tam Giang như gợi mở một vùng sông nước mênh mang lắm. Chẳng biết thuở xa
xưa, vùng sóng nước này còn hoang sơ đến đâu mà để phải ghi dấu vào trong ca dao của
người dân Huế như huyền thoại về một vùng đất hiểm địa “Thương em anh cũng muốn
vô. Ngại Truông Nhà Hồ, ngại phá Tam Giang”.
Không biết Phá Tam Giang có thực sự đã từng là một nơi làm trở ngại cho tình yêu của đôi trai gái hai xứ
Đàng Ngoài, Đàng Trong như trong câu ca dao xưa hay không. Nhưng giờ đây, nếu được một lần du ngoạn
bồng bềnh trên sóng nước Tam Giang, khám phá một hệ đầm phá được mệnh danh là kỳ vĩ nhất khu vực
Đông Nam Á với những vẻ đẹp quyến rũ, bình yên của thiên nhiên và cuộc sống con người nơi đây, hẳn
bạn sẽ có những trải nghiệm thú vị đến khó quên trong đời.
Tuệ Anh
Từ Huế, chỉ mất khoảng 15km, đi theo hướng ra cửa biển Thuận An, một vùng đầm phá rộng lớn hiện ra
trước mắt. Qua khỏi thành phố Huế trầm mặc, chậm rãi trong nhịp sống, vút qua những ngôi làng ngoại
thành Huế hiền hòa, cô quạnh soi bóng bên những nhánh sông nhỏ của dòng Hương Giang, ta sẽ chạm
ngay một vùng sóng nước. Một không khí tươi mới, khoáng đạt, rộng mở. Gió nồng nàn và nắng cũng như
Ấn tượng nhất trên Phá Tam Giang là lúc hoàng hôn buông xuống. Mặt trời vàng rực ẩn sau những đụn
mây hồng tỏa một thứ ánh sáng le lói. Cả mặt phá đỏ rực như lửa cháy. Rồi dần dần chuyển qua sắc vàng.
Những ráng mây hồng hắt xuống mặt nước dần dần đã chuyển sang màu cánh nhạn lai hồng. Mặt trời tỏa
những áng vàng le lói phía cuối chân trời. Nhè nhẹ chìm xuống. Bàng bạc dần cái ánh vàng hiu hắt, để lại
một khoảng trời nho nhỏ và một vùng mặt phá như nửa thực nửa mê, như một bức tranh thủy mặc tươi
Diện tích phá Tam Giang khoảng 52km², trải dài khoảng 24 km theo hướng tây tây bắc-đông đông nam từ
cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương, thuộc địa phận ba huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà tỉnh
Thừa Thiên-Huế.
Cái tên Tam Giang, ngay khi thốt lên đã khiến người ta liên tưởng tới một nơi giao hòa dòng chảy của 3 con
sông. Nơi của những con sông, sau chuỗi ngày uốn lượn, tha thướt lướt qua dải đất liền, xuyên qua Thành
phố Huế cổ kính, chảy qua những ngôi làng bình yên thì hòa vào nhau rồi đổ ra cửa biển Thuận An và Tư
Hiền, tạo nên một vùng đầm phá rộng lớn. Con sông Bồ bắt nguồn từ dãy núi Sơn Hồ chảy theo tuyến Phú
Ốc đến Phú Lễ; chia ra một nhánh chảy về phía Tây Nam, đi ra sông Sình và về biển Ðông; một nhánh khác
chảy quanh ra phía Bắc đến các làng Cổ Tháp, Sơn Tùng, chảy qua Nam Dương hợp với sông Nam Phù
chảy vòng lại phía Ðông Bắc đến thôn An Xuân rồi đổ ra phá Tam Giang. Dòng Hương Giang khởi thủy
bằng hai nguồn bắt đầu từ dãy Trường Sơn, một nhánh từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc
gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại
ngã ba Bằng Lãng. Dòng Ô Lâu cũng bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy qua Quảng Trị, rồi vòng qua
Phong Điền và đổ ra cửa Thuận An. Ba con sông, ba dòng chảy cùng gặp gỡ nhau nơi cửa Thuận An để
hòa vào đại dương mênh mông. Có lẽ vì thế chăng mà Tam Giang như mang cả những nét đẹp hiện hữu
của từng dòng sông ấy. Cái dịu dàng, xanh thẳm và mê đắm của dòng Hương Giang. Sự hiểm nguy và
mạnh mẽ của dòng sông Bồ hay sự thất thường, trái tính của con nước dòng Ô Lâu.
Từ Abalone Resort & Spa — khu resort độc đáo nằm ngay trên bờ Phá, chúng tôi bắt đầu chuyến hành
trình bằng phương tiện xe đạp. Đạp xe khoảng chừng 10 phút thì ra đến bến đò chở khách vượt Tam Giang
ra các hòn đảo trên phá. Vác xe đạp bỏ lên đò, thuyền tròng trành rồi rung lên bần bật lướt qua con sóng để
tiến ra giữa vùng đầm phá. Cái nắng của buổi ban trưa như muốn làm khô khốc mọi thứ. Nhưng chỉ đi một
quãng ngắn, những cơn gió ùa về từ ngoài khơi biển Thuận An như làm vơi đi cái nóng nực ngày đầu hè.
Không khí mát lành và thoáng đãng. Những làn nước tung trắng xóa theo mũi thuyền lướt, bám vào người
chúng tôi như muốn chia sẻ sự dịu mát của làn nước nơi này. Chọn điểm đứng ngay trước mũi thuyền, mặc
nắng cháy trên đầu và nước làm ướt chân phía dưới, thả tầm mắt cho vẫy vùng khoảng không gian trước
Không như nhiều hệ đầm phá khác mà tôi đã đi qua, nước thường rất đục, màu nâu xám hoặc màu nâu đỏ,
dòng nước trên phá Tam Giang lại xanh ngắt như nước biển, trong vắt và mang một vị mằn mặn nhẹ chứ
Điểm dừng chân đầu tiên mà thuyền chúng tôi ghé đến là Rú Chá. “Rú” trong tiếng địa phương nơi đây để
chỉ khu rừng và chá là một loại cây thân gỗ mọc ở vùng đất ngập mặn, cùng họ với tràm, đước, sú vẹt. Cây
Chá là loại cây phổ biến nhất ở nơi này, mọc nhiều tạo thành một khu rừng xanh tươi, hay nói đúng hơn là
Đò cập bờ. Men theo những con đê nhỏ dẫn lối, khoảng chừng hơn 200m là đã vào đến rừng. Đặt chân
xuống Rú Chá, men theo lối mòn của các đìa nuôi tôm, du khách bắt đầu tiến sâu vào khu rừng nguyên sinh
duy nhất còn sót lại ở vùng phá Tam Giang này. Luồn lách dưới những vòm cây Chá, trong không gian mát
rượi của bóng cây và gió biển, ta sẽ khám phá được sự độc đáo của loại cây “vua” trên vùng đầm phá này.
Cây Chá có tán rộng, vươn dài với bộ rễ tỏa ra tua tủa cắm xuống đất, cành đan cành, rễ xen rễ nối tiếp
nhau. Chính vì thế khi bước vào rừng, tán lá của cây tạo thành một mái che tuyệt vời mà họa hoằn lắm mới
có vài tia nắng lọt vào được qua kẽ lá. Khác với những khu rừng ngập mặn thường thấy ở Nam Bộ, với đặc
trưng những tầng thực vật ngập mặn lùi dần vào đất liền theo độ nhiễm mặn của đất, nước. Mức độ mặn ở
phá Tam Giang tương đối ổn định vì thế chỉ thấy bạt ngàn toàn Chá.. Không khí trong rừng mát lạnh và yên
ắng. Không như những vùng rừng ngập mặn khác muốn di chuyển phải men theo những bờ đê bé tý ty,
hoặc phải đi bằng thuyền hay cano len lỏi qua từng gốc cây, ô rừng. Ở trong rừng chá gần như là đất liền
vậy, chá sống ở vùng ngập mặn nhưng rừng không ngập nước. Vì vậy có thể tha hồ tung tăng trên những
khoảng rừng thưa, hoặc những con đường mòn dẫn lối. Thậm chí nếu hứng thú, có thể vác xe đạp lên đây
để đạp cũng rất thú vị. Giữa mênh mông chá và nước có một ngôi nhà nhỏ của vợ chồng ông bà Nguyễn
Thị Hồng. Năm nay đã ngoài 60 tuổi, ông bà Hồng đã có hơn 16 năm tình nguyện sống tại đây để bảo vệ
rừng.
Đi một lúc thì gặp ngay một ngôi mộ khá lớn và một đình thần khá cổ xưa. Cô hướng dẫn viên của Abalone
Resort cho biết đây là đền thờ Thành Hoàng- vị thần che chở cho sự bình yên của dân làng và bảo hộ nghề
chài lưới cho ngư dân sinh sống ven vùng đầm phá. Bao quanh Rú Chá là phá… Có những vuông mặt
nước người ta vây lại bằng những hàng rào lưới (hàng đáy) để giăng bắt thuỷ hải sản. Cuộc sống của
người dân quanh đây phụ thuộc rất nhiều vào phá. Họ nuôi trồng, đánh bắt thủy sản và giao thông đi lại
ngay trên phá. Có những người dân sống hẳn trên những con thuyền lênh đênh mãi trên phá Tam Giang.
Đó là nhà của họ. Sáng sáng chiều chiều giăng lưới bắt cá. Ghe thuyền nào đi ngang qua, thích thì tấp lại
mua vài ba con cá. Hoặc dăm ba bữa họ cũng dong thuyền tấp vào bến nào đó để mua vài ba thứ cần
dùng.... Cuộc sống lênh đênh nhưng với họ, có khi như thế lại là một cái gì đấy hạnh phúc.
Rời Rú Chá, đò tiếp tục chạy đưa chúng tôi đến làng Thai Dương Hạ. Ngôi làng được coi là giàu nhất nhì
vùng biển Thuận An khi hầu hết các gia đình nơi đây đều có người nhà sinh sống ở ngoại quốc. Ngôi làng
nhỏ bé, bình yên, nằm nép mình bên bờ phá, giữa mênh mông sóng nước. Làng Thai Dương Hạ nổi tiếng
vì giàu có thì ít, nổi tiếng vì thành phố lăng thì nhiều. Những lăng tẩm của các vị tiên tổ được xây dựng
hoành tráng, to đẹp, trị giá hàng tỷ đồng. Gia đình nào cũng cố gắng xây mộ tổ thật to đẹp như muốn các vị
được nở mày nở mặt mà con cháu cũng được tiếng thơm thảo, có phúc làm ăn. Cả một dải dọc dài ven bờ
phá, kéo dài lên đến đồi là một thành phố lăng nhấp nhô mà quy mô công trình và kiến trúc đẹp gấp vạn lần
những ngôi nhà của người sống. Một thành phố lăng tẩm độc đáo và ấn tượng mạnh.
“Đến Tam Giang mà không đi ngắm hoàng hôn trên phá, thong dong chứng kiến sự biến đổi giữa ngày và
đêm và cái lãng mạn của sóng nước nơi đây thì coi như chuyến đi chẳng còn ý nghĩa gì nữa” — Anh Trần
Quang Hào, Giám đốc Abalone Resort & Spa quả quyết khi chúng tôi bắt đầu chuyến hành trình. Quả thật,
đến Phá Tam Giang để mà tìm địa điểm du lịch nào đó nổi tiếng, hoành tráng hay cầm được, sờ mó được
thì có lẽ là… không tưởng. Vì rằng nơi này bình dị lắm. Thế nhưng, điểm khiến khó ai đi một lần rồi có thể
quên đươc chính là cái cảm giác được lênh đênh, tròng trành giữa sóng nước, vừa ngắm những cạnh vật
thiên nhiên rất yên bình vừa có thể lênh đênh trên thuyền để ngắm hoàng hôn trên phá. Một cảnh tượng mà
có lẽ nếu ở thành phố khó có thể chiêm ngưỡng được. Và cũng khác hẳn quanh cảnh hoàng hôn trên biển.
Mặt trời dần dịu nắng, rồi chuyển sang đỏ rực, rồi tỏa sắc vàng bàng bạc lấp loá trên mặt đầm phá. Vài chú
chim bói cá cứ lao mình xuống rồi lại vút lên cao, vẽ những mũi tên trên nền trời xanh thẳm xanh. Những
chiếc thuyền chài đã ầm ào kéo về bến cá. Cả cảng cả huyên náo bởi tiếng kêu, tiếng gọi, tiếng xôn xao
của ngư phủ. Những chiếc thuyền câu cũng chuẩn bị giăng lưới, giăng đèn. Thấp thoáng trên mặt phá rộng
lớn, những chiếc vó khổng lồ phản chiếu chút nắng cuối ngày, lấp lánh ánh bạc, những chiếc thuyền chở
khách như vội vã tăng tốc cho kịp cập bến kẻo tối trời. Thoảng đâu đó từ rất xa, một tiếng hò khoan của ai
đó nghe như có như không, như kéo người ta vào một khoảng lặng đến nao lòng. Để rồi bỗng những tiếng
cười khach khách, hồn nhiên và trong trẻo của lũ trẻ vạn đò như khiến người ta bừng tỉnh khỏi cái khung
cảnh huyền hoặc đó của đất trời, sông nước. Những hàng đáy lại vẽ thêm những đường kẻ ô so le nhau
giữa trời và nước. Và rồi, ở xa xa, mây trắng chuyển dần sang xám, xoá dần đi đường chân trời....để hoàng
hôn nhượng màu cho đêm đang bắt đầu.... Những cánh cò trắng sau một ngày bay đi kiếm ăn, cũng đang
nhộn nhịp tụ về Rú Chá. Tiếng đập cánh, tiếng gọi bầy náo loạn cả một vùng rừng.
Những chiếc thuyền trên phá vẫn chậm rãi trôi, lấp lóe những ánh đèn. Một cuộc sống về đêm của những
ngư dân lại bắt đầu. Trăng dần lên không tỏ rạng, chỉ một khối tròn nằm chếch hướng mặt trời vẫn chưa tắt
hẳn, giữa cái nền trời đã xám màu còn vương chút ánh vàng. Nếu có thời gian, du khách có thể theo thuyền
làm một chuyến đi giăng lưới trên phá. Giữa bốn bề mênh mang sóng nước, giữa ánh trăng vằng vặc và gió
biển lạnh se, hẳn Tam Giang trong bạn sẽ là một kỷ niệm khó phai nhạt.
- Giá tour: 50 USD/người cho đoàn khách từ 4 người, 22USD/người cho đoàn khách từ 10 người. Giá tour
càng giảm khi đoàn có nhiều khách. Giá bao gồm một bữa ăn nhẹ trên thuyền và phí bảo hiểm.
- Liên hệ:
HUETOURIST JSC
Email: info@huetouristvietnam.com
Website: www.huetouristvietnam.com