You are on page 1of 27

MẸ MARIA, HIỀN MẪU CHÚA KITÔ

(hay THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM)


Mẹ Bề Trên Maria d'Agreda
Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển ngữ

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................................2


LỜI MỞ ĐẦU

Lời tác giả, đấng đáng kính (nữ tu) Maria đệ Giêsu thành Agreda:

Để trình bày được rành mạch, chúng tôi xin chia Lịch Sử Cuộc Đời Mẹ Maria làm ba giai
đoạn, tám phần.

Giai đoạn thứ nhất, phần 1-2, về những sự việc trong mười lăm năm đầu cuộc đời Mẹ, mọi
việc Đấng Tối Cao thể hiện cho Mẹ từ khi bẩm thai Vô Nhiễm Nguyên Tội cho tới khi Ngôi Lời
Thiên Chúa nhập thể nơi lòng trinh khiết Mẹ.

Giai đoạn thứ hai, phần 3-6, gồm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, trọn cuộc đời Chúa Cứu
Thế, Khổ Hình, Tử Nạn và Thăng Thiên, như thế mô tả cuộc đời Mẹ Maria hợp nhất với cuộc
đời Thiên Chúa Con Mẹ và tất cả mọi việc Mẹ thi hành khi sống bên Chúa.

Giai đoạn thứ ba, phần 7-8, về cuộc đời Mẹ Maria từ khi Chúa Cứu Thế về thiên đàng cho tới
giờ phút Mẹ trút hơi thở cuối cùng, được rước cả hồn xác về trời, được đội triều thiên tôn
vinh là Nữ Vương Thiên Đàng, nơi Mẹ ngự đời đời là Ái Nữ Thiên Chúa Cha, Hiền Mẫu của
Chúa Con và là Hiền Thê của Chúa Thánh Thần.

Năm 1627, tám năm sau ngày tuyên khấn, đức vâng lời đặt trên vai tác giả, lúc đó mới 25
tuổi và mặc dầu bất xứng, chức vụ bề trên từ đó tới nay. Suốt mười năm đầu trong chức vụ
bề trên, tác giả nhiều lần được Chúa và Mẹ Maria truyền viết Lịch sử Cuộc Đời Mẹ. Tác giả
liên tiếp lo sợ chống lại mệnh lệnh này, cho tới năm 1637 mới bắt đầu viết về Cuộc Đời Mẹ
Maria lần thứ nhất. Khi hoàn tất tác phẩm này, vì bối rối lo âu và được một cha giải tội (ngài
hướng dẫn tác giả trong thời gian cha linh hướng thường xuyên của tác giả đi vắng) bảo
rằng phụ nữ không được viết sách vở gì trong Giáo Hội, tác giả đốt hết những gì đã viết,
không phải chỉ có tác phẩm Lịch Sử Cuộc Đời Mẹ Maria mà cả nhiều vấn đề nghiêm trọng và
huyền nhiệm khác nữa. Sau đó tác giả bị các bề trên và cha linh hướng quở trách rất nặng
và bắt phải viết lại Lịch Sử Cuộc Đời Mẹ Maria. Đấng Tối Cao và Mẹ Maria, cũng nhắc lại
lệnh này. Nhờ ơn Chúa tác giả bắt đầu viết lại Lịch Sử này ngày 8 tháng 12 năm 1665, ngày
Lễ Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Con thú nhận và tôn vinh Chúa, Đức Vua Tối Cao, rằng trong Sự Uy Nghi đáng chúc tụng
của Chúa, Chúa không cho những người khôn ngoan thông thái biết các điều này (Mt.11:25),
nhưng đoái thương mạc khải cho con, một nữ tì thấp hèn nhất trong Giáo Hội, ngõ hầu Thiên
Chúa Toàn Năng là Tác Giả Lịch Sử này càng được chúc tụng hơn nữa, còn về phần con,
công cụ của Chúa, thì hèn hạ chỉ đáng khinh bỉ.

Tôi đã thấy một dấu lạ vĩ đại và huyền nhiệm trên trời: một Vị Phụ Nữ, Bà Chúa, Nữ Hoàng
diễm kiều tuyệt vời, đội triều thiên tinh tú, mặc áo mặt trời, và mặt trăng dưới chân (Kh 12:1).
Các thiên thần nói với tác giả: “Đây là Vị Phụ Nữ được chúc phúc, Đấng mà thánh Gioan đã
thấy trong Khải Huyền, nơi Người các mầu nhiệm kỳ diệu Ơn Cứu Chuộc được ký thác, tích
chứa và giấu kín. Thiên Chúa Toàn Năng yêu thương Thụ Tạo này tột độ đến mức các thiên
thần đều hết sức ngỡ ngàng. Hãy chiêm ngưỡng và ca tụng các đặc ân của Người, ghi lại
các đặc ân đó thành sách. Đây là mục đích mà các đặc ân đó sẽ được tiết lộ rõ ràng cho con
tùy theo mức độ thích hợp với hoàn cảnh của con.”

Vào một lần khác tác giả thấy một chiếc thang rất đẹp có nhiều bậc, nhiều thiên thần đứng
chung quanh và lên xuống thang này. Thiên Chúa nói với tác giả: “Đây là chiếc thang Jacob
huyền nhiệm, nhà Thiên Chúa và cửa thiên đàng (Stk 28:17). Nếu con tha thiết phấn đấu
sống đẹp lòng Cha, con sẽ lên thang này đến với Cha.” Tác giả đau buồn khi thấy tội lỗi của
mình là gánh nặng cho chính mình (Gióp 7:20), và tha thiết trông chờ ngày mãn hạn tù đày,
mong tới nơi không còn chướng ngại cho tình yêu của mình. Tác giả đã sống một vài ngày
trong tâm trạng này, cố gắng cải đổi cuộc sống, lại xưng tội chung và sửa đổi một số khuyết
điểm.
Thị kiến chiếc thang vẫn tiếp tục không gián đoạn, nhưng tác giả không được giải thích cho
hiểu. Tác giả hứa với Chúa: tự nguyện từ bỏ mọi thứ thuộc về trần thế, dồn hết năng lực ý
chí chỉ để yêu Chúa, không để cho lòng yêu mến hướng về bất cứ tạo vật nào, cho dù thứ đó
hết sức nhỏ bé hoặc không đáng nghi ngờ. Sau khi sống một vài ngày trong tình cảm và tâm
nguyện này, tác giả được Thiên Chúa cho biết chiếc thang đó có nghĩa là Cuộc Đời Đức
Trinh Mẫu Maria, là các thánh đức và ân sủng của Người. Đấng Tối Cao nói với tác giả: “Con
của Cha, Cha muốn con lên thang Jacob, vào qua cửa thiên đàng này để lãnh hội kiến thức
từ các đặc tính của Cha và tích lũy cho mình trong việc suy niệm về Thiên Tính của Cha. Con
hãy chỗi dậy, bước đi và lên thang đó đến với Cha. Các thiên thần này đây, đứng chung
quanh và lên xuống thang này, được Cha chỉ định hộ vệ Đức Hiền Mẫu Maria. Các thiên thần
này là đạo quân phòng vệ canh giữ thành thánh Sion. Con hãy chăm chú chiêm ngưỡng
Người, chiêm niệm các thánh đức của Người, học hỏi bắt chước các thánh đức đó.”

Khi đó dường như tác giả lên thang Jacob, nhận ra được những sự lạ lùng vĩ đại, những điều
kỳ diệu khôn tả của Chúa nơi Thụ Tạo duy nhất và sự thánh thiện trọn lành thánh đức tột
đỉnh từng được quyền năng Thiên Chúa tạo thành. Tác giả thấy Chúa các thiên thần và Đức
Nữ Vương muôn loài nơi đầu thang. Chúa và Mẹ ra lệnh cho tác giả tôn vinh, chúc tụng, ngợi
khen Chúa vì những mầu nhiệm cao cả này và bằng trọn khả năng của mình viết hết những
điều đó ra. Chúa chuyển động ý chí của tác giả, để trước sự hiện diện của Mẹ Maria và được
Người giúp đỡ, tác giả khấn hứa chế ngự tật xấu của mình, và khởi đầu viết Lịch Sử Cuộc
Đời Mẹ.

Mẹ Maria đáp lại các lời tác giả cam kết: “Con của Mẹ, thế giới rất cần học thuyết này, vì thế
giới không biết, cũng không thực hành lòng tôn kính đối với Thiên Chúa Toàn Năng. Đức
Công Chính thần linh được kêu nài làm cho nhân loại tỉnh ngộ ra khỏi sự ngu dốt. Nhân loại
chìm đắm trong sự hững hờ vong ân bội nghĩa, ngụp lặn trong tối tăm, không biết cách tìm
kiếm ơn cứu độ và ánh sáng. Tuy nhiên, đây là số phận của họ, vì nhân loại thiếu lòng tôn
thờ kính úy phải có.”

Thiên Chúa phán bảo tác giả: “Con của Cha, khi Cha gởi Con Một của Cha đến trần gian,
ngoài một số ít người phụng thờ Cha, cả thế gian ở trong hoàn cảnh tồi tệ hơn hết kể từ khởi
nguyên. Từ thuở tạo dựng và tội lỗi của con người đầu tiên cho tới khi Cha ban Luật cho
Maisen, nhân loại, tự nó thống trị lấy mình theo bản năng, đã phạm nhiều sai lầm và tội lỗi
(Rom 5:13). Sau khi nhận được Luật, nhân loại lại phạm tội vì không tuân giữ Luật (Gioan
7:19) vì thế chúng tiếp tục sống tách rời khỏi ánh sáng chân lý và đi tới tình trạng hoàn toàn
vong ân bội nghĩa. Trong tình thương hiền phụ, Cha đã gởi tới cho nhân loại Ơn Cứu Độ đời
đời và thuốc chữa mọi bệnh tật nan y của bản tính loài người, như thế làm sáng tỏ phần Cha.
Cũng như khi Cha đã chọn đúng thời điểm để tỏ rõ hơn lòng nhân từ của Cha, bây giờ Cha
cũng chọn thời điểm để tỏ cho nhân loại thấy một đặc ân hết sức lớn lao khác nữa.

Lúc này thế giới đã tới hoàn cảnh bất hạnh tột độ. Mặc dầu Ngôi Lời đã nhập thể, nhân loại
càng thờ ơ với hạnh phúc, càng ít tìm kiếm hạnh phúc hơn. Cha muốn mở cửa Thiên Đàng
cho người công chính để qua đó họ có thể tìm thấy đường vào tình thương xót của Cha. Cha
muốn ban cho nhân loại ánh sáng để xua đuổi bóng tối che khuất con mắt lương tri họ. Cha
muốn ban cho nhân loại phương thuốc thích hợp để phục hồi ân sủng Cha. Hạnh phúc cho
những ai biết được điều này, phúc thay cho những ai biết được giá trị ân sủng này. Hạnh
phúc thay những ai tìm kiếm và hiểu được những điều kỳ diệu huyền nhiệm của Cha.

Cha muốn cho nhân loại biết lời chuyển cầu của Đức Trinh Vương Maria rất thánh giá trị
chừng nào, vì Người là Đấng hồi phục sự sống bằng việc dâng bản tính loài người hay chết
lên Thiên Chúa. Cha muốn nhân loại ngắm nhìn những kỳ công do quyền năng Cha thực
hiện nơi thụ tạo tinh tuyền này, như nhìn vào tấm gương để từ đó người ta có thể ước lượng
được sự vong ân bạc nghĩa của họ. Cha muốn cho nhân loại biết những điều kỳ diệu mà
theo thánh ý tối cao của Cha những điều liên quan đến Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa tới nay vẫn
còn được giấu kín.”

“Cha không tiết lộ những huyền nhiệm này trong Giáo Hội sơ khai, vì những huyền nhiệm
này quá sức vĩ đại, đến độ các tín hữu có thể miệt mài chiêm niệm và ca tụng các huyền
nhiệm này suốt thời gian khá lâu, trong khi đó việc thiết lập Luật Ân Sủng và Phúc Âm vững
chắc thì cần thiết hơn. Mặc dầu mọi mầu nhiệm trong đạo đều phù hợp với nhau cách tuyệt
hảo, nhưng vì đức tin vào Ngôi Lời Nhập Thể, Ơn Cứu Chuộc và các giáo huấn của luật
Phúc Âm mới vẫn còn trong thời kỳ phôi thai, sự ngu dốt của loài người có thể tác hại ngược
lại, hoài nghi tính cách trọng đại của mầu nhiệm này. Vì thế, Ngôi Lời Nhập Thể nói với các
môn đệ trong bữa tối sau cùng: “Nhiều điều Thầy cần phải nói cho anh em biết, nhưng anh
em chưa sẵn sàng đón nhận” (Gioan 16:12). Chúa Cứu Thế cũng nói lời này với toàn thể
nhân loại, vì người ta chưa có thể vâng nghe trọn vẹn luật ân sủng và hoàn toàn tin theo
Chúa Con; nhân loại càng được chuẩn bị ít hơn để đón nhận các mầu nhiệm về Mẹ Thiên
Chúa.

Lúc này nhân loại cần đến mạc khải này rõ ràng hơn, điều cần thiết này thúc đẩy Cha bỏ qua
khuynh hướng tội lỗi của họ. Bây giờ nhân loại cần phải làm hài lòng Cha bằng việc kính
mến, tin tưởng, học hỏi những điều lạ lùng liên quan trực tiếp đến Vị Hiền Mẫu Hay Thương
Xót này. Nếu mọi người, từ trái tim họ, xin Người cầu bầu, nhân loại sẽ sớm được cứu giúp.
Cha không thể giấu nhân loại Thành Thánh nơi nương náu huyền nhiệm này nữa. Cha cho
họ biết về Thành Thánh này, theo mức độ khả năng hạn hẹp của họ. Cha không muốn những
điều con mô tả, tuyên xưng, về Cuộc Đời Đức Maria chỉ thuần tư kiến hoặc tư tưởng chiêm
niệm, mà phải là sự thực chính xác. Những ai có tai để nghe, hãy nghe. Những ai khát hãy
tới mạch nước hằng sống, hãy rời bỏ những thùng chứa khô cạn, những ai tìm kiếm ánh
sáng hãy theo đuổi cho tới kết cuộc. Chúa, là Thiên Chúa Toàn Năng, phán truyền như thế!”

CHƯƠNG I, Phần Một


THIÊN CHÚA QUYẾT ĐỊNH TẠO DỰNG VŨ TRỤ MUÔN LOÀI

Lạy Đức Vua, lạy Chúa Tối Cao Cực Khôn ngoan: những phán quyết của Ngài khôn dò,
đường lối của Ngài không kế dõi theo (Rom 11:33)! Lạy Thiên Chúa toàn năng, tự hữu hằng
có từ thuở đời đời (Gv 18:1)! Ai hiểu được Chúa cao cả, ai xứng đáng với các kỳ công vô
cùng rực rỡ vĩ đại của Ngài, ai dám hỏi Chúa tại sao Ngài tạo dựng chúng? (Rom 9:20).
Chúa được chúc tụng trên muôn loài, ánh mắt chúng con không thể nhìn tới Ngài, trí chúng
con không thể nào hiểu được Ngài. Lạy Đức Vua cao cả, con chúc tụng Ngài vì đã đoái
thương cho con, kẻ nô lệ và chỉ là côn trùng hèn hạ trên mặt đất, được thấy những ân sủng
vĩ đại cùng các huyền nhiệm cực kỳ cao siêu của Chúa.

Tác giả được ơn nhận thức những gì thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi mà Một Thiên
Chúa thực, đồng hằng hữu, cùng một bản tính, đồng quyền năng và thánh vô cùng, yêu
thương khôn lường, giầu có vô biên, đời đời cao quí vô cùng, phải được muôn loài chúc
tụng. Tác giả cũng được cho biết vũ trụ muôn loài được cưu mang trong trí Thiên Chúa,
được tạo dựng theo những giai đoạn sau đây (theo cách nói của chúng ta).

Giai đoạn thứ nhất: Thiên Chúa Tối Cao cho thấy sự cần thiết, chính đáng và thích hợp
nhất việc thông ban chính Chúa, truyền đạt, ban phát sự rộng lượng, lòng thương xót ở chính
Chúa, bằng việc rộng lượng thông ban cho bên ngoài sự sung mãn tràn đầy các kho tàng ân
sủng vô cùng của Chúa. Tác giả được soi sáng và hiểu biết hai điều khiến tác giả ngạc nhiên,
làm cho trái tim vốn hững hờ bốc cháy tới tiêu tan. Điều thứ nhất là Thiên Chúa khao khát
cấp bách mãnh liệt muốn thông ban Ngài và mọi kho tàng ân sủng cho các thụ tạo. Điều thứ
hai là kho tàng ân sủng vô biên mà Thiên Chúa ban phát hết sức dồi dào nhưng vẫn còn vô
cùng, như thể chưa ban phát gì cả. Thiên Chúa chuẩn bị, thánh hoá, chứng minh, khắc phục
mọi thụ tạo và từng cá nhân bằng ân sủng và sự toàn thiện. Thiên Chúa sẵn sàng ban cho
từng người nhiều ân sủng hơn cho toàn thể các thiên thần. Nếu như tất cả mọi giọt nước
biển, mọi hạt cát trên các bãi biển, mọi thiên thể, mọi thụ tạo có khả năng nhận định về các
ân sủng của Chúa, hẳn chúng nhận được các ân sủng vô lượng, nếu chúng không chống lại
việc tiếp nhận các hồng ân đó.

Giai đoạn thứ hai là xác nhận, quyết định mục đích và ý định tối hậu việc thông ban chính
Thiên Chúa cho bên ngoài. Việc đó biểu hiện sự cao cả, phát huy vinh quang vĩ đại vô cùng
của Đấng Toàn Năng. Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài do việc đại lượng ban phát các thuộc tính
của mình, tác động Uy Quyền Tuyệt Đối để được nhận biết, chúc tụng và tôn vinh.
Giai đoạn thứ ba gồm việc lựa chọn, ấn định thứ tự, sắp xếp thể thức việc thông ban này,
ngõ hầu thể hiện đầy đủ các mục đích tối hậu tuyệt vời. Được ấn định trước nhất trong phần
này là Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ mặc lấy thân xác trở nên hữu hình. Tính chất toàn hảo và việc
tạo dựng nhân tính cực thánh Chúa Kitô, Chúa chúng ta, được ấn định và hình thành trong trí
Đấng Tạo Hóa khôn ngoan vô cùng. Thứ đến, những lý tưởng về toàn thể nhân loại cũng
được hình thành theo hình ảnh Ngôi Lời Thiên Chúa hữu hình. Thiên Chúa sắp đặt sự hài
hòa, vẻ đẹp của bản chất nhân loại được cấu tạo gồm thân xác thể lý và linh hồn bất tử,
được phú thác khả năng nhận biết và làm vui lòng Đấng Tạo Hóa, phân biệt giữa thiện với
ác, và ý chí tự do yêu mến Thiên Chúa.

Giai đoạn thứ bốn là ấn định các đặc ân và thánh sủng được phong ban cho nhân tính của
Ngôi Lời. Ở giai đoạn này, Thiên Chúa tối cao mở tay đại lượng quyền năng vô cùng và mọi
kho tàng, làm sung túc nhân tính và Linh Hồn cực thánh Chúa Kitô bằng sự phong phú tràn
đầy đặc ân và thánh sủng. Như thế hoàn thành điều thánh vương David nói sau này: “Sông
nhánh, sông cả đều làm cho thành thánh Thiên Chúa vui mừng” (Tv 45:5).

Cũng trong giai đoạn này, theo lớp lang tự nhiên, tiếp đến việc tiền định Đức Hiền Mẫu Ngôi
Lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ Maria đã được cưu mang trong trí Thiên Chúa theo cách, theo
tình trạng thích hợp, xứng đáng với địa vị cao cả, phẩm cách ưu việt và các đặc ân của nhân
tính Con Cực Thánh Mẹ. Suối nguồn Thiên Chúa cuồn cuộn mãnh liệt đổ tràn đầy theo sức
Mẹ có thể nhận và xứng với địa vị Mẹ Thiên Chúa.

Khi hiểu biết những mầu nhiệm và thánh ý cao siêu này, tác giả phải thú nhận là đã ngây
ngất trong lạ lùng thán phục đến độ vượt ra khỏi chính mình. Khi nhìn thấy Thụ Tạo thánh
thiện tinh khiết tột đỉnh này là Mẹ Maria rất thánh được tạo dựng, bẩm thai trong trí Thiên
Chúa từ thuở đời đời, tác giả vui mừng hân hoan tôn vinh Thiên Chúa Toàn Năng. Vì thánh ý
vô cùng cao cả huyền nhiệm, Thiên Chúa đã tạo dựng cho chúng ta một Thụ Tạo cực tinh
tuyền vĩ đại, cực kỳ huyền nhiệm, giống Thiên Chúa, xứng đáng được muôn loài đời đời chúc
tụng.

Nhiều điều của huyền nhiệm này đã được tiết lộ, nhưng phần lớn vẫn còn niêm kín. Tác giả
ngây ngất khi nhìn thấy Nhà Tạm này của Thiên Chúa. Thiên Chúa đáng ca tụng hơn trong
việc tạo dựng Đức Trinh Nữ Maria, hơn cả việc tạo dựng toàn thể vũ trụ vạn vật, mặc dầu
muôn loài làm sáng tỏ quyền năng lạ lùng của Đấng Tạo Hoá. Nơi chỉ một mình Mẹ Maria
tích chứa nhiều kho tàng Thiên Chúa hơn nơi tất cả mọi thụ tạo khác. Sự phong phú quí báu
của các kho tàng thánh sủng nơi Đức Trinh Mẫu tôn vinh danh Thiên Chúa vượt trên toàn thể
mọi thụ tạo khác nhiều lần.

Đến đây, theo cách chúng ta hiểu, là lời giao ước được thiết lập với Ngôi Lời về mức độ
thánh hoá, sự toàn hảo, các đặc ân và thánh sủng mà Đức Hiền Mẫu Maria được có. Trong
giai đoạn này, cũng như trong giai đoạn thứ ba và trong giai đoạn cuối cùng, Thiên Chúa
quyết định tạo dựng nơi Ngôi Lời Nhập Thể và Thánh Mẫu sẽ cư ngụ. Vì Ngôi Lời Nhập Thể
và Thánh Mẫu mà trước hết Thiên Chúa tạo dựng trời, đất, các tinh tú, mọi thiên thể và mọi
thứ ở trong vũ trụ. Kế đến là quyết định việc tạo dựng, chuẩn bị các chi thể mà Chúa Kitô là
Đầu, là Vua.

Trong giai đoạn thứ năm, Thiên Chúa quyết định tạo dựng các thiên thần tuyệt diệu, giống
hình ảnh Thiên Chúa. Các thiên thần được tạo dựng trước hết để tôn vinh, phụng thờ trước
nhan thánh, nhận biết và yêu mến Chúa. Thứ đến là các thiên thần được chỉ định tôn vinh,
chúc tụng, phục vụ nhân tính của Ngôi Lời Hằng Hữu; nhìn nhận Ngôi Lời Nhập Thể là Thủ
Lãnh; chúc tụng Chúa và Thánh Mẫu Maria, Nữ Vương các thiên thần. Trong giai đoạn này,
Chúa Kitô, ban cho các thiên thần mọi ân sủng mà các vị này được hưởng. Chúa Kitô được
đặt là Thủ Lãnh, Gương Sáng, là Vua tối cao mà các thiên thần phải thần phục.

Việc định phận các thiên thần tốt lành và đày xuống hoả ngục các phản thần cũng thuộc giai
đoạn này. Do sự khôn ngoan vô cùng, Thiên Chúa thấy tất cả mọi hành động của các thiên
thần tốt lành và của các phản thần. Do thánh ý và lòng nhân từ đại lượng vô biên, Thiên
Chúa thấy thích đáng việc định phận các thiên thần tốt lành hằng vâng phục tôn vinh Chúa;
và do phép công chính, đày xuống hỏa ngục các phản thần vì tội kiêu ngạo, bất tuân lệnh
Chúa vì chúng tự ái hỗn xược ngạo mạn. Cũng trong giai đoạn này được quyết định việc tạo
dựng thiên đàng làm phần thưởng cho các thiên thần tốt lành; trái đất, các thiên thể khác
cũng được quyết định tạo dựng cho mọi thụ tạo khác; và hoả ngục để phạt các phản thần.

Trong giai đoạn thứ sáu, nhân loại được tạo dựng cho Chúa Kitô, Đấng là Thủ Lãnh nhân
loại. Nhân loại được tạo dựng giống hình ảnh Chúa Kitô, để Ngôi Lời Nhập Thể có thể nhận
ra anh em. Trong giai đoạn này toàn thể nhân loại được tạo dựng, khởi đầu bằng một người
nam, một người nữ, và tự sinh sản truyền giống. Từ thuở đời đời, nhờ công nghiệp Chúa Kitô
Chúa chúng ta, các đặc ân và ân sủng công chính nguyên thủy được an bài. Việc Nguyên Tổ
Adong sa ngã được thấy trước, và qua ông mà các miêu duệ ông vấp phạm, ngoại trừ Đức
Maria, Đấng không phải ở trong trường hợp này. Để làm thuốc chữa trị tội lỗi nhân loại, Thiên
Chúa quyết định rằng nhân tính cực thánh của Ngôi Lời phải có khả năng chịu đau khổ.
Những người được tiền định hưởng hạnh phúc được chọn qua ơn tự do, những kẻ được
thấy trước sẽ phải trầm luân hoả ngục cũng được hưởng đức công chính (ơn tự do) y như
thế. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa an bài tất cả mọi thứ thuận tiện cần thiết cho việc nhân loại
ăn năn trở lại, cho việc lãnh nhận Ơn Cứu Độ và Ơn Tiền Định. Không có sự bất công đối với
nhân loại, vì nếu nhân loại tự do phạm tội, họ cũng có thể tự do xa lánh tội nhờ ân sủng và
ánh sáng lý trí. Thiên Chúa không vi phạm quyền tự do của bất cứ ai, không từ chối một ai
điều cần thiết cho người đó. Vì luật Chúa được viết trong trái tim người ta, không một ai có
thể được tha thứ vì không nhận biết, không yêu mến Chúa là Thiên Chúa Tối Cao.

Lạy Thiên Chúa Tối Linh và cao cả vô cùng! Ước chi con có được lòng yêu mến, sự trọn lành
của tất cả các thiên thần và các người công chính để con tuyên xưng chúc tụng sự cao cả
Chúa cách xứng đáng! Lạy Chúa Toàn Năng, con nhìn nhận mình không xứng đáng hưởng
đặc ân muôn đời ghi nhớ về kiến thức siêu việt và ánh sáng này liên quan đến Thiên Chúa
đáng chúc tụng đời đời. Khi nhìn thấy sự cao cả của Chúa, con thấy sự hèn mọn của con,
mà điều này trước giây phút hạnh phúc đó con đã chẳng biết. Con cũng chẳng biết sự cao cả
tuyệt vời của đức khiêm tốn mà bây giờ con học được. Con không muốn nói con có được
thánh đức khiêm tốn, nhưng cũng không thể chối con đã được cho thấy đường dẫn tới thánh
đức này. Lạy Thiên Chúa Tối Cao, ánh sáng Chúa soi sáng tâm hồn con và đèn Chúa soi
đường con đi (Tv 118:105), để con nhìn thấy con đã là gì, bây giờ con là gì, và con lo sợ con
sẽ trở thành gì. Lạy Vua Tối Cao, Chúa đã cho con hiểu biết và làm cho ý muốn của con
bừng cháy lửa khao khát Chúa.

CHƯƠNG 2, Phần Một


VIỆC TẠO DỰNG CÁC THIÊN THẦN VÀ LUCIFER PHẢN LOẠN

Thiên Chúa là Căn Nguyên mọi sự, Đấng tạo dựng muôn loài hữu hình và vô hình. Quyền
năng vô cùng của Chúa tạo thành mọi kỳ công bên ngoài khi nào và cách nào Chúa muốn.
Phần khởi đầu và kế tiếp việc Tạo Dựng được ông Maisen mô tả trong chương mở đầu Sáng
Thế Ký. Được Thiên Chúa cho hiểu biết việc đó, tác giả xin kể lại những sự kiện giúp làm
sáng tỏ nguồn gốc mầu nhiệm Việc Ngôi Lời Nhập Thể và Công Cuộc Cứu Độ nhân loại.
Chương đầu Sáng Thế Ký nói:

1. “Từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng trời đất.

2. “Trái đất hoang vu trống vắng, bóng tối thăm thẳm bao trùm khắp nơi; và thần khí Thiên
Chúa là là trên khắp các đại dương.

3. “Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng. Và ánh sáng được tạo dựng.

4: “Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt lành; và Thiên Chúa phân tách ánh sáng ra khỏi bóng tối.

5. “Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, và bóng tối là đêm; có buổi chiều và buổi sáng của một
ngày,” vân vân...

Ông Maisen nói về ngày thứ nhất tạo dựng: “Khởi đầu Thiên Chúa tạo dựng trời và đất.”
Thiên Chúa tạo dựng trời cho các thiên thần và loài người; trái đất là nơi nhân loại lữ hành.
Thánh vương David nói về hai nơi này: “các tầng trời phát huy vinh quang Thiên Chúa, bầu
trời và trái đất loan báo vinh danh các kỳ công của tay Ngài” (Tv 18:2).

Các thiên thần được tạo dựng trên thiên cung, trong tình trạng ân sủng nhờ đó các thiên thần
có thể là những thụ tạo đầu tiên xứng đáng được phần thưởng vinh quang. Mặc dầu ở giữa
vinh quang, ở giữa chính Thiên Chúa, các thiên thần đã không được nhìn thấy Nhan Thánh
Chúa tường tận, cho tới khi được xứng đáng hưởng đại hồng ân đó bằng việc tuân phục
thánh ý Chúa. Các thiên thần tốt lành, cũng như các phản thần, chỉ ở trong tình trạng thử
thách một thời gian rất ngắn. Việc tạo dựng và thử thách cùng kết qủa việc thử thách các
thiên thần tiến hành trong ba giai đoạn khác nhau, có khoảng cách ngắn ở giữa.

Trong giai đoạn thứ nhất tất cả các thiên thần được tạo dựng, được ban cho mọi thánh sủng
và đặc ân, trở nên những thụ tạo đẹp đẽ nhất, toàn hảo nhất. Kế đến là khoảng cách ngắn.
Trong thời gian này thánh ý và các lệnh truyền của Đấng Tạo Hoá được in vào ý thức các
thiên thần để suy gẫm và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo thành, là Chúa Tối Cao, và
phụng sự mục đích mà vì đó các ngài được tạo dựng. Trong thời gian cách quãng này, Tổng
Lãnh Micae cùng với các thiên thần theo Ngài đã uy dũng chiến đấu chống lại Lucifer và
những phản thần theo nó, như thánh Gioan mô tả trong Chương 12 Sách Khải Huyền. Các
thiên thần tốt lành, kiên trì trong ân sủng, xứng đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn các
phản thần, bất trung chống lại Thiên Chúa, xứng đáng với hình phạt mà ngày nay chúng phải
chịu, sau đây là một vài diễn tiến.

Trước tiên các thiên thần nhận ơn hiểu biết rõ ràng về Thiên Chúa, duy nhất về bản tính, ba
ngôi. Các thiên thần phải tôn thờ Thiên Chúa, Đấng là Tạo Hóa, là Chúa Tối Cao, là Đấng vô
cùng trong bản chất và quyền năng. Tất cả các thiên thần tuân phục thi hành lệnh này, nhưng
khác nhau về cách thức. Các thiên thần tốt lành thi hành vì yêu mến vui thích, dâng lên lòng
yêu mến cùng ý nguyện tự do chấp nhận tin những điều vượt quá sự hiểu biết, và vâng theo
cách vui vẻ. Trái lại, Lucifer tuân phục Thiên Chúa, chỉ vì bất khả chống đối. Nó không thi
hành việc qui phục tôn thờ Thiên Chúa với lòng yêu mến trọn hảo, có thể là vì nó bị phân
chia về chính nó và sự thực không thể sai lầm về Thiên Chúa. Kết quả xảy ra là lệnh truyền
của Thiên Chúa đến với nó một cách khó khăn, gay cấn; nó thi hành lệnh truyền cách miễn
cưỡng. Chính nó đương đầu trước với sự nguy hiểm của tội bất trung.

Trong giai đoạn thứ nhì, các thiên thần được cho biết Thiên Chúa sẽ tạo dựng nhân loại, loài
thụ tạo có lý trí thấp hơn các thiên thần, để nhân loại cũng yêu mến, kính úy và tôn thờ Thiên
Chúa, là Đấng Tạo Thành, là Thiên Chúa đời đời. Đấng Tối Cao cho các thiên thần biết nhân
loại được sủng ái cao độ, Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh sẽ nhập thể mang
nhân tính, nâng nhân tính lên kết hợp với Thiên Tính và Ngôi Vị Thiên Chúa. Vì thế các thiên
thần phải nhìn nhận Ngài là Thủ Lãnh, là Thiên Chúa, là “Thiên Chúa người ta”, tôn thờ Thiên
Chúa Ngôi Hai là Thiên Chúa Nhập Thể. Các thiên thần phải là bề dưới về địa vị và ân sủng
đối với Ngôi Lời Nhập Thể và phải là tôi tớ của Ngài. Thiên Chúa cho các thiên thần khả
năng hiểu biết sự chính đáng, công bằng và hợp tình hợp lý của quyết định này. Các thiên
thần được cho hiểu rõ ý nghĩa các công nghiệp của Thiên Chúa Làm Người là nguồn ân
sủng và vinh quang các ngài được hưởng. Các thiên thần hiểu rằng chính các ngài, cũng
như các thụ tạo khác, được tạo dựng vì vinh danh Thiên Chúa Làm Người.

Tất cả các thiên thần trung tín tốt lành đã khiêm tốn yêu mến tuân phục lệnh truyền này.
Nhưng Lucifer chống lại và xúi giục các thiên thần khác theo nó chống lại. Các phản thần đã
theo Lucifer chống lại Thiên Chúa. Hoàng tử ác độc này thuyết phục các phản thần rằng nó là
thủ lãnh của chúng và nó sẽ thiết lập một thứ quyền cai trị biệt lập với Đấng Kitô.

Một lệnh truyền khác nữa là các thiên thần phải nhận là bề trên của mình một Vị Phụ Nữ
cùng với Ngôi Lời Nhập Thể. Nơi lòng dạ Vị Phụ Nữ này, Con Một Thiên Chúa Cha sẽ mặc
thân xác nhân loại. Vị Phụ Nữ này sẽ là Nữ Vương mọi thụ tạo. Các thiên thần trung tín đã
khiêm tốn vâng phục, hoan hỉ chúc tụng quyền năng và các mầu nhiệm của Thiên Chúa Tối
Cao. Trái lại, Lucifer và đồng bọn sôi sục ngạo mạn, có thái độ phạm thượng không thể tha
thứ. Trong cơn giận dữ điên cuồng này nó tự xưng là thủ lãnh toàn thể nhân loại và toàn thể
các thiên thần; nếu có việc kết hợp với Thiên Tính, nó đòi việc đó phải được hoàn thành
trong chính nó.
Bằng những lời phạm thượng khủng khiếp Lucifer đã chống đối quyết định bắt nó phải dưới
quyền Thánh Mẫu của Ngôi Lời Nhập Thể. Nó quay lưng phản nghịch với Đấng tạo thành
những điều lạ lùng này. Vì căm phẫn, Lucifer lộng ngôn xúc phạm Thiên Chúa: “Những lệnh
này bất công và xúc phạm đến sự cao cả của tôi. Thiên Chúa, Ngài yêu thương, ưu đãi nhân
loại quá, tôi sẽ đàn áp, tiêu diệt chúng. Tôi nhất quyết dốc toàn lực và ý chí vào mục đích tối
hậu này. Người Phụ Nữ này, Mẹ của Ngôi Lời làm người, tôi sẽ kéo xuống khỏi địa vị Ngài
muốn cho Bà, và trong tay tôi, kế hoạch Ngài dự trù, sẽ trở thành số không.”

Thiên Chúa thịnh nộ vì lời vô cùng phạm thượng này và để bắt Lucifer phải khiêm tốn, Thiên
Chúa phán với nó: “Vị Phụ Nữ này, ngươi từ chối tôn kính, sẽ đạp giập đầu ngươi, ngươi sẽ
bị Vị Trinh Nữ này đánh bại và bị hủy diệt (Stk 3:15). Và nếu, qua sự kiêu ngạo, sự chết vào
thế gian (Kn 2:24), sự sống và ơn cứu chuộc nhân loại sẽ vào thế gian qua lòng khiêm tốn
của Vị Phụ Nữ này. Tất cả những ai cùng bản chất, giống Vị Nam Nhân và Vị Phụ Nữ này sẽ
vui hưởng các đặc ân và vinh quang mà ngươi và các phản thần theo ngươi đã mất.” Nghe
những lời này, Lucifer, căm phẫn tột độ chống lại bất cứ điều gì nó hiểu về thánh ý và quyết
định của Thiên Chúa, đã đáp lại toàn bằng sự kiêu ngạo, đe doạ hủy diệt toàn thể nhân loại.
Các thiên thần trung tín tốt lành, nhận thấy cơn phẫn nộ chính đáng của Thiên Chúa đối với
Lucifer và các phản thần, đã chiến đấu chống lại chúng bằng vũ khí của sự hiểu biết và chân
lý.

Trong lúc này Thiên Chúa Toàn Năng làm một việc huyền nhiệm lạ lùng khác nữa. Sau khi
đã cho các thiên thần hiểu biết rõ ràng đầy đủ mầu nhiệm vĩ đại của việc Kết Hợp Thiên Tính
với nhân tính, Chúa cho các thiên thần thấy hình ảnh Đức Trinh Nữ. Các thiên thần được cho
thấy sự toàn vẹn trọn lành của nhân tính trong mạc khải hình ảnh tiêu biểu Vị Phụ Nữ cực kỳ
toàn hảo tốt lành mà Đấng Tối Cao sẽ làm cho Người những việc vô cùng lạ lùng hơn nơi tất
cả mọi thụ tạo. Thiên Chúa sẽ ký thác nơi Người mọi thánh sủng và hồng ân Chúa cách cao
cả lạ lùng hơn. Hình ảnh hoặc thị kiến này về Đức Nữ Vương Thiên Đàng và là Thánh Mẫu
của Ngôi Lời Nhập Thể đã được tỏ hiện cho toàn thể các thiên thần, trung tín tốt lành và cả
những phản thần xấu xa. Khi thấy hình ảnh Đức Trinh Mẫu rất thánh, các thiên thần trung tín
ngỡ ngàng, hoan hỉ, ca ngợi chúc tụng. Được trang bị bằng lòng yêu mến nhiệt thành và
khiên thuẫn vô địch của thị kiến, các thiên thần tích cực bảo vệ danh dự Ngôi Lời Nhập Thể
và Thánh Mẫu Chúa. Trái lại, Lucifer và các đồng đảng hận thù tức giận khôn nguôi đối với
Chúa Kitô và Đức Hiền Mẫu rất thánh. Kế đến xảy ra mọi việc được kể lại trong Chương 12
Sách Khải Huyền:

1. “Một dấu lạ vĩ đại hiện ra trên trời: một Vị Phụ Nữ mặc áo mặt trời, đứng trên mặt trăng,
đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao:

2. Bà đang thai nghén, Bà kêu la đau đớn quằn quại khi sinh con.

3. Một dấu lạ khác hiện ra trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ có bảy đầu và mười sừng, trên
bảy đầu có bảy vương miện,

4. Đuôi nó quét một phần ba các tinh tú trên trời liệng xuống đất. Con rồng đó đứng chờ
trước mặt Vị Trinh Nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh con, nó nuốt con Bà.

5. Bà đã sinh một Con Trai, Đấng sẽ dùng roi sắt cai trị muôn dân; Con của Bà đã được đưa
tới Thiên Chúa, lên ngai của Mình.

6. Vị Trinh Nữ trốn vào sa mạc, tại đó có nơi Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn cho Bà, và được
cung dưỡng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

7. Và xảy ra trận đại chiến trên trời; Tổng Lãnh Micae và các thiên thần của ngài đã chiến
đấu chống lại quái long và nó chống lại các thiên thần.

8. Nhưng các phản thần bị đánh bại, chỗ của chúng cũng không còn thấy trên thiên đàng.
9. Quái long bị đuổi đi khỏi, con rắn già đó, gọi là quỉ, là Satan, kẻ mê hoặc toàn thể thiên hạ;
nó và các phản thần theo nó bị liệng xuống trái đất.

10. Tôi nghe tiếng nói lớn: Bây giờ thành đạt sự toàn thắng, quyền năng, và vương quyền
của Thiên Chúa chúng ta và quyền bính Đức Kitô của Ngài; vì kẻ cáo buộc anh em chúng ta,
kẻ cáo tội anh em chúng ta ngày đêm trước Thiên Chúa, đã bị xô nhào xuống.

11. Anh em chúng ta chiến thắng nó nhờ máu Con Chiên và nhờ lời đoan chứng của họ, họ
không ham sống sợ chết.

12. Vì thế, hãy hân hoan, hỡi các tầng trời và những nguời ở đó. Khốn cho trái đất và biển
cả, vì ma quỉ đã xuống với các ngươi, mang theo mối căm hờn vĩ đại và biết chúng chỉ có
thời gian ngắn thôi.

13. Khi quái long đã bị xô nhào xuống đất nó bắt đầu đuổi theo Vị Trinh Nữ đã sinh con trai.

14. Và đôi cánh đại bàng đã được ban cho Bà để Bà bay vào sa mạc tới nơi dành sẵn, ở đó
Bà được cung dưỡng ba năm rưỡi, khuất xa con rồng.

15. Từ phía sau lưng Bà, quái long phun nước như dòng sông cuồn cuộn cố ý để làm cho
nước cuốn Bà chết trôi dòng sông.

16. Nhưng trái đất cứu Bà, đất há miệng nuốt cạn dòng sông mà quái long phun ra.

17. Quái long tức tối với Bà và khai chiến với tất cả dòng dõi của Bà, những người tuân giữ
các giới răn Chúa, và nơi mình mang dấu chứng của Đức Giêsu Kitô.

CHƯƠNG 3, Phần Một


NHÂN LOẠI ĐƯỢC TẠO DỰNG VÀ SA NGÃ

Ngày thứ sáu Thiên Chúa tạo dựng ông Adong, như thể ở tuổi ba mươi ba. Đây là tuổi khi
Chúa Kitô chịu chết; về phần thân xác, ông Adong rất giống Chúa Kitô, giống đến mức hầu
như không mảy may dị biệt. Về linh hồn, ông Adong cũng rất giống Chúa Kitô. Từ ông Adong,
Thiên Chúa tạo dựng bà Evà giống Đức Trinh Nữ, bà Evà giống y hệt Đức Trinh Nữ về dáng
vóc và khuôn mặt. Thiên Chúa hết sức hài lòng ngắm nhìn hai hình ảnh Nguyên Tổ. Cách đại
lượng vô cùng, Thiên Chúa đã chồng chất muôn ân sủng trên hai Nguyên Tổ. Thiên Chúa
muốn chính Ngài nuôi dưỡng ấp ủ hai Nguyên Tổ và miêu duệ.

Nhưng tình trạng hạnh phúc trong đó Thiên Chúa tạo dựng Nguyên Tổ nhân loại chỉ được
một thời gian rất ngắn. Lòng hận thù của quái long Satan lập tức bùng lên chống lại ông bà,
nó nóng lòng chờ đợi việc tạo dựng ông bà. Ngay khi hai Nguyên Tổ được tạo dựng, Satan
ghen ghét sôi sục chống lại ông bà. Tuy nhiên, Satan không được phép chứng kiến việc tạo
dựng Nguyên Tổ Adong và Evà, như nó đã chứng kiến việc tạo dựng tất cả các thụ tạo khác.
Thiên Chúa không cho nó thấy việc tạo dựng ông Adong, cũng như việc tạo dựng bà Evà từ
mảnh xương sườn của ông; mọi việc này đều giấu kín đối với nó cho tới khi hai ông bà kết
hợp với nhau. Khi Lucifer thấy hình hài tuyệt vời của bản chất nhân loại, tuyệt hảo vượt trên
hết mọi thụ tạo, vẻ diễm kiều của linh hồn và thân thể hai Nguyên Tổ, nhất là khi nó thấy tình
phụ tử Thiên Chúa dành cho ông bà, làm cho nhân loại trở nên chúa mọi tạo vật và hy vọng
cuộc sống vĩnh cửu, nó giận dữ điên cuồng. Nó âm mưu mọi cách để lôi kéo nhân loại ra khỏi
ân sủng Đấng Tối Cao, biến nhân loại thành kẻ thù Thiên Chúa.

Lucifer hoang mang vì từ nguyên thủy Thiên Chúa đã cho nó biết Ngôi Lời sẽ mặc nhân tính
nơi lòng dạ Đức Trinh Nữ Maria, nhưng không nói rõ cách nào và khi nào. Thiên Chúa giấu
việc tạo dựng ông Adong bà Evà, để Lucifer từ khởi đầu loay hoay trong sự ngu muội của nó
liên quan đến mầu nhiệm và thời gian Ngôi Lời nhập thể. Nó nghi rằng ông Adong đã do bà
Evà sinh ra, bà Evà là Thánh Mẫu và ông Adong là Ngôi Lời nhập thể. Nó nghi ngờ thêm mãi
vì cảm thấy quyền năng Thiên Chúa ngăn cản nó không được hại mạng sống ông bà Nguyên
Tổ. Dần dần Lucifer thoát khỏi nghi ngờ nhờ nghe các lời hai Nguyên Tổ trao đổi về các điều
Thiên Chúa truyền. Satan ước lượng các đặc ân của Nguyên Tổ và khởi sự theo bén gót ông
bà như sư tử rình mồi (1 Phêrô 5:8). Nó tìm kiếm lối vào xuyên qua những khuynh hướng nó
thấy nơi ông bà. Vì chưa thoát khỏi mơ hồ về chương trình Ơn Cứu Chuộc, Satan lưỡng lự
giữa lòng hận thù Chúa Kitô và Mẹ Maria với mối lo sợ bị đánh bại. Điều khiến Satan bối rối
lo sợ hơn hết là nó sợ bị đánh bại bởi Đức Maria, Đấng chỉ là một thụ tạo chứ không phải
Thiên Chúa.

Lucifer chớm hiểu về ông Adong và bà Evà, nó chuẩn bị cạm bẫy, hết sức hăng hái thi hành
kế hoạch gài bẫy Nguyên Tổ chống lại và cản trở việc thi hành thánh ý Thiên Chúa. Trước
tiên nó lân la đến gần bà Evà, chứ không đến gần ông Adong. Nó biết bà bản chất yếu đuối
giòn mỏng dễ bị cám dỗ hơn, khi cám dỗ bà nó biết chắc chắn không phải đương đầu với
Chúa Kitô. Nó tức giận bà như điên như cuồng từ khi thấy dấu chỉ về Vị Phụ Nữ và lời đe dọa
Thiên Chúa đưa ra chống lại nó. Vì thế, nó hận thù bà Evà dữ dội hơn thù ghét ông Adong.
Trước khi hiện ra với bà Evà, Lucifer khuấy động trong bà nhiều tư tưởng rối loạn làm cho bà
ở trong tình trạng bị khích động ưu tư. Lời Sách Thánh nói đủ diễn tả việc này: “nó lấy hình
con rắn” (Stk 2:1) nói chuyện với bà Evà. Nghe nó nói và đối đáp, bà bắt đầu tin nó; rồi bà vi
phạm giới răn Thiên Chúa, sau cùng thuyết phục ông chồng cũng lỗi phạm.

Khi thấy hai ông bà sa ngã và linh hồn đẹp đẽ tốt lành, thánh sủng, sự công chính nguyên
thủy biến đổi thành sự xấu xa của tội lỗi, Lucifer cùng đồng bọn vui vẻ mừng chiến thắng.
Nhưng chúng đã sớm vỡ mặt. Trái với điều chúng mong đợi, Thiên Chúa yêu thương nhân
từ vô cùng đối với các tội nhân, ban cho ông bà Nguyên Tổ cơ may đền tội bằng cách cho
ông bà hy vọng được ơn tha thứ và lại được ân sủng. Ông bà Nguyên Tổ đáp lại ơn tha thứ
này bằng sự lo buồn đau đớn ăn năn thống hối, vẻ đẹp đẽ tốt lành của ân sủng lại được phục
hồi. Khi các quỉ thấy hiệu quả việc ăn năn thống hối, cả hỏa ngục lại hỗn loạn. Sự kinh ngạc
rụng rời của Satan gia tăng, khi nó nghe lời Thiên Chúa tuyên phạt hai Nguyên Tổ vì đã lỗi
phạm, mà chính nó liên can. Nó bị xâu xé dữ dội hơn hết vì lời đe dọa được nhắc lại: “Người
Phụ Nữ sẽ đạp giập đầu mày” (Stk 3: 15), mà nó đã nghe trên thiên đàng.

Đấng Tối Cao nhân từ vô cùng không chấp tội nguyên tổ và mọi tội lỗi khốn nạn khác nhân
loại vấp phạm, nhưng đã chúc lành cho nguyên tổ, để nhân loại có thể trưởng thành và tăng
số (Stk 4:3). Thiên Chúa Tối Cao cho phép bà Evà, trong Cain bất chính, sinh ra một loại kết
quả xấu của tội lỗi, và trong Abel công chính, sinh ra những người giống hình ảnh Chúa Kitô
cả về dáng vóc và tính tình. Nơi người công chính thứ nhất, lề luật và giáo lý của Đức Kitô
khởi đầu phát huy hiệu lực. Tất cả mọi người công chính đều noi theo giáo lý đó, chịu đau
khổ vì sự công chính (Mt 10:22), bị ghét bỏ, bị đàn áp bởi các kẻ tội lỗi, bởi những kẻ bị luận
phạt, và cũng do chính anh em của mình. Lòng kiên nhẫn, khiêm nhượng hiền lành bắt đầu
xuất hiện nơi Abel; nhưng lòng ghen ghét và mọi tính ác độc xuất hiện nơi Cain. Kẻ ác độc
chiến thắng, người công chính chịu đau khổ là quang cảnh trong đó thế giới tiếp tục sống cho
tới tận thế.

Thiên Chúa cũng muốn Adong thứ nhất là hình bóng tiêu biểu Adong thứ hai về cách tạo
dựng hai Vị. Trước khi tạo dựng Adong thứ nhất, Thiên Chúa đã tạo dựng toàn thể mọi thụ
tạo khác để trao phó cho ông, đặt ông là chúa, là thủ lãnh. Trước khi Con Một Thiên Chúa
xuống trần gian, Thiên Chúa để cho nhiều thế hệ qua đi, để nơi số nhân loại gia tăng, Con
Thiên Chúa có một dân tộc được chuẩn bị cho Ngài, mà Ngài là Thủ Lãnh, là Thầy, và là
Vua. Đó là sự hòa hợp và trật tự kỳ diệu, theo đó sự khôn ngoan của Thiên Chúa sắp đặt mọi
sự, làm cho việc thi hành được trật tự và định liệu được uyển chuyển.

Vũ trụ tiến triển theo dòng của nó. Để Ngôi Lời có thể từ lòng Thiên Chúa Cha ngự xuống
mặc lấy nhân tính, Thiên Chúa chọn và chuẩn bị những người tột đỉnh tốt lành, đáng ca tụng
muôn đời. Trong đó Thiên Chúa cũng tạo dựng một dòng giống đặc sắc, thánh thiện nhất, mà
từ dòng dõi đó Ngài mặc thân xác nhân loại. Tác giả không đi vào chi tiết gia phả Chúa Kitô,
vì các thánh sử đã làm việc này. Tuy nhiên, để ca tụng Thiên Chúa, tác giả phải ghi lại rằng
nhiều lần được Thiên Chúa cho hiểu tình yêu khôn sánh của Ngài đối với nhân loại, ban cho
họ mọi đặc ân, các Nhiệm Tích thánh, mà về sau được thể hiện rõ ràng nơi Giáo Hội Chúa.
Vì không một lúc nào Chúa ngủ hoặc mơ màng, Chúa đã tự đặt mình là người canh giữ dân
Do Thái (Tv 120:4).
Chúa nuôi dưỡng các Tiên Tri, các thánh Tổ, và qua các vị này loan báo cho chúng ta Ơn
Cứu Độ. Chúa muốn chúng ta kính trọng các Tiên Tri và các thánh Tổ, vì các ngài quí trọng
luật ân sủng, khao khát ước vọng và cầu xin Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Thiên Chúa cho các
vị này thấy Bản Chất không thay đổi của Ngài bằng nhiều mạc khải, mà các vị này chuyển lại
cho chúng ta qua Sách Thánh, chứa đựng các mầu nhiệm cao cả (mà) chúng ta nhận được
và học hiểu nhờ đức tin. Tuy nhiên, tất cả những huyền nhiệm đó được đưa tới hoàn thiện,
được củng cố vững chắc nhờ Ngôi Lời nhập thể, Đấng đem đến cho chúng ta luật an toàn
đức tin và chất dinh dưỡng của Sách Thánh trong Giáo Hội Chúa. Mặc dầu các Tiên Tri và
những người công chính trong dân tộc Do Thái không được diễm phúc nhìn thấy Chúa Kitô
bằng xương bằng thịt, các ngài được hưởng lòng nhân từ đại lượng của Chúa, Đấng tỏ hiện
cho các ngài qua những lời tiên tri, đánh động trái tim các ngài cầu xin cho việc Ngôi Lời đến
và cho việc Cứu Độ toàn thể nhân loại. Sự hòa hợp nhịp nhàng tất cả các lời tiên tri, các mầu
nhiệm và lòng khát vọng trông đợi của các tổ phụ, đã là điệu nhạc ngọt ngào đối với Thiên
Chúa, điệu nhạc dịu ngọt đó vang lên trong lòng Thiên Chúa, làm vui thoả và rút ngắn thời
gian (nói theo kiểu loài người) ngày Chúa từ trời xuống trần gian ở với nhân loại.

CHƯƠNG 4, Phần Một


LOÀI NGƯỜI TĂNG SỐ; VIỆC TRÔNG CHỜ ƠN CỨU ĐỘ;
THÁNH JOAKIM VÀ ANNA

Con cháu dòng dõi ông Adong sinh sản đông đúc; số người công chính và người bất chính
gia tăng; lời người công chính van xin Chúa Cứu Thế cũng gia tăng; lỗi lầm của những kẻ ác
độc chống lại ơn Chúa cũng chồng chất. Dân Chúa và các chương trình dành cho việc chiến
thắng của Chúa khi mặc nhân tính, việc trông chờ Chúa Cứu Thế cũng đã tới giai đoạn chót.
Thế giới tội lỗi thuộc thế hệ những kẻ ác độc đã bành trướng ảnh hưởng của nó tới những
biên giới xa xôi nhất, và thời điểm thích hợp cho việc cứu chuộc đã tới.

Satan đã đầu độc toàn thế giới bằng nọc độc; nghiễm nhiên yên hưởng quyền thống trị
những người mù quáng đối với ánh sáng lý trí (Rom 1:20), mù quáng đối với những lệnh
truyền ghi trong Luật Cũ. Khi mà thay vì tìm kiếm Thiên Chúa thực, người ta tạo ra cho mình
nhiều luật lệ giả dối; mỗi người tạo cho mình một vị thần theo ý thích, mà không suy nghĩ
rằng sự hỗn loạn của tình trạng đa thần mâu thuẫn với mọi sự tốt lành, trật tự, và hòa bình.
Vì những sai lầm này, sự quỉ quyệt, ngu dốt, vong ân bội bạc lãng quên đối với Thiên Chúa
thực đã trở thành tự nhiên. Do sự ngu muội không biết tật bệnh nguy hiểm chết người, nhân
loại ngày càng câm nín trong việc cầu nguyện xin ơn giải thoát. Phép công thẳng của Chúa
có nguyên cớ chính đáng để hủy diệt mọi thụ tạo khiến nó trở lại nguồn gốc hư không của
nó. Nhưng Thiên Chúa hướng về lòng thương xót vô cùng, cân bằng đức công bình với lòng
khoan dung nhân từ, quyết định để ý tới sự tốt lành, lắng nghe các lời van xin và việc phụng
thờ trung thành của những người công chính và các tiên tri trong dân Chúa hơn là để ý tới
cơn phẫn nộ đối với sự ác độc do tội lỗi của toàn thể nhân loại.

Trong đêm tối tăm của Luật Cũ, Thiên Chúa quyết định ban tối đa bằng chứng bảo đảm chắc
chắn cho ngày ân sủng, gởi đến trần gian hai danh nhân sáng chói nhất để loan báo sắp tới
lúc bình minh của Mặt Trời Công Chính là Chúa Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta. Thiên Chúa
quyết định tạo dựng và chuẩn bị thánh Joakim và Anna cách đặc biệt. Thánh Joakim sinh
sống tại Nazareth, một thị trấn thuộc xứ Galilea. Ngài là người công chính thánh thiện, được
ơn trên đặc biệt soi sáng, hiểu biết nhiều mầu nhiệm trong Sách Thánh và các Tiên Tri.
Thánh nhân sống khiêm tốn, công chính, thánh thiện, chân thành. Ngài còn can đảm, nhiệt
thành, nhã nhặn, liêm khiết. Thánh Joakim liên tục tha thiết nài xin Thiên Chúa hoàn thành lời
hứa cứu chuộc nhân loại.

Thánh Anna diễm phúc cao vời sinh sống tại Bethlehem. Bà là một phụ nữ trung trinh, khiêm
tốn và diễm kiều. Từ niên thiếu, bà sống đức hạnh, thánh thiện, ẩn dật, được ơn soi sáng cao
cả và liên tục chiêm niệm. Thánh nữ rất chuyên cần tháo vát, do đó đạt được sự trọn lành cả
trong đời sống hoạt động cũng như đời sống chiêm niệm. Người thấu triệt các mầu nhiệm
cùng các đặc ân tiềm ẩn trong Sách Thánh. Không ai hơn bà về đức tin, cậy và yêu mến sâu
xa. Được trang bị bằng tất cả các đặc ân này, thánh Anna không khi nào ngưng cầu xin Chúa
Cứu Thế đến. Thánh nữ cũng hết sức nhiệt thành xin Thiên Chúa chọn cho bà một phu quân
để giúp đỡ bà chu toàn Luật Chúa. Khi thánh Anna cầu nguyện, Thiên Chúa cũng an bài cho
thánh Joakim cầu xin như thế. Lời cầu nguyện của cả hai vị dâng lên trước toà Thiên Chúa
Ba Ngôi cùng một lượt, được lắng nghe và chấp nhận. Tới thời gian được Thiên Chúa ấn
định, thánh Joakim kết hợp với thánh Anna trong hôn nhân và trở thành cha mẹ của Vị Trinh
Nữ, Đấng là Hiền Mẫu Thiên Chúa nhập thể.

Để xúc tiến thánh ý Thiên Chúa, Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel được phái đến báo tin cho cả
hai vị. Thiên Sứ Gabriel hiện ra rõ ràng với thánh Anna, trong khi bà cầu nguyện xin Chúa
Cứu Thế đến. Khi thấy thiên thần, thánh Anna bối rối nhưng đồng thời trong lòng vui mừng
hoan hỉ. Kiều nữ trung trinh phủ phục khiêm tốn tôn kính thiên sứ, nhưng thiên sứ cản lại và
khuyến khích bà, vì bà được ký thác Hòm Bia Manna đích thực là Đức Maria rất thánh, Vị
Hiền Mẫu của Ngôi Lời nhập thể. Thiên sứ Gabriel đã được Thiên Chúa cho biết mầu nhiệm
hồng ân này khi được phái đi báo tin. Các thiên thần khác chưa biết điều đó, vì mạc khải này
được ban trực tiếp cho thiên sứ Gabriel. Nhưng lúc đó Thiên Sứ không tỏ hiện mầu nhiệm
cao cả này ngay cho thánh Anna, mà chỉ yêu cầu thánh Anna lắng nghe ngài nói:

”Thiên Chúa Tối Cao ban đặc ân cho bà và là ơn cứu độ cho bà. Thiên Chúa đã nghe lời bà
cầu xin, Ngài muốn bà duy trì bảo vệ đặc ân đó và tiếp tục nài xin Chúa Cứu Thế đến. Chúa
muốn bà kết hôn với (thánh) Joakim, vì ông là người công chính được Chúa chấp nhận. Với
sự đồng hành của Joakim, bà sẽ có thể kiên trì trong việc tuân giữ lề luật và phụng sự Chúa.
Hãy tiếp tục cầu nguyện nài xin Thiên Chúa làm cho những điều đó được trọn toàn. Hãy
bước đi theo đường công chính và để cho linh hồn bà nói chuyện với thiên đàng. Hãy liên tục
cầu nguyện xin Chúa Cứu Thế đến, hãy vui mừng trong Chúa, Đấng là ơn cứu độ cho bà.”

Thiên Sứ Gabriel không hiện ra rõ ràng với thánh Joakim, nhưng nói với ngài trong giấc ngủ:
“Này Joakim, phúc thay ông được Thiên Chúa chúc lành! Hãy kiên trì trong các ước nguyện
của ông, sống ngay chính trọn lành. Chúa muốn ông cưới (thánh) Anna, vì Thiên Chúa yêu
thương chúc phúc cho bà. Hãy săn sóc, quí trọng bà như lời hứa và tạ ân Chúa Cao Cả, vì
Ngài đã ban bà cho ông coi sóc.” Tiếp sau thông điệp thiên đàng này, thánh Joakim đã xin
cưới thánh Anna. Vâng lệnh Chúa, ông bà kết hôn với nhau. Nhưng không vị nào tiết lộ điều
bí mật mãi tới hai mươi năm sau. Cặp phu thê thánh thiện này sinh sống tại Nazareth, tiếp
tục bước đi trên đường chính trực. Với lòng ngay thẳng chân thành, ông bà thực hành mọi
thánh đức, xa lánh mọi thiếu sót sai lỗi để được vui lòng Thiên Chúa. Ông bà chia lợi tức
hàng năm làm ba phần. Phần thứ nhất dâng cho đền thờ Jerusalem vào việc phụng thờ
Thiên Chúa, phần thứ hai phân phát cho người nghèo khó, chỉ giữ lại phần thứ ba cho cuộc
sống hàng ngày tươm tất của ông bà và gia đình. Để thưởng cho lòng rộng rãi bác ái, Thiên
Chúa ban cho ông bà thêm của cải đời tạm này.

Ông bà chung sống với nhau tâm đồng ý hợp, thuận hoà, không hề có bóng mờ của sự khó
chịu miễn cưỡng. Thánh Anna hết sức khiêm tốn vâng phục ký thác mọi việc theo ý thánh
phu quân. Phần thánh Joakim luôn tìm hiểu những điều thánh Anna muốn, bằng cả con tim
ký thác mọi sự cho hiền thê (Kn 31: 11). Ông bà chung sống trong tình bác ái trọn hảo, suốt
đời không khi nào ông bà không cùng chung ý nguyện cầu (Mt 18:20). Vì liên kết với nhau
trong Chúa, ông bà vui hưởng Chúa hiện diện trong niềm kính sợ thánh thiện. Thánh Joakim
cẩn trọng chu toàn thánh ý Thiên Chúa được thiên thần chuyển truyền, yêu quí và nhiệt tâm
săn sóc hiền thê của ngài.

Thiên Chúa mặc cho thánh Anna ân sủng của lòng yêu thương (Tv 20:4), ban cho bà những
ân sủng vĩ đại, sự hiểu biết sâu xa, chuẩn bị bà lãnh nhận hồng ân hạnh phúc trở nên hiền
mẫu của Người, Đấng sẽ là Mẹ chính Thiên Chúa. Mọi việc Thiên Chúa làm đều toàn hảo
tuyệt vời, vì thế, Thiên Chúa làm cho thánh Anna trở thành bà mẹ xứng đáng của Thụ Tạo
cực tinh tuyền, Đấng sẽ trội vượt trên hết mọi thụ tạo về thánh đức chỉ sau một mình Thiên
Chúa.

Cặp phu thê diễm phúc này chung sống qua hai mươi năm mà không có con cái. Vào thời
đó, vợ chồng không con cái bị người Do Thái coi là đại bất hạnh, đại vô phước. Ông bà phải
chịu nhiều nguyền rủa sỉ nhục từ những người lối xóm, quen thuộc, vì người son sẻ bị coi là
bị loại khỏi các ân sủng của Đấng Thiên Sai. Thiên Chúa Tối Cao muốn để cho ông bà chịu
đau khổ và chuẩn bị đón nhận hồng ân đang chờ đón ông bà, để với lòng kiên trì và tuân
phục, ông bà có thể trong nước mắt gieo lấy Trái Vinh Quang, mà ông bà sẽ sinh ra. Ông bà
tiếp tục cầu nguyện nồng nàn, luôn nhớ lệnh Chúa truyền. Ông bà khấn hứa với Chúa, nếu
ông bà sinh được người con, ông bà sẽ dâng hiến người con đó phụng sự Chúa trong đền
thờ Jerusalem.

Theo lệnh Chúa, sau một năm đặc biệt kiên trì nhiệt thành cầu nguyện, thánh Joakim lên đền
thờ cầu nguyện, dâng của lễ xin Chúa gởi Đấng Cứu Thế đến, và xin được người con ông
ước mong. Cùng với những người khác từ Nazareth, thánh Joakim tới đền thờ dâng của lễ,
đóng góp như thường lệ trước sự hiện diện của thầy cả thượng phẩm. Lúc đó, ông Isachar,
một vị tư tế hàng dưới đã nặng lời quở trách lão trượng Joakim, vì ngài dám cùng với những
người khác dâng của lễ bất chấp việc hiếm hoi của mình. Ngoài những lời khác, vị tư tế đó
nói với thánh Joakim: “Này ông Joakim, tại sao ông đến dâng lễ vật không đẹp lòng Thiên
Chúa, vì ông là người vô dụng? Hãy rời khỏi những người này và bước đi, đừng làm phiền
Thiên Chúa bằng những của lễ không đáng được chấp nhận.” Xấu hổ và bối rối nhưng với
tình yêu khiêm tốn, thánh Joakim nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa Tối Cao, con
lên đền thờ theo lệnh và thánh ý Chúa; người thay mặt Chúa miệt thị con; tội lỗi con xứng
đáng với sự khinh ghét này; nhưng vì con nhận chịu sự khinh ghét này theo thánh ý Chúa,
xin Chúa đừng xua đuổi thụ tạo của tay Chúa” (Tv 27:5-10). Thánh Joakim rời khỏi đền thờ,
phiền sầu nhưng an hòa, đi tới một nông trại, tại đây trong đơn độc yên tĩnh ngài cầu xin
Chúa ròng rã mấy ngày đêm:

”Lạy Thiên Chúa Tối Cao Hằng Hữu, toàn thể nhân loại nhờ Chúa mà sinh tồn, con sấp mình
trước nhan thánh Chúa Hằng Sống, con khẩn khoản nài xin lòng nhân từ Chúa đoái nhìn sự
thống khổ linh hồn con, xin nghe lời con van nài cùng những lời nài xin của Anna tôi tớ Chúa.
Chúa thấy rõ mọi điều chúng con ước nguyện (Tv 37:10). Nếu con không đáng được Chúa
nghe lời, xin Chúa đừng khinh bỏ hiền thê khiêm tốn của con. Lạy Thiên Chúa, Chúa ông
Abraham, Isaac và Jacob, tổ tiên chúng con, xin Chúa đừng giấu lòng nhân từ đối với chúng
con. Chúa là Cha nhân từ, xin đừng để lễ vật con hiến dâng bị coi như của những kẻ bị luận
phạt, bị loại bỏ, vì Chúa không ban con cái cho con. Lạy Chúa, xin hãy nhớ những hy lễ (Tl
12:27), các lễ vật của các tôi tớ và tiên tri của Chúa, tổ phụ con, xin đoái nhìn việc đẹp lòng
Chúa của các vị đó. Lạy Chúa, Chúa truyền cho con vững tin lòng thương xót và quyền năng
cao cả Chúa, xin ban cho điều con xin theo thánh ý Chúa. Nếu tội lỗi con cản trở việc thi
hành lòng thương xót Chúa, xin hãy cất đi những gì làm mất lòng và cản trở Chúa. Lạy Chúa,
Thiên Chúa dân Do Thái, Chúa toàn năng, Chúa làm mọi điều Chúa muốn không ai cản trở
được. Xin cho lời con nguyện cầu lên tới Chúa. Con khốn nạn và hư không, Chúa là Đấng Vô
Cùng luôn luôn sẵn sàng thực thi lòng thương xót đối với những kẻ thất vọng. Chạy trốn khỏi
Chúa, con sẽ đi đâu, Chúa là Vua các vua, là Chúa các chúa? Chúa ban tràn đầy ơn lành
cho con cái và tôi tớ Chúa qua muôn thế hệ. Chúa đã truyền cho con trông chờ và ước vọng
nhờ lòng nhân từ vô biên của Chúa điều Chúa đã làm nơi anh em con. Nếu Chúa vui lòng
nhận lời con cầu xin mà ban cho con một người con, con sẽ hiến dâng người con đó phụng
sự Chúa vĩnh viễn trong đền thờ. Con đã luôn gắn mắt con, ý muốn của con vào thánh ý
Chúa; luôn ước nguyện giữ cho mắt và lòng con khỏi những thứ phù vân đời này. Xin làm
cho con điều vui lòng Chúa, xin làm cho hồn chúng con reo vui vì ước nguyện được thành
toàn. Xin Chúa đoái nhìn hạt bụi khốn nạn này, xin nâng nó lên, để nó làm vinh danh và thờ
lạy Chúa, xin cho mọi điều được hoàn thành theo thánh ý Chúa, chứ không phải ý con.”

Trong khi thánh Joakim cầu nguyện tại nơi ngài ẩn dật, thiên thần hiện ra với thánh Anna.
Theo thánh ý Chúa và ý phu quân Joakim của bà, thánh Anna cầu nguyện với lòng khiêm tốn
tín thác, xin cho ước nguyện của hai vị được hoàn thành:

”Lạy Thiên Chúa Tối Cao, lạy Chúa của con, Đấng tạo thành và bảo vệ muôn loài, Đấng linh
hồn con tôn thờ là Thiên Chúa thật, vô cùng thánh thiện, hằng hữu đời đời! Phủ phục trước
nhan thánh Chúa, mặc dầu con chỉ là tro bụi (Stk 18:27), con kêu lên Chúa sự khó nghèo và
đau khổ của con. Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin Chúa làm cho chúng con xứng đáng với ơn
sủng Chúa, xin ban kết quả của lòng dạ, để chúng con có thể dâng hiến người con đó phụng
sự Chúa trong đền thờ (Est 13:9). Lạy Chúa, xin nhớ bà Anna, tôi tớ Chúa, mẹ ông Samuel,
vốn bị son sẻ, nhưng nhờ lòng thương xót đại lượng của Chúa mà những ước nguyện của
bà đã được vẹn tròn. Con cảm thấy trong lòng sự can đảm thúc đẩy con xin Chúa ban cho
con cũng ơn của lòng thương xót đó. Lạy Chúa dịu hiền, xin Chúa nghe lời khẩn cầu khiêm
nhượng của con, xin Chúa nhớ các hy lễ, các lễ vật và phụng sự của tổ tiên chúng con và
hồng ân mà quyền năng Chúa đã thực hiện nơi các vị đó. Lạy Chúa, con ước ao dâng lên
Chúa của lễ đáng được Chúa vui lòng chấp nhận. Nếu Chúa vui lòng ban cho con một người
con, ngay từ giây phút này con xin thánh hóa và dâng hiến người con đó phụng sự Chúa
trong đền thờ. Lạy Thiên Chúa là Chúa dân Do Thái, nếu Chúa vui lòng nhân từ đoái nhìn thụ
tạo thấp hèn khó nghèo này và an ủi Joakim, tôi tớ Chúa, xin ban cho con như lời con
nguyện cầu, xin cho mọi sự được chu toàn theo thánh ý đời đời của Chúa.”

Lời cầu nguyện của thánh Joakim và Anna được Thiên Chúa Ba Ngôi chấp nhận và thiên ý
được tỏ hiện cho các thiên thần. (Theo cách mô tả sự việc của loài người chúng ta) Thiên
Chúa Ba Ngôi nói với các thiên thần: “Trong tình thương hạ cố, Ta đã quyết định Ngôi Lời sẽ
mặc thân xác nhân loại để nhờ Ngài toàn thể nhân loại sẽ được cứu độ. Ta đã tỏ rõ và hứa
điều này với các tôi tớ của Ta là các Tiên Tri để loan báo cho nhân loại. Ta hết sức khó chịu
vì sự nghiêm khắc của phép công bình đối với tội lỗi và ác tâm của nhân loại. Tuy nhiên lòng
nhân từ thương xót của Ta lớn lao hơn tất cả mọi tội lỗi ác độc của chúng. Đòi hỏi của sự
công bình không dập tắt được tình thương yêu của Ta dành cho nhân loại. Ta xót thương
đoái nhìn các công trình Ta tạo dựng theo hình ảnh và giống như Ta, để làm cho chúng trở
nên những người thừa kế và tham dự vinh quang đời đời của Ta (1 Phêrô 3:22). Ta cân nhắc
những việc phụng sự trung thành từ các tôi tớ và bằng hữu của Ta; lưu tâm tới muôn ngàn
người nổi bật trong việc chúc tụng và ơn nghĩa của Ta. Hơn hết tất cả, Ta có Ái Nữ ở trước
mắt, Người là Đấng được tuyển chọn, đáng được chấp nhận hơn hết, được biệt lập giữa mọi
thụ tạo. Ái Nữ của Ta sẽ cưu mang và mặc thân xác nhân loại cho Ngôi Lời nhập thể.”

”Vì phải có khởi đầu cho việc này, bây giờ là thời điểm thích hợp được chấp nhận để cho
nhân loại thấy các kho tàng Thiên Chúa. Ta vui lòng đoái nhìn Joakim và Anna trung tín, ban
cho hai người các ân sủng đặc biệt nhất. Hai người đó đã trung thành kiên trì trong mọi thử
thách, đơn sơ, chân thành, vui lòng Ta. Ta phái Gabriel làm thiên sứ đem tin vui tới cho hai
người và cho toàn thể nhân loại. Thiên sứ Gabriel báo tin cho Joakim và Anna rằng, vì tình
thương hạ cố, Ta đã chọn hai người.”

Đó là cách các thiên thần được báo cho biết thánh ý Thiên Chúa Toàn Năng. Thánh tổng
lãnh thiên thần Gabriel phủ phục trước toà Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, thờ lạy và tôn
kính. Thiên Chúa phán: “Thiên Sứ Gabriel, hãy soi sáng tâm hồn, an ủi Joakim và Anna, tôi
tớ Ta, nói cho hai người biết lời cầu xin của họ đã tới tòa Thiên Chúa, điều hai người nguyện
cầu được khoan hòa lắng nghe. Hãy hứa với Gioakim và Anna rằng, do quyền năng của Ta,
hai người sẽ nhận được Trái Ân Sủng, Anna sẽ mang thai một Ái Nữ, mà Ta đặt tên cho
Người là MARIA.”

Cùng với lệnh truyền này của Đấng Tối Cao, nhiều mầu nhiệm liên quan tới thông điệp này
được tiết lộ cho thiên sứ Gabriel. Thiên sứ Gabriel từ thiên cung xuống trần gian gặp thánh
Joakim khi ngài đang cầu nguyện, và nói với thánh nhân:

“Hỡi người công chính, Thiên Chúa Toàn Năng từ ngai toà cực cao chú ý tới những ước
nguyện của ông, chấp nhận lời ông tha thiết cầu khẩn và làm cho ông được giàu có trên trần
gian. Bà Anna, hiền thê của ông, sẽ mang thai một Ái Nữ diễm phúc hơn mọi phụ nữ (Lc
1:42-48). Muôn dân sẽ nhìn nhận Người là Diễm Phúc. Thiên Chúa hằng hữu, Đấng chính
trực và quyền năng vô cùng, phái tôi đến gặp ông, vì các việc ông làm và của bố thí ông dâng
đã được chấp nhận. Lòng yêu mến đã làm dịu trái tim Đấng Toàn Năng, đẩy mau lòng
thương xót của Chúa. Do lòng đại lượng, Thiên Chúa ban cho gia đình ông một Ái Nữ mà bà
Anna sẽ cưu mang. Chính Thiên Chúa đã chọn tên cho Ái Nữ là MARIA. Ngay từ ấu thơ Ái
Nữ được dâng hiến cho Thiên Chúa trong đền thờ như ông đã nguyện hứa. Ái Nữ sẽ là
Người được tuyển chọn, được ca tụng, đầy quyền thế và đầy Chúa Thánh Linh. Vì sự son sẻ
của bà Anna, việc bà mang thai sẽ là phép lạ. Ái Nữ sẽ là Ái Nhi tuyệt diệu suốt đời Người.
Này ông Joakim, hãy chúc tụng Thiên Chúa, vì đặc ân này, hãy làm vinh danh Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa không làm điều lạ lùng như thế ở dân nước nào khác. Ông sẽ phải lên đền thờ
Jerusalem tạ ân Thiên Chúa và để làm chứng sự thật của tin vui mừng này, ông sẽ gặp bà
Anna ở Kim Môn, Bà cũng lên đền thờ vì mục đích như thế. Hãy nhớ sự lạ lùng của thông
điệp này, vì việc bẩm thai Con Trẻ này sẽ làm cho thiên đàng và trần thế vui mừng.”
Trong khi đó, thánh Anna đại diễm phúc đắm chìm trong cầu nguyện chiêm niệm, được hoàn
toàn bao bọc trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, được thu hút bởi Ngôi Lời hằng sống. Với
lòng khiêm tốn thẳm sâu nhất và đức tin sống động, bà liên tục cầu nguyện xin Chúa Cứu
Thế mau đến:

“Lạy Vua tối cao, lạy Thiên Chúa muôn loài, con chỉ là một thụ tạo khốn nạn hèn hạ nhất, con
liều chết xin Chúa vì lòng nhân từ thương xót làm cho Ơn Cứu Độ chúng con mau tới. Xin
Chúa nhân từ đoái nhìn những thiếu thốn của chúng con! Xin cho mắt chúng con được thấy
Đấng Cứu Chuộc nhân loại! Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót Chúa đã ban cho dân
Chúa, Chúa đã hứa ban Con Một của Chúa, xin cho lời hứa này do lòng nhân từ vô cùng của
Chúa làm cho Chúa vui lòng! Xin cho lời hứa đó thể hiện ngay bây giờ, ngày đó đã được
trông chờ quá lâu! Có thể nào Thiên Chúa Tối Cao từ trời cao ngự xuống? Có thể nào Thiên
Chúa Giáng Trần có Bà Mẹ trần gian? Vị Trinh Nữ nào vậy, tột đỉnh diễm phúc như thế? Ôi
người nào được diễm phúc chăm sóc Người? Ai sẽ đáng được là đầy tớ của đầy tớ Người?
Phúc thay dòng giống được nhìn thấy Người, được phủ phục nơi chân Người để tôn kính
Người! Hạnh phúc chừng nào nếu được nhìn thấy Người, được ở trong đoàn tùy tùng của
Người! Phúc thay những cặp mắt nhìn thấy Người và tai nghe Người nói, và gia đình mà từ
đó Thiên Chúa chọn Thánh Mẫu của Chúa! Lạy Thiên Chúa, xin Chúa hãy thi hành quyết
định này: xin hãy chu toàn lòng nhân từ của Chúa!”

Thiên sứ Gabriel hiện ra nói với thánh Anna: “Lòng khiêm nhượng, đức tin cùng bác ái của
ông Joakim và của bà đã tới trước tòa Thiên Chúa Tối Cao. Thiên Chúa phái tôi, thiên thần
của Ngài, đem tin hết sức vui mừng cho trái tim bà: Đấng Tối Cao muốn cho bà được diễm
phúc nhất. Thiên Chúa chọn bà làm mẹ Đấng sẽ cưu mang và sinh Con Một Thiên Chúa
Cha. Bà sẽ sinh một Ái Nữ, Thiên Chúa đã định tên Người là MARIA. Ái Nữ Maria sẽ được
phúc hơn hết mọi phụ nữ và tràn đầy Chúa Thánh Linh. Người sẽ là vầng mây mưa sương
trời xuống giải khát nhân loại (3 Vua 18:44). Nơi Người các lời tiên tri của tổ phụ bà sẽ được
hoàn thành. Ái Nữ sẽ là Cửa Sự Sống và Ơn Cứu Độ cho con cái Adong. Nói cho bà biết tôi
đã báo tin cho ông Joakim biết ông ấy sẽ có Ái Nữ, Đấng được tột đỉnh diễm phúc. Nhưng
Thiên Chúa không cho ông ấy biết đầy đủ mầu nhiệm này, ông Joakim cũng không biết Ái Nữ
sẽ là Hiền Mẫu Chúa Cứu Thế. Bà phải giữ bí mật này. Bây giờ bà hãy đi vào đền thờ tạ ân
Thiên Chúa vì đã được Thiên Chúa toàn năng hết sức ưu ái. Tại Kim Môn bà sẽ gặp ông
Joakim, tại đó bà sẽ báo cho ông biết tin này. Bà là người duy nhất được Thiên Chúa đặc
biệt chúc phúc và làm cho sung túc bằng những hồng ân đặc biệt. Tại nơi yên tĩnh, Thiên
Chúa sẽ nói với trái tim bà, tại đó Thiên Chúa sẽ ban cho bà phần khởi đầu Luật Ân Sủng, vì
trong lòng bà Thiên Chúa sẽ tạo dựng hình hài Ái Nữ, Đấng sẽ mặc cho Thiên Tính thân xác
nhân loại. Trong nhân tính này, kết hợp với Ngôi Lời, luật đích thực của Lòng Thương Xót
Yêu Thương sẽ được viết bằng chính Máu của Ngài.”

Để trái tim khiêm tốn của thánh Anna không ngất xỉu vì kinh ngạc vui mừng trước những tin
do thiên sứ loan báo, thánh Anna đã được Chúa Thánh Thần tăng sức mạnh mà nhờ đó đón
nhận tin mừng với tâm hồn cao thượng và niềm vui khôn tả. Thánh Anna lập tức chỗi dậy, vội
vàng tới đền thờ Jerusalem, tại đây bà gặp thánh Joakim, như thiên thần đã bảo ông bà. Ông
bà cùng nhau tạ ân Đấng Toàn Năng vì đặc ân lạ lùng này và dâng của lễ đặc biệt. Ông bà
lại được Chúa Thánh Thần soi sáng. Tràn đầy ơn Chúa an ủi, ông bà trở về nhà, vui mừng
trao đổi với nhau về những ơn ưu ái được Thiên Chúa ban cho, đặc biệt về thông điệp mỗi
người nhận được từ thiên sứ tổng lãnh Gabriel. Trong dịp này, ông bà cũng cho nhau biết,
trước ngày ông bà kết hôn với nhau, cũng chính thiên sứ Gabriel đã truyền cho ông bà chấp
nhận nhau để có thể cùng nhau phụng sự và tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Ông bà mỗi
người đã giữ kín bí mật này ròng rã hai mươi năm, cho tới khi cũng chính thiên sứ Gabriel
hứa ông bà có Ái Nữ tuyệt vời. Lần nữa ông bà khấn hứa dâng Ái Nữ trong đền thờ và hằng
năm cứ ngày này lên đền thờ dâng của lễ đặc biệt, dành cả ngày đó để chúc tụng, cảm tạ và
bố thí. Ông bà chu toàn lời hứa này trọn đời, dành ngày này để ca tụng tôn vinh Đấng Tối
Cao.

Thánh hiền thê Anna không bao giờ hé môi tiết lộ Ái Nữ của bà sẽ là Mẹ Chúa Cứu Thế.
Thánh Joakim không biết Ái Nữ của ngài sẽ là Vị Trinh Nữ cao cả huyền nhiệm. Tuy nhiên,
đến giây phút cuối cùng cuộc đời trần thế của ngài, Thiên Chúa cho ngài biết bí mật về Ái Nữ
Maria, như sẽ được kể.
CHƯƠNG 5, Phần Một
ƠN VÔ NHIỄM THAI

Thánh ý Thiên Chúa là căn nguyên chính yếu việc tạo dựng muôn loài, theo đó mọi loài được
an bài sắp đặt theo điều kiện hoàn cảnh riêng biệt, để không một loài nào bị quên lãng, không
một sức mạnh thụ tạo nào có thể cản trở, dẫu chỉ tối thiểu, việc hoàn thành thánh ý. Mọi nơi
và mọi thụ tạo ở đó đều tùy thuộc định luật an bài khôn ngoan vô cùng này, cộng tác với mọi
định luật tự nhiên cách chính xác không thể sai trật về mọi sự phải được thành toàn. Thiên
Chúa tạo thành, an bài, duy trì mọi sự theo thánh ý duy nhất; duy trì hoặc hủy diệt mọi thụ tạo
đều ở nơi Chúa, vì không có Chúa, các thụ tạo chỉ là hư không. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ
muôn loài vì vinh danh Chúa và vì vinh danh Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, từ nguyên thủy, Thiên
Chúa đã mở đường, sắp đặt các thể thức theo đó Ngôi Lời sẽ mang thân xác và sống giữa
loài người, để nhân loại có thể lên với Thiên Chúa, nhận biết, kính úy, tìm kiếm, phụng thờ,
yêu mến, chúc tụng và vui hưởng Chúa đời đời.

Thời điểm được tiền định đã tới, Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định: “Bây giờ đến lúc khởi sự kỳ
công Ta hài lòng, làm cho hiện hữu Thụ Tạo tinh tuyền và linh hồn đẹp mắt Ta hơn toàn thể
mọi thụ tạo. Ta mặc cho Ái Nữ những đặc ân súc tích nhất, ký thác nơi Người các kho tàng
ân sủng vô cùng. Những người khác đã bạc nghĩa vong ân, phản nghịch, làm hư ý định của
Ta. Tội lỗi chúng cản trở mục đích và làm sai thánh ý Ta là muốn cho chúng được bảo toàn
sống trong tình trạng hạnh phúc nguyên thủy. Ta tạo dựng Thụ Tạo này tột đỉnh thánh thiện
toàn vẹn, để tội lỗi của những người đầu tiên không có chỗ nơi Người. Ta tạo dựng một linh
hồn vui lòng Ta, kết quả mọi Bản Chất của Ta, một Kỳ Công do Quyền Năng vô cùng của Ta,
không dấu vết hoặc tì ố tội Adong. Ta toàn thành một Kỳ Công là đối tượng Quyền Năng của
Ta, là tiêu biểu mẫu mực cho sự toàn hảo được định cho con cái Ta, là triều thiên hoàn tất
công việc tạo dựng. Mọi người đều mắc tội do ý tự do và quyết tâm của con người đầu tiên
(Rom 5:12), Ta giữ cho Ái Nữ là Thụ Tạo duy nhất, nơi Người, Ta khôi phục và thực hiện
điều nhân loại đã ngu dại làm mất. Ta làm cho Ái Nữ là hình ảnh đặc biệt nhất và giống Ta
nhất. Người là tột đỉnh thánh ý và vui lòng hằng ở trước mắt Ta đời đời. Ta ký thác nơi Người
mọi đặc quyền, mọi hồng ân từ nguyên thủy đã được tiền định cho các thiên thần và nhân
loại. Ta canh tân nơi Thụ Tạo này những điều các thiên thần phản nghịch và nhân loại đã
mất. Ta sẽ ban thêm nhiều đặc ân khác nữa chung với các hồng ân này. Do đó thánh ý thứ
nhất của Ta không bị phá hoại, nhưng sẽ được hoàn tất cách cao cả hơn qua Thụ Tạo duy
nhất được tuyển chọn này (Dc 6:9). Vì các thụ tạo đã bỏ mất các đặc ân toàn hảo cao quí
nhất Ta đã phân định và chuẩn bị cho chúng, Ta sẽ trút suối nguồn đại lực của Ta vào cho
Thụ Tạo Yêu Dấu này. Ta sẽ tách Người ra khỏi luật thông thường mà theo đó toàn thể nhân
loại được tạo dựng, nơi Người hạt giống của mãng xà không dính bén tới được. Ngôi Lời sẽ
từ thiên đàng ngự xuống lòng dạ của Người để mặc lấy bản tính nhân loại từ chất liệu của
chính Người.”

“Thiệt là chính đáng và phù hợp với sự tốt lành vô cùng của Thiên Tính là thân xác Ngôi Lời
Nhập Thể được tạo thành gồm những chất liệu cực tinh tuyền, không hề mang vướng cũng
không bị tì vết tội lỗi. Ngôi Lời, Đấng sẽ nhập thể, là Đấng cứu độ, là Thầy dạy loài người, sẽ
đặt nền tảng Luật Ân Sủng cực toàn hảo mà qua đó giảng dạy rằng người cha và người mẹ
phải được vâng phục tôn kính vì là căn nguyên thứ nhì của việc hiện hữu tự nhiên của nhân
loại. Luật này được Ngôi Lời chu toàn trước tiên qua việc tôn vinh Người, Đấng là Hiền Mẫu
được tuyển chọn của mình, bằng quyền năng Thiên Chúa ca tụng Người, đổ tràn đầy trên
Người muôn vàn đặc ân và thánh sủng cực kỳ cao cả, thánh thiện tuyệt vời. Trong những
đặc ân này, hồng ân đặc biệt nhất là giữ cho Ái Nữ không bị lệ thuộc kẻ thù Ta, cũng không
bị lệ thuộc lòng ác độc của nó, vì thế Ái Nữ không vướng mắc sự chết vì tội lỗi.”

“Nơi trần thế, Ngôi Lời Nhập Thể sẽ có Mẹ nhưng không có cha; cũng như trên trời, Ngôi Lời
Nhập Thể có Cha nhưng không có Mẹ. Để thuận hợp trong việc Ngôi Lời Nhập Thể gọi Thiên
Chúa là Cha và Vị Trinh Nữ là Mẹ, Ta muốn thiết lập sự thuận hợp và giống nhau cực độ
giữa một thụ tạo và Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành. Vì thế không một lúc nào quái long đó có
thể kiêu ngạo là bậc trên đối với Vị Trinh Nữ này, Đấng mà Thiên Chúa sẽ vui lòng vâng lời là
Mẹ đích thực của mình. Được thoát khỏi tội lỗi là điều cần phải có xứng hợp với địa vị là Mẹ
Ngôi Lời Thiên Chúa, mà trong chính địa vị này điều đó còn đáng kính trọng và hữu ích hơn
nữa. Chức năng Mẹ Thiên Chúa đòi hỏi sự toàn thánh và toàn thiện. Xác thịt nhân loại, mà từ
đó Ngôi Lời Thiên Chúa mặc lấy hình hài, phải không vướng tội lỗi. Vì Ngôi Lời Thiên Chúa
phải bằng thân xác loài người cứu độ nhân loại tội lỗi, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể không
được ở trong tình trạng phải được cứu chuộc cho chính thân xác mình, như nơi nhân loại tội
lỗi. Vì kết hợp với Thiên Tính, nhân tính của Ngôi Lời Thiên Chúa phải là giá Cứu Độ, bởi thế
trên hết mọi sự, thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa phải được gìn giữ khỏi tội lỗi. Ta đã tiền định
và chấp nhận các công nghiệp của Ngôi Lời trong chính thân xác nhân loại này. Ta muốn mọi
bản tính hằng hữu đời đời của Ngôi Lời phải được tôn vinh qua nhà tạm nhân tính này.”

“Người phải là ái nữ của dòng dõi nguyên tổ, nhưng về ân sủng, một mình Người phải được
thoát miễn tội lỗi. Về bản chất, Người phải cực kỳ toàn vẹn, phải được tạo dựng theo sự
khôn ngoan đặc biệt. Vì Ngôi Lời Nhập Thể là Thầy dạy đức khiêm tốn và sự thánh thiện,
Ngôi Lời nhập thể sẽ phải chịu đựng vất vả; dạy việc coi thường các phù vân và ảo tưởng sai
lầm của nhân loại bằng việc chọn cho chính mình những đau khổ làm kho tàng quí báu vô
cùng trước mắt Ta. Ta muốn Ái Nữ, Người sẽ là Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, cùng chịu vất vả
gian khổ để được biệt lập trong kiên trì, đáng ca tụng trong đau khổ, được vinh quang hơn
nhờ kết hợp với Con Một hiến dâng hy lễ vô giá đáng được chấp nhận nhất lên Ta.”

Thiên Chúa phán tiếp: “Bây giờ đã tới thời điểm, được Sự Khôn Ngoan vô cùng của Ta an
bài, đem ra ánh sáng Thụ Tạo đẹp lòng, đáng được chấp nhận nhất trước mắt Ta. Thụ Tạo
cao quí, mà bản tính nhân loại nơi Người được thoát khỏi tội nguyên tổ, sẽ đạp giập đầu quái
long, kẻ là nguồn gốc tội đó; Người là Trinh Nữ xuất hiện trên trời trước mặt Ta, Người sẽ
mặc cho Ngôi Lời Hằng Sống thân xác nhân loại. Hạnh phúc thay cho nhân loại, đã tới thời
điểm các kho tàng Thiên Chúa được rộng mở, các cửa thiên đàng được mở khóa. Hãy để
cho sự nghiêm khắc do đức công chính của Ta được dịu bớt vì những hình phạt mà cho tới
nay Ta đã thi hành đối với nhân loại. Hãy để cho lòng thương xót của Ta được tỏ hiện. Hãy
cho nhân loại được sung túc, và Ngôi Lời làm cho chúng đáng được hưởng các kho tàng ân
sủng và vinh quang đời đời.”

“Bây giờ cho nhân loại được nhận lãnh Đấng Cứu Độ, Thầy Dạy, Người Anh và Người Bạn,
Đấng là sự sống cho loài người hay chết, là Y Dược cho người bệnh tật, là Đấng an ủi người
đau khổ, là Dầu trị thương tích, là Hướng Đạo và Bạn Đồng Hành cho người hoạn nạn. Bây
giờ hoàn thành lời hứa của Ta, qua các tiên tri, là Chúa Cứu Thế sẽ đến cứu độ nhân loại.
Để mọi việc được thi hành theo thánh ý Ta, để khởi đầu mầu nhiệm được giấu kín từ thuở
tạo dựng vũ trụ, Ta định việc tạo dựng MARIA yêu dấu trong lòng Anna tôi tớ của Ta. Mặc
dầu việc tạo dựng Ái Nữ sẽ tiến hành theo cách truyền sinh tự nhiên, việc tạo dựng Người sẽ
khác vì ân sủng theo quyết định Toàn Năng của Ta.”

“Các thiên thần biết từ khi cựu xà thấy dấu chỉ về Vị Phụ Nữ kỳ diệu này, nó đã tận lực dùng
mưu kế lung lạc tất cả mọi phụ nữ. Từ người phụ nữ đầu tiên được tạo dựng, nó quấy rầy
hành hạ tất cả mọi phụ nữ nổi bật về trọn lành trong việc làm và cuộc sống, hy vọng tìm ra Vị
Phụ Nữ sẽ đạp giập đầu nó (Stk 3:15). Khi nó phải đương đầu với Thụ Tạo cực tinh tuyền
không tì vết này, nó phải nhận thấy Người tột đỉnh thánh thiện đến mức nó sẽ tận lực quấy
rầy Người theo ý niệm nó sẽ nghĩ ra về Người. Nhưng lòng kiêu ngạo phách lối của quái long
này lớn hơn khả năng nó (Is. 12:7). Ta định rằng các thiên thần có trách nhiệm đặc biệt đối
với Thành Thánh và Nhà Tạm của Ngôi Lời Nhập Thể, phải bảo vệ, canh giữ, phụ giúp
Người chống lại các kẻ thù của Ta; các thiên thần soi dẫn, củng cố sức mạnh và an ủi Người
với tất cả lòng lo lắng cùng kính trọng phải có, suốt bao lâu Người lặn lội giữa nhân loại.”

Với phán định này của Thiên Chúa, toàn thể các thiên thần phủ phục trước ngai tòa Chúa Ba
Ngôi, tuyên xưng lòng sốt sắng tha thiết vâng lệnh Chúa. Từng thiên thần ước mong được
Thiên Chúa chỉ định, và tận hiến thi hành sứ vụ diễm phúc đó. Trong dịp này tác giả thấy diễn
tiến từ trận đại chiến giữa Tổng Lãnh Micae với Lucifer và bè lũ. Trong trận đại chiến này,
quái long và các phản thần theo nó bị liệng xuống nơi tối tăm đời đời. Trong khi đó các thiên
thần theo thánh Micae vinh thắng được củng cố vững chắc trong ân sủng và vinh quang đã
lập tức khởi đầu cầu xin cho việc hoàn thành các mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời mà lúc
này trở nên rõ ràng. Các thiên thần rất kiên trì lặp lại các lời cầu nguyện này cho tới khi Thiên
Chúa cho biết ước nguyện của các ngài được hoàn thành.
Với mạc khải mới này, các thiên thần, được thêm niềm vui và vinh quang, đã tâu lên Đấng
Tạo Thành: “Lạy Thiên Chúa, Chúa cao cả khôn lường, Chúa đáng mọi tôn kính, chúc tụng
và vinh quang đời đời, chúng con là thụ tạo của Chúa, được tạo dựng theo thánh ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa Toàn Năng, xin phái chúng thần thi hành những mầu nhiệm vô cùng kỳ diệu
của Chúa, để trong mọi điều, sự vui lòng cao cả của Chúa được thỏa mãn.” Bằng những lời
yêu mến, các thiên thần nhìn nhận mình là tôi tớ, ước nguyện được gia tăng sự tinh tuyền
toàn vẹn để xứng đáng là vệ sĩ, là tùy tòng của Đức MARIA. Kế đó Thiên Chúa chỉ định các
thiên thần phục vụ Đức MARIA.

Để đoàn chiến sĩ vô địch này có thể được trang bị mạnh mẽ, Thiên Chúa đặt Tổng Lãnh thiên
thần Micae làm thủ lãnh phái đoàn thiên quốc. Tổng Lãnh Micae thường ở gần và hiện ra rõ
ràng với Đức Nữ Vương. Đấng Tối Cao chỉ định Tổng Lãnh Micae là sứ giả đặc biệt của
Chúa Kitô Chúa chúng ta và hành động với tư cách người phòng vệ Đức Hiền Mẫu rất thánh.
Đó là cách Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh chuẩn bị cung cấp người săn sóc bảo vệ Mẹ
Thiên Chúa.

Thiên Chúa chuẩn bị mọi thứ để tạo dựng hình hài tuyệt vời không tì ố của Mẹ Thiên Chúa từ
bản chất nhân loại hư hoại. Các hình ảnh, những lời tiên báo của các Tổ Phụ và Tiên Tri đã
đáo hạn và được qui tụ lại, núi non được nâng cao lên, trên đó Thành Trì huyền nhiệm Thiên
Chúa được xây dựng (Tv 87:1-2). Thiên Chúa chọn lựa và ký thác cho Ái Nữ Maria những
kho tàng bao la để làm cho Người được phú túc. Các thiên thần hết sức trung tín thi hành sứ
mệnh phục vụ Đức Nữ Vương. Thiên Chúa đã chuẩn bị một dòng dõi vương giả từ đó Người
sẽ ra đời, đã chọn cho Người song thân thánh thiện toàn vẹn nhất mực, độc nhất vô nhị giữa
loài người. Thiên Chúa Toàn Năng tạo dựng thân xác Đức MARIA rất thánh cách tuyệt hảo.
Thân thể Đức MARIA không bao giờ phải chịu một tì vết hư hoại, cũng không tìm thấy một
thứ gì thiếu sót hoặc dư thừa, trái lại mọi điều kiện và sự quân bình các yếu tố khác nhau
luôn được điều chỉnh cân xứng.

Thiên Chúa đưa vào đời Thụ Tạo tinh tuyền, thánh thiện, toàn hảo, ưng ý hơn hết mọi kỳ
công Chúa đã tạo thành, sẽ tạo dựng cho tới tận thế, hoặc cho đến đời đời. Ngài duy trì một
tương quan huyền nhiệm của kỳ công tuyệt vời này với việc tạo dựng tất cả mọi thụ tạo khác
trong sáu ngày. Rồi Thiên Chúa thực sự nghỉ ngơi, theo lời nói bóng trong Sách Thánh, vì đã
tạo dựng Đức Maria để qua Người khởi đầu hành động của Ngôi Lời và Việc Cứu Độ nhân
loại. Vì thế hôm nay chính là ngày lễ vượt qua đối với Thiên Chúa và đối với muôn loài.

Do sức mạnh của lời Thiên Chúa và tình yêu từ miệng Đấng Toàn Năng, một linh hồn rất
châu báu được tạo dựng và phú vào thân xác Đức MARIA. Đồng thời Người được tràn đầy
thánh sủng và hồng ân đặc biệt trỗi vượt trên các thiên thần sốt mến thượng đẳng trên thiên
quốc. Không một giây phút nào Đức Maria bị thiếu hoặc bị mất ơn soi sáng, tình nghĩa và
lòng yêu thương của Đấng Tạo Hóa. Không một giây phút nào Người bị tì vết hoặc chịu chi
phối bởi bóng tối tội nguyên tổ. Đức Maria có tràn đầy sự công chính tột đỉnh vẹn toàn, vượt
trên ông Adong và bà Evà khi ông bà vừa mới được tạo dựng. Đức Maria được ban cho ơn
sử dụng cách tột đỉnh trọn hảo ánh sáng lý trí, tương xứng với các đặc ân Người nhận được.
Không một giây phút nào Đức Maria rảnh rỗi ở không, trái lại Người làm mọi việc hết sức
đáng ca ngợi và vui lòng Đấng Tạo Hóa.

Mặc dầu Đức Maria được tôn phong là Cô Dâu, được ban cho mọi sự toàn hảo, mọi thánh
đức tột đỉnh, Người không cần phải cùng một lúc thi hành mọi điều đó, mà chỉ thi hành những
điều nào thích hợp với hoàn cảnh khi còn trong lòng thánh mẫu Anna. Ba nhân đức chính
yếu trực tiếp dâng lên Thiên Chúa được Đức Maria thi hành trước hết là Tin, Cậy, Mến. Đức
Maria đã lập tức thực hiện các thánh đức này cách tuyệt vời, với đức tin sâu thẳm Người
nhìn nhận Thiên Chúa Ba Ngôi gồm mọi toàn thiện và quyền năng vô cùng. Đức Maria cũng
thực hành đức cậy trông, nhìn nhận nơi Thiên Chúa đối tượng hạnh phúc và mục đích tối
hậu của mình. Về đức cậy trông, linh hồn được thánh hoá của Đức Maria lập tức mau mắn
khao khát ước mong được kết hợp với Thiên Chúa mà không một giây phút nào hướng về
bất cứ thứ gì khác, không chần chờ một giây phút nào trong việc bay lên cao hơn. Cùng lúc
đó Đức Maria cũng thực hiện đức mến yêu, nhìn nhận nơi Thiên Chúa sự Tốt Lành vô cùng,
ấp ủ lòng yêu mến nồng nàn tột độ đối với Thiên Chúa.
Đức Maria có các thánh đức khác tô điểm, làm toàn mỹ phần lý trí của thụ tạo theo mức độ
tương xứng với ba thánh đức căn bản. Người có các thánh đức về luân lý và tự nhiên ở mức
độ lạ lùng. Đức Maria được các đặc ân và hiệu quả Ơn Chúa Thánh Thần ở mức độ còn lạ
lùng hơn nữa. Người hiểu biết sâu sắc nhuần nhuyễn các thánh đức và có mọi tài năng tự
nhiên. Người biết và tiếp xúc đối thoại với toàn thể mọi thứ tự nhiên và siêu nhiên, theo sự
cao cả của Thiên Chúa. Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng thánh mẫu Anna, Đức Maria đã
uyên bác hơn, khôn ngoan hơn, thông suốt hơn, có khả năng hiểu biết Thiên Chúa và mọi kỳ
công của Ngài hơn hết mọi thụ tạo đã có từ nguyên thủy cho đến đời đời, ngoại trừ Con Cực
Thánh của Người.

Tương xứng với sự hiểu biết lạ lùng của linh hồn rất thánh ngay khi kết hợp với thân xác,
Đức Maria thực thi những hành động chúc tụng, tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa. Đồng thời
Đức Maria đau buồn vì tội lỗi các phản thần và nhân loại xúc phạm Thiên Chúa, Đấng mà
Người nhìn nhận là Tạo Hóa và cùng đích của mọi kỳ công lạ lùng này. Đức Maria hiến dâng
chính mình làm hy lễ được Thiên Chúa chấp nhận. Bắt đầu từ giây phút đó Người khao khát
chúc tụng, yêu mến, tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy các thiên thần phản nghịch và loài người đã
không nhận biết, không yêu mến Chúa. Đức Maria yêu cầu các thiên thần giúp tôn vinh Đấng
tạo dựng muôn loài, và cũng cầu nguyện cho Người nữa.

Ngay giây phút này Thiên Chúa cũng cho Đức Maria thấy các thiên thần hộ vệ, mà Người
nhận biết và chấp nhận với lòng vui vẻ vâng phục, mời các thiên thần luân phiên với Người
chúc tụng Đấng Toàn Năng. Đức Maria được cho biết rõ ràng gia phả toàn thể dân thánh
Chúa, các thánh Tổ, các Tiên Tri cùng những đặc ân lạ lùng các vị đó đã được. Thiên Chúa
cũng cho Đức Maria thấy sự sa ngã và sự nặng nề của tội lỗi nhân loại, ngay lúc đó Người
đã nhỏ lệ đau buồn vì việc sa ngã này. Thiên Chúa Toàn Năng ban cho Ái Nữ Maria không
thiếu sự tuyệt vời lạ lùng nào ngay từ khi linh hồn rất thánh được tạo dựng và cho kết hợp
với thân xác, mặc dầu các khả năng thân xác Người lúc đó chưa lớn đủ để có thể nhận thức.

Đức Maria khởi sự tìm kiếm y dược cho nhân loại, bắt đầu hành động suy niệm, cầu bầu và
đền tạ. Người dâng lên Thiên Chúa những lời kêu van của các Thánh Tổ và các người công
chính trên trần thế để lòng nhân từ thương xót của Chúa không thể chần chờ việc cứu chuộc
nhân loại, mà ngay từ giây phút đầu tiên làm người, Đức Maria đã nhìn nhận là huynh đệ của
mình. Trước khi đối thoại với nhân loại, Đức Maria đã yêu thương mọi người với lòng bác ái
cao độ. Cũng chính từ lúc khởi đầu làm người, Đức Maria đã lãnh nhận chức Đấng Ban Ơn
cho nhân loại, thi hành tình yêu thánh thiêng và huynh đệ được đốt cháy trong trái tim. Thiên
Chúa hoan hỉ chấp nhận những lời cầu xin này và cho Đức Maria biết Ngài hài lòng về việc
này. Đức Maria thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa và Ngài muốn từ trời xuống cứu chuộc nhân
loại, mặc dầu Người chưa biết việc đó hoàn thành cách nào. Vì những lời cầu nguyện van
nài của Thụ Tạo tuyệt vời này, dường như Thiên Chúa cảm thấy bị ép xúc tiến nhanh việc
xuống trần gian để mặc nhân tính, hoàn tất công việc cực kỳ lạ lùng trong mọi kỳ công, hoàn
tất cùng đích của mọi thụ tạo khác.

Khi viết về những mầu nhiệm này của Đức Vua, đưa ra ánh sáng các kỳ công đáng tôn vinh
của Ngài, tác giả thú nhận mình bất tài, bất xứng, và đau lòng vì khả năng ngôn từ tầm
thường mù mờ, không đủ diễn tả những điều được cho hiểu biết về các mầu nhiệm này. Để
diễn tả đúng mức sự cao cả này, cần phải có những ngôn từ khác, cần có từ ngữ và quán
ngữ riêng đặc biệt thích hợp hơn, mà những thứ này vượt quá sự kém cỏi của tôi (tác giả).
Mà cho dù tôi có được những khả năng về ngôn ngữ đó chăng nữa, thì những khả năng đó
cũng bị kéo trì xuống, bị làm cho nhạt nhẽo vì sự hèn kém của loài người. Chính vì kiến thức
đần độn của mình mà loài người không xứng đáng và không thể nào nhìn vào Vừng Đông
thiên quốc này, mà qua đó những tia sáng của Thiên Chúa chiếu xuống trần gian, mặc dầu
còn bị mây che trong lòng thánh mẫu Anna.

LỜI MẸ MARIA

Ngay từ giây phút đầu tiên hiện hữu, mọi thụ tạo phải dùng lý trí hướng về Thiên Chúa là
hành động công bằng phải có đối với Đấng Tạo Thành. Do ý thức, thụ tạo phải yêu mến, tôn
thờ Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Chúa duy nhất đích thực. Các cha mẹ đương nhiên có
nhiệm vụ chỉ dạy con cái ngay từ khi chúng còn ấu thơ về sự nhận biết Thiên Chúa; hướng
dẫn cẩn thận, để chúng ý thức được cùng đích của mình ngay trong những hành động đầu
tiên của lý trí và ước muốn. Các cha mẹ phải cảnh giác đưa con cái ra khỏi sự thơ ngây và
ranh mãnh của tuổi trẻ, mà bản chất suy đồi lôi kéo chúng nghiêng chiều về nếu để cho
chúng không được hướng dẫn. Nếu các cha mẹ biết lo lắng ngăn ngừa những tính xấu, thói
quen hư hỏng của con cái, chỉ dạy chúng ngay từ ấu thơ ý thức Thiên Chúa tạo dựng chúng,
họ sẽ dễ dàng làm cho con cái quen việc nhận biết tôn thờ Thiên Chúa. Khi cưu mang Mẹ,
thánh mẫu đã nhân danh Mẹ thờ lạy Đấng Tạo Thành, dâng lên việc thờ lạy, tạ ân, vì đã tạo
dựng Mẹ, xin Chúa bảo vệ và cho Mẹ chào đời. Như thế, các cha mẹ cũng phải nhiệt thành
cầu xin Thiên Chúa, để linh hồn con cái họ, nhờ Ơn Chúa Quan Phòng, được chịu phép Rửa
Tội, được tha tội nguyên tổ.

Nếu nhân loại không nhận biết tôn thờ Đấng Tạo Thành ngay khi có trí khôn, họ phải thi hành
việc này ngay khi nhận biết có Thiên Chúa toàn năng hằng hữu nhờ ánh sáng đức tin. Từ
giây phút đó linh hồn phải cố gắng không bao giờ để mắt rời xa Chúa, nhưng luôn luôn kính
úy, yêu mến, tôn thờ Chúa.

CHƯƠNG 6, Phần Một


BUỔI CHÀO ĐỜI MUÔN PHÚC LỘC CỦA ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
VÀ THÁNH DANH NGƯỜI

Đức Maria bẩm thai vô nhiễm nguyên tội, thần trí hoàn toàn hòa tan ngây ngất khi thị kiến
Thiên Chúa lần đầu tiên. Ngay giây phút đầu tiên, nơi lòng thánh mẫu chật hẹp, linh hồn Đức
Maria đã khởi đầu tình yêu mến Thiên Chúa, không hề gián đoạn.

Thánh Anna, vị hiền mẫu tột bực diễm phúc, đã sống những ngày tháng thai nghén hoàn
toàn sinh động do những hành động linh thiêng và những việc làm dịu ngọt của Chúa Thánh
Thần nơi bà. Tuy nhiên, để làm cho ngày tháng thai nghén của thánh nữ được công nghiệp
xứng đáng phần thưởng lớn lao hơn, Đấng Quan Phòng đã ban không thiếu ơn bền vững khi
sóng gió, vì nếu không có ơn đó con thuyền ân sủng và yêu thương chắc là khó được bảo
đảm vững chắc. Để hiểu rõ hơn những gì xảy ra cho vị phụ nữ thánh thiện này, cần nhớ
Satan, sau khi cùng với các phản thần theo nó bị liệng từ thiên đàng xuống nơi khóc lóc
nghiến răng đời đời, trong suốt thời gian Luật cũ, đã không khi nào ngưng xục xạo khắp thế
giới, ngấm ngầm theo dõi các phụ nữ đặc biệt thánh thiện, ngõ hầu tìm ra Đức Trinh Nữ,
Đấng mà dấu chỉ của Người nó đã nhìn thấy (Stk 3:15) và gót chân Người sẽ đạp giập đầu
nó. Cơn cuồng nộ của Lucifer đối với nhân loại hết sức tàn bạo, nó không phải chỉ trao phó
việc điều tra này cho thuộc hạ, mà còn cho chúng bạo hành chống lại các phụ nữ đạo đức
nói chung, chính nó tham dự việc này, cần mẫn la cà chung quanh tất cả những người tỏ ra
đặc biệt hơn trong việc thi hành các nhân đức và được ân sủng Thiên Chúa.

Hết sức hiểm độc quỉ quái, Lucifer quan sát cặn kẽ sự thánh thiện tột bực của thánh Anna và
mọi biến cố trong đời thánh nữ. Mặc dầu nó không thể lường được mức độ cao cả phong
phú vĩ đại của Kho Tàng trong dạ được chúc phúc của thánh nữ, nó cảm thấy uy lực từ
người tỏa ra. Lucifer nhiều lần tức giận điên cuồng vì không thấu hiểu nguồn gốc sự kiện
này. Có khi nó tự trấn tĩnh bằng ý nghĩ việc thai nghén này cũng chỉ do những nguyên nhân
tự nhiên như các trường hợp khác không có gì đặc biệt phải lo ngại; Thiên Chúa để mặc nó
trong ảo tưởng và bốc đồng do chính cơn giận dữ của nó. Tuy nhiên toàn thể biến cố này là
nguồn gốc sự nghi ngờ lớn lao đối với tên quỉ ngang bướng Lucifer, khi nó thấy việc thai
nghén của bà đã âm thầm diễn ra nhất là nó thấy bà được nhiều thiên thần bảo vệ. Satan
điên cuồng lồng lộn vì không chống lại được sức mạnh từ nơi thánh Anna tỏa ra mà nó nghi
ngờ không phải riêng mình thánh nữ là nguồn gốc.

Lucifer quyết định, nếu có thể, giết chết thánh Anna; hoặc nếu không thể hạ sát người, thì
làm cho người ít hài lòng với việc thai nghén. Vì kiêu ngạo, Lucifer tin nó có thể khắc phục
hoặc giết được Đức Trinh Nữ, Đấng là Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, cả đến sinh mạng Chúa Cứu
Thế, nếu như nó biết được các Vị đó ở đâu. Lòng ngạo mạn của nó căn cứ trên đặc tính tối
thượng của bản chất thiên thần đối với điều kiện và sức mạnh của chỉ duy bản chất nhân
loại: nếu cả hai Vị không được ân sủng và hoàn toàn tùy thuộc thánh ý Đấng Tạo Thành. Vì
thế nó liều lĩnh đích thân cám dỗ thánh tổ mẫu, bằng cách đưa ra nhiều gợi ý, lo âu, hoài
nghi, thiếu tin tưởng về sự thai nghén và viện dẫn tuổi già của người. Lucifer nỗ lực dùng mọi
mánh lới thử thách sự thánh thiện của thánh nữ, để xem những mưu chước này có đem lại
một vài khe hở dẫn tới sự suy nhụt ý chí của người chăng.

Nhưng vị phụ nữ vô địch này đã chống lại những công kích dữ dội của Lucifer bằng thành lũy
khiêm tốn, kiên trì cầu nguyện và tin tưởng vững vàng nơi Chúa. Thánh mẫu Anna đã làm
cho những lời dối trá của Satan trở thành số không, do đó người giành được thêm ân sủng
và bảo vệ từ Thiên Chúa. Vì ngoài sự bảo vệ thánh Anna được dư dật nhờ cuộc sống quá
khứ của mình, thánh nữ còn được che chở và giải thoát khỏi ma quỉ nhờ các thiên thần hộ vệ
Ái Nữ rất thánh. Tuy nhiên, Satan ác độc vô độ, nó không ngưng lại vì lý do đó. Vì mưu đồ
vượt quá xa quyền lực nó, nó tìm kiếm sự hỗ trợ từ loài người, mà nó luôn hy vọng chiến
thắng dễ dàng hơn. Trước tiên nó cố gắng lật đổ ngôi nhà thánh Joakim và Anna ở, nhắm
làm cho thánh nữ sợ hãi, bị khích thích vì kinh hoàng khi nhà sập, nhưng không thành công
vì các thiên thần chống lại. Kế đến, nó xúi giục một trong các phụ nữ khờ dại vốn quen biết
thánh Anna gây lộn với người. Người đàn bà này đã gây lộn, tức giận sôi sục, tấn công cách
hỗn xược thánh nữ bằng những lời chửi bới nhiếc móc. Mụ đàn bà này và một vài phụ nữ
khác không ngại ngùng chế giễu việc thai nghén của người, nói người là trò đùa của ma quỉ
vì thế mới mang thai vào lúc quá lứa, ở tuổi quá già.

Thánh mẫu Anna đã không để cho mình bối rối vì cuộc tấn kích này, nhưng với lòng hiền hậu
khiêm nhượng chịu mọi đau buồn đó và đối xử hết sức nhân ái với kẻ tấn công người. Từ đó
trở đi, thánh mẫu nhìn người phụ nữ này với lòng bao dung hơn, xin cho bà ta rất nhiều ân
lớn lao. Tuy nhiên lòng hận thù ghen ghét của họ không lắng dịu ngay vì bị ma quỉ chiếm
hữu, trút đầy tâm hồn lòng hận thù thánh mẫu. Tên bạo chúa ác độc luôn gia tăng quyền lực
trên các nạn nhân của nó, xúi giục những người này cả đến âm mưu phạm đến thân thể và
tính mạng thánh mẫu Anna. Nhưng họ không thể thi hành âm mưu ác độc đó, vì quyền năng
Thiên Chúa can thiệp làm lạc hướng sự yếu đuối nữ tính tự nhiên của họ. Chẳng những các
phụ nữ này không làm hại được thánh mẫu Anna, mà còn bị những lời răn bảo của người
chế ngự, lời cầu nguyện của người làm cho họ nhận biết và ăn năn hành động ác độc của
mình.

Lucifer bị đẩy lui nhưng chưa bị đánh bại. Nó lập tức dùng một nữ tì ở trong nhà thánh
Joakim và Anna. Nó khích y thị tức giận thánh nữ chủ nhà. Qua nữ tì này, rắn Satan gây ra
nhiều phiền muộn hơn so với các phụ nữ kia, vì y thị ở ngay trong nhà, cứng đầu ngang
bướng hơn, nguy hiểm hơn những người kia. Tác giả không dài dòng về những gì kẻ thù cố
gắng gây ra qua nữ tì này, vì cũng những lời ác độc nguyền rủa tương tự đã nói, chỉ có điều
là gây phiền nhiễu hơn, ác độc hơn. Nhưng được Thiên Chúa trợ lực, thánh mẫu Anna đã
giành được chiến thắng vẻ vang hơn; vì Đấng canh giữ dân Do Thái không ngủ gục, nhưng
đã canh giữ thành thánh (Tv 120:4), trang bị hết sức cẩn thận bằng những vệ sĩ được tuyển
chọn từ các thiên thần uy dũng nhất, các thiên thần này đã làm cho Lucifer và các phản thần
theo nó thua chạy nhục nhã. Chúng không còn được phép quấy nhiễu vị thánh mẫu diễm
phúc nữa. Thánh mẫu Anna, đang chuẩn bị sinh hạ Công Chúa thiên đàng, đã được làm cho
phú túc nhờ những hành động nhân đức anh hùng và nhiều công nghiệp trong những trận
giao chiến này.

Đã tới ngày tối ư hạnh phúc cho nhân loại, ngày được tiền định cho việc chào đời của Ái Nữ
Thiên Chúa, Đấng đã được thánh hiến và thánh hoá để là Mẹ Thiên Chúa. Thánh mẫu Anna
được chuẩn bị bằng tiếng Thiên Chúa nói trong lòng, báo cho biết giờ mãn nguyệt khai hoa
đã tới. Tràn đầy niềm vui ơn Chúa Thánh Thần, thánh mẫu Anna phủ phục trước nhan thánh
Chúa xin ban ơn trợ giúp bảo vệ cho được sinh con bình an hạnh phúc. Hài nhi Maria cùng
lúc đó được quyền năng Thiên Chúa làm cho ngây ngất tột đỉnh để chuẩn bị chào đời.

Đức Maria được sinh ra tinh tuyền không tì vết, xinh đẹp và tràn đầy thánh sủng. Người
không vướng mắc tì vết tội lỗi, mặc dầu về căn bản, Đức Maria được sinh ra giống như mọi
con gái khác của Adong. Nhiều ân sủng lạ lùng làm cho việc chào đời của Đức Maria kỳ diệu
lạ lùng nhất trong toàn thể việc tạo dựng và sẽ đời đời vang lên lời chúc tụng Đấng Tạo Hóa.
Lúc nửa đêm, Vì Sao Sáng này của Thiên Chúa ra đời, phân chia đêm tối Luật Cũ ra khỏi
ngày mới ân sủng, mà lúc này sắp sửa bình minh. Hài nhi Maria được bọc trong khăn tã,
bồng ẵm, chăm sóc y như mọi hài nhi khác, mặc dầu Người trỗi vượt trên hết loài người và
tất cả các thiên thần. Thánh mẫu Anna không để cho bất cứ ai khác được chạm tới Hài Nhi
mới chào đời, thánh mẫu tự tay bọc Người trong khăn tã. Thánh mẫu Anna không bị cản trở
trong việc này vì tình trạng sinh sản; người không bị lâm vào cảnh đi sông biển một mình,
không bị đau đớn, mà các bà mẹ khác thường phải chịu khi sinh con.

Thánh mẫu Anna ẵm Hài Nhi, Ái Nữ của bà, mà đồng thời là Kho Tàng tuyệt vời của muôn
loài, chỉ dưới một mình Thiên Chúa. Mắt đẫm hoan lệ nồng nàn, thánh mẫu âm thầm dâng
lên Thiên Chúa Kho Tàng vô giá: “Lạy Chúa khôn ngoan và quyền năng vô cùng, Đấng Tạo
Hoá muôn loài, con dâng lên Chúa Hoa Trái của lòng dạ mà Chúa đã đoái thương ban cho
con. Lạy Chúa, xin an bài cho mẹ và Con theo thánh ý Chúa; từ ngai toà cực cao sang xin
Chúa âu yếm đoái nhìn phận hèn chúng con. Chúc tụng Chúa đời đời; Chúa đã làm phong
phú trần gian bằng Thụ Tạo hết sức đẹp lòng Chúa; nơi Con Trẻ này Chúa đã chuẩn bị nơi
ngự và nhà tạm cho Ngôi Lời hằng hữu (Sap. 9:8). Con dâng lời ngợi khen lên các thánh Tổ
của con và các thánh Tiên Tri, vì lời hứa Ơn Cứu Độ Chúa đã ban cho các ngài, và qua các
ngài tới toàn thể nhân loại. Nhưng con phải đối xử với Ái Nữ mà Chúa đã ban làm Ái Nhi của
con cách thế nào cho xứng đáng? Con là kẻ không xứng đáng làm nữ tì của Người? Cách
nào con có thể chăm sóc Hòm Bia Thánh đích thực? Lạy Chúa và Vua của con, xin ban ơn
soi sáng cần thiết để nhận biết thi hành thánh ý Chúa trong việc phục vụ Ái Nữ của con.”

Chúa đáp lời trong lòng thánh mẫu Anna, cho người biết phải cư xử với Hài Nhi thiên quốc,
theo bề ngoài, y hệt các bà mẹ cư xử với con gái mình, không biểu lộ vẻ kính trọng nào;
nhưng giữ sự tôn kính trong lòng, chu toàn mọi nhiệm vụ một bà mẹ đích thực, nuôi dưỡng
với trọn tình mẫu tử nồng nàn. Hiền mẫu hạnh phúc Anna chu toàn mọi điều này; sử dụng sự
được phép này và quyền là mẹ mà không mất đi lòng tôn kính. Bà vui sướng với Ái Nữ
Maria, ôm ấp vỗ về Người cùng cách y hệt các bà mẹ khác đối với con gái của họ. Nhưng
việc này luôn luôn được thực hành với lòng kính trọng thích đáng và trân trọng vì ý thức mầu
nhiệm Thiên Chúa còn giấu kín mà chỉ một mình thánh mẫu và Ái Nữ được biết. Các thiên
thần hộ vệ Hài Nhi hiền dịu này cùng với vô số thiên thần khác tỏ bầy sự cung kính đối với
Đức Maria khi Người nằm trong vòng tay hiền mẫu, các ngài hợp tấu nhạc thiên quốc, mà
thánh mẫu Anna cũng được nghe một vài khúc. Các thiên thần được chỉ định làm cận vệ đã
tận hiến phục vụ Đức Nữ Vương cao cả. Đây cũng là lần thứ nhất Công Chúa thiên đàng
nhìn thấy các thiên thần dưới hình người ta với huy hiệu và lễ phục. Hài Nhi thiên quốc yêu
cầu các thiên thần hợp với Người chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa.

Khi Công Chúa Maria của chúng ta chào đời, Thiên Chúa phái Tổng Lãnh thiên thần Gabriel
đem tin mừng cho các thánh Tổ ở lâm bô. Vị đặc sứ thiên quốc tới nơi, soi sáng nơi này và
làm cho các người công chính bị lưu giữ tại đó vui mừng. Thiên sứ Gabriel cho các ngài biết
bình minh hạnh phúc vĩnh cửu đã khởi đầu; việc đền bù cho nhân loại đã từng được các ngài
tha thiết trông chờ và các Tiên Tri loan báo đã bắt đầu, vì Ái Nữ của Thiên Chúa, Đấng sẽ là
Mẹ Chúa Cứu Thế lúc này đã chào đời; các ngài sẽ sớm thấy Ơn Cứu Độ và vinh quang
Thiên Chúa. Thiên sứ Gabriel cho các thánh hiểu sự tuyệt vời của Đức Maria và những điều
Thiên Chúa đã khởi sự tiến hành nơi Người. Khi đó toàn thể các thánh Tổ, các Tiên Tri, tất
cả mọi người công chính hân hoan vui mừng, dâng lên những ca vịnh mới chúc tụng Thiên
Chúa vì hồng ân này.

Những việc sau đây xảy ra vào lúc Đức Maria chào đời nối tiếp nhau bằng khoảng cách
ngắn. Việc Người sử dụng đầu tiên giác quan dưới ánh sáng mặt trời tự nhiên là nhận biết
song thân và các thụ tạo khác. Quyền năng Đấng Tối Cao bắt đầu thực hiện nơi Người
những việc lạ lùng vượt quá xa mọi ý niệm của nhân loại. Sự lạ lùng trước hết và kỳ diệu
nhất là Thiên Chúa phái muôn vàn thiên thần đưa Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể cả thân xác và linh
hồn lên thiên cung để hoàn thành những ý định cao vời hơn nữa của Chúa đối với Đức
Maria. Các thiên thần đón hài nhi Maria nơi vòng tay thánh mẫu Anna, sắp đoàn rước trang
nghiêm đem Hòm Bia Thánh đích thực về thiên đàng trong những lời ca vui mừng khôn tả,
để chỉ trong giây lát Hòm Bia có thể nghỉ trong cung điện Vua mọi vua và Chúa mọi chúa.

Thánh nhi Maria được các thiên thần nâng trong tay đi vào thiên cung, tại đây Người nồng
nàn yêu mến phủ phục trước toà Đấng Tối Cao. Ngôi Lời Thiên Chúa đón tiếp thánh nhi
Maria, Đấng mà Chúa đã chọn làm Mẹ, làm Nữ Vương cả vũ trụ muôn loài, cách vẻ vang
đáng ca tụng hơn vua Salomon đón mẫu hậu Bethsabe. Mặc dầu thánh nhi Maria chưa biết
địa vị đích thực của Người và mục đích các mầu nhiệm, các khả năng ấu thơ của Người
được quyền năng Thiên Chúa làm cho mạnh sức để tiếp nhận cách thích hợp các đặc ân
này. Khả năng trí tuệ của Người được soi sáng và chuẩn bị, được nâng lên thích hợp với sự
uy nghi cao cả của Thiên Chúa. Đức Maria thấy Thiên Chúa bằng trực giác rõ ràng. Đây là
lần thứ nhất linh hồn rất thánh Đức Maria diện kiến Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh tường tận.

Đức Maria được đặt bên hữu Chúa, Đấng sẽ là Con của Người, nhìn thấy Chúa trực diện, đã
cầu nguyện đắc lực hơn bà Bethsabe (1 Vua 2:21): Thiên Chúa đã ban trinh nữ Abisag người
Sunamite (1 V 1,3), Thiên Tính vô cùng cao vời của Chúa, cho chị em Người là nhân loại.
Đức Nữ Vương cầu xin Chúa sớm thực hiện lời hứa từ thiên đàng xuống trần gian. Đức
Maria xin Chúa đẩy mạnh việc cứu chuộc nhân loại, đã bao nhiêu thế hệ trông chờ giữa
những chồng chất tội lỗi và sa đọa của loài người. Đấng Tối Cao hoan hỉ nghe các lời cầu
nguyện của Đức Maria, đã cư xử nhân từ quảng đại hơn vua Salomon đối với mẹ ông. Chúa
bảo đảm với Người rằng những lời Chúa hứa sẽ sớm được hoàn tất, Chúa sẽ xuống trần
gian để mặc nhân tính, cứu chuộc nhân loại.

Thiên Chúa Ba Ngôi quyết định đặt tên cho Công Chúa thiên đàng. Thiên Chúa cho các thiên
thần biết từ thuở đời đời Ba Ngôi Thiên Chúa đã quyết định và hình thành các thánh danh dịu
dàng Giêsu và Maria cho Con và Mẹ. Thiên Chúa hài lòng và ghi khắc hai thánh danh này
trong ký ức đời đời để là những Đối Tượng mà vì đó Thiên Chúa tạo dựng mọi sự. Các thiên
thần nghe Thiên Chúa Cha thông báo các mầu nhiệm này cùng nhiều mầu nhiệm khác nữa:
“Người Được Tuyển Chọn của Ta được gọi tên là MARIA. Thánh danh này đầy quyền thế và
vinh quang. Những ai kêu cầu thánh danh này với lòng yêu mến thiết tha sẽ nhận được các
ân sủng dư dật. Những ai tôn vinh và nói lên thánh danh này với lòng tôn kính sẽ được an ủi,
được bổ sức, sẽ tìm được nơi thánh danh này thuốc chữa trị mọi khốn khó, kho tàng làm cho
sung túc, ánh sáng soi dẫn tới thiên đàng. Thánh danh này sẽ làm cho quyền lực hoả ngục
phải kinh hoàng; thánh danh này sẽ đạp nát đầu rắn già, và vinh thắng đánh bại mọi quyền
lực hoả ngục.”

Thiên Chúa truyền cho các thiên thần loan báo thánh danh vinh hiển MARIA cho thánh mẫu
Anna, để điều được ấn định trên thiên đàng cũng được thi hành nơi trần thế. Hài Nhi thiên
quốc, yêu mến phủ phục trước toà, dâng lên Thiên Chúa những lời cảm tạ của nhân tính
đáng được Chúa chấp nhận nhất và nhận thánh danh với lòng hoan hỉ tột bực. Để mô tả
những đặc ân và thánh sủng Đức Maria được Chúa ban cho khi đó, hẳn phải cần một bộ
sách nhiều tập. Các thiên thần tôn vinh, nhìn nhận Đức Maria rất thánh là Mẹ tương lai của
Ngôi Lời Thiên Chúa, là Nữ Vương được đặt bên hữu Chúa Con của Người. Các thiên thần
tỏ lòng tôn kính thánh danh MARIA, phủ phục khi thánh danh MARIA được Thiên Chúa Cha
phán ra. Toàn thể các thiên thần hát lên những lời ca chúc tụng những mầu nhiệm vĩ đại này.
Trong khi đó Hài Nhi Nữ Vương vẫn không hay biết gì về căn nguyên đích thực của những
việc xảy ra. Với lòng hân hoan tôn kính, các thiên thần đem Ái Nữ Maria trở lại đặt trong vòng
tay thánh mẫu Anna. Thánh mẫu không hay biết gì về biến cố này, cũng như về sự vắng mặt
của Ái Nữ vì một thiên thần hộ vệ, lấy hình dáng, và thay vào chỗ Hài Nhi thực trong vòng tay
bà. Hơn nữa, suốt phần lớn thời gian Thánh Nhi thiên quốc ở thiên cung, thánh mẫu Anna
chìm đắm trong suy niệm xuất thần, chúc tụng những mầu nhiệm liên quan đến địa vị Mẹ
Thiên Chúa đã được mạc khải cho bà. Thánh hiền mẫu khôn ngoan giữ những điều đó rực
sáng trong lòng cùng với các nhiệm vụ bà phải thi hành đối với Ái Nữ.

Vào ngày thứ tám sau ngày Đức Maria chào đời, muôn ngàn thiên thần, trong hào quang rực
rỡ mang huy hiệu có thánh danh MARIA tỏa hào quang rực rỡ, hiện ra với thánh mẫu Anna.
Các thiên thần nói với thánh mẫu: “Thánh danh MARIA được Thiên Chúa chọn và bây giờ
chúng tôi đem tới ban cho Ái Nữ của (thánh) Joakim và của bà.” Thánh mẫu Anna cho mời
đức phu quân tới; ông bà trao đổi về quyết định của Thiên Chúa. Hết sức vui mừng, đấng
phụ thân hạnh phúc hoan hỉ yêu mến chấp nhận thánh danh MARIA cho Ái Nữ. Ông bà quyết
định mời họ hàng thân quyến và một vị tư tế tới; với niềm hoan hỉ và trang trọng, ông bà đặt
tên cho Ái Nữ là MARIA. Các thiên thần cũng cử hành biến cố này bằng âm nhạc du dương
tưng bừng nhất, tuy nhiên chỉ có thánh mẫu Anna và Ái Nữ rất thánh được nghe.

LỜI MẸ MARIA
Mẹ nhắc con nhớ, bất chấp sự yếu đuối nghèo nàn của con, Mẹ đã quảng đại nhân từ chọn
con làm môn đệ và bạn đồng hành của Mẹ. Con phải phấn đấu hết sức để bắt chước Mẹ
trong hành động mà Mẹ kiên trì cẩn trọng và tận lực thực hành từ giây phút đầu tiên chào
đời, không sót một ngày nào. Hành động này là: hàng ngày ngay lúc rạng đông, Mẹ phủ phục
trước thánh nhan Thiên Chúa, cảm tạ chúc tụng bản chất tốt lành vô cùng của Chúa, và vì đã
tạo dựng Mẹ từ hư không. Mẹ nhìn nhận chính mình chỉ là thụ tạo của tay Ngài. Mẹ chúc
tụng, thờ lạy, tôn vinh, ngợi khen Chúa cao cả, là Chúa Tối Cao và Đấng Tạo Hóa của chính
Mẹ và muôn loài. Mẹ nâng linh hồn lên đặt trong tay Chúa, khiêm tốn thẳm sâu hiến dâng và
ký thác, xin Chúa định liệu về Mẹ trong ngày hôm đó và mọi ngày suốt đời, xin dạy Mẹ chu
toàn bất cứ điều gì làm vui lòng Chúa hơn. Mẹ lặp lại việc này nhiều lần trong khi làm các
việc bên ngoài hàng ngày; và trước khi làm bất cứ việc gì, Mẹ thỉnh thị Thiên Chúa, xin chỉ
dạy, cho phép và chúc lành mọi việc Mẹ làm.

Con hãy hết sức mộ mến thánh danh rất dịu dàng của Mẹ. Mẹ muốn con tin chắc những đặc
quyền lớn lao Thiên Chúa dành cho thánh danh Mẹ, để chính Mẹ, khi nhìn thấy các đặc
quyền đó nơi Thiên Chúa, cảm thấy có bổn phận và lòng ao ước sâu xa nhất phải đáp ứng
xứng đáng. Bất cứ khi nào tên MARIA hiện ra trong trí Mẹ (và thường xảy ra) và bất cứ khi
nào Mẹ nghe mình được kêu bằng thánh danh đó, Mẹ trào lên lòng cảm tạ và được thúc đẩy
cách mãnh liệt hơn trong việc phụng sự Chúa, Đấng đã ban thánh danh cho Mẹ. Con cũng
mang tên đó và Mẹ muốn, theo tỉ lệ thích hợp, tên đó cũng tạo ra những hiệu lực như thế nơi
con. Con cần trung thành bắt chước Mẹ bằng việc tuân theo bài học được ban cho con trong
chương này, từ nay trở đi không sai sót một điểm nhỏ. Nếu con sai sót vì yếu đuối, hãy lập
tức trỗi dậy, trước sự hiện diện của Chúa và Mẹ, con nhìn nhận lỗi lầm, đau buồn xưng thú
tội con. Lặp đi lặp lại những thực hành thánh đức này cách cẩn trọng sốt mến, con sẽ thấy
mình được tha thứ vì những bất toàn và quen hơn với việc sốt sắng theo đuổi những gì cao
quí nhất trong mọi thánh đức vui lòng Chúa nhất. Rồi theo ánh sáng Chúa ban cho, con theo
đuổi những gì vui lòng Mẹ và thích hợp nhất với năng khiếu của con; con sẽ không bị khước
từ ơn tận hiến lắng nghe, hầu hạ cùng vâng phục Phu Quân và Chúa của con trong mọi sự.
Chúa chỉ tìm ở con những gì tinh tuyền nhất, thánh thiện toàn hảo nhất, ý muốn mau lẹ tha
thiết thực hành những điều đó.

CHƯƠNG 7, Phần Một


ĐỨC MARIA TRONG NHỮNG NĂM ẤU THƠ

Hài nhi thiên quốc Maria được nuôi dưỡng đối xử như mọi ấu nhi cùng lứa tuổi. Dinh dưỡng
của Người là thứ thông thường, nhưng số lượng ít hơn bình thường. Hài nhi Maria ngủ rất ít
mặc dầu cha mẹ ân cần muốn Người ngủ nhiều hơn. Người luôn rất dễ thương, không hề
làm phiền một ai. Thánh nhi Maria không khóc rầy như các trẻ khác; vì (theo tuổi tác và địa vị
Nữ Vương cho phép) Người thường khóc tội lỗi nhân loại, khắc khoải trông mong Đấng Cứu
Thế đến cứu độ nhân loại. Thường thường, ngay từ ấu thơ, thánh nhi Maria luôn có nét mặt
vui tươi, nhưng trang nghiêm đặc biệt, không bao giờ có nơi bất cứ ấu nhi nào khác. Đôi khi
Người để cho mình được vỗ về, nhưng biết cách chống lại những bất toàn do những vỗ về
như thế gây ra bằng tinh thần khắc khổ thầm kín.

Thánh hiền mẫu Anna cư xử với Ái Nữ cách khôn ngoan tận tình dịu dàng. Thánh hiền phụ
Joakim yêu thương Con như một người cha và một vị thánh, mặc dầu ngài không biết mầu
nhiệm về Ái Nữ lúc đó. Ấu nhi Maria tỏ lòng yêu mến đặc biệt đối với thánh thân phụ Joakim.
Thiên Chúa gợi trong lòng thánh thân phụ, cũng như nơi những người khác, sự kính trọng
đối với Đức Maria, Đấng Thiên Chúa đã chọn làm Mẹ; vì thế ngay cả trong tình âu yếm tinh
tuyền phụ tử ngài cũng tỏ ra vẻ trang trọng kính cẩn. Trong mọi thứ, Công Chúa bé thơ hết
sức duyên dáng, hoàn hảo, dễ thương. Người trải qua tuổi ấu thơ theo luật tự nhiên mà
không cản trở dòng suối ân sủng tràn đầy. Trong giấc ngủ, những hành động yêu mến của
linh hồn, các hoạt động của mọi cơ năng lệ thuộc giác quan không hề gián đoạn. Đặc ân này
cũng có nơi những thụ tạo khác; nhưng hiển nhiên đối với Đức Maria, Đấng được chọn là Mẹ
Thiên Chúa và Nữ Vương muôn loài, Thiên Chúa gia tăng đặc ân này vượt quá mọi mức độ
đã có và sẽ có nơi các thụ tạo khác.

Đấng Tối Cao an bài rằng Hài Nhi thiên quốc tự nguyện nín lặng không nói trong thời gian
thông thường các trẻ khác không biết nói. Trường hợp ngoại lệ duy nhất là khi Đức Maria nói
chuyện với các thiên thần cận vệ, hoặc dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện. Thánh mẫu
Anna không bao giờ nghe tiếng Đức Maria nói, bà cũng không biết Người có thể nói trong
tuổi đó. Trong thời gian ấu thơ, Đức Maria cũng tìm cách làm cho hai thánh song thân hiểu
Người muốn được các ngài chúc lành, vì lòng âu yếm của trái tim nói lên nhiều hơn ngôn từ
bằng miệng. Đức Maria hết sức tôn kính hai thánh song thân, Người không bao giờ quên sót
một điểm nhỏ về lòng tôn kính vâng phục các ngài. Không bao giờ Người làm cho hai vị lo
lắng hoặc phiền lòng.

Khi lên hai tuổi Đức Maria bắt đầu thực hành lòng xót thương bác ái đặc biệt đối với người
nghèo khó. Người xin thánh mẫu Anna của bố thí cho họ. Vị hiền mẫu từ tâm đã mau mắn
thỏa mãn lời Ái Nhi xin, cả vì người nghèo cả vì thoả mãn lòng bác ái nhân từ của Ái Nữ,
đồng thời khuyến khích Ái Nữ yêu thương quí trọng nguời trong cảnh cơ hàn. Ngoài việc yêu
thương phân phát những thứ xin được cho người nghèo, Đức Maria còn dành một phần thực
phẩm của mình cho họ nữa. Có thể nói lời thánh Giób cách xác thực hơn về Đức Maria ngay
từ ấu thơ: “ngay từ ấu thơ lòng thương xót đã lớn lên cùng với tôi” (Giób 31: 18). Bé thơ
Maria bố thí cho người nghèo khó không phải chỉ đem bổng lợi cho họ, nhưng còn để trả nợ
đức công bằng; Người thầm nói: “Đây là anh em tôi và chủ nhân của tôi, họ đáng hưởng thứ
họ cần mà tôi không xứng đáng.” Không khi nào Đức Maria bố thí cho người nghèo mà
không xin những ơn đặc biệt vĩ đại cho linh hồn họ, như thế họ được giúp đỡ cả vật chất và
thiêng liêng.

Đức Maria được thánh song thân dạy chữ và các môn khác, mặc dầu Người đã biết tường
tận mọi thứ. Các thiên thần hết sức thán phục sự khôn ngoan khôn sánh của Thánh Nhi.
Người vui vẻ lắng nghe mọi người chỉ dạy. Thánh mẫu Anna, với hết khả năng trực giác và
lòng yêu mến cho phép, đã ngất ngây quan sát Công Chúa thiên cung, và chúc tụng Đấng
Tối Cao nơi Ái Nữ của bà. Nhưng, thời điểm dâng hiến Đức Maria trong đền thờ theo hạn ba
năm Thiên Chúa ấn định đã gần tới, tình yêu của thánh Anna đối với Ái Nữ và ý thức rằng lời
khấn hứa phải được chu toàn đúng hẹn khiến bà âu sầu. Vì thế, sáu tháng trước hẹn kỳ,
thánh nhi Maria đánh động tư tưởng thánh mẫu, tỏ cho thánh mẫu biết Người khao khát ở
trong đền thờ. Người gợi ý thánh song thân nhớ lại các ân sủng các ngài đã nhận được, các
ngài phải tìm làm vui lòng Chúa.

Đức Maria cũng cho ông bà biết khi được hiến dâng trong đền thờ, Người sẽ là Ái Nữ đích
thực của ông bà hơn khi còn ở gia đình. Nghe những lời ái nhi Maria khôn ngoan giải bầy,
hiền mẫu Anna sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa và chu toàn lời hứa dâng hiến. Nhưng vì
sức mạnh tự nhiên của tình yêu thương và vì hiểu thấu đáo giá trị cao cả của Kho Tàng
Thiên Chúa, ý nghĩ ngày ra đi của Ái Nữ gây ra trận xung đột sinh tử trong trái tim nhất mực
trung tín của bà. Biết rõ ân sủng cao sang và địa vị của Ái Nữ thiên cung làm cho trái tim bà
hoàn toàn ngây ngất, làm cho sự hiện diện của Ái Nữ Maria quí hơn sinh mạng mình. Tâm tư
nặng trĩu âu sầu, thánh mẫu nói với Ái Nữ: “Con gái yêu dấu của mẹ, ròng rã bao nhiêu năm
trời mẹ cầu mong có Con mà mẹ chỉ được ở bên Con có vài năm, dẫu vậy xin cho thánh ý
Chúa được trọn toàn. Mẹ không muốn thất tín lời khấn hứa dâng Con trong đền thờ, nhưng
vẫn còn thì giờ để chu toàn việc đó: Con hãy bình tĩnh chờ tới ngày các ước nguyện của Con
được viên thành.”

Đức Maria được đặc ân thị kiến Thiên Chúa một vài ngày trước khi tròn ba tuổi. Trong thị
kiến này, Thiên Chúa cho biết ngày giờ Người lên đền thờ được Thiên Chúa ấn định đã tới; ở
đó Người sẽ sống tận hiến phụng sự Chúa. Linh hồn tột đỉnh tinh tuyền Đức Maria tràn đầy
hân hoan và biết ơn về viễn tượng này đã nói với Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa Tối Cao của
Abraham, Isaac và Jacob, Chúa Tốt Lành vô cùng và hằng hữu của con, vì con không thể
cảm tạ Chúa cách xứng đáng, con xin các thiên thần cảm tạ ơn Chúa thay cho nữ nô lệ ti tiện
này. Lạy Chúa, Chúa thương nhìn phận trùng đất hèn hạ của con; Chúa nhận con vào nhà
Chúa mặc dầu con không xứng đáng ở một nơi thấp hèn nhất trên mặt đất. Nhờ lòng đại
lượng của Chúa, con tha thiết xin Chúa hun nóng trái tim cha mẹ con chu toàn thánh ý
Chúa.”

Cùng lúc đó Thiên Chúa cho thánh mẫu Anna được thị kiến, chỉ thị bà chu tất lời khấn hứa
dâng Ái Nữ trong đền thờ. Lệnh truyền này gây ra sự đau buồn lớn lao cho thánh mẫu Anna
hơn lệnh đã đuợc truyền cho tổ phụ Abraham hiến tế con trai Isaac. Nhưng Thiên Chúa an ủi
nâng đỡ bà, hứa ban ân sủng trợ giúp trong lúc cô đơn vì vắng bóng Ái Nữ yêu dấu.

Thánh Joakim cũng được thị kiến và nhận được lệnh truyền như thánh Anna. Sau khi trao đổi
với nhau và nhắc lại thánh ý Chúa, ông bà quyết định chu toàn thánh ý Chúa với lòng khiêm
tốn vâng phục, định ngày đưa Ái Nữ lên đền thờ. Sự đau buồn của thánh lão trượng Joakim
cũng rất lớn lao, dẫu không bằng nơi thánh Anna, vì mầu nhiệm Ái Nhi Maria sẽ là Mẹ Thiên
Chúa còn giấu kín đối với ngài.

LỜI MẸ MARIA

Con gái hết sức yêu quí của Mẹ, con hãy ghi nhớ trong trí khôn rằng mọi người được sinh ra
và phải chết, nhưng họ không màng chi tới thời gian dành cho họ. Tuy nhiên họ biết chắc
điều này: cuộc sống trần thế vắn vỏi, cuộc sống đời đời thì bất tận; chỉ có ở cuộc sống trần
gian này họ mới có thể thu hoạch những gì sẽ đem lại cho họ cuộc sống vĩnh cửu hoặc cái
chết đời đời. Trong cuộc lữ hành đầy hiểm nguy này, Thiên Chúa đã an bài: không ai biết
chắc mình đáng được Chúa thương hoặc ghét (Gv 9:1); vì nếu người đó dùng trí khôn của
mình cách chính đáng, sự nghi ngờ này sẽ thúc đẩy họ hết sức tìm kiếm ân nghĩa Chúa.
Thiên Chúa xét xử mỗi người ngay khi linh hồn sử dụng được lý trí. Từ khi người ta biết sử
dụng trí khôn, Chúa soi dẫn, thúc đẩy, chỉ dẫn họ hướng về thánh đức, lôi kéo họ xa lánh tội
lỗi, dạy người ta phân biệt nước với lửa, chấp nhận điều lành, loại trừ sự dữ, chọn thánh
đức, khước từ tật xấu. Hơn nữa Thiên Chúa kêu gọi và khích động linh hồn bằng những ơn
soi dẫn thánh thiện, luôn luôn nhắc nhớ gợi ý, ban ơn trợ lực từ các Nhiệm Tích, Giáo Lý và
Giới Răn. Chúa thúc đẩy người ta tiến tới qua các thiên thần, các nhà giảng thuyết, các cha
giải tội, các thừa tác viên và thầy dạy, bằng những đau khổ và hồng ân đặc biệt, bằng gương
sáng, bằng thử thách, bằng những cái chết, những việc khác và các ơn an bài của Đấng
Quan Phòng. Thiên Chúa an bài mọi sự trong cuộc sống để kéo toàn thể nhân loại về với
Ngài, vì Ngài muốn toàn thể nhân loại được cứu độ. Chúa để tùy quyền sử dụng của nhân
loại môi trường mênh mông ơn trợ giúp nhân từ, mà người ta có thể dùng và phải dùng vì lợi
ích cho chính họ.

Đối nghịch với tất cả những ân sủng này là các khuynh hướng của bản chất thấp hèn, dễ bị
lôi cuốn, dễ bị nhiễm men độc tội lỗi, chỉ nghiêng về những thứ lôi cuốn cảm quan và do lòng
thèm khát cùng đố kỵ thấp hèn, xáo trộn lý trí và mê hoặc ý chí theo sự tự do giả tạo của
những dục vọng lăng loàn. Ma quỉ, do sức mê hoặc của nó, những khuyến dụ gian xảo lừa
dối vô luân, làm mờ tối ánh sáng lương tâm, ngụy trang chất độc chết người dưới vẻ bề
ngoài thích ý. Đấng Tối Cao không lập tức ruồng bỏ các thụ tạo của Ngài, Chúa canh tân
lòng thương xót và ơn trợ giúp, không ngừng kêu gọi đi kêu gọi lại. Nếu họ nghe lời kêu gọi,
Chúa ban thêm những ơn khác theo lòng nhân hậu của Ngài, tăng thêm gấp bội các ơn đó tỉ
lệ thuận với sự đáp ứng của linh hồn. Để làm phần thưởng cho chiến thắng mà linh hồn
giành được, giảm thiểu sức mạnh đam mê dục tình, tinh thần được giải thoát để bay vút lên
vượt trên các khuynh hướng dục tình và trên cả ma quỉ.

Nhưng nếu người ta không vượt lên khỏi các dục tình thấp hèn và sự hững hờ bội bạc vong
ân, họ sẵn sàng chịu khuất phục trước kẻ thù của Thiên Chúa và loài người. Người ta càng
rời xa lòng nhân từ Thiên Chúa, nguời ta càng trở nên bất xứng hưởng những tiếng Chúa gọi
âm thầm, vì thế người ta càng ít ý thức được ơn Chúa trợ giúp, mặc dầu ơn đó vô cùng vĩ
đại. Vì ma quỉ và các dục vọng giành được quyền thống trị cùng quyền hành rộng lớn đối với
nhân loại, người ta trở nên bất xứng và bất lực hơn đối với ân sủng của Đấng Toàn Năng.
Con gái yêu dấu của Mẹ, vì thế ơn rỗi linh hồn hoặc sự luận phạt đều tùy thuộc việc lãnh
nhận hoặc chống lại ơn Chúa.

Mẹ ao ước con không quên học thuyết này để con có thể đáp ứng muôn vàn lời Chúa kêu
gọi con. Con sẽ làm vui lòng Chúa nếu con mạnh mẽ chống lại kẻ thù của Chúa, mau mắn
ước ao hoàn thành thánh ý, vâng theo những lệnh truyền tỏ cho con trong ánh sáng siêu
nhiên. Mẹ yêu mến song thân của Mẹ hết sức; những lời yêu thương của hiền mẫu làm cho
Mẹ đau lòng; nhưng vì biết đó là thánh ý Chúa muốn Mẹ phải lìa xa các ngài, Mẹ quên ngôi
nhà các ngài và dân của Mẹ để theo Đấng Phu Quân. Việc giáo dục chỉ dẫn các thiếu nhi
cách chính đáng đóng góp rất nhiều trong việc làm cho chúng tự do và quen với việc tập
luyện thực hành thánh đức hơn, nhờ đó các thiếu nhi sẽ quen đi theo ánh sáng lý trí dẫn
đường ngay chính an toàn ngay từ lúc bình minh cuộc đời.

You might also like