You are on page 1of 21

Trao duyên và nổi thương mình

09-04-2010, 05:12

Trao duyên
Đoạn trích Truyện Kiều này có nhan đề "Trao duyên" gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) được in
trong sách giáo khoa môn Văn lớp 10. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau
khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho
Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã
Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa, lấy Kim Trọng.

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của
những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "Trao duyên", ở đây là gửi
duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy
Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính
ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có
chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.

Mở đầu đoạn thơ là 8 câu tâm sự của Thúy Kiều, về mối tình của mình với chàng Kim. Kể ra, với người
xưa, một mối tình thiêng liêng như Thúy Kiều - Kim Trọng thường được giấu kín trong lòng ít khi người ta
thổ lộ với người thứ ba. Vậy mà, ở đây, Thúy Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Hơn thế nữa, nàng
phải lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần
như van vỉ:

Cậy em, em có chịu lời,


Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi
gắm vào em. Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng không phải chỉ nói
mà là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em
như thế. Nguyễn Du thật tài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn
lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì
không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây
bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất thì san sẻ được, nhờ người
khác giúp đỡ được, còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Vì
vậy, Kiều mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng
này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của
mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy
Vân vốn là cô gái vô tư, thơ ngây trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho
mình phần hi sinh lớn hơn; không chỉ hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.

Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu,
kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình
yêu của nàng với chàng Kim, dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó
chính là em gái mình? Tình yêu đôi lứa vốn có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc
thoa với bức tờ mây, Phím đàn với mảnh hương nguyền... vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có
ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho
em, không còn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba người. Đau xót làm sao
khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao
cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng
Kim. Nàng thuyết phục em mới khéo làm sao:

Ngày xuân em hãy còn dài,


Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối
đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc
cạn với em mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất
bên chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao
mà thương!

Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người yêu. Nỗi lòng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn
trăm nghìn điều muốn nói với chàng, vẫn không làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với
chàng; không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi
Phân tích tâm trạng Kiều trong đoạn trích: “Nỗi thương mình”

Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào:
làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân
cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏi bị mai một được? Làm
thế nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cái cảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn thể hiện được
nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau
khổ, thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc
biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thương
mình”.
“Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải
qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn
nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy
Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu
Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: “Thân lươn
bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã
của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho
những kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều trong thời gian ấy.
Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tài nhân thì trọng tâm của
đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải
đồng ý tiếp khách, mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí
nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xử lí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới
mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của nhà thơ.
Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòng tê tái”. Trong sách giáo khoa
mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan
trọng hơn là đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ý thức về thân phận,
phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xót thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại
Việt Nam.
Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáo một cách sâu sắc nơi đã vùi dập
Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũng là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang
sống với tất cả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanh nhưng làm sao cho sự
miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độc giả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân
cách, phẩm giá của nhân vật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những xử
lí nghệ thuật độc đáo của mình.
Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều,
“khi tỉnh rượu… nào biết có xuân là gì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và
đoạn cuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giá của Kiều.
Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với
những đặc trưng của nó:
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.
Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thành một công cụ nghệ thuật
đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sự thật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này
là một cô gái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tình cảnh và thân phận
của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hề được miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc
say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường
Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Du đã tìm được một góc nhìn và cách
xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết về cảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử
lí nghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả thực, không né tránh hiện
thực và cảnh sống thực tế của nhân vật chính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật
chính Thúy Kiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân vật. Thái độ
này là nhất quán trong tác phẩm.
Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽ nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn
chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầy tháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự
nhộn nhịp của lầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vào dịp “được
mùa”, “đắt khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cả những giá trị của con người. Lầu xanh trở
thành nơi chôn vùi không biết bao nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phần
của bức tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại mà Nguyễn Du sống, cuối thế kỉ
18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy cũng đã được nói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh,
Hoàng Lê nhất thống chí, Cung oán ngâm…
Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạo của Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ
nhất được thiết lập bằng cách tách hai từ ghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm,
cụ thể hóa hơn nét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp. Tiếp theo là đối
xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cười suốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường
Khanh… kết hợp với những từ chỉ số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của một
cuộc sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ “trận” để nói về trận đánh, trận
mắng chửi chứ không ai nói là “trận cười”. Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép
buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.
Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước
mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù
chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị
buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở
thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ
ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống
đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của
nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng
thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành
cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều người đàn bà, có thể họ an
tâm, yên phận và cam chịu với nghề nghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân phẩm quá
đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng
nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót xa của hoàn cảnh là cái “giật mình” đầy nhân bản:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì”
Bắt đầu từ cái “giật mình” đoạn thơ mở ra cả một bức tranh tâm cảnh – có thể nói cách khác là bức
chân dung tự họa tinh thần Thúy Kiều. Vẫn là không gian lầu xanh, thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn
canh” – đêm khuya là thời gian của tâm trạng. Tại sao không phải là một thời điểm khác? Bởi vì triền
miên trong những “cơn say, trận cười”, những “bướm lả ong lơi”, những khách làng chơi dập dìu tối
ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều mới có thời gian để sống với tâm trạng thực của mình. Thời điểm này
có lẽ là thời điểm dành riêng cho tâm trạng của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương cũng để cho nhân vật
trữ tình của mình “tự tình” trong những khoảnh khắc như thế:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Cái “giật mình” nói lên tất cả những nỗi niềm của Kiều: sự thảng thốt, ngạc nhiên, bẽ bàng, xót xa cho
thân phận của mình, là sự tự ý thức chua chát về cảnh ngộ trớ trêu, nhục nhã trên cơ sở sự trỗi dậy
của một nhân cách đẹp. Nhịp điệu thơ biến đổi, đang từ 2/2/2 hoặc 4/4 chuyển sang 3/3 cân đối diễn
tả bước đi của thời gian, đến câu bát, nhịp thơ lại đột ngột thay đổi, phá cách 2/4/2 – một nhịp thơ thể
hiện sự thảng thốt.
“Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Câu thơ chứa đựng hai biến thái, hai nét tâm trạng tiêu biểu của Kiều trong hoàn cảnh éo le của nàng.
“Giật mình” thể hiện tâm trạng thảng thốt, sự lặp lại 3 lần từ “mình” khiến âm điệu câu thơ trở nên
nặng nề, như tiếng nấc đan xen với tiếng thở dài, tiếng nấc nghẹn ngào, đau đớn. “Giật mình” mới là ý
thức ban đầu nhưng “thương mình”, “xót xa” thì lại là sự ngẫm lại. Giật mình vì hiện tại nhục nhã, đớn
đau, Kiều lần tưởng về quá khứ, nhưng nếu như quá khứ chỉ được nhắc đến qua một câu thơ thì lập tức
hiện tại lại được nhấn mạnh qua nhiều câu thơ liên tiếp, hiện tại vẫn cứ níu giữ, vẫn cứ bám riết một
cách quyết liệt và ghê tởm. “Thương mình” dường như là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ đoạn trích
(chọn làm tên đọan trích) ở đây đã được Nguyễn Du để cho nhân vật đau đớn nhận ra.
Nếu như trước kia trước mộ Đạm Tiên, Kiều vì thương cảm, thương người mà khóc lên thì ở đây, trong
chính tình cảnh trớ trêu này – sống đúng với thân phận trước kia của Đạm Tiên, Kiều chỉ còn biết
thương cho chính mình và dường như cũng chỉ đủ sức để khóc thương cho chính số kiếp bèo bọt của
mình. Ngay cả cái cảm giác tự mình phải thương lấy chính mình đã đủ làm nên một bi kịch. Cái “thương
mình” này vừa thể hiện sự cô độc đến tuyệt đối, vừa thể hiện sự tủi phận cùng cực của Kiều, vừa thể
hiện ý thức cá nhân mãnh liệt. Bản thân từ “mình” đã là một thứ ý thức cá nhân được phát biểu rất rõ
ràng. Trước Nguyễn Du, ít có người phát biểu ra như thế. Hồ Xuân Hương từng để cho người phụ nữ bẽ
bàng về thân phận mình qua những hình tượng: trơ “cái hồng nhan”, “chiếc bách”, chém cha “cái số
hoa đào”… chứ chưa thể hiện trực tiếp như Nguyễn Du.
Nhưng trớ trêu và xót xa thay, 3 lần “mình” mà vẫn cô đơn, vắng lặng biết bao nhiêu. Đó chính là tiếng
lòng Kiều phát ra rồi lại dội lại, người nói cũng là người nghe trong cái âm hưởng tự thương thân xót xa,
nó nhói lên như một vết thương, một nỗi đau thường trực, cộng hưởng tạo cho câu thơ một dư ba da
diết.
Rồi trong cái âm điệu thương thân kia là bao nhiêu hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm
tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với câu cảm, với những hình ảnh đối lập diễn tả sự thảng thốt của Kiều
về thực tại và số kiếp của mình. Tự Kiều đến giờ vẫn không thể hiểu vì sao quá khứ và hiện tại lại thay
đổi nhanh như thế. Có một qui luật tâm lí là khi chán chường với hiện tại, người ta thường chạy trốn
vào quá khứ tươi đẹp, ở đây Kiều đã hồi tưởng về quá khứ nhưng quá khứ ngắn ngủi ấy không đủ để
cứu vớt nàng ra khỏi thực tại đau buồn. Ngay kết cấu của các câu thơ đã thể hiện điều đó: cứ một câu
nói về quá khứ thì lại liền sau đó là ba câu tả thực tại phũ phàng.
Sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và hiện thực còn được Nguyễn Du cực tả bằng một loạt các biện pháp
nghệ thuật đặc sắc. Cụm từ “bướm chán ong chường” (hô ứng với “bướm lả ong lơi” ở trên) và “dày gió
dạn sương” là hai sáng tạo về từ của Nguyễn Du: đảo trật tự và tách từ. Các đối xứng trong từng cụm
từ, từng câu là phép đối trong các câu thơ nối tiếp nhau: Khi sao… Giờ sao… Mặt sao… Thân sao… Sự
đối xứng này đào sâu thêm nỗi xót xa, nó mở rộng thêm sự đối xứng “mình” và “mình” tạo nên sự đối
lập giữa hai cực cuộc đời: sướng và khổ, bình yên và dập vùi sóng gió. Hai từ “khi” và “giờ” là hai
khoảng thời gian đối xứng mà ở đó, Kiều càng tiếc cái xưa kia chừng nào thì lại càng thấy cái nay thê
thảm chừng ấy. Những từ ngữ tương phản gay gắt: phong gấm rủ là/tan tác; dày gió/dạn sương; bướm
chán/ong chường… và cách so sánh: “như hoa giữa đường” gợi lên sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và
hiện thực, giữa cá nhân và hoàn cảnh.
Nếu “bướm lả ong lơi” là tả cái khách quan bên ngoài - chỉ bọn đàn ông lắm tiền háo sắc thì “Bướm
chán ong chường” ở đây lại chỉ tâm trạng chán chường, mỏi mệt, ghê sợ chính bản thân mình của nhân
vật khi bị đẩy vào hoàn cảnh sống nhơ nhớp. Nhưng có lẽ điều mà Nguyễn Du muốn nhấn mạnh hơn ở
trong những câu thơ này không phải là sự tố cáo và lột trần trực tiếp cái xã hội thối nát mà chính là sự
đề cao giá trị con người, đề cao khát khao chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Từ “xuân” do vậy,
không chỉ mùa xuân, tuổi trẻ, mà chỉ hạnh phúc lứa đôi, tình yêu. Trong cuộc sống “làm vợ khắp người
ta”, Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm.
Cả một trường tự vựng nói về cảnh lầu xanh, bên cạnh đó lại là cả một trường từ vựng nói về tâm
trạng, nỗi đau của Kiều – bản thân câu chữ đã mang đầy ý nghĩa về một sự đối lập, sự mâu thuẫn
giằng xé của Kiều khi tiếng nói về nhân phẩm đang gào thét giữa thực tại.
Đoạn thơ là lời than hay là câu hỏi đối thoại nội tâm của Thúy Kiều? Là lời than hay câu hỏi thì cũng chỉ
gợi lên ở cái ấn tượng về sự cô độc tột cùng. Đoạn thơ đậm chất ngôn ngữ nửa trực tiếp, là lời tác giả
thể hiện giọng điệu, suy nghĩ của nhân vật, như lời độc thoại nội tâm. Điều đó cho thấy nhân vật ý thức
sâu sắc về cuộc sống tủi nhục, đau khổ của mình. Đó cũng chính là sự tự ý thức sâu sắc về phẩm giá,
nhân cách bản thân, về quyền sống bản thân, khát khao muốn thoát khỏi cuộc đời kĩ nữ.
Nếu như Kiều trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân là người nhập tâm rất tốt các bài học tiếp khách
của Tú Bà, với đầy đủ các ngón nghề thì Kiều của Nguyễn Du: ghê sợ chính mình. Đó cũng là chỗ thể
hiện tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du: xót xa cho nhân vật, ông ném ra một tiếng nói gay
gắt: tài sắc đã trở thành một món hàng, một phương tiện giải trí của bọn lắm tiền háo sắc, lầu xanh là
nơi những con người như Kiều bị đày đọa.
Bị chi phối bởi thuyết “tài mệnh tương đố” cho nên Kiều của Nguyễn Du tuy suốt đời ý thức về quyền
sống và hạnh phúc nhưng chưa bao giờ được hưởng chúng một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, lên tiếng
khẳng định và để cho nhân vật ý thức về quyền sống của con người, đó đã là một đóng góp của
Nguyễn Du về tư tưởng trong văn học lúc bấy giờ. Cùng thời có Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều,
Đoàn Thị Điểm cũng đã nói đến điều này nhưng đến Nguyễn Du thì có tầm khái quát hơn: “Đau đớn
thay phận đàn bà; lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Sống giữa cảnh trụy lạc, truy hoan ngày đêm, sớm tối nhưng Kiều chỉ biết có đau buồn và tủi nhục. Cái
bi kịch lớn nhất của Kiều là ý thức về phẩm giá cá nhân quá mạnh, không cho nàng bằng lòng, cam
chịu với thực tại, lúc nào ở Kiều cũng văng vẳng tiếng thét đòi nhân phẩm, đòi thoát ra khỏi chốn đoạn
trường. Cũng như trước lầu Ngưng Bích, trong thân phận là gái lầu xanh, trước cảnh vật, Kiều luôn là
một người mang đầy tâm trạng:
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Kiều chưa bao giờ hòa hợp được với cảnh ngộ:
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì”
Từ khát khao một tình yêu, hạnh phúc chân thực, Thúy Kiều nghĩ đến các hành động giải tỏa nỗi lòng.
Nàng tìm đến bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, có đủ: phong – hoa – tuyết – nguyệt, bức tranh sinh hoạt
có đủ: cầm – kì – thi – họa. Nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự
giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất
nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm
trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thàn hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một
con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái. Cảnh là sự sắp đặt cố tình thành ra giả tạo. Khi
gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý
thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về
thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau
thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Câu thơ quen mà lạ, bởi vì Nguyễn Du đã khái quát tâm lí chung của con người thành qui luật, nói lên
mối quan hệ gắn bó giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Thực ra trong Truyện Kiều, lấy thiên nhiên để miêu
tả tâm trạng con người, Nguyễn Du vận dụng cả hai cách: thiên nhiên hô ứng và thiên nhiên đối ứng.
Hô ứng: cảnh buồn cùng tâm trạng. Đối ứng: cảnh đẹp, tao nhã, trong sáng như mỉa mai, chế giễu,
dằn vặt nhân vật. Dù là tương đồng hay tương phảm thì mục đích cuối cùng cũng là để nhấn mạnh, lột
tả đầy đủ, chính xác và xúc động cái thế giới nội tâm – vốn là một thế giới rất khó khám phá ở nhân
vật. Chiều sâu của ý thơ vẫn là cái nhìn đầy chất nhân văn của nhà thơ.
Tìm cách giải thoát cho mình khỏi nỗi buồn đau, Kiều tìm đến thiên nhiên nhưng cảnh nào cũng buồn vì
lòng nàng chẳng bao giờ nguôi; tìm đến các thú chơi tao nhã nhưng chơi gì cũng nhạt vì lòng nàng
chẳng có bạn tri âm. Kiều hốt hoảng nhìn lại hiện thực quanh mình lần nữa, có đủ cả Phong hoa tuyết
nguyệt nhưng tại sao nàng vẫn thấy vô cảm, lạc lõng? Kiều lệch hẳn ra khỏi cái chốn bùn nhơ ấy. Thân
xác tuy trở thành hàng hóa, đồ chơi, tấm thân mà xã hội và lầu xanh có thể lấy đi được nhưng tâm
trạng của Kiều chỉ còn trơ lại là sự vô cảm, ghê sợ - một tâm hồn thanh cao mà xã hội không bao giờ
cướp được. “Vui gượng” nói lên tất cả sự lệch pha, sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc
không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sự luôn luôn dằn vặt và mâu thuẫn ấy lại chính là nét đẹp
của nàng. Tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. “Ai tri âm đó
mặn mà với ai”. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười
quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao
giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên
ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm
hồn. Ấy vậy mà tại sao vẫn còn chỗ cho câu chuyện về tri âm, tri kỉ? Dễ hiểu vì sao sau này khi Từ Hải
đến lầu xanh với con mắt khác người và nhìn ra ở Kiều một tấm lòng tri kỉ, Kiều đã “cảm khái” đến như
thế nào. Thì ra, sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình, hơn
cả là mong chờ một hạnh phúc thực sự. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có
những lớp nghĩa sâu sắc. Sự lẻ loi của Kiều cũng chính là sự lẻ loi của Nguyễn Du. Sự khát khao tri âm
của Kiều cũng na ná như tấm lòng của Nguyễn Du trước mộ Tiểu Thanh với câu hỏi cháy lòng:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Cũng vì câu chuyện tri âm đó mà Nguyễn Du sau này đã để Kim Trọng nói một câu rất chính xác về
Kiều trong ngày hội ngộ:
“Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
Hoặc là lời nhận xét:
“Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”
Trước đây có nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn tỏ ra khắt khe trong việc xét đoán Kiều bằng nhiều cách
gọi: con đĩ, tà dâm… Nguyễn Du giữ lại một cái cốt lõi trong câu chuyện “nôm na mách qué” của mình,
đó là một ý thức, một số phận, một tấm lòng. Nguyễn Du không né tránh việc nói về thân phận nhân
vật chính là kĩ nữ giữa chống bùn nhơ và cái cách ông miêu tả là phân tích tâm lí một cách tàn nhẫn (từ
dùng của Phan Ngọc): nhân vật tự soi mình, tự đau khổ và giày vò chính mình. Câu nói của Kim Trọng
thể hiện tấm lòng rộng mở của Kim Trọng nhưng cũng là của Nguyễn Du – nhà thơ có tấm lòng nhân
đạo vượt xa cách nhìn đầy kì thị của xã hội phong kiến để nhìn đúng một người phụ nữ rơi vào thân
phận bị cả xã hội coi thường.
Bản thân đoạn trích không nói lên quan niệm về chữ “trinh” của Thúy Kiều, ngược lại, toàn nói về lầu
xanh và những nhơ nhớp mà Kiều phải chịu đựng, phải trải qua, biết là nhục nhã, ê chề nhưng không
thể chống lại. Sẽ tốt hơn cho Kiều nếu như nàng chấp nhận số phận (vì chính Kiều được Tú Bà rao giá
rất cao – chứng tỏ là một gái lầu xanh đắt giá: Lầu xanh mới rủ trướng đào, càng treo giá ngọc càng
cao phẩm người). Đằng này Kiều luôn sống trong sự đau đớn, xót xa, trong ý thức về phẩm chất, trong
sự “giật mình” và “thương mình” khôn nguôi. Tuy nhiên cái mà người đọc nhận ra sau cùng ấy chính là
tấm lòng trinh bạch của nàng hiện sau câu chữ, như thể một tấm gương mà chỉ cần cơn mưa gột rửa
bụi mờ, sẽ hiện lên trong sáng vô ngần. Không nói về chữ “trinh”, về phẩm giá của Kiều mà vẫn làm
hiện lên điều đó với tất cả sự trân trọng, đó không chỉ là tấm lòng mà còn là tài nghệ của Nguyễn Du.
Đặc sắc về nghệ thuật trong toàn đoạn trích “Nỗi thương mình” chính là nghệ thuật tả nội tâm nhân vật
bao gồm: bút pháp ước lệ, tả cảnh ngụ tình, các hình ảnh đối lập, ngôn ngữ nửa trực tiếp, biện pháp
đối xứng với mật độ dày đặc trong 20 câu thơ. Thành công của Nguyễn Du chính là ở chỗ đã chọn được
một góc nhìn, một cách xử lí nghệ thuật vừa tinh tế, mới lạ lại vừa thể hiện cho ra được cái màu sắc
của thi pháp trung đại. Nổi bật hơn cả là các phép đối tinh diệu: Tiểu đối trong cấu trúc bốn chữ được
dùng khá phổ biến: bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim, dày gió/dạn sương… Tiểu đối ở phạm vi câu thơ:
Cuộc say…, sớm đưa…tối tìm…, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh… Đối giữa 2 câu thơ lục bát: Khi sao…giờ
sao…, mặc người… Đối 2 khổ thơ 4 câu với nhau như: đòi phen… đòi phen.
Nguyễn Du đã mạnh dạn vượt ra khuôn khổ “văn dĩ tải đạo” để đề cao cái tôi, đề cao ý thức cá nhân
con người. Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất cũng bởi Nguyễn Du không
ngần ngại đề cập đến nỗi đau, tâm trạng ê chề, khát khao hạnh phúc thực sự, ý thức về nhân cách của
người phụ nữ chốn lầu xanh.
Ở một góc độ nào đó, đoạn trích là tiếng kêu cứu của những con người bị dìm xuống đáy xã hội. Nét
mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là chú ý đến thân phận cá nhân. Lần đầu tiên trong văn
học trung đại, người ta biết “xót thân”. Nguyễn Du là người đầu tiên tìm đến và chia sẻ tình cảm này,
tạo nên một trào lưu nhân văn chủ nghĩa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm… Cuộc
phục hưng này của văn học dân tộc có điểm giống cuộc phục hưng của Văn học phương Tây thế kỉ 19:
khám phá ra con người cá nhân, con người trần thế.
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, biết đau khổ trước thân phận và thực tại, biết ê chề, bẽ bàng vì
sự nhơ nhớp, biết thương lấy chính mình và biết khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao giữ gìn nhân
phẩm – đó là bi kịch, là nỗi đau của Kiều nhưng đồng thời cũng là vẻ đẹp đáng quí của nhân vật. Nếu
không có những nỗi đau ấy, nhưng bi kịch tinh thần ấy, Kiều đã không phải là một nàng Kiều “sắc sảo
mặn mà”, một nàng Kiều là hiện thân cho sự trinh tiết, cho cái đẹp trong sự ngưỡng vọng, trân trọng
của Nguyễn Du.
Trao Duyên
Trao duyên, em hỏi, chị thưa...
“Lạy thưa”, “gửi lạy”...tình chưa đoạn tình!
Sao đã “trao”, đã “gửi” mà “tình chưa đoạn tình”?Cảm xúc này có thể lý giải qua việc phân tích tâm
trạng bi kịch của Kiều trong đêm “trao duyên”.
Trước tiên, hãy hiểu Vân đôi chút, bởi lẽ Vân trực tiếp đối thoại, khơi gợi và chuẩn bị cho Kiều bộc lộ
tâm sự của mình.
Người ta hay nói rằng nàng Vân “vô tư”(?) có lẽ là ở chỗ này: cả nhà vừa mắc oan, mới “thong dong”
một chút, trong khi chị Kiều một mình một ngọn đèn khuya: “Dầu chong thấm đĩa, lệ tràn thấm khăn”
thì em Vân hình như không chống nổi các quy luật sinh lý cho nên đã có một “giấc xuân” êm đềm!Song
đến cuộc trao duyên, bắt đầu ta nghe Vân “ân cần hỏi han” chị, ta lại nghĩ Vân chưa hẳn vô tình, những
điều cô hỏi chứng tỏ cô hiểu đời, cái đời “dâu bể đa đoan”, biến động khôn lường...Cô biết nỗi oan của
mình, oan “một nhà” mà cô nghĩ “để chị riêng oan”, cô ngủ mà cô vẫn biết chị “ngồi nhẫn tàn canh, nỗi
riêng còn mắc mối tình chi đây?”.Nguyễn Du quả đã khéo sắp đặt: để cho Vân hỏi chị trước, hỏi vừa đủ
mà “trúng đích”, hỏi thể tất “nhân tình”!Và trong suốt cuộc trao duyên, Vân chỉ hỏi mỗi một lần, rồi
lẳng lặng mà nghe...
Vậy ra Vân cũng hay đấy chứ, cô đã tỏ ra “biết chuyện” và đã khơi gợi, tạo cơ hội cho chị Kiều bày tỏ,
nhưng bày tỏ sao đây trong khi chị Kiều:
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Chị buộc phải trao duyên – cái duyên vợ chồng với Kim Trọng cho em! Chuyện ấy, “hở môi ra” đã
thẹn.Biết thẹn mà phải nói, nói để mà trao, sự tình đã đến thế thì chị phải thổ lộ thật, thổ lộ hết cùng
em.Thật lòng là chị “đương thổn thức đầy”, “còn vương vấn mối này chưa xong”, thật lòng là chị
ngượng, vì vậy mà điều băn khoăn day dứt trắng đêm nay, chị gửi trong mấy lời thành thật:
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai
Ấy chính là cái gút của tâm trạng bi kịch trao duyên vừa là vấn đề “ức xúc” đặt ra cho chị, và cho cả em
giải quyết.Vân thương chị, hẳn là cảm nhận được cái tâm, cái tình trong đó, và hẳn cô đã lờ mờ thấy
chị đang có yêu cầu gì với mình đây...Thúy Kiều thật khó nói, mà lại khó nói hơn khi phải nói một
chuyện mà mình không muốn nói – mà vẫn “phải” nói cho em nghe, thật rối rắm, thật khó xử, thật là
“đau đầu” cho cả em lẫn chị...Đến nước này thì chị phải nhờ vả em thôi, em có hiểu không Vân?Tâm
trạng Kiều thật sự bối rối, cách giải quyết của Kiều là sự họat động về tình cảm chị em mà thôi, chứ
không phải là lí trí:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Đến nước này thì chị phải cậy em thôi, chị tin rằng em sẽ bằng lòng giúp chị mà, “em có chịu lời” của
chị không?Câu thơ như van xin, như cầu khẩn, câu thơ đặt ra vấn đề cho Vân, và Kiều thăm dò ý của
em mình, ở đây Kiều không ép, mà Vân cũng chẳng phật lòng, càng dễ cảm thông cùng chị, Kiều mới
yêu cầu em:
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Sao lại thế nhỉ?Theo tôi, có lẽ Vân cảm thấy đột ngột trước yêu cầu này.Người đọc thì cảm thấy như có
sự “thay bậc đổi ngôi”, có sự “hóan vị”, em bỗng như là chị, chị bỗng như là em (cúi mình “lạy”).Thì ra
chính cái yêu cầu kia là xuất phát từ tình thế, tâm trạng chị: vì chuyện tình riêng, chị phải “lạy thưa”
em, “cậy” nhờ em, đương nhiên em sẽ là ân nhân của chị!Thúy Kiều lạy thưa là tỏ trước tấm lòng biết
ơn của mình, và cũng là xuất phát từ sự trân trọng của mình trước chuyện “trao duyên” thiêng liêng, hệ
trọng này.Câu thơ trên gợi ý có tình, câu thơ dưới cầu khiến có tình, quả nhiên hai câu thơ có sức
thuyết phục đặc biệt!
Kiều bắt đầu kể cho em nghe chuyện tình của mình với Kim Trọng:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Phải rồi, kể từ đó – từ khi gặp chàng Kim, chị đã có tình yêu và tình yêu đó ngày càng sâu đậm
hơn.Kiểu thổ lộ với em thật thà, không giấu giếm, thật trong sáng, tình yêu của Kiều là do thiên tính –
là do trời chỉ định, Kiều “quan niệm” tình yêu của mình khác với “quan niệm” phong kiến, đó là sự cảm
nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không là sự thức ép.Phải chăng, Nguyễn Du đã cho Kiều ít nhiều
nói lên sự tự do yêu thương của con người trong xã hội lúc đó?
Sau mấy câu kể vắn tắt chuyện tình riêng của Kim Trọng, Kiều tiếp tục thuyết phục em bằng cả lí, cả
tình:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vạn hai?
Từ tình cảm của mình, Kiều nói đến cái lí, cái lí phải chọn một trong hai điều để trọn vẹn một điều nào,
hi sinh điều nào.Kiều nghĩ Vân sẽ ắt hiểu và hiểu thêm tâm trạng bi kịch của mình nữa.
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Em còn trẻ, em hãy thương chị mà thay chị lấy chàng Kim.Ấy chính là tình.Chỉ cần nói mấy tiếng “xót
tình máu mủ” là đủ xóay tận vào đáy lòng em rồi.Mà em đã “xót tình máu mủ” thì làm sao có thể từ
chối “thay lời nước non”?Câu thơ nghe não lòng, nghe như có tiếng kêu thương thống thiết khiến Vân
phải nghĩ đến bổn phận mình phải làm thế nào cho phải...
Kiều mới nói tiếp:
Cho dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Đó là những lời gan ruột của Kiều – một người chị bất hạnh.Lí, tình mà Kiều giãi bày thật tình như vậy,
Thúy Vân chỉ còn biết lẳng lặng mà nghe, lẳng lặng mà chấp nhận!
Đây là nỗi đau lớn nhất và đầu tiên trong suốt cuộc đời của Kiều, cho nên khi nhắc đến chàng Kim, Kiều
vô tình chạm vào nỗi đau sâu thẳm nhất của mình, khiến cô tỏ ra bần thần, rối trí, không điều khiển
được mình:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Đọc câu thơ, ta nghe như có một giọng khang khác.Phải chăng, nội tâm của Kiều lúc này phức tạp hơn,
nên ngôn ngữ trở nên “bất bình thường”? Ở đoạn trên ta thấy, dù thuyết phục em bằng lí, bằng tình
hay bằng cả hai, thì vẫn là ngôn ngữ lí trí, giọng thơ đều đều, trầm trầm.Đến đâu thì lời thơ như nấc
như nghẹn, cái “gút” tâm trạng trên kia đã mở ra dường như được thắt lại ở chỗ này!Tại sao lại có sự
khác lạ trong lời nói vậy? Bởi do “chiếc thoa với bức tờ mây” đó thôi, nó là hiện diện của tình yêu! Cầm
kỷ vật cụ thể ở tay, trao cho em, Kiều bỗng thấy vụt lên hình ảnh Kim Trọng cùng bao kỷ niệm, thề
nguyền...và Kiều chợt nghĩ: vật này là của ta, chàng là của ta, sao lại thành của Vân? Có thể nào như
vậy được? Tâm lí Kiều lúc này cần một lời thỏa đáng, ít ra là để tự an ủi mình.Cho nên câu thơ “Duyên
này thì giữ vật này của chung” là cả bao nhiêu sự giằng xé, níu kéo khủng khiếp trong tâm hồn, con
tim của Kiều, Nguyễn Du quả thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong ý thơ của mình.
Đến đoạn cuối cảnh trao duyên, nội tâm Kiều lại phức tạp hơn nữa.Ta hãy nhớ lại: Trước cuộc trao
duyên Kiều đã tự cho mình có lỗi với Kim Trọng. Nàng vốn là người giàu tình, đa cảm, dễ ứng
mộng...Nàng cũng đã tự gọi mình là người “mệnh bạc”.Bây giờ đang trong nỗi đau mất mát khủng
khiếp, bỗng nhiên nàng thấy mình đáng thương nhất, đau đớn nhất, u uất nhất, cay cực nhất.Rồi như
người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thi bay xa xăm tận mai sau...Miệng đang nói với em mà như hồn
nói với hồn những điều hình dung, dự báo về “mai sau”!
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trôn ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai...
Thì ra, cái hồn vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng! Hồn Kiều còn múon về để “đền nghì trúc mai” để được “rảy
xin chén nước” tẩy oan cho hồn! Câu thơ nghe mới não lòng làm sao! Và dễ sợ làm sao! Nguyễn Du
thương con người thác oan, bạc mệnh hay Nguyễn Du nhạy cảm với nỗi đau nhân tình mà đã đi xa hơn
Thanh Tâm Tài Nhân? Nguyễn Du cho ta thấy cái “hồn” Kiều đang vừa nói với mình, vừa nhớ thương
Kim Trọng vụt trở thành cố nhân...Trong giây phút ấy, Thúy Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi, phải
chăng là một điều rất hợp lí? Kiều đang còn sống mà thấy mình đã chếtm đang nói với em của mình mà
không biết đang nói với ai, lúc này Kiều bị rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm, và trước mắt Kiều, Thúy
Vân trở thành Kim Trọng, cho nên bao nhiêu tình thương nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ khi hồn đã lìa xác
bỗng như được tuôn tràn ra:
Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân...
Trên kia, Kiều lạy em vì Kim Trọng, đến đây, hồn Kiều lạy chính Kim Trọng.Nhưng đâu phải vậy, tất cà
đều là gửi lạy qua Vân, gửi những trăm nghìn lạy – lạy thương, lạy nhớ, lạy đau...thay vì lạy Kim
Trọng, bởi vì Kim Trọng lúc này không có mặt ở đây...Nhưng hồn Kiều vẫn chưa nguôi nỗi niềm thương
nhớ, cho nên hồn đã kêu khóc dầm dề:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa...bấy nhiêu tâm trạng dồn dập xuất hiện trước mắt Kiều – vậy hóa ra
hồn lại mâu thuẫn với người sao?Trên kia người nói:
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai
Trao duyên rồi, ngỡ như khỏi phụ và “nợ tình” đành là trả được ít nhiều...Thế mà mãn cuộc trao duyên
lại khóc “phụ chàng từ đây” là nghĩa làm sao? Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch. Và con
mắt tinh đời của Nguyễn Du mới đúng là “nhìn thấu sáu cõi”, lòng đau của Nguyễn Du mới đúng là
“nghĩ suốt ngàn đời”.Quả như Chế Lan Viên đã nói: “ Đây chính là những vần thơ siêu thực” bởi vì lần
đầu tiên trong lịch sử văn chương dân tộc, cái nghịch lí trong tâm trạng được phát hiện và sử dụng để
phân tích nội tâm nhân vật tiểu thuyết, phải chăng đó chính là nét độc đáo, là lí do vì sao Truyện Kiều
trở thành bất hủ!
Nghị luận về thân phận người phụ nữ
Mở bài : Mặc dù đã qua lâu rồi ngày quốc tế phụ nữ 8-3 , nhưng phong trào đấu tranh vì quyền bình đẳng của người
phụ nữ dường như không bao giờ tắt bởi những bất bình đẳng hàng ngày đang diễn ra. Sự thật đáng lên án đó được
thể hiện sâu sắc qua đoạn trích "Trao Duyên" .Mới nhìn qua tiêu đề của đoạn trích , ta cứ nghĩ đây là một phong tục
của người dân tộc nhưng thực chất tiêu đề đoạn trích có nghĩa là "gửi duyên" - trao gửi mối tình còn dang dở của
mình .
Thân bài :
Mở đầu đoạn trích là 2 câu thơ làm cho người đọc cảm thấy xé lòng :
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Một cảnh tượng nghịch lí làm người đọc phải thắc mắc : trước mắt người em gái mà người làm chị phải ở trong tư thế
bên dưới , lạy van .Nhiều người trong chúng ta đã đặt ra câu hỏi : chắc chắn sự việc phải nghiêm trọng đến mức độ
nào mới có sự thay bậc đổi ngôi như thế . Tiếp theo là 6 câu thơ kể về mối tình thiêng liêng của Thúy Kiều feat. Kim
Trọng :
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Càng đọc Truyện Kiều em lại càng khâm phục Nguyễn Du , chỉ vỏn vẹn có 6 câu thơ mà tác giả đã đóng gói xong mối
tình lâm ly bi đát của 2 người yêu nhau . Qua đó ta có thể khẳng định Truyện Kiều là một áng thơ tuyệt bút .

"Giữa đường đứt gánh tương tư-Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em" - quả thật hành động của Kiều lúc này vô cùng
quyết liệt . Một người phụ nữ đã bị dồn đến chân tường cho nên hành động này cũng dễ lí giải . "Mặc em" - hai từ
ngắn gọn nhưng ý nghĩa vô cùng dứt khoát : mặc kệ em đấy thích làm thế nào thì làm , mặc kệ không quan tâm . Kiều
đã bị đặt trước hai lựa chọn : Bán mình chuộc cha và em trai đồng nghĩa với việc từ bỏ chàng Kim ; hay theo chàng
Kim mặc kệ Vương ông và Vương Quan bị đem đi hành hình .

Quả thật thương cho Kiều bao nhiêu thì cũng thương cho Vân bấy nhiêu , nghe theo lời chị mà phải lấy một người
không yêu mình . Qua đó ta cũng thể thấy thân phận rẻ rúm của người phụ nữ thời xưa : chị đặt đâu em phải ngồi
đấy. Bao nhiêu điều thầm kín trong mối tình với chàng Kim, Kiều đành đem ra kể hết cho em : "Kể từ khi gặp chàng
Kim - Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề " - trốn cha mẹ đi chim chuột với nhau , việc như vậy Kiều cũng phải kể cho
em . Ngày xưa trong xã hội phong kiến mục nát , người phụ nữ phạm tội này thường bị cạo đầu buộc vào cánh cửa
thả trôi sông . Công khai việc làm này của mình - qua đó ta cũng hiều được mức độ nghiêm trọng của sự việc .
"Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Câu thơ sao mà xót xa đến thế
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối đoạn thơ
không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc cạn với em mới có thể
thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương
cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!
Cha ông ta có câu , chó cùng dứt giậu . Kiều quyết liều mạng vơi bọn người đã vùi dập cuộc đời nàng , Kiều đã nhắn
gửi trước cho em mình để lo " hậu sự" :
Trong ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió là hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liều , đền nghì trúc mai

Chen giữa đoạn văn là một vài câu thờ vớ vẫn không có ý nghĩa nên em thấy không cần phân tích .
Kết thúc đoạn trích là câu nói đau đớn của Kiều :
" Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Câu nói sao mà chua xót thế , chỉ vì bọn quan lại phong kiến mục nát mà một người phụ nữ đã phải bán mình vào nhà
thổ để kiếm tiền , kết thúc một mỗi tình lãng mạn nhưng đẫm nước mắt .

Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc thoại nội tâm
của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm trạng đau khổ của Thúy
Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi
sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?

Kết luận : :
Qua đoạn trích trên ta càng thấu hiểu thân phận người phụ nữ trong xã hội đầy bất công . Theo những kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học thì một giả thuyết đã được đưa ra : Nguyễn Du có thể là một người phụ nữ , vì thời xưa
phụ nữ thường bị cấm đến trường cũng như động đến nghiên bút , cho rằng đó là việc của đàn ông . Tác phẩm
"Truyện Kiều" chính là một bằng chứng xác thực nhất - Nguyễn Du muốn phê phán lúc đàn ông đương thời mà điển
hình là Kim Trọng (chỉ trừ nhân vật Từ Hải có lẽ là hình tượng đẹp đẽ mà Nguyễn Du hằng ao ước).
Trao duyên
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam và cũng là của thế giới.Ông tên là Tố Như, hiệu là
Thanh Hiên.Oâng sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – Một xã
hội suy thoái, thối nát.Nguyễn Du đã từng trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau,
nếm đủ những thứ vị đắng cay của cuộc sống phong trần.Trong đó có mùi vị của sự chia ly, dang dở của tình
yêu đôi lứa.Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du sáng tác nên đại thi phẩm bất hủ:”Truyện
Kiều”.Đoạn trích “Trao Duyên”là một đoạn trích thể hiện khá rõ bi kịch tan vỡ, dang dỡ của tình yêu Thuý
Kiều - Kim Trọng và nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi kịch của nàng, đồng thời thể hiện tư tưởng
nhân đạo chủ nghĩa xuyên suốt trong thơ Nguyễn Du trước những đau khổ, bất hạnh cũng như khát vọng
hạnhphúc của con người.[giới thiệu vềđoạn thơ cần phân tích:nội dung chủ đề, …]
Sau khi giải quyết xong thủ tục bán mình(“Tờ hoa đã ký-cân vàng mới trao”), lấy tiền lo cho vụ kiện nhà
Kiều, ngày mai Kiều sẽ phải rời theo Mã Giám Sinh ra đi.Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm
cách trả nghĩa nợ tình cho chàng.Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa.Nhân Thúy Vân thức dậy hỏi, Kiều
bây giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em.Mối tình Kim-Kiều đâu phải là mối tình trăng gió thoảng
qua.Đây là mối tình đầu say đắm nhất, trong sáng nhất.Thế mà giờ đây phải đem mối tình ấy trao cho người
khác – còn có nỗi đau nào hơn?!Lời Thuý Kiều nói với em đau đến từng chữ:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Mở đầu cuộc trao duyên, Thuý Kiều có cách nói, cách xưng hô đặc biệt.Tại sao Kiều không nói “nhờ em”
mà lại nói “cậy em” ?Bởi vì chữ cậy bao hàm ý hy vọng tha thiết của một lời trông cậy, có ý nương tựa, tin
tưởng nơi quan hệ ruột thịt, gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha.Kiều nói “em có chịu lời” chứ không nói “em
có nhận lời” ngoài lý do từ “chịu lời” mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được từ chối đề nghị của
mình mà còn bởi vì Kiều cảm thấy đây là một sự thiệt thòi, một sự hy sinh lớn lao của em Vân – em sẽ phải
yêu và kết duyên vợ chồng với một người mà mình chưa yêu.Cách nói như thế phù hợp với hoàn cảnh và
tâm trạng van nài, khẩn thiết của Kiều.Ngày xưa, giáo lý phong kiến thời xưa rất nghiêm ngặt.Xưa nay bề
dưới lạy bề trên, em phải thưa gửi lễ phép khi nói với chị.Nhưng lúc này, Kiều lại đang bảo em “ngồi lên”
rồi “lạy”, ”thưa”.Tại sao Kiều lại chấp nhận hạ mình xuống hàng thấp của người thấp vế?Bởi vì việc và Kiều
sắp “cậy” em là một việc rất hệ trọng.Tư thế “lạy”, ”thưa” là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân của
mình.Thật vậy, em Vân sẽ phải thay Kiều hy sinh tình duyên của mình mà giúp Kiều nối duyên với chàng
Kim, việc làm đó Kiều mang ơn em rất lớn.Ngoài ra, hành động “lạy”, ”thưa” của Kiều còn tạo ra một bầu
không khí nghiêm trang, trịnh trọng, Kiều “vưa tình vừa lễ”, làm cho em không thể không nhận lời.Với cách
dùng từ khéo léo và đầy sắc thái ý nghĩa, chỉ qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầu hồi
hộp, trang trọng và đồng thời thể hiện hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết, bế tắc của Kiều.Nguyễn Du
không kể lại thái độ của Thuý Vân ra sao bởi vì hai câu đầu chỉ là lời bày tỏ ý nguyện.Đúng là sau đó, Kiều
nói ngay đến mối tình dang dở của mình:
Giữ đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Trong thời đại phong kiến, không được phép tự do yêu đương, thì đây là một tâm sự còn giấu kín của
Kiều.Giờ đây Kiều buộc phải nói rõ cho em Vân.Người xưa xem tình yêu là một gánh nặng, cho nên người
ta hay nói:”gánh tương tư”.Mối tình của Kiều và chàng Kim đang đến độ đắm say nhất, nồng nàn nhất.”gánh
tương tư”của Kiều giờ đây nặng hơn bao giờ hết.Trớ trêu thay, cơn gia biến ập đến với Kiều.Kiều đang “giữa
đường”, đang gánh một “gánh tương tư” nặng trĩu thì gánh đứt, không sao mang xách lại được.Hình ảnh ấy
đã thể hiện rõ tâm trạng bất lực của Kiều.Và vì thế mà giờ đây, Kiều phó thác “gánh tương tư” bị gãy - hay
nói theo cách của Kiều là tơ duyên mối vướng – lại cho em Vân.Nhưng đối với Thuý Vân, đó là một “mối tơ
thừa”.Kiều hiểu thấu cảm giác thiệt thòi của em nên nói thẳng ra:”Mặc em”, có nghĩa là “phó mặc cho em
đó, dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp nối cho chị.Kiều hết sức mong em dùng thứ keo bền
nhất – “keo loan”, thứ keo chế bằng huyết chim loan – để “chắp mối tơ thừa” này và sao cho nó không bao
giờ đứt nữa.Câu nói này mang giọng điệu của người chị phó thác cho em, nên câu thơ mang sắc thái dứt
khoát, nghiêm trang và mang nhiều “sức nặng” của giọng điệu.[nghệ thuật của tác giả trong 2 câu thơ trên, ý
nghĩa, …]
Không còn gì để mất nữa, đến lúc này Kiều có thể bình tĩnh nói cặn kẽ chuyện tình, nỗi đau của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén hề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Đây là những điều bí mật của Kiều mà Thuý Vân chưa hề được biết, là điều lễ giáo phong kiến cấm kỵ,
nhưng bây giờ, Kiều buộc phải thành thật kể cho em nghe, với hy vọng một sự thông cảm chia sẻ.Lời nói của
Kiều thật bình tĩnh, rõ ràng và ngẹn ngào, cặn kẽ nỗi đau.Sự trùng điệp của ba điệp từ “khi”:”khi gặp”, ”khi
ngày”, ”khi đêm” đã nói lên sự thề ước sâu nặng, không thể nuốt lời, càng khẳng định tình trạnng bế tắc của
Kiều.Kiều quan niệm tình yêu của mình khác với quan niệm tình yêu của xã hội phong kiến đương thời:Đó
là sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không phải sự bức ép, ràng buộc.Phải chăng Nguyễn Du đã
cho Kiều phá vỡ quan niệm lạc hậu, bất công đối với tình yêu đôi lứa để hướng tới tình yêu đích thực của
con người? Mối tình Kim-Kiều đang mặn nồng thì cơn gia biến ấp đến.Lúc này đây Kiều phải chọn một
trong hai:”Hiếu” hoặc “tình” chứ không thể “hai bề vẹn hai” được.Thật ra, trong hoàn cảnh “Hiếu-tình chọn
một” thì Kiều vẫn có thể chọn “tình”, tức là bỏ mặt gia đình trong sự tra khảo dã man mà bỏ trốn, trọn đời
bên chàng Kim.Nhưng Kiều đã chọn “hiếu”, Kiều đã hy sinh mối tình với chàng Kim và thậm chí là cả tấm
thân trinh trắng của mình để cứu lấy gia đình.Kiều đã nói ra cái lý của mình và hy vọng em ắt sẽ thấu hiểu
tâm trạng bi kịch của mình.Từ “sự đâu” như một lời oán trách số phận, ngoại cảnh đã gây “sóng gió bất kỳ”
làm tan vỡ mối tình đầu sâu nặng.[…]
Trở lại với cuộc trao duyên, sau khi kể rõ chuyện tình và nỗi đau của mình, Kiều chuyển sang phân tích ý
nghĩa, gửi gắm em Vân:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
“Ngày Xuân” mang tính ước lệ, có ý tuổi trẻ của người con gái.Tuổi trẻ của em con dài và vì “tình máu mủ”
giữa em và chị mà “thay lời nước non” giúp chị.Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, gợi
dậy ở Vân đức hy sinh và lòng vị tha vì người thân.Nếu được thõa nguyện, thì dẫu Kiều chết đi, dưới chín
suối cũng hả dạ, vì có được tiếng thơm là người có tình nghĩ.Nhưng điều đặc biệt ở đây là Kiều xem như
mình đã chết, như người chết.Câu”ngày xuân em hãy còn dài” còn có ý nghĩa là “ngày xuân của chị đã hết
rồi”, chị chỉ còn “thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối”, nơi cõi chết.Nguyễn Du đã khéo léo tinh tế
để cho dự cảm từ từ len lõi vào lời nói của Kiều.Bề ngoài tưởng như Kiều đã sắp đặt hết mọi chuyện nhưng
sâu thẳng trong lòng là nỗi đau đớn tưởng chừng như có thể chết được.
Nói xong lời thỏa nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều liền trao kỷ vật kỷ niệm:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
“Chiếc vành” là tặng vật đầu tiên của chàng Kim tặng cho Kiều khi nang nhận lời.”Tờ mây” là tờ hoa tiên có
vẽ vân mây, là tờ hoa tiên mà trên đó Kiều đã ghi lời thề(“Tiên thề cùng thảo một chương”).Kiều trao duyên
cho Vân thì những những vật kỉ niệm(“chiếc vành”, ”tờ mây”) trước đây thuộc về mối tình Kiều - Kim thì
bây giờ đã thuộc về Vân – Kim.Cho nên, khi đã gửi gắm “lời nước non”, việc hiển nhiên Kiều phải làm là
trao những vật thiêng liêng ấy lại cho Vân.Nhưng câu tiếp theo thật kỳ lạ:”Duyên này thì giữ vật này của
chung”!”Duyên đây là nhân duyên, duyên phận, cơ duyên, tức là sự run rủi cho số phận hai người trai gái
gặp nhau, kết đôi với nhau và lấy nhau.”Duyên này” là duyên mà Kiều đã trao cho Vân, trở thành duyên của
Vân với chàng Kim, cho nên Kiều dặn Vân phải giữ lấy.Nhưng tại sao vật kỷ niệm này là của chung?Ở đoạn
trên, du thuyết phục em bằng lí, hay bằng tình hay bằng cả hai thì vẫn là ngôn ngữ của lí trí, giọng thơ đều
đều, trầm trầm.Đến đây thì lời thơ như nấc thẹn.Cái “gút” tâm trạng đầu đoạn trích đã được “mơ”û ra nhưng
dường như giờ lại bị “thắt” lại thể hiện qua lời nói bất bình thường.Nút “thắt” này chính là nút thắt của nội
tâm Kiều.Lời lẽ ấy là lời lẽ của nội tâm Kiều bất chợt thốt ra trước sự thật cay đắng và phũ phàng:Vật
này(Chiếc vành, Tờ mây) là của nàng, chàng Kim là của nàng, sao bây giờ lại là của Vân?Nội tâm rối bời,
giằng xé ấy thể hiện Kiều còn muốn giữ lại cho mình, cho quá khứ chôn sâu trong trái tim Kiều, không muốn
trao hoàn toàn cho em, thể hiện tâm trạng day dứt, vướng víu, níu kéo của Kiều đối với những kỷ niệm tình
yêu của mình với chàng Kim hay nói khác hơn là Kiều “trao mà không trao”:trao kỷ vật tình yêu cho em mà
không tài nào dứt ra khỏi mối tình.Điều đó chứng tỏ:”Kiều trao duyên chứ không trao tình”.Đó là một sự thật
đau đớn lòng, khiến cho bao đoc giả phải cảm động.Hai câu thơ trên là tình tiết chính của cuộc trao duyên
nên mang nhiều ý nghĩa biểu tượng và trữ tình rất lớn.Nguyễn Du thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong ý
thơ của mình.Chỉ với hai câu thơ mà ông đã chuyển tải đến độc giả nhiều khía cạnh tâm trạng của Kiều hay
mang tính khái quát hơn là của cả những người con gái đang yêu trong xã hội phong kiến đương thời và
thậm chí ở xã hội hiện đại ngày nay:”Khi đang yêu, ai lại muốn trao duyên bao giờ?”
Từ nay, những kỷ vật Kiều trao lại cho em còn là vật làm tin nhắc nhở đến Kiều, để khi Vân có được hạnh
phúc thì đừng quên Kiều:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa
Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, tủi buồn.Nó đọng lại ở câu:”Dù em nên vợ nên chồng”.Trao duyên cho em
rồi, cũng đã trao trả kỷ vật lại cho em, đã “cậy” em, ”lạy”em, biết bao nhiêu khẩn khoản, tin tưởng…ấy thế
mà Kiều vẫn đặt một giả thiết, như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên.Kiều tự thấy mình đáng thương biết
bao, mình là “người mệnh bạc” để cho người khác(em Vân) phải “xót”, phải thương hại!Cây đàn hồ đào
ngày nào Kiều đàn cho chàng Kim nghe, và mảnh hương huyền ngày nào từng chướng kiến hai người thề
nguyền cũng để lại cho em như là vật của tin.Đối với Kiều, chúng đã trở thành quá khứ xa xôi của “ngày
xưa”.Trớ trêu thay, ”của tin” vẫn còn đó mà người thì lại “mất”:”Mất lòng còn chút của tin” – lời nói của
Kiều đề cập đến cái chết mà vẫn mang âm điệu trầm trầm, vẻ như “chuyện tất yếu” - khiến cho nhiều độc giả
nhạy cảm phải “nhói lòng”.
Ý nghĩ về cái chết cứ trở đi trở lại, ám ảnh Kiều.Nhất là khi trao kỷ vật tình yêu cho em, Kiều cảm thấy như
mình đã chết, bởi khi mất đi tình yêu, cuộc sống đối với Kiều chẳng còn ý nghĩa gì nữa.Rồi như người mất
hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thì bay xa xăm tận “mai sau”:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lòng hương ấy so thơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Kiều đã mất hết hiện tại.Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương.Mai sau khi em “đốt hương”, chơi
đàn(“so tơ”) – những lúc hạnh phục thì hãy nhớ đến chị.Cái cách hình dung oan hồn bơ vơ của mình nơi mai
sau thật là thê thảm:Kiều sau này chỉ là một ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ! Còn gì để thương cảm hơn
là gợi lên những hình ảnh hư vô?Kiều bị ám ảnh bởi oan hồn của Đạm Tiên.Kiều gặp chàng Kim tại nơi gần
mộ Đạm Tiên, đi chơi xuân về cũng gặp mộ Đạm Tiên…Trước mộ của Đạm Tiên, nghe em Vương Quan kể
về số phận đau thương của nàng, Kiều không cầm nổi nước mắt:”Kiều đâu mối sẵn thương tâm-“Thoắt nghe,
Kiều đã đầm đầm châu sa”.Nay số phận Kiều cũng éo le như như của Đạm Tiên.Cho nên, ”hồn” của Kiều
cũng giống như hồn Đạm Tiên”ào ào đổ lộc rung cây” - có ý thức quay về cõi trần:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Thì ra, ”hồn” của Kiều vẫn chưa dứt nổi chàng Kim.Hồn của Kiều là “hồn mang nặng lời thề”.”Lời thề”ở
đây chính là lời thề đêm thềnguyền vằng vặc ánh trăng mà Kiều không bao giờ quên được:”Vầng trăng vằng
vặc giữa trời-Đinh ninh hai miệng một lời song song”.”Lời thề” ấy của Kiều với chàng Kim đối với nàng cực
kỳ quan trọng.Kiều đã”trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” với chàng Kim.Bởi thế, dù có tan tành thân
xác “bồ liễu, dáng vẻ”trúc mai”, Kiều cũng quyết gặp lại trực tiếp chàng Kim để “đền nghì” cho chàng
Kim.Đó là một ý thức, một tấm lòng, một tư tưởng mà không phải người con gái nào cũng có được.Sự thủy
chung của Kiều vẫn được thể hiện rõ nét, đậm đà và càng sâu sắc hơn trong hoàn cảnh ngặt nghèo.Còn đối
với Vân, khi “hồn Kiều quay trở về dương gian:
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối.Lúc ấy, một người là con người cõi trần(Thúy Vân), một kẻ là hồn ma âm
phủ(Thuý Kiều).em và chị sẽ “cách mặt khuất lời”, tức là sẽ không thấy được nhau và cũng không nghe
được tiếng nói của nhau.Khi đó, em hãy rảy chén nước cho “người thác oan” là chị(Theo quan niệm tôn giáo
cổ truyền thì nước tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ siêu thoát).Qua đó
chứng tỏ Kiều tuy tự nguyện hy sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thực được mình bị oan uổng cho nên
sau khi chết, hồn oan không tan.Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Kiều vẫn có ý thức nhận biết và đấu
tranh đến cùng đối với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
Trong giây phút ấy, Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi.Kiều đang sống mà cảm thấy như mình đã chết, đang
nói với em mình mà không biết đang nói với ai, lúc này, Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm.Nỗi bất
hạnh hiện lên thật trọn vẹn, hiện lên trong hình dung nhưng rất cụ thể khiến Kiều vô cùng tuyệt vọng:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể là sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Lời đối thoại có sự chuyển hướng:Đang nói với em Vân, Kiều dường như quay sang nói với chàng Kim hay
nói khác hơn, trước mắt Kiều, Thuý Vân trở thành chàng Kim.Cho nên bao nhiêu tình thường nỗi nhớ, nỗi
thương yêu ấp ủ, nỗi đau khổ thống thiết cho mối tình đầu tan vỡ bỗng tuôn tràn ra.Nhìn lại cái “bây giờ”
của Kiều chỉ thấy mất mát.”Trâm” và “gương” là biểu tượng của tình duyên ngày xưa.Thế nhưng giờ “Trâm”
đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả.Hình tượng ”Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan
vỡ.Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội,
thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, ”trân gãy gương tan”.Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm
trạng đối diện với Kiều.Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn
thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng
nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối
cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ.Truớc đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để
cầu xin em nối duyên với chàng.Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống
thiết.Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội.Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết
thức mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối.Câu:”Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà
thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi.Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận
của mình giữa cõi đời bất công:
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Đó là lời oán trách, lời than oán số phận “bạc như vôi” của mình.Lời than oán của Kiều không ai có thể trả
lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi!Rồi đây số phân
của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoađẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ
làng, không thể nào cứu vãn được nữa.”Nước chảy hoa trôi”là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là
tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây.Và lúc đó, trong những giây phút cuối
cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:
Oâi Kim Lang!Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặc.”Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình.Tiếng gọi
của nàng như một tiếng kêu chới với và tuyệt vọng bởi vì không có hồi âm.Kiều đã gắng gượng đến phút
cuối cùng, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng – tiếng kêu than oán, kêu cứu của một
người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến.Sau tiếng kêu não lòng ấy, Kiều ngất đi, kết thúc
cuộc trao duyên đầy chất trữ tình:”Cạn lời hồn ngất máu sau-Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời(“cạn lời”).Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh
biệt.Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay,
đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ.Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan
nơi chín suối.Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số
phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng vặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao
duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích
hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại, ……, làm cho đoạn”trao duyên” trở thành đoạn
thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều.Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Trao duyên - tiếng thơ của Nguyễn Du - tiếng lòng của nàng Kiều
--- Hà Quang Năng ---

Đoạn trích Truyện Kiều này có nhan đề "Trao duyên" gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) được in trong sách giáo
khoa môn Văn lớp 10. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương
Ông và Vương Quan bị bắt do có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan
lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả
nghĩa, lấy Kim Trọng.

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi
nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "Trao duyên", ở đây là gửi duyên, gửi tình của
mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng
đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay
mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của
Thúy Kiều.

Mở đầu đoạn thơ là 8 câu tâm sự của Thúy Kiều, về mối tình của mình với chàng Kim. Kể ra, với người xưa, một mối
tình thiêng liêng như Thúy Kiều - Kim Trọng thường được giấu kín trong lòng ít khi người ta thổ lộ với người thứ ba.
Vậy mà, ở đây, Thúy Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Hơn thế nữa, nàng phải lạy em như lạy một ân nhân, một
bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần như van vỉ:

Cậy em, em có chịu lời,


Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi gắm vào em.
Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng không phải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy.
Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như thế. Nguyễn Du thật tài tình, như
đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải
nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có
nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất
thì san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm
thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh
nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình,
Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cô gái vô
tư, thơ ngây trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn; không
chỉ hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.

Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ
của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu của nàng với chàng Kim,
dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó chính là em gái mình? Tình yêu đôi lứa vốn
có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc thoa với bức tờ mây, Phím đàn với mảnh hương nguyền...
vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật
thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho em, không còn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba
người. Đau xót làm sao khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng
đã trao cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim.
Nàng thuyết phục em mới khéo làm sao:

Ngày xuân em hãy còn dài,


Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối đoạn thơ
không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc cạn với em mới có thể
thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương
cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!

Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người yêu. Nỗi lòng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn
điều muốn nói với chàng, vẫn không làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với chàng; không giữ được trọn lời
thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên
phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ
em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa
Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng
đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã
giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình
duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc,
Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!


Thôi thôi thiếp dã phụ chàng từ đây!

Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ!

Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc thoại nội tâm
của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm trạng đau khổ của Thúy
Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi
sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?
Phân Tích,Cảm Nhận Về Đoạn Trích "Trao Duyên
____
Trao duyên, em hỏi, chị thưa...
“Lạy thưa”, “gửi lạy”...tình chưa đoạn tình!
Sao đã “trao”, đã “gửi” mà “tình chưa đoạn tình”?Cảm xúc này có thể lýgiải qua việc phân tích tâm
trạng bi kịch của Kiều trong đêm “traoduyên”.
Trước tiên, hãy hiểu Vân đôi chút, bởi lẽ Vân trực tiếp đối thoại, khơi gợi và chuẩn bị cho Kiều bộc lộ
tâm sự của mình.
Người ta hay nói rằng nàng Vân “vô tư”(?) có lẽ là ở chỗ này: cả nhàvừa mắc oan, mới “thong dong”
một chút, trong khi chị Kiều một mình mộtngọn đèn khuya: “Dầu chong thấm đĩa, lệ tràn thấm khăn”
thì em Vân hìnhnhư không chống nổi các quy luật sinh lý cho nên đã có một “giấc xuân”êm đềm!Song
đến cuộc trao duyên, bắt đầu ta nghe Vân “ân cần hỏi han”chị, ta lại nghĩ Vân chưa hẳn vô tình, những
điều cô hỏi chứng tỏ côhiểu đời, cái đời “dâu bể đa đoan”, biến động khôn lường...Cô biết nỗioan của
mình, oan “một nhà” mà cô nghĩ “để chị riêng oan”, cô ngủ mà côvẫn biết chị “ngồi nhẫn tàn canh, nỗi
riêng còn mắc mối tình chiđây?”.Nguyễn Du quả đã khéo sắp đặt: để cho Vân hỏi chị trước, hỏi vừađủ
mà “trúng đích”, hỏi thể tất “nhân tình”!Và trong suốt cuộc traoduyên, Vân chỉ hỏi mỗi một lần, rồi lẳng
lặng mà nghe...
Vậy ra Vân cũng hay đấy chứ, cô đã tỏ ra “biết chuyện” và đã khơi gợi,tạo cơ hội cho chị Kiều bày tỏ,
nhưng bày tỏ sao đây trong khi chị Kiều:
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Chị buộc phải trao duyên – cái duyên vợ chồng với Kim Trọng cho em!Chuyện ấy, “hở môi ra” đã
thẹn.Biết thẹn mà phải nói, nói để mà trao,sự tình đã đến thế thì chị phải thổ lộ thật, thổ lộ hết cùng
em.Thậtlòng là chị “đương thổn thức đầy”, “còn vương vấn mối này chưa xong”,thật lòng là chị ngượng,
vì vậy mà điều băn khoăn day dứt trắng đêmnay, chị gửi trong mấy lời thành thật:
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai
Ấy chính là cái gút của tâm trạng bi kịch trao duyên vừa là vấn đề “ứcxúc” đặt ra cho chị, và cho cả em
giải quyết.Vân thương chị, hẳn là cảmnhận được cái tâm, cái tình trong đó, và hẳn cô đã lờ mờ thấy chị
đangcó yêu cầu gì với mình đây...Thúy Kiều thật khó nói, mà lại khó nói hơnkhi phải nói một chuyện
mà mình không muốn nói – mà vẫn “phải” nói choem nghe, thật rối rắm, thật khó xử, thật là “đau đầu”
cho cả em lẫnchị...Đến nước này thì chị phải nhờ vả em thôi, em có hiểu khôngVân?Tâm trạng Kiều
thật sự bối rối, cách giải quyết của Kiều là sự họatđộng về tình cảm chị em mà thôi, chứ không phải là
lí trí:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Đến nước này thì chị phải cậy em thôi, chị tin rằng em sẽ bằng lònggiúp chị mà, “em có chịu lời” của
chị không?Câu thơ như van xin, nhưcầu khẩn, câu thơ đặt ra vấn đề cho Vân, và Kiều thăm dò ý của
em mình,ở đây Kiều không ép, mà Vân cũng chẳng phật lòng, càng dễ cảm thôngcùng chị, Kiều mới
yêu cầu em:
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Sao lại thế nhỉ?Theo tôi, có lẽ Vân cảm thấy đột ngột trước yêu cầunày.Người đọc thì cảm thấy như có
sự “thay bậc đổi ngôi”, có sự “hóanvị”, em bỗng như là chị, chị bỗng như là em (cúi mình “lạy”).Thì
rachính cái yêu cầu kia là xuất phát từ tình thế, tâm trạng chị: vìchuyện tình riêng, chị phải “lạy thưa”
em, “cậy” nhờ em, đương nhiên emsẽ là ân nhân của chị!Thúy Kiều lạy thưa là tỏ trước tấm lòng biết
ơncủa mình, và cũng là xuất phát từ sự trân trọng của mình trước chuyện“trao duyên” thiêng liêng, hệ
trọng này.Câu thơ trên gợi ý có tình, câuthơ dưới cầu khiến có tình, quả nhiên hai câu thơ có sức thuyết
phụcđặc biệt!
Kiều bắt đầu kể cho em nghe chuyện tình của mình với Kim Trọng:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Phải rồi, kể từ đó – từ khi gặp chàng Kim, chị đã có tình yêu và tìnhyêu đó ngày càng sâu đậm
hơn.Kiểu thổ lộ với em thật thà, không giấugiếm, thật trong sáng, tình yêu của Kiều là do thiên tính –
là do trờichỉ định, Kiều “quan niệm” tình yêu của mình khác với “quan niệm” phongkiến, đó là sự cảm
nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không là sựthức ép.Phải chăng, Nguyễn Du đã cho Kiều ít nhiều
nói lên sự tự do yêuthương của con người trong xã hội lúc đó?
Sau mấy câu kể vắn tắt chuyện tình riêng của Kim Trọng, Kiều tiếp tục thuyết phục em bằng cả lí, cả
tình:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vạn hai?
Từ tình cảm của mình, Kiều nói đến cái lí, cái lí phải chọn một tronghai điều để trọn vẹn một điều nào,
hi sinh điều nào.Kiều nghĩ Vân sẽ ắthiểu và hiểu thêm tâm trạng bi kịch của mình nữa.
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Em còn trẻ, em hãy thương chị mà thay chị lấy chàng Kim.Ấy chính làtình.Chỉ cần nói mấy tiếng “xót
tình máu mủ” là đủ xóay tận vào đáylòng em rồi.Mà em đã “xót tình máu mủ” thì làm sao có thể từ
chối “thaylời nước non”?Câu thơ nghe não lòng, nghe như có tiếng kêu thương thốngthiết khiến Vân
phải nghĩ đến bổn phận mình phải làm thế nào cho phải...
Kiều mới nói tiếp:
Cho dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Đó là những lời gan ruột của Kiều – một người chị bất hạnh.Lí, tình màKiều giãi bày thật tình như vậy,
Thúy Vân chỉ còn biết lẳng lặng mànghe, lẳng lặng mà chấp nhận!
Đây là nỗi đau lớn nhất và đầu tiên trong suốt cuộc đời của Kiều, chonên khi nhắc đến chàng Kim, Kiều
vô tình chạm vào nỗi đau sâu thẳm nhấtcủa mình, khiến cô tỏ ra bần thần, rối trí, không điều khiển
được mình:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Đọc câu thơ, ta nghe như có một giọng khang khác.Phải chăng, nội tâmcủa Kiều lúc này phức tạp hơn,
nên ngôn ngữ trở nên “bất bình thường”?Ở đoạn trên ta thấy, dù thuyết phục em bằng lí, bằng tình hay
bằng cảhai, thì vẫn là ngôn ngữ lí trí, giọng thơ đều đều, trầm trầm.Đến đâuthì lời thơ như nấc như
nghẹn, cái “gút” tâm trạng trên kia đã mở radường như được thắt lại ở chỗ này!Tại sao lại có sự khác lạ
trong lờinói vậy? Bởi do “chiếc thoa với bức tờ mây” đó thôi, nó là hiện diệncủa tình yêu! Cầm kỷ vật cụ
thể ở tay, trao cho em, Kiều bỗng thấy vụtlên hình ảnh Kim Trọng cùng bao kỷ niệm, thề nguyền...và
Kiều chợtnghĩ: vật này là của ta, chàng là của ta, sao lại thành của Vân? Có thểnào như vậy được? Tâm
lí Kiều lúc này cần một lời thỏa đáng, ít ra làđể tự an ủi mình.Cho nên câu thơ “Duyên này thì giữ vật
này của chung”là cả bao nhiêu sự giằng xé, níu kéo khủng khiếp trong tâm hồn, con timcủa Kiều,
Nguyễn Du quả thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong ý thơcủa mình.
Đến đoạn cuối cảnh trao duyên, nội tâm Kiều lại phức tạp hơn nữa.Ta hãynhớ lại: Trước cuộc trao
duyên Kiều đã tự cho mình có lỗi với KimTrọng. Nàng vốn là người giàu tình, đa cảm, dễ ứng
mộng...Nàng cũng đãtự gọi mình là người “mệnh bạc”.Bây giờ đang trong nỗi đau mất mátkhủng khiếp,
bỗng nhiên nàng thấy mình đáng thương nhất, đau đớn nhất,u uất nhất, cay cực nhất.Rồi như người
mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồnthi bay xa xăm tận mai sau...Miệng đang nói với em mà như hồn nói
vớihồn những điều hình dung, dự báo về “mai sau”!
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trôn ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai...
Thì ra, cái hồn vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng! Hồn Kiều còn múon về để“đền nghì trúc mai” để được “rảy
xin chén nước” tẩy oan cho hồn! Câuthơ nghe mới não lòng làm sao! Và dễ sợ làm sao! Nguyễn Du
thương conngười thác oan, bạc mệnh hay Nguyễn Du nhạy cảm với nỗi đau nhân tìnhmà đã đi xa hơn
Thanh Tâm Tài Nhân? Nguyễn Du cho ta thấy cái “hồn”Kiều
Phân Tích,Cảm Nhận Về Đoạn Trích "Nỗi Thương Mình"
_______
Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàncảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm
kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìntrinh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách
tốithiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏibị mai một được? Làm thế
nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cáicảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn thể hiện được
nhân cách củanhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lênđược sự đau khổ,
thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệthuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt
tinh thần nhân đạomới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thươngmình”.
“Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lạicho em là Thúy Vân, Kiều đã trải
qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy,Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn
nhất cólẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặtbẻ ngang cuộc đời Thúy
Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà,Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu
Ngưng Bích, Kiều lạimắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên:“Thân lươn bao
quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếpđó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của
nàng trong vai trò kĩ nữ -gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui
chonhững kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiềutrong thời gian ấy.
Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tàinhân thì trọng tâm của đoạn
này: một mặt là bài ca kể về thân phận ThúyKiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng
ý tiếp khách,mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du,cách xử lí nghệ
thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xửlí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và
chủ nghĩa nhân đạo mớimẻ của nhà thơ.
Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòngtê tái”. Trong sách giáo khoa
mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câunhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng
hơn làđoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ýthức về thân phận, phẩm giá
của nàng Kiều – ý thức thương thân, xótthân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.
Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáomột cách sâu sắc nơi đã vùi dập
Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũnglà một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang
sống với tấtcả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanhnhưng làm sao cho sự
miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độcgiả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân
cách, phẩm giá của nhânvật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với nhữngxử lí
nghệ thuật độc đáo của mình.
Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giớithiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều,
“khi tỉnh rượu… nào biết có xuân làgì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và
đoạncuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giácủa Kiều.
Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với
những đặc trưng của nó:
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.
Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thànhmột công cụ nghệ thuật
đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sựthật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này
là một côgái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tìnhcảnh và thân phận của
Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hềđược miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc say
đầy tháng, trận cườisuốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc,Trường Khanh”
– chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Duđã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ
thuật đặc biệt: viết vềcảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử línghệ thuật
này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫntả thực, không né tránh hiện thực và cảnh
sống thực tế của nhân vậtchính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính
ThúyKiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành chonhân vật. Thái độ này là
nhất quán trong tác phẩm.
Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽnhận thấy sự mâu thuẫn ẩn
chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầytháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn
nhịp củalầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vàodịp “được mùa”, “đắt
khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cảnhững giá trị của con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn
vùi không biếtbao nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phầncủa bức tranh
XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại màNguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ
19. Xã hội ấy cũng đã đượcnói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê
nhấtthống chí, Cung oán ngâm…
Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạocủa Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ
nhất được thiết lập bằng cách tách hai từghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ
thể hóa hơnnét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp.Tiếp theo là đối
xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cườisuốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường
Khanh… kết hợp với những từchỉ số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của mộtcuộc
sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ“trận” để nói về trận đánh, trận mắng
chửi chứ không ai nói là “trậncười”. Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép
buộc,đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.
Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lậpnghiệt ngã: một bên là nước
mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say,trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù
chưa được miêutả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốcvô hình, bị buộc
vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệtngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân
phận bẽ bàng của người kỹ nữ.Nguyễn Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước
lệrất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làmcho sự hồi tưởng kiếp sống đớn
đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vìchỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội
tâm nhânvật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịuđựng giày vò đáng
thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấmlòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành
cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh cónhiều người đàn bà, có thể họ an
tâm, yên phận và cam chịu với nghềnghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân phẩm quá
đỗicao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềmtrướng rủ màn che” bỗng
nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót

You might also like