Professional Documents
Culture Documents
1696 - 1787
Tổ phụ
ngày 1 tháng 8
một số bài thánh ca khác. Ngài hoàn tất bậc đại học với bằng
tiến sĩ cả luật đạo lẫn đời rồi bắt đầu hành nghề luật sư.
Sau một quá trình nhận thức dài, năm 1723, ngài bỏ nghề
luật. Dù gặp sự phản đối rất mạnh của thân phụ, ngài vẫn theo
chương trình chủng viện và được trao sứ vụ linh mục ngày
21.12.1726 ở tuổi 30. Ngài sống năm đầu đời linh mục với
những kẻ vô gia cư, những người trẻ sống bên lề xã hội ở
Naples. Ngài lập những “nhà nguyện ban đêm” do chính những
người trẻ điều hành. Đó là những điểm cầu nguyện, sinh hoạt,
chia sẻ Lời Chúa, hoạt động xã hội và giáo dục. Vào lúc ngài
mất, có 72 nhà nguyện như thế cùng với hơn 10 ngàn thành
viên.
Năm 1729, cha An-phong rời gia đình dọn vào ở trong Học
viện người Hoa. Ở đó, ngài nếm trãi công việc thừa sai cho
người Hoa ngay trong lòng vương quốc, nơi ngài gặp thấy
những người nghèo, bị bỏ rơi hơn bất cứ đứa trẻ đường phố nào
ở Naples.
Thánh An-phong yêu chuộng cái đẹp: âm nhạc, hội họa, thơ
văn. Ngài vận dụng mọi sáng tạo văn chương nghệ thuật phục
vụ cho việc rao giảng, và ngài yêu cầu những ai cộng tác với
nhà dòng cũng hãy làm như thế. Ngài viết 111 tác phẩm thần
học và linh đạo. Với 21500 lần in và tác phẩm được dịch ra 72
thứ tiếng, ngài là một trong những tác giả được nhiều người đọc
nhất. Những tác phẩm nổi tiếng nhất là: Tầm quan trọng của
việc cầu nguyện, Thực hành yêu mến Chúa Giê-su Ki-tô, Vinh
quang Mẹ Maria, Viếng Thánh Thể.
Cầu nguyện, yêu thương, kết hiệp với Chúa Ki-tô, kinh
nghiệm mục vụ trực tiếp đụng chạm với những nhu cầu của các
tín hữu làm cho thánh An-phong trở nên bậc thầy vĩ đại về đời
sống tâm linh.
Sự đóng góp lớn lao nhất của thánh An-phong cho Giáo Hội
nằm trong lãnh vực thần học luân lý. Suy tư của ngài phát sinh
từ kinh nghiệm mục vụ, đáp ứng cho những vấn đề thực tế hàng
ngày được đặt ra từ phía đoàn chiên. Ngài chống lại thói nệ luật
cứng nhắc, thứ luân lý không sức sống; ngài loại bỏ chủ trương
khắt khe thời ấy ... là sản phẩm của một hàng giáo sĩ sính
quyền lực. Theo thánh An-phong, đó không phải là con đường
dẫn người ta đến Tin Mừng, vì “sự sợ hãi như thế chẳng bao giờ
được dạy dỗ cũng như thực hành trong Hội Thánh”. Ngài biết
cách làm thế nào để đưa những suy tư thần học vào phục vụ
cho sự cao thượng và phẩm giá của con người, cho một lương
tâm trong sáng, và cho lòng thương xót của Tin Mừng.
Năm 1950, Quan thầy các cha giải tội và các nhà luân lý.
Karl, anh trai của Hansl gia nhập đội kỵ binh Hungary chống
lại quân Thổ. Dù chưa đủ tuổi, Hansl cũng muốn khoác đồng
phục xanh dương viền bạc, đội mũ lưỡi trai nỉ màu nâu viền đỏ
như anh. Nhưng cậu còn nhìn về một hướng khác. Khi giúp lễ
cậu tưởng tượng mình là linh mục đang đứng ở bàn thờ, trang
trọng trong bộ áo lễ, hướng dẫn đông đảo giáo dân thờ phượng
và cầu nguyện với Chúa.
Hansl bắt đầu học tiếng La-tinh ở nhà xứ. Cha xứ là một linh
mục già tốt bụng, nhận ra hạt giống ơn gọi nơi cậu bé nhà
Hofbauer. Hằng ngày thầy trò già trẻ gặp nhau để học tiếng La-
tinh. Đó là bước đầu tiên trên con đường dài tiến tới chức linh
mục. Giai đoạn học hành này chấm dứt đột ngột với cái chết của
vị mục tử, lúc Hansl mới 14 tuổi. Cha xứ mới không có giờ giúp
cậu học tiếng La-tinh.
Không thể tiếp tục học làm linh mục, Hansl phải học một
nghề. Năm 1767, cậu học việc ở một hiệu bánh. Năm 1770,
Hansl đến làm bánh tại tu viện Premonstratensian của các tu sĩ
dòng thánh Norbert (còn gọi là dòng Kinh Sĩ Trắng) ở Kloster
Bruck. Vào lúc ấy, hậu quả chiến tranh và đói kém đang kéo
nhiều kẻ đói khát, vô gia cư đến tu viện xin giúp đỡ. Hofbauer
làm việc ngày đêm để cung cấp lương thực cho đám dân nghèo
đến gõ cửa tu viện. Khi mà con đường linh mục vẫn bế tắc thì
đây lại là cơ hội để Hofbauer cộng tác vào công việc cung cấp
cơm bánh cho dân Chúa.
Ngài trở về quê, sống như một nhà tu khổ hạnh, ẩn dật tại
Muehlfraun trong 2 năm, buộc mình trong chay trường nhiệm
nhặt, thực hành khổ chế và cầu nguyện lâu giờ trong đêm. Vì sự
nài nỉ của mẹ, ngài rời nơi ẩn dật, một lần nữa trở về với nghề
làm bánh. Ngài làm việc tại một hiệu bánh danh tiếng ở Vienna,
và tại đây, ngài gặp được hai mệnh phụ đã giúp đỡ ngài nhiều
nhất.
Một tháng sau lễ thụ phong, hai cha Dòng Chúa Cứu Thế
người nước ngoài này được Cha Bề Trên Tổng Quyền De Paola
mời đến. Họ được lệnh vượt qua dãy Alps, trở về quê hương để
lập Dòng tại Bắc Âu. Đây là công việc khó khăn và bất thường
đối với hai linh mục mới vừa chịu chức. Theo thánh An-phong,
hội dòng mà vượt ra khỏi dãy Alps là bằng chứng chắc chắn
rằng Dòng Chúa Cứu Thế sẽ tồn tại cho đến ngày tận thế. Còn
đối với thánh Clement, đó là ước mơ thành sự thật.
Tình hình chính trị không cho phép Clement tiếp tục ở lại
trên quê hương mình. Hoàng đế nước Áo đóng cửa hơn 1000 tu
viện và các nhà tu kín, không cho phép nhận tu sĩ mới để lập
thêm nhà. Thấy thế, hai tu sĩ Chúa Cứu Thế đi qua Ba-lan.
Tháng 2 năm 1787, họ đến Warsaw, thành phố 124.000 dân. Dù
có đến 160 nhà thờ với hơn 20 tu viện nam nữ, nhưng nói một
cách chung chung thì nó là một thành phố vô thần. Dân chúng
nghèo và thất học, nhà cửa của họ cần sửa chữa. Nhiều người
Công giáo đã chuyển qua Hội Tam Điểm. Những giáo dân và linh
mục đạo đức và trung thành chịu nhiều đau khổ. Trong 20 năm,
thánh Clement và cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế nhỏ bé của
ngài đã chia sẻ những đau khổ này với Chúa và với các tín hữu
Ba-lan.
Khi Clement đến vào năm 1787, Ba-lan đang ở vào thời
chính trị vô cùng rối ren. Vua Stanislaus II thực tế chỉ là bù
nhìn trong tay Nữ hoàng Catherine II của Nga. Trước đó, năm
1772, đã xảy ra việc Áo, Nga, Phổ chia nhau Ba-lan lần đầu
tiên. Việc chia cắt tương tự như thế lại xảy ra một lần nữa vào
năm 1793, rồi lần thứ ba vào năm 1795. Napoleon và đội quân
chinh phục hùng mạnh đi khắp châu Âu càng làm tình hình
chính trị thêm căng thẳng. Hai mươi mốt năm Clement ở
Warsaw là thời gian hòa bình không dễ có.
Trong hành trình đi đến Ba-lan, hai linh mục Dòng Chúa Cứu
Thế có thêm Peter (nay gọi là Emmanuel) Kunzmann, một bạn
làm bánh đã từng đồng hành với Hansl trong một cuộc hành
hương. Đây là vị tu huynh đầu tiên không phải là người Ý. Họ
cùng nhau đến Warsaw không một xu dính túi. Clement có 3
đồng bạc cuối cùng thì đã cho các kẻ ăn xin dọc đường. Họ gặp
vị đại diện các tông đồ: Tổng giám mục Saluzzo, người giao cho
họ trông coi nhà thờ St. Benno's để phục vụ giáo dân Warsaw
nói tiếng Đức. Học ngôn ngữ mới, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế
bắt đầu mở rộng công việc tông đồ trong vùng St. Benno's.
Mỗi khi Clement thấy một trẻ đường phố thì ngài mang về
nhà xứ, tắm rửa, cho ăn uống, dạy nghề và hướng dẫn nó sống
đời Ki-tô hữu. Đến khi chúng tăng lên quá nhiều, nhà xứ không
còn đủ chỗ chứa, Clement mở ra Mái Ấm Chúa Hài Đồng.
Nuôi trẻ ăn, cho chúng mặc, ngài phải thường xuyên đi xin
mà không ngượng ngùng. Có lần đến một tiệm bánh để mua
bánh mì, ngài biết tiệm đang trong tình trạng thiếu thợ. Thế là
Clement trổ hết tài nghệ của mình cả ngày tại máng nhào bột
và lò nướng bánh. Nhờ vậy ngài có bánh cho trẻ ngày hôm đó
và cho nhiều ngày tới nữa.
Một trường hợp khác, chuyện kể lại rằng ngài đến một quán
rượu trong vùng để xin. Khi Clement mở lời xin giúp đỡ, một
trong những người khách khinh miệt tạt bia vào mặt Clement.
Chùi bia trên mặt, ngài đáp: "Đó là phần của tôi, bây giờ anh có
gì cho các con trai tôi không?". Những người trong quán rượu
sửng sờ kinh ngạc vì câu trả lời như Đức Ki-tô ấy. Họ đã cho
Clement hơn 100 xu bạc.
Ngày các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế mở cửa lại nhà thờ, họ
dạy dỗ cho những băng ghế trống ! Có nhiều chuyện đã làm dân
chúng xa Chúa, và họ cũng khó mà đặt niềm tin vào mấy ông
linh mục nước ngoài ! Phải mất vài năm các tu sĩ mới chiếm
được con tim của giáo dân. St. Benno's trở nên một trung tâm
nhộn nhịp của Giáo hội Công giáo tại Warsaw.
Năm 1791, bốn năm sau khi các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế
đến, mái ấm của trẻ em đã thành một trường tư. Một trường nội
trú cũng được mở ra cho các thiếu nữ do một số mệnh phụ quý
phái Warsaw trực tiếp chăm sóc. Số trẻ mồ côi đến ngày càng
đông. Tiền bạc để trung tâm hoạt động được một số ân nhân
thường xuyên và nhiều người khác giúp đỡ bằng đủ mọi cách,
nhưng thánh Clement vẫn phải đi xin hết nhà này sang nhà
khác, tìm miếng ăn cho trẻ mồ côi.
Trong nhà thờ, Clement cùng với 5 linh mục và 3 thầy trợ sĩ
bắt đầu phổ biến lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Thay vì
chỉ có lễ sáng hàng ngày, họ có một chương trình phủ kín cả
ngày, trong cả năm. Hàng ngày bạn có thể đến St. Benno's và
biết chắc rằng mình sẽ được nghe 5 bài giảng bằng cả hai thứ
tiếng Đức và Ba-lan. Có 3 thánh lễ cử hành long trọng, giờ kính
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Đầy Ơn Phúc, giờ Chầu Thánh Thể, đi
Đàng Thánh Giá, Kinh chiều, các giờ cầu nguyện và các giờ đọc
kinh. Có linh mục sẵn sàng giải tội bất cứ lúc nào, ngày cũng
như đêm.
Tất cả mọi công việc đều được làm trong tình trạng thiếu
điều kiện. Đất nước Ba-lan chia ba khiến hao tổn xương máu
trầm trọng. Kosciusco, nhà chiến đấu vĩ đại cho tự do của Ba-
lan cũng có những lúc thắng thế, nhưng dân chúng thì chẳng
thể nào cầm cự nổi trước đông đảo quân ngoại quốc xâm lăng.
Chiến tranh đến với Warsaw vào những ngày tuần thánh năm
1794. Các tu sĩ và tất cả cư dân trong thành phố sống sót qua
cơn nguy biến kéo dài. Ba quả bom rơi xuyên qua mái nhà thờ
nhưng không nổ. Trước những trận giao tranh, thánh Clement
và anh em kêu gọi hòa bình. Điều này chỉ làm tăng thêm tiếng
la ó thề chống lại các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế vốn đã bị dán
nhãn hiệu là bọn phản bội.
Sự tấn công ở mặt thứ hai còn đau đớn hơn cả mặt thứ nhất.
Đó là sự tấn công của những người bỏ Giáo Hội gia nhập Hội
Tam Điểm. Họ họp lại thành những nhóm bí mật chống lại người
Công giáo, làm hại các linh mục, đóng cửa nhà thờ khiến cho
việc thờ phượng công khai chấm dứt.
Cái chết của cha Thaddeus Huebl, người bạn thân cùng lớp,
còn làm thánh Clement choáng váng hơn. Người ta giả vờ mời
cha Huebl đến thăm một bệnh nhân. Vài giờ sau, ngài bị ném ra
khỏi cỗ xe ngựa đang chạy nhanh sau khi đã bị đánh đập tả tơi.
Vài ngày sau đó, ngài qua đời. Clement vô cùng đau đớn nhìn
bạn ra đi. Bây giờ ngài sẽ phải đi một mình.
Bị công kích liên tục, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế trở thành
đề tài cho những trò cười trong nhà hát. Các linh mục Ba-lan
không làm việc chung nữa. Sau 20 năm xây đắp niềm tin cho
dân chúng ở Warsaw, họ bị rình rập, quấy rối, tấn công. Năm
1806, luật cấm các cha xứ không được phép mời Dòng Chúa
Cứu Thế đến giảng tại xứ mình được thông qua. Luật này theo
sau một khoản luật khác còn giới hạn hơn nữa: không được
giảng dạy và giải tội tại St. Beno's.
Thánh Clement phản đối những phán quyết như thế trực
tiếp với vua nước Đức đang cai trị Ba-lan. Dù biết những điều
tốt đẹp Dòng Chúa Cứu Thế đang làm nhưng ông không đủ sức
mạnh để chận lại ý muốn của nhiều người thuộc các nhóm Tam
Điểm và Jacobin. Họ muốn trục xuất Dòng Chúa Cứu Thế khỏi
Ba-lan. Lệnh trục xuất được đóng ấn vào ngày 9 tháng 6 năm
1808. Mười một ngày sau, nhà thờ St. Beno's đóng cửa, 40 tu sĩ
bị giam. Họ sống bốn tuần trong tù rồi được lệnh trở về quê
quán.
Vào đầu thế kỷ 19, Vienna là trung tâm văn hóa lớn của
châu Âu. Clement vui lòng mất thì giờ với sinh viên và giới trí
thức. Họ đến nhà ngài, cá nhân hay nhóm, trò chuyện, cơm
nước chung với nhau. Họ tham khảo ý kiến ngài. Sau này, nhiều
người trong số họ trở thành tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế. Ngài
mang nhiều người giàu có và nghệ sĩ về với Giáo hội, trong số
đó có Frederik và Dorothy von Schlegel (cô là con gái
Mendelssohn, người đi tiên phong trong trường phái lãng mạn);
nghệ sĩ Frederick von Klinkowstroem; Joseph von Pilat, bí thư
của Metternich; Frederick Zachary Werner sau này chịu chức
linh mục và trở thành một nhà giảng thuyết lừng danh và
Frederik von Held sẽ là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, sau này mang
nhà dòng đi đến tận Ai-len.
Vậy là thay vì lệnh trục xuất, Hofbauer lại được yết kiến
hoàng đế Franz. Kế hoạch nhanh chóng được hình thành. Một
nhà thờ được chọn và tu sửa để trở thành tu viện Dòng Chúa
Cứu Thế đầu tiên tại Áo. Nhưng sự khởi đầu ấy đã không có
Clement. Ngài lâm bệnh vào đầu tháng 3 năm 1820 và chết
ngày 15 tháng 3 năm đó. Như Mô-sê trong lịch sử Do-thái, ông
đã đưa dân đến đất hứa nhưng chính mình lại không còn sống
để vào. Thánh Clement chết mãn nguyện biết rằng ước mơ thứ
hai của ngài đã thành hiện thực.
Kết luận
Giản đơn chính là nét đặc biệt trong sự thánh thiện của
Clement. Khi thánh ý Chúa đến, ngài đón nhận và làm tất cả
mọi điều tốt lành có thể làm. Ngài sống thanh khiết và hết lòng
phục vụ cho vinh quang Thiên Chúa và lôi kéo những người
khác đến thờ phượng Người. Với một đường lối đơn giản để nên
thánh, thánh Clement là gương mẫu cho tất cả chúng ta.
THÁNH GIÊ-RA-ĐÔ
1726 - 1755
Tu huynh
ngày 16 tháng 10
rằng mình sẽ là tôi tớ phục vụ cho Đức Giám Mục giáo phận
Lacedonia của ngài. Bạn hữu can ngăn, vì đức cha thường
xuyên giận dữ quát mắng vô cớ khiến đầy tớ không ai chịu nổi
hơn vài tuần. Không đến nổi nào đối với Giê-ra-đô. Ngài làm đủ
mọi việc, và làm cho đến khi đức cha qua đời: 3 năm ! Giê-ra-đô
làm bất cứ việc gì, chỉ cần tin rằng đó là ý Chúa. Bị giám mục
hay thợ cả đánh đập la mắng, dù đúng sai thế nào ngài vẫn
chấp nhận, vì ngài thấy chịu đau khổ như thế là bắt chước Đức
Ki-tô. Ngài nói: “Chúa muốn điều tốt cho tôi”, rồi ngài đến quỳ
trước Thánh Thể lâu giờ, trước bí tích Chúa Giê-su chịu nạn và
phục sinh.
Năm 1745, 19 tuổi, ngài trở về Muro mở hiệu may của mình.
Công việc làm ăn phát đạt nhưng chủ tiệm không có lắm tiền vì
hay làm phúc. Ngài để riêng số tiền cần thiết cho mẹ và các em,
còn lại thì cho người nghèo hoặc xin lễ cầu nguyện cho các linh
hồn nơi luyện ngục. Cuộc sống cứ thế trôi đi, không có chuyển
biến gì ngoại trừ lòng mến của Giê-ra-đô ngày một tăng tiến
vững chắc hơn. Mùa chay 1747, ngài dốc quyết trở nên giống
Chúa Ki-tô hết sức có thể. Ngài thực hành khổ chế nhiệm nhặt
và tìm sự khiêm hạ thật sự: giả vờ điên và lấy làm vui khi bị
thiên hạ cười nhạo trên đường phố.
Muốn hoàn toàn phục vụ Chúa, ngài đi theo các thầy dòng
Capuchin nhưng các thầy không nhận. Ở tuổi 21, ngài cố gắng
sống như một nhà tu khổ hạnh. Ngài muốn nên giống Chúa Ki-
tô đến độ chụp ngay lấy một vai chính trong hoạt cảnh Thương
Khó thật sống động trình diễn tại Vương Cung thánh đường
Muro.
Vào năm 1749, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đến Muro. Có
15 vị thừa sai và họ cuốn hút 3 xứ đạo của thị trấn nhỏ này.
Giê-ra-đô theo sát công việc của các cha các thầy và xác quyết
đây đúng là cuộc sống của ngài. Ngài muốn theo đoàn nhưng
cha bề trên Cafaro không nhận vì lý do sức khỏe. Giê-ra-đô nài
nỉ họ đến nỗi khi sắp rời thị trấn, cha Cafaro phải đề nghị gia
đình khóa cửa nhốt chàng lại trong phòng.
Một việc xảy ra gây xúc động nhiều thanh niên sau này:
Giê-ra-đô buộc khăn trải giường lại, thòng xuống, trèo qua cửa
sổ đi theo các thừa sai. Phải đi vội vả 12 dặm ngài mới bắt kịp
họ. Giê-ra-đô nói: “Cho con đi với, cho con thử đi, nếu con
không tốt thì hãy trả con về”. Cha Cafaro không thể làm gì hơn
trước tình cảnh như thế, ngài cho Giê-ra-đô một “cơ hội”. Cha
gởi Giê-ra-đô đến cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế ở Deliceto,
trong thư giới thiệu, ngài viết: “Con gởi đến cho các cha một
người mà theo con chẳng làm được việc gì ...”
Giê-ra-đô cảm thấy hoàn toàn yêu thích lối sống mà thánh
An-phong, đấng sáng lập dòng đã vạch ra. Ngài bị thôi thúc
khám phá tình yêu của Chúa Giê-su Thánh Thể, và ngài cũng
mến yêu Mẹ Maria không kém.
Câu “chẳng làm được việc gì” của cha Cafaro chừng như
không đúng nữa. Giê-ra-đô làm việc rất siêng năng, những năm
sau đó ngài làm đủ thứ việc: làm vườn, ông từ nhà nguyện, thợ
may, khuân vác, đầu bếp, thợ mộc, đốc công coi việc xây dựng
nhà ở Caposele. Giê-ra-đô học hỏi rất nhanh, đi thăm xưởng
chạm khắc gỗ chẳng bao lâu, ngài trở nên một tay khắc tượng
chịu nạn nhà nghề. Ngài là kho báu của cộng đoàn, nhưng ngài
chỉ có một khát vọng: làm theo ý Chúa trong mọi sự.
Năm 1754, khi cha linh hướng yêu cầu thầy Giê-ra-đô viết
điều thầy mong ước hơn hết, thầy viết: “Yêu Chúa nhiều, luôn
hiệp nhất với Chúa, làm mọi sự vì Chúa, yêu mọi sự vì Chúa,
chịu nhiều đau khổ vì Chúa, công việc duy nhất của con là làm
theo ý Chúa”
Đối với thánh Giê-ra-đô, thật chẳng dễ gì lấy công việc nặng
nhọc phần xác mà đổi được việc đọc kinh cầu nguyện phần hồn,
nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ so với chuyện bị tước mất Thánh
Thể. Ngài cảm thấy mất mát đến độ xin đừng cho ngài giúp lễ
nữa, kẻo ước muốn được rước Chúa khiến ngài cướp mất Mình
Thánh Chúa trên tay cha chủ tế.
Một thời gian sau, cô Neria lâm bệnh nguy kịch, cô viết một
bức thư cho thánh An-phong thú nhận tội vu khống của mình.
Thánh An-phong lòng tràn ngập mừng vui vì con cái mình vô
tội. Nhưng Giê-ra-đô đã chẳng ngã lòng trong cơn thử thách thì
nay cũng chẳng lấy làm phấn chấn lắm khi được chứng minh là
vô tội. Trong cả hai giai đoạn, ngài cảm thấy ý Chúa được vẹn
tròn, đối với ngài như thế là đủ.
Thánh Giê-ra-đô thường rơi vào trạng thái ngất trí khi cầu
nguyện hay khi ước muốn thiết tha kết hợp với Chúa. Trong
những lúc như thế, cả người ngài được nhắc lên khỏi mặt đất.
Có những ghi nhận đáng tin cậy chứng minh rằng hơn một lần
ngài có mặt và trò chuyện ở hai nơi khác nhau cùng một lúc.
Việc ngài nâng đỡ các bà mẹ đã bắt đầu rồi, ngay khi ngài
còn sống. Một lần nọ, khi từ giã gia đình người bạn là Pirofalo,
cô con gái trong nhà chạy theo đưa cho ngài chiếc khăn ngài bỏ
quên. Lúc ấy Giê-ra-đô nói tiên tri: “Cứ giữ nó đi, một ngày nào
đó cháu sẽ cần nó”. Cái khăn ấy được giữ như một vật kỷ niệm
quý giá. Sau này, cô gái ấy có nguy cơ chết khi sinh con. Cô nhớ
lại lời thánh Giê-ra-đô và nhờ người mang lại cho cô tấm khăn
ấy. Hầu như ngay lập tức cơn nguy hiểm qua đi và cô sinh con
khỏe mạnh. Trong một trường hợp sinh khó khác, bà mẹ xin
mọi người đọc kinh kính thánh Giê-ra-đô thì cả hai mẹ con an
toàn qua cơn nguy hiểm.
Với thể chất yếu ớt, rõ ràng thánh Giê-ra-đô không thể sống
thọ. Năm 1755, xuất huyết trầm trọng và bệnh lỵ đã bắt lấy
ngài. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, nhưng ngài vẫn còn nợ
anh em một bài học quan trọng về sức mạnh của đức vâng
phục. Bề trên ra lệnh cho ngài phải khỏe lại, nếu đó là ý Chúa.
Lập tức bệnh của ngài dường như biến mất, ngài rời khỏi giường
và lại tiếp tục công việc bình thường với anh em. Tuy nhiên,
ngài biết sự chữa lành này chỉ là nhất thời và ngài chỉ còn sống
được hơn một tháng nữa thôi.
Chẳng bao lâu ngài lại trở về giường bệnh và bắt đầu chuẩn
bị cho cái chết của mình. Ngài không còn nhận ra ý Thiên Chúa
chút nào nữa, những giòng chữ này được ghi trên cửa: “Tại đây
ý Thiên Chúa được thi hành, khi Người muốn và như Người
muốn”. Thường thì ngài muốn nghe đọc lời nguyện này: “Lạy
Chúa, con muốn chết để làm theo thánh ý Chúa”. Trước nửa
đêm 15.10.1755 một chút, linh hồn trong trắng của thánh Giê-
ra-đô về với Thiên Chúa.
Lúc thánh Giê-ra-đô qua đời, thầy coi nhà nguyện, theo sự
sôi nổi của mình đã đánh chuông lễ thay vì chuông báo tử. Hàng
ngàn người đến viếng “ông thánh của họ” và cố gắng tìm một
chút kỷ vật của người đã thường giúp đỡ họ. Sau cái chết của
thánh Giê-ra-đô, trên khắp nước Ý, người ta bắt đầu thuật lại
các phép lạ ngài đã làm. Năm 1893, Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII
phong Chân Phúc cho ngài. Ngày 11.12.1904. Đức Giáo Hoàng
Pi-ô X đặt ngài lên hàng hiển thánh.
1811 - 1860
Giám mục
ngày 5 tháng 1
chúng ta bây giờ, nhưng Bohemia khi ấy đã tràn ngập linh mục.
Gio-an viết thư đến các giám mục khắp châu Âu, nhưng đây là
tình trạng chung ở khắp nơi, chẳng ai muốn có thêm giám mục
nữa. Gio-an chắc chắn mình có ơn gọi linh mục nhưng dường
như mọi cánh cửa dẫn đến đó đều đóng trước mặt ngài.
Không bỏ cuộc. Ngài học tiếng Anh bằng cách làm việc
trong một nhà máy có công nhân nói tiếng Anh để có thể viết
thư cho các giám mục ở Mỹ. Cuối cùng, giám mục New York
đồng ý phong chức cho ngài. Để bước theo tiếng gọi của Thiên
Chúa trong chức linh mục, Gio-an phải rời bỏ quê hương mãi
mãi, vượt đại dương đến một vùng đất mới đầy gian khó.
Vì công việc và cũng vì giáo xứ của ngài lẻ loi đơn độc nên
cha Gio-an mong được liên lạc và gia nhập Dòng Chúa Cứu Thế,
một hội dòng gồm các linh mục và tu huynh tận tụy lo cho
người nghèo và những người bị bỏ rơi nhất.
Là linh mục đầu tiên vào Dòng tại Mỹ, ngài khấn dòng tại
Baltimore ngày 16 tháng giêng năm 1842.
Ngay từ buổi đầu, ngài đã được anh em hết lòng kính trọng
vì sự thánh thiện rõ nét, sự nhiệt thành và nhã nhặn của ngài.
Khả năng biết 6 thứ tiếng khiến ngài thích ứng đặc biệt với
công việc trong xã hội Mỹ đa ngôn ngữ vào thế kỷ 19.
Các nhà ở Mỹ thuộc về tỉnh Bỉ. Cha Frederick von Held, giám
tỉnh Bỉ, đã nói về ngài thế này: "Ngài là một người rất đáng kính
trọng, vừa có lòng đạo đức, vừa mạnh mẽ và khôn ngoan".
Neumann cần những phẩm chất ấy trong hai năm tại vị, khi mà
muốn đặt nền tảng cho Dòng Chúa Cứu Thế tại Mỹ thì phải nổ
lực chỉnh đốn lại. Lúc ngài trao gánh nặng cho cha Bernard
Hafkenscheid, Dòng Chúa Cứu Thế Mỹ đã được chuẩn bị tốt hơn
để trở thành một tỉnh độc lập vào năm 1850.
Trong số hơn 80 nhà thờ được xây dựng trong giáo phận,
phải kể đến Vương cung thánh đường Phê-rô và Phao-lô mà
ngài khởi xướng.
Thánh Gio-an Neumann vóc người nhỏ bé, chẳng bao giờ
thấy dồi dào sức khỏe, nhưng với cuộc sống ngắn ngủi, ngài lại
làm được những việc lớn lao. Cùng với bổn phận mục vụ, ngài
còn dành được thì giờ cho hoạt động văn chương đáng lưu ý.
Ngài viết nhiều bài cho các nhật báo Công giáo cũng như
cho các tạp chí định kỳ. Ngài xuất bản hai quyển giáo lý. Vào
năm 1849, quyển lịch sử Kinh thánh viết cho các trường học ra
đời.
Ngài liên tục hoạt động cho đến hơi thở cuối cùng.
Ngày 5 tháng giêng năm 1860 (48 tuổi) ngài ngã xuống
trên một con đường trong thành phố thuộc giáo phận và qua
đời không kịp nhận các bí tích sau hết.
1809 - 1887
Linh mục
ngày 14 tháng 1
Khi còn đang học thần học, ngài đã được bề trên chủng viện
hướng tới sứ vụ tại Surinam, thuộc địa của Hà Lan. Ngài đến
Paramaribo, thành phố chính của Surinam ngày 16 tháng 9 năm
1842 và thích nghi ngay với công việc mục vụ ở đây, nơi sẽ giữ
lấy ngài cho đến chết. Bổn phận trước tiên của ngài là viếng
thăm thường lệ các đồn điền dọc theo những con sông, nơi ngài
dạy dỗ và cử hành các bí tích chủ yếu cho dân nô lệ. Những bức
thư ngài viết bày tỏ sự bất bình của ngài khi thấy dân châu Phi
bị đối xử khắc nghiệt, buộc phải làm việc trong các đồn điền.
Năm 1856, ngài được gởi đến trại phong Batavia. Đây là nơi
cha Donders làm việc cho đến cuối đời, rất ít khi bị gián đoạn.
Lòng mến của ngài không chỉ giới hạn trong việc mang lại ơn
phúc về mặt tôn giáo cho bệnh nhân nhưng còn thể hiện trong
việc đích thân chăm nom họ cho đến khi thuyết phục được các
nhà cầm quyền cung cấp cho họ các dịch vụ chăm sóc thích
đáng. Bằng nhiều cách, ngài cải thiện điều kiện sinh sống của
bệnh nhân phong qua việc vận động nhà cầm quyền thuộc địa
lưu tâm đến nhu cầu của họ. Khi Dòng Chúa Cứu Thế đến truyền
giáo tại Surinam vào năm 1866, cha Donders và một linh mục
bạn của ngài vào Dòng.
Hai ứng sinh sống thời gian nhà tập dưới sự trông nom của
Đức Giám mục Gio-an Tẩy giả Winkels, đại diện tông tòa. Cả hai
tuyên lời khấn ngày 24 tháng 6 năm 1867. Cha Donders về lại
Batavia ngay. Ngài đã giúp đỡ người phong, bây giờ với tư cách
là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, ngài dành hết thời gian để làm một
việc ngài dự định đã lâu: về với người da đỏ, đám dân mà trước
đây ngài không thể đảm đương nổi vì thiếu nhân lực. Hầu như
ngài phục vụ họ cho đến khi qua đời. Ngài bắt đầu học tiếng thổ
dân và dạy cho họ về niềm tin Ki-tô giáo cho đến khi sức khỏe
buộc ngài phải rời họ, những kẻ ngài đã khai tâm.
Năm 1883, vị Đại diện tông tòa muốn chia sẻ gánh nặng mà
cha Donders đã vác quá lâu, ngài chuyển cha về Paramaribo, rồi
sau đó về Coronie. Dầu vậy, cha Donders vẫn trở lại Batavia vào
tháng 11 năm 1885, lại tiếp tục những công việc trước đây cho
đến khi sức lực suy tàn. Cuối cùng, vào tháng 12 năm 1886,
ngài không ngồi dậy nổi nữa, và cứ thế khoảng hai tuần cho đến
khi chết vào ngày 14 tháng giêng năm 1887. Hương thơm thánh
thiện của ngài bay xa khỏi Surinam và Hà Lan quê hương ngài,
ngài được giới thiệu tại Rô-ma, và được Đức Giáo Hoàng Gio-an
Phao-lô II phong Chân Phước ngày 23 tháng 5 năm 1982.
Nhưng chúng ta hãy tạm dừng lại ở đây để, theo gợi ý của cha Xavier
Léon-Dufour, dõi bước theo hành trình của thánh Phanxicô Xavier, đặc biệt ở
ba thời điểm quan trọng nhất, tức là khi ngài rời Ấn Độ đi Maluku, đi Nhật Bản
và đi Trung Hoa. Ba lần lên đường này có thể hiểu được dựa trên các kinh
nghiệm thánh Phanxicô Xavier đã trải qua ở Paris và Rôma, nhưng cũng đưa
chúng ta vào những chiều sâu khác nữa. Lần thứ nhất đánh dấu một quyết
định quan trọng; lần thứ hai ghi dấu một cuộc chiến đấu cam go; và lần thứ
ba là cơ hội tự hiến đến trọn vẹn.
ĐI MALUKU
Vì thánh Phanxicô Xavier không để lại nhật ký, nên chúng ta chỉ có thể
theo bước chân ngài qua những lá thư ngài gửi cho anh em Dòng Tên ở Châu
Á hay cho thánh I-nhã và các bạn ở Rôma, hoặc cho cha giám tỉnh hay vua Bồ
Đào Nha. Đây là những tài liệu khá tản mạn, nhưng không phải là không để
lại những dấu ấn cá nhân đáng kể.
Vừa đặt chân đến Goa, thánh Phanxicô Xavier bắt tay ngay vào việc:
giảng thuyết, dạy giáo lý, giải tội. Ngài hết sức tận tụy. Ngày 20.9.1542, trong
thư gửi về Rôma, ngài viết: “Tôi tin rằng ai thực lòng yêu mến thánh giá Chúa
Kitô sẽ tìm thấy an nghỉ khi đương đầu với những thử thách. Còn cái chết nào
tệ hơn đời sống của người, sau khi đã biết Chúa Kitô, lại bỏ Chúa để chạy
theo sở thích và quyến luyến riêng! Thật không có gì buồn hơn. Trái lại, ai
chết đi mỗi ngày, tức là đi nguợc lại ý riêng, không tìm những điều thuộc về
mình, nhưng là những điều thuộc về Chúa Giêsu Kitô, sẽ được bình an biết
bao” (Bt 15,15). Ngài cũng báo tin sẽ xuống phía nam, đồng thời gửi cho
thánh I-nhã hai thư khác, một mặt xin Tòa Thánh rộng ban các đặc ân cho
giáo dân Ấn Độ (Bt 16), mặt khác đề cập vai trò quan trọng của vị Tổng Trấn
và của một trường học tại Goa (Bt 17). Trong hai năm sau đó, thánh Phanxicô
Xavier đã “vất vả ngày đêm” nhằm mục đích “chinh phục khu vực ngoại
giáo”(Lt 93). Năm 1543, cùng với các tân tòng, ngài đối diện với những hoạt
động thù nghịch của những tín đồ Ấn giáo và Hồi giáo. Ước nguyện duy nhất
với ngài - đây cũng là ước nguyện của vị Giám Mục và của vị Tổng Trấn sở tại
- là nới rộng biên cương Hội Thánh dưới quyền “bảo trợ” của Bồ Đào Nha. Việc
ngài thiếu thiện cảm với văn hóa và tôn giáo Ấn Độ chỉ hiểu được trong bối
cảnh ấy. Từ năm 1544, ngài không còn đơn độc ở Mũi Comorin nữa: ngài có
bạn đồng hành là Malsilhas, người Bồ Đào Nha, một tập sinh được ngài nhận
vào Dòng Tên. Trong các thư gửi cho tập sinh này, chúng ta thấy những hoạt
động mục vụ và bác ái của ngài trong lúc giáo đoàn gặp nhiều khó khăn. Rồi
tiếng kêu cứu từ Sri Lanca, từ Maluku. Ngài bị xâu xé: phải bảo vệ quyền lợi
của Bồ Đào Nha hay phải bênh vực người Ấn Độ?
Cuối cùng, ngài dứt khoát. Ngày 20.1.1545, ngài viết thư xin vua João III
của Bồ Đào Nha nghiêm túc xem xét lại những mục tiêu đã đề ra ở Châu Á.
Nhưng không phải vì giận người Bồ Đào Nha mà ngài bỏ đi; thư gởi về Rôma
sau đó mấy ngày cho thấy những lý do tích cực hơn và có lẽ cũng sâu xa hơn.
Thánh Phanxicô Xavier đã hiểu ra: việc phục vụ một vua đời tạm chỉ
nhằm mục đích “giúp chiêm ngắm đời sống vị vua muôn đời”(Lt 91). Phải trải
qua kinh nghiệm ngài mới vào được trong khoa sư phạm ấy: liên kết ý muốn
của con người với ý muốn của Thiên Chúa, mục tiêu với
phương tiện của một tình yêu đích thực.
Kế đến, ngày 7 tháng 4 năm ấy, ngài viết cho Mansilhas: “Chúa muốn
chúng ta luôn sẵn sàng chu toàn thánh ý mỗi khi Người bày tỏ và cho chúng
ta cảm nhận được từ trong lòng. Muốn sống tốt ở đời này, chúng ta phải làm
khách hành hương để đi bất cứ đâu, đến nơi chúng ta có thể phục vụ
Chúa.”(Bt 50,2). Sau khi cho biết ở “Malacca”, vì thiếu người giúp, nên nhiều
người không theo đạo được, ngài kết luận: “Tôi còn nguyên tháng 5 để quyết
định.” (Bt 50,3). Ngài đến São Tomé để nhận định. Cha Coelho, cha sở nơi đó,
người đã cho ngài trọ, sau này kể lại: “Ngài có thói quen cứ tối đến là lén…
đến chòi lá sát đền kính vị tông đồ… Một đêm, đang khi thầm thĩ cầu nguyện,
ngài kêu lên nhiều lần: Thưa Mẹ, vậy Mẹ không giúp con sao?” Tối tăm bao
trùm trong khi Chúa Thánh Thần thinh lặng. Nhưng cuối cùng, ngài nhận được
ánh sáng. Trong thư gửi về Goa ngày 8.5.1545, ngài viết: “Luôn sẵn lòng từ
bi, đang đã thương nhớ đến tôi, và tôi đã cảm nhận được an ủi nội tâm mạnh
mẽ, nên biết ý Chúa là tôi phải đi vùng Malacca” (Bt 51,1).
Kết quả, ngài đã đến tận đảo Môrô, điểm tận cùng của ý Chúa và của
“an ủi”. Ngài viết cho anh em Dòng Tên ở Rôma ngày 20.1.1548: “Tôi nhớ là
xưa nay chưa từng được an ủi thiêng liêng lớn lao và liên tiếp như trên các
đảo này, lại ít cảm thấy phải cực nhọc vê phần xác (…) Thay vì gọi đó là Các
Đảo Môrô, có lẽ nên gọi là Các Đảo Hy Vọng Vào Chúa thì hơn” (Bt 59,4).
Đến ngày 1.2.1459, việc nhận định kết thúc: ngài sẽ cùng với cha Cosma
de Torres khởi hành vào tháng 4. Ngài viết cho thánh I-nhã: “Ở Nhật Bản, tất
cả là lương dân, không có người Hồi giáo cũng không có người Do Thái, mà lại
có đầu óc tò mò, rất muốn học biết cái mới, cả về Thiên Chúa cũng như về
những điều tự nhiên khác, nên con đã quyết định sẽ đến đó. Con thấy tâm
hồn rất phấn khởi… Con không ngại đi Nhật Bản, vì con cảm nhận trong tâm
hồn mình cái gì đó dào dạt, mặc dầu con hầu như chắc chắn sẽ gặp nhiều
nguy hiểm lớn lao hơn những gì con từng gặp xưa nay” (Bt 70,8.10). Tin chắc
là đã được chính Thiên Chúa thúc bách, ngài nêu lên những lý do (Lt 180-
183). Ngài giải thích với thánh I-nhã là ở Nhật Bản “anh em trong Dòng chúng
ta có thể dùng đời sống làm trổ sinh hoa trái, và sau đó chính họ sẽ tiếp nối”
(Bt 70,8). Về điều này, ngài đã được xác chuẩn: Anjiro, người Nhật Bản ngài
đã gặp ở Malacca, cùng với hai người bạn đã sẵn sàng lên đường. Ngài viết
cho thánh I-nhã: “Ở Học viện Đức Tin tại Goa, có ba thanh niên sinh trưởngt
tại đảo Nhật Bản ấy. Họ cùng từ Malacca đến đó với con năm 48. Họ đã cho
con biết nhiều điều về khu vực Nhật Bản, và con hiểu dân chúng ở đó có
phong hóa tốt, lại rất thông minh, cách riêng là Phaolô… Trong vòng 8 tháng,
Phaolô đã học đọc, viết và nói tiếng Bồ Đào Nha, và hiện đang tập Linh Thao.
Anh ấy tiến rất xa và đi sâu vào những điều thuộc Đức Tin. Con rất hy vọng,
điều này chỉ đặt hết nơi Thiên Chúa, là ở Nhật Bản sẽ có nhiều người theo
đạo” (Bt 71,8). Với cha Simão Rodrigues, ngài nói rõ: “Trong các khu vực này
(Ấn Độ), người ta không cần đến tôi lắm nữa, vì có các cha đến trong năm
nay” (Bt 73,3).
Viết cho vua João III, ngài nói khác: “Kinh nghiệm đã dạy cho tôi biết là
Hoàng Thượng thi hành quyền bính ở Ấn Độ không phải chỉ vì muốn tăng số
người tin vào Đức Kitô: Hoàng Thượng thi hành quyền bính cũng để chiếm
hữu của cải vật chất ở Ấn Độ nữa. Xin Hoàng Thượng thứ lỗi vì tôi nói toạc ra
như vậy (…) Tôi không hy vọng chút nào là những mệnh lệnh hay chỉ thị có lợi
cho giáo đoàn mà Hoàng Thượng gửi đến sẽ được tuân giữ ở Ấn Độ. Chính vì
vậy mà tôi đi Nhật Bản, gần như bỏ trốn, để khỏi mất thêm thời giờ như trước
kia đã mất” (Bt 77,2.3). Đến Malacca vào mùa xuân năm 1549. Ngài biết rõ là
những nguy hiểm do bão tố và cướp biển luôn chờ đợi ngài. Với những ai sợ,
ngài trả lời: “Vì Thiên Chúa có quyền trên chúng ta hết thảy, nên tôi không sợ
ai, ngoại trừ Thiên Chúa… Còn những nỗi sợ, những nguy hiểm khác, những
đau khổ khác, mà bạn bè nói tới, tôi kể là số không. Tôi chỉ còn sợ Thiên
Chúa, vì nỗi sợ đối với các thụ tạo chỉ lớn tới mức Đấng Sáng Tạo ra chúng
cho phép là cùng” (Bt 78,2).
Nhưng một cuộc chiến khác đang chờ đợi người “khách hành hương”.
Nhưng mặt biển mới là nơi thử thách nặng nề. Trên chiếc thuyền gỗ của
một nhà buôn Trung Hoa có biệt danh là Hải Tặc, một bức tượng Thủy Tề
được đặt trang trọng ở mũi thuyền. Thánh Phanxicô Xavier kinh hoàng và khổ
sở: “Người ta mang theo một tượng thần trên thuyền, đặt ngay ở phía trước;
anh thuyền trưởng và các kẻ ngoại khác cầu khẩn cúng bái bức tượng liên
tục, và chúng tôi không sao ngăn cản được họ nhiều lần gieo quẻ để hỏi
tượng thần xem chúng tôi có đến Nhật Bản được không, gió cần cho thuyền
chạy có kéo dài không: khi thì họ nói là tốt, khi thì họ nói là xấu, theo như họ
tin (…) Anh em thấy là chúng tôi phải khổ sở thế nào trong chuyến đò ấy, vì
chúng tôi có đi Nhật Bản được hay không là tùy thuộc ý kiến của ma quỉ và
các tôi tớ của nó, mà những người điều khiển và hướng dẫn con thuyền thì cứ
nhất nhất làm theo như ma quỉ nói với họ qua các thẻ”(Bt 90,2.4). Hẳn là ngài
nghĩ đến điều thánh I-nhã viết trong Linh Thao: Luxiphe gửi thuộc hạ đi “bủa
lưới và xiềng xích” khắp nơi (Lt 142). Bão tố nổi lên, các tai họa dồn dập, và
thánh Phanxicô Xavier bị thử thách tận trong đấy lòng. Chính ngài phải chiến
đấu: “Tôi cảm nhận được, biết được bằng chính cảm nghiệm, nhiều điều liên
hệ đến những nỗi kinh hoàng rụng rời do ma quỉ gây ra” (Bt 90,7). Nhưng
chính Thiên Chúa cũng chỉ cho ngài lối thoát: “Phương
thuốc tốt nhất cần dùng trong những hoàn cảnh như vậy là
hết sức dũng cảm chống lại Kẻ Thù, đừng tin tưởng chút
nào nơi mình, nhưng đặt hết tin tưởng nơi Thiên Chúa, đặt
tất cả sức mạnh và tất cả hi vọng nơi Người, và nhờ Đấng
Bảo Vệ vĩ đại như vậy, chúng ta trở nên mạnh mẽ; đừng
hèn nhát và không chút nghi ngờ việc mình sẽ chiến thắng” (Bt 90,7). Vậy là
ngài trở nên rất khiêm tốn, thoát ra khỏi chính mình, đặt mình trọn vẹn trong
tay Chúa: ngài đang chiến đấu dưới cờ hiệu của Đức Kitô, “ở một nơi khiêm
tốn, xinh đẹp và dễ thương”, chứ không phải như Luxiphe hay các thuộc hạ
của nó “dữ tợn và đáng sợ, ngồi trên ngai lửa và khói” (Lt 140 và 143).
Bão tố đến rồi đi. Vì có hải tặc, người chủ thuyền không dám ghé vào
Quảng Đông như dự tính, nhưng tiến thẳng đến Nhật Bản, và mọi chuyện êm
xuôi. Trong lá thư đề ngày 29.1.1552, gửi anh em Dòng Tên ở Rôma, thánh
Phanxicô Xavier kể khá kỹ về thời gian ngài lưu lại trên đất Nhật Bản, đặc biệt
là những câu hỏi người ta nêu lên về Thiên Chúa và việc Sáng Tạo (Bt 96).
Nhưng người Nhật Bản vẫn thắc mắc: Tại sao người Trung Hoa không biết và
tin Chúa Giêsu?
Trên đường trở lại Ấn Độ, thánh Phanxicô Xavier dừng chân tại Malacca.
Ngài nhận được nhiều thư từ và tin tức, đặc biệt thư của thánh I-nhã thiết lập
Tỉnh Dòng Ấn Độ và đặt ngài làm giám tỉnh, và tình trạng đáng lo ngại ở Học
viện Thánh Phaolô tại Goa. Ngài có nhiều việc phải lo hơn, nhưng cũng được
tự do trong hoạt động tông đồ hơn.
Trước khi đi Nhật Bản, thánh Phanxicô Xavier đã đi thăm một vòng các
anh em ở nhiều nơi để thảo luận về công cuộc truyền giáo và về việc thiết lập
hay phát triển các trường học. Riêng về Học viện Thánh Phaolô ở Goa, mặc
dầu ngài thấy cha viện trưởng Antonio Gomes quá độc đoán, cần phải thuyên
chuyển, nhưng ngài chưa dứt khoát. Ngài đã viết cho thánh I-nhã trong thư
ngày 1.2.1549: “Ở đây, anh em trong Dòng không lấy làm gương sáng lắm
trước lệnh do N. mang đến là bắt giam và trói bằng xiềng xích những ai, theo
N., không làm gương sáng lắm ở đây để gửi vể Bồ Đào Nha”(Bt 70,4). Rồi ngài
tâm sự với thánh I-nhã: “Con nghĩ rằng Dòng Tên là Dòng yêu mến và hiệp
nhất tâm hồn, chứ không phải là ép buộc hay sợ hãi như nô lệ”(Bt 70,5). Ba
năm sau, từ Nhật Bản trở về, ngài thấy tình hình trở nên tệ hại hơn, và ngài
vẫn không thay đổi ý kiến. Cha Antonio Gomes quả là không hiểu gì thánh
Phanxicô Xavier khi muốn biến Học viện Thánh Phaolô ở Goa thành một Học
viện Coimbra thứ hai: xây dựng thật lớn lao, nhưng chỉ nhận học sinh người
Bồ Đào Nha. Trái lại, ở Cochin, Dòng Tên cũng có một trường học, nhưng
không có một nhà thờ xứng đáng, ngài đã không ngần ngại tiếp nhận nhà thờ
Madre de Dios, của Hội Từ Thiện Casa da Misericordia, tổ chức tốt nhất của
người Bồ Đào Nha tại Châu Á thời ấy. Trong một thời gian ngắn, ngài thu xếp
mọi công việc đâu vào đó, để rồi lại thực hiện một chuyến đi xa nữa.
Thực ra, ước nguyện của thánh Phanxicô Xavier
không chỉ dừng lại ở việc làm “triển nở” cộng đồng tín
hữu Bồ Đào Nha ở Ấn Độ, nhưng còn muốn góp phần tạo
ra những cộng đồng mới: không còn tranh chấp, kiện
tụng, gương xấu, nhưng giữa anh em Dòng Tên và hàng
giáo sĩ, triều cũng như dòng, có sự thông cảm và cộng
tác; còn những kỳ đà cản mũi trong Dòng Tên thì bị loại
trừ khỏi Dòng (Bt 100 và 101). Đi xa hơn nữa, ngài ra lệnh cho cha Berze,
viện trưởng mới của Học viện Thánh Phaolô: “Trong cách xử sự với các cha và
các anh em, phải rất quí mến, bác ái và khiêm tốn, đừng thô bạo hay gắt
gao…”(Bt 115,1); “Còn về cách giúp (các tín hữu) thì càng phổ cập hơn càng
tốt” (Bt 115,4). Ngài cũng muốn các tập sinh trong Dòng phải được huấn
luyện tử tế bằng việc tập Linh Thao và thực hiện nghiêm túc các thực nghiệm.
Nhưng ngài nhấn mạnh đặc biệt đến việc anh em trong Dòng phải hiệp nhất
với nhau và với bề trên (Bt 117). Ngài nghĩ cả đến việc được gọi trở về Rôma
để gặp thánh I-nhã. Trong thư ngày 29.1.1552, ngài gần như gợi ý với thánh I-
nhã: “Cha viết cho con là cha rất mong được gặp con trước khi lìa khỏi cõi đời
này… Đối với đức tuân phục thì không có gì là không thể được”(Bt 97,3). Thư
hồi âm của thánh I-nhã đến Ấn Độ thì thánh Phanxicô Xavier đã qua đời từ lâu
rồi!
Chẳng những là một người dễ gần gũi, mà thánh Phanxicô Xavier còn là
một người thích chia sẻ và hiệp thông nữa. Ngài học được với thánh I-nhã là
“mọi điều thiện hảo, mọi ân huệ đều từ trên cao ban xuống” (Lt 237), nên
việc kết hiệp với Thiên Chúa được đặt nền móng trên việc Người hiện diện
khắp nơi. Nhưng đối với thánh Phanxicô Xavier, kinh nghiệm này rất sống
động. Tìm gặp Thiên Chúa trong hiện tại chính là tìm kiếm Người mọi nơi mọi
lúc. Do đó, nơi ngài, việc nhận định được liên kết với việc mở rộng hoạt động
truyền giáo, và muốn tiến bộ trong chiêm niệm phải nhìn ngắm thế giới này
bằng con mắt thiêng liêng. Như trong bài “Chiêm niệm để đạt tới tình yêu”
trong Linh Thao (Lt 230-237), việc “tìm gặp Thiên Chúa trong mọi sự” được
nâng lên thành một chia sẻ và hiệp thông trong yêu mến, nơi đó con người
được mời gọi mở cửa cho Thiên Chúa, Đấng hoạt động cả bên trong cũng bên
ngoài.
Vừa về đến Ấn Độ, thánh Phanxicô Xavier bày tỏ ngay với thánh I-nhã về
ước muốn đi Trung Hoa để phục vụ Thiên Chúa hơn. Chúng ta đã biết điều gì
thúc bách ngài, ở đây chúng ta để ý đến điểm đặc biệt là các suy nghĩ của
ngài rất gần với những điều được trình bày trong Hiến Chương Dòng Tên.
Nguyên tắc hướng dẫn việc lựa chọn hoạt động tông đồ của Hiến Chương
Dòng Tên là trong hoàn cảnh cụ thể, ưu tiên cho hoạt động nào “phục vụ
Thiên Chúa hơn và lợi ích phổ cập hơn”. Đó cũng chính là điều thánh
Phanxicô Xavier đã nghĩ khi viết: “Trong Thiên Chúa, tôi rất hi vọng là một
con đường sắp được mở ra, không chỉ cho anh em trong Dòng, mà còn cho
tất cả các dòng khác…” (Bt 96,52). Theo Hiến Chương Dòng Tên, phải chọn
nơi nào người ta sẵn sàng để hoa trái thiêng liêng trổ sinh hơn. Thánh
Phanxicô Xavier quyết định đi Trung Hoa vì người Trung Hoa “có trí khôn sâu
sắc” và “hiếu học” hơn người Nhật Bản nhiều (Bt 96,50). Theo Hiến Chương
Dòng Tên, “sự thiện càng phổ cập càng đẹp lòng Thiên
Chúa”, nên phải ưu tiên đối với những người sẽ làm cho
sự thiện đến được những người khác nữa, “những người
dưới quyền họ hoặc chịu ảnh hưởng của họ”. Đây cũng
chính là điều thánh Phanxicô Xavier nhắm tới: khi người
Trung Hoa đón nhận Đạo Chúa Kitô, họ sẽ giúp cho người
Nhật Bản bỏ lòng tin tưởng nơi các giáo phái từ Trung
Hoa truyền sang.
Khoảng đầu tháng 9 năm 1552, ngài đặt chân lên đảo Thượng Xuyên,
một hòn đảo vốn hoang vu đã được các nhà buôn Trung Hoa và Bồ Đào Nha
biến thành một thương cảng. Nhờ các tàu buôn Bồ Đào Nha đi Malacca, thánh
Phanxicô Xavier tiếp tục điều hành Tỉnh Dòng qua thư từ. Trong khi nóng lòng
chờ đợi một nhà buôn Trung Hoa đến đón như đã hẹn, ngài đề ra những
phương án khả thi khác: trở về Ấn Độ, theo một phái đoàn sứ thần Thái Lan
để vào Trung Hoa. Nhưng rồi ngài ngã bệnh. Dầu vậy, ngài vẫn chưa ngã
lòng: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?”
(Rm 8,31). Nhưng ngài không dậy được nữa. Giờ đã đến để ngài dâng lên
Thiên Chúa của lễ tối hậu: “Lạy Chúa, xin thương nhận… Mọi sự đều là của
Chúa, xin Chúa sử dụng tùy ý Chúa. Xin ban cho con tình yêu và ân sủng của
Chúa. Ơn Chúa làm thỏa lòng con” (Lt 234).
Nếu ước nguyện duy nhất của thánh Phanxicô Xavier là đem Tin Mừng
đến cho những người ở xa, thì mười năm ở Châu Á của ngài được ghi dấu
bằng ba cột mốc là ba chuyến đi lớn. Khi rời Ấn Độ đi Inđônêxia, ngài phần
nào tách khỏi quyền “bảo trợ truyền giáo” của Bồ Đào Nha và lao mình vào
nơi ngài chưa hề biết gì. Đó cũng là dịp để ngài đến với Thiên Chúa một cách
khác. Quyết định đi Nhật Bản là kết quả một cuộc nhận định lâu dài, nhưng
dọc theo bờ biển Trung Hoa, ngài khám phá ra Thiên Chúa đòi hỏi ngài hơn
nữa: phó thác trọn vẹn nơi Người. Chuyến đi cuối cùng của ngài vẫn nằm
trong ước nguyện cơ bản nguyên thủy: đó không phải là một cuộc chạy trốn
về phía trước, vì mặc dầu bất đắc dĩ phải ở lại Thượng Xuyên, ngài vẫn tận
tình chu toàn nhiệm vụ giám tỉnh. Nhưng chính lúc ấy, cái đến đến thật bất
ngờ. Chắc chắn ba chuyến đi ấy chưa làm cho ngài kiệt sức, nhưng đủ làm nổi
rõ những đường nét thâm sâu trong cuộc sống của ngài.