You are on page 1of 14

Noi theo Các Mác, Lênin, Hồ Chí Minh,

chúng ta có thể tự vượt qua được chính mình,


đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để ổn định xã hội
và phát triển bền vững
Kính gửi Trung ương Đảng
Tài liệu trình bầy quan điểm và kiến nghị, góp phần
chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XI

Kính gửi: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh


Trường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang
Các Đ/C Uỷ viên Bộ Chính trị và Uỷ viên TƯ Đảng
Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương
Lãnh đạo và Thư ký khoa học HĐ LL TƯ

Thay lời nói đầu:


Sinh ra trong một gia đình cách mạng, tôi đã tham gia hoạt động bí mật từ
trước CM tháng 8, lại đã học qua hệ chính quy Mác – Lê tại trường Nguyễn Ái
Quốc, sau đó lại học Mác - Lê lần nữa tại đại học LX, và cả khi nghiên cứu sinh tại
Hungary, chưa kể hầu như không “tuần chay” chỉnh huấn lớn nào, không đợt học
tập chính trị quan trọng nào là tôi không có mặt. Suốt đời tận tuỵ với công tác Đảng
và Chính quyền, nên cũng như hầu hết các Đ/C, tôi có thể tự hào mà cho rằng tính
kiên định CM của mình là thuộc loại số một ! Luôn luôn tự ngẫm rằng, dầu cuộc
sống còn bao khó khăn, đất nước còn khá nhiều khiếm khuyết, tiêu cực, lãnh đạo
nhiều nơi cũng còn những hạn chế, sai sót, song nhìn tổng thể, đất nước ta đã có
những bước phát triển vượt bậc kể từ khi Đảng phát động Đổi mới.Vậy mà, tôi cũng
rất băn khoăn, khi thấy người ta tranh luận đúng - sai về Mác – Lê ( nào “đã lỗi thời
rồi, tại sao còn cứ bám lấy mãi”, hoặc “Tư bản hiện nay còn đang tái bản Mác để
nghiên cứu ” ), nên lâu nay tôi cũng không tiếc công sức lần giở các Tuyển tập
Mác, Lênin, Hồ Chí Minh ra, muốn xem lại kỹ một lần xem thực hư thật sự nó
thế nào, nguyên nhân của sự trì trệ khủng hoảng lý luận hiện nay là do đâu để
tham gia góp ý về đường lối cách mạng với Đảng.
Gần đây, tôi lại được đọc khá nhiều bài viết sâu sắc của các cán bộ lão thành
cách mạng, và cán bộ khoa học hàng đầu, trong số đó đặc biệt có một tài liệu dài 14
trang viết tóm tắt kết quả nghiên cứu rất nghiêm túc của một Nhóm các chuyên gia
cao cấp về chính trị, quản lý nhà nước và khoa học công nghệ ở trong nước. Thực
ra nhiều điều mới nhận ra của tôi sau đây có thể không mới lắm đối với rất nhiều
các Đ/C lãnh đạo, song cũng có rất nhiều Đ/C, kể cả phần lớn các cán bộ lãnh đạo
thế hệ Đổi mới, vì hoàn cảnh chỉ được học tập các giáo trình “cơ bản” do hệ
thống “chính luồng” biên soạn, chưa có điều kiện hoặc trách nhiệm nghiên cứu

1
Mác – Lê đến nơi, đến chốn, rồi rất bận rộn lao ngay vào với công việc lãnh đạo cụ
thể, nên chắc rằng những nội dung trình bầy của chúng tôi sau đây cũng có thể có
ích, giúp tự bổ sung thêm cơ sở lý luận trong dịp chuẩn bị Đại hội Đảng lần này.
Nội dung trình bầy sau đây đã được đưa công khai lên mạng Internet 5-6 tháng nay
để lấy ý kiến góp. Rất nhiều cán bộ trong và ngoài đảng đã tán thành và tham gia
góp ý cho thêm sâu sắc. Nay tôi xin đúc kết lai, kính trình với Trung ương. Đương
nhiên lý luận còn có thể “du di”, thực tiễn mới là chân lý cao nhất !

Bài viết gồm 5 phần:


1. Làm rõ những nội dung, nguyên nhân và thời điểm Các Mác,
Ănghen và Lênin đã dũng cảm tự vượt qua chính mình
2. CNXH đích thực không phải là một bộ phận sinh ra từ Mác,
Ănghen và Lênin, và nhất định sẽ thành công
3. Việt Nam không thể có CNXH đích thực nếu vẫn chỉ dựa mãi
vào mỗi một CNCS Mác – Lê, và cần phải cương quyết đồng bộ
tiến lên
4. “Thời kỳ quá độ lên CNXH” ở nơi nào trên thế giới hiện nay là
đáng trông chờ, tin cậy nhất để tham khảo học tập, liên kết hợp
tác xây dựng nền văn minh chính trị toàn cầu (CNXH đích
thực) ?
5. Cùng nhận rõ và tham gia ngăn chặn có hiệu quả hai kẻ thù lớn,
nguy hiểm nhất hiện nay của cách mạng XHCN ở Việt nam và
trên toàn thế giới .

Sau đây tôi xin giải trình cụ thể

1. Làm rõ những nội dung, nguyên nhân và thời điểm Các Mác, Ănghen và Lênin
đã dũng cảm tự vượt qua chính mình

Vẫn biết Học thuyết Mác có rất nhiều nội dung tuyệt diệu, Phương Tây còn đang in lại
“Tư bản luận” để nghiên cứu, song bây giờ tôi mới vỡ lẽ ra, rằng sự phê phán, trối bỏ, thậm
chí lên án bởi nhiều người trên thế giới đối với một số nội dung, quan điểm trong học thuyết
đấu tranh giai cấp và Chủ nghĩa CS của Mác là hoàn toàn có lý . Hiện tượng “Ông nói gà, bà
nói vịt”, tranh luận lung tung bao nhiêu năm qua, chính là ở chỗ hiểu sai, hiểu nhầm và hiểu
chưa đầy đủ CN Mác, và không hiểu lẫn nhau ở chỗ này. Cụ thể như sau:

1/ Học thuyết Mác có những bộ phận chính sau đây: a)Triết học, b)chính trị, kinh tế, xã hội
học, c) Giai cấp và giai cấp đấu tranh, d) Chủ nghĩa Mác về đấu tranh giai cấp (Chủ nghĩa
Cộng sản) v.v… Đó là một trong những công trình khoa học vĩ đại nhất ở thế kỷ 19 của cả
Loài người, đã được thừa nhận và vận dụng rộng rãi trên toàn thế giới (cả Tư bản và XHCN ,
ngay thời điểm 2009 này tại nhiều nước TBCN đang còn tái bản Mác để nghiên cứu tiếp học
thuyết Mác về phép biện chứng, về CNTB, nhằm tìm ở đấy các vấn đề lý luận cơ bản liên quan
đến khủng hoảng toàn cầu, cơ hồ vạch được ra lối thoát). Nên Loài người sẽ không thể “quên
đi” CN Mác như nhiều người tưởng tượng.

2
2/ Chỉ riêng có bộ phận thứ tư, phần d) nói trên: Chủ nghĩa Mác, Chủ nghĩa Cộng sản, là có
vấn đề phải xem xét, phân biệt cho kỹ từng phân kỳ (sự tiến hoá) của nó. Sau đây tôi chỉ tập
trung nói về phần thứ 4 , phần d) những tư duy, chủ trương, đường lối cách mạng vô sản của
Mác, vì nội dung này đã gây ra tranh luận, gây mơ hồ, mâu thuẫn rất nhiều trên thế giới.

3/ Lý do phải xem xét lại thực ra đã rõ từ lâu đối với các giới học thuật nghiêm túc, có điều
kiện nghiên cứu chuyên nghiệp, nhất là từ sau sự kiện Liên Xô tan rã không một chút ngẫu
nhiên. Nhưng đối với rất nhiều người, do sự nhận thức chưa sâu, hoặc thiếu tư liệu, thông tin,
thiếu điều kiện nghiên cứu nghiêm túc . . .nên có thể nói đã tạo ra những sự lẫn lộn, lầm lạc to
lớn, dai dẳng và rất tai hại. Tôi xin nói rõ, tôi đã lẫn lộn và từng bước đã tự nhận thức lại cho
chính xác hơn như thế nào.

4/ Điều quan trọng mà tự tôi đã nhận thức và tự khẳng định thật rõ là:
Một là: Động cơ đưa ra Chủ nghĩa Cộng sản của Các Mác là rất nhân đạo, động cơ
là chân chính: Khi giai cấp tư sản bắt đầu tích luỹ để công nghiệp hoá, với cơ chế kinh tế thị
trường sơ khai, tích luỹ tư bản man rợ ban đầu, thì xã hội tư bản ở cuối thế kỷ 17 - đầu tk 18,
đặc biệt là ở Anh, hiện tượng người bóc lột người diễn ra dã man cùng cực. Mác tự thấy bổn
phận phải tìm cách lý giải một cách khoa học cơ chế bóc lột dã man, nhưng lại thúc đẩy tăng
trưởng xã hội rất mạnh của CNTB - kết quả nghiên cứu của Ông đã được ghi lại trong bộ Tư
bản luận - , và hơn thế, Mác cho rằng phải tìm cách làm sao xoá bỏ được cái chế độ người bóc
lột người dã man thậm tệ ấy - từ kết quả nghiên cứu ban đầu, trong Ông đã hình thành lý luận
về đấu tranh giai cấp, về CN Cộng đồng (Khái niệm “chủ nghĩa” là do sau này Ănghen và các
đồng chí khác của Mác gắn vào, chữ “cộng đồng” đã bị dịch sai thành “cộng sản”).
Hai là: CNCS của Mác có hai điểm về đường lối thực hiện người ta không thể chấp
nhận, nhất là ở các nước Tư bản, và các nước đã có nền độc lập dân tộc, khi họ đã ở một trình
độ xã hội phát triển nhất định:
1.Tuy nhiều mục tiêu là rất tốt đẹp, và hoàn toàn nhân đạo, nhưng lại quá ảo tưởng, xa
vời với thực tế cuộc sống, ngay đối với thế kỷ 21 hiện nay. Chỉ nêu một ví dụ: Mác đề ra
mục tiêu đấu tranh cho một xã hội, trong đó mọi người đều được: “làm theo năng lực và
hưởng theo nhu cầu”. Nhưng nhu cầu con người biết thế nào cho vừa (?), hơn nữa, với
chủ trương bình đẳng dàn đều, nhân đạo “hưởng theo nhu cầu” như vậy sẽ làm mất động
lực sáng tạo, người xiêng năng, người tài cũng được hưởng như người lười, người dốt thì
làm sao mà xã hội tiến lên được, và vì vậy hầu hết những người tài năng, cần cù họ không
chịu ! Hoặc “lao động sẽ trở thành niềm vui”, “nhà nước sẽ tự triệt tiêu”. Có thể những
điều đó là mục tiêu của Loài người thế kỷ 23, 24 gì đó, hoặc không bao giờ có được, nên
những mục tiêu đó là xa vời đối với những thế hệ đang sống hiện nay đến mức thực tế trở
thành ảo tưởng !
2. Biện pháp đấu tranh lại rất cứng rắn, thậm chí không kém phần tàn bạo: “Chế độ
xưa ta mau đập tan tành”, “Đấu tranh này là trận cuối cùng”, đấu tranh này là “Một mất,
một còn”, là giải quyết tận gốc vấn đề “Ai thắng ai”, là không thể chấp nhận mọi tàn dư của
chế độ tư bản, phải tiêu diệt cả mầm mống sinh ra nó . . .vô tình đẩy loài người thành hai
cực đối lập nhau không đội trời chung ! (Biện pháp của Mác là nhân đạo đối với lớp người
cùng khổ, song lại mở đường cho những hành động rất tàn bạo đối với những lớp người
giầu có, những doanh nhân và tư bản tiến bộ - là đầu tầu tạo ra sự phát triển xã hội) bằng
cách nói thẳng sẽ tiêu diệt giai cấp tư sản, dùng bạo lực tước đoạt để công hữu hoá toàn bộ
tư liệu sản xuất, xoá bỏ cơ chế thị trường, tập thể hoá và kế hoạch hoá tập trung sản xuất,

3
thực hiện nền chuyên chính vô sản . . . Đó là những chính sách và biện pháp cơ bản, chính
yếu nhất của CNCS phân kỳ I. Thực tế đã chứng tỏ, bằng cách đó sẽ không bao giờ đạt
được mục tiêu.

Đó chính là nội dung và hậu quả của CNCS cảu Mác về đấu tranh giai cấp , là đường lối của
Quốc tế CS I do Mác lập nên (Là phản ảnh bầu nhiệt huyết, sự bồng bột tuổi trẻ thời 35 tuổi
của Mác và Ănghen)

Quốc tế CS I đã chủ trương sử dụng những giải pháp không thực tế là dùng bạo lực tiêu diệt
tận gốc chế độ tư bản cũ để xây dựng một chế độ mới hoàn toàn, trong sạch, tốt đẹp, phủ nhận
tính kế thừa, tính liên tục trong sự tiến hoá của Loài người. Cách làm đó vừa không hiện thực,
vừa không hợp lòng người, tạo ra một quan điểm cứng nhắc “nhị nguyên”: không ta, là địch;
ta - địch không đội trời chung, nên đã trở thành một sai lầm quan trọng về biện pháp đấu
tranh.

Chính vì vậy, một mặt, sau hàng loat những thất bại trong đâu tranh bạo lực của giai cấp công
nhân nhằm tiêu diệt chính quyền tư bản tại các nước Châu Âu, mặt khác, càng ngày chế độ tư
bản càng phát triển và tự hoàn thiện, tự tìm tòi những chính sách xã hội hoá cần thiết bước đầu,
và tại nhiều nơi, giai cấp công nhân đã lợi dụng chế độ dân chủ tư sản để tranh đấu một cách
hoà bình tại các công xưởng và trên nghị trường, và đã đạt được những thắng lợi ban đầu, vì
vậy, Quốc tế CS I dần dần tan rã, do hầu hết các nước Châu Âu không hưởng ứng. Trên thực
tế đó, Mác, và Ănghen, về cuối đời dầy dạn kinh nghiệm của các Ông, đã có những nhận định
mới và đưa ra quan điểm đường lối thực tiễn khác hẳn về biện pháp đấu tranh giai cấp: Giai
cấp công nhân có thể lợi dụng thế chế dân chủ và hệ thống chính trị của giai cấp tư sản để đấu
tranh không bạo lực giành chính quyền. Đường lối (biện pháp cách mạng) mới đó của chính
Mác và Ănghen đã dẫn đến việc ra đời Quốc tế II .

Quốc tế II chủ trương đấu tranh không bạo lực, công nhân và tư bản có thể hợp tác- đấu
tranh hoà bình, có tiếp thu, có kế thừa, tận dụng những thành quả của chủ nghĩa tư bản để xây
dựng một chế độ xã hội mới của giai cấp cần lao, của nhân dân lao động. Rất tiếc, sau khi
Quốc tế II ra đời, Mác và Ănghen đã già dặn, sâu sắc hơn, nhưng còn rất ít thời gian để chỉ đạo
Quốc tế II triển khai sâu rộng đường lối mới này.

Nói tóm lại: Mục đích của CN Mác, CN CS là tốt đẹp, song ở phân kỳ đầu - tức Quốc tế CS I
- với đường lối về giải pháp thực hiện là không tưởng, thậm chí sai lầm, và đã được chính Mác
và Ănghen nghiên cứu lại để tự vượt qua chính mình, uốn nắn lại, tạo ra phân kỳ sau – và
lập ra Quốc tế II (bỏ tính ngữ Cộng sản đi).
Có người cho rằng: Mác thông minh thật, nhưng thoà không có Mác còn hơn.Theo tôi, không
đúng: Nếu không có Các Mác, sẽ có một hoặc nhiều Ông “Mác” khác sẽ chỉ được ra lý luận về
bóc lột giá trị thặng dư, lãnh đạo đấu tranh gây áp lực buộc CNTB phải tự vượt qua chính nó,
tự hoàn thiện dần dần để có CNTB hiện đại được như ngày nay. Vậy, về lý luận đấu tranh giai
cấp, tuy Mác và Ănghen đúng về lý tưởng là chính, nhưng cũng đã có những cái sai về đường
lối thực hiện, và đã kịp thời tự vượt qua được những cái sai của chính mình . Đấy chính lã
chỗ nhiều người không rõ, do bị thiếu thông tin, do n/c chưa sâu, nên đã lẫn lộn, tạo ra những
tranh luận nhiều nhất về lý luận đâú tranh giai cấp của CN Mác.

4
2. Chủ nghĩa xã hội không phải là một bộ phận sinh ra từ CN Mác, hoặc “CN
Mác –Lê”. CNXH đích thực sẽ nhất định thắng lợi.

Lâu nay tôi cứ tưởng (chết ở chỗ cứ tưởng đó) Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm chính trị
của riêng Mác, Ănghen, và Lênin, vì vậy nghiễm nhiên tin rằng nó đương nhiên là giai đoạn
đầu của CN Cộng sản. Nhưng thực ra đó lại là một sự hiểu lầm hoàn toàn. Do đã đồng nhất
CNXH với “CN Mác – Lê”, nên khi người ta căm hận về những biện pháp tàn bạo, cay nghiệt
của CM vô sản quá tả đã diễn ra ở chỗ này chỗ kia dưới danh nghĩa CN CS, nên người ta cũng
căm ghét lây luôn cả sang CNXH !

Theo nhận thức mới thì tư duy về môt chủ nghĩa, mà sau này dần dần hình thành chính
thức, được nhiều triết gia cổ điển (không thật rõ chính xác là ai đầu tiên) đặt tên là CNXH, nó
đã có từ hàng ngàn năm trước đây, từ khi Mác chưa ra đời (*). Theo đó CNXH là một lý tưởng
tốt đẹp của chung toàn Nhân loại, một ước muốn tốt đẹp về một xã hội cộng đồng, mang đầy
đủ đặc điểm của một xã hội dân chủ, công bằng, tự do, hạnh phúc, văn minh của cả Loài người
(Đối nghịch lại với CN cá nhân, với CN dân tộc hẹp hòi, ích kỷ). CNXH là kết quả một quá
trình tiến hoá tự trưởng thành của toàn Nhân loại. Quá trình này là lâu dài, gian khổ, có lúc
rộ lên, có khi xẹp xuống, tích luỹ, đúc kết từ những bài học thắng lợi, rút kinh nghiệm từ những
nguyên nhân thất bại đổ máu của rất nhiều nước, của rất nhiều thế hệ . . kéo dài từ rất lâu, từ
trước khi có Mác !

Khi gặp Chủ nghĩa Mác ( mới xuất hiện gần 165 năm trước đây), những người theo
CNXH đã lấy CN Mác làm lý luận dẫn đường. Nếu Chủ nghĩa Mác có 2 phân kỳ tiến hoá
khác nhau như đã nói ở trên, thì CNXH cũng bị ảnh hưởng bởi sự diễn biến và trưởng thành
của CN Mác với 2 phân kỳ như đã xẩy ra. Vì vậy đã xẩy ra chuyên có mô hình XHCN theo
những biện pháp quá tả, bạo lực (Phân kỳ I ) và có cả mô hình XHCN theo đường lối đấu tranh
phi bạo lực như Mác đưa ra ở phân kỳ II.
Đối với Lênin: Nhận thấy tại Nga, thời cuối thế kỷ 19, đã đủ chín mùi để giai cấp công
nhân có thể lật đổ chế độ Nga hoàng lạc hậu, phản tiến bộ - một mắt xích yếu nhất của hệ
thổng TBCN – Lênin đã vận dụng Mác ở phân kỳ I (Quốc tế CS I ) và đã thành công trong đấu
tranh bạo lực đập tan chế độ quân chủ Nga hoàng dành chính quyền về tay giai cấp công nhân
và lập nên chế độ xô viết. Lênin đã hoàn thành phân kỳ I của chính Ông một cách tuyệt vời.
Và chính Lênin đã thành lập lại Quốc tế Cộng sản, và gọi là Quốc tế Cộng sản III (thêm trở lại
tính ngữ cộng sản) về cơ bản là theo đường lối đấu tranh bạo lực của QT CS I. Nhưng vì lòng
căm thù của giai cấp công nhân (đối với g/c tư sản) chỉ có sức mạnh chủ yếu trong tàn phá, chứ
chưa đủ để kịp sản sinh ra sự sáng tạo trong xây dựng hoà bình, nên chỉ sau mấy năm chính
quyền xô viết, chính Lênin đã phát hiện ra những chỗ bất cập, sai lầm của đường lối Quốc tế
CS I : phá tan những cái cũ, không tiếp thu, không thừa kế thành tựu nhiều mặt của CNTB (vi
phạm quy luật tính liên tục, kế thừa của quá trình tiến hoá), và không chỉ có thế. . . nên nguy cơ
tụt hậu và có thể sẽ tự diệt vong là rất rõ ràng. Bởi vậy, cũng tự vượt qua chính mình, Lênin
đã nhanh chóng chuyển sang phân kỳ 2 của chính Ông với chính sách kinh tế mới: kế thừa,
hợp tác, liên kết, vận dụng các thành tựu nhiều mặt của CNTB để xây dựng CNXH. Theo cách
hiểu của chúng ta sau này: Người CS muốn đi lên bằng cách đi trên vai của những nhà tư bản,
vậy phải dựa vào và liên kết thật lòng với họ, không thể đơn giản coi họ là kẻ thù giai cấp
không đội trời chung ! (Lênin từng nói, đại ý: Tôi có thể đổi 100 đảng viên CS thiếu chuyên
môn lấy 1 chuyên gia tư bản)

5
Đối với Liên Xô (cũ): Để phân tích đúng CNXH ở LX cũ trong thời kỳ sau Lênin cho
tới khi nó sụp đổ, cần lưu ý những đặc điểm lịch sử riêng biệt (có tính tình thế): vừa xây dựng
hoà bình, vừa chuẩn bị và tiến hành chiến tranh (cả nóng lẫn lạnh), vì vậy yêu cầu lãnh đạo
tập trung về cơ bản đã lấn át hoàn toàn yêu cầu dân chủ, cùng với sai lầm về cơ chế quản lý
kinh tế - xã hội theo đường lối Quốc tế I và III tập trung quan liêu bao cấp, nên đã dẫn đến
tụt hậu, suy thoái toàn diện và sụp đổ như một tất yếu (mấy chục triệu đảng viên không phản
ứng gì đáng kể - không nuối tiếc - khi LX tan rã)

Sự bất đồng chính kiến trong phong trào Cộng sản Quốc tế chính là và chủ yếu là sự
bất đồng chung quanh câu chuyện lựa chọn Quốc tế nào, chọn biện pháp cách mạng nào, và
sai đúng ra sao, chứ không phải là chọn Ông lãnh tụ nào, bởi vì cả 2 tổ chức Quốc tế I và
Quốc tế II đều là “con đẻ” của Mác và Ănghen ; Quốc tế III và Chính sách kinh tế mới cũng
đều là con đẻ của Lênin cả. Chỉ có điều chúng (các đường lối đấu tranh giai cấp) rất khác
nhau là do chúng được sinh ra ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, và có thể nói
đại thể là chúng đều đúng, nhưng chỉ đúng trong những hoàn cảnh và thời điểm tương ứng
thích hợp của chúng ! . CNXH hiện thực ở các nước được sinh ra, nơi thì theo đường lối Quốc
tế I, nơi lại theo đường lối Quốc tế II, vì thế mà chúng có các mô hình cụ thể khác nhau. Mô
hình XHCN hiện thực trên đất Liên Xô, Đông Âu, TQ và VN . . . ở thế kỷ 20 là theo mô hình
được tạo ra theo đường lối Quốc tế I của Mác, Quốc tế III của Lênin, dưói sự chỉ đạo áp đặt
của Stalin, và nó đã sai lầm, bởi thực tế nó đã sụp đổ. Nguyên nhân: Trong xây dựng hoà bình
mà LX vẫn tiếp tục vận dụng đường lối Quốc tế CS I và III là không phù hợp. Nếu LX sau Thế
chiến 2 đã biết “chuyển pha” sang vận dụng chủ yếu đường lối Quốc tế II thì đã không bị tan
rã. Chính sách “kinh tế mới” của Lênin, đường lối “ba đại diện” của TQ, và đường lối “Đổi
mới” của VN hiện nay chính là theo đường lối Quốc tế II của Mác với một số đặc thù riêng
khác nhau. Thực tiễn (là chân lý) đã chỉ ra rằng, chúng phù hợp với yêu cầu cách mạng ở
những nơi này, và cũng chỉ vào giai đoạn này. Kết luận: Đường lối Quốc tế II của Mác và
Ănghen về CM vô sản, bất kể giai cấp công nhân đã giành được chính quyền hay chưa, là
hiện thực và hoàn toàn đúng đắn trong thế kỷ XX .

Vậy là, qua kinh nghiêm và thể nghiệm của Lênin và Liên Xô (cũ), của TQ và VN, ta
có thể kết luận:
1/ Để lật đổ chế độ cũ đã thôí nát, lạc hậu, giành chính quyền, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất
nước . . .thì vận dụng biện pháp cách mạng bạo lực của Mác (Quốc tế CS I ), và của Lênin
(Quốc tế CS III) như Liên xô cũ, như Việt nam và Trung quốc, và nhiều nước khác . . . khi họ
đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền là đúng đắn. Tuy nhiên,chính quyền chuyên chính vô
sản, tập trung trước– dân chủ sau, theo các cơ chế hoạt động kiểu LX cũ, chỉ phù hơp và có sức
mạnh thực sự trong đấu tranh bạo lực giành và bảo vệ chính quyền, và sẽ không phù hợp và
thiếu sức mạnh trong xây dựng và phát triển hoà bình, vì chính quyền theo thể chế này không
có khả năng tự bảo vệ mình khỏi quá trình tự thoái hoá, và cũng bất lực trong khả năng
sáng tạo tự hoàn thiện mình để vươn lên (sư sụp đổ của LX cũ là kết quả điển hình nhất của
sai sót mang tính tất yếu này).

2/ Vì vậy tại các nước tư bản phát triển, và tại các nước khác khi đã chuyển sang giai đoạn xây
dựng hoà bình thì phải vận dụng đường lối Quốc tế II của Mác mới đem lại thắng lợi cho
CNXH. Chính “Chính sách kinh tế mới” của Lênin, Đường lối “đổi mới” của Việt nam và
đường lối “Ba đại diện”của Trung quốc là kết quả sự vận dụng sáng tạo đường lối của

6
Quốc tế II của Mác và Ănghen, nên đã thu được những thắng lợi bước đầu. Các đảng cánh
tả Bắc Âu, và ở một số nước khác, tại một số thời kỳ tương tự ở nhiều nước tư bản phát triển,
do đặc thù của họ, đã không vận dụng đường lối đấu tranh bạo lực của quốc tế I, đã sớm tiếp
thu, vận dụng tư tưởng đường lối mới của Mác ở phân kỳ II (Quốc tế II ). Họ đi lên từ thể chế
chính trị tư bản, từ nền Dân chủ tư sản – nên họ đã sớm đạt được khá nhiều thành công
trong việc xây dụng một xã hội tiến bộ hơn như mọi người đã thấy.
Có người nói: các đảng CS LX (cũ), Trung quốc và Việt Nam không chấp nhận coi các
đảng XH dân chủ là cùng một gốc sinh ra từ Mác và Ănghen. Đó là sai lầm quan trọng do thiếu
thông tin, như một định kiến và mang tính cố chấp, có thể chỉ ở thời Lênin, Stalin, và còn tồn
tại ở một số đồng chí Việt nam “kiên trì” hiện nay. Nên thấy rằng, tại Châu Âu, chính con cháu
ruột của Các Mác và Lênin cũng đã từ chối CN CS, và đã gác biện pháp cách mạng bạo lực
(QT I và QT III) của các Ông sang một bên, sự tự sụp đổ hoàn toàn dễ dàng của LX cũ và
Đông Âu đã là bằng chứng hiển nhiên về sự tự từ bỏ CN Mác – Lê kiểu cũ. Quan điểm “kiên
trì” của một số đồng chí VN đã ngăn cản việc học tập và hợp tác công khai với các đảng
CNXH dân chủ, trong khi trên thực tế lại thừa nhận sự tiến bộ xã hội rất rõ ràng của những
nước phát triển do các đảng Xã hội dân chủ này lãnh đạo !
Tóm lại, tôi nhận ra rằng, CNXH là một quá trình, một cái đích tiến hoá của Loài người
đến một xã hội tốt đẹp hơn tất cả các xã hội hiện tồn trên Trái Đất. Sự sụp đổ của LX và Đông
Âu, sự thất bại của “CNXH” hiện thực ở chỗ này hay chỗ khác, thì đó chỉ là sự thất bại của
những mô hình cụ thể, của sự vận dụng những đường lối, lý luận sai lầm cụ thể trong quá trình
tiến hoá đến CNXH đích thực mà thôi. CNXH đích thực không thể bị thất bại ! Nếu CNTB
(không mang tên riêng ai) là kết quả quá trình tiến hoá tất yếu từ CN Phong kiến lạc hậu, thì
CNXH (cũng không do một mình ai đặt ra) cũng là một quá trình tiến hoá đương nhiên tiếp
theo, từ CNTB lên một xã hội tốt đẹp hơn, được đặc trưng bởi một nền chính trị văn minh –
mà lâu nay ta vẫn gọi nó là CNXH, hay phía tư bản gần đây họ gọi là CN hậu Tư bản (hay
CNTB sáng tạo, CNTB Dân chủ . . .). Kết luận: Tuy CNXH đích thực chưa ở đâu có, nhưng
nhất định sẽ xuất hiện! Thời đại này vẫn là Thời đại quá độ tiến hoá của toàn Thế giới tiến
lên CNXH, có thể còn khó khăn, trầy trật, nhưng không gì có thể ngăn cản nổi !

3. Việt nam không thể có CNXH đích thực nếu vẫn vận dụng duy nhất mỗi một
CN Mác Lê, mà cần phải đổi mới đồng bộ để tiến lên nhanh hơn.

1. Nên thống nhất ngay, cách mạng nước ta bắt đầu từ Cách mạng tháng 8 với mục tiêu giành
Độc lập Dân tộc, ở một đất nước thuộc địa, nửa phong kiến lạc hậu, 95 % dân số là nông dân,
gần 100% dân số là mù chữ, chưa hình thành giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (Chưa có
CNTB và chưa có dân chủ tư sản). Vì vậy không có chuyện vận dụng chủ nghĩa Mác về đấu
tranh giai cấp giữa tư sản và công nhân vào nước ta ngay từ 1944 - 1945 ! CM tháng 8 chỉ là
cách mạng giải quyết mâu thuẫn giữa Dân tộc VN với bọn thực dân phong kiến, không phải
là CM vô sản.

2. Hồ Chí Minh đi theo Quốc tế I, vì thấy ở đây có lý tưởng giải phóng nhân dân lao động cần
lao; Hồ Chí Minh đi theo Quốc tế III, vì thấy ở đây có chủ trương giải phóng các dân tộc thuộc
địa; Hồ Chí Minh đi theo Liên Xô và Trung quốc, vì thấy ở những nơi đó có chung lý tưởng và
mục đích giải phóng nhân dân lao động, chấn hưng đất nước, xây dựng CNXH. Thấy trong
tương lai họ sẽ là chỗ dựa cho công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau này
của Việt nam.

7
3. Quá trình hình thành con người, trí tuệ và lý tưởng của Hồ Chí Minh đầu tiên là từ chủ nghĩa
yêu nước, với tầm hiểu biết và tư duy văn hoá Á đông rất sâu sắc; quá trình hình thành dần dần
phần “cộng sản” trong con người Hồ Chí Minh là quá trình nhận thức về CN Mác, về Lênin, về
những cái phù hợp, những cái không phù hợp vào những hoàn cảnh khác nhau thông qua
nghiên cứu tư liệu, tham gia công tác với QT III và trải nghiệm tại thực địa Việt nam, Châu
Âu, Liên xô (cũ) và Trung Quốc. Hồ Chí Minh, do xuất sứ và sự lỗi lạc của mình, từ rất sớm
đã không là một người giáo điều, kinh kệ, không chỉ vận dụng riêng một CN Mác Lê. Về
nhiều mặt, Hồ Chí Minh hiểu cách mạng và dân tộc Việt nam, hiểu CN Mác Lê sâu sắc hơn
nhiều lãnh tụ vô sản khác. Điều đó được hình thành trong một quá trình lâu dài suốt mấy chục
năm cho đến khi Người về nước lãnh đạo trực tiếp cách mạng Việt nam. Từ đó, Hồ Chí Minh
là tổng hoà không chỉ những cái tinh tuý của học thuyết Mác, của Lênin, mà còn của các
học thuyết và chủ nghía nhân văn khác, nhưng trước hết Người là một người Việt nam yêu
nước, một lãnh tụ của cách mạng VN. Hồ Chí Minh không ít lần đã tự vượt qua chính mình.
Xưa nay, không nhất thiết những lãnh tụ, những người đưa ra các chủ thuyết phải có những tác
phẩm viết lớn. Tất cả tư tưởng, tư duy của Người, đường lối cách mạng do Người đưa ra dẫn
đến CM tháng 8 thành công và mấy cuộc kháng chiến thắng lợi, những tư duy sâu sắc dùng để
xây dựng hiến pháp VN đầu tiên và lập chính phủ liên hiệp 1946, trong các tác phẩm và Di
chúc của Người, đủ để hình thành một học thuyết cho cách mạng VN, và cho cách mạng giải
phóng dân tộc của nhiều nước trên thế giới, làm cơ sở để xây dựng một chế độ Dân chủ cộng
hoà. Vậy nói gọn là Học thuyết Hồ Chí Minh cũng rất đủ tầm, rất xứng đáng làm nền tảng lý
luận cho việc xây dựng một nhà nước dân chủ cộng hoà, nền tảng chính trị - xã hội để từ đó
xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, mà phía ta và Loài người nói chung, gọi là CNXH.

4. CM tháng 8 ngẫu nhiên trùng hợp với biện pháp đấu tranh bạo lực giành chính quyền của
Quốc tế I và Quốc tế III. Tuy nhiên, CM tháng 8 thành công, trước hết là thắng lợi của chủ
nghiã yêu nước VN, là sự kết hợp rất tài tình với phong trào giải phóng dân tộc, sau đó mới
là sự vận dụng khéo léo những phần phù hợp với VN của CN Mác – Lê theo trào lưu mới
nhen nhóm cách mạng XHCN trên thế giới. Nói thắng lợi của CM dân tộc, dân chủ Việt Nam
chủ yếu là thắng lợi của việc vận dụng CN Mác Lê vào VN là không hoàn toàn chính xác, là
nhầm lẫn, gây ra sự hàm ơn trên mức cần thiết vào chủ nghĩa này và tạo ra tư duy “kiên trì”,
chung thuỷ thiếu căn cứ, thậm chí là cố chấp trong tranh luận, và trong tư duy chỉ đạo chiến
lược phát triển. (Nhưng hàm ơn về sự giúp đỡ (phần chân tình, hiệu quả, không lợi dụng) của
LX (cũ), Trung quốc và các nước “XHCN” anh em khác đối với CM dân tộc, dân chủ nước ta
lại là việc khác và rất đúng đắn). Học tập Hồ Chí Minh là học tập tư tưởng triết lý chiến lược
cốt lõi trong thâm sâu tư duy HCM, chứ không nên phụ thuộc những giai đoạn cụ thể và thái
độ sách lược hoặc bị ép buộc của thời thế.

5. Trong thời kỳ có 2 nhiệm vụ chiến lược xen kẽ: vừa xây dựng CNXH ở Miền Bắc, vừa đấu
tranh giành độc lập thống nhất tại Miền Nam, nếu thật đúng quy luật, Đảng ta cũng phải vận
dụng cùng một lúc 2 đường lối: QT II cho Miền Bắc và cả QT III cho chiến đấu ở Miền Nam
(đương nhiên rất khó rạch ròi, bởi vì ngay tại Miền Bắc, muốn làm hậu phương vững chắc, chi
viện tốt cho Miền nam, thì vẫn cần vận dụng đường lối QT III) Nhưng chúng ta đã hoà trộn
hoàn toàn yêu cầu lãnh đạo cả 2 miền bởi cùng một tư duy và cơ chế chủ yếu dùng cho đấu
tranh vũ trang. Sau khi hoà bình thống nhất đất nước, chúng ta vẫn tiếp tục kéo dài tư duy
,đường lối, chính sách của QT I và QT III , thậm chí bị ép sao chép theo mẫu của LX (Stalin)

8
và TQ (Mao Trạch Đông), dẫn đến bao sai lầm, đến tận khi không thể chịu đựng được nữa,
mới chịu Đổi mới từ Đại hội VI.

6. Việt nam tiến hành Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá từ một xã hội chưa có CNTB (cơ sở
vật chất tư bản ban đầu), chưa có dân chủ tư sản (nền chính trị, Nhà nước pháp quyền với nền
dân chủ tư sản ban đầu). Đó là một đặc điểm đi tắt tạo ra cái khó lớn nhất, tổng quát nhất về
phía chủ quan của nước ta hiện nay. Mặc dầu chúng ta đã có những bước tiến dài về nhiều
mặt không ai có thể phủ nhận, chúng ta có thể thực hành kinh tế thị trường, “công nghiệp hoá
rút ngắn” trên cơ sở vận dụng rất nhiều những yếu tố kinh tế TBCN lợi dụng tình hình thời thế
mới (kinh tế tri thức, hội nhập toàn cầu), song chúng không thể thực hiện “Dân chủ hoá rút
ngắn”, khi chúng ta chưa có những yếu tố tối thiểu của dân chủ tư sản, bỏ qua yếu tố thứ hai
nói trên để tiến thẳng lên một xã hội tốt đẹp hơn mà chưa ai hình dung ra mô hình của riêng
nó !

Sự “bỏ qua” thời kỳ phát triển chính thể TBCN tức là thể chế Nhà nước pháp quyền và
Dân chủ tư sản đã tạo ra một sự biến dạng xã hội ghê gớm: Nếu Xã hội tư bản tiến hoá đồng
bộ bằng cả đôi chân đó (Cơ chế thị trường + Dân chủ pháp quyền), thì ta chủ yếu mới đi bằng
một chân. Trung quốc cũng vậy. “Râu ông nọ, cắm cằm bà kia”: kinh tế đi theo QT II, nhưng
lại định hướng TBCN cổ điển, Chính trị đi theo QT III mang nhiều định hướng “XHCN” kiểu
LX cũ, không đồng bộ, làm cho xã hội tuy có lên cấp về cơ sở vật chất, song suy thoái rất rõ về
đạo đức xã hội; hiệu quả và hiệu suất phát triển kinh tế rất thấp: rất nhiều đồng vốn bỏ ra mới
có một đồng tăng trưởng, và nếu cứ theo cách này, đến một lúc nào đó sự tăng trưởng sẽ phải
dừng lại hoặc nợ nần chồng chất dẫn đến phá sản. Bởi lẽ: Cơ chế thị trường triển khai nhanh
chóng trong kinh tế, nhưng chưa có đủ cơ chế điều tiết hiệu quả và kiểm soát chặt chẽ (bởi
pháp luật nghiêm minh, bởi chính quyền dân chủ), nên mặt tiêu cực của nó đã lan rất nhanh
vào nền hành chính quốc gia và toàn bộ khu vực dịch vụ công, vào cả nhiều tổ chức Đảng,
đương nhiên là rất nhanh chóng loang ra toàn xã hội. Mặc dù thành tựu phát triển kinh tế là to
lớn, song do chưa chuẩn bị đầy đủ hệ thống kỷ cương pháp luật và thể chế trên tinh thần
dân chủ, nên một bộ phận đáng kể nền kinh tế thị trường đã dần dần bị “lưu manh hoá”,
còn một bộ phận đáng kể nền hành chính quốc gia (chưa có luật hành chính đầy đủ), thay
vì là nền hành chính quản lý - phục vụ, đã nhanh chóng trở thành nền cai trị quan liêu,
chuyên chế và bị lôi kéo theo xu hướng một xã hội “tư bản thân hữu” (Nhiều doanh nhân
cấu kết với các quan chức nhà nước để trục lợi, làm biến dạng nghiêm trọng nhiều đường lối,
chính sách, những quy hoạch, kế hoạch dài hạn nghiêm chỉnh đã được các Đại hội Đảng đề ra
– có thể chứng minh bằng cách rà soát lại, đối chiếu lại giũa Hiến pháp và các Nghị quyết Đại
hội với việc triển khai thực hiện cụ thể ! ) Thể chế chính trị chưa hoàn toàn đồng bộ với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Thể chế chính trị về thực chất vẫn theo đường lối Quốc tế III:
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo tuyệt đối, nặng về dân chủ hình thức; nhà nước vẫn theo
nguyên tắc tập trung trước– dân chủ sau; Đảng lãnh đạo toàn diện (Đảng chọn, dân bầu), “bao
cấp” cả về tư duy và nhận thức (chỉ có Đảng mới được chỉ ra, cái gì đúng, cái gì sai ! ). . ., phủ
nhận trên thực tế hoặc chủ động hạn chế Chế độ dân trị, Nhà nước pháp quyền và Xã hội dân
sự , nên nó không tự bảo vệ được mình khỏi quá trình tự thoái hoá, cũng không có khả
năng tự hoàn thiện mình một cách thực sự, sáng tạo có hiệu quả để phát triển bền vững, vì
vậy nó cũng khó có thể có đủ sức mạnh toàn dân đồng lòng nhất trí cao như trước kia để
chống chọi với các thế lực phản động bên ngoài. Đảng ta tại Đại hội này cần vạch rõ nguyên

9
nhân đã làm cho bước tiến của Đất nước chậm chạp, rât nhiều khuyết tật, chưa được như mong
muốn đúng như mục đích lý tưởng của Đảng và nguyện vọng của Nhân dân !

7. Để có thể đưa cách mạng VN quay trở lai quỹ đạo chân chính, truyền thống, ta nên làm gì ?
Thực chất ta đã làm được rất nhiều về dân chủ hoá, về cơ chế kinh tế, về cải cách hành chính
so với 1975, nhưng còn rất chậm, chưa đạt yêu cầu hội nhập với thế giới văn minh. Không phải
ngẫu nhiên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã thay mặt toàn Đảng phát biểu rất đúng tại lễ kỷ
niệm 2 - 9 vừa qua: Việt nam cần phải đổi mới toàn diện; trước hết phải củng cố xây dựng
và đổi mới Đảng. Tôi xin nêu một số ý kiến như sau

Một là: Cần nhanh chóng vượt qua chính mình, như Mác, Ănghen và Lênin, và
nhiều những nhà cách mạng chân chính đã từng làm được: Trước hết cần chuyển đổi căn bản
mục tiêu chiến lược của Đất nước, của toàn Đảng: Cần phải lấy sự tồn tại hùng cường của
Đất nước, của Dân tộc,lấy cuộc sống hạnh phúc văn minh cho nhân dân, cùng thời đại tiến
tới một xã hội tốt đẹp hơn làm mục tiêu tối thượng, chứ không chỉ lấy kiên trì CN Mác Lê
làm định hướng tư tưởng như vẫn làm. Quyết không biến công cụ thành mục tiêu như lâu
nay vẫn bị nhầm lẫn. Đó là nội dung quan trọng nhất của hội nhập toàn cầu, của trào lưu tiến
hoá chung lên CNXH đích thực của nhân loại. (Nên nhớ, với máy hơi nước và các công xưởng
đại cơ khí cuối thế kỷ 18, với xã hội ở trình độ tương ứng, Mác đã thúc đẩy tạo ra Quốc tế I ;
chỉ mấy chục năm sau, khi có điện khí hoá và sản xuất theo dây chuyền tự động đầu thế kỷ 19,
xã hội đã thay đổi khá hơn, Mác đã từ bỏ ngay Quốc tế CS I, cho ra đời Quốc tế II; Lênin thì
đưa ra “Chính sách kinh tế mới” chỉ sau sự ra đời Quốc tế CS III của chính Ông có mấy năm.
Vậy mà, cho đến nay, đã trải qua hơn 100 năm tiến hoá vũ bão, thế giói đã đi vào một Thời đại
mới, xã hội đã đổi khác hoàn toàn, với hội nhập kinh tế tri thức, công nghệ thông tin, các con
tầu vũ trụ, người máy . . .và sự “trả thù” chưa từng có của thiên nhiên, mà ta dường như vẫn
nói “kiên trì” nghiêm chỉnh lấy riêng CNCS Mác Lê cách nay hơn 100 năm làm nền tảng lý
luận cách mạng, thì nhân tâm vẫn ly tán là phải ! Nếu Mác, Ănghen và Lênin mà còn sống, có
lẽ các Ông đã mấy lần bỏ các “Quốc tế” (đường lối) cũ đi và đã nhiều lần lập nên các “Quốc
tế” mới; có lẽ các Ông ấy đã tự vượt qua chính mình đến mấy lần rồi. Vậy mà tôi, anh, chúng
ta vẫn “kiên trì” ôm lấy chân dung các ông, níu kéo nhiều phần của các Quốc tế cũ của các
Ông ấy lại ! Xin nhắc lại, tôi sẽ không nhầm và đồng nhất CNCS Mác Lê với CNXH, không
nhầm vì thấy Thời đại này vẫn là Thời đại quá độ toàn thế giới, không phân biệt “ý thức hệ”,
tiến lên CNXH mà nói rằng CN Mác Lê vẫn là chỗ dựa duy nhất ! Để vững lòng Đảng ta, yên
lòng nhân dân ta, và tập hợp được rộng rãi nhất bạn bè trên toàn thế giới vì sự nghiệp xây dựng
đất nước ta, chúng ta tuyên bố chính thức: Lấy dường lối tư tưởng Hồ Chí minh làm nền tảng
lý luận cách mạng XHCN của VN giai đoạn hiện nay. Không nên vương vấn quá nhiều vào
những tư duy, ý thức hệ Mác - Lê cũ, lạc điệu với thời đại, làm cản trở quá trình đổi mới toàn
diện, triệt để của Đảng và Nhân dân ta. Đó là nhận thức vượt qua chính mình của bản thân tôi.

Hai là: Tôi hoàn toàn nhất trí với Đ/C TBT Nông Đức Mạnh, đã nói lên tiếng nói nhất
trí của toàn thể TW, Bộ Chính trị, của toàn Đảng và toàn Dân ta: Mặc dù chúng ta đã đạt được
rất nhiều thành tựu to lớn, song cần Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ toàn diện, đưa đất nước bắt
kịp thời đại – đó là điều kiện duy nhất, hợp quy luật phổ biến, để xã hội ta ổn định và phát
triển bền vững; Cần thực sự và có cơ chế kiểm tra, kiểm soát để thực hiện đầy đủ Di chúc và
phát triển Di sản lý luận và thực tiễn “nhà nước Dân chủ cộng hoà” của Hồ Chính Minh.
Như đã phân tích ở trên, trong giai đoạn hiện nay, cách mạng Việt nam hãy tĩnh tâm, bình tĩnh,

10
nghiêm khắc thực hiện cho được nghiêm chỉnh Di chúc và học thuyết Hồ Chí Minh (như cách
hiểu ở trên), tạo lập vững chắc nền dân chủ cộng hoà, nhà nước pháp quyền, xã hôi công dân,
Dân chủ - tập trung, Đảng của Toàn dân, đảng phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp chứ
không đứng trên hiến pháp, đứng ngoài pháp luật, để phù hợp với giai đoạn hội nhập, mở cửa,
cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, hoà nhịp với luật chơi chung của tuyệt đại đa số các
nước trên thế giới, tạo nền móng cho những giai đoạn phát triển bền vững tiếp theo;Có cơ chế
tốt để thực hiện thực sự đường lối Dân làm chủ (toàn bộ trí tuệ và sức mạnh là ở nơi Dân), chứ
không phải chỉ có Đảng CS làm chủ, cũng không phải chỉ các tầng lớp Doanh nhân giầu có làm
chủ, càng không cần thiết lấy kiên trì Mác – Lê làm mục tiêu tập hợp lòng dân (Mà trái lại,
càng “kiên định” Mác Lê, càng dễ gạt bỏ những lực lượng và trí tuệ tiến bộ có ích cho phát
triển Đất nước, nhưng họ vẫn nhầm lẫn, ấn tượng xấu, đánh đồng giữa CNXH với CN Mác Lê
quá khích – phân kỳ I; đồng thời vẫn bị cản trở trong hợp tác quốc tế do khác biệt ý thức hệ
một cách máy móc, giả tạo) ; không cố chấp về “hệ tư tưởng” đã từng khác biệt, mà cần đi
cùng trào lưu tiến hoá của các nước phát triển đấu tranh cho dân chủ và công bằng , cho
hoà bình và môi trường, cho liên kết và hội nhập bình đẳng để cùng toàn thể Nhân loại tiến
hoá đến một xã hội tốt đẹp hơn; Hãy cùng quên đi quá khứ lịch sử đau buồn với khảu hiệu “ai
thắng ai” , thậm chí “Một mất, một còn” trong một Đất nước để có thể tập hợp, đoàn kết, đại
đoàn kết Dân tộc, bằng cách đó, Đất nước ta lại có thể ngẩng mặt nhìn lên, đồng tình, đồng
chí tham gia có chất lượng vào hàng ngũ “các thuyền trưởng” của con tầu Hành tinh, tham
gia dẫn đầu xây dựng “Nhà nước pháp quyền toàn cầu”, và hãy tìm chỗ đứng xứng đáng
cho người lao động Việt nam trong thuỷ tuỷ đoàn của con tầu này. Đó chắc chắn là những
mục tiêu thoáng rộng hợp lòng dân nhất, hợp quy luật tiến hoá chung của Trời Đất nhất,
không bị “kẹt” vào bất cứ một tư duy “ý thức hệ” nào, mà “nhân dân ta hoàn toàn có đủ tinh
thần và nghị lực, trí tuệ và của cải” để làm được. Đó cũng là con đường duy nhất để tồn tại hợp
lòng dân của Đảng ta. (Nói một cách công bằng: Đảng ta đã làm được rất nhiều trên con đường
này, tuy nhiên còn quá chậm chạp, e ngại dụt dè và “nể nang” với tệ nạn tiêu cực tham nhũng
so với yêu cầu tiến lên của cách mạng, của Dân tộc).
Đổi mới triệt để toàn diện - đó chính là liệu pháp đúng đắn nhất để nhân dân Việt nam,
Đảng CS Việt nam tự vượt qua được chính mình, tạo cơ sở vững chắc để vượt qua được
những khó khăn hiện nay.

4- “Thời kỳ quá độ lên CNXH” hiện thực ở nơi nào hiện nay là đáng hy vọng và
tin cậy nhiều hơn để liên kết, phối hợp xây dựng một nền chính trị văn minh (XHCN đích
thực)?

Để trả lời câu hỏi này, cần phải khẳng định trước sự đúng đắn của định luật: “Thực
tiễn là chân lý cao nhất”, chứ không phải lý luận, hay “ý thức hệ” chung chung.
Vì đã là quy luật tiến hoá phổ biến của Loài người, nên sau CN Phong kiến, tất yếu đã
là CNTB, và sau CNTB tất yếu sẽ là . . .CNXH (theo cái nghĩa khái quát như trên kia đã nêu:
nó là nấc thang mới trong quá trình tiến hoá chung của cả Loài người ). Khi đã thừa nhận sự
tiến hoá của Loài người là không ngừng, thì có thể nói, trên thực tế, toàn thế giới hiện nay
đương nhiên đang trong thời kỳ quá độ (không đồng đều) lên CNXH – nói theo cả nghĩa triết
học rộng dài, lẫn nghĩa đen hiện thực của nó. Ta không nên đánh giá chỉ dựa vào con đường
(phương thức) để đạt được mục tiêu, mà nên dựa vào kết quả đạt được mục tiêu cuối cùng. Nếu
thống nhất như vậy, ta sẽ có bức tranh toàn cảnh về “thời kỳ quá độ lên CNXH” trên thế giới
như sau:

11
Đầu tiên là những nước tư bản phát triển nhất , một sự thừa nhận rộng rãi trên toàn
thế giới: xã hội của họ trên thực tế đang tiến gần đến những chuẩn mực mong muốn và nhiều
yếu tố của CNXH hơn cả, đúng như kết luận mang tính khoa học sâu sắc của Mác: “Các nước
TB phát triển nhất sẽ tiến lên CNXH trước tiên”. Mặc dù trong lòng CNTB vẫn còn rất nhiều
những tồn tại lớn, giai cấp tư sản vẫn chiếm ưu thế trong địa vị lãnh đạo đất nước, nhưng thực
sự là họ, như trên đã nói, họ đang trong qúa trình khắc phục để quá độ lên tới gần CNXH nhất;
Thứ hai là những nước “đang chuyển đổi” từ “CNXH” kiểu cũ (đã thất bại), nay đi sang
một mô hình “chuyển đổi”, tuy đã có nhiều bước tiến lớn thông qua Đổi mới và Cải cách,
nhưng nhóm nước này vẫn chỉ nên tự coi là đang xếp hàng thứ hai, chậm hơn, vì phải đi
đường vòng. Thứ ba là nhóm nước đang phát triển còn lại đang dõi theo những người đi
trước. Cuối cùng là nhóm các nước chậm phát triển : họ còn khá khó khăn, chật vật với sự tồn
tại tối thiểu, nhưng họ đã đủ nhận thức và thực tiễn để hướng về một xã hội tốt đẹp hơn. Tôi
trình bầy những lập luận trên là để mong muốn có một bước ngoặt về tư duy chiến lược hợp
quy luật và thực tiễn sau đây: Hãy gạt bỏ những tư duy khác biệt giữa TBCN phát triển và
XHCN hiện thực mắy móc theo ranh giới quốc gia. Dù thừa nhận hay không, những lực
lượng tiến bộ nhất trên hành tinh, dù đang nằm ở các nước tư bản phát triển, hay tại các nước
đang “chuyển đổi” và nhiều nước khác, đều đang hành động nhằm đẩy mạnh quá trình tiến hoá
của Loài người về hướng XHCN. Nhân dân và những người lãnh đạo tiến bộ tại các nước tư
bản phát triển - những người tuy không muốn thừa nhận, hay không nói ra, nhưng trên thực tế -
theo quy luật tiến hoá – dù muốn thừa nhận hay không, họ đang hoạt động để đưa đất nước họ
tiến gần tới CNXH, gần mục tiêu chung tốt đẹp của Loài người hơn chúng ta – , do đó ta không
nên có thái độ “miệt thị ý thức hệ”, “cảnh giác cách mạng”, thành kiến theo thói quen máy
móc, “kiêu ngạo cộng sản” thiếu căn cứ như lâu nay ta vẫn gọi tất cả họ là “bọn tư bản “ (mặc
dầu không có chứng cớ xác đáng để miệt thị về sức mạnh kinh tế, văn minh xã hội và nền Dân
chủ của họ). Hãy từ bỏ danh giới cổ điển máy móc, tạo ra sự lẫn lộn giữa cái tốt đã và đang
nẩy mầm và cái xấu vẫn đang tồn tại trong cả “2 phe” Tư bản và XHCN hiện thực: Cái tốt
trong “phe TB” bị thành kiến, không được thừa nhận, vận dụng và phát huy đầy đủ vào “phe”
XHCN; cái xấu trong “phe XHCN” lại lợi dụng danh nghĩa XHCN, lợi dụng lòng tin thiếu cơ
sở khoa học (lý thuyết) để trục lợi gây tiêu cực, thiệt hại xã hội và làm hoang mang không chỉ
đối với nhân dân các nước XHCN cũ, mà còn làm hoen ố cái tên XHCN tốt đẹp trước con mắt
nhân dân thế giới. Kẻ thù chung hiện nay của cả 2 “phe” chính là sự lạc hậu, sự lẫn lộn, sự
nghi kỵ lẫn nhau, là nạn “ăn tàn tiêu phá”,là tàn dư đế quốc, thực dân, phong kiến, là tư
tưởng hiếu chiến, là chủ nghĩa bá quyền nước lớn, hay nạn phá hoại môi trường ở mọi nơi.
Không nên chỉ trông chờ, nể trọng, thân thiện hơn chỉ với nhân dân các nước đang chuyển đổi
(cho là vì cùng “ý thức hệ” ! ), và với các nước đang phát triển khác - những người còn đứng ở
phía sau so với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh - để học
tập, hợp tác và để trông chờ họ góp trí và lực cùng giải quyết các vấn đề toàn cầu và XHCN
của toàn Nhân loại. Hơn thế, còn cần lưu ý: nếu nước nào tuy đang “chuyển đổi”, nhưng còn
chưa có NNPQ và nền dân chủ hoàn thiện, mà vẫn còn nặng di sản phong kiến bá quyền, theo
CN dân tộc hẹp hòi, hoặc hành động biệt phái trái đạo lý Trời Đất, thì họ còn xa CNXH đích
thực, và vì vậy tác dụng của họ còn bị hạn chế, thậm chí có thể, trong hành động, họ còn tai hại
hơn cả các nước TB phát triển, nơi đã có NNPQ và nền Dân chủ tư sản hàng chục, hàng trăm
năm nay ! Bây giờ là lúc chủ nghiã dân tộc, cạnh tranh tiến bộ xã hội, và khoa học công
nghệ ở quy mô quốc gia và cạnh tranh tầm toàn cầu đang lấn át hoàn toàn đấu tranh giai
cấp trong từng nước. Và về thực chất cũng không còn đấu tranh (hoặc phối hợp) ý thức hệ
giữa các nước, mà là đấu tranh (hoặc phối hợp) cho quyền lợi dân tộc, cho nền văn minh toàn

12
cầu. Nói quan hệ “ý thức hệ” kiểu cổ đôi khi chỉ là cái cớ để thực hiện những mục đích không
trong sáng ở một vài nơi. Chúng ta nên tỉnh táo và nhìn thẳng vào sự thật này để tiếp thu, hoà
vào các mặt tích cực, chống lại những mặt tiêu cực của thế giới, không để nhầm lẫn “ý thức
hệ” kiểu cổ làm cản trở con đường tiến lên của Dân tộc, để có cương lĩnh sửa đổi cho thật phù
hợp với Thời đại.

5- Cùng nhận chân và tham gia ngăn chặn có hiệu quả hai kẻ thù chung lớn, nguy
hiểm nhất hiện nay của cả Loài người – và vì vậy, có thể đó cũng là nhiệm vụ số một của
cách mạng XHCN ở Việt Nam và trên toàn thế giới:

Kẻ thù lớn thứ nhất là lòng tham quyền lực: Quyền lực Cá nhân, quyền lực Nhóm, và
quyền lực Quốc gia. Quyền lực tập trung mù quáng sẽ bóp chết Dân chủ và dẫn đến tàn phá
xã hội. Shakspeare đã viết: “Quyền lực thành ý chí, thành lòng tham không đáy/ Chính đấy là
“con sói “ của Vũ trụ/ Tất yếu nó phải biến cả Vũ trụ thành con mồi/ Sau cùng thì nó . . . ăn thịt
chính nó ! “ Xem ra, nếu chỉ nhìn mặt trái của cả Hành tinh, ở hoàn cảnh phức tạp hiện nay
của Thế giới, thì điều mà Shakspeare đã viết từ thế kỷ 19 ngày càng đúng. Chỉ nói ở tầm cỡ thế
giới, ta đã thấy: Từ Đế chế La Mã, Tần Thuỷ Hoàng, Napoleon, vòng qua Đức quốc xã, Phát
xít Ý - Nhật, sang Đế quốc Mỹ của Đảng Cộng hoà thế kỷ XX, các cá nhân độc đoán lừng
danh cũng có thể kể đến Ông Stalin, Ông Mao và không ít người. . . và dè chừng sắp tới sẽ còn
là Ai đây ?
Kẻ thù lớn thứ hai của Loài người là lòng tham hưởng thụ vật chất vô độ. Kẻ thù này
hợp sức với kẻ thù lớn thứ nhất đã làm tàn tạ Bà mẹ Trái đất, và còn đang hò nhau “hạ gục”
Bà, rồi sau đó có lẽ, nếu không có những giải pháp toàn cầu khắc phục kịp thời, Loài người . . .
cũng sẽ tự sát tập thể luôn. Hiện nay Thiên nhiên đã bắt đầu “trả thù” Loài người vì những lòng
tham không đáy và mù quáng của nó. Điều này, những đầu óc minh mẫn sáng suốt trong Câu
lạc bộ Rôma đã cảnh báo từ lâu.
Nhìn tổng quát: Trong mọi giai cấp, mọi lớp người, mọi quốc gia, chỗ nào cũng có
người tốt, kẻ xấu, người nhân đức, kẻ bất lương. Chỉ có vận dụng những cơ chế, công cụ
quản lý đúng đắn, có hiệu lực và hiệu quả mà Loài người đã gọt rũa hàng trăm năm và chọn
lựa công phu mới đủ sức hướng mọi con người, mọi quốc gia, dù là loại nào, buộc phải sống
hợp lý, công bằng, có nhân đức, bình đẳng, có trí tuệ và có văn hoá với nhau. Nói như vậy để
thấy “kẻ thù giai cấp” bây giờ chỉ là một khuyết tật không lớn và không đáng sợ đến mức ta chỉ
“nhăm nhăm” dồn hết tâm sức, trí tuệ, chia trận địa rạch ròi ra để tiêu diệt nó ! Chúng ta hãy
trước hết phải đại đoàn kết Dân tộc, giữ vững định hướng XHCN đích thực, liên kết hợp lực
cùng toàn thể các lực lượng tiến bộ trên Thế giới, không phân biệt biên giới quốc gia, “ý thức
hệ” cổ điển, để cùng chống lại hai kẻ thù chung to lớn và nguy hiểm thực sự nói trên của toàn
thể Loài người, dù nó tồn tại ở chỗ nào, nước nào.
-----------
Hy vọng tại Đại hội Đảng lần này, như Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã thay mặt TƯ
phát biểu rất đúng tại lễ kỷ niệm 2 - 9 vừa qua: Việt nam cần phải đổi mới toàn diện; trước
hết phải củng cố xây dựng và đổi mới Đảng, những người Cộng sản VN sẽ cùng làm sáng tỏ
những chân lý của thời đại mới, đưa ra những quyết sách thật sự sáng suốt để dẫn đường cho
Dân tộc Việt Nam nhanh chóng vững bước tiến lên. Nếu Đảng ta thực sự quyết tâm đổi mới
toàn diện, nhân dân ta bỏ qua và tha thứ cho mọi sai trái vô ý thức trong Đảng và trong xã hội
trước đây, một lòng đoàn kết chung quanh Ban CH Trung ương, phấn đấu hết sức mình thực
hiện tư tưởng, đường lối, đạo đức, Di chúc HCM, thì “không khó khăn nào chúng ta không

13
vượt qua, không kẻ thù nào chúng ta không đánh thắng”. Xin Đảng ta, trong đó có anh, tôi và
chúng ta, hãy quyết tâm dũng cảm tự vượt qua được chính mình, không chỉ vì riêng bản thân
và gia đình mình hiện nay, để Đảng nắm chắc ngọn cờ lãnh đạo Đất nước trong thời điểm lịch
sử này nhằm tiến nhanh tới đich XHCN hơn nữa. Hy vọng Đại hội XI chính là phần tiếp nối
Đại hội VI về phương diện chính trị của Đảng ta.
Đó là những nhận thức mới của tôi, và của không ít bạn bè, tôi xin viết ra một phần, có
thể còn những chỗ chưa thật chuẩn xác, xin thứ lỗi trước, và xin được chỉ dẫn. Xin chân trọng
trình bầy với Bộ Chính trị và các Đ/C có trách nhiệm khác của TW.
Hà Nội. ngày 22 tháng 9 – 2009
Một thường dân, một đảng viên CS
Vũ Duy Phú
Kính đề nghị Văn phòng TƯ Đảng
sao chuyển giúp tới tất cả các Đ/C TƯ UV

Địa chỉ liên hệ góp ý qua:


098 365 6976
vuduyphu36@yahoo.com

14

You might also like