You are on page 1of 17

Ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.

Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đã đạt tới
đỉnh cao bằng việc giành chính quyền về tay nhân dân. Đây là một sự
kiện lịch sử vĩ đại của loài người và nó mang cả ý nghĩa trong nước và
quốc tế.
a. Ý nghĩa trong nước.
- Cách mạng đã đập tan ách thống trị của giai cấp phong kiến và tư bản
Nga, thiết lập nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới trên
phạm vi diện tích bằng 1/6 diện tích thế giới. Cách mạng đã đưa nhân
dân Nga từ thân phận nô lệ lên cuộc sống làm chủ đồng thời mở ra kỉ
nguyên mới trong lịch sử nước Nga – kỉ nguyên độc lập tự do và đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Thế giới.
- Đập tan chủ nghĩa đế quốc ở khâu yếu nhất là đế quốc Nga từ đó phân
chia thế giới thành hai chế độ đối lập nhau là Chủ nghĩa tư bản và Chủ
nghĩa xã hội.
- Mở ra con đường Cách mạng vô sản cho giai cấp công nhân ở các nước
tư bản và nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc. Cách mạng tháng
Mười như một tấm gương chói lọi, nó thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị
áp bức đứng lên tự giải phóng “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng
tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu
người bị áp bức đứng lên tự giải phóng.
- Cách mạng tháng Mười đã mở đầu sự gắn bó chặt chẽ giữa phong trào
cách mạng vô sản ở các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa, phụ thuộc thành một mặt trận chung chống chủ
nghĩa đế quốc. Bởi vậy từ sau Cách mạng tháng Mười, phong trào cách
mạng ở mỗi nước trong đó có Việt Nam đều là một bộ phận khăng khít
của phong trào cách mạng thế giới.
- Cách mạng tháng Mười đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lê-
nin đồng thời nó mở đường cho chủ nghĩa Mác Lê-nin thâm nhập vào tất
các quốc gia, dân tộc khác nhau trên thế giới nhất là các nước thuộc địa
và phụ thuộc.
- Cung cấp những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu cho phong trào
Cách mạng thế giới.
- Cách mạng tháng Mười và Chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc
thời kì Lịch sử thế giới cận đại và mở ra thời kì phát triển mới trong lịch
sử loài người: Lịch sử
thế giới hiện đại – giai
đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới.

Cách mạng Tháng Mười Nga và phong trào xã hội chủ nghĩa :
Cách mạng Tháng Mười Nga và phong trào xã hội chủ nghĩa
Gần trọn một thế kỷ qua, kể từ khi cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười
Nga thắng lợi (7-11-1917), nhân loại đã chứng kiến biết bao biến cố
thăng trầm, phức tạp. Song, với việc thủ tiêu chế độ phản động câu kết
giữa giai cấp tư sản và phong kiến Sa hoàng, khai sinh nhà nước công
nông đầu tiên trên thế giới, Cách mạng Tháng Mười vẫn là một trong
những sự kiện trọng đại nhất của lịch sử thế giới hiện đại. Cách mạng
Tháng Mười không chỉ chứng minh trên thực tế khả năng giành thắng
lợi của nhân dân lao động đối với giai cấp thống trị, bóc lột, mà còn là
một mẫu mực điển hình về sự lựa chọn con đường đi đến thắng lợi đó.
Bởi vậy, lý tưởng và con đường Cách mạng Tháng Mười vẫn tiếp tục toả
sáng, soi rọi cuộc đấu tranh tự giải phóng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, tiếp thêm nguồn sinh lực cho phong trào XHCN hiện
nay trên thế giới kiên định vượt qua những khó khăn, thử thách, không
ngừng đổi mới, sáng tạo cả về lý luận và hoạt động thực tiễn nhằm vươn
tới mục tiêu chiến lược của mình.
ý nghĩa đi tiên phong mở đầu thời đại mới của Cách mạng Tháng
Mười cho thấy, thắng lợi của nó dù lớn lao nhưng mới là thắng lợi đầu
tiên trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại tiến lên CNXH. Con đường đi đến
thắng lợi hoàn toàn là quá trình lịch sử lâu dài, không bằng phẳng mà
gập ghềnh, đầy gian khó. Tuy vậy, tấm gương mang tính đột phá sáng
tạo của Cách mạng Tháng Mười có sức lôi cuốn tất cả những trào lưu và
khuynh hướng chủ yếu của cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa
đế quốc. Cao trào cách mạng thế giới sau Cách mạng Tháng Mười đã
thực sự làm chấn động dinh luỹ của CNTB. Các dân tộc thuộc địa ở hầu
khắp các châu lục được thức tỉnh, vùng lên đấu tranh giành độc lập dân
tộc. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển ngày càng mạnh mẽ, liên
tiếp giành thắng lợi, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân, đế quốc, đưa độc lập dân tộc trở thành giá trị phổ biến mang tính
thời đại. Tiếp bước trên con đường lớn của Cách mạng Tháng Mười,
nhiều dân tộc ở châu Âu, châu á và Mỹ Latinh dưới sự lãnh đạo của các
đảng cộng sản tiến hành cách mạng thành công, đưa đất nước đi lên xây
dựng CNXH. Hệ thống XHCN thế giới từng được xác lập và ảnh hưởng
to lớn đến xu thế phát triển tiến bộ của lịch sử nhân loại.
Ngày nay, mặc dù CNXH hiện thực vẫn đứng trước nhiều khó
khăn thử thách lớn, phong trào XHCN thế giới chưa hoàn toàn vượt ra
khỏi tình trạng khủng hoảng sau sự đổ vỡ của chế độ XHCN ở Đông Âu
và Liên Xô, nhưng con đường được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười
với ý nghĩa trọng đại của nó vẫn là một xu thế vận động tất yếu của lịch
sử nhân loại. Trong điều kiện lịch sử mới, tiếp tục kiên định con đường
Tháng Mười vĩ đại, các đảng cộng sản (ĐCS), công nhân và cánh tả trên
thế giới nỗ lực đoàn kết củng cố đội ngũ, sáng tạo điều chỉnh chiến lược,
sách lược, tìm kiếm cách thức hoạt động, đấu tranh bằng nhiều hình thức
đa dạng, đổi mới tập hợp lực lượng,... chuẩn bị từng bước những tiền đề
hiện thực cho sự nghiệp đi lên CNXH phù hợp với điều kiện cụ thể ở
mỗi nước, mỗi dân tộc, phù hợp với những biến đổi diễn ra trên thế giới
trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu
hoá. Sự củng cố vững mạnh của các ĐCS cầm quyền, sự phục hồi nhất
định của các ĐCS chưa cầm quyền và những chuyển động tích cực của
trào lưu cánh tả hiện nay đang mở ra triển vọng mới cho phong trào
XHCN thế giới thế kỷ XXI.
Dưới sự lãnh đạo của các ĐCS, công cuộc cải cách, đổi mới, phát
triển kinh tế-xã hội đi lên xây dựng CNXH ở Trung Quốc, Việt Nam,
Cu-ba và Lào nhiều năm qua đạt được những thành tựu rất đáng khích
lệ. Điều này góp phần củng cố vai trò và ảnh hưởng của CNXH trên thế
giới, đưa các nước XHCN ngày càng trở thành những chủ thể quan trọng
của quan hệ quốc tế hiện đại. Quá trình cải cách, mở cửa và hiện đại hoá
của Trung Quốc đã đem lại cho nước này tầm vóc kinh tế, chính trị,
quân sự to lớn. Năm 2005, tổng GDP của Trung Quốc đạt khoảng 2.420
tỷ USD, đứng thứ tư thế giới chỉ sau Mỹ, Nhật Bản, Đức. Trung Quốc
trở thành cường quốc thương mại đứng thứ ba trên thế giới sau Mỹ và
Nhật Bản với tổng kim ngạch đạt gần 1.200 tỷ USD. Dự trữ ngoại tệ
vượt lên đứng đầu thế giới với hơn 700 tỷ USD, GDP bình quân trên
4.000 USD/người/năm... Là một nước đang phát triển với số dân khổng
lồ 1,3 tỷ người, những thành tựu của Trung Quốc là một kỳ tích ngoạn
mục.
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam sau 20 năm đạt được thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử. GDP tăng 3,5 lần, thu nhập bình quân trên đầu
người tăng hơn ba lần. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã bình
thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao với 168 nước, đồng thời phát
triển quan hệ đa phương, đa dạng với các đối tác nước ngoài theo tinh
thần “là bạn, đối tác tin cậy..., tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đối với Lào, tốc độ tăng GDP trong 5 năm qua là 7%/năm. Năm 2005,
Cu-ba có mức tăng GDP rất cao, đạt 11,8%. Đánh giá tình hình kinh tế
của các nước XHCN, Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng tỷ trọng GDP
của các nước này 15 năm qua đã tăng hơn 2 lần, từ mức 1,7% lên 4,1%
và có chiều hướng tiếp tục tăng lên.
Các ĐCS cầm quyền đã chủ động tổng kết những bài học kinh
nghiệm thành công cũng như không thành công trong xây dựng CNXH
ở Liên Xô, Đông Âu và những kinh nghiệm của chính mình, tích cực tìm
tòi mô hình về lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH. Nỗ lực tìm khai
phá mô hình con đường đi lên CNXH của các đảng này có nét mang tính
đột phá, được thể hiện trước hết trong việc sử dụng kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của CNXH. Trung Quốc xác định mô hình kinh tế thị
trường XHCN, ở Việt Nam - nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
ở Lào - nền sản xuất hàng hóa đi lên CNXH. Nhiều ĐCS, công nhân trên
thế giới đánh giá cao sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế-xã hội của
Trung Quốc và Việt Nam, coi đây là sự bổ sung độc đáo về lý luận của
CNXH, đóng góp thiết thực vào việc phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin,
CNXH trong điều kiện lịch sử mới. Những thành tựu cải cách, đổi mới
của các nước XHCN là một minh chứng sinh động cho sức sống và khả
năng tự đổi mới để đi lên của CNXH. Xét trên mọi phương diện, đây là
nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với các ĐCS, công nhân và cánh tả, giúp củng
cố niềm tin vào lý tưởng của con đường Cách mạng Tháng Mười, đồng
thời thúc đẩy quá trình phục hồi, phát triển phong trào XHCN trên thế
giới hiện nay.
Khu vực Liên Xô và Đông Âu.
Tuy vẫn phải đối diện nhiều thách thức lớn do những nguyên nhân
khác nhau, song các ĐCS, công nhân đã ngày càng tỏ rõ sự chủ động
hơn trong đổi mới hoạt động, củng cố cơ sở xã hội, lấy lại uy tín trong
xã hội. Một số đảng là lực lượng đối lập mạnh như ĐCS Liên bang Nga,
ĐCS U-crai-na, ĐCS Séc và Mô-ra-va, thậm chí có đảng giành thắng lợi
trong bầu cử quốc hội, được quyền đứng ra thành lập chính phủ như
ĐCS Môn-đô-va và một số đảng vùng Trung á.
Khu vực các nước tư bản phát triển.
Phong trào cộng sản có dấu hiệu phục hồi rõ nét. Trong hoàn cảnh
thường xuyên bị các thế lực phản động chống phá gay gắt, nhiều ĐCS,
công nhân ở đây vẫn kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin, điều chỉnh đường
lối chiến lược, sách lược đấu tranh với CNTB, bảo vệ lợi ích của các
tầng lớp lao động. Đi đầu theo hướng này, phải kể đến những cố gắng
của các ĐCS Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ĐCS Tái lập I-ta-li-a,
Đảng Tiến bộ của nhân dân lao động Síp, ĐCS Nhật Bản... Về đối nội,
điều chỉnh quan trọng nhất của các đảng là tập trung chống chính sách
kinh tế-xã hội theo chủ nghĩa tự do mới, chống đại tư bản độc quyền,
vạch trần các thủ đoạn bóc lột tinh vi của CNTB trong điều kiện cách
mạng khoa học-công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá. Nhằm tập hợp lực
lượng xã hội rộng rãi, các ĐCS, công nhân ở các nước tư bản phát triển
chú trọng mục tiêu đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ và công bằng
xã hội. Về đối ngoại, tuyệt đại đa số các đảng đều nhấn mạnh ưu tiên
cho cuộc đấu tranh chống cường quyền đế quốc trong sinh hoạt quốc tế.
Họ phản đối NATO mở rộng sang phía Đông, lên án Mỹ phát động
chiến tranh chống Irắc, thực hiện chiến lược mới “đánh đòn phủ đầu” và
chủ nghĩa đơn phương đầy nguy hiểm đối với hoà bình, ổn định trên thế
giới.
Khu vực các nước đang phát triển á, Phi và Mỹ Latinh.
Các ĐCS và công nhân về cơ bản vẫn trụ lại, cố gắng tìm kiếm
hình thức hoạt động thích hợp. Một số đảng hoạt động tích cực, có cơ sở
xã hội và ảnh hưởng khá mạnh trong xã hội như các ĐCS ở ấn Độ, ĐCS
macxit-lêninit Thống nhất Nê-pan, ĐCS Xi-ry, I-xra-en, Nam Phi, En
Xan-va-đo, Guy-a-na, Bô-li-vi-a, U-ru-goay... Trong đó, đáng chú ý là
thắng lợi trong bầu cử của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ, Đảng
Lao động Bra-xin, đưa hai đảng này lên vị trí nắm quyền.
Bên cạnh sự phục hồi và củng cố của các ĐCS, công nhân, những
năm vừa qua đã xuất hiện những nhân tố mới rất đáng chú ý góp phần
thúc đẩy tích cực đối với phong trào XHCN thế giới. Một trong những
nhân tố đó là sự phát triển của trào lưu cánh tả quốc tế, đặc biệt ở khu
vực Mỹ Latinh. Tại đây, tiếp sau thắng lợi của lãnh tụ cánh tả Hu-gô
Cha-vet ở Vê-nê-xu-ê-la trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1998, một số
chính phủ cánh tả tiến bộ đã lần lượt được thành lập thông qua tổng
tuyển cử: Năm 2000, chính phủ của Tổng thống cánh tả R.La-gốt ở Chi-
lê ra đời, năm 2002 - chính phủ của Tổng thống Lu-la đờ Sil-va ở Bra-
xin, năm 2003 - Tổng thống N.Kit-chơ-nơ ở ác-hen-ti-na, năm 2004 -
Tổng thống M.Tô-ri-giô ở Pa-na-ma và Tổng thống T.Vat-quet ở U-ru-
goay, năm 2005 - Tổng thống E.Mô-ra-let ở Bô-li-vi-a, năm 2006 - Tổng
thống Ba-xê-nét ở Chi-lê. Chỉ trong thời gian ngắn, đã có 8 chính phủ
cánh tả tiến bộ cầm quyền ở khu vực Mỹ Latinh, đây thực sự trở thành
một hiện tượng nổi bật trong thực tiễn chính trị thế giới sau chiến tranh
lạnh.
Trong thời gian nắm chính quyền, đa số các chính phủ cánh tả Mỹ
Latinh đều tuyên bố hoặc đã tiến hành cải cách kinh tế-xã hội, chuyển từ
mô hình chủ nghĩa tự do mới sang thực hiện dân chủ hoá, mô hình kinh
tế thị trường kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội; xúc tiến các chương
trình xã hội như: cải cách ruộng đất; xóa đói giảm nghèo; cải thiện dịch
vụ y tế, văn hóa cộng đồng; điều chỉnh một số luật theo hướng có lợi cho
người lao động... Trên thực tế, những cải cách của các chính phủ cánh tả
đã thu được kết quả bước đầu rất tích cực, kinh tế phục hồi và có bước
tăng trưởng khá, chính trị đi vào ổn định, đời sống nhân dân được cải
thiện. Về đối ngoại, tuy chưa thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ nhưng chính
sách của cánh tả nắm quyền đã thể hiện rõ xu hướng có tính độc lập
nhiều hơn. Họ công khai thực hiện chính sách đoàn kết, hợp tác với Cu-
ba, phản đối chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với quốc đảo
XHCN tự do này. Các chính phủ cánh tả tích cực ủng hộ quá trình dân
chủ hóa quan hệ quốc tế, cải tổ Liên hợp quốc và cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa khủng bố; phấn đấu vì một trật tự thế giới mới, dân chủ và
bình đẳng, vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Cùng với các chính phủ cánh tả, tiến bộ đang cầm quyền, ở Mỹ
Latinh còn nhiều đảng cánh tả tham chính như Đảng Mặt trận giải phóng
dân tộc San-đi-nô (FSLN) ở Ni-ca-ra-goa, Đảng Mặt trận giải phóng dân
tộc Pha-ra-bun-đô Mac-ti (FMLN) ở En Xan-va-đo, Đảng Cách mạng
dân chủ (PRD) của Mê-hi-cô... Hiện nay, Đảng FSLN giành chức tỉnh
trưởng ở 14/17 tỉnh, thành phố; quản lý 92/161 quận, huyện trên toàn
quốc; có 38 nghị sĩ, kể cả chức Chủ tịch quốc hội; là đảng chính trị đối
lập mạnh nhất ở Ni-ca-ra-goa. Đảng FMLN cũng là chính đảng đối lập
mạnh nhất ở En Xan-va-đo, có 31 ghế trong quốc hội và cầm quyền ở
8/14 thị xã và 76/262 quận, huyện.
Xuất hiện nhiều hình thức hoạt động sáng tạo.
Một nét nổi bật khác là việc nỗ lực tìm kiếm cơ chế phối hợp hoạt
động chung, tập hợp lực lượng, tăng cường đoàn kết, trao đổi kinh
nghiệm, phối hợp hành động. Quan hệ giữa các ĐCS, công nhân trên thế
giới từng bước được khôi phục và củng cố với hình thức phát triển mạnh
là quan hệ song phương. Từ chỗ trao đổi thông tin, học tập kinh nghiệm
lẫn nhau, gần đây giữa các đảng đã xác lập quan hệ trao đổi về mặt lý
luận. Nhiều đảng đã hình thành cơ chế trao đổi về lý luận thường kỳ như
giữa ĐCS Việt Nam với ĐCS Trung Quốc, ĐCS Cu-ba, Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào; giữa các ĐCS trong Liên minh châu Âu (EU) và giữa
các ĐCS trên lãnh thổ Liên Xô; giữa các ĐCS ở khu vực Ban Căng...
ĐCS Nhật Bản cũng đã thiết lập được cơ chế hợp tác trao đổi lý luận với
ĐCS Trung Quốc và một loạt ĐCS, công nhân (ĐCS-CN) châu Âu.
Ngoài ra, các quan hệ đa phương cũng được thúc đẩy khá mạnh.
Theo hướng này, hàng loạt hội nghị của các ĐCS-CN ở từng khu vực,
từng châu lục và giữa các châu lục được tổ chức. Các cuộc hội thảo, trao
đổi lý luận và thực tiễn được nhiều đảng quan tâm. Từ năm 1998 đến
nay, ĐCS Hy Lạp đã đăng cai tổ chức cuộc gặp thường niên tại Thủ đô
A-ten gọi là “Cuộc gặp các ĐCS-CN quốc tế”. Diễn đàn A-ten đã trở
thành một hình thức quan trọng phối hợp hoạt động, tập hợp lực lượng
của phong trào XHCN thế giới sau chiến tranh lạnh. Tới nay, Diễn đàn
đã tổ chức được 8 kỳ gặp mặt với số lượng đại biểu, cũng như số đoàn
đại diện của các đảng tham dự đều tăng. Những vấn đề được tập trung
thảo luận, trao đổi qua 8 lần gặp mặt gồm: về học thuyết Mác-Lênin; sụp
đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu và tác động của nó; về
Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế từ đầu thập niên 90 đến nay; về
chiến lược, sách lược liên minh của giai cấp công nhân hiện nay; về toàn
cầu hoá, khu vực hoá và tác động của các xu thế này; về phương án thay
thế của các lực lượng cộng sản, cánh tả thế giới đối với hình thái toàn
cầu hoá TBCN hiện nay; về những sự kiện quốc tế lớn...
Gặp mặt A-ten đã trở thành một hình thức hoạt động quốc tế rất
sáng tạo của các ĐCS-CN và cánh tả trên thế giới gần một thập niên qua.
Điểm mới của hình thức này là ở chỗ nó không theo một khuôn mẫu
cứng nhắc, sự tham dự của các đảng là hoàn toàn dựa trên tinh thần tự
nguyện, các đoàn đại biểu có thể ký hoặc không ký vào các văn kiện
cuối cùng. Diễn đàn đã tận dụng kịp thời thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại để tăng cường hoạt động chung của các
ĐCS-CN thế giới. ĐCS Hy Lạp đã sớm lập ra trang WEB
http://www.solidnet.org để liên lạc một cách nhanh chóng và rẻ nhất với
tất cả các đảng khác.
Tại Mỹ Latinh, các ĐCS-CN và các đảng cách tả từ đầu thập niên
90 đến nay đã tổ chức gặp gỡ trong khuôn khổ Diễn đàn Sao Paolô (Bra-
xin) nhằm đánh giá sự vận động, phát triển của phong trào cánh tả quốc
tế nói chung và ở khu vực nói riêng, từ đó tìm biện pháp phối hợp hành
động giữa các lực lượng cộng sản và cánh tả. Diễn đàn Sao Paolô sau 15
năm hoạt động qua 12 kỳ hội nghị với sự tham gia của hơn 140 ĐCS-CN
và cánh tả từ 46 nước Mỹ Latinh, Bắc Mỹ, châu Âu, châu á, châu Phi,
châu Đại dương và Trung Đông là một ví dụ điển hình về sự phối hợp
hoạt động giữa các ĐCS và cánh tả. Sự phối hợp này góp phần năng
động hoá hoạt động của cánh tả Mỹ Latinh, thúc đẩy trào lưu cánh tả tại
đây có bước phát triển mới với thắng lợi liên tiếp trong bầu cử tổng
thống của 8 lãnh tụ cánh tả như đã nêu.
Những chuyển động tích cực nêu trên thực sự tạo ra nguồn sinh lực
mới cho phong trào XHCN trên thế giới trong giai đoạn hiện nay. Sự tìm
tòi, khai phá mô hình phát triển của các nước XHCN, dấu hiệu phục hồi
đáng khích lệ của các ĐCS chưa cầm quyền, sự sáng tạo các hình thức
liên hệ, tập hợp lực lượng mới của các ĐCS-CN và làn sóng mới của
trào lưu cánh tả trên thế giới đã và đang trở thành những nhân tố tích cực
có sức lôi cuốn và ảnh hưởng rộng lớn, thật sự có giá trị cả về mặt lý
luận và thực tiễn cho việc bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin trong
bối cảnh quốc tế mới. Đồng thời, toàn bộ điều đó là thực tế sinh động
chứng tỏ tính đúng đắn và hợp quy luật lịch sử của con đường phát triển
được khai vạch từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
TS. HOÀNG GIÁP & TS. NGUYỄN QUẾ
Viện Quan hệ quốc tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh

KỶ NIỆM 90 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG 10 VÀ 160 NĂM " TUYÊN


Số 20 (140) năm 2007
NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN"

Cách mạng Tháng Mười: vấn đề chính quyền nhà nước và bài học cơ bản
Nguyễn Mạnh Hưởng
PGS, TS Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng
(Cập nhật: 30/10/2007)

Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười cho thấy rõ hai nội dung
đặc biệt quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong vấn đề cơ bản của
cách mạng - vấn đề chính quyền nhà nước. Đó là, việc giành chính
quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động; và việc xây
dựng, củng cố chính quyền đó để tổ chức, quản lý, xây dựng và bảo
vệ chế độ xã hội mới - chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Hai nội dung
cơ bản này quan hệ chặt chẽ với nhau trong tiến trình cách mạng vô
sản.
Ngày 7 tháng 11 năm 1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga
thành công. Đó là cuộc cách mạng vạch thời đại, là kết quả tất yếu của
những mâu thuẫn thời đại đầu thế kỷ XX, của quy luật vận động và phát
triển khách quan của lịch sử xã hội loài người. Cách mạng Tháng Mười
không phải là cuộc cách mạng thay đổi chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc
lột khác; mà là cuộc cách mạng nhằm thủ tiêu chế độ bóc lột, áp bức, bất
công cuối cùng trong lịch sử - chế độ tư bản chủ nghĩa, mở đường cho
nhân loại đi tới tương lai; là cuộc cách mạng đưa nhân dân lao động lên
làm chủ, thay đổi căn bản địa vị của họ trong xã hội.
1. Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã dẫn đến
sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Nhà nước
Xô-viết. Sự ra đời Nhà nước Xô-viết là thành tựu vĩ đại của Cách mạng
Tháng Mười, là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nước Nga, mà
trực tiếp là lý luận Mác - Lê-nin về chính quyền nhà nước trong cách mạng
xã hội, lý luận về vấn đề nhà nước chuyên chính vô sản trong cách mạng
vô sản.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười cho thấy rõ hai nội dung đặc biệt
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong vấn đề cơ bản của cách mạng -
vấn đề chính quyền nhà nước. Đó là, việc giành chính quyền về tay giai
cấp công nhân và nhân dân lao động; và việc xây dựng, củng cố chính
quyền đó để tổ chức, quản lý, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới - chế
độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Hai nội dung cơ bản này quan hệ chặt chẽ với
nhau trong tiến trình cách mạng vô sản. Không thực hiện được nội dung
thứ nhất, thì không có nội dung thứ hai; đồng thời không thực hiện tốt nội
dung thứ hai thì ý nghĩa thực sự của cách mạng sẽ bị suy giảm, thậm chí
dẫn đến thủ tiêu những thành quả của việc thực hiện nội dung thứ nhất.
Vấn đề cơ bản đầu tiên của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính
quyền nhà nước. Cuộc cách mạng vô sản không phải là ngoại lệ. Thế
nhưng, cách mạng vô sản so với các cuộc cách mạng do giai cấp bóc lột
tiến hành có sự khác nhau căn bản về bản chất và mục đích. Đó là sự
khác nhau ở nội dung của câu trả lời cho vấn đề: nhà nước thuộc về ai, do
ai nắm quyền; việc giành chính quyền mới chỉ là bước đầu, vấn đề khó
khăn và phức tạp hơn đối với giai cấp công nhân là bảo vệ, xây dựng
chính quyền nhà nước, sử dụng chính quyền ấy để tổ chức xây dựng xã
hội mới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng do giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai
cấp công nhân. Mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng là nhằm lật đổ sự thống
trị của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay nhân dân lao động, sử
dụng chính quyền ấy để tổ chức xây dựng xã hội mới, đem lại cuộc sống
tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự cho giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga là một cuộc cách mạng
mang mục tiêu và nhiệm vụ như thế. Nó mãi mãi đi vào lịch sử thế giới như
là cuộc cách mạng sản sinh ra nhà nước đầu tiên của những người lao
động bị áp bức, bóc lột. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động từ
thân phận bị nô lệ, bị áp bức bóc lột vươn lên làm chủ, giành chính quyền
về tay mình, đứng ra tổ chức xây dựng xã hội mới. Giành chính quyền về
tay mình là giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp dân tộc, “trở thành
dân tộc” như cách diễn đạt của C.Mác và Ph.Ăng-ghen trong Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản cách đây hơn một thế kỷ rưỡi.
Sự ra đời của nhà nước Xô-viết là thành quả trực tiếp của bạo lực vũ trang
kết hợp với đấu tranh chính trị của quần chúng công nông và lao động
Nga, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích Nga. Đó là sự
vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà
nước vô sản, rằng giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể sử
dụng nhà nước cũ của giai cấp tư sản, mà là phải sử dụng sức mạnh bạo
lực cách mạng “đập tan nhà nước tư sản”, đó là tất yếu khách quan; rằng,
giai cấp công nhân phải thiết lập sự thống trị về chính trị, tổ chức ra nhà
nước của mình, nhà nước chuyên chính vô sản.
Khí thế hào hùng của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga là khí
thế hào hùng của tinh thần cách mạng quật khởi của công nông và binh
lính, của các tầng lớp nhân dân lao động Nga, đứng lên phá bỏ mọi áp
bức, bóc lột, giành chính quyền cho nhân dân lao động. Sự phát triển tất
nhiên của cuộc cách mạng như thế là quyền lực chính trị - xã hội thuộc về
nhân dân lao động, quyền lực đó được biểu hiện tập trung ở nhà nước.
Luận đề dân là chủ, quyền làm chủ đối với giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Nga mới thực sự có ý nghĩa từ đây và trở thành mệnh đề có sức
hấp dẫn, nguồn cổ vũ lớn lao đối với nhân loại tiến bộ trên con đường đấu
tranh nhằm xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, vì tự do, hạnh phúc của
mình.
2. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga không kết thúc bằng việc
giành chính quyền vào tay vô sản và lao động, mà đó mới chỉ là sự mở
đầu. Công việc cơ bản và quan trọng của cách mạng là xây dựng chính
quyền mới, củng cố và sử dụng chính quyền ấy vào việc tổ chức, cai quản
và xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, đem lại cuộc
sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho quảng đại quần chúng nhân dân lao
động.
Sau khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười thành công, nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của giai cấp công nhân, nông dân và lao động Nga là
phải đập tan hoàn toàn bộ máy nhà nước cũ của giai cấp tư sản và địa
chủ; khẩn trương xây dựng bộ máy nhà nước mới của những người lao
động, làm cho nhà nước thực sự là “trụ cột” của hệ thống chính trị, là “công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”. Giai cấp công
nhân, nông dân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-
vích Nga đã khẩn trương tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn,
nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong
các cơ quan nhà nước. Nhà nước đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
của giai cấp công nhân, có chức năng thể chế hoá quan điểm chính trị của
Đảng và tổ chức thực hiện thắng lợi những quan điểm ấy; mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích chính đáng của
nhân dân.
Sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin đã dành sự quan tâm đặc biệt đến
vấn đề củng cố chính quyền xô viết, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa
thực sự trong sạch, vững mạnh thực hiện chức năng quản lý và tổ chức
xây dựng xã hội mới. Chính quyền xô viết đã ban hành hàng loạt các đạo
luật và sắc lệnh, hệ thống chính trị - nhà nước xô viết từ Trung ương đến
địa phương được khẩn trương xây dựng. V.I.Lê-nin yêu cầu phải xây dựng
hệ thống tổ chức nhà nước, xây dựng các cơ quan trong bộ máy nhà nước
thực sự vững mạnh, hoạt động có hiệu quả với một cơ chế rõ ràng. Đồng
thời, đòi hỏi phải xây dựng được những “nhân liệu”, những công chức của
bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự gương mẫu “Sống
trong lòng quần chúng. Biết tâm trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần
chúng. Biết đến với quần chúng. Giành được lòng tin tuyệt đối của quần
chúng”[1]. V.I.Lênin chỉ rõ, trong xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
kiên quyết đấu tranh “không khoan nhượng” với tệ quan liêu, tham nhũng,
kiên quyết “chống hiện tượng không dứt khoát, không rành mạch về nhiệm
vụ được giao cho mỗi người, và chống tình trạng hoàn toàn vô trách nhiệm
do hiện tượng đó gây ra”[2]. Bởi vì, theo Người: “Hiện tượng thiếu trách
nhiệm, lấy cớ là lãnh đạo tập thể, đó là một tác hại nguy hiểm nhất”[3], tạo
kẽ hở cho kẻ xấu “buông câu trong đám nước đục”. Đây là vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng, cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị và nóng hổi
tính thời sự đối với chúng ta trong việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, và phát huy vai trò của Nhà nước trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính quyền
nhà nước, bao gồm cả việc đập tan bộ máy nhà nước cũ, giành chính
quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động; và cả việc xây
dựng, củng cố chính quyền để tổ chức quản lý và xây dựng xã hội mới đã
được Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười kiểm nghiệm và minh
chứng sinh động trong thực tiễn cách mạng.
3. Cách mạng Tháng Mười là “một kinh nghiệm quốc tế rất phong phú
chứng thực hiển nhiên rằng một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng
của ta không phải chỉ có ý nghĩa địa phương, ý nghĩa đặc biệt - dân tộc, ý
nghĩa riêng cho nước Nga mà có ý nghĩa quốc tế”[4], V.I.Lê-nin từng nhận
định như vậy. Những bài học của Cách mạng Tháng Mười là những bài
học mang tính quốc tế sâu sắc. Ở đây tập trung làm rõ hai bài học cụ thể
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong vấn đề chính quyền nhà nước:
Thứ nhất, bài học về thực thi dân chủ của chính quyền mới.
Bản chất và giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Mười là ở chỗ, đó là
cuộc cách mạng do nhân dân lao động tiến hành, đưa nhân dân lao động
lên làm chủ, đứng ra tổ chức, cai quản và xây dựng xã hội mới. Trong lịch
sử xã hội loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào như thế. Đó là một
giá trị đích thực và ý nghĩa sâu xa mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười đã đem lại đối với giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trên toàn
thế giới. Cách mạng Tháng Mười mở ra thời đại mới, thời đại thực hiện
quyền làm chủ trên thực tế của những người lao động; thời đại phá bỏ, giải
phóng dần những trở lực, những áp bức, nô dịch trói buộc con người.
Nhân dân lao động làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
quyền làm chủ ấy không chỉ thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật, mà ngày
càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày. Đó là bản chất
tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hiện tư tưởng vĩ đại của Cách
mạng Tháng Mười Nga.
Theo V.I.Lê-nin, dân chủ bao giờ cũng gắn liền với vấn đề nhà nước, với
vấn đề chuyên chính, là vấn đề mang tính giai cấp sâu sắc, không thể có
thứ dân chủ chung chung, đứng trên mọi giai cấp.
Quá trình thực thi dân chủ ở Liên Xô hơn qua hơn bảy thập kỷ tồn tại cho
thấy, sự thắng lợi hoặc thất bại của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội phụ thuộc rất quyết định vào việc Đảng Cộng sản
xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sao và như thế nào.
Thực hành dân chủ phải trên cơ sở nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn
đề quan trọng hàng đầu bảo đảm tính đúng hướng, tính giai cấp của quá
trình dân chủ hoá, phản ánh rõ mục đích của việc thực thi dân chủ xã hội
chủ nghĩa là đảm bảo sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Xa rời những
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội thì việc dân chủ hoá sẽ trượt sang quỹ
đạo khác, trượt sang dân chủ phi xã hội chủ nghĩa; và đồng nghĩa với việc
thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Trung thành, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với
xã hội - đó vừa là nguyên tắc, vừa là động lực, vừa là mục đích của việc
thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân xô-
viết đã chứng thực sinh động.
Vi phạm dân chủ, thực thi dân chủ sai nguyên tắc, vô nguyên tắc đều là trái
với lý tưởng của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, và tất yếu sẽ
dẫn đến hậu quả khôn lường, gây tổn thất cho cách mạng. Sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã để lại một bài học đau xót và hết sức thấm
thía về sự mất cảnh giác của Đảng Cộng sản Liên xô và Nhà nước Xô-viết
trước âm mưu, thủ đoạn và các đòn tiến công quyết liệt của các thế lực thù
địch; về việc vi phạm dân chủ và thực thi dân chủ sai nguyên tắc. Chính
những đơn thuốc “công khai hoá”, “dân chủ hoá”, “tư duy chính trị mới”,
“đa nguyên chính trị” mà ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên xô đưa ra trong
thời gian cải tổ đã tạo “thời cơ”, điều kiện cho các thế lực thù địch ráo riết
hơn, quyết liệt hơn trong âm mưu thủ tiêu chế độ xô viết.
Thứ hai, bài học về chính quyền cách mạng phải biết tự bảo vệ.
Giành chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền còn khó hơn. Luận
điểm mác-xít cơ bản này cần phải được nhận thức sâu sắc hơn trong điều
kiện lịch sử mới. Ở đây, vấn đề “giữ chính quyền” không chỉ thuần tuý là
chống những hành động và mưu toan phá hoại của thù trong, giặc ngoài,
mà còn cần phải hiểu theo nghĩa rộng lớn hơn, đó là xây dựng và sử dụng
chính quyền đó để kiến tạo một xã hội mới trong suốt tiến trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Giữ chính quyền “còn khó hơn”, thì việc sử dụng chính
quyền để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa còn là vấn đề
khó hơn nhiều. Trong quá trình đó, Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động không thể “mải mê” xây dựng chế độ xã hội mới mà
buông lỏng việc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của
mình, dẫn đến mất cảnh giác.
Đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng không khi
nào được lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vấn đề có ý nghĩa sống còn này
cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Thực tế lịch sử phát triển của chủ
nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đòi hỏi những người cộng sản, các
nước xã hội chủ nghĩa phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận
thức sâu sắc bài học cách mạng phải biết tự bảo vệ. Không có ý thức cao
trong bảo vệ, không biết tự bảo vệ, thì đó là nguy cơ to lớn đối với chính
sự tồn vong của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử thế giới sau Cách mạng Tháng Mười đã chứng minh rõ ý nghĩa
thực sự của bài học cách mạng phải biết tự bảo vệ. Đó là sự can thiệp vũ
trang của các nước đế quốc hòng bóp chết chính quyền xô viết non trẻ; đó
là việc bao vây phá hoại Liên Xô của chủ nghĩa đế quốc; đó là cuộc tiến
công của chủ nghĩa phát-xít hòng tiêu diệt Liên Xô; đó là việc tiến hành
“chiến tranh lạnh” của các thế lực đế quốc, phản động nhằm làm suy yếu
tiến tới làm sụp đổ Liên Xô; đó là những cuộc chiến tranh chống các nước
xã hội chủ nghĩa; những âm mưu, thủ đoạn chống phá bằng chiến lược
“diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống
chủ nghĩa xã hội và các Đảng Cộng sản.
Để có thể tự bảo vệ, những vấn đề: xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, ngang tầm với nhiệm vụ; xây
dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì
dân; kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; tuyệt đối trung thành và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin; kiên định những nguyên tắc
của chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển... là những vấn đề rất cơ
bản, đặc biệt hệ trọng của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc. Sự
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười; sự tồn tại, phát triển và tan vỡ của
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, đã chứng minh tính đúng đắn và hết sức nóng
hổi của luận điểm nổi tiếng của V.I.Lê-nin về cách mạng phải biết tự bảo
vệ: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản
thân chúng ta”[5].
Cuộc sống ngày càng chứng tỏ rằng, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử xã hội loài người,
với cả tầm vóc, quy mô và ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại của nó; đó là kho
tàng kinh nghiệm phổ biến, mang tính quốc tế sâu sắc, vô tận và hết sức
quý giá, càng lùi xa về lịch sử lại càng chói sáng. Đứng ở trung tâm thời
đại, giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản phải
chịu trách nhiệm trước dân tộc, trước nhân dân mình và trước vận mệnh
nhân loại để không ngừng củng cố và mở rộng các lực lượng cách mạng,
có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo,
giành thắng lợi từng bước cho chủ nghĩa xã hội. Đó là ý nghĩa thực tiễn to
lớn của việc nhận thức, luận giải ý nghĩa và những giá trị lớn lao của Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga trong điều kiện lịch sử mới.

You might also like