You are on page 1of 35

Cách mạng tháng Tám (19-8-45) là cuộc cách mạng thắng lợi của Việt Minh với quân

Pháp, Nhật và chính phủ Đế quốc VN do vua Bảo Đại phê chuẩn. Kết quả chính phủ cũ
giải tán và sau đó đến ngày 2-9-45, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Khó khăn: Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành
lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng.
Đối ngoại:
# thù trong giặc ngoài chống phá quyết liệt
Đất nước bị kẻ thù bao vây 4 phía. Thù trong giặc ngoài câu kết với nhau. Nhằm lật đổ
chính quyền VN non trẻ vừa giành lại đc.

Đồng Minh kéo vào nước ta

* Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của phe Đồng minh ở Hội nghị Potsdam (16/7
-2 /8/1945: 3 đại diện của 3 quốc gia tham dự hội nghị là: tổng bí thư Đảng Cộng sản Xô
Viết Joseph Stalin, thủ tướng Anh Clement Attlee, tổng thống Mỹ Harry S Truman),
trong tháng 9-1945, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch dưới danh
nghĩa quân Đồng Minh kéo vào miền Bắc nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc.

- Đội quân Trung Hoa vào Việt Nam gồm có bốn sư đoàn, trong đó hai sư đoàn Vân Nam và hai
sư đoàn Quảng Tây:

+ Hai sư đoàn Vân Nam do Lư Hán (Lu Han) trực tiếp chỉ huy, gồm sư đoàn 93 (tướng Lư Cổ
Truyền dẫn đầu), vào ngã Lào Cai, theo thung lũng sông Hồng đến Hà Nội và sư đoàn 60 tướng
Vạn Bảo Bang chỉ huy) tiến vào miền trung Việt Nam qua hai hải cảng Vinh và Đà Nẵng.

Lư Hán
+ Hai sư đoàn Quảng Tây là sư đoàn 62 (Hoàng Đào lãnh đạo) vào đường Cao Bằng –
Lạng Sơn, xuống thẳng Hà Nội và sư đoàn 52 (tướng Triệu Công Vũ phụ trách) tiến đến
Hải Phòng. Tháng 12-1945, sư đoàn 53 (Quảng Tây) đến thay thế sư đoàn 52 và 62.

- Quân Tưởng vào miền Bắc nước ta danh nghĩa là để tước vũ khí quân Nhật. Nhưng thực
chất, chỉ tạo thêm cho nhân dân ta gánh nặng khó khăn về kinh tế, gây ra bao nhiêu rối
ren về chính trị.

+ Nói qua về 2 tổ chức phản động Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt cách) và
Việt Nam quốc dân đảng (Việt quốc) lúc bấy giờ: chúng sống từ lâu ở nước ngoài, không
có liên hệ gì với phong trào trong nước. Chúng tự nhận là những người Việt Nam yêu
nước theo chủ nghĩa quốc gia, nhưng thực ra là một bọn phản động mưu toan dựa vào
Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch và mũi súng quân Tưởng để kiếm sống.

Quân Tưởng dung dưỡng, tiếp sức cho 2 tổ chức phản động trên quấy nhiễu, phá rối,
cướp của, giết người, tuyên truyền (in truyền đơn phản đối việc Việt Minh thành lập
Chính phủ lâm thời và nêu lên mười ba điều thảo phạt Chính phủ Hồ Chí Minh. Chúng
đem truyền đơn rải khắp đường ngang lối tắt), kích động một số người đi theo chúng
chống lại chính quyền cách mạng, đòi cải tổ Chính phủ lâm thời, và các bộ trưởng là
đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động ở Móng Cái, Yên
Bái, Vĩnh Yên.

s
VN quốc dân Đảng

- Trong nửa đầu tháng chín, gần hai chục vạn quân Tưởng đã tràn ra hầu khắp các tỉnh
miền Bắc như một bệnh dịch. Chúng càng trở nên trơ tráo, lộ rõ nguyên hình bọn lưu
vong mất gốc, được che chở bằng lưỡi lê quân đội phản động nước ngoài.

- 1-9-1945: tướng Lư Hán đáp máy bay đến Hà Nội.


Mấy hôm sau, những bản bố cáo dài dằng dặc được dán khắp nơi. Bọn quân phiệt Quốc
dân đảng Trung Hoa coi như chúng tới một nơi không có chính quyền. Chúng tự cho
chúng quyền giữ trị an trong thành phố. Chúng quy định giá trị của tiền Quan kim, tiền
Quốc tệ, những thứ tiền giấy từ lâu đã trở thành mớ giấy lộn. Chúng đề ra cả những quy
định để kiểm soát xe cộ đi lại trong thành phố.

Tóm lại, quân Tưởng Giới Thạch kéo vào nước ta với âm mưu diệt cộng cầm Hồ, tiêu
diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản
động tay sai của chúng. Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông
Dương dưới chế độ "uỷ trị", một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

Tưởng Giới Thạch,


đứng đầu Trung Hoa Quốc Dân Đảng
nhiệm kỳ 4/12/1930 – 15/12/1947
Quân đội Trung Hoa Dân quốc đến Hải Phòng, năm 1945

* Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, gần 3 vạn quân Anh cũng dưới danh nghĩa Đồng minh,
kéo vào nước ta để tước vũ khí quân Nhật, nhưng kỳ thực là đã thỏa thuận với bọn tướng lĩnh
Nhật, thả hàng vạn tên tù binh Pháp (do chúng giam giữ trước), lén lút trang bị vũ khí cho bọn
này để âm mưu cướp lại nước ta. Anh tích cực giúp Pháp chiếm Đông Dương, làm bình
phong cho Pháp, dọn đường cho Pháp trở lại Việt Nam.

Dưới sư chỉ đạo của tướng Anh là Douglas Gracey, trung tá Rivier thuộc Lực lượng biệt
kích Pháp (commando), trong tháng 9-1945, người Anh đã giúp người Pháp chiếm lại Sài
Gòn, sau đó xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, và lăm le tiến ra Bắc Bộ.

Prime Minister of the United Kingdom


Clement Richard Attlee, nhiệm kỳ 26/07/1945 – 26/1/1951
Quân đội Anh

Đội biệt kích lích thuỷ đánh bộ Hoàng gia Anh


Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945

- 6 vạn quân Nhật sẵn sàng hành động theo lệnh quân Anh, sẵn sàng trao vũ khí để câu
kết các đế quốc chống chính quyền cách mạng. Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của
quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm
đóng ở miền Nam.

Nhật hoàng Hirohito, tại vị 25/ 12 /1926 – 7/1/1989 (62 năm, 13 ngày)
- 3 vạn quân P kéo vào nước ta. Chúng vẫn nuôi ý đồ thống trị nước ta lần nữa.

Đêm 22, rạng sáng 23 - 9 – 1945, thực dân Pháp dựa vào sự che chở của quân Anh và yểm
trợ của tàn quân Nhật, bắt đầu nổ súng đánh chiếm các công sở ở Sài Gòn ( Ủy ban nhân dân
Nam Bộ và tự vệ thành Sài Gòn ). Đây là sự mở đầu của Pháp trở lại xâm lược Việt Nam
lần hai. được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Nhiều cuộc
chiến đấu ác liệt giữa ta và Pháp đã diễn ra ở cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Khánh Hội, cầu Chữ Y...

Charles de Gaulle
.Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp: nhiệm kỳ1944-1946
Đệ ngũ Cộng hòa Pháp
. Nhiệm kỳ1959 – 1969 : đứng đầu Liên hiệp Dân chủ Cộng Hòa Pháp
Hỏi cung

Ngày 23 và 24-10-1945, sau khi có viện binh từ châu Âu và châu Phi đưa sang, giặc Pháp mở
đợt tấn công ra phía bắc, đánh chiếm Thủ Dầu Một, rồi Biên Hòa. Ở phía nam, chúng đánh
chiếm Tân An, Gò Công, Mỹ Tho và các tỉnh miền Tây.

Như vậy, rõ ràng chính quyền non trẻ cách mạng phải đương đầu một lúc bốn tên giặc ngoài
(Anh, Tưởng, Nhật, Pháp) đông gần nửa triệu tên, chưa kể những loại kẻ thù bên trong đang tìm
mọi cách ngóc đầu dậy. Vận mệnh của đất nước và dân tộc ta đang đứng trước những thử thách
vô cùng nghiêm trọng. Nền độc lập vừa mới giành được bằng bao nhiêu máu xương, giờ đây
đang có nguy cơ tiêu diệt.

* Ngoại giao: ta chưa đc 1 nước nào trên thế giới công nhận đặt quan hệ ngoại giao. Lãnh
tụ các đảng phái quốc gia không phải là không biết về Hồ Chí Minh, và cũng không phải
không có những nghi ngại đối với Việt Minh cộng sản.

Đối nội:

Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội.
Do chính sách vơ vét của Pháp, Nhật để dốc vào cuộc chiến tranh, ta đang gặp phải vô vàn khó
khăn. Đời sống nhân dân thiếu thốn, cơ cực mọi bề.

# Chính quyền cm non trẻ, lực lượng vũ trang còn yếu.

Trước những đòi hỏi của các đảng phái không cộng sản, Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt
Minh đành nhượng bộ. Ngày 11-11-1945, ông Hồ tuyên bố giải tán đảng Cộng sản Đông
Dương (thực chất là rút vào hoạt động bí mật), tổ chức tổng tuyển cử quốc hội, tiến đến
thành lập chính phủ liên hiệp để tạo ra một bộ mặt dân chủ hợp pháp trước mặt quốc tế.

Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11-11-1945

1- Cǎn cứ vào điều kiện lịch sử, tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước, nhận rằng lúc này
chính là cơ hội nghìn nǎm có một cho nước Việt Nam giành quyền hoàn toàn độc lập;

2- Xét rằng: muốn hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng vĩ đại ấy, sự đoàn kết nhất trí của
toàn dân không phân biệt giai cấp, đảng phái là một điều kiện cốt yếu;

3- Để tỏ rằng: những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng
hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên
quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc;

4- Để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền
đồ giải phóng của nước nhà.

Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Cộng sản Đông Dương

họp ngày 11 tháng 11 nǎm 1945, nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương.

Những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập
"Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương".

Ban chấp hành Trung ương


Đảng Cộng sản Đông Dương
Chính quyền còn non trẻ, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang mỏng manh: Đảng bộ từ
trong bí mật bước ra, mới được khôi phục và củng cố lại về tổ chức. Chính quyền cách mạng
vừa mới thành lập, cán bộ vừa thiếu lại chưa có kinh nghiệm quản lý xã hội, còn nhiều bỡ ngỡ
trước bao nhiêu vấn đề của cuộc sống đặt ra. Lực lượng vũ trang mới xây dựng, nhiệt tình và
lòng dũng cảm không thiếu, nhưng trang bị kém, chưa được rèn luyện, chưa qua thực tế chiến
đấu.

# Kinh tế, tài chính:

- Công nghiệp: đình đốn. Sản xuất công nghiệp còn rất sơ khai với vài trăm xí nghiệp và 90
nghìn công nhân, chủ yếu phục vụ cho mục đích bóc lột nhân công rẻ mạt và vơ vét tài nguyên
của thực dân. Nhiều xí nghiệp nằm trong tay tư bản Pháp, các cơ sở của ta chưa được phục
hồi, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn.

- Nông nghiệp: lạc


hậu, bị chiến tranh tàn phá + thiên tai, mất mùa  ruộng đất bỏ hoang,
hơn ½ diện tích không canh tác được. Thương nghiệp, thủ công nghiệp đình đốn.

+ Trc cm t8: Quan hệ ruộng đất mang nặng tính chất phong kiến, thuộc địa. Có tới gần 60% số hộ
nông dân không có ruộng đất, phải đi làm thuê, cấy rẻ và chịu sự bóc lột của địa chủ, thực dân.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp không đáng kể. Hệ thống đê điều được xây dựng trong lịch
sử, nhưng hằng năm không được củng cố, bồi bổ đầy đủ, nên cách vài ba năm lại bị vỡ đê lớn. Hệ
thống thủy nông chỉ tưới được cho 15% diện tích canh tác, còn lại phải dựa vào nước trời. Hầu
hết diện tích chỉ cấy được một vụ lúa với năng suất thấp. Lương thực hằng năm không đủ dùng
trong nước, lại bị quân xâm lược vơ vét, nên số người bị chết đói không năm nào không có, đặc
biệt năm 1945 có tới 2 triệu người. Những vấn đề trên vẫn chưa đc giải quyết triệt để.
Một làng bị ngập

Ruộng lúa
Trình độ sx lạc hậu

+ Nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 ( xảy ra tại miền Bắc Việt Nam, khoảng từ /
10/1944 – 5/1945, làm khoảng đến 2 triệu người dân chết đói) do Nhật, Pháp gây ra chưa
được khắc phục. Nạn đói đầu năm 1945 vừa chấm dứt, nạn đói mới lại đe dọa. Nạn lụt
lớn trong tháng 8 làm cho 9 tỉnh Bắc Bộ bị vỡ đê
Đói quá phải ăn cả thịt chuột
Những người đói cướp lại thóc gạo do Nhật chiếm, bị quân đội Nhật hành hung (1945)

- Tài chính: tình hình tài chính rất khó khăn. Ngân sách Nhà nước trống rỗng, kho bạc chỉ
có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong
tay tư bản Pháp. 20-11-1945, Quân Tưởng do tướng Lữ Hán dẫn đầu kéo quân vào HN,
tung tiền Quốc tệ và Quan kim làm cho nền tài chính nước ta rối loạn (1đ quan kim ăn
1đ5 Đông Dương ngân hàng). Dù VM chiếm được chính quyền, nhưng Đông Dương
Ngân Hàng (ĐDNH) ở Hà Nội cũng như ở Sài Gòn trong tay tư bản Pháp, quân Nhật bảo
vệ, nên VM không chiếm được hai ngân hàng này. Khi giải giới quân đội Nhật, Trung
Hoa thay quân Nhật bảo vệ ĐDNH.
Có 2 ý kiến về Quốc tệ: 1) Quốc tệ có thể là loại tiền “Military bank note” mà quân đội
viễn chinh các nước Hoa Kỳ, Anh, Nhật đã dùng. tiền Military Bank Note của Hoa Kỳ
được gọi là “dollar đỏ”. 2) Sau cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), ngoài giấy bạc do Ngân
Hàng Trung Ương Trung Hoa phát hành, các tỉnh Trung Hoa đều phát hành tiền riêng.
Do đó, Quốc tệ cũng có thể là tiền do tỉnh Vân Nam phát hành.

Tiền quan kim: giấy bạc do chính phủ Trưởng Giới Thạch phát hành

Đồng bạc Đông Dương,lưu thông tại ĐD thuộc Pháp trong thời gian từ 1885-1952
Mặt trước của đồng 5 piastre
- Văn hóa, xã hội: hơn 90% dân mù chữ. Bình quân 1 vạn dân năm 1939 chỉ có 283,5 người
đi học, chủ yếu là học sinh vỡ lòng và học sinh tiểu học. Cả Đông Dương chỉ có 3 trường đại học.
Năm 1939, cả nước có 26 bệnh viện, 61 nhà hộ sinh, 507 phòng khám bệnh với vài trăm bác sĩ và
nhiều hơn một chút y sĩ, nữ hộ sinh, bình quân 1 vạn dân chỉ có 0,23 y, bác sĩ.

Các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề. Nhiều tàn dư lạc hậu của thực dân
phong kiến.

Nhân dân phố Hà Trung (Hà Nội) tham gia diễu hành cổ động phong trào diệt giặc dột,
ngày 6-12-1945
Hút thuốc phiện
MINH NGUYỆT dựa theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Học Phi
Năm sản xuất : 2004
Quốc gia : Việt Nam
Nhà sản xuất : Hãng phim truyện Việt Nam
Thể loại : Tâm lý - Lịch sử
Đạo diễn : Nguyễn Hữu Phần
Biên kịch : Học Phi Cách mạng tháng Tám thành công, bên cạnh công cuộc xây dựng Nhà nước mới
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa phải cảnh giác với những âm mưu phá hoại làm rối ren nội trị của quân đội Tàu Tưởng cùng
bè lũ tay sai vừa phải chăm lo củng cố lực lượng. Đất nước ta đang đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi
tóc", nguy cơ một cuộc đấu tranh trường kỳ với tham vọng quay trở lại thống trị Đông Dương của thực dân
Pháp đang đến gần, đồng thời phải tìm mọi cách li gián hàng ngũ kẻ thù - bấy giờ là bọn phản động Việt
Quốc, Việt Cách núp bóng Tưởng Giới Thạch. Hòa mình trong không khí sục sôi Cách mạng của đất nước,
nhân vật chính trong phim - Minh Nguyệt, một cô gái Hà Nội - sẽ phải làm gì khi biết bố mình là một trong
những nhân vật cốt cán của các thế lực phản động và chúng ra sức tung tin đồn ông bị Việt Minh đốt ngôi
chùa nơi ông trụ trì rồi sát hại ông ?

* Thuận lợi:

- Nước ta được độc lập, nhân dân được giải phóng. Nước VN dân chủ cộng hòa đã trở
thành nước độc lập có chủ quyền.
- Khí tế cm sôi nổi trên cả nước. Toàn dân hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
chính quyền, đồng lòng giữ vững chính quyền.
- Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao trên
trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở
thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên
mạnh mẽ. ở trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã được kiến lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ
vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân đang phát triển. Toàn dân tin tưởng
và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của
Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết
một lòng trong mặt trận dân tộc thống nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của
dân tộc.

Hệ thống XHCN hình thành, làn sóng cm thế giới, cm đấu tranh vì hòa bình phát triển
mạnh tạo thàn từng làn sóng cm tấn công chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Đảng
và Hồ Chủ tịch sáng suốt lãnh đạo, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, hệ
thống xã hội chủ nghĩa hình thành.
- 3 làn sóng: dân tộc, dân chủ, cnxh. VN hòa cung với 3 làn sóng cm này để tấn công vào
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
------------------------------------------------------------------------------------------

Kết:
Trước nay chưa hề có một tên gọi cụ thể nào đặt cho thời kỳ này - giai đoạn xây dựng
Nhà nước độc lập mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chống ba thứ giặc (giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm) hay công cuộc chuẩn bị cho giai đoạn trường kỳ kháng chiến về
sau ? Mặc dù được xem như một trong những giai đoạn hiểm nguy nhất của chế độ chính
trị Việt Nam, song cũng chính là thời kỳ để lại những dấu ấn đáng nêu gương trong tiến
trình Lịch sử Việt Nam kể từ khi có Nhà nước đến nay. Chưa bao giờ, bộ máy chính
quyền trung ương ở nước ta lại bị đặt trong tình thế hiểm nghèo đến như vậy, không
những là sự phá hoại từ trong ra ngoài của các phe nhóm phản động hoặc ngoại thù, mà
đó còn là cái thế "ngàn cân treo sợi tóc", đất nước vừa mới trải qua một giai đoạn cực kỳ
ngắn ngủi (5 năm chìm đắm dưới ách thực dân và phát xít), nhưng hậu quả thảm khốc
hơn hẳn những giai đoạn trước đó, trước tiên là cái chết của 2 triệu đồng bào không phải
vì bom đạn, mà vì cái đói - một hiện thực quá thảm khốc ở một xứ sở "rừng vàng bể bạc"
như nước ta, một Chính phủ không vững vàng trong việc giải quyết dứt điểm nạn đói, kể
như mất uy tín.

Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo và
sáng suốt phân tích tình thế, chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế
giới và sức mạnh mới của dân tộc làm cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu
tranh giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.

Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách
nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Ngày
25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhận
định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi cơ bản và những thử thách
lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác định: Tính chất của "cuộc cách
mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng"1
. Cuộc cách
mạng ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này
vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết". Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với
Đông Dương, Trung ương nêu rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm
lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng" 2
. Vì vậy phải "lập Mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược" 3
; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút
mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc lập
- tự do - hạnh phúc cho dân tộc.

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả nước ta
lúc nay là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân"
4

. Để thực hiện các nhiệm vụ đó Trung ương đề ra các


công tác cụ thể:
Về nội chính: xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập
Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh
đạo cuộc kháng chiến lâu dài.
Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc "bình đẳng tương trợ", thêm bạn bớt thù, thực
hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và chủ
trương "độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về
chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng khôn khéo trong tình thế vô cùng hiểm
nghèo của nước nhà.

2. Bước đầu xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng:

a. Về chính trị - quân sự:

- Chính trị:

+ Ngày 8 - 9 - 1945, chính phủ công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước.

+ Ngày 6 - 1 - 1946, hơn 90 % cử tri trong cả nước đã đi bầu cử Quốc hội và đã bầu được
333 đại biểu Bắc - Trung - Nam vào quốc hội.

Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền làm chủ, bầu những
đại biểu chân chính vào các cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.

+ Các địa phương bầu cử hội động nhân dân các cấp. Ủy ban hành chính ra đời.

+ Ngày 2 - 3 - 1946, Quốc hội khóa 1 họp phiên đầu tiên ở Hà Nội

- Về quân sự:

+ Đội Việt Nam giải phóng quân thành lập ( 5 - 1945 ) được chuyển thành Vệ quốc đoàn
( 9 - 1945 ) và thành Quân đội quốc gia ( 22 - 5 - 1946 ).

+ Cuối 1945, lực lượng tự vệ ở xã, huyện phát triển với số lượng hàng vạn người.

b. Về kinh tế, tài chính:

- Diệt giặc đói:

+ Vấn đề trước mắt: chính phủ hô hào nhân dân tiết kiệm, nhường cơm sẻ áo, tổ chức
ngày đồng tâm, lập hũ gạo cứu đói và nghiêm cấm đầu cơ tích trữ.

+ Biện pháp lâu dài: phát động nhân dân tăng gia sản xuất, giảm tô và thuế ruộng đất 20
%, tịch thu rộng đất của đế quốc Việt gian chia cho dân cày, bỏ thuế thân. Vì vậy đã làm
cho việc sản xuất nông nghiệp được phục hồi, nạn đói được đẩy lùi một bước.

- Tài chính:

+ Chính phủ kêu gọi sự đóng góp của nhân dân, xây dựng quỹ độc lập, Quỹ đảm phụ
quốc phòng, tổ chức Tuần lễ vàng.

+ Sau một thời gian ngắn, chúng ta thu được 370 kg vàng, 20 triệu vào quỹ độc lập, 40
triệu đồng vào Quỹ đảm phụ quốc phòng.

+ Ngày 31 - 1 - 1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành đồng Việt Nam và đến ngày 23 -
11 - 1946, tiền Việt Nam chính thức được lưu hành.

c. Về văn hóa - giáo dục:

+ Ngày 8 - 9 - 1945, Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ và kêu
gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ.

+ Từ 8 - 9 - 1945 đến 8 - 9 - 1946, có 76.000 lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù
chữ.

+ Trường phổ thông các cấp và đại học khai giảng sớm với nội dung học và dạy đổi mới.
Và như vậy, đã đẩy lùi được giặc dốt.
3. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng:

a. Kháng chiến chống Pháp trở lại xâm lược miền Nam:

- Chính phủ Đờ-gôn thành lập đội quân viễn chính sang Đông Dương, chỉ huy là tướng
Lơ-cơ-léc.

- Ngày 2 - 9 - 1945, Pháp xả súng vào cuộc mít tinh ở Sài Gòn - Chợ Lớn làm 47 người
chết và nhiều người khác bị thương.

- Tháng 6 - 1945, quân Anh và một đại đội lính Pháp đến miền Nam và tỏ thái độ thù
địch với nhân dân, yêu cầu ta giải tán lực lượng vũ trang, trả tù binh Pháp và trang bị vũ
khí cho họ.

- Đêm 22, rạng sáng 23 - 9 - 1945, Pháp nổ súng đánh Sài Gòn ( Ủy ban nhân dân Nam
Bộ và tự vệ thành Sài Gòn ). Đây là sự mở đầu của Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần
hai.

b. Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống Pháp:

- Đánh Pháp bằng mọi hình thức, mọi nơi, mọi chỗ:

+ Lực lượng vũ trang đánh sân bay, đánh kho tàng, dựng chướng ngại vật,...

+ Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn triệt phá nguồn tiếp tế, bất hợp tác, dựng chướng ngại
vật,...

+ Công sở, trường học, nhà máy, hãng buôn đóng cửa. Tàu xe ngừng chạy, chợ không
họp,...

- Tháng 10 - 1945, Pháp mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

- Chủ trương của Đảng:

+ Kiên quyết chống Pháp ở miền Nam.

+ Huy động cả nước chi viện cho Nam Bộ kháng chiến: thanh niên Bắc Bộ, Trung Bộ
xung vào đoàn quân Nam tiến. Nhân dân cả nước quyên góp tiền, gạo, thuốc men, quần
áo cho Nam Bộ kháng chiến.

c. Đấu tranh với quân Trung Hoa quốc dân đảng và bọn phản cách mạng ở miền
Bắc:

- Quân Tưởng sử dụng bọn tay sai phá hoại cách mạng, muốn thành lập chính quyền phản
cách mạng.
- Chính phủ ta tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với quân Tưởng.

+ Ngày 2 - 3 - 1946, quốc hội họp và quyết định nhường cho bọn Việt cách 70 ghế trong
quốc hội và 4 ghế bộ trưởng.

+ Cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông, chấp nhận tiêu tiền
Trung Quốc ở Việt Nam.

+ Tay sai phá hoại cách mạng thì bị trừng trị theo pháp luật, trấn áp bọn phản cách mạng.
Điều đó làm hạn chế các hoạt động phá hoại của quân Tưởng, làm thất bại âm mưu lật đổ
chính quyền cách mạng của chúng.
d. Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy lui quân Trung Hoa Quốc dân đảng ra khỏi nước ta:

* Hiệp ước Hoa - Pháp:

Pháp, Tưởng cấu kết kí hiệp ước Pháp - Hoa ( 28 - 2 - 1946 ), theo đó:

- Tưởng được Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa ở Trung Quốc, vận chuyển hàng hóa
qua cảng Hải Phòng qua Hoa Nam ( Trung Quốc ) không phải nộp thuế.

- Pháp được đưa quân ra miền Bắc thay Tưởng giải giáp quân Nhật.

* Chủ trương của ta:

- Dân tộc Việt Nam có hai con đường: cầm súng đánh Pháp; tạm hòa với Pháp để tránh
một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.

- Ngày 3 - 3 - 1946, Đảng ta họp và quyết định chọn giải pháp hòa để tiến.

- Ngày 6 - 3 - 1946, Hiệp định sơ bộ được kí kết tại Hà Nội giữa Hồ Chí Minh và Xanh-
tơ-ni. Nội dung Hiệp định như sau:

+ Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có chính phủ riêng, quân đội riêng, nghị
viện riêng, tài chính riêng nhưng vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp.

+ Việt Nam cho 15.000 quân Pháp ra Bắc thay Tưởng trong thời hạn 5 năm.

+ Hai bên ngừng bắn Nam Bộ để đi tới đàm phán chính thức.

Ý nghĩa: tránh được cuộc chiến tranh bất lợi và đẩy nhanh được 20 vạn quân Tưởng về
nước cùng tay sai. Giành thời gian hòa bình để củng cố chính quyền cách mạng, xây
dựng lực lượng về mọi mặt.

- Sau khi kí Hiệp định sơ bộ:

+ Pháp tiếp tục khiêu khích ở Nam Bộ, lập chính phủ Nam Kì tự trị.
+ Ta kiên quyết đấu tranh nên một cuộc hội nghị họp tại Phông-ten-nơ-blô ( Pháp ) ngày
6 - 7 - 1946 nhưng thất bại. Quan hệ Việt Pháp trở nên căng thẳng, nguy cơ chiến tranh
kề gần.

Hồ Chí Minh kí Tạm ước ( 14 - 9 - 1946 ) với Pháp, nhượng thêm cho Pháp một số quyền
lợi kinh tế, văn hóa ở Đông Dương, tạo thêm quỹ thời gian hòa bình cho ta xây dựng lực
lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến.

- Trước 6 - 3 - 1946, ta kiên quyết đánh Pháp ở miền Nam và hòa với quân Tưởng ở miền
Bắc nhưng từ 6 - 3 - 1946 trở đi, ta tạm thời hòa hoãn với Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng
về nước.
tuong gioi thach

Lớp bình dân học vụ (ảnh: internet)

Jiǎng Zhōngzhèng

Jiǎng Jièshí

You might also like