Professional Documents
Culture Documents
Cách đây vài mươi năm, viên thuốc "hạt dưa" đã trở nên quen thuộc đến mức người dân - nhất
là ở các vùng quê - đau gì cũng mua dùng; Mà quả là hiệu nghiệm thật, uống vào thấy "hết bệnh"
ngay, nhưng khi ngưng dùng thì bệnh tái phát. Loại thuốc này chính là Dexamethasone, nhiều
người quen gọi là viên "đề xa", một loại thuốc corticoid. Tuy nhiên nếu sử dụng các thuốc
corticoid bừa bãi sẽ dẫn đến nhiều tác dụng phụ có hại cho sức khỏe.
Ðó là những nội tiết tố (hormone) do vỏ nang thượng thận (cortico-surrénale) tiết ra, có cấu trúc
hóa học steroid nên được gọi tắt là nhóm thuốc corticoid. Ðến nay người ta đã tổng hợp được rất
nhiều nhóm thuốc steroid và sử dụng rộng rãi, đồng thời cũng kéo theo tình trạng lạm dụng thuốc
rất phổ biến.
Những tên khoa học của thuốc như Hydrocortison, Prednison, Betamethason, Dexamethason,
Prednisolon... cho thấy các nhóm thuốc này rất đa dạng, nhiều chủng loại và mỗi loại lại có rất
nhiều tên thương mại khác nhau.
- Chống viêm ở giai đoạn sớm, giai đoạn muộn bất kể nguyên nhân gì như cơ học, hóa học,
nhiễm khuẩn, dị ứng. Chỉ riêng với đặc tính này, thuốc cũng đã trị được nhiều loại bệnh như viêm
khớp do thấp khớp, bệnh thoái hóa khớp, viêm các khớp ngoại vi, những tình trạng bệnh lý do
chấn thương khớp, trị sẹo lồi, sẹo phì đại (khoa da), trị viêm phần trước mắt (khoa mắt), trị viêm
mũi (khoa tai mũi họng)...
- Chống dị ứng: Dùng điều trị trong các bệnh dị ứng da, dị ứng đường hô hấp, hen suyễn nặng...
- Ngoài ra còn nhiều chỉ định chuyên môn khác do tác dụng đa dạng của thuốc như bệnh da
pemphigut, vảy nến, bệnh giảm tiểu cầu thứ phát vô căn của người lớn, bệnh thiếu máu tán
huyết do tự miễn...
Chính vì đa công dụng như thế nên nhiều người đã lầm tưởng rằng thuốc corticoid là loại thần
dược trị được bá bệnh.
Việc lạm dụng corticoid sẽ gây rất nhiều tác hại cho người dùng. Nhiều loại kem trị mụn chứa
corticoid nếu dùng dài ngày sẽ làm mụn nổi nhiều hơn khi ngưng thuốc hoặc gây nám da mặt:
Dùng thuốc nhỏ mắt chứa corticoid (tưởng nhầm là thuốc rửa trong mắt, giúp mắt sáng long
lanh) sẽ dẫn đến đục thủy tinh thể, thấy cảnh vật mờ mờ ảo ảo...
- Tăng cân do giữ natri, đào thải kali gây béo bệu, mặt tròn như mặt trăng.
- Làm cao huyết áp, tăng đông máu có thể gây nghẽn mạch.
- Chậm liền sẹo các vết thương và dễ gây nhiễm khuẩn thứ phát.
- Làm xương xốp do giảm hấp thu calci nên khi té ngã dễ bị gãy xương.
- Làm tăng tiết mồ hôi, co giật, tăng áp lực nội sọ, rối loạn kinh nguyệt, ảo giác, vui vẻ thái quá,
tăng nhãn áp.
Ðấy là lý do vì sao thuốc corticoid nhất thiết cần có chỉ định điều trị của thầy thuốc.
Cách sử dụng corticoid rất đa dạng: từ uống, tiêm bắp, tiêm gân đến tiêm vào trong khớp, vùng
ngoại vi của khớp (khớp gối, khớp háng, khớp vai), hoặc tiêm vào các mô mềm, bao gân...
- Tùy theo từng loại bệnh để chọn loại corticoid thích hợp.
- Tùy tình trạng bệnh và tổng trạng bệnh nhân mà dùng liều lượng và thời gian thích hợp, vì có
những bệnh cần dùng liều cao tấn công rồi sau đó giảm liều từ từ; Có những bệnh lại cần khởi
đầu với liều thấp rồi tăng dần lên cho đến khi đáp ứng được hiệu năng trị liệu. Nếu cần thiết dùng
cho trẻ em thì liều dùng phải được kiểm soát chặt chẽ theo tỷ lệ phù hợp với tuổi hay cân nặng.
Ðặc biệt cần hết sức thận trọng với phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú.
- Trong khi dùng thuốc cần theo dõi sát bệnh nhân để đề phòng các biến chứng liên quan đến
huyết áp, cân nặng, phân, lipid trong máu và theo dõi tái phát bệnh lao nếu người dùng có tiền
sử lao. Trong thời gian điều trị bằng corticoid, khẩu phần ăn cần giảm muối, giảm đường và tăng
lượng đạm.
Việc ngưng dùng corticoid cũng là cả một nghệ thuật nhằm giúp phục hồi chức năng nang
thượng thận của bệnh nhân. Có thể giảm liều mỗi ngày hoặc dùng một ngày, ngưng một ngày;
Hoặc dùng thuốc ban ngày không dùng ban đêm để nang thượng thận làm việc đều đặn trở lại
và tiếp tục tiết ra nội tiết tố corticoid thiên nhiên.
Tóm lại, corticoid là loại thuốc hay nhưng khó sử dụng và cần phải có thầy thuốc giỏi chỉ định.
Quan điểm dùng corticoid "trị bá bệnh" sẽ làm che mờ triệu chứng bệnh và để lại nhiều dư
chứng.
2. Với thuốc chống đông máu đường uống: sẽ ảnh hưởng đến chuyển hoá
của thuốc cũng như của các yếu tố đông máu, gây nguy cơ xuất huyết đặc
thù của thuốc corticoid ở niêm mạc đường tiêu hoá, làm giòn tĩnh mạch
nếu dùng liều cao hay dài ngày (trên 10 ngày).
3. Với hepảin( đường tiêm) : sẽ tăng thêm nguy cơ xuất hiện đặc thù của
thuốc corticoid ở niêm mạc tiêu hoá, lmà gìm tĩnh mạch nếu dùng liều cao
hay dài ngày (trên 10 ngày).
4. Với Insulin – Metformine- Sulfamide hạ đường huyết: sẽ làm tăng
đuownfg huyết và có khi gây nhiễm ceton huyết, do corticoid gây giảm
dung nạp glucid. Phaỉ thận trọng khi phối hợp, báo cho bệnh nhân biết
trước để tự theo dõi máu và nước tiểu, nhất là trong thời gian điều trị. Nếu
cần thiết, phải điều chỉnh liều lượng thuốc chông tiểu đường trong thời
gian phối hợp và sau khi ngưng dùng corticoid.
5. Với Interferon alpha: sẽ ức chế tác dụng của Interfẻon alpha. Cần lưu ý
khi phối hợp.
6. Với các thuốc gây cảm ứng enzyme ( thuốc chống co giật: carbamazepine,
phenobarbital, phenyltoine, primidone, rifampicine): sẽ làm giảm hàm
lượng và hiệu lực của corticoid trong huyết tương do tăng chuyển hoá gan.
Đặc biệt gây hậu quả nghiêm trọng ở bệnh nhân bị bệnh Addison và bệnh
ghép cơ quan. Phải thận trọng khi phối hợp, theo dõi lâm sàng và sinh hoá,
điều chỉnh liều cortiocid trong thời gian phối hợp và sau khi ngừng dùng
thuốc gây cảm ứng men.
7. Vưói Isoniazide: sẽ làm gảim hàm lượng isoniazide trong huyết tương do
tăng chuyển hoá ở gan và giảm chuyển hoá glucocorticoid. Do đó cần theo
dõi trên lâm sàng và sinh học.
8. Với các thuốc băng tráng dạ dày, ruột sẽ làm giảm hấp thu glucocorticoid
bằng đường tiêu hoá. Do đó cần thận trọng, dùng thuốc băng tráng dạ dày,
ruột và thuốc glucocortiocid cách xa nhau trên 2h.
9. Với vaccine sống giảm độc: sẽ tạo nguy cơ gây bệnh lan rộng, nguy cơ
này tăng cao ở người đã bị giảm miễn dịch do một bệnh tiềm ẩn. Cần lưu
ý khi phối hợp, tôt nhất là dùng một vaccine mất hoạt tính nếu có ( ví dụ
bệnh viêm sốt bại liệt).
II. Riêng với Dexamethason:
- Với Praziquantel: sẽ làm giảm nồng độ Praziquantel trong huyết
tương.
III. Riêng với Methylprednisolone (đường tiêm IV)
- Với Ciclosporine: sẽ làm tăng nồng độ ciclosporine và creatinin
trong máu do giảm đào thải ciclosporine ở gan.
IV. Riêng với Prednisolone
- Với Ciclosporine: sẽ làm tăng tác dụng của Pednisolone, dạng
giống hội chứng Cushing, giảm dung nạp glucid, giảm thanh thải
prednisolone.
C. Đối với Mineralocorticoid
- Với thuốc gây cảm ứng men: ( thuốc chống co giật:
carbamazeoine, phenobarbital, phenyltioine, primidone,
rifampicine): sẽ làm giảm nồng độ và hiệu lực của coricoid trong
huyết tương do tăng chuyển hoá ở gan. Hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng ở bệnh nhân mắc bệnh Addison và bệnh nhân ghép cơ quan.
Prednisolon
Mã ATC: A07E A01, C05A A04, D07A A03, D07X A02, H02A B06, R01A
D02, S01B A04, S01C B02, S02B A03, S03B A02.
Chứng viêm, bất kỳ thuộc bệnh căn nào, đều đặc trưng bởi bạch cầu
thoát mạch và xâm nhiễm vào mô bị viêm. Các glucocorticoid ức chế
các hiện tượng này. Glucocorticoid dùng đường toàn thân làm giảm số
lượng các tế bào lymphô, bạch cầu ưa eosin, bạch cầu đơn nhân trong
máu ngoại biên và giảm sự di chuyển của chúng vào vùng bị viêm.
Glucocorticoid còn ức chế chức năng của các tế bào lymphô và của các
đại thực bào của mô. Khả năng đáp ứng của chúng với các kháng
nguyên và các chất gây gián phân bị giảm. Tác dụng của
glucocorticoid đặc biệt rõ rệt lên các đại thực bào, làm hạn chế khả
năng thực bào của chúng, hạn chế khả năng diệt vi sinh vật và hạn chế
việc sản sinh interferon - gama, interleukin - 1, chất gây sốt, các
enzym colagenase và elastase, yếu tố gây phá hủy khớp và chất hoạt
hóa plasminogen. Glucocorticoid tác dụng lên tế bào lympho làm giảm
sản sinh interleukin - 2.
Ngoài tác dụng trên chức năng của bạch cầu, glucocorticoid còn ảnh
hưởng đến đáp ứng viêm bằng cách làm giảm tổng hợp prostaglandin
do ức chế phospholipase A2. Corticosteroid cũng làm tăng nồng độ
lipocortin, ức chế phospholipase A2. Cuối cùng, glucocorticoid làm giảm
sự xuất hiện cyclooxygenase ở những tế bào viêm, do đó làm giảm
lượng enzym để sản sinh prostaglandin.
Glucocorticoid làm giảm tính thấm mao mạch do ức chế hoạt tính của
kinin và các nội độc tố vi khuẩn và do làm giảm lượng histamin giải
phóng bởi bạch cầu ưa base.
Tác dụng ức chế miễn dịch của glucocorticoid phần lớn do những tác
dụng nêu trên. Với liều thấp, glucocorticoid có tác dụng chống viêm;
với liều cao, glucocorticoid có tác dụng ức chế miễn dịch. Những liều
lớn thuốc có thể làm giảm sản sinh kháng thể, còn liều trung bình
không có tác dụng này (ví dụ, prednisolon 20 mg/ngày).
Trong một số trường hợp, glucocorticoid làm chết các tế bào lympho -
T. Những tế bào - T bình thường trong máu ngoại biên có tính đề kháng
cao đối với tác dụng gây chết tế bào của glucocorticoid. Tuy nhiên,
những tế bào lympho không bình thường, gồm cả một số tế bào ung
thư, có thể nhạy cảm hơn nhiều. Glucocorticoid liều cao có thể gây
chết tế bào theo chương trình (apoptosis). Những tác dụng kháng
lympho bào này được sử dụng trong hóa trị liệu bệnh bạch cầu cấp thể
lympho cấp tính và bệnh u lympho.
Corticosteroid có hiệu lực trong hen phế quản nặng, chứng tỏ vai trò
của viêm trong sinh bệnh học miễn dịch của bệnh này. Bao giờ cũng
phải bắt đầu điều trị bằng thuốc kích thích bêta vì corticosteroid không
có tác dụng chống lại bệnh hen cấp tính. Trong những cơn hen nặng
phải nằm viện, điều trị tấn công bằng tiêm glucocorticoid là cơ bản.
Tuy nhiên những người bệnh hen này vẫn cần tiếp tục dùng
corticosteroid hít hoặc uống. Những cơn hen cấp tính ít nặng hơn
thường được điều trị bằng uống glucocorticoid đợt ngắn. Mọi ức chế
chức năng tuyến thượng thận thường hết trong vòng 1 đến 2 tuần.
Trong điều trị bệnh hen phế quản mạn tính, luôn luôn phải sử dụng
glucocorticoid dài ngày với những liều khác nhau theo thời gian tùy
theo bệnh biến chuyển nặng nhẹ khác nhau.
Glucocorticoid được dùng trong điều trị nhiều chứng bệnh thấp và
trong bệnh tự miễn như luput ban đỏ toàn thân và nhiều bệnh viêm
mạch như viêm quanh động mạch nút, bệnh u hạt Wegener, viêm động
mạch tế bào khổng lồ. Ðối với những rối loạn nặng này, liều
glucocorticoid bắt đầu phải đủ (cao hơn nhiều so với liều có tác dụng
chống viêm) để làm giảm bệnh nhanh chóng và để giảm thiểu các
thương tổn mô, sau đó là giai đoạn củng cố, với một liều duy nhất mỗi
ngày được giảm dần tới liều tối thiểu có tác dụng.
Trong bệnh viêm khớp dạng thấp, dùng liều bắt đầu tương đối thấp.
Trong đợt cấp tính, có thể dùng liều cao hơn, sau đó giảm dần, nhanh.
Có thể điều trị người có triệu chứng chính của bệnh khu trú ở một hoặc
một số ít khớp bằng cách tiêm corticosteroid trong khớp.
Ở trẻ em bị viêm khớp mạn tính với những biến chứng đe dọa tính
mạng thì prednisolon là thuốc hàng đầu và đôi khi còn dùng
methylprednisolon theo liệu pháp tấn công. Có thể tiêm corticosteroid
trong khớp như trong bệnh của người lớn, nhưng ở trẻ em những dấu
hiệu đặc trưng của hội chứng dạng Cushing, chứng loãng xương có xẹp
đốt sống và chậm lớn sẽ phát triển nhanh.
Glucocorticoid có tác dụng tốt ở một số người mắc bệnh viêm loét đại
tràng mạn tính, và bệnh Crohn. Có thể dùng prednisolon dưới dạng
thụt giữ trong bệnh viêm loét đại tràng nhẹ, và dùng dạng uống trong
những đợt cấp tính nặng hơn.
Có thể điều trị những biểu hiện của các bệnh dị ứng ngắn ngày, như
sốt cỏ khô, bệnh huyết thanh, mày đay, viêm da tiếp xúc, phản ứng
thuốc, ong đốt và phù thần kinh - mạch bằng glucocorticoid bổ sung
cho liệu pháp chính.
Dùng corticosteroid một mình hoặc phối hợp với những thuốc ức chế
miễn dịch khác để ngăn ngừa sự thải ghép và để điều trị những bệnh
tự miễn khác. Glucocorticoid thường được dùng nhất trong những chỉ
định này là prednisolon và prednison. Ðể chống thải ghép cấp, đòi hỏi
phải dùng liều cao corticosteroid trong nhiều ngày, và để ngăn ngừa
mảnh ghép chống lại chủ thể cấp, phải dùng liều corticosteroid hơi
thấp hơn, điều đó có thể xảy ra sau khi ghép tủy xương. Sử dụng
corticosteroid dài ngày để ngăn ngừa thải ghép thường gây ra nhiều
tác dụng không mong muốn, bao gồm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, loét
đường tiêu hóa, tăng glucose huyết và loãng xương.
Trong trường hợp viêm màng não, cần phải dùng glucocorticoid trước
khi dùng kháng sinh để giảm thiểu tác hại của viêm do đáp ứng diệt
khuẩn ở hệ thần kinh trung ương.
Glucocorticoid là liệu pháp hàng đầu điều trị hội chứng thận hư. Trong
bệnh viêm cầu thận màng có thể dùng liệu pháp glucocorticoid cách
nhật, trong 8 đến 10 tuần, sau đó giảm dần liều trong thời gian 1 đến 2
tháng.
Glucocorticoid rất có tác dụng trong điều trị bệnh tự miễn như viêm
gan mạn tính, hoạt động. 80% người bệnh điều trị với prednisolon liều
cao cho thấy có sự thuyên giảm về mô học. Những người có bệnh gan
nặng được chỉ định prednisolon thay prednison, vì prednison cần phải
chuyển hóa ở gan để thành dạng có tác dụng dược lý.
Trong thiếu máu tan huyết tự miễn, nếu không chữa được nguyên nhân
chính hoặc nếu cần can thiệp khẩn cấp, thì glucocorticoid là thuốc điều
trị có hiệu quả. Ít khi chỉ định truyền máu vì có thể gây biến chứng
tăng tan huyết. Nếu tình trạng bệnh nguy hiểm đến tính mạng, cần
tiêm tĩnh mạch liều cao prednisolon trước khi truyền máu và theo dõi
chặt chẽ người bệnh.
Bệnh sarcoid được điều trị bằng corticosteroid. Do nguy cơ mắc bệnh
lao thứ phát tăng, nên người bệnh có biểu hiện mắc lao phải được điều
trị dự phòng chống lao.
Khả dụng sinh học theo đường uống của prednisolon xấp xỉ 82%. Nồng
độ đỉnh huyết tương đạt từ 1 - 2 giờ sau khi dùng thuốc. Prednisolon
liên kết với protein khoảng 90 - 95%. Ðộ thanh thải của prednisolon là
8,7 + 1,6 ml/phút/kg. Thể tích phân bố của thuốc là 1,5+ 0,2 lít/kg.
Prednisolon được chuyển hóa ở gan và những chất chuyển hóa là dạng
este sulfat và glucuronid được bài tiết vào nước tiểu. Nửa đời của
prednisolon xấp xỉ 1,7 - 2,7 giờ.
Chỉ định
Prednisolon được chỉ định khi cần đến tác dụng chống viêm và ức chế
miễn dịch:
Viêm khớp dạng thấp, lupút ban đỏ toàn thân, một số thể viêm mạch;
viêm động mạch thái dương và viêm quanh động mạch nút, bệnh
sarcoid, hen phế quản, viêm loét đại tràng, thiếu máu tan huyết, giảm
bạch cầu hạt, và những bệnh dị ứng nặng gồm cả phản vệ.
Ung thư, như bệnh bạch cầu cấp, u lympho, ung thư vú và ung thư
tuyến tiền liệt ở giai đoạn cuối.
Nhiễm khuẩn nặng, trừ sốc nhiễm khuẩn và lao màng não.
Sử dụng thận trọng ở những người bệnh loãng xương, người mới nối
thông (ruột, mạch máu), rối loạn tâm thần, loét dạ dày, loét tá tràng,
đái tháo đường, tăng huyết áp, suy tim và trẻ đang lớn.
Do nguy cơ có những tác dụng không mong muốn, nên phải sử dụng
thận trọng corticosteroid toàn thân cho người cao tuổi, với liều thấp
nhất và trong thời gian ngắn nhất có thể được.
Suy tuyến thượng thận cấp có thể xảy ra khi ngừng thuốc đột ngột sau
thời gian dài điều trị hoặc khi có stress.
Khi tiêm trong khớp cần đảm bảo vô trùng tuyệt đối.
Khi dùng liều cao, có thể ảnh hưởng đến tác dụng của tiêm chủng
vaccin.
Trẻ em có thể nhạy cảm hơn với sự ức chế tuyến thượng thận khi điều
trị thuốc bôi tại chỗ.
Dùng corticosteroid toàn thân dài ngày cho người mẹ có thể dẫn đến
sự giảm cân của trẻ sơ sinh. Dùng corticosteroid liều cao theo đường
toàn thân cho người mẹ có thể gây ra nguy cơ nhỏ về giảm sản thượng
thận ở trẻ sơ sinh. Nói chung, sử dụng corticosteroid ở người mang thai
đòi hỏi phải cân nhắc lợi ích có thể đạt được so với những rủi ro có thể
xảy ra với mẹ và con.
Cần phải sử dụng corticosteroid cho người mang thai bị hen vì hen có
nguy hiểm là gây thiếu oxy cho bào thai. Dùng glucocorticoid trước khi
đẻ non còn thúc đẩy sự trưởng thành cho phổi của trẻ, ngăn ngừa hội
chứng suy giảm hô hấp.
Thời kỳ cho con bú
Prednisolon tiết vào sữa mẹ với lượng dưới 1% liều dùng và có thể
không có ý nghĩa lâm sàng. Nên cẩn thận khi dùng prednisolon cho
người cho con bú.
Những tác dụng không mong muốn thường xảy ra nhiều nhất khi dùng
prednisolon liều cao và dài ngày.
Prednisolon ức chế tổng hợp prostaglandin và như vậy làm mất tác
dụng của prostaglandin trên đường tiêu hóa tức là làm mất tác dụng ức
chế tiết acid dạ dày và bảo vệ niêm mạc dạ dày. Nhiều ADR có liên
quan đến tác dụng này của glucocorticoid.
Thần kinh trung ương: Mất ngủ, thần kinh dễ bị kích động.
Thần kinh trung ương: Chóng mặt, cơn co giật, loạn tâm thần, giả u
não, nhức đầu, thay đổi tâm trạng, mê sảng, ảo giác, sảng khoái.
Da: Trứng cá, teo da, thâm tím, tăng sắc tố da.
Nội tiết và chuyển hóa: Hội chứng dạng Cushing, ức chế trục tuyến yên
- thượng thận, chậm lớn, không dung nạp glucose, giảm kali - huyết,
nhiễm kiềm, vô kinh, giữ natri và nước, tăng glucose huyết.
Tiêu hóa: Loét dạ dày - tá tràng, buồn nôn, nôn, chướng bụng, viêm
loét thực quản, viêm tụy.
Trong những chỉ định cấp, trừ bệnh bạch cầu và choáng phản vệ, nên
sử dụng glucocorticoid với liều thấp nhất và trong thời gian ngắn nhất
có hiệu lực lâm sàng.
Sau điều trị dài ngày với glucocorticoid, có khả năng xảy ra ức chế trục
hạ đồi - tuyến yên - thượng thận, do đó bắt buộc phải giảm liều
glucocorticoid từng bước một, thay vì ngừng đột ngột. Có thể áp dụng
qui trình giảm liều của prednisolon là: cứ 3 đến 7 ngày giảm 2,5 - 5
mg, cho đến khi đạt liều sinh lý prednisolon xấp xỉ 5 mg. Nếu bệnh xấu
đi khi giảm thuốc, tăng liều prednisolon và sau đó giảm liều
prednisolon từ từ hơn.
Áp dụng cách điều trị trách tiếp xúc liên tục với những liều thuốc có
tác dụng dược lý. Dùng một liều duy nhất trong ngày gây ít ADR hơn
dùng những liều chia nhỏ trong ngày, và liệu pháp cách nhật là biện
pháp tốt để giảm thiểu sự ức chế tuyến thượng thận và giảm thiểu
những ADR khác. Trong liệu pháp cách nhật, cứ hai ngày một lần dùng
một liều duy nhất, vào buổi sáng.
Theo dõi và đánh giá định kỳ những thông số về loãng xương, tạo
huyết, dung nạp glucose, những tác dụng trên mắt và huyết áp.
Dự phòng loét dạ dày và tá tràng bằng các thuốc kháng histamin hoặc
các thuốc ức chế bơm proton khi dùng liều cao corticosteroid toàn
thân.
Tất cả người bệnh điều trị dài hạn với glucocorticoid đều cần dùng
thêm calcitonin, calcitriol và bổ sung calci để dự phòng loãng xương.
Những người bệnh sắp được phẫu thuật có thể phải dùng bổ sung
glucocorticoid vì đáp ứng bình thường với stress đã bị giảm sút do sự
ức chế trục hạ đồi - tuyến yên - thượng thận.
Prednisolon:
Prednisolon acetat:
Prednisolon acetat có thể dùng tiêm bắp, tiêm trong
khớp hoặc mô mềm. Liều tiêm bắp khởi đầu cho người
lớn có thể từ 4 - 60 mg/ngày, tùy thuộc vào bệnh cần
điều trị. Thông thường, thuốc được tiêm bắp cứ 12 giờ 1
lần. Trẻ em có thể dùng 0,04 - 0,25 mg/kg hoặc 1,5 - 7,5
mg/m2 tiêm bắp, 1 hoặc 2 lần mỗi ngày. Trong trường
hợp đe dọa tính mạng, có thể dùng liều tiêm bắp rất
cao, gấp nhiều lần liều uống thường dùng. Tuy nhiên
trong các tình trạng nguy kịch nhất, thường dùng một
este hòa tan của prednisolon tiêm tĩnh mạch.
Những triệu chứng quá liều gồm biểu hiện hội chứng
dạng Cushing, yếu cơ, và loãng xương, chỉ xảy ra khi
dùng glucocorticoid dài ngày.