Professional Documents
Culture Documents
Tháng 7‐8/ 2003
ii
Mục Lục
Danh mục các Bảng và Khung ............................................................................................iii
Lời nói đầu của Nhóm hành động chống đói nghèo.........................................................v
Lời cảm ơn .............................................................................................................................vii
Những chữ viết tắt ................................................................................................................ ix
Tóm tắt Báo cáo ...................................................................................................................... 1
Phần 1: Giới thiệu .................................................................................................................. 4
Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu .............................................................................................. 8
Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm, những
rủi ro và tính dễ tổn thương .................................................................................. 12
Phần 4: Tham gia và Tăng cường Năng lực trong việc Đưa ra các Quyết định tại
Địa phương ............................................................................................................. 25
Phần 5: Cải cách Hành chính công .................................................................................... 32
Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị.................................................................................. 39
Tài liệu Tham khảo .............................................................................................................. 48
PHỤ LỤC 1: Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 49
PHỤ LỤC 2: Số liệu Tóm tắt Tham vấn tại Địa bàn Nghiên cứu .................................. 51
PHỤ LỤC 3: Danh sách thành viên nhóm khảo sát thực địa ........................................ 54
PHỤ LỤC 4: Các loại hình thức cư trú đối với quản lý hành chính ............................. 55
PHỤ LỤC 5: Quan hệ đối tác trong Đánh giá nghèo theo vùng ................................... 57
iii
Danh mục các Bảng và Khung
Bảng
Bảng 1: Dân số huyện Bình Chánh, Thị Trấn An Lạc và Xã Tân Tạo .............................. 9
Bảng 2: Dân số Quận 8, Phường 4 và Phường 5 ............................................................... 11
Bảng 3: Tính đa khía cạnh của tình trạng nghèo .............................................................. 18
Bảng 4: Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về các lĩnh vực
dân chủ cơ sở ........................................................................................................... 27
Bảng 5: Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về cơ chế tăng cường sự
tham gia và đảm bảo việc phổ biến, trao đổi thông tin .................................... 29
Bảng 6: Dân chủ cơ sở trực tiếp và đại diện ...................................................................... 30
Khung
Khung 1: Tiêu chí xác định hộ nghèo của chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo........... 15
Khung 2: Ý nghĩa của các nguồn lực chính trị và xã hội đối với người nghèo ............ 16
Khung 3: Người nghèo nhận thức được chất lượng cuộc sống của họ thấp kém ....... 17
Khung 4: Quy trình xét chọn hộ hưởng chương trình Xoá đói giảm nghèo
tại khu phố ........................................................................................................... 31
Khung 5: Rơi vào cảnh nghèo vì tác động của quy hoạch đô thị................................... 45
iv
Lời nói đầu của
Nhóm hành động chống đói nghèo
Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam đã hoàn thành Chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) và bắt đầu quá trình triển khai thực hiện
CPRGS ở cấp địa phương. Thông qua các chiến dịch thông tin và hàng loạt các hội
thảo vùng, cán bộ của các bộ ngành chủ chốt đã giải thích cho đại diện của các chính
quyền địa phương về các phương pháp sao cho các quy trình lập kế hoạch của địa
phương có thể được thực hiện theo định hướng vì người nghèo hơn, dựa trên số liệu
thực tế hơn, chú trọng vào kết quả hơn, cân đối tốt hơn trong các quyết định phân bổ
nguồn lực và được giám sát tốt hơn.
Năm 2003 Nhóm hành động chống đói nghèo (PTF) đã hỗ trợ thực hiện cho các đánh
giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng (PPAs) ở 12 tỉnh của Việt Nam. Những đánh
giá nghèo này đã sử dụng khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chung để
tìm hiểu những vấn đề nghèo đói mà các số liệu định lượng đã không mô tả được hết.
Mục đích của việc làm này là đưa ra một nghiên cứu có thể sử dụng cùng với số liệu
của Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam để cung cấp thông tin cho Ban thư ký
CPRGS về tiến độ thực hiện CPRGS cho tới nay. Đánh giá nghèo cũng được thiết kế
để cung cấp thông tin cho các nghiên cứu mới về nghèo đói ở các vùng và trên toàn
quốc và các nghiên cứu này cũng đã được công bố riêng. Các đánh giá nghèo theo
vùng sẽ được sử dụng như những công cụ xây dựng năng lực cho các quy trình lập kế
hoạch với định hướng vì người nghèo ở các cấp chính quyền địa phương.
Tám nhà tài trợ đã đóng góp nguồn lực tài chính và nhân lực để hỗ trợ cho các đánh
giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng, là cơ sở cho việc xây dựng báo cáo này và
các đánh giá nghèo theo vùng bổ sung. Các nhà tài trợ bao gồm ADB, AusAID, DFID,
GTZ, JICA, SCUK, UNDP và Ngân hàng Thế giới. Mỗi nhà tài trợ đóng vai trò chính ở
một vùng của Việt Nam. Việc phân bố các vùng giữa các nhà tài trợ được tóm tắt ở
Bảng A, và dựa trên định hướng hoạt động của các nhà tài trợ trong từng lĩnh vực.
Bằng cách lựa chọn vùng nào mình thấy quen thuộc nhất, thông qua các dự án và
hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, các nhà tài trợ có thể tận dụng hoàn toàn được những hiểu
biết tích luỹ được khi đã làm việc tại vùng đó.
Các nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng ở 43
xã rải rác trên toàn quốc. Trong số đó có hai tổ chức phi chính phủ quốc tế (Action
Aid và SCUK), các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam,
bao gồm Trung tâm phát triển nông thôn, Viện xã hội học (IOS), Trung tâm Chăm sóc
sức khoẻ ban đầu Long An, Trung tâm dịch vụ phát triển nông thôn (RDSC) và
Vietnam Solutions. Ngoài ra, có hai nhà tài trợ đã tiến hành nghiên cứu bằng cách lập
các nhóm nghiên cứu gồm các chuyên gia trong nước dưới sự quản lý trực tiếp của
nhà tài trợ. Kiến thức và kinh nghiệm của các tổ chức phi chính phủ và cơ quan
nghiên cứu đóng vai trò then chốt đối với chất lượng của công tác này. Một cơ chế
phối hợp đã được hình thành cho công tác đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng
v
đồng. Các thành viên của hầu hết các nhóm nghiên cứu đã tham gia xây dựng khung
nghiên cứu và đi đến thống nhất về mục tiêu cần đạt được trong công tác nghiên cứu
thực địa. Công tác thực địa đã được một số nhóm tiến hành thí điểm, và đề cương
nghiên cứu cũng được chỉnh sửa cho phù hợp với những bài học kinh nghiệm được
rút ra. Khuôn khổ nghiên cứu cuối cùng bao quát những lĩnh vực nghiên cứu như
sau:
• Nhận thức về nghèo đói và xu hướng nghèo, nguyên nhân dẫn tới nghèo và
khả năng dễ bị tổn thương;
• Tiến bộ trong công tác tăng cường dân chủ ở cấp cơ sở, đặc biệt là mức độ các
hộ nghèo có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào các quy trình xây dựng kế
hoạch và lập ngân sách;
• Những thách thức trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, tập trung vào sự
tương tác của các hộ gia đình nghèo với các nhà cung cấp dịch vụ và các hộ
nghèo có thể được tăng cường quyền lực như thế nào để có thể yêu cầu quyền
lợi được cung cấp các dịch vụ cơ bản một cách hiệu quả hơn;
• Các cơ chế trợ cấp xã hội hiện nay (liên quan tới công tác xác định đối tượng
ưu tiên ở trên) và cách thức cải thiện các cơ chế này;
• Tình hình cải cách hành chính công ở các cấp chính quyền địa phương;
• Những thách thức trong vấn đề di dân và mối liên hệ giữa sự di chuyển của
hộ gia đình, nghèo đói và tiếp cận với dịch vụ; và,
• Thông tin về môi trường đối với người nghèo và sự thay đổi của tình hình
này.
Những Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng hiện nay đang được công bố
thành bộ. Một báo cáo tổng hợp các kết quả của cả 43 xã và phân tích một cách tổng
hợp hơn các chủ đề này cũng sẽ được công bố. Cũng sẽ có một báo cáo khác tóm tắt
phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu được sử dụng và những câu hỏi
nghiên cứu chi tiết.
vi
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cám ơn sự chỉ đạo và hỗ trợ quý báu và kịp thời của Ủy Ban
Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh, Ban Chỉ Đạo Chương Trình Xóa Đói Giảm
Nghèo và Việc Làm (Sở Lao Động Thương Binh Xã Hội), chính quyền Huyện Bình
Chánh, Thị trấn An Lạc, Xã Tân Tạo, và chính quyền Quận 8, Phường 4, và Phường 5,
trong suốt quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, xin cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình và đầy
tính trách nhiệm của các cán bộ chuyên trách chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo cấp
thành phố, quận/huyện và phường/ xã/ thị trấn đã góp phần quyết định vào sự thành
công của đợt khảo sát, đồng thời minh chứng cho tính tham gia là phương pháp chủ
đạo của tất cả các cuộc đánh giá nghèo được thực hiện từ năm 1999 đến nay.
Chúng tôi cũng xin cám ơn các tổ chức đoàn thể, các tổ trưởng tổ dân phố, ban vận
động khu phố/ ấp được chọn khảo sát đã vận động người dân tham gia tích cực và tổ
chức chu đáo các buổi họp dân, tạo ra bầu khí cho sự tham gia tích cực, cởi mở để
nhóm nghiên cứu có được các thông tin xác thực từ chính người dân địa phương.
Xin cám ơn T.S. Martin Rama, Th.S. Carrie Turk (Ngân Hàng Thế Giới), và Th.S.
Nguyễn Văn Thuần (Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc), đã hỗ trợ công việc nghiên cứu,
đặc biệt về phương pháp, trong suốt các giai đoạn chuẩn bị, thực địa, cũng như viết
báo cáo.
Cuối cùng, xin chân thành cám ơn những người dân đã trực tiếp tham gia nghiên cứu
thông qua các hoạt động thảo luận nhóm, phân hạng kinh tế hộ, phỏng vấn sâu
trường hợp điển cứu và các ý kiến thực tế, chân tình, xây dựng để nghiên cứu này có
thể hoàn thành tốt đẹp.
vii
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
viii
Tóm tắt Báo cáo
ix
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
x
Tóm tắt Báo cáo
Tham gia và tăng cường năng lực trong việc đưa ra các quyết định tại địa
phương
Lúc đợt nghiên cứu đánh giá nghèo có sự tham gia này đang tiến hành, các phường/
xã/ thị trấn đang tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định 29 (Dân chủ cơ sở – DCCS) chủ
yếu tập trung vào các lĩnh vực sau: 14 việc dân biết đến, 6 việc dân bàn bạc và quyết
định trực tiếp, 8 việc dân tham gia ý kiến, HĐND và UBND quyết định, 10 việc dân
giám sát, kiểm tra. Các cán bộ và người dân địa phương đều đồng ý rằng đã có nhiều
tiến bộ trong việc thực hiện các nội dung tuyên truyền, phổ biến DCCS và các chính
sách khác của nhà nước, thái độ tiếp dân tích cực hơn trong các cơ quan nhà nước,
bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân, đóng góp vào các khoản quỹ địa phương và
phát triển cơ sở hạ tầng địa phương. Các cán bộ chính quyền quận/ huyện và phường/
xã/ thị trấn cho rằng khâu có nhiều hạn chế duy nhất là vấn đề công khai ngân sách
địa phương.
1
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tuy nhiên, người dân địa phương còn thấy được các điểm yếu kém khác như: những
người dân nhập cư nghèo, thanh niên, và trẻ em ít tham gia hơn so với những nhóm
dân thường trú; các tổ trưởng tổ dân phố (những người đóng vai trò thiết yếu trong
việc đưa ra các ý kiến hướng dẫn) có năng lực làm việc rất khác nhau; đại biểu Hội
đồng Nhân dân thường là các cán bộ địa phương; việc thực hiện DCCS chỉ giới hạn
trong khuôn khổ UBND, không ít trường hợp bị hạn chế vì thiếu sự phối kết hợp với
các cơ quan ngành dọc như giáo dục và quản lý đô thị.
Ý kiến đề xuất chủ yếu là cần thay đổi bản chất tham gia từ khá bị động và một chiều
(chẳng hạn như được thông báo) như hiện nay trở nên chủ động hơn và có sự bàn
bạc, trao đổi, tham khảo ý kiến hai chiều (ví dụ như về việc đóng các khoản phí ngoài
học phí), và chuyển sang giám sát chủ động hơn sau này (chẳng hạn như xác định đối
tượng hỗ trợ xã hội và giám sát việc thực hiện chương trình XĐGN). Cần phải thu hẹp
khoảng cách nhận thức của các cán bộ địa phương và của người dân địa phương về
các vấn đề vừa nêu trên.
2
Tóm tắt Báo cáo
Các hệ quả của tình trạng thiếu hộ khẩu thường trú một lần nữa lại được người dân
nêu ra (tương tự như lần đánh giá nghèo năm 1999 và tham khảo ý kiến cộng đồng về
Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo năm 2002), như: không bình đẳng quyền lợi
trong tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, thụ hưởng chương trình Xoá đói giảm
nghèo, các chương trình tín dụng và các hỗ trợ xã hội khác cũng như phải trả các chi
phí cao cho điện, nước và các phí tổn cho gia hạn đăng ký tạm trú.
Ngoài ra, trong khi người nhập cư là người phải gánh chịu sự thiếu an toàn do tình
trạng cư trú tạm thời của họ thì người dân nghèo tại chỗ là những người bị ảnh hưởng
bởi các dự án quy hoạch đô thị lại phàn nàn nhiều về tình trạng bấp bênh, không ổn
định, thiếu sự công khai rõ ràng, thiếu tư vấn cộng đồng và sự chậm trễ, kéo dài (trong
một số trường hợp đến hơn 5 năm) của các dự án thuộc quy hoạch “treo”.
Các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội không căn cứ trên số cư dân hiện đang sinh
sống tại địa phương (vì chỉ có lực lượng công an nắm số liệu về số dân nhập cư để
quản lý trật tự trị an) mà chỉ căn cứ trên số dân có đăng ký thường trú. Các kế hoạch
này vì thế không theo hướng giảm nghèo, chí ít là xét trên khía cạnh không tính đến
các nhóm dân nghèo mới di chuyển từ nông thôn vào thành phố. Cũng vì thế, người
nhập cư là người nghèo không được nhận diện.
Tuy nhiên, nếu so sánh với các cuộc đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng
trước đây, có sự thay đổi đáng ghi nhận nhất về thái độ của các lãnh đạo và viên chức
các cấp là hiện nay nhiều người cởi mở chấp nhận có những thiếu sót trong cách tiếp
cận hiện hành, công nhận nhiều hơn các quyền lợi bình đẳng của người nhập cư với
tư cách là những công dân Việt Nam như là những người Việt Nam khác, nhìn nhận
vai trò quan trọng của họ trong sự phát triển kinh tế của Thành phố và vì thế cần có
sự vận dụng mềm dẻo, linh hoạt hơn các quy định về đăng ký cư trú.
3
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
1 5.209 đô‐la Mỹ (sau Bà Rịa Vũng Tàu: 14.470) (Đổi mới và Phát triển Con người ở Việt Nam. Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia. 2001.)
2 0,796 (sau Bà Rịa – Vũng Tàu 0,835 và Hà Nội 0,798 (Đổi mới và Phát triển Con người ở Việt Nam. Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia. 2001.)
3 Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 16/10/2003, trang 1.
4 Nghiên cứu Đánh giá tình trạng nghèo có sự tham gia vào năm 1999 (SCUK 1999) và Tham khảo ý kiến cộng
4
Phần 1: Giới thiệu
5 Norton, Andy. Đánh giá Tình trạng nghèo có sự tham gia của người dân – Lý thuyết và Thực hành. Overseas
Development Institute. 2001.
6 ibid.
7 Xem Phụ lục 1.
5
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Dựa trên mục tiêu và phương pháp nghiên cứu trên, cuộc nghiên cứu tình trạng
nghèo có sự tham gia của người dân lần này được thực hiện ở Thị trấn An Lạc và Xã
Tân Tạo thuộc Huyện Bình Chánh, Phường 4 và Phường 5 Quận 8, là các quận huyện
đang đô thị hóa có những đặc điểm và tốc độ phát triển khác nhau. Nghiên cứu thực
địa kéo dài hai tuần, từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 8 năm 2003. Ngoài ra còn có các giai
đoạn chuẩn bị nghiên cứu, tập huấn, viết và thông qua báo cáo kết quả nghiên cứu.
Trong mỗi phường, xã, hoặc thị trấn, để tham khảo ý kiến người nghèo, có 4 cuộc
phân hạng kinh tế hộ, mỗi cuộc có 4 tham dự viên; và có 9 cuộc thảo luận nhóm, mỗi
cuộc có khoảng 12 tham dự viên, gồm phụ nữ nghèo địa phương, nam nghèo địa
phương, phụ nữ nghèo nhập cư, nam nghèo nhập cư (ở độ tuổi từ 35‐55), thanh niên
nam nữ nghèo địa phương và thanh niên nam nữ nghèo nhập cư (ở độ tuổi 18‐25),
thiếu nhi nghèo địa phương và thiếu nhi nghèo nhập cư (ở độ tuổi 12‐16 tuổi), và
chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương.
Tương tự ở cấp quận huyện, thông tin và ý kiến được thu thập qua các buổi thảo luận
nhóm với chính quyền quận huyện và chủ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mỗi nhóm
khoảng 12 người tham dự.
Tổng cộng toàn đợt nghiên cứu có 16 cuộc phân hạng kinh tế hộ, 41 cuộc thảo luận
nhóm, và 20 cuộc phỏng vấn sâu các trường hợp điển cứu với 457 người tham dự,
được phân chia theo lứa tuổi, giới tính, và vị trí xã hội như sau (xem phụ lục 2):
• Theo tuổi: 271 người lớn (35‐55 tuổi), 92 thanh niên (18‐25 tuổi), và 94 trẻ em
(12‐16 tuổi)
• Theo giới: 223 nữ và 234 nam
• Theo vị trí xã hội: 70 cán bộ chính quyền, 17 đại diện doanh nghiệp nhỏ và
vừa, và 370 người dân địa phương (trong đó 193 người thuộc diện KT1 và
KT2, 177 người thuộc diện KT3 và KT4)
• Theo dân tộc: Đại đa số tham dự viên là người Kinh. Chỉ có một số rất ít (11
người) là người Hoa, và một (01) người là dân tộc thiểu số (Tày).
Tổng số thành viên tham gia nghiên cứu gồm 47 người từ các tổ chức chính quyền,
đoàn thể, các cơ quan nghiên cứu và giáo dục, được điều phối bởi tổ chức phi chính
phủ là Tổ chức Cứu Trợ Trẻ Em Anh (SCUK). Trong số này có 5 người là nghiên cứu
viên của phía SCUK, 9 người từ các viện nghiên cứu và trường đại học, cao đẳng; 15
người là cán bộ chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương 3 cấp (thành phố,
quận/ huyện, phường/ xã/ thị trấn) đã tích cực tham gia như là các nghiên cứu viên
chính thức (xem Phụ lục 3). Trung bình mỗi quận/ huyện có 3 cán bộ quận/ huyện và
một số cán bộ phường/ xã/ thị trấn tham gia hỗ trợ thảo luận nhóm bằng cách cùng
hướng dẫn thảo luận hoặc ghi biên bản. Ngoài ra, các tổ trưởng và trưởng ban nhân
dân khu phố/ ấp đã tích cực hỗ trợ xác định người dân nghèo tham gia phân hạng
kinh tế hộ, thảo luận nhóm, phỏng vấn trường hợp điển cứu để nhóm nghiên cứu thu
thập ý kiến và ghi nhận thông tin.
6
Phần 1: Giới thiệu
7
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Xã Tân Tạo
Xã Tân Tạo là một trong những xã có diện tích lớn nhất của Huyện Bình Chánh (1.738
héc ta), với khoảng 70 héc ta đất thổ cư với 4 ấp và 158 tổ dân phố Tân Tạo cũng là một
trong 4 xã có tiến trình đô thị hoá nhanh và mạnh nhất trong huyện. So với Thị trấn An
Lạc, sự gia tăng dân số của Tân Tạo đột biến hơn nhiều. Đến nay, Tân Tạo có 61.023 cư
8
Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu
dân với khoảng hai phần ba (2/3) (khoảng 40.000) thuộc diện đăng ký KT3 và KT4. Cũng
như ở Thị trấn An Lạc, trong số này, khoảng 35.000 nhân khẩu diện KT4 chỉ được ghi
nhận như là nhân khẩu. Có sự gia tăng dân số cao đột biến như vậy là do trên địa bàn
xã các khu công nghiệp và các xí nghiệp, doanh nghiệp lớn, nhỏ, và vừa liên tục thành
lập và đi vào hoạt động trong vòng 5 năm qua. Theo số liệu thống kê mới nhất của
UBND huyện, hiện tại xã có 3 khu công nghiệp và 116 xí nghiệp lớn mới thành lập.
Bảng 1. Dân số Huyện Bình Chánh, Thị trấn An Lạc và Xã Tân Tạo.
* Lưu ý: các con số thống kê không hoàn toàn tương ứng do lấy từ vài nguồn khác nhau
Quận 8
Quận 8, nằm ở phía tây nam TPHCM, cũng là một địa bàn gắn với cửa ngõ vào Đồng
Bằng Sông Cửu Long nhờ một số tuyến đường và quốc lộ mới xây dựng và mở rộng
(Bắc Nhà Bè – Nam Bình Chánh). Đặc điểm địa lý của Quận 8 khác hơn nhiều quận
huyện khác là có nhiều hệ thống sông rạch và kênh đào nhỏ, chằng chịt, chiếm
khoảng 14% của tổng diện tích toàn quận là 18,8 km2. Trải qua quá trình đô thị hoá
nhanh chóng, Quận 8 đã giảm hẳn số phường nông nghiệp, từ 4 (trên tổng số 16
phường) cách đây vài năm, nay không còn phường nông nghiệp nào; toàn bộ 16
phường đã trở thành phường bán nông nghiệp.
Quận 8 có một Trung tâm Y tế mới xây dựng, 17 trường mẫu giáo, 18 trường tiểu học,
11 trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học, một trường đặc biệt cho trẻ
khuyết tật, một trung tâm giáo dục thường xuyên, và một trường dạy nghề.
Dân số có đăng ký (thường và tạm trú) của Quận 8 là 538.547 người, trong số đó 89%
là người Kinh, 10,39% là người Hoa, 0,44% người Chăm, và 0,17% người Khơ‐me và
8 Số liệu do công an địa phương cấp 14/8/2003.
9 Số liệu UBND cấp tháng 8/2003.
10 Số liệu do công an địa phương cấp 29/8/2003.
11 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999.
12 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999.
13 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999.
9
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
dân tộc khác. Dân số đã tăng (theo chính quyền địa phương, chủ yếu tăng cơ học, tức
do dòng người từ nơi khác đến) thêm 208.129 trong vòng 4 năm qua (xem Bảng 2). Số
người không có hộ khẩu thường trú cũng khá cao: 182.449 người (34%).
Một đặc thù của Quận 8 là có một số lượng đáng kể người dân sống dọc trong những
khu nhà lụp xụp dọc hai bờ các kênh rạch, vốn chiếm một diện tích đáng kể trong
quận. Không có con số thống kê số người này trên toàn quận.
Nghề nghiệp và sinh kế của người dân Quận 8 trong những năm qua đã có nhiều
thay đổi, bị tác động bởi sự di dời ra ngoại thành của nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi
trường (theo Quyết định 81 ngày 8/7/2002), đồng thời do sự chuyển đổi mục đích sử
dụng đất trong quá trình đô thị hoá. Trong quá trình này, có những người khá lên,
cũng có những người nghèo đi. Có người bán đất và kinh doanh thành công. Có
người đi làm cho các xí nghiệp và doanh nghiệp ở Phường 6, nơi có khu công nghiệp
đang phát triển. Nhiều người mất việc sau khi xí nghiệp di dời và không tìm được
việc. Một số phải cố gắng xoay sở sống qua ngày bằng cách tham gia vào thành phần
kinh tế phi chính thức, như bán dạo, chạy xe ôm, bán vé số, buôn bán ʺhàng bôngʺ14
và thức ăn ở gần chợ ,v.v...). Một số không xoay sở được và rơi vào cảnh nghèo túng.
Phường 4
Phường 4 diện tích 144 héc ta, gồm 8 khu phố và 123 Tổ Dân Phố. Phường 4 có 6.534
hộ với 33.589 nhân khẩu, trong số đó có khoảng 18% không có hộ khẩu thường trú
(xem bảng 2). Hầu hết dân cư làm lao động phổ thông và công nhật cho các xí nghiệp,
cơ sở, hay làm thuê hoặc tự kinh doanh buôn bán nhỏ.
Cũng như nhiều phường khác ở Quận 8, Phường 4 có nhiều người sống trên các kênh
rạch chằng chịt. Trường Dạy Nghề thuộc Phòng Giáo Dục Quận 8 nằm trong địa bàn
phường này. Tại phường 4 có một số cơ sở di dời ra khỏi phường theo Quyết định số
81 ngày 8/7/2002.
Phường 5
Phường 5 diện tích 160 héc ta gồm 10 khu phố và 130 tổ dân phố. Phường 5 có 6.641
hộ với 32.695 nhân khẩu, trong đó khoảng 16% không có hộ khẩu thường trú (xem
bảng 2). Phường 5 giáp với phường 6, nơi có khu công nghiệp mới được thành lập 2
năm nay. Vì vậy, Phường 5 có một số người nhập cư từ các tỉnh đến làm hoặc tìm việc
trong các nhà máy xí nghiệp ở khu công nghiệp này. Trong vòng 2, 3 năm gần đây
khoảng 20 xí nghiệp lớn đã di dời ra khỏi Phường 5 theo Quyết định 81 ngày 8/7/2002
để tránh gây ô nhiễm trong các khu dân cư. Tuy nhiên, hầu hết các xí nghiệp vừa và
nhỏ thường sản xuất kinh doanh các mặt hàng truyền thống của địa phương hiện vẫn
còn hoạt động tại đây.
14 Tức là rau cải tươi
10
Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu
Mức độ tăng trưởng dân số (so với Tổng 208,129 3,366 5,771
điều tra dân số 1/4/1999)
(39%) (10%) (18%)
* Lưu ý: các con số thống kê không hoàn toàn tương ứng do lấy từ vài nguồn khác nhau
15 Số liệu chính quyền địa phương cung cấp tháng 8/2003.
16 Niên Giám Thống Kê Quận 8 năm 1995‐2000.
17 Niên Giám Thống Kê Quận 8 năm 1995‐2000.
18 Niên Giám Thống Kê Quận 8 năm 1995‐2000.
11
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương này trước tiên đề cập đến nhận thức của các nhóm người nghèo khác nhau về tình
trạng và xu hướng nghèo được trong vài năm qua, được thể hiện đan xen nhau thông qua các
dáng vẻ và các nguyên nhân đa dạng của nó. Tiếp theo là nêu lên các cảm nhận của họ về
nghèo như là một vấn đề đa khía cạnh, trong đó nổi lên những rủi ro và tính dễ bị tổn thương
mà người nghèo thường dễ gặp phải. Sau cùng, báo cáo mô tả quá trình nỗ lực để có được sinh
kế và việc làm của đa số người nghèo.
12
Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm và những rủi ro
hơn còn thể hiện qua sự xuất hiện của nhiều hàng quán trong khu phố. Sở dĩ có được
những thay đổi tốt hơn này là nhờ cơ sở hạ tầng (nhỏ như hẻm, đường nội bộ, và/
hoặc là xa lộ) được nâng cấp; cũng như nhờ có nhiều người nhập cư đến, trở thành
một nguồn tiêu thụ thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển: “Một số người xây dựng
nhà trọ cho công nhân ở và kiếm được nhiều tiền” (tất cả các nhóm người lớn và chính
quyền địa phương). Nhìn chung, khi người nghèo đề cập những trường hợp khá lên
này, họ thường nói về người khác chứ không phải về chính bản thân họ.
Tuy nhiên, người nghèo cũng nhận thấy rằng một mặt có những nguyên nhân tạo ra
công ăn việc làm tốt hơn và bền vững. Song mặt khác lại có những nguyên nhân chỉ
mang đến một sự sung túc nhất thời mà không tạo ra một sinh kế bền vững; trong
trường hợp như thế, họ bị sa sút, rơi vào nghèo đói và không còn khả năng đối phó
một khi phải đối mặt với rủi ro. Nổi bật lên trong số những nguyên nhân trên là việc
có được một số tiền nhờ chuyển nhượng đất đai, là hệ quả của quá trình đô thị hoá ở
nhiều vùng ven của thành phố. Theo những người nghèo được tham vấn trong nghiên
cứu này, khả năng được phất lên nhờ chuyển nhượng đất đai dường như cũng ngang
ngửa với khả năng bị nghèo đi (vì dùng hết số tiền mà không đầu tư sinh lợi được), rồi
trắng tay, và thậm chí rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất, ngày càng lún sâu và
không thể thoát ra được. Người nghèo nêu lên nhiều ví dụ sinh động về các trường
hợp láng giềng chuyển nhượng đất, dùng số tiền có được để xây nhà, mua sắm những
vật dụng tiêu dùng đôi khi quá xa hoa, mà không biết đầu tư sinh lợi để có sinh kế bền
vững, phần lớn vì họ chưa từng làm ăn, mà trước giờ chỉ làm nông. Rốt cuộc họ ăn xài
hết số tiền đó và phải bán hết đồ đạc, kể cả bán nhà và rơi vào cảnh nợ nần.
Cũng có một số người cho rằng cuộc sống của họ khá lên đôi khi chút là nhờ có được
việc làm ổn định nhờ con cái lớn đi làm và phụ giúp kinh tế gia đình, hay nhờ được
thừa hưởng gia tài, của cải. Những phát hiện của nghiên cứu này cũng nhất quán với
nghiên cứu tham khảo ý kiến người dân vào năm 1999 và 2001.
Cũng có một số người khác khá hơn chút ít nhờ vào việc bán hàng bông và thức ăn
cho các công nhân, nhập cư làm việc tại các khu công nghiệp và chế xuất. Theo các
nhóm nữ và nam nghèo thường trú và nhập cư, đặc biệt là tại xã Tân Tạo, Huyện Bình
Chánh, việc hình thành 4 khu công nghiệp và hàng trăm các doanh nghiệp lớn đã tạo
công ăn việc làm cho hàng ngàn dân nghèo: ʺNhờ có cái (xí nghiệp) Pou Chen thành lập,
đi làm ở đó được có tiền” (nhóm nữ nghèo thường trú Tân Tạo).
Cũng có một vài trường hợp cho rằng cuộc sống của họ khá hơn lên là do vay mượn
quỹ tín dụng Xoá Đói Giảm Nghèo, Hội Phụ Nữ, CIDSE, CEP và làm ăn buôn bán có
lời. Nhóm trẻ em ở Bình Chánh cũng như Quận 8 còn cho biết thêm rằng một số phụ
nữ trở nên khá hơn là do kết hôn với người Đài Loan.
Mặc dù vậy, một số lượng đáng kể người nghèo khác cho rằng cuộc sống của họ vẫn
không có gì thay đổi. ʺTrong tổ tôi không ai khá lên, ít có người dư, còn lại từ đủ ăn đến
thiếuʺ (nhóm nam nghèo An Lạc). Đa số người dân làm việc trong thành phần kinh tế
phi chính thức như bán hàng rong, buôn gánh bán bưng, làm hồ, làm thuê mướn, bán
vé số, v.v… thấy cuộc sống của họ không đỡ hơn chút nào. Họ cho rằng dù họ có cố
gắng đến đâu đi chăng nữa thì cuộc sống cũng không thể khá lên được: “Tôi ở đây mấy
năm chục năm, từ năm mười mấy tuổi se nhang đến nay đã 55 tuổi rồi, cũng cần kiệm mà
13
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
không có dư”. “Tụi tui cũng tằn tiện lắm nhưng chỉ có đủ ăn, đâu có đủ để sắm này sắm nọ”
(nhóm phụ nữ nghèo thường trú).
Ở một góc tối của bức tranh nghèo, có thể thấy là vẫn còn đa số người nghèo được
tham khảo ý kiến cho rằng cuộc sống của họ trở nên khó khăn hơn trong mấy năm
qua. Nhiều người “không có đủ cái ăn”, phải cho con cái nghỉ học sớm. Họ chỉ biết sống
tạm bợ, ʺlây lất cho qua ngàyʺ, ʺsống hôm nay không biết đến ngày maiʺ, hay ʺtới đâu hay
tới đóʺ (tất cả các nhóm người lớn và thanh niên).
Tất cả các nhóm thảo luận, kể cả nhóm trẻ em, cho rằng cuộc sống của họ vất vả hơn
là do nhiều nguyên nhân khác nhau như:
- Không có công ăn việc làm do trình độ học vấn thấp, thiếu tay nghề, thiếu mạng
lưới hỗ trợ xã hội, không biết thông tin tuyển dụng lao động, mất việc làm cũ
hoặc trở nên thất nghiệp do doanh nghiệp đóng cửa/ di dời đi nơi khác và do bị
dẹp chợ (chợ tự phát).
- Công việc, làm ăn, buôn bán không ổn định, như buôn gánh bán bưng, chạy xe
ôm, làm hồ, làm thuê mướn.
- Không biết làm ăn, thua lỗ, và mất hết vốn (có được nhờ bán đất hay được đền bù
giải tỏa).
- Bị tịch thu các phương tiện kiếm sống (do buôn bán trên vỉa hè, lề chợ).
- Mù chữ, trình độ học vấn thấp, không có tay nghề, kỹ năng chuyên môn để có
việc làm ổn định.
- Bệnh tật và rơi vào cảnh nợ nần do chi phí khám chữa bệnh tốn kém.
- Gia đình đông con (đặc biệt là những gia đình có con còn nhỏ, chưa đến tuổi đi
làm).
- Đóng các khoản phí cao để cho con đi học.
- Sa vào tệ nạn như cờ bạc, ăn chơi phung phí, nghiện ngập xì ke ma túy, vì vậy rơi
vào cảnh nợ nần.
Hơn nữa, việc chi tiêu cần thiết để duy trì các mối quan hệ xã hội như thường xuyên
tham dự các đám cưới, hỏi, ma chay, giỗ, tiệc tùng của xóm giềng cũng làm cho họ
khó có thể có được số tiền để dành từ nguồn thu nhập khiêm tốn.
Ngoài những nhận thức nghèo tương tự giữa tất cả các nhóm dân, có một số nhóm có
thêm vài nguyên nhân đặc biệt khác cũng làm cho cuộc sống của họ nghèo đi. Dưới
đây là một số nguyên nhân đáng chú ý.
Người dân sống dọc kênh rạch ở Quận 8 còn phải chịu thiệt thòi vì tình trạng nhà cửa
thường xuyên xuống cấp. Cứ mỗi khi dành dụm được một số tiền họ lại phải chi
dùng vào việc sửa chữa nhà cửa, vì thế họ khó có thể thoát được cảnh nghèo. “Tụi tui
ở nhà sàn có đóng cừ trên kênh nên thường cứ 2‐3 năm phải thay cừ để nhà khỏi bị sụp”
(nhóm nam nghèo và nữ nghèo Quận 8). Ngoài ra họ còn phải chịu các rủi ro như
ngập nước, cháy nhà vì thường sống trong các khu dân cư môi trường thấp kém nằm
trong các hẻm nhỏ, sâu, ngoằn ngoèo chật chội hoặc ven kênh rạch.
Riêng đối với nhóm nhập cư, còn có các yếu tố khác nữa khiến cho cuộc sống của họ
không khá lên dù họ đã cố gắng làm việc và tiêu xài tằn tiện, có thể được kể tóm tắt
như sau:
14
Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm và những rủi ro
- Trả tiền điện nước sinh hoạt hàng ngày với giá cao.
- Thường bị trộm cắp vì họ ở phòng trọ.
- Đóng các khoản phí dịch vụ giới thiệu việc làm quá cao.
- Đóng tiền phạt do không có giấy chứng nhận tạm trú tạm vắng hợp lệ (người
nhập cư buộc phải trở về quê của họ để lấy giấy gia hạn 6 tháng một lần và trình
cho công an địa phương).
Theo kết quả của nghiên cứu đánh giá nghèo lần này, trung bình có khoảng 40% KT1
và KT2, 50% hộ KT3 và 30% KT4 của tổng số hộ trong tổ dân phố được cộng đồng
phân hạng là thuộc dạng “nghèo” và “rất nghèo”. Những con số này cho thấy một sự
khác biệt rõ rệt giữa nhận thức về nghèo của người dân địa phương và tiêu chí xếp loại
nghèo của chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo (xem Khung 1), chủ yếu là dựa trên thu
nhập. Theo chương trình này, thường có khoảng từ 2 đến 7 tức 4% đến 15% hộ trong tổ
dân phố (tổng trung bình mỗi tổ có khoảng 48 hộ) là thuộc diện nghèo. Ngoài ra, có
ghi nhận rằng bài tập phân hạng kinh tế hộ này đã bỏ sót một số lượng đáng kể các hộ
và nhân khẩu KT3 và KT4, những người tương đối không được các phân hạng viên
biết đến nhiều. Các con số khác nhau về số lượng người nghèo này cho thấy người dân
nghèo ngày càng nhận thức về vấn đề nghèo là một vấn đề có nhiều khía cạnh đa dạng
(không chỉ là thu nhập) và các khía cạnh của tình trạng nghèo có liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại và tạo nên cái gọi là “vòng luẩn quẩn của đói nghèo”.
Khung 1: Tiêu chí xác định hộ nghèo của chương trình Xóa Đói Giảm Nghèo
Tiêu chí đầu tiên và quan trọng nhất để xếp loại hộ nghèo của chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo là dựa
trên thu nhập (chủ yếu là bình quân thu nhập đầu người/ năm). Ở các huyện ngoại thành như Huyện
Bình Chánh, tiêu chí này là 2.500.000 đồng/người/năm (được áp dụng từ năm 1997 đến nay). Ở các quận
nội thành như Quận 8 là 3.000.000 đồng/người/năm (được áp dụng từ năm 1997 đến nay). Tiêu chí thứ
hai là hộ khẩu thường trú. Tuy nhiên, các tiêu chí này chỉ được xem là những điều kiện cần. Các điều kiện
đủ bao gồm các: nhân khẩu có khả năng lao động và chịu khó làm ăn, không rượu chè, cờ bạc, đánh đề, hay
nghiện ngập ma túy. Người nhập cư được xét chọn vào chương trình XĐGN nếu họ có nhà, có hộ khẩu
KT3 và công việc làm ổn định (theo kết quả phỏng vấn cán bộ XĐGN cấp quận huyện và thành
phố).
So với nghiên cứu Đánh giá tình trạng nghèo 1999 (SCUK 1999) cũng như Tham khảo
ý kiến cộng đồng về chiến lược CPRGS năm 2001 (SCUK 2002), nghiên cứu Đánh giá
tình trạng nghèo lần này không có những điểm khác biệt nổi bật về sự đa dạng khía
cạnh của tình trạng nghèo. Nhìn chung tất cả các nhóm người nghèo không chỉ quan
15
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
tâm đến các khía cạnh vật chất và hữu hình của tình trạng nghèo như thu nhập, của
cải, điều kiện nhà cửa, mà còn quan tâm những khía cạnh khác như giáo dục, sức
khoẻ, các mạng lưới hỗ trợ, sự bấp bênh, công việc mùa vụ, và tính rủi ro dễ tổn
thương (xem bảng 3). Tuy nhiên, cũng có một số điểm đáng chú ý giữa nghiên cứu
lần này và hai lần trước.
Khung 2. Ý nghĩa của các nguồn lực chính trị và xã hội đối với người nghèo
“Người nghèo không có gì thế chấp/ không có ai dám bảo lãnh để mượn tiền XĐGN hay tiền nhà nước.”
(nhóm nam và nữ nghèo địa phương và nhập cư)
“Muốn được xét XĐGN cũng phải thân cận với tổ trưởng chứ đâu phải ai cũng được.” (nhóm nam
nghèo địa phương)
“Chẳng có người giúp đỡ” (nhóm nữ nghèo địa phương và nhập cư)
“Cũng như dắt một bạn dưới quê lên đây đi, trắng tay không có đồng nào, người này chị giới thiệu là bạn
của tui mà giờ khổ lắm, không có công việc làm, chị thương mà chị giúp dùm đi rồi làm từ từ có tiền trả.
Tui bảo lãnh là chỉ giựt tui trả, thì vậy người ta mới bán”. (nhóm nữ nghèo nhập cư)
Trước tiên người nghèo tham khảo ý kiến lần này rất quan tâm đến các cơ hội phát
triển cũng như các nguy cơ bị mai một nguồn vốn con người. Họ đặc biệt quan tâm
đến việc học hành con cái và xem đó như là một tài sản thiết yếu để vượt qua đói
nghèo và có cơ hội vươn lên trong xã hội. Tuy vậy chi phí cho con cái đến trường hoặc
các trung tâm dạy nghề quá cao đã buộc họ phải cho con cái nghỉ học và không ít các
trường hợp con cái của họ phải trở thành trẻ lao động sớm. Đến lượt những trẻ em này
lớn lên lại trở thành những người thất nghiệp. Vì vậy, tình trạng nghèo từ thế hệ này
sang thế hệ khác cứ tiếp diễn, kiểu “nghèo từ đời ông bà cha mẹ đến đời con cái” như một
nam nghèo ở Phường 4 Quận 8 nói. Ngoài trình độ học vấn, sức khoẻ ngày càng được
tất cả các nhóm nghèo, kể cả thanh niên và trẻ em nhận thức như là một phương tiện
sản xuất tạo ra của cải. Sự hao mòn sức khỏe vì bệnh tật, tai nạn và bóc lột lao động
làm cho họ cạn kiệt những khoản tiết kiệm và vô hiệu hoá mọi nỗ lực vươn lên của họ.
Một điểm tương đồng nổi bật thứ hai giữa các nhóm là mối quan tâm càng nhiều về
việc tiếp cận các dịch vụ và chương trình hỗ trợ của nhà nước, các nguồn lực chính trị
và xã hội. Người nghèo ngày càng nhận ra rằng tình trạng thiếu tiếng nói của chính
họ và sự thiếu cơ chế hữu hiệu đảm bảo tính chịu trách nhiệm với dân của các cơ
quan nhà nước là một trong những yếu tố liên quan mật thiết đến tình trạng nghèo.
Người nghèo được tham vấn tỏ ra hiểu rõ rằng việc thiếu hộ khẩu thường trú và chi
phí cao đã tạo ra những rào cản làm cho họ không tiếp cận được dịch vụ xã hội cơ
bản. Việc không tiếp cận được những dịch vụ cơ bản như nước, tín dụng, giáo dục,
đào tạo tay nghề, và y tế không chỉ làm cho tài sản, nguồn lực tài chính và vốn con
người bị cạn dần mà còn làm cho họ không thể tạo ra của cải vật chất. Những người
có nguồn lực và phương cách xoay sở hạn hẹp rơi vào cảnh nợ nần và càng túng bấn
hơn. Nhìn chung, đa số người nghèo được tham vấn chưa cảm thấy các biện pháp
giảm nghèo của nhà nước đã tạo những tác động tích cực cho cuộc sống của họ. Hơn
nữa việc thiếu mạng lưới hỗ trợ xã hội, mà đặc biệt người nhập cư thường gặp phải,
là một trở lực lớn đối với việc dành dụm tích lũy. Người nhập cư không được hưởng
một số lợi thế mà người địa phương hưởng được nhờ là thành viên lâu năm của cộng
đồng, như là mua chịu, hay mượn tiền với lãi suất thấp hay không có lãi suất từ hàng
xóm của họ.
16
Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm và những rủi ro
Khung 3. Người nghèo nhận thức được chất lượng cuộc sống của họ thấp
kém
“Ăn uống không đủ chất/ thất thường/ cực khổ/ đạm bạc” (tất cả các nhóm người lớn)
“Ăn cơm chùa, nhịn tiền chợ qua ngày mai” (nhóm nữ nghèo địa phương)
“Có bữa có tiền mua gạo có bữa không/ bữa đói bữa no/ chạy ăn từng bữa” (tất cả các nhóm người lớn)
“Nhà ở ven sông vạch nhà không số dù ở đây đã 20 năm và không có KT1, điện nước câu lại quá cao, nhà
rách nát, ngập nước, không có phương tiện đi làm, kể cả xe đạp” (nhóm nam nghèo nhập cư)
“Có tivi nội địa/ trắng đen/ người ta cho ” (nhóm nam nghèo và nữ địa phương)
“Sống trong môi trường hôi thối bệnh nhiều” (tất cả các nhóm địa phương và nhập cư kể cả thanh
niên và trẻ em)
“Công việc bấp bênh không vững/ nghề nghiệp không ổn định/ kêu làm gì thì làm đó, buôn gánh bán bưng/
buôn bán bậy bạ lây lất, công việc mùa vụ” (tất cả các nhóm, kể cả thanh niên và trẻ em)
“Con đi học lớp tình thương/ phổ cập vì không có tiền đi học trường ban ngày ” (nhóm nữ nghèo địa
phuơng)
“Con cái học nửa chừng nghỉ/ học tới đâu hay tới đó)” (nhóm nữ và trẻ em nghèo địa phương và
nhập cư)
“Con cái suy dinh dưỡng” (nhóm nam, nữ, trẻ em nghèo địa phương và nhập cư)
“Con thất học đi làm sớm nuôi gia đình/ con cái nghỉ học lao động sớm” (nhóm nữ và trẻ em nghèo địa
phương và nhập cư)
“Đi bệnh viện không được chữa trị đàng hoàng vì chỉ có thẻ BHYT, không có tiền trả dịch vụ như người
giàu” (nhóm nam và nữ nghèo địa phương)
“Bà con anh em cũng nghèo nên không ai giúp ” (nhóm nam nghèo địa phương)
“Tự ái nên ráng tiền chạy tiền để đi đám tiệc cho bằng với người khác ” (nhóm nữ nghèo địa phương)
“Không có tiền tổ chức đám tiệc, tiền ăn còn không có/ đám cưới cũng nấu sơ sơ ở nhà” (nhóm nữ nghèo
địa phương)
“Không giao thiệp với nhà giàu/ mặc cảm với hộ khá hơn ” (tất cả các nhóm)
“Nhà giàu chơi tennis, chạy bộ. Còn tụi tui làm đầu tắt mặt tối/ từ sáng sớm đến chiều tối làm sao có
chuyện chơi thể thao được?” (nhóm nam và nữ nghèo địa phương)
“Không có gì để giải trí, nản chí sinh tật nhậu, đánh bài, chơi đề cầu may ” (tất cả các nhóm kể cả nhóm
trẻ em)
17
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Thu nhập tài Thu nhập không đủ ăn. Thu nhập không đủ mua thức ăn Không có đất, thiếu thu nhập. Thu nhập thấp hơn mức chi tiêu.
chính và của cải Thu nhập không đủ để đóng tiền học và quần áo, thu nhập quá thấp Không đủ tiền xài.
vật chất – điều cho con. không đáp ứng được nhu cầu của Không dư ăn, gạo không có để nấu.
kiện sống Thu nhập thấp. người trong nhà.
Tiện nghi gia đình rất hạn chế, Tiện nghi vật chất (đồ dùng,
không có giường tủ, bàn ghế. chén bát) không có
Không có phương tiện xe cộ để
đi học.
Không có khả năng lấp sàn nhà, Không có tiền sửa chữa nhà. Không có tiền sửa nhà. Thiếu nợ phải bán nhà.
không có tiền sửa, cừ mục. Nghèo đi vì phải bán nhà trả nợ.
Không có tiền sửa chữa nhà. Không có tiền sửa chữa nhà.
Chất lượng cuộc Ở nhà sàn, nhà tranh. Nhà không đủ che mưa nắng, Nhà mưa ngập lầy lội, khổ, dơ. Phải ở nhà trọ.
sống Nhà nghiêng ngửa. mái dột, mưa nước ngập nền Ở nhà sàn, muỗi, ô nhiễm. Nhà suy sụp, ngập mưa, dột nát.
Nhà dột, che ny-lon bị rách, mục, nhà nhà, tôn mục nát.
có nhiều muỗi, lụp xụp.
Ăn uống thất thường, cực khổ, ăn Thiếu ăn thiếu gạo phải chạy ăn từng Bữa cơm bữa cháo.
uống đạm bạc, ăn uống không đủ bữa. Gạo không đủ ăn, áo không đủ
chất. mặc.
Có bữa có tiền mua gạo, có bữa
không, mua gạo từng ngày.
Cuộc sống không ổn định. Nước nôi không đủ, nước phèn, giếng
không lọc nên bị ghẻ ngứa, cả khu
nước giếng vàng, hôi, thuốc tẩy nặng
mùi.
Trẻ bị bệnh do phải sống trong môi Bệnh hoạn, không đủ khả năng chữa Bệnh không có tiền chữa bệnh.
trường ô nhiễm (cứ 10 trẻ thì có tới 8 chạy.
trẻ bị bệnh). Trẻ bị bệnh không tiền chữa trị.
Không có tiền mua thuốc.
18
Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm và những rủi ro
Tivi nội địa/ người ta cho/ rẻ tiền. Chỉ có tivi trắng đen. Coi nhờ tivi.
Sinh kế Móc bọc ny-lon/lượm ve chai. Kinh tế khó khăn, kiếm đồng tiền cực Không có việc làm thì phải đi làm
Làm nhang ít tiền. những việc cực khổ như phụ hồ.
Việc làm bấp bênh, bữa có bữa không. Nghề nghiệp không ổn định. Thường xuyên thất nghiệp. Buôn bán ế ẩm.
Chồng thất nghiệp ở nhà coi con. Thất nghiệp thường xuyên. Làm ăn thất bại, bị cạnh tranh.
Nguồn vốn con Con cái thất học. Nhiều trẻ phải nghỉ học và lao Đóng tiền 90.000 đồng nên phải nghỉ Trẻ bị thiếu học, thất học, bỏ
người Con thất học đi làm nuôi gia đình. động sớm. học. học.
Một người lao động nuôi nhiều Phải nghỉ học để kiếm sống phụ gia Phải nghỉ học sớm để kiếm tiền
người. đình. nuôi cha mẹ, phụ giúp gia đình
(làm mướn thuê, giặt đồ thuê).
Con đi học không có tiền đóng học Không có tiền đóng tiền học,
phí, phải nghỉ học nửa chừng. không tiền mua sách vở nên phải
nghỉ học nửa chừng.
Không tiền nên không học được.
Không có tiền đóng tiền học nên
trẻ em phải bỏ học nửa chừng.
Bệnh đau suốt ngày nên làm bao Nuôi người già cả trong nhà.
nhiêu cũng không đủ.
Không có tay nghề chuyên môn, phải Không có trình độ học vấn. Ăn học kém, đi làm xí nghiệp đòi trình Không có nghề, không đủ tuổi đi
đi làm công. độ. làm, không có tay nghề nên
không làm ở xí nghiệp được.
Các nguồn vốn xã Không biết dựa vào đâu, không có Mối quan hệ với những người có chức Phải có quen biết thì mới vào làm
hội người thân giúp đỡ. có quyền để nhờ vả giúp đỡ với người trong xí nghiệp được.
Không nơi nương tựa, nhờ vả. nghèo chỉ là mơ thôi.
19
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tiếp cận các dịch Không có số nhà nên không được điện Nhà không có số. Phải xài nước giếng. Nhà không có hộ khẩu.
vụ xã hội nước. Điện nước câu lại quá cao.
Điện nước phải câu lại giá cao.
Không có tiền thì nhà thương thành Đi khám bệnh có tiền thì mới
nhà ghét. được khám trước và đối xử tử tế,
không có tiền thì bị đối xử cộc
cằn.
Con học lớp tình thương, phổ cập. Con cái đi học không có tiền Không có giấy tờ nên không đi học/ trẻ Đi học khó khăn, không được học
đóng học phí, phải đi học lớp tình đi học tư vì không giấy tờ. trường chính quy.
thương. Học trò nghèo không có học thêm nên Không tiền nên không học được
bị thầy chèn ép, bị phân biệt đối xử. trường nhà nước, phải đi học lớp
học tình thương vào buổi tối.
Không vay vốn nhà nước được vì Không tài sản thế chấp để vay
không có gì để thế chấp. ngân hàng.
Đời sống xã hội Thiếu tự tin. Không muốn chơi với nhà giàu vì sợ Trẻ bị ảnh hưởng về tinh thần,
và tinh thần Mặc cảm với hộ khá hơn, mặc cảm với mang tiếng, nhà giàu chơi có phe với mặc cảm.
người giàu, không dám giao tiếp với nhau nên không dám chơi. Bị người giàu kế bên nhà ghét.
người giàu. Hộ giàu thì tối ngày đóng cửa, không Giàu thì có tiền ăn chơi còn mình
nói chuyện, không có ai bị những nghèo thì phải kiếm sống.
chuyện gì làm cho bản thân thấy Người có chức có quyền, giàu có
thương tâm, tủi thân. khinh ghét người nghèo.
Khổ nhất là người nghèo bị thua thiệt
vì người giàu nghĩ người nghèo lợi
dụng mình, chơi để mượn tiền.
Không có việc làm, dễ nổi nóng trong Vợ chồng thường xuyên đánh Bị ép gả cho người ăn chơi,
gia đình do thiếu hụt; vợ chồng cãi vã. nhau, cắn đắng nhau trong gia không biết lo làm ăn.
đình.
20
Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm và những rủi ro
Dính đến rượu chè, tệ nạn. Nhậu nhẹt. Nghèo dễ dẫn đến tệ nạn Con cái vướng vào ma túy, gia
Con em hút chích. đình có người bị bệnh Siđa.
Tính dễ tổn Chồng chết phải sống vậy nuôi con Tai nạn xe cộ, tai nạn trong khi làm Nhà bị cháy.
thương, rủi ro một mình. việc Trẻ bị khuyết tật, bệnh tật, chết.
Trẻ bị té ao khi cha mẹ đi làm xa.
Bị giựt tiền.
Cha chạy xe honda ôm bị mất xe
phải kiếm tiền mua xe.
Trời mưa bão, hồ không làm được Người lao động trụ cột trong gia
(công việc mùa vụ) đình mất.
Nguồn lực, Mắc nợ cả năm trời vì phải trả lãi cao. Không trả hết nợ nổi (vay từ Nợ chồng chất. Vay nợ, cầm đồ đạc.
phương cách đối nhiều nguồn khác nhau) vì lãi Mượn tiền làm ăn. Làm ăn không khá lên và phải đi
phó với rủi ro, và suất cao. Mượn gạo. vay tiền nhà nước.
cơ hội thay đổi Đi xin.
cuộc đời
Tằn tiện nhưng không bao giờ đủ Cố gắng làm việc ngày đêm để
sống. kiếm tiền.
Gia đình cố làm nhưng không đủ ăn
chi tiêu tằn tiện.
Ăn cơm chùa, nhịn tiền chợ qua ngày
mai.
Các vấn đề về giới Chồng nhậu nhẹt, vô cớ chửi mắng và Chồng đi uống rượu, đánh bài, cờ
(bạo hành trong đánh đập vợ, không lo làm ăn. bạc và lấy vợ bé.
gia đình, bị bỏ Vợ chồng ly dị, bỏ rơi con cái.
rơi)
21
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Điểm tương đồng nổi bật thứ ba là người nghèo bắt đầu chú ý đến cách biệt giữa chất
lượng cuộc sống của họ và của người khá giả. Nghèo không chỉ là vấn đề có hay
không có, mà còn là vấn đề chất lượng của những gì người ta sở hữu. Khung 3 minh
họa những ý kiến được ghi nhận nhiều nhất của người nghèo về hoàn cảnh của họ ở
tất cả các địa bàn nghiên cứu.
Ghi nhận cuối cùng là người nghèo cũng rất hiểu rõ về những rủi ro và tính dễ tổn
thương làm cho họ có nhiều nguy cơ rơi vào nghèo đói không thể thoát ra được, dù
họ cũng nhận thấy rằng họ không thể làm gì để xoay chuyển tình thế. Sự bấp bênh
của sinh kế và công ăn việc làm khiến cho họ rất dễ rơi vào cảnh nợ nần và nghèo đói
triền miên. Nhóm nam trung niên cho rằng họ rất dễ bị thất nghiệp và phải làm công
việc mang tính thời vụ vì họ đã lớn tuổi. Thanh niên đặt biệt lo lắng về sự thiếu tin
cậy của các dịch vụ giới thiệu việc làm, về tình trạng sức lao động của họ bị bóc lột, bị
ép giá tiền lương, không có bảo hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn, ốm đau bệnh tật, tai
nạn, ngộ độc thực phẩm tại nơi làm việc, sự phụ thuộc vào lao động làm công ăn
lương, chủ đột ngột cắt thoả thuận lao động không hề báo trước. Những điều này làm
cho họ bị thất nghiệp và dễ dàng rơi vào cảnh nợ nần. Trẻ em ở nhiều địa bàn, hầu hết
là trẻ lao động sớm, nêu lên những lo lắng về tình trạng thất nghiệp của chính bản
thân và của gia đình, về bệnh tật ốm đau trong khi làm việc, việc không được đi học
vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, những lường gạt trong khi đi làm (bán hàng rong, bán
vé số, làm thuê mướn), các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, đánh đề, nghiện ngập
ma túy, nợ nần, cha mẹ ly thân và ly dị.
22
Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm và những rủi ro
Người nghèo diễn đạt tâm trạng bất an về phương kế sinh nhai hiện tại của họ. Nhiều
người trong nhóm nam nghèo lo lắng về sự bấp bênh trong công việc lao động phổ
thông ăn lương hàng ngày. Họ không chỉ bị làm thời vụ mà còn phải đương đầu với
nhiều rào cản vì các luật lệ và đòi hỏi các giấy phép, các loại giấy tờ do nhà nước ban
hành. Nghị định 36 NĐ‐CP về việc cấm buôn bán trên lòng lề đường, giống như
những ghi nhận trong hai nghiên cứu tham khảo ý kiến người dân trước đây, vào
năm 1999 và 2001 (SCUK 1999; SCUK 2002), nay cũng được người dân đề cập như là
nỗi lo lớn. Họ lo lắng về khả năng bị tịch thu phương tiện sản xuất hay bị phạt hành
chính với các mức phạt tiền mà theo họ là quá nặng, nhất là đối với những người
buôn gánh bán bưng qua ngày. Ngoài ra, các chính sách xã hội hay các quy định mới
để thiết lập lại an ninh trật tự cũng làm người nghèo thêm phần khó khăn. Nhóm
nam nghèo có ý kiến rằng quy định buộc người lái xe gắn máy trên 50 phân khối có
bằng lái đã làm họ hạn chế lộ trình chở khách hay chở hàng vì họ không đủ trình độ
học vấn để đi thi lấy bằng, trong khi đó khách lại không thích đi xe 50 phân khối cũ
(không cần có bằng lái).
Riêng người làm công ăn lương nhìn chung cho rằng họ may mắn hơn nhờ có thu
nhập ổn định. Tuy nhiên nhiều người thổ lộ rằng họ cũng có nguy cơ mất việc vì họ
không ký hợp đồng lao động và không có bảo hiểm xã hội. Nhiều thanh niên làm việc
trong các nhà máy xí nghiệp lớn than phiền họ phải làm việc quá sức vì chủ kéo dài
giờ làm và giờ giấc không ổn định. Và khi họ bị ốm đau nghỉ ngày nào thì không có
tiền lương ngày đó; trong khi tần suất ốm đau ngày một cao theo thời gian làm việc.
Nếu chẳng may gặp phải tai nạn lao động, khiến họ bị ốm nặng hoặc khuyết tật, họ
càng dễ bị mất việc hơn mà không có cơ chế đền bù hay hỗ trợ nào. “Tôi bị sắt đè ở
xưởng, đã hơn hai mươi ngày nay tôi không đi làm kiếm tiền được. Tôi phải vay “nóng” để trả
tiền thuốc và tiêu xài mỗi ngày. Chẳng biết khi nào tôi mới đi làm lại được để trả hết số nợ
này” (một nam nhập cư tuổi 30 ở Thị trấn An Lạc). Hầu hết người nghèo khẳng định
rằng sự giúp đỡ duy nhất mà họ nhận được trong những tình huống như vậy là một
ít tiền quà bạn bè đồng nghiệp góp lại cho ngay sau khi họ bị tai nạn.
Nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa cho biết họ hầu như không có hợp đồng lao động
hay bảo hiểm tai nạn gì cho công nhân của họ. Họ thừa nhận rằng “nếu nói đến vấn đề
hợp đồng lao động thì tất cả chúng tôi đều phạm luật.” Cũng như nghiên cứu tham vấn
người dân trước đây năm 1999 và 2001, nghiên cứu này cũng ghi nhận là hầu hết các
doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các nhà máy lớn đều đối xử với nhân viên của họ
trên cơ sở “tình cảm”. Điều này đương nhiên không ràng buộc họ đảm bảo đáp ứng
quyền lợi của công nhân. Nhìn chung, người nghèo nói rằng “Chủ nói họ sẽ không ký
hợp đồng lao động vì họ chỉ cần chúng tôi làm việc trong thời gian ngắn. Mai mốt chưa chắc
có hàng để làm. Nếu chúng tôi đồng ý làm thì làm” (nhóm thanh niên địa phương và nhập
cư). Một số thanh niên làm việc trong các nhà máy lớn cho biết họ có nghe nói về bảo
hiểm xã hội nhưng không muốn có vì không thấy bảo hiểm có lợi; hơn nữa “hàng
tháng họ sẽ trừ lương tụi tui mấy ngàn”, hay “họ đòi hỏi giấy tờ rắc rối lắm” (nhóm thanh
niên địa phương và nhập cư). Một chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa thừa nhận “Nếu công
nhân có bảo hiểm xã hội họ cũng rất khó lãnh tiền đền bù. Họ phải điền vào nhiều giấy tờ rất
mất thời gian. Nhiều khi họ phải về quê luôn. Vì vậy nếu chỉ để quay lại thành phố chỉ vì một
số tiền quá ít, nhiều khi còn không đủ tiền xe, nên họ thấy không đáng.” Hầu hết chủ các
doanh nghiệp nhỏ và vừa cho rằng công nhân của họ không muốn có bảo hiểm xã hội
vì họ không muốn bị trừ lương. Theo ý kiến của người nghèo thì trung bình có
23
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
khoảng 20% công nhân đang làm việc dài hạn trong các xí nghiệp lớn có hợp đồng lao
động và bảo hiểm xã hội. Còn trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa, gần như không có
hợp đồng lao động hay bảo hiểm xã hội.
Khi đã mất việc, người nghèo trở nên càng khó khăn hơn nếu đi tìm việc khác. Những
người không có tay nghề chuyên môn phải bắt đầu quá trình tìm việc lại từ đầu.
Những người có tay nghề nói rằng tay nghề của họ có thể không áp dụng được ở
những cơ sở khác, nhất là khi họ đã lớn tuổi hơn và sức khoẻ kém hơn. Dòng thanh
niên nhập cư liên tục cung cấp lao động chất lượng tốt hơn mà những người mất việc
khó lòng cạnh tranh được.
Bức tranh hiện tại không mấy sáng sủa của những công nhân trẻ cũng vẽ ra một viễn
cảnh cho một tương lai bị đánh mất của họ. Điều này đặc biệt đúng với hoàn cảnh của
những nữ thanh niên trẻ đang làm việc trong các cơ sở có số công nhân nữ trên 90%
tổng số lực lượng lao động. Có rất nhiều cơ sở như vậy trong các khu công nghiệp
cũng như trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các khu dân cư. Bản thân những
công nhân nữ cũng thừa nhận rằng họ ít thấy triển vọng lập gia đình vì thiếu giao tiếp
với đối tượng khác phái, một phần do công việc chiếm hết thời gian, phần khác do
thiếu cơ hội giao lưu xã hội. Nhóm nam và chủ doanh nghiệp cũng xác nhận điều
này. Theo chính quyền địa phương, nhóm doanh nghiệp, và người dân có việc làm
trong các nhà máy, xí nghiệp, Liên đoàn Lao Động chưa thể hiện vai trò gì tích cực
trong vấn đề này.
Những ghi nhận về việc làm của nghiên cứu này cũng như của cuộc tham khảo ý kiến
cộng đồng năm 2001 (SCUK 2002), nêu rõ những thử thách lớn và lâu dài về việc bảo
vệ quyền lợi của công nhân trong các cơ sở, xí nghiệp, doanh nghiệp dù là lớn, nhỏ
hay vừa. Hơn nữa, ghi nhận của nghiên cứu đánh giá nghèo lần này nhấn mạnh rằng
nếu không được nhà nước điều tiết và kiểm soát, việc phát triển các doanh nghiệp để
thúc đẩy kinh tế sẽ tạo ra tác động mặt trái là làm cho một bộ phận thế hệ trẻ dễ bị
hao mòn và không thể vực lại được nguồn vốn con người đang dần dần bị mai một.
24
Phần 4: Tham gia và Tăng cường Năng lực trong việc Đưa ra các Quyết định tại Địa phương
Ghi nhận chung về việc thực hiện Nghị định Dân chủ cơ sở (DCCS)
Các cán bộ nhà nước ở nhiều cấp khác nhau được tham khảo ý kiến trong đợt nghiên
cứu này ở tất cả các địa bàn cho biết DCCS đã từng bước được thực hiện kể từ khi được
ban hành vào ngày 11 tháng 5 năm 1998 và được xem như là một bộ phận quan trọng
của cuộc vận động chính trị và xã hội cả nước. Vào thời điểm tiến hành cuộc nghiên cứu
này, các phường và xã đang hoàn tất các báo cáo về 5 năm thực hiện DCCS.
Thảo luận nhóm ở các nhóm dân và các cán bộ nhà nước cho thấy tham gia dân chủ ở
cấp cơ sở, bằng nhiều biện pháp khác nhau, đã được cải thiện đáng kể ở nhiều lĩnh vực
khác nhau của các hoạt động tại địa phương. Qua quan sát trong suốt quá trình tiến
hành nghiên cứu lần này, nhóm nghiên cứu nhận thấy người nghèo thường năng động
hơn trong việc tham gia đóng góp ý kiến đồng thời cũng có một vốn hiểu biết đáng kể
về các công cụ xoá đói giảm nghèo cũng như các chương trình, dự án và dịch vụ khác
tại địa phương. Dù vậy, kết quả này không nhất quán ở tất cả các nhóm. Chẳng hạn
như người dân Quận 8 nhìn chung hiểu biết những người trong xóm nhiều hơn và
cảm thấy không có gì khó khăn trong việc phát biểu các ý kiến và nêu lên những mối
quan tâm của bản thân họ. Các nhóm thanh niên nhìn chung khá ngại ngùng và nhút
nhát. Thanh niên ở Huyện Bình Chánh thậm chí còn rụt rè hơn những thanh niên ở
Quận 8. Điều này cho thấy phần lớn các thanh niên không được tham gia vào các hoạt
động tại địa phương. Những sự khác biệt này tại hai quận huyện một phần có thể
được giải thích do sự quen thuộc của người dân với những người trong xóm họ cũng
25
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
như do không gian mà họ đang sinh sống. Người dân Quận 8 sinh sống trong các con
hẻm đông đúc và chật chội trong khi người dân Huyện Bình Chánh ở các khu dân cư
rộng rãi hơn và người dân tại đây thay đổi nơi ở thường xuyên hơn do họ đến để mua
đất hoặc đi nơi khác vì phải bán đất. Điều thú vị là trẻ em ở tất cả các nhóm đều thể
hiện sự tham gia tích cực và năng động trong tất cả các hoạt động thảo luận.
Kể từ khi DCCS được phổ biến rộng rãi ở cấp độ cơ sở, các cán bộ nhà nước đã ngày
càng nhận thức được ý nghĩa chính trị và lợi ích thực tiễn của sự tham gia của người dân
vào tiến trình phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Từ đó, điều này giúp tạo ra tinh
thần trách nhiệm tốt hơn cho các cán bộ trong việc thực hiện các nghĩa vụ để trực tiếp và
không ngừng khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động tại địa phương cũng
như khiến họ trở nên có ý thức trách nhiệm hơn về hiệu quả công việc của họ.
Tuy nhiên, có một điều thú vị là có sự cách biệt khá lớn giữa ý kiến của các cán bộ
chính quyền và người dân địa phương về bản chất, quá trình và mức độ của việc thực
hiện dân chủ cơ sở.
Về phía người dân địa phương, họ cho biết họ có nghe về “chính sách nhà nước về dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhưng lại không nắm rõ về nội dung cụ thể của
chính sách, tức những gì họ nên biết, bàn, làm và kiểm tra. Một số người cho biết rằng
họ chưa bao giờ nghe nói đến chủ trương này. Nhìn chung, người dân nghèo đều nói
rằng họ có tham gia vào các hoạt động khác nhau liên quan đến quá trình phát triển
kinh tế – xã hội tại cộng đồng. Cụ thể, họ có tham gia đóng góp các khoản quỹ địa
phương, được thông báo về việc sử dụng và ngân sách của các khoản quỹ này, tham
gia vào những giai đoạn khác nhau trong các dự án nâng cấp hạ tầng cơ sở nhỏ do địa
phương phụ trách, tham gia vào việc xét chọn hộ nghèo, và quá trình xác định đối
tượng nhận hỗ trợ xã hội. Tuy nhiên, kết quả này không đồng nhất ở tất cả các địa bàn
nghiên cứu. Riêng về những người nhập cư nghèo, nhìn chung họ hầu như không
tham gia vào các hoạt động, chỉ trừ việc đóng góp các khoản quỹ địa phương. Hầu hết
các dân nhập cư KT3 và KT4 đã có nhà riêng thì có đóng góp những khoản tiền này,
còn người nhập cư KT4 thuê phòng ở các nhà trọ thì không. Thanh niên và trẻ em
được tham khảo ý kiến hầu như hoàn toàn không tham gia vào các hoạt động trong
những lĩnh vực dân chủ cơ sở.
Một cách tổng quát, sự tham gia của người dân địa phương vào các hoạt động kinh
tế‐xã hội rộng rãi hơn các hoạt động chính trị‐xã hội. Và việc xác định đối tượng hỗ
trợ cho chương trình Xoá đói giảm nghèo và trợ cấp xã hội chỉ là vấn đề duy nhất có
trọng tâm giảm nghèo rõ rệt trong việc thực hiện DCCS.
26
Phần 4: Tham gia và Tăng cường Năng lực trong việc Đưa ra các Quyết định tại Địa phương
Bảng 4. Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về các lĩnh vực dân chủ cơ sở
Lĩnh vực thực hiện dân chủ cơ sở Cán bộ địa Người dân
phương địa phương
Dân bàn và quyết định trực tiếp chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ
tầng, công trình phúc lợi công cộng (điện, đường, trường học, …)
Dân bàn và quyết định lập, thu, chi các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật
Dân bàn và quyết định giữ gìn an ninh trật tự, bài trừ tệ nạn xã hội
Dân bàn và quyết định thành lập ban giám sát công trình xây dựng do dân đóng
góp
Dân tham gia ý kiến về dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội U
dài hạn, hàng năm
Dân tham gia ý kiến về dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ở địa U U
phương
Dân tham gia ý kiến về kế hoạch và dự án huy động và sử dụng các khoản đóng U
góp của dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do địa phương quản lý
Dân tham gia ý kiến về dự thảo kế hoạch triển khai chương trình quốc gia về y tế, U
nước sạch, vệ sinh môi trường
Dân tham gia ý kiến về chủ trương, phương án đền bù, giải phóng mặt bằng U
Dân tham gia giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND U
Dân giám sát, kiểm tra kết quả thực hiện nghị quyết của HĐND và quyết định của U
UBND
Dân giám sát, kiểm tra hoạt động của HĐND, và cán bộ UBND và cán bộ công U
chức nhà nước
Dân giám sát, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân U
Dân giám sát, kiểm tra kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình do dân đóng
góp xây dựng và các chương trình dự án do nhà nước, các tổ chức tài trợ trực tiếp
Dân giám sát, kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất đai U
Dân giám sát, kiểm tra việc thu, chi các khoản lệ phí theo quy định của nhà nước,
các khoản đóng góp của nhân dân
Dân giám sát, kiểm tra kết quả thanh tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham U
nhũng liên quan đến cán bộ xã
Dân giám sát, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách ưu đãi, chính sách bảo
hiểm xã hội, cứu tế xã hội
Dân tham gia vào quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương U
Ghi chú:
Đã được thực hiện đầy đủ các nội dung.
U Chưa được thực hiện đầy đủ các nội dung/ chưa nghe nội dung này bao giờ/ chưa tham gia vào hoạt động/ nội dung
này bao giờ.
Một số nội dung được thực hiện, một số nội dung không được thực hiện, hoặc
Nội dung thực hiện ở một số điểm nghiên cứu, còn một số điểm nghiên cứu khác thì không.
27
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Cơ chế tăng cường sự tham gia và đảm bảo việc phổ biến trao đổi thông tin
Trước tiên, các phương tiện được sử dụng để tuyên truyền và phổ biến DCCS và các
chính sách khác của nhà nước đến người dân bao gồm các điều tra cơ bản về hiểu biết
của người dân địa phương đối với các chính sách nhà nước, tập huấn cho cán bộ địa
phương, loa phát thanh, tủ sách pháp luật, và các biện pháp có sự tham gia trực tiếp
của người dân như họp tổ dân phố (hàng tháng); họp chi hội, tổ hội của các tổ chức
đoàn thể, họp với đại biểu Hội đồng Nhân dân, và các cuộc nói chuyện với người dân
về các chủ đề liên quan mật thiết đến cuộc sống của họ như Luật Đất đai, Luật Hôn
nhân Gia đình, Luật Lao động (xem Bảng 5).
Kế đến, theo các cán bộ chính quyền, các kênh hoạt động bao gồm: tổ trưởng tổ dân
phố và trưởng ban khu phố/ ấp, đại diện và thành viên các tổ chức đoàn thể, chuyên
trách Xoá đói giảm nghèo, các cán bộ chính quyền và các đại biểu Hội đồng nhân dân.
Tuy nhiên, người dân địa phương nói rằng họ chỉ gặp tổ trưởng tổ dân phố và cán bộ
Xoá Đói Giảm Nghèo. Hầu hết đều tìm đến tổ trưởng tổ dân phố để được tham vấn
hay giúp đỡ kịp thời. Ngoài ra các tổ chức đoàn thể như Hội Phụ Nữ cũng được nhiều
người dân tin tưởng và trông cậy những khi gặp khó khăn. Người dân thường hay
nhắc đến Hội Phụ Nữ nhờ những cuộc hội họp thường xuyên của các chương trình
tín dụng tiết kiệm của Hội hay do Hội điều phối. Hội Phụ nữ (đặc biệt ở Quận 8) và
Hội Nông dân (đặc biệt ở Bình Chánh) được nhiều người dân biết đến như là những
tổ chức khá năng động, hỗ trợ tích cực về việc vay vốn và xin học bổng cho trẻ em
nghèo.
Tuy nhiên, có một số người khác tin rằng lẽ ra họ nên được hỗ trợ tốt hơn về việc thụ
hưởng quyền lợi của hộ Xoá Đói Giảm Nghèo, chẳng hạn như số lượng tiền vay hoặc
thời gian chờ đợi để nhận số tiền này; sử dụng thẻ Bảo Hiểm Y Tế ở đâu và như thế
nào; làm cách nào để xin miễn giảm toàn phần các chi phí giáo dục và y tế. Ngoài ra,
hầu hết người dân không biết Đại biểu Hội đồng Nhân Dân là ai và ai có chức năng,
nhiệm vụ gì đối với người dân, dù họ thừa nhận rằng họ đã tham gia bầu cử những
người này.
28
Phần 4: Tham gia và Tăng cường Năng lực trong việc Đưa ra các Quyết định tại Địa phương
Bảng 5. Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về cơ chế tăng cường sự tham gia và
đảm bảo việc phổ biến, trao đổi thông tin.
Cơ chế tăng cường sự tham gia và đảm bảo việc Cán bộ địa Người dân
phổ biến, trao đổi thông tin. phương địa phương
Cách thức, Điều tra cơ bản hiểu biết của người dân về các chính n/a *
phương sách nhà nước
pháp
Tập huấn cho các cán bộ địa phương n/a *
Loa phát thanh cung cấp thông tin về các chính sách
nhà nước
Tủ sách pháp luật U
Các cuộc nói chuyện với người dân về các chủ đề luật U
liên quan mật thiết đến cuộc sống của họ
Cách kênh Trưởng ban khu phố/ ấp U
hoạt động
Tổ trưởng tổ dân phố
Đại diện các ban ngành đoàn thể ☺
Cán bộ chuyên trách xóa đói giảm nghèo
Đại biểu Hội đồng Nhân dân U
Chú giải: Ý kiến về sự hữu ích của các cách thức, phương pháp và kênh thực hiện
n/a *: Không thích hợp áp dụng
Được thực hiện đầy đủ/ Có biết đến những cách thức, kênh hoạt động này.
U Chưa/Không được thực hiện/ Chưa biết việc/ người này bao giờ/ Chưa tham gia việc này/ chưa gặp người này bao giờ.
Được thực hiện trên một số địa điểm nghiên cứu, một số khác thì không.
☺ Người dân có thái độ tích cực, cho rằng các cách thức, phương pháp và kênh thực hiện có hiệu quả hỗ trợ.
Người dân có ý kiến khác nhau (tích cực và tiêu cực) về hiệu quả hỗ trợ của các cách thức, phương pháp và kênh thực hiện
trên các địa bàn nghiên cứu.
Người dân có ý kiến tiêu cực về cách thức, phương pháp và kênh thực hiện, không cho rằng các phương tiện này có hiệu
quả.
29
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Các hoạt động người dân tham gia tại địa phương Bản chất của việc tham gia
Đóng góp quỹ vận động, quỹ theo pháp lệnh Được thông báo mức tiền phải
đóng mà không được bàn thảo
về mức đóng góp
Đóng góp quỹ để nâng cấp cơ sở hạ tầng nhỏ tại địa phương, biết Bàn bạc và quyết định
kế hoạch ngân sách về việc nâng cấp này, một số tham gia trực tiếp
vào việc thi hành và giám sát, một số khác thì không tham gia.
Rất ít khi tham gia đề cử hay bình bầu tổ trưởng tổ dân phố, Được thông báo
thường chỉ được thông báo đã có sẵn.
Bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân nhưng không nhớ họ là ai sau Tham gia tượng trưng
cuộc bầu cử
Một số họp bình xét hộ Xoá đói giảm nghèo trong khu phố hàng - một số tham gia có ý nghĩa
quý/hàng tháng, người dân tham gia bình chọn hộ Xoá đói giảm - một số khác chỉ được thông
nghèo, hầu hết người dân được thông báo danh sách các hộ đã báo
được bình chọn Xoá đói giảm nghèo, không biết rõ ai là người quyết
định, chỉ nghĩ đó là tổ trưởng tổ dân phố
Tương tự, được thông báo việc những hộ được xác định hưởng hỗ được thông báo
trợ xã hội
Nghe thông tin trên loa phát thanh, nhưng không chú ý: “loa phát Không tham gia vào việc lập kế
thanh quá ồn”, “họ truyền thanh những thông tin không liên qua hoạch truyền thanh, không sử
đến chúng tôi” dụng đến các thông tin được
truyền thanh
Một số thoải mái tham gia phản ánh về công việc của chính quyền - một số tích cực phản hồi ý
địa phương trong buổi họp với các tổ trưởng tổ dân phố, một số kiến
không bao giờ tham gia họp tổ dân phố để phản ánh một cách - một số không cung cấp thông
chính thức, trong một số trường hợp, có phản ánh với chính quyền tin phản hồi
địa phương nhưng không thấy hồi đáp. Một nam nghèo thường trú - một số có ý kiến nhưng tỏ ra
tại phường 4 - Quận 8 đã nói: “Chúng tôi biết chúng tôi có quyền chán nản vì nghĩ rằng ý kiến
phản ánh và kiến nghị về việc làm của các cán bộ địa phương. của họ sẽ không được ai quan
Chúng tôi nói thẳng vào mặt họ nhưng chẳng được cái gì. Vì vậy tâm đến
chúng tôi không còn gì để nói nữa.”
Tham gia họp tổ dân phố hàng tháng, nội dung buổi họp chủ yếu về Được thông báo hơn là tham
an ninh trật tự, xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi gia đóng góp ý kiến
trường, khiếu kiện và tranh chấp và các chương trình phòng chống
tệ nạn xã hội
Đối với những phụ nữ thường trú là thành viên trong Hội Phụ nữ, Được thông báo và được mời
gặp gỡ làm việc với các cán bộ của Hội Phụ nữ để chủ động tổ chức các nhóm
và các hoạt động
Riêng đối với những người nhập cư, chỉ biết tổ trưởng tổ dân phố và Được mời đến trình báo để bảo
công an khu vực vì phải gặp họ thường xuyên để đăng ký tạm trú. đảm an ninh trật tự
Có sự khác biệt trong quan điểm của cán bộ và người dân địa phương về mức độ và
bản chất việc thực hiện DCCS có thể hiểu là do thiếu những chỉ báo rõ ràng, cụ thể và
có thể đo lường được. Tiêu chí “dân biết” thường được các cán bộ hiểu là việc cung
cấp thông tin một chiều từ trên xuống mà không có cơ chế nào để thu nhận ý kiến
phản hồi của người dân để đánh giá mức độ người dân hiểu thông tin như thế nào.
Tiêu chí “dân biết” chưa được hiểu và chưa được chuyển thành một cách thức tạo sự
tham gia để làm nền tảng cho DCCS như tạo ra thuận lợi cho việc tiếp xúc và trao đổi
thông tin hai chiều giữa chính quyền và người dân địa phương.
Kế đến, chủ trương “dân bàn” lẽ ra đã có thể trở nên ý nghĩa hơn thông qua sự hợp
tác và tham gia toàn diện giữa người dân, tổ trưởng tổ dân phố, đại biểu Hội Đồng
Nhân Dân, cán bộ chính quyền cấp phường xã, và các phòng, sở của quận huyện và
30
Phần 4: Tham gia và Tăng cường Năng lực trong việc Đưa ra các Quyết định tại Địa phương
thành phố. Chẳng hạn, ở một số địa phương, người dân quyết định mức độ đóng góp
tiền bạc và sức lực vào việc nâng cấp đường hẻm, nhưng ở hầu hết các địa phương
khác người dân chỉ được thông báo về số tiền họ cần phải đóng.
Khung 4. Quy trình xét chọn hộ hưởng chương trình Xóa đói giảm nghèo tại
khu phố
Quy trình này thường bắt đầu vào tháng 11 hàng năm, bao gồm việc rà soát lại các hộ Xóa đói giảm nghèo
hiện tại cũng như bầu chọn những hộ mới để hưởng trợ cấp nhà nước. Theo nguyên tắc, các bước bầu
chọn được tiến hành ở khu phố diễn ra như sau:
1. Tổ trưởng tổ dân phố tập họp dân để bàn bạc và trình bày tiêu chuẩn cũng như thống nhất ý kiến
chọn hộ Xóa đói giảm nghèo, lập danh sách các hộ này và trình lên cho cán bộ chuyên trách Xóa đói
giảm nghèo của UBND Phường / xã / thị trấn.
2. Cán bộ chuyên trách Xóa đói giảm nghèo phường/xã cùng với tổ trưởng tổ dân phố thăm những hộ
được đề cử Xóa đói giảm nghèo để điền bảng câu hỏi và chọn những hộ xứng đáng được hưởng.
3. Lập danh sách những hộ được chọn Xóa đói giảm nghèo và thông báo cho dân trong khu phố để bàn
bạc và thống nhất ý kiến.
4. Dân trong khu phố phản hồi ý kiến và đưa ra quyết định cuối cùng trong buổi họp tổ dân phố.
Một ví dụ khác là vấn đề cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện DCCS. Và nếu
có nhiều cơ quan thực hiện, thì việc phối kết hợp sẽ diễn ra như thế nào. Điển hình
như trường hợp đóng góp các khoản trường phí ngoài học phí, người dân nghèo
không có tiếng nói gì trong vấn đề này. Trên nguyên tắc, Hội Phụ Huynh học sinh đại
diện người dân. Tuy nhiên, các đại diện của Hội Phụ Huynh học sinh không tham
khảo ý kiến người dân về các khoản trường phí ngoài học phí như tiền ở cơ sở vật
chất, tiền đồng phục và các khoản khác mà gộp lại trở thành một số tiền khá lớn đồng
thời trở thành một gánh nặng quá lớn trên vai những người nghèo. Cán bộ chính
quyền địa phương giải thích rằng họ không có quyền bàn bạc vấn đề này vì trường
học nhận kinh phí từ cơ quan quản lý ngành dọc, tức Phòng Giáo Dục mà Phòng
không có nhiều quyền quyết định vì họ cũng chỉ nhận kế hoạch ngân sách từ trên
xuống của Sở Giáo Dục. Những hạn chế liên quan đến các vấn đề về phân cấp quản lý
sẽ được minh hoạ cụ thể trong chương tiếp theo về cải cách hành chính.
Thêm một ví dụ liên quan đến việc công khai kế hoạch quy hoạch tổng thể. Cả người
dân cũng như chính quyền địa phương không ai có được thông tin về kế hoạch quy
hoạch. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến những người nghèo sống trong các khu vực
có thể giải tỏa, làm họ cảm thấy không an tâm về tương lai và họ không thể tính toán
gì cho cuộc sống cũng như sinh kế.
Một ví dụ nữa về nội dung thực hiện dân chủ cơ sở có trọng tâm giảm nghèo là việc
xác định đối tượng cho chương trình XĐGN và hỗ trợ xã hội. Người dân đã có thể
tham gia một cách ý nghĩa hơn bằng các đảm bảo việc xác định này được các tổ
trưởng thực hiện đúng phương thức và quy trình. Ở một số địa phương, quá trình xét
chọn đối tượng hưởng hỗ trợ nhà nước được thực hiện theo đúng như nguyên tắc đã
đề ra (xem Khung 4), nhưng có một số địa phương khác không thực thi như vậy. Về
phía người dân, đa số không cảm thấy sự tham gia của họ có ảnh hưởng quan trọng
trong quá trình xác định mục tiêu hỗ trợ này. Nhìn chung, họ chỉ được thông báo chứ
không được chủ động tham gia vào quá trình ra quyết định.
31
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Bối cảnh
Theo Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo (CPRGS), cải cách hành
chính công được Chính phủ chọn vừa là một trong các mục tiêu cơ bản, vừa là một
trong các biện pháp chính để đảm bảo tính hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội. Theo đó, CCHC được thực hiện trên 4 lĩnh vực: cải cách thể chế; cải cách
bộ máy hành chính, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải
cách tài chánh công để cán bộ, công chức, chính quyền thay đổi phong cách làm việc,
có trách nhiệm hơn với công việc và người dân tiếp cận dễ dàng hơn các dịch vụ
công, đảm bảo công bằng xã hội. Tính công khai, minh bạch về ngân sách được đặc
biệt đề cao. Mặt khác, Chiến lược còn nhắm đến việc thực hiện đầy đủ Quy chế dân
chủ cơ sở, nhằm cải thiện và thu hút sự tham gia của người dân vào quá trình lập kế
hoạch và thực thi các quyết định phát triển kinh tế ‐ xã hội cộng đồng19.
Căn cứ trên các nội dung chính của CPRGS vừa nêu trên, mục tiêu xác định của cuộc
nghiên cứu lần này tại TPHCM là:
(1) thu thập ý kiến phản hồi của người nghèo và chính quyền địa phương về việc
thực hiện CCHC công ở TPHCM ở cấp chính quyền cơ sở (phường/ xã, quận/
huyện),
(2) xem xét ảnh hưởng của CCHC công đối với người nghèo và công tác giảm
nghèo tại các địa phương khảo sát, qua đó có thể hình thành hình ảnh tổng
quan về CCHC ở TPHCM,
(3) ghi nhận ý kiến đề xuất của người dân (các nhóm người nghèo) và cán bộ địa
phương về các biện pháp đẩy mạnh CCHC công theo hướng vì người nghèo.
19 Theo Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói giảm nghèo (do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Công văn số 2685/VPCP – QHQT, ngày 21/05/2002), Hà Nội, tháng 5 năm 2002, trang 4.
32
Phần 5: Cải cách Hành chính công
Thái độ tiếp dân của nhiều viên chức địa phương cũng có nhiều thay đổi theo chiều
hướng tích cực hơn, như: vui vẻ, hoà nhã, hướng dẫn thủ tục, quy định rõ ràng hơn.
Một số lệ phí được trả, dưới hình thức dán tem, theo người dân là hợp lý, phù hợp với
khả năng tài chánh của người nghèo. Theo nhiều nhóm thảo luận, thái độ tiếp dân tốt
hơn trước và thể hiện tinh thần trách nhiệm của các viên chức cấp phường/ xã/ thị trấn
có ý nghĩa rất quan trọng đối với người nghèo vì giúp họ giảm cảm giác e ngại, lo sợ,
cảm thấy tự tin vì được tôn trọng hơn trước.
Một số người dân nghèo nhìn nhận rằng trình độ học vấn, hiểu biết hạn chế của
người nghèo là rào cản, khiến họ dễ làm sai hoặc sót các lại giấy tờ cần thiết theo thủ
tục quy định, mặc dù nhân viên của UBND Phường đã hướng dẫn họ rõ ràng, chi tiết.
Các nhóm dân than phiền nhiều về thủ tục còn nhiều rắc rối, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ
kê khai theo họ là không cần thiết. Sự gọn nhẹ, thông thoáng, tạo thuận lợi, giảm phiền
hà và tốn kém cho người dân theo mục tiêu của CCHC trong lĩnh vực cấp giấy chủ
quyền nhà đất chưa thể hiện rõ bước tiến bộ nào đáng kể. Hơn thế nữa, ở một vài nơi,
người dân nghèo còn than phiền rất nhiều về năng lực, tinh thần trách nhiệm và phẩm
chất đạo đức của ủy viên nhà đất phường. Có sự không công bằng khi xét cấp số nhà,
theo nhiều người dân là do sự tiêu cực, đòi hỏi phải có “tiền lót tay”. Sự phê bình
thẳng thắn của người dân địa phương trong một số cuộc họp lấy ý kiến dân về cán bộ
33
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
địa phương không mang lại thay đổi gì trong bộ máy nhân sự của phường này.
“Chính phủ (CP) quan tâm đến người dân, nhưng cán bộ địa phương làm không tốt,
làm ảnh hưởng đến uy tín của Chính phủ, Chính phủ phải kiểm tra thường xuyên.
Chúng tôi biết mình được quyền phản ảnh. Nhưng nói trước mặt, nói thẳng thắn mà
người đó vẫn ngồi ghế đó, người kia vẫn ngồi ghế kia thì tụi tôi chán ngán, bất mãn,
không thèm nói nữa” (nhóm nam nghèo thường trú Phường 4, Quận 8).
Do đó, theo ngưòi dân CCHC cần đi liền với sự kiểm tra giám sát của cấp trên đối với
cấp dưới, nhất là trong các lĩnh vực “nóng” có quan hệ trực tiếp đến quyền lợi của
người dân như nhà đất, vì đây là yếu tố quyết định đối với nhiều hộ nghèo để họ có
hộ khẩu và tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục cho con cái, khám
chữa bệnh, điện, nước, các nguồn vốn tín dụng chính thức. Người dân cho rằng nơi
nào cấp nào có hiện tượng cán bộ địa phương không trong sạch, không được dân tín
nhiệm, nếu nhiều lần phê bình không sữa chữa thì chủ tịch UBND Phường hay Quận
phải chịu trách nhiệm liên đới, vì hoặc không sâu sát, hoặc không kiên quyết xử lý
cán bộ dưới quyền hay làm “ô dù”, bao che.
Ngoài ra, sự phân cấp sâu rộng hơn cho cấp cơ sở phường/ xã trong nhiều lĩnh vực
khác như xây dựng nâng cấp hạ tầng cơ sở, y tế, cũng được nhiều nhóm cán bộ chính
quyền cấp quận và phường đề cập, như là một hoạt động quan trọng để đẩy mạnh
CCHC công hiện nay ở TPHCM. Về hạ tầng cơ sở, quy định trước đây là các công
trình đường xá liên xã, liên ấp với mức kinh phí dưới 500 triệu được giao cho các xã
phụ trách. Nhiều người đề nghị mức này cần được tăng lên là 1 tỉ. Việc phân cấp cho
cấp phường/ xã có thể mang lại nhiều lợi điểm: giúp giảm nhiều chi phí trung gian
làm nâng giá thực hiện công trình, nhờ đó, giảm rất nhiều mức đóng góp của người
dân, tạo nhiều cơ hội cho người dân nghèo thất nghiệp thường xuyên hoặc thời vụ
tham gia xây dựng để hoặc có thu nhập hoặc đóng góp dưới hình thức công lao động
thay thế cho đóng góp bằng tiền. Thực tế vừa qua, một số công trình hạ tầng cơ sở
quận giao cho phường, xã phụ trách đã tiết kiệm được đến 30 ‐ 50% kinh phí. Vì thế,
theo nhiều lãnh đạo địa phương, sự phân cấp quản lý có tác động trực tiếp đến việc
giảm nghèo, đồng thời tiết kiệm được nguồn chi ngân sách của chính phủ.
Một số việc khác liên quan đến “một cửa một dấu” cho thấy có khoảng cách giữa ý
tưởng, mục tiêu và cách thực hiện. Cụ thể là việc thực hiện một số điểm của Luật
doanh nghiệp như cách cấp phát giấy phép sản xuất kinh doanh. Quy định mới giao
cho Sở kế hoạch đầu tư trực tiếp cấp giấy phép, để đơn giản hoá theo kiểu “một cửa
một dấu”, thay vì trước đây phải đi qua 2 – 3 cấp. Cách đổi mới này tưởng chừng
thông thoáng, đơn giản thủ tục và rút ngắn thời gian hơn. Song quá trình thực hiện
cho thấy có nhiều bất cập, không hợp lý, thiếu sự tham gia từ đầu của cấp cơ sở trong
34
Phần 5: Cải cách Hành chính công
các bước duyệt xét nên có nhiều kẻ hở về kiểm tra địa điểm đặt nhà xưởng và loại
hình kinh doanh cũng như đánh giá mức độ ảnh hưởng đến môi trường khu vực,
nhất là khu vực dân cư. Đồng thời, việc hậu kiểm giao trách nhiệm cho cấp cơ sở cũng
tạo ra những khó khăn, bị động khi thực hiện.
Nguyên nhân là thông tin từ cấp Thành phố đến cấp quận/ huyện và sau đó đến cấp
phường/ xã thường rất chậm, không kịp thời. Khá phổ biến tình trạng thông tin về
đến cấp cơ sở thì các doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động không còn tồn tại
nữa hoặc thực chất là chưa hề có mặt tại đây. Một số nơi, khi hậu kiểm, cấp chính
quyền phường phát hiện số lượng doanh nghiệp thực tế có hoạt động chỉ chiếm
khoảng ½ hoặc 1/3 số giấy phép đã cấp phát. Nhiều cán bộ điạ phương cho rằng có
tình trạng nhiều “doanh nghiệp ma” lợi dụng giấy phép để có các hành vi vi phạm
luật pháp như mua bán hoá đơn, chứng từ giả, hoặc để trốn nghĩa vụ thuế phải nộp
cho nhà nước; thậm chí, một số doanh nghiệp còn có hành vi lừa đảo.
Từ đề xuất của nhiều cán bộ cấp quận và phường, có thể thấy có hai giải pháp cải tiến
cho CCHC trong cấp giấy phép hoạt động của doanh nghiệp:
(1) hoặc trở lại cách thức cũ là hồ sơ được nộp từ phường, UBND phường chịu
trách nhiệm kiểm tra địa điểm đặt văn phòng, xưởng sản xuất, vốn hoạt động
sau đó chuyển hồ sơ và đề xuất lên Phòng kinh tế quận để hoặc cấp quận
hoặc cấp Thành phố ra quyết định cấp giấy phép; thời gian có thể chỉ cần 2
tuần lễ từ lúc doanh nghiệp nộp đơn đến lúc nhận giấy phép.
(2) hoặc nếu không muốn quay trở lại cách cũ đòi hỏi qua 2 – 3 cấp như trước,
cấp TP cần thông báo cho cấp quận và phường trong lúc thẩm tra hồ sơ hoặc
ngay sau khi cấp phát giấy phép để hai cấp này thực hiện việc hậu kiểm kịp
thời, chặt chẽ hơn, tránh tình trạng lỏng lẻo và rối loạn trong sản xuất và kinh
doanh, ngăn chặn các hành vi vi phạm Luật doanh nghiệp và luật pháp nói
chung.
Khi được hỏi về tác động của Luật Doanh nghiệp đối với sự phát triển của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của thành phố, nhiều cán bộ cấp quận và phường tỏ ra còn khá
“lạnh nhạt” với ý tưởng có tác động tích cực của bản luật này. Có ý kiến cho rằng sự
phát triển kinh tế của Thành phố là do sự phát triển của hạ tầng cơ sở đã tạo đà thúc
đẩy cho doanh nghiệp phát triển, hơn là do tác động của Luật Doanh nghiệp.
Khi nhận định về các thách thức phải đương đầu khi thực hiện việc phân cấp quản lý,
nhiều cán bộ cấp quận cho rằng còn nhiều hạn chế về phân công, phân nhiệm phân
bổ ngân sách do:
(1) có nhiều từ ngữ hành chính còn mơ hồ, không rõ nghĩa.
(2) sự phân công không rõ ràng cho các ban ngành, nên khó phân biệt rõ ngành
nào, do ai đứng đầu chịu trách nhiệm chính.
(3) không xác định rõ hình thức kỷ luật, xử phạt cán bộ vi phạm.
(4) không khuyến khích cán bộ, viên chức năng nổ hoàn thành nhiệm vụ bằng
chế độ lương thỏa đáng với công sức lao động đầu tư vào công việc vì phần
lớn thu nhập chính của họ không từ lương chính thức do đơn vị trả (do đó,
nếu không có thu nhập phụ chính đáng ngoài lương, cán bộ viên chức ở các
khu vực có mức cầu dịch vụ gắn chặt với lợi ích thiết thân của người dân cao
35
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
như nhà đất, hộ khẩu, tư pháp, thuế, v.v... người cán bộ công chức rất dễ bị
sai phạm tiêu cực).
(5) việc khoán quỹ lương có nhiều bất cập, không hợp lý và không thoả đáng ở
các khu vực đang đô thị hoá với tốc độ quá nhanh, điển hình là Huyện Bình
Chánh. Khi khoán quỹ lương cho cấp huyện, cấp Thành phố chưa tính đến
mức gia tăng khối lượng công việc do dân số gia tăng và nhu cầu dịch vụ gia
tăng tương ứng. Vì thế “công việc hành chính làm thì nhiều nhưng hưởng lại ít,
càng làm nhiều thì chi phí lại nhiều theo”. “Đô thị hóa nhanh, dân cần nhiều, tụi tôi
làm nhiều thì chi phí nhiều, áp lực của công việc càng nặng, nhưng mức lương
khóan vẫn vậy, không tăng, vì vậy mà thu nhập nhân viên không tăng theo công
việc. Các nhà đưa ra cải cách hành chính ca ngợi cải cách ghê lắm, nhưng tụi tôi thấy
mình làm nhiều cũng vậy.” (một thành viên nhóm thảo luận chính quyền đoàn
thể huyện Bình Chánh). Do đó, nhiều người đồng tình rằng “CCHC ở địa bàn
dân cư ổn định phải khác với CCHC ở địa bàn không ổn định”. Một sự đa dạng
hóa, cụ thể hoá hơn nữa “các giải pháp CCHC cho phù hợp với đặc trưng của
từng vùng, từng khu vực ngay tại TPHCM là điều rất cần thiết, huống chi cho cả
nước.” (nhóm thảo luận chính quyền đoàn thể huyện Bình Chánh).
Đăng ký hộ khẩu
Tương tự các cuộc Đánh giá nghèo có sự tham gia năm 1999 và tham khảo ý kiến cấp
cơ sở về chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo (CPRGS) cuối năm 2001,
việc cung cấp và giải thích thông tin về cách thức, điều kiện, quy trình xin và cấp giấy
chứng nhận tạm trú dài hạn KT3 theo nhiều người dân còn nhiều hạn chế, trở ngại.
Việc quản lý đăng ký nhân hộ khẩu thuộc trách nhiệm của ngành công an. Nhiều
người dân còn e ngại khi tiếp xúc để hỏi hoặc đề đạt nguyện vọng. Hơn nữa, dường
như ngay cả khi hội đủ các điều kiện để chuyển từ hộ khẩu KT4 lên KT3, việc có được
hộ khẩu tạm trú dài hạn KT3 của nhiều hộ dân tạm trú lại tuỳ thuộc phần lớn vào
“quyền” của các công an khu vực và mối quan hệ giữa chủ hộ với công an, trong đó,
có cả “phí ngoại giao không thành văn, ngoài quy định”. Một số các quy định về cách gia
hạn đăng ký tạm trú ngắn hạn cấp từng 6 tháng đòi có giấy xin tạm vắng có chứng
nhận của quê gốc theo nhiều người nhập cư là quá chặt chẽ, khó thực hiện và mất thời
36
Phần 5: Cải cách Hành chính công
gian, ảnh hưởng nhiều đến việc làm và thu nhập của họ. Có người phải nghỉ việc 2 – 3
ngày, về quê cũ xin giấy chứng nhận gia hạn mới; họ bị mất thu nhập và chi phí đi lại,
ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống gia đình. Một số người ở các tỉnh xa, thiếu tiền cho
chi phí đi lại đành chấp nhận bị công an phạt tiền vì vi phạm quy định gia hạn tạm
trú có thời hạn. Nói cách khác, nhiều người dân cho rằng dường như còn thiếu sự rõ
ràng và công bằng trong việc xét cho nhập hộ khẩu tạm trú dài hạn KT3. Sự can thiệp
của chính quyền địa phương ‐ UBND phường ‐ dù muốn cũng ở mức độ rất hạn chế
vì vấn đề này thuộc ngành công an.
Từ các thông tin trên, nhóm nghiên cứu có một số đề xuất như sau:
(1) cần có một cách thức quản lý mới nhân hộ khẩu, như thông qua mạng, máy vi
tính, trao đổi thông tin giữa các tỉnh và thành phố.
(2) một sự công khai sâu rộng và thực hiện công bằng hơn các quy định về quản
lý nhân hộ khẩu; qua đó góp phần đẩy mạnh CCHC trong lĩnh vực an ninh,
trật tự trị an.
Nhận thức về sự thay đổi vị trí từ cán bộ địa phương thành công chức nhà nước
Sự thay đổi vị trí từ cán bộ địa phương thành công chức nhà nước chưa được nhiều
viên chức địa phương nhận thức rõ tác dụng đối với việc nâng cao vị trí của họ hay
cải tiến chất lượng dịch vụ công họ đang thực hiện. Họ cũng không thấy rõ điều này
ảnh hưởng gì nhiều đến quan hệ giao tiếp hay dịch vụ của họ với người dân. Phần
lớn cán bộ cho rằng thay đổi lớn nhất là họ an tâm hơn vì chế độ lương rõ ràng hơn,
chắc chắn hơn vì được hưởng lương ngân sách của chính phủ thay vì từ các nguồn
thu của địa phương. Điều này đảm bảo cho họ các quyền lợi an sinh xã hội và phúc
lợi xã hội khi thôi việc hay sau khi nghỉ hưu.
37
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Cải cách chế độ tiền lương và xử phạt nghiêm khắc các sai phạm.
- Tăng cường sự trong sáng và chính xác của các từ ngữ sử dụng trong các văn bản
pháp quy.
- Tăng cường mối quan hệ, phối hợp giữa các cấp Thành phố, quận/ huyện,
phường/ xã, thông qua kênh thông tin nhanh nhạy, kịp thời, trên cơ sở phân
nhiệm phân công rõ ràng hơn và tính chịu trách nhiệm cao hơn của từng cấp đối
với cấp trên hoặc cấp dưới và với những người dân có liên quan.
- Tăng cường hơn nữa sự giám sát, kiểm tra của cấp trên đối với kết quả công việc
của cấp dưới, bằng cách trực tiếp tiếp xúc với người dân, nhất là dân nghèo, với
cá nhân hoặc qua họp nhóm thảo luận giống như lần đánh giá giảm nghèo PPA
lần này. Việc gặp và kiểm tra cần trực tiếp, do cấp trên chọn ngẫu nhiên thay vì
qua chính quyền địa phương, để khách quan hơn, ngăn ngừa sự chuẩn bị có tính
đối phó nhằm che dấu khuyết điểm, thiếu sót của chính quyền địa phương.
38
Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị
Các hệ quả của tình trạng thiếu hộ khẩu thường trú một lần nữa lại được người dân nêu ra (tương
tự như lần đánh giá nghèo năm 1999 và tham khảo ý kiến cộng đồng về Chiến lược tăng trưởng
và giảm nghèo năm 2002), như: không bình đẳng quyền lợi trong tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức
khoẻ, thụ hưởng chương trình Xoá đói giảm nghèo, các chương trình tín dụng và các hỗ trợ xã hội
khác cũng như phải trả các chi phí cao cho điện, nước và các phí tổn cho gia hạn đăng ký tạm trú.
Ngoài ra, trong khi người nhập cư là người phải gánh chịu sự thiếu an toàn do tình trạng cư trú
tạm thời của họ thì người dân nghèo tại chỗ là những người bị ảnh hưởng bởi các dự án quy
hoạch đô thị lại phàn nàn nhiều về tình trạng bấp bênh, không ổn định, thiếu sự công khai rõ
ràng, thiếu tư vấn cộng đồng và sự chậm trễ, kéo dài (trong một số trường hợp đến hơn 5 năm)
của các dự án thuộc quy hoạch “treo”.
Các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội không căn cứ trên số cư dân hiện đang sinh sống tại địa
phương (vì chỉ có lực lượng công an nắm số liệu về số dân nhập cư để quản lý trật tự trị an) mà
chỉ căn cứ trên số dân có đăng ký thường trú. Các kế hoạch này vì thế không theo hướng giảm
nghèo, chí ít là xét trên khía cạnh không tính đến các nhóm dân nghèo mới di chuyển từ nông
thôn vào thành phố. Cũng vì thế, người nhập cư là người nghèo không được nhận diện.
Tuy nhiên, nếu so sánh với các cuộc đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng trước đây, có
sự thay đổi đáng ghi nhận nhất về thái độ của các lãnh đạo và viên chức các cấp là hiện nay nhiều
người cởi mở chấp nhận có những thiếu sót trong cách tiếp cận hiện hành, công nhận nhiều hơn
các quyền lợi bình đẳng của người nhập cư với tư cách là những công dân Việt Nam như là những
người Việt Nam khác, nhìn nhận vai trò quan trọng của họ trong sự phát triển kinh tế của Thành
phố và vì thế cần có sự vận dụng mềm dẻo, linh hoạt hơn các quy định về đăng ký cư trú.
Di dân là một trong những chủ đề được sự quan tâm của cán bộ, viên chức chính
quyền và đoàn thể ở cả 3 cấp thành phố, quận/ huyện, phường/ xã của TPHCM, nhất
là ở nơi có tốc độ đô thị hóa “nhanh đến chóng mặt” (lời một cán bộ Ban chuyên trách
Xoá đói giảm nghèo huyện Bình Chánh) theo tiến trình công nghiệp hóa như huyện
Bình Chánh.
Sự thay đổi nhận thức về tính chất, tác động và hệ quả của di dân nông thôn -
đô thị
Điều khác biệt lớn nhất so với các cuộc đánh giá nghèo trước đây vào năm 1999 và
2001 là nhiều cán bộ địa phương có cách nhìn khác hơn về tác động của di dân nông
thôn ‐ đô thị và vai trò của người nhập cư vào TPHCM, theo hướng cởi mở, tích cực
hơn. Các thử thách và khó khăn được nêu ra khá nhiều cho công tác quản lý nhân hộ
khẩu, an ninh trật tự, ngân sách đầu tư cho giáo dục, y tế, hạ tầng cơ sở. Theo nhiều
cán bộ địa phương tham dự thảo luận đó là do sự bất cập giữa nhu cầu và mức độ
đáp ứng vì hạn chế của kinh phí, số lượng cán bộ và sự thiếu cập nhật hóa kịp thời
của công tác thống kê.
39
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tuy nhiên, lần này, nhiều cán bộ viên chức xác định rõ cách nghĩ của họ về người
nhập cư một cách cởi mở, sẳn sàng tiếp nhận và thân thiện hơn. Họ cho rằng “chúng ta
cần xóa bỏ thành kiến về dân nhập cư; ngay cả cách dùng từ dân nhập cư cũng cho thấy có sự
kỳ thị, khiến cho họ có nhiều mặc cảm.”; do đó, “ chúng ta nên chú ý thay đổi cả cách dùng từ
ngữ.” (một lãnh đạo cấp ủy thị trấn An Lạc – huyện Bình Chánh, trong thảo luận
nhóm lãnh đạo chính quyền, đoàn thể). Cách nghĩ theo hướng nhận thức rõ hơn quy
luật khách quan của hiện tượng di dân cũng được thể hiện rõ hơn các cuộc nghiên
cứu PPA trước đây, như “xưa nay ở Việt Nam ta có câu đất lành chim đậu, chúng ta cũng
biết vậy, song công an và các ban ngành của chính quyền vẫn cố gắng hạn chế nhập cư, nhưng
vẫn không thể làm được.” (một nữ cán bộ Ban xóa đói giảm nghèo Quận 8, tại hội thảo
xác định các thông tin cơ bản cấp Thành phố). Mặt khác, nhiều người công nhận rằng
sự lựa chọn nhập cư vào TPHCM hay bất cứ nơi nào khác của người di dân là hợp
thức, hợp pháp, phù hợp với hiến pháp và luật pháp Việt Nam “ hiến pháp nói rõ rồi, ai
muốn sinh sống hay làm việc ở đâu là quyền của người ta.” (nhóm thảo luận chính quyền
ban ngành huyện Bình Chánh và Phường 5 – Quận 8).
Dường như tính phổ biến của hiện tượng di dân và các lợi ích đan xen, tương tác nhau
giữa các nhóm trong cộng đồng đang tạo ra sự thay đổi cách đánh giá ngày càng công
bằng hơn này. Hầu hết các nhóm thảo luận của chính quyền, đoàn thể và các nhóm
thường trú nghèo của huyện Bình Chánh cho biết cả cán bộ địa phương (cấp phường,
quận) lẫn nhiều tổ trưởng tổ dân phố cũng như người dân thường trú đều có các lợi
ích từ các nhóm người nhập cư. Nhiều nhà trọ mọc lên quanh các khu công nghiệp, tạo
thêm thu nhập cho những người có đất, có nhà rộng để kinh doanh cho thuê phòng
trọ. Không ít cán bộ địa phương thừa nhận, nhờ có thu nhập từ cho thuê phòng trọ, họ
mới an tâm tư tưởng, hoàn thành chức trách một cách vô tư, giữ vững phẩm chất,
không bị tác động bởi tiêu cực. “Ở xã Tân Tạo được cái kinh doanh nhà trọ, nhà nào cũng có
hết.”, “lương chính thức của tụi này lãnh ở cơ quan chỉ có 300.000 – 400.000 đồng, nhưng thu
nhập có từ cho thuê phòng trọ là 3.000.000 – 4.000.000 đồng, nhờ đó mà sống đủ, có dư, nên
mới an tâm công tác, không dính vào tiêu cực.” (nhóm cán bộ chính quyền xã Tân Tạo,
huyện Bình Chánh). Người nghèo thường trú còn sống dựa vào nông nghiệp có thể
bán được nhiều hơn, chạy hơn nông sản hàng hóa như rau, trái cây. Người nghèo mua
bán nhỏ ở chợ hợp pháp, chợ tự phát hay gánh hàng rong có thể bán được các mặt
hàng thức ăn tươi sống hay chế biến cho người nhập cư. Theo nhịp độ phát triển của
các nhà máy trong khu công nghiệp Tân Tạo và sự gia tăng tương ứng số công nhân
phần lớn là thanh niên nhập cư, nhịp điệu kinh doanh mua bán, dịch vụ của thị trấn
An Lạc và các xã lân cận có nhiều thay đổi theo chiều hướng gia tăng.
Ở một số địa phương nghèo của các quận nội thành như Quận 8 đâu đó vẫn còn một
số than phiền của người nghèo thường trú về sự cạnh tranh tìm việc làm của người
nhập cư tạo ra sự phá giá sức lao động, sự ép giá của các chủ doanh nghiệp. Tuy
nhiên, nếu so với các lần đánh giá trước vào năm 1999 và 2001, mức độ gay gắt có
chiều giảm đi. Một số người còn chấp nhận “tụi tôi chê cực, trả giá rẻ, gò bó giờ giấc,
không làm, họ chấp nhận thì họ làm.” (nhóm nam thường trú Phường 5 – Quận 8).
Ngược lại, ở khu vực có công nghiệp hóa với tốc độ nhanh như Bình Chánh, điều này
xem ra không còn là vấn đề đáng kể. Hơn thế nữa, sức cầu lao động trẻ của các nhà
máy liên doanh hay vốn 100% của doanh nghiệp nước ngoài còn cao hơn mức cung.
Ngay cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng “cho người đi về các tỉnh tuyển lao động”
hoặc “thưởng cho công nhân nào tìm được người mới, với mức thưởng 10.000 đồng cho mỗi
40
Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị
lao động.” (nhóm doanh nghiệp huyện Bình Chánh). Vì thế, theo các cán bộ ban ngành
huyện Bình Chánh, lao động nhập cư hiện nay chiếm khoảng 60 ‐ 70% lao động trong
các xí nghiệp lớn, vừa và nhỏ của huyện nhà. Lao động nhập cư còn được đánh giá
cao hơn lao động tại chỗ ở đặc điểm “cần cù, chăm chỉ, siêng năng, có tính kỹ luật cao, có
ý thức trách nhiệm và bảo vệ tài sản công ty.” (nhóm doanh nghiệp huyện Bình Chánh và
Quận 8). Đóng góp vào quá trình phát triển công nghiệp của huyện Bình Chánh nói
riêng và TPHCM nói chung, của lao động nhập cư, xét trên góc độ cung ứng nguồn
lao động trẻ và có tính chất đặc điểm phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp như
trên, cho thấy tác động tích cực của nhóm dân cư mới này đối với Thành phố.
Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều thách thức và vấn nạn cần quan tâm giải quyết của chính
quyền Thành phố. Đó là sự khác biệt trong:
(1) đánh giá tác động của người nhập cư.
(2) mức độ chấp nhận đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các nhóm dân mới
này‐mà đa số là người nghèo.
(3) mức độ nhân thức về các thay đổi cần có trong việc lập kế hoạch đô thị và
thực hiện các dự án chỉnh trang, cải thiện môi trường. Các nội dung này sẽ
được đề cập trong các phần tiếp sau.
Tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nhập cư: các thách đố và khó khăn
Dù nhìn nhận quy luật khách quan của hiện tượng di dân và sự phù hợp với Hiến
pháp và luật pháp Việt Nam của những dòng người nhập cư, không ít cán bộ chính
quyền và đoàn thể vẫn chưa công nhận quyền thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản
của người nhập cư bình đẳng với người dân sở tại. “Nếu quan niệm họ cũng được hưởng
quyền lợi như người địa phương là cào bằng, chứ không phải là công bằng, là tạo thêm áp lực
cho chính quyền địa phương.” (nhóm thảo luận chính quyền đoàn thể Phường 4 – Quận
8). Nhiều lãnh đạo của huyện Bình Chánh công nhận quyền lợi chính đáng của người
nhập cư và con cái họ về giáo dục, y tế “phải xem người nhập cư như là công dân Việt
Nam, cần có sự giải quyết bình đẳng, phải xử sự công bằng, không ức hiếp.” (đại diện cấp
ủy Đảng, thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh). Song họ lại cho rằng khả năng cung
ứng không đáp ứng nổi trước mức tăng nhu cầu do dân số một số khu vực tăng lên
đột biến, gấp nhiều lần trong vòng 2 ‐ 3 năm qua.
Sự tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nhập cư do các nguyên nhân vừa kể
trên còn ở mức độ rất hạn chế. Điều này chi phối mạnh đến khả năng thoát nghèo và
thoát nghèo nhanh của người nhập cư, mặc dù người nghèo tại chỗ đánh giá cao sự
cần kiệm, chi tiêu có kế hoạch và dè xẻn của người nhập cư và theo họ mức độ vươn
lên của người nhập cư nghèo được trông thấy rõ hơn người thường trú nghèo. Tuy
nhiên, sự hạn chế mức độ tiếp cận các dịch vụ công tạo ra các gánh nặng lớn cho
người nhập cư trong cân đối ngân sách chi tiêu gia đình, đồng thời cuộc sống của họ
tiềm tàng nhiều nguy cơ và rủi ro hơn.
Như đã nói ở phần cải cách hành chính công, các quy định về việc nhập hộ khẩu và
làm giấy tờ hợp thức hoá nhà có nhiều mâu thuẫn, không hợp lý, gây khó khăn cho
người nhập cư. Khi người nhập cư cư ngụ lâu năm (ít nhất là trên 6 tháng theo quy
định của ngành công an) và mua nhà (có thể là nhà chưa hợp thức hoá) liên hệ công
an để xin đặng ký hộ khẩu KT3, công an đòi có giấy tờ nhà hợp thức hóa. Khi liên hệ
41
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
ngành nhà đất để xin hợp thức hoá nhà thì cán bộ nhà đất đòi có hộ khẩu KT3. Rõ
ràng là sự vừa chồng chéo, vừa không tương thích giữa các quy định của các ngành
tạo ra các khó khăn cho người nhập cư có được các giấy tờ liên quan trực tiếp đến lợi
ích thiết thân của họ. Theo nhiều cán bộ địa phương, nghị định 51 của chính phủ còn
nhiều trở ngại do “sự chồng chéo, không thống nhất giữa hai anh công an và nhà đất‐địa
chính.” (theo cán bộ chuyên trách xoá đói giảm nghèo huyện Bình Chánh, trong hội
thảo xác định các thông tin chủ chốt của đợt nghiên cứu, tổ chức vào ngày 28/8/03).
Ngoài lý do hạn chế của khả năng cung ứng các nguồn lực của ngành giáo dục về cơ
sở trường lớp, việc học của con cái các hộ nhập cư gặp nhiều khó khăn khi ghi tên vào
học các lớp phổ thông hệ chính quy ban ngày. Các em có hộ khẩu KT3 chỉ được thu
nhận nếu trường lớp còn chỗ sau khi đã nhận các em có hộ khẩu thường trú KT1,
KT2. Trong khi đó, như vừa nói ở trên, việc có hộ khẩu KT3 không phải là điều dễ
dàng. Xác suất các em hộ khẩu KT4 được học phổ thông chính quy vì thế hầu như
không có. Dù các lãnh đạo ngành giáo dục cho biết họ đã cố gắng hết sức, nhưng
nguồn lực có hạn. Một số hộ nhập cư tham gia thảo luận cho biết con họ đành học lớp
phổ cập buổi tối với chất lượng kém hơn hẳn so với lớp chính quy ban ngày. Một số
cho con học lớp tình thương. Số khác có khả năng tài chánh hơn cố gắng cho con học
lớp hệ phổ thông dân lập với học phí cao hơn nhiều và vì thế họ cũng không dự đoán
được còn gắng gượng cho con học đến đâu, “đến đâu hay đến đấy, bao giờ lo không nổi
nữa thì thôi, xuôi tay.” (nhóm nam nhập cư Phường 4 – Quận 8). Không ít hộ nhập cư
cho con nghỉ học ở cấp I hoặc vài lớp đầu cấp II để lao động sớm, giúp cha mẹ mưu
sinh và tham gia đội ngũ lao động phổ thông với học lực thấp và thiếu kỹ năng
chuyên môn của TPHCM. Ở thị trấn An Lạc ‐ huyện Bình Chánh, có em nghỉ học sớm
chỉ vì trường phổ cập đêm chuyển địa điểm xa nơi các em ở và cha mẹ các em không
dám cho con đi học xa nhà vì lý do an toàn (theo nhóm nữ nhập cư ). Hơn thế, nhiều
người nghèo thường trú còn lo ngại về nguy cơ các em bị tác động bởi tệ nạn do rời
ghế nhà trường quá sớm để chen vào trường đời nhiều cám dỗ “con cái người nhập cư
phần lớn thất học do cha mẹ thường xuyên chuyển nơi ở vì không tiền trả tiến nhà; các em
không được đi học, lang thang đi bán tối ngày dễ hư hỏng lắm.” (nhóm nữ nghèo thường
trú Phường 4 – Quận 8).
Trẻ nhập cư lao động sớm có dễ bị hư hỏng hay không có lẽ vẫn còn là sự lo ngại và
suy đoán. Song điều có thể xác tín là các thông tin trên cho thấy rõ rằng sự thiếu tiếp
cận nền giáo dục với học phí thấp và chất lượng tốt là thách thức cho việc các em có
nền học vấn căn bản chí ít là phổ thông cơ sở (cấp II) để hội nhập vào tiến trình công
nghiệp hóa, có việc làm ổn định và có cơ hội đổi đời so với thế hệ cha mẹ.
Sự tiếp cận với các dịch vụ y tế với chi phí thấp và chất lượng đảm bảo của những
người nhập cư nghèo không khác biệt gì đáng kể so với những người nghèo thường
trú không thuộc diện xoá đói giảm nghèo (XĐGN). Nói cách khác, khi không có các
quyền lợi từ thẻ bảo hiểm y tế nhờ được công nhận hộ XĐGN, các hộ nghèo khác vẫn
phải trả phí khám và chữa bệnh với chi phí cao, trong nền y tế xã hội hoá như hiện
nay. Vì thế, một trong những rủi ro người nghèo lo sợ nhất là ngã bệnh hoặc tai nạn
phải vào bệnh viện. Chi phí y tế cao là một trong những nguyên nhân khiến người
nghèo cả nhập cư và thường trú bị nghèo hơn hoặc đã thoát nghèo lại tái nghèo.
42
Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị
Phần lớn người nhập cư không có hộ khẩu KT3 phải trả chi phí điện và nước sạch với
giá cao gấp nhiều lần so với giá chính thức: nước thường gấp 7 ‐ 8 lần, điện thường
gấp hơn 4 ‐ 5 lần. Những nơi có hạ tầng cơ sở kém phát triển thuộc Quận 8, sự chênh
lệch giá thường ở mức cao hơn với các nơi khác ở TPHCM. Tuy nhiên, theo một số
cán bộ cấp cơ sở và cấp TP, khó khăn này là chung cho cả cộng đồng dân cư nơi có hạ
tầng cơ sở kém của Quận 8, tất cả dân cư đều cùng chung hoàn cảnh, không riêng gì
người nhập cư.
Hầu như không có người nhập cư nào thuộc diện KT4 được tiếp cận với các nguồn
vốn vay chính thức với lãi suất ưu đãi hiện hành tại địa phương. Một khi các chương
trình trợ vốn chính thức giúp người nghèo hoặc cận nghèo chưa chú trọng vào hai
thành tố chính làm nên tính bền vững của chương trình, vừa là điều kiện để mọi
người nghèo được tham gia dù không có hộ khẩu hay không có nhà là: tổ chức nhóm
tự nguyện. Tiết kiệm đều đặn (theo ngày hay tuần), thì người nhập cư nghèo còn khó
tiếp cận với các nguồn vốn này vì không có 2 yếu tố trên có ý nghĩa như là tín chấp
(nhóm và tiết kiệm theo nhóm) thay thế cho cái họ đang thiếu là thế chấp (có giấy tờ
nhà và sổ hộ khẩu thường trú). Các cán bộ chuyên trách XĐGN và những người đứng
đầu các đoàn thể nói rằng “không dám cho họ vay vì lỡ mai kia mốt nọ họ cuốn gói rời khỏi
nhà trọ thì tụi tôi làm sao thu hồi vốn.” (phần lớn các nhóm thảo luận của chính quyền
và đoàn thể địa phương). Vì thế, chỗ dựa chính của đa số người nhập cư là ở hoặc bạn
bè đồng nghiệp đồng hương, hoặc người cho vay nặng lãi. “Tụi em ai cũng có vay nợ
ngoài, lãi suất cao hơn của nhà nưóc nhiều nhưng biết làm sao? Vả lại chủ nợ cũng không
dám cho vay nhiều, chỉ tối đa 2 ‐ 3 triệu vì sợ mình không trả nổi, bỏ trốn.” (nhóm nhập cư
nữ Phường 4 – Quận 8 ). Khi gặp việc đột xuất, một số ít người làm công ăn lương có
thể vay mượn tạm ở người chủ, khi lãnh lương sẽ trừ vào khoản vay trước này (nhóm
nam nhập cư thị trấn An Lạc – Huyện Bình Chánh). Nói cách khác, trong mạng lưới
xã hội của người nhập cư, dường như không có hoặc có rất ít các cá nhân, tổ chức
chính quy của chính quyền, đoàn thể và các tổ chức xã hội chính thức.
Đối với các hỗ trợ có mục tiêu, nhiều cán bộ địa phương khẳng định rằng người nhập
cư không được hưởng các khoản trợ cấp khó khăn thường xuyên. Lý do nêu ra là vì
họ không có hộ khẩu thường trú, mà theo quy định thì phải là người thường trú mới
được hưởng. Riêng trợ cấp khó khăn đột xuất dành cho người gặp tai biến, bất trắc
lớn thì người nhập cư có thể được hưởng ngang bằng với người thường trú, vì không
phân biệt tình trạng cư trú. Trong trường hợp này, tổ trưởng dân phố sẽ vận động các
hộ góp tiền, tương trợ theo tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Một số người nhập cư
tham gia thảo luận xác nhận rằng có người đã được giúp khi gặp hoạn nạn, nhờ vậy
họ không chỉ đỡ khốn khó về vật chất mà còn thấy cảm kích vì được quan tâm và thấy
gắn bó hơn với cộng đồng.
Các khoản đóng góp của người nhập cư có ít hơn người thường trú, tương ứng với
mức độ thụ hưởng quyền lợi ít hơn? Hầu hết người nghèo tham gia thảo luận và tổ
trưởng tổ dân phố đánh giá cao sự đóng góp tự nguyện của người nhập cư khi được
thông báo hay vận động. Số lượng các khoản người nhập cư đóng góp có khác nhau
giữa các địa phương và tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan như tình trạng gia đình,
tình trạng nhà ở, mức độ nghèo theo cảm nhận của cộng đồng, thông qua người đại
diện là tổ trưởng tổ dân phố. Tuy có sự đa dạng, song nhìn chung, nếu người nhập cư
là người đơn lẻ thuê phòng trọ thì các khoản đóng góp về an ninh quốc phòng, phí
43
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
dân phòng, họ không phải đóng. Phần lớn các chủ nhà trọ đóng thay cho người thuê
nhà, như một cách làm tròn nghĩa vụ đóng góp vào các nguồn thu địa phương, thay
vì phải đóng thuế thu nhập mà hiện nay chính quyền còn bỏ ngõ. Riêng nếu người
nhập cư mướn nguyên căn nhà hay căn phòng và ở theo hộ gia đình, cư ngụ lâu dài
tại địa phương (như ở trên 6 tháng hoặc hơn một năm), họ sẽ phải đóng các khoản phí
dân phòng, lao động công ích, cứu trợ lũ lụt, cải thiện hạ tầng cơ sở như tráng hẻm,
làm cống thoát nước, hệ thống chiếu sáng. Như những hộ nghèo thường trú, các hộ
nhập cư quá nghèo có thể được miễn hoặc giảm, tuỳ thuộc vào tổ trưởng Tổ dân phố
và cách người này phân chia các mức đóng góp của các hộ trong tổ. Riêng với các hộ
nhập cư đã mua được nhà, dù có hộ khẩu KT3 hay không, họ vẫn đươc xem như là cư
dân chính thức và có nghĩa vụ đóng góp như các hộ thường trú. Do tính chất đa dạng
và tuỳ thuộc vào cách xử lý linh hoạt của những người lãnh đạo cộng đồng, khó có
thể nói rằng có sự công bằng, hợp lý chưa giữa thụ hưởng quyền lợi và nghĩa vụ đóng
góp của người nhập cư so với người thường trú.
Quan hệ tương tác giữa các kế hoạch chỉnh trang đô thị và đời sống người dân
Hầu hết người nghèo, trong đó có nhiều hơn những người nhập cư nghèo, thường
sống trong vùng môi trường bị ô nhiễm bởi nhiều tác nhân khác nhau, như: kênh rạch
bị nhiễm bẩn bởi rác thải ứ đọng; nước thải sinh hoạt và công nghiệp thải xuống trực
tiếp không qua xử lý; sự tồn tại của nhiều cơ sở sản xuất nhỏ và vừa xen lẫn với các
khu dân cư. Người ta còn cho rằng sự gia tăng dân số cơ học những năm gần đây do
các dòng người nhập cư vào các khu dân cư nghèo có giá thuê hoặc mua nhà tương
đối thấp hơn ở nơi khác cũng góp phần tăng mức độ ô nhiễm.
Nhiều người dân của xã Tân Tạo than phiền rất nhiều về tình trạng kênh dẫn nước từ
kênh Tham Lương ở Quận Tân Bình về ngày càng nhiễm bẩn, gây hối thối cho cả
vùng dân cư rộng lớn. Có nhiều cách giải thích khác nhau về tác nhân chính gây ô
nhiễm. Người cho là vì các nhà máy dệt nhuộm, thực phẩm của Quận Tân Bình.
Người cho là có nhiều người nhập cư về cư ngụ, làm tăng lượng rác, nước thải. Một
số ít cho tại khu công nghiệp Tân Tạo thải rác và nước thải công nghiệp ra sông ra
sông không qua xử lý, nhưng ý kiến này liền bị nhiều người khác phản bác vì họ tin
rằng “các nhà máy này có hệ thống xử lý rác, nước thải riêng đúng theo tiêu chuẩn quy định
vì là nhà máy mới và của nước ngoài, ắt hẳn nhà nước kiểm tra kỹ trước khi cấp giấy phép
hoạt động.” (nhóm nữ nghèo thường trú xã Tân Tạo).
Đa số các khu dân cư nghèo của Quận 8 sống sát cạnh hoặc gần kênh rạch bị ô nhiễm.
Do đó, hầu hết rơi vào các dự án giải tỏa, di dời. Song điều đáng nói là chúng còn ở dạng
quy hoạch “treo” vì không ai biết bao giờ sẽ được thực hiện và được thực hiện như thế
nào. Ngay cả lãnh đạo chính quyền phường cũng không có thông tin chi tiết và cụ thể,
dù cho trụ sở UBND phường 5 cũng thuộc diện sẽ bị giải toả vì nằm gần bờ sông.
Tình trạng lơ lửng này tác động nhiều đến người dân nghèo, cả người dân thường
trú lẫn người nhập cư nghèo, cả cuộc sống vật chất lẫn tinh thần. “Lúc nào cũng sống
trong tâm trạng hồi hộp, phập phòng”, “nghe phong phanh nhà không số được đền bù không
bao nhiêu, đủ tiền đâu mà mua nhà khác, nên lúc nào cũng hồi hộp như vậy.” (nhóm nữ
nghèo thường trú Phường 4 – Quận 8). Người nhập cư ở nhà không số, không có hộ
khẩu KT3 thì lo “không biết có được hưởng quyền lợi tái định cư không, hay phải tự lo tìm
chỗ khác, làm sao có khả năng tiền bạc.” (nhóm nhập cư nữ Phường 5 – Quận 8). Mặt
44
Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị
khác, hàng loạt các cản ngại khác do thuộc diện sẽ bị giải tỏa làm người nghèo càng
nghèo hơn. Nhà không được cấp số, hộ khẩu thường trú nơi khác không được chuyển
vào, người nhập cư KT4 không được vào hộ khẩu KT3 theo quy định chung dành cho
các khu vực sẽ giải tỏa‐di dời tạo ra các rào cản đối với nhiều hộ nghèo muốn tiếp cận
các dịch vụ y tế, giáo dục, điện nước với giá thấp. Nhiều hộ bị các công ty cấp điện,
nước từ chối lắp đặt đồng hồ. Theo nhiều hộ dân cho biết, chi phí điện nước với giá
cao thường chiếm 20 ‐ 30% tổng chi tiêu hàng tháng của hộ gia đình.
Để giảm ô nhiễm và tình trạng môi trường xuống cấp trong các quận nội thành,
UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 81 ngày 8/7/2002 về việc di dời các cơ
sở sản xuất gây ô nhiễm ra ngoại ô. Nhiều người dân Quận 8 đồng tình với chủ
trương di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu vực nội thành dân cư đông
đúc như Quận 8. Song một số người bị tác động mạnh đến cuộc sống, do mất việc làm
vì không có phương tiện di chuyển để tiếp tục đi làm ở nhà máy chuyển đi xa đến
huyện ngoại thành Bình Chánh. Những người công nhân lao động phổ thông và lớn
tuổi khó tìm việc làm khác ở nhà máy khác. Phải chăng, về mặt quy hoạch, các nhà
quản lý chưa tính đến các tác động xấu và chưa có các giải pháp thay thế dành cho
những người bị mất việc làm?
Khung 5. Rơi vào cảnh nghèo vì tác động của quy hoạch đô thị
“Anh L. trước làm ở cơ sở sản xuất phân cá (một loại phân bón hữu cơ). Đời sống của anh cũng như
nhiều công nhân khác tuy không giàu có gì nhưng được xem như vững vàng, với thu nhập khoảng 50.000
– 60.000 đồng/ngày khá cao so với thời giá vào những năm 90. Nhưng từ năm 1996 đến nay, nhà máy bị
di dời ra ngoại thành vì bị xếp vào danh sách “đen” gây ô nhiễm. Anh không có xe gắn máy, lúc bấy giờ lại
không có xe bus được trợ giá như bây giờ, nên anh đành nghỉ làm. Tuổi ngoài 40 lại không có tay nghề
chuyên môn, anh không tìm được việc làm khác. Từ đó, anh lâm vào cảnh thất nghiệp và rơi xuống tình
trạng nghèo. Dù được hưởng các tiêu chuẩn của chương trình xoá đói giảm nghèo, gia đình anh vẫn
không thể thoát nghèo vì không thể có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Điều anh mong mỏi nhất là có
việc làm, để không phải thất nghiệp, sống nhờ vào lao động tảo tần của vợ con.” (một nam thường trú
nghèo Phường 4 – Quận 8).
Tình trạng ngoài lề của người nhập cư trong quá trình lập kế hoạch, chương
trình phát triển kinh tế - xã hội
Quá trình tiếp xúc với các tổ dân phố và UBND cấp cơ sở phường/ thị trấn trong đợt
nghiên cứu này cho thấy các cấp quản lý hành chính không theo dõi, cập nhật hóa và
lưu trữ hồ sơ về biến động nhân hộ khẩu. Trong danh sách các hộ do tổ trưởng tổ dân
phố quản lý không có tên người và hộ nhập cư. Khi cần số liệu về biến động dân số,
UBND phường cũng phải liên hệ với công an để có số liệu. Cho đến nay, xem ra việc
cập nhật hoá và đánh giá mức độ chính xác của sự gia tăng dân số cơ học chưa được
nhiều cấp quản lý lưu tâm và khi quan tâm là nhằm mục tiêu quản lý trật tự, trị an,
hơn là tính đến trong các kế hoạch kinh tế xã hội. Mặt khác, ngay cả khi tính đến việc
đưa vào kế hoạch và ngân sách hàng năm, vẫn còn sự chênh lệch khá lớn giữa các số
liệu ước tính và các số liệu có trong thực tế. Ví dụ, trong ngành giáo dục, “hàng năm,
dựa vào số liệu dân số tăng tự nhiên và ước tính số dân tăng cơ học khoảng 20%, huyện Bình
Chánh làm kế hoạch tổng thể để xin ngân sách xây dựng trường lớp, nhưng thực tế tăng cỡ
này thì không thể nào tính nổi; chỉ riêng xã Bình Hưng Hoà lúc truớc chỉ có 15.000 nay đã có
100.000 dân nói chung thì có tính, nhưng tính không xiết.” (Chuyên trách xoá đói giảm
nghèo huyện Bình Chánh, trong hội thảo ngày 28/8/03, nhằm xác định các thông tin
chính ghi nhận từ đợt khảo sát).
45
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài ra, như đã nói ở các phần trên, do quan niệm và tiêu chuẩn quy định về xác
định các hộ nghèo được thụ hưởng các chương trình giảm nghèo (điển hình là Xoá
đói giảm nghèo, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, tiết kiệm ‐ tín dụng của Hội Phụ
Nữ, hỗ trợ mục tiêu trợ cấp khó khăn thường xuyên), số người/ hộ nhập cư nghèo
không có hộ khẩu KT3 và chưa có nhà vẫn chưa được tính đến khi lập kế hoạch và dự
trù phân bổ ngân sách. Yếu tố “ổn định cư trú” vốn thường được nhiều cán bộ địa
phương hiểu là có nhà và thường được nêu ra như là tiêu chí chính mỗi khi xét duyệt
đối tượng thụ hưởng các chương trình giảm nghèo. Trong thực tế, điều hiển nhiên
việc mua nhà mua đất trong bối cảnh giá nhà đất đang tăng nhanh ở các khu vực dân
cư là ước mơ ngoài tầm tay của nhiều người, nhiều hộ nhập cư nghèo, nhất là số đến
Thành phố trong vòng 5 năm nay. Ở các địa phương khảo sát, có không ít hộ/ người
nhập cư “ổn định cư trú” tại đây hơn 5 năm, 10 năm, song họ vẫn chưa mua nổi nhà.
Hơn nữa, khi chưa có chương trình nhà ở cho người nghèo với phương thức mua trả
góp dài hạn thì vẫn còn sự thiếu tương ứng và khoảng cách xa giữa “ổn định cư trú”
và “có nhà”.
Nói cách khác, do nhiều lý do khác nhau, trong các kế hoạch giảm nghèo của TPHCM,
nhóm người nghèo mới bao gồm các hộ/ người nhập cư nghèo cho đến nay vẫn còn
nằm ngoài các kế hoạch ngắn và dài hạn của các chương trình giảm nghèo. Do đó,
nhóm nghiên cứu đề nghị là cần có sự điều chỉnh cách thức lập kế hoạch, theo hướng
đi từ dưới lên, có sự tham gia của người dân (trong đó có cả các nhóm dân không phải
là thường trú) và cấp chính quyền cơ sở, dựa vào số liệu cập nhật hoá nhanh, kịp thời
hơn để tính đến và tính đủ số dân cư mới, không phân biệt tình trạng cư trú.
Một số đề xuất về các giải pháp đáp ứng nhu cầu người nhập cư
Trong quá trình thảo luận về di dân và các thách thức, cơ hội có từ các dòng người
nhập cư vào TPHCM, nhiều cán bộ chính quyền, đoàn thể thường nêu lên đề xuất cần
có nhiều hơn sự đầu tư của chính phủ vào các tỉnh kém phát triển, bằng cách mở ra
các khu công nghiệp mới, cùng lúc có nhiều hơn các giải pháp khuyến khích mở rộng
các khu công nghiệp hiện có quanh TPHCM, thay vì chỉ tập trung vào các Thành phố
lớn như TPHCM, Hà Nội, Đà Nẵng. Theo họ, đây mới là sự giải quyết căn cơ, từ gốc
việc nhập cư vào TPHCM. Chỉ có tạo ra các lực hút mới để chia xẻ lực hút vào
TPHCM mới mong hạn chế được sự nhập cư vượt quá tầm kiểm soát như hiện nay.
Điều khác biệt so với các lần đánh giá nghèo trước đây là hầu như không còn nhiều
người tin vào hiệu lực của các biện pháp hành chính, hay gây khó khăn trong đăng ký
nhân hộ khẩu hay cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản. Không ít người thừa nhận rằng
dù có hay không sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, dù dễ hay khó khi tiếp xúc
với công an thì người nhập cư vẫn đến, một khi còn khoảng cách chênh lệch lớn giữa
TPHCM và các tỉnh nghèo, giữa khu vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ và khu
vực nông nghiệp (nhóm lãnh đạo chính quyền và đoàn thể huyện Bình Chánh).
Đầu tư vào công tác khuyến nông và mối quan hệ “ba nhà” (nhà nông, nhà khoa học
và doanh nghiệp) hay “bốn nhà” (ba nhà trên cộng thêm nhà ngân hàng) để phát triển
nông nghiêp bền vững, tăng giá trị nông sản hàng hóa trên một đơn vị diện tích cũng
được một số người tham gia thảo luận nêu ra, như là một trong các đề xuất giải pháp
của hạn chế nhập cư vào TPHCM và các Thành phố lớn nói chung (nhóm doanh
nghiệp thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh và nhóm chính quyền ban ngành đoàn thể
huyện Bình Chánh).
46
Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị
Riêng đối với những người nhập cư có ý định định cư lâu dài ở TPHCM, dường như
vẫn còn nhiều điều cần tiếp tục thảo luận. Trước hết, có lẽ cần giải quyết thoả đáng và
thống nhất từ trong nhận thức rằng người nhập cư có quyền được hưởng và các nhà
quản lý có trách nhiệm, chấp thuận cam kết hay không việc cung ứng các dịch vụ xã
hội cơ bản cho người nhập cư, một cách ngang bằng với người tại chỗ, không tính đến
tình trạng cư trú, mà cụ thể là loại hộ khẩu nào. Nhóm nghiên cứu có đề xuất đây nên
là một trong các vấn đề chủ chốt mà Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG), chính phủ Việt
Nam và lãnh đạo chính quyền, đoàn thể các cấp cần có sự đồng tình hay tiếp tục
khẳng định sự cam kết, trước khi bàn đến các vấn đề khác. Trong quá trình thảo luận,
các trở ngại như thiếu kinh phí, không được phân bổ ngân sách thường được nhiều
lãnh đạo địa phương nêu ra, xem như là lý do chính cho tình trạng không cung ứng
cho người nhập cư các dịch vụ xã hội cơ bản, bên cạnh lý do sự bảo tồn các nguồn vốn
cho vay nhằm mục tiêu giảm nghèo. Có lẽ điều này bắt nguồn từ việc lãnh đạo các
cấp vẫn còn chưa tính đến số người nhập cư trong khi lập kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội dài và ngắn hạn và khi dự toán ngân sách. Nguyên nhân chính một phần
dường như một phần xuất phát từ nhận thức xem người nhập cư không phải là một
bộ phận của cư dân Thành phố do tính chất tạm thời, không ổn định của họ, trong khi
thực tế đại bộ phận vẫn cố gắng trụ lại, xem Thành phố là nơi sinh sống lâu dài, thay
vì tạm thời như nhiều viên chức chính quyền thường nghĩ. Phần khác, có khi do
không nắm được số liệu thống kê chính xác và kịp thời để đưa bộ phận dân cư mới
này vào trong các kế hoạch và dự trù ngân sách. Do đó, nhóm nghiên cứu đề nghị nên
có sự phối hợp đồng bộ hơn giữa công tác thống kê và lập kế hoạch. Để làm được
điều này, trước hết, đề nghị cần đưa tất cả các vấn đề này vào chương trình nghị sự
cuối năm của chính phủ Việt Nam với Nhóm tư vấn các nhà tài trợ.
Quy chế quản lý người nhập cư vào TPHCM
Theo một số lãnh đạo các ban ngành của TPHCM, UBND thành phố đã chỉ đạo Sở lao
động thương binh xã hội soạn bản dự thảo quy chế quản lý người nhập cư để có thể
ban hành quy chế này vào cuối năm 2003 này. Hiện nay bản dự thảo này đang trong
quá trình xem xét, tham khảo ý kiến của các cấp, các ban ngành liên quan trước khi
chính thức ban hành. Nhiều cán bộ chuyên trách XĐGN mong đợi bản quy chế này sẽ
tác động trực tiếp đến tình trạng của người nhập cư. Một số lãnh đạo tin rằng bản quy
chế này sẽ là giải pháp hữu hiệu để tăng cường trật tự trị an, nhờ tăng cường các quy
định, nguyên tắc và kỹ luật quản lý nhân hộ khẩu và lao động. Theo một bài báo, bản
quy chế sẽ mang đến các cơ hội thuận lợi hơn cho người nhập cư vì họ sẽ được chính
thức công nhận quyền được lao động và được bảo vệ các quyền lợi lao động chính
đáng của mình, qua Sở LĐTBXH và các Phòng lao động ‐ xã hội ‐ việc làm cấp quận
huyện. Từ các nhận định ban đầu ghi nhận được qua các buổi thảo luận nhóm và hội
thảo, có thể thấy rằng có sự nhấn mạnh các mục tiêu và tác động khác nhau của bản
quy chế. Vì thế, theo nhóm nghiên cứu, làm sao để có các giải pháp vừa giải quyết hài
hoà, thoả đáng các nhiệm vụ của quản lý trật tự, an ninh công cộng, vừa đảm đương
trách nhiệm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nhập cư là yêu cầu lớn
nhất, quan trọng nhất đặt ra cho bản quy chế này.
47
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
48
PHỤ LỤC 1: Phương pháp Nghiên cứu
Bài tập phân hạng kinh tế hộ gia đình này được bốn (04) phân hạng viên (hai nam, hai
nữ) thực hiện. Các phân hạng viên được mời đến là người dân từ các tổ dân phố, là
những gia đình đã sống tại địa phương lâu năm và tương đối nắm rõ tình hình của tất
cả các hộ gia đình trong tổ dân phố. Để làm bài tập này, tất cả các tổ dân phố trong
hai quận huyện tham gia nghiên cứu đánh giá nghèo đều dùng chung bốn (04) tiêu
chí về phân hạng kinh tế (khá trở lên, trung bình, nghèo và rất nghèo). Tuy nhiên cách
định nghĩa như thế nào là một hộ khá trở lên, trung bình, nghèo hay rất nghèo là do
chính các phân hạng viên quyết định. Trong các buổi làm việc có các phân hạng viên,
thường có mặt tổ trưởng tổ dân phố, có khi họ cũng là một phân hạng viên hoặc là để
hỗ trợ cho các phân hạng viên khác khi họ thiếu các thông tin quan trọng.
Thảo luận nhóm tập trung với người lớn và thanh niên
Các buổi thảo luận nhóm này được tập trung vào những câu hỏi và những chủ đề xác
định trước. Tại mỗi phường/ xã/ thị trấn, nhóm đánh giá tiến hành ít nhất là 7 cuộc
thảo luận nhóm tập trung dạng này trong đó có các nhóm như sau: nhóm nam nghèo
địa phương, nữ nghèo địa phương, nam nghèo nhập cư, nữ nghèo nhập cư (bốn
nhóm này độ tuổi từ 35‐55), thanh niên địa phương, và thanh niên nhập cư (nhóm
thanh niên độ tuổi 18‐25), và chính quyền phường/ xã/ thị trấn. Ở cấp quận/ huyện, có
một cuộc thảo luận nhóm với chính quyền quận/ huyện và đại diện các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (các nhóm này đa số độ tuổi 35‐55, có vài cán bộ Đoàn Thanh Niên và đại
diện doanh nghiệp nhỏ và vừa trong độ tuổi 25‐34 tuổi).
Việc bố trí thảo luận với các nhóm riêng tư như vậy giúp các thành viên trong nhóm
cảm thấy tự nhiên thoải mái khi thảo luận. Do hầu hết các thành viên trong nhóm
người lớn có cùng hoàn cảnh hoặc tuổi tác như nhau họ cũng có thể tham gia vào
cuộc thảo luận một cách bình đẳng hơn. Mỗi một cuộc thảo luận nhóm như vậy được
diễn ra trong khoảng một buổi từ 3‐4 tiếng. Để hỗ trợ cho các cuộc thảo luận nhóm
này, nhóm đánh giá đã sử dụng những công cụ nghiên cứu như: phát biểu ý kiến tự
do, liệt kê, phân hạng, và phân tích các vấn đề khó khăn.
Trong quá trình đánh giá, nhóm đánh giá tại mỗi phường cũng tiếp xúc với các nhóm
trẻ em. Các em trai và các em gái ở các nhóm tuổi từ 12‐16 được mời đến để thảo luận
theo từng nhóm riêng về các chủ đề cảm nhận về nghèo, xu hướng nghèo, nguyên
nhân nghèo, những rủi ro, sự tham gia vào các hoạt động trong cộng đồng, các vấn đề
di dân, đô thị, và môi trường sống. Nhóm nghiên cứu giúp các em đóng góp ý kiến
bằng các phương pháp và công cụ thân thiện với trẻ như liệt kê, xếp hạng, ghi ra ý
kiến của mình trên giấy, thảo luận và ghi bảng.
49
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Các nghiên cứu viên đã tiến hành phỏng vấn sâu với một số cá nhân tại mỗi địa bàn
đánh giá nhằm để có sự hiểu biết sâu hơn về một số gia đình hoặc để hiểu kỹ hơn về
một số vấn đề đặc trưng nảy sinh trong quá trình đánh giá tại địa phương. Số lượng
các trường hợp điển cứu không có giới hạn. Những trường hợp điển cứu này sẽ cung
cấp những ví dụ cụ thể về nguyên nhân hoặc hậu quả của nghèo cũng như những
phương cách xoay sở hoặc ứng phó với hoàn cảnh của người nghèo. Ngoài ra nhóm
đánh giá cũng đến thăm và phỏng vấn sâu với các hộ gia đình có người khuyết tật
hoặc phỏng vấn trường hợp điển cứu với một số trẻ em nghèo lao động sớm. Một số
nghiên cứu viên trong nhóm được phân công tìm hiểu sâu về những chủ đề chuyên
môn ví dụ như vấn đề tiếp cận các dịch vụ xã hội và chương trình của nhà nước, môi
trường và hoàn cảnh của những người địa phương và dân nhập cư, tuỳ theo đặc điểm
của từng địa phương và con người cụ thể họ gặp tại cuộc phỏng vấn hộ gia đình.
Nhóm đánh giá thường xuyên họp trao đổi kinh nghiệm
Đây là một hoạt động quan trọng của quá trình đánh giá tình trạng nghèo. Nhóm
đánh giá phải gặp nhau hằng ngày hoặc hai ngày một lần để cùng nhau chia sẻ những
kinh nghiệm cũng như thông tin trong nhóm với nhau về công việc thực tế những
ngày qua có diễn tiến như kế hoạch hay không, hoặc có trở ngại gì hay không. Trên cơ
sở đó cùng nhau đưa ra những quyết định. Cách làm việc linh hoạt này bảo đảm cho
thành viên trong nhóm có thể kịp thời điều chỉnh khi có những tình huống thực tế
không khớp với phương pháp mà họ đã được tập huấn. Sau khi kết thúc công tác
thực địa xong nhóm đánh giá họp lại với nhau và sau đó tổ chức một cuộc hội thảo
báo cáo lại những kết quả ghi nhận ban đầu đồng thời tham khảo ý kiến phản hồi của
các cán bộ chính quyền địa phương và thành phố đã tham gia nghiên cứu.
50
PHỤ LỤC 2: Số liệu Tóm tắt Tham vấn tại Địa bàn Nghiên cứu
• Thị trấn An Lạc (Khu phố 1 và 3)
• Xã Tân Tạo (Ấp 2 và 3)
Địa bàn nghiên cứu
‐ Quận 8:
• Phường 4 (Khu phố 3 và 8)
• Phường 5 (Khu phố 6 và 8)
Thiếu niên 52 42 94
Tổng cộng
(=Tổng 223 234 457
1+2+3+4)
Thiếu niên 52 42 94
Người lớn 50 44 94
Tổng số người dân
địa phương có tình
trạng cư trú là KT1 Thanh niên 23 21 43
và KT2 tham gia
nghiên cứu
Trẻ em 28 27 55
51
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Người lớn 49 43 92
Tổng số người dân
địa phươngcó tình
trạng cư trú là KT3 Thanh niên 20 26 46
và KT4 tham gia
nghiên cứu
Trẻ em 24 15 39
Tổng 1b 93 84 177
Tổng 2 20 31 51
Tổng số cán bộ ở cấp
quận huyện tham Người lớn 5 13 18
gia thảo luận nhóm
Thanh niên 1 0 1
Tổng 3 6 13 19
Tổng 5 8 4 12
52
PHỤ LỤC 2: Số liệu Tóm tắt Tham vấn tại Địa bàn Nghiên cứu
Tổng 6 11 27 38
• phân hạng kinh tế hộ: 16
53
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
54
PHỤ LỤC 4: Các loại Hình thức Cư trú đối với
Quản lý Hành chính
KT1 Dân thường trú có hộ khẩu chính thức.
a) Người dân đăng ký hộ khẩu thường trú ở nơi khác trong Thành Phố
Hồ Chí Minh nhưng sống tại địa phương.
KT2
b) Người dân đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng đã bán
nhà và chuyển đi chỗ ở khác.
Người dân nhập cư từ tỉnh khác đến trước đây sống tại địa phương
trong hơn 6 tháng và có công việc thường xuyên và ổn định. Loại này
KT3
cũng bao gồm các bộ đội xuất ngũ đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự
nhưng hộ khẩu chưa chuyển về thành phố Hồ Chí Minh.
Những người mới nhập cư, hoặc nhập cư vào thành phố theo mùa vụ
hoặc bà con của người dân có hộ khẩu nhập chính thức. Loại này cũng
KT4 bao gồm người nước ngoài hoặc Việt kiều. Dạng nhập cư này bao gồm
tất cả những người nhập cư không có đăng ký và con số thống kê chính
thức nhóm này là không được xác định không rõ.
55
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Bản báo cáo tổng hợp này được thực hiện bởi Th.S. Trịnh Hồ Hạ Nghi và T.S. Huỳnh Thị
Ngọc Tuyết với phần bổ sung của Th.S. Bill Tod. Mọi thông tin trao đổi góp ý xin liên hệ:
Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh
218 Đội Cấn, Hà Nội
ĐT: +84 4 832 5319
Fax: +84 4 832 5073
Email: scuk@scuk.org.vn
Webpage: www.savethechildren.net/vietnam
Văn phòng Dự án Thành phố Hồ Chí Minh
26 Đặng Tất, Phường Tân Định, Quận 1
Thành phố Hồ Chí Minh
ĐT: +84 8 846 9495
Fax: +84 8 846 9466
Email: scuk@scukhcm.org.vn
56
Phụ lục 5: Quan hệ đối tác trong Đánh giá nghèo theo vùng
Vùng Những tỉnh trong vùng Các nhà tài trợ chịu Đánh giá nghèo có sự tham gia của người dân Nhóm nghiên cứu chịu trách
trách nhiệm về đánh nhiệm đánh giá nghèo có sự
giá nghèo cấp vùng Tỉnh Huyện Xã tham gia
57
Phụ lục 5: Quan hệ đối tác trong Đánh giá nghèo theo vùng (tiếp theo)
Vùng Những tỉnh trong Các nhà tài trợ chịu trách Đánh giá nghèo có sự tham gia Nhóm nghiên cứu chịu
vùng nhiệm về đánh giá nghèo trách nhiệm đánh giá
cấp vùng Tỉnh Huyện Xã nghèo có sự tham gia của
người dân
Tây Nguyên Kon Tum, Gia Lai, Đak Lak Đak Lak EaHleo Eaheo Action Aid
ADB Ea Ral (tài trợ của ADB)
Dacrlap Đao Nghĩa
Quang Tân
Thành phố Buôn Ma Thị trấn Ea Tam
Thuột
Đông Nam bộ TP Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Huyện Bình Chánh Thị trấn An Lạc Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh
Ninh Thuận, Bình Phước, TP Hồ Chí Minh Tân Tạo (tự tài trợ)
Tây Ninh, Bình Dương, Đồng
Nai, Bình Thuận, Bà Rịa - Ngân hàng Thế giới Quận 8 Phường 4
Vũng Tàu Phường 5
Ninh Phước Phước Hải Trung tâm phát triển nông
Ninh Thuận Phước Dinh thôn
(tài trợ của
Ninh Sơn Lương Sơn Ngân hàng Thế giới)
Mỹ Sơn
Long An, Đồng Tháp, An Tam Nông Phú Hiệp Trung tâm chăm sóc sức
Đồng bằng Sông Giang, Tiền Giang, Vĩnh Đồng Tháp Phú Thọ khoẻ ban đầu Long An
Cửu Long Long, Bến Tre, Kiên Giang, UNDP và AusAid (tài trợ của UNDP và
Tháp Mười Thanh Lợi
Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc AusAid)
Trang, Bạc Liêu, Cà Mau Thanh Phú Mỹ Hưng
Bến Tre Thới Thanh
Mỏ Cày Thành Thới
58