You are on page 1of 128

Mục Lục sách "Cuộc đời và số mệnh"

Tác giả: NGUYỄN PHÚC VĨNH TÙNG

Đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào ?


Mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung
Mẫu người Thân Cư Phúc Đức
Mẫu người Thân Cư Quan Lộc
Mẫu người Thân Cư Thiên Di
Mẫu người Thân Cư Tài Lộc
Mẫu người Thân Cư Phu Thê
Mẫu người Mệnh Vô Chính Diệu
Mẫu người Tham Vũ Đồng Hành
Mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo
Mẫu người Hà Tì Ngọc
Mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm
Mẫu người Thai Phục Vượng Tướng
Mẫu người Khốc Hư
Mẫu người Văn Tinh Ám Củng
Mẫu người Dịch Mã
Mẫu người Đài Các
Mẫu người Đào Hoa
Mẫu người Tài Mệnh Tương Đố
Mẫu người Bạch Thủ Thành Gia
Mẫu người Lưng Trời Gãy Cánh
Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể
Mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt
Mẫu người Cự Cơ Mão Dậu
Mẫu người Đa Tài Đa Năng
Như vậy, cải số được không ?

1
BÀI 1

ĐỜI NGƯỜI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC THÂN CƯ BẾN


NÀO ?
Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh
thì hầu hết người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó là
những khoa học huyền bí rất có giá trị của người Trung Hoa
từ hơn bốn ngàn năm về trước. Nói là có giá trị vì những khoa
học này tuy gọi là huyền bí nhưng lại rất sát thực với cuộc
sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong những
sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho
chúng ta khi đang sống trên đời biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa
đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà chúng ta đang ở, cơ sở thương
mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta buông tay từ
giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn
thu. Quan niệm này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây
không phải cho chính bản thân chúng ta nữa mà cho con
cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi còn tại
vị, ngài đã đích thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi
vậy, những triều vua về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như
vua Gia Long, lại thêm lịch sử đã có nhiều biến chuyển,
nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn 150 năm. Khoa
Tướng Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn đề
dùng người, kết bạn hoặc trong những việc giao dịch hằng
ngày rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt tay nhau, đối diện nhau
trong vài giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu chuyện mà
có thể tránh được cái ân hận “lầm người” như chúng ta
thường thấy. Còn thâm sâu hơn, như khoa Tử Vi Đẩu Số cũng
giúp cho chúng ta biết mình, biết người một cách tường tận

2
từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả một đời
người...

Những khoa học huyền bí nêu trên tuy có đối tượng khác
nhau, nhưng mục đích giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa
Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là nhà, là cơ sở làm
ăn, lúc chết là mộ phần, còn đối tượng của khoa Tử Vi Đẩu Số
là con người, và cuộc đời của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến
lúc chết. Còn điểm tương đồng là những lãnh vực mà các
khoa này diễn đạt và chi phối trong cuộc sống hằng ngày của
một đời người. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy chia căn nhà của
chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là biểu tượng một lãnh vực
trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó là các cung Quan
Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa Vị,
cung Tình Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung
là mỗi hướng của căn nhà. Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người
qua 12 cung, cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Phúc Đức,
cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên Di,
cung Tật Ách, cung Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và
cung Huynh Đệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi, Phong Thủy và
Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa nặng về thiên mệnh hơn cả.
Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ thấy rằng,
một người sinh ra đời vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì
cuộc đời của người này đã được an bài từ giây phút đó.

Bởi vậy, chúng ta có thể nói, đời người mười hai bến nước,
Thân cư bến nào thì cuộc đời của mình sẽ có sắc thái của bến
mà thuyền đời mình đã buông neo.

3
Khi nói khoa Tử Vi chia cuộc sống của một người thành 12
lãnh vực là chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh vực này
thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy?
Khoa Tử Vi diễn đạt điều này bằng cung thứ mười ba, đó là
cung Thân. Cung Thân không có một vị trí nhất định trong
Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị trí của
cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung
Thân chỉ đóng vào 1 trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh,
cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc, cung Thiên Di
và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh
quan hợp lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc
sinh ra đã bị chi phối bởi số mệnh của mình (Thân cư Mệnh
hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung), khi ra đời thì bị chi
phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh sự nghiệp
(Thân cư Quan Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân
cư Phu Thê) và bởi phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa
hưởng của ông bà cha mẹ (Thân cư Phúc Đức), chứ không bị
chi phối bởi con cái (Tử Tức), anh chị em (Huynh Đệ) hoặc
bạn bè hay người ăn người làm của mình (Nô Bộc)...

Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng, trong 13 cung của một lá


số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan trọng nhất.
Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người đó và
nhấn mạnh giai đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận,
tức là từ lúc sinh ra cho đến đoạn đời trong khoảng 30 đến 36
tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn lại hay còn
gọi là hậu vận.

Bởi sự quan trọng của cung Thân như vậy, cho nên một

4
nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung nào thì
cung đó sẽ là lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của
người đó”. Như chúng ta đã nói ở trên, Thân chỉ ở vào 1 trong
6 cung chính và Thân an theo giờ sinh, cho nên những người
sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ thì Thân đóng ở cung Mệnh, gọi
là Thân cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, những người
sinh vào giờ Sửu hay giờ Mùi thì Thân cư Phúc Đức, những
người sinh vào giờ Dần hay giờ Thân thì Thân cư Quan Lộc,
những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì Thân cư Thiên
Di, những người sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài
Lộc và những người sinh vào giờ Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư
Phu Thê.

Từ ý nghĩa căn bản đó của khoa Tử Vi, khi biết một người sinh
vào giờ nào, chúng ta có thể phác họa được một nét tổng
quát về cuộc đời của người này sẽ như thế nào, và đó chính là
một trong những sự kỳ diệu của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong
những khoa học huyền bí của người Trung Hoa đã có từ hơn
bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng ta sẽ nói về những nét
đặc điểm và ý nghĩa về cuộc đời của những người có số Thân
cư Mệnh, hay còn gọi là mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung,
tức là những người sinh vào giờ Tí, giờ theo đồng hồ là từ 11
giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh vào giờ Ngọ,
từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều.

BÀI 2

MẪU NGƯỜI “MỆNH THÂN ĐỒNG CUNG”

5
Nếu khoa Phong Thủy chia căn nhà ra làm 8 cung và mỗi
cung là lãnh vực trong đời sống con người, và cũng là biểu
tượng của mỗi thành viên trong gia đình, thì khoa Tử Vi Đẩu
Số cũng cùng một quan niệm như vậy. Khoa Tử Vi còn chi tiết
hơn chia lá số ra thành 12 cung và mỗi cung cũng là một nét
sinh hoạt, là một khoản thời gian nào đó của một đời người.
Như chúng ta đã nói ở chương trước, 12 cung của khoa Tử Vi
theo thứ tự gồm có Mệnh, Phụ Mẫu, Phúc Đức, Điền Trạch,
Quan Lộc, Nô Bộc, Thiên Di, Tật Ách, Tài Lộc, Tử Tức, Phu
Thê, và Huynh Đệ. Nhưng thực tế một lá số không chỉ có 12
cung mà còn có một cung thu 13 gọi là cung Thân. Đặc biệt
cung Thân không đóng riêng rẽ ở một vị trí nào trên lá số mà
nó luôn luôn đóng chung với 1 trong sáu cường cung là Mệnh,
Tài, Quan, Phúc, Di hoặc Phu Thê.

Trong 13 cung, cung Mệnh và cung Thân là quan trọng nhất.


Đầu tiên là cung Mệnh. Khi nói về chữ “mệnh” chúng ta thấy
nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Cái ý nghĩa thứ nhất của
chữ mệnh đó chính là bản thân của đương số. Xung quanh
cuộc đời của cá nhân đương số còn có cha mẹ (Phụ Mẫu), anh
em (Huynh Đệ) vợ chồng (Phu Thê) con cái (Tử Tức) rồi tới
bạn bè đồng nghiệp, thuộc hạ (Nô Bộc) và cả cái xã hội mà
đương số phải đương đầu va chạm hằng ngày (Thiên Di)

Ý nghĩa thứ hai của chữ “mệnh” là Thiên Mệnh, là số trời, là


cái quan niệm mỗi người sinh ra vào giờ nào, ngày nào, tháng
nào, năm nào thì cuộc đời đã được an bài sắp đặt sẳn rồi. Bởi
vậy Mệnh được xem như nền móng của một căn nhà. Nếu
nền móng không vững chắc, kiên cố thì những gì xây dựng

6
trên đó cũng không thể nào tồn tại lâu dài được. Đó là trường
hợp của những người có các cung chính như Quan Lộc, Tài
Bạch, Diền Trạch v.v….. tốt đẹp, sáng sủa, nhưng Mệnh yếu
thì tiền tài, danh vọng, của cải cũng chỉ như cái bóng to lớn
trên tường mà thôi.

Tuy nhiên, dù là môn khoa học huyền bí nhưng ngoài quan


niệm chủ yếu “Thiên Mệnh” khoa Tử Vi không quên một yếu
tố thứ hai sẽ dự phần vào đời người, đó là quan niện “nhân
định” Vì thế Tử Vi Đẩu Số mới có một cung di động gọi là
cung Thân, là cung quan trọng thứ nhì trong một lá số.

Khoa Tử Vi cho rằng cung Mệnh là căn bản của một đời người.
Nhưng cung Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào giai đoạn
của một đời người hay gọi là ”tiền vận”. Tiền vận là khoản
thời gian từ lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi. Nhưng có
người tính tiền vận theo Cục. Ví dụ:

Thủy Nhị Cục thì tiền vận từ 1 đến 32 tuổi


Mộc Tam Cục thì tiền vận từ 1 đến 33 tuổi
Kim Tứ Cục …..…..…..…..…....1 đến 34 tuổi
Thổ Ngủ Cục…..…..…..…..….. 1 đến 35 tuổi
Hỏa Lục Cục ..…..…..…..…..…..1 đến 36 tuổi

Chúng ta thấy quan niệm này của Tử Vi rất hợp lý vì con


người từ lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi hầu như sống dưới
mái ấm của gia đình, bên cạnh tình thương yêu của cha mẹ,
và sự dùm bọc của anh em. Mãi cho đến khi 30 tuổi trở lên là
lứa tuổi trung bình cho hầu hết mọi người để tự lập thân,

7
bước chân vào bương trải với đời. Đó là lúc ứng vào cung
Thân của lá số.

Sau tiền vận thì cung Thân ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoản
thời gian còn lại của cuộc đời, nó bao gồm cả trung vận và
hậu vận của mỗi người. Bởi vậy khi nói đến sự quan trọng của
cung Mệnh và Thân, chúng ta thấy có hai quan điểm khác
nhau. Quan điểm thứ nhất chú trọng cung Thân hơn cung
Mệnh và luận cứ của quan điểm này là trong khỏan tiền vận
chúng ta thường sống dưới mái ấm gia đình, trong vòng tay
che chở của cha mẹ cho nên nếu cung Mệnh có tốt thì cũng
chưa làm nên cơm cháo gì được. Ngược lại nếu cung Thân tốt
thì sẽ hữu hiệu hơn cho cái tuổi “tam thập nhị lập” tức là tuổi
bắt đầu lăn lộn vào đời lập nghiệp cho nên rất cần có một
cung Thân tốt đẹp.

Quan điểm thứ hai thì cho rằng, cuộc đời như một cái cây mà
Mệnh là gốc rễ, Thân là những nhánh cây, cành lá. Nếu gốc rễ
không vững chắc thì cành lá cũng khó mà xanh tươi, đơm hoa
kết qủa được. Người viết đồng tình với quan điểm này. Mệnh
ảnh hưởng mạnh mẽ ở tiền vận nhưng vẫn luôn là căn cơ, cốt
lỏi là nền tảng của một đời người. Và khi nói về cung Thân,
chúng ta phải nhớ một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là
khi cung Thân đóng chung với cung nào thì những ý nghĩa tốt
xấu của cung ấy sẽ là những nét chính yếu trong cuộc đời
của ngưòi ấy. Như vậy thì người có Thân cư Mệnh là mẫu
người như thế nào?

Sắc nét đặc biệt đầu tiên của người này là lòng tin vào thiên

8
mệnh rất mạnh. Vì như chúng ta đã nói ở trên, cái ý nghĩa
đầu tiên của chữ Mệnh là ý trời = mọi việc đều do Trời định,
là định mệnh. Mẫu người này ít tin vào quan niệm “Nhân định
thắng thiên” cho nên khi gặp những hoàn cảnh khó khăn,
trắc trở họ thường nhắm mắt buông tay mặt cho số phận
xoay vần vì thuyền đời của họ đã lỡ neo vào bến Mệnh rồi, chỉ
còn biết trong nhờ đục chịu mà thôi.

Một đặc điểm thứ hai đáng kể của người Thân Mệnh đồng
cung là không có những khúc quanh cũng như những biến đổi
lớn lao nào trong suốt cuộc đời của họ. Như đã bàn ở trên,
Mệnh ảnh hưởng mạnh vào tiền vận. Thân ảnh hưởng mạnh
vào trung vận và hậu vận. Bởi vậy khi Thân và Mệnh đồng
cung thì Mệnh và Thân đều ảnh hưởng chung vào cả cuộc đời
từ lúc sinh ra cho đến lúc lìa đời. Có nghĩa là nếu đương số
giàu có thì suốt đời giàu có, nếu nghèo thì sẽ nghèo suốt đời
chứ không giống như những người khác chẳng hạn nếu cung
Mệnh xấu thì tiền vận có thể cực khổ nhưng cuộc đời về sau
có thể thay đổi khá hơn nếu cung Thân tốt đẹp hơn cung
Mệnh. Hay ngược lại nếu cung Mệnh tốt đẹp thì cuộc đời của
đương số có thể sung sướng từ lúc lọt lòng mẹ cho đến tuổi
lập thân. Rồi sau đó có thể đổi đời, trở nên vất vả, cực khổ
nếu cung Thân xấu hơn cung Mệnh.

Và điểm đặc biệt cuối cùng là có người cho rằng nếu Mệnh
Thân đồng cung tại tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và hai cung
Tí Ngọ thì đó là những vị trí không tốt cho người Mệnh Thân
đồng cung.

9
Tóm lại, cuộc đời của những người Thân Mệnh đồng cung là
một con đường tương đối bằng phẳng. Dù đường đời của họ
có đầy hoa lá hay chỉ toàn sỏi đá, chông gai thì cũng không
có những khúc quanh đột ngột, hay những biến động lớn làm
thay đổi cả cuộc đời.

BÀI 3

MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHÚC ĐỨC”

Những người sinh vào giờ Sửu (1am đến 3am) và những người
sinh vào giờ Mùi (1pm đến 3pm) đều có số Thân cư Phúc Đức.
Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này
chúng ta hãy bàn qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc
Đức. Trong những chương trước chúng ta có nhắc đến một
nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung
nào thì cung đó trở thành lãnh vực chính yếu trong cuộc sống
của đương số. Bởi vậy, ý nghĩa đơn giản đầu tiên của cung
Phúc Đức là nói về phước đức của đương số có được là do
chính bản thân tạo dựng nên hay là do thụ hưởng từ ông bà,
cha mẹ, hay của giòng họ nói chung. Cho nên, từ quan niệm
đó, khoa Tử Vi xem cung Phúc Đức như nền tảng của một lá
số. Nó có thể cứu giải hay làm chiết giảm đi độ số tốt xấu của
cung Mệnh hay của một đại hạn, tiểu hạn v.v…..Nói một cách
khác, cung Phúc Đức cũng như gốc rễ của một cái cây, nếu
gốc rễ tốt thì cho dù một vài nhánh cây hư hỏng thì cây cũng
có thể ra hoa, kết trái. Nếu gốc rễ đã bị úng thối thì cành cây
bên trên dù có xanh tươi thì cũng chẳng được là bao lâu.
Cũng có thể đơm hoa kết qủa những cũng không thể tồn tại

10
lâu dài được.

Từ đó chúng ta có một quan điểm đặc biệt đầu tiên của người
Thân cư Phúc Đức. Cuộc đời của họ sướng hay khổ, thành hay
bại không hoàn toàn do chính khả năng của họ mà phần nào
do những trợ lực khác như được người nâng đở, hay thường
gặp những vận hội may mắn nào đó. Điều này dễ nhìn thấy ở
các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại được mọi
điều tốt đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp
được những may mắn kỳ lạ, giúp họ thành công dễ dàng,
hoặc họ có thể vượt qua những hoàn cảnh khó khăn, tai nạn
mà không ai có thể ngờ được. Ngược lại, chúng ta cũng thấy
có những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại
xấu xa mờ ám, cho dù các cung chính yếu Mệnh, Tài,
Quan…..đều tốt đẹp nhưng chắc chắn cuộc đời của họ vẫn
gặp nhiều cảnh thăng trầm.

Như vậy, phải chăng đối với người Á Đông chúng ta thì Phúc
Đức là một yếu tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào trong
cuộc sống của một đời người?

Một quan niệm khác của khoa Tử Vi đối với cung Phúc Đức là
cung này biểu tượng cho cả một giòng họ. Qua cung Phúc
Đức mà chúng ta có thể nhìn thấy một cách đại cương về
giòng họ của đương sự. Như vậy, những người có Thân cư
Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính là sự liên hệ chặc chẽ
của cá nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự tốt
hay xấu và ý nghĩa của cung Phúc Đức. Có người tuy khả
năng, tài đức không có gì đáng nói cả nhưng vẫn có địa vị

11
chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở của bà con.
Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự
nghiệp, giàu sang phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ,
họ phải vươn dài cánh tay đễ cưu mang cho cả giòng họ. Đó
là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói: “Một người làm
quan, cả họ được nhờ.”

Và một điểm đặc biệt sau cùng của mẫu người này là những
gì tốt xấu của cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ sau
khoản tiền vận, nghĩa là thời điểm đương số thực sự lăn lộn
vào đời. Cung đối diện Phúc Đức là Tài Lộc, và đó cũng là
cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề những sự tốt, xấu của
cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có những
thay đổi khá rõ rệt trong khoản thời gian lập thân. Cuộc sống
của họ có thể sung sướng hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp,
hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc xấu, nhất là trên vấn đề tiền
bạc.

Tóm lại, mẫu người Thân cư Phúc Đức là những người có tinh
thần gia đình, gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc sống đại gia
đình và giữ được những liên hệ mật thiết với tất cả bà con
trong giòng họ dù gần hay xa. uc1 uc1 uc1Đây là mẫu người
rất nặng tình quê hương. Họ thường lớn lên và sống suốt đời
tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình chứ không muốn ly hương
hay sống rời xa giòng họ của mình.

Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên một lá số cũng tương tự như


lãnh vực âm trạch của khoa Phong Thủy, tức là chuyên về mộ
phần. Qua cung Phúc Đức, chúng ta có thể nhìn thấy những

12
nét tổng thể về mộ phần của một giòng họ, như mộ phần của
một người nào phát, mộ phần của ngườ nào hư, hoặc có thể
biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ đã kết
phát và đang đặc biệt phò trợ cho đương số.

BÀI 4

MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ QUAN LỘC”

Những người sinh vào giờ Dần (3am tới 5am) hoặc vào giờ
Thân (3pm tới 5pm) là những người có số Thân cư Quan Lộc.
Như chúng ta đã biết, cung Quan Lộc trong lá số của mỗi
người biểu hiện con đường công danh và sự nghiệp của người
đó. Hai chữ “Công Danh” và “Sự Nghiệp” nghe có vẽ rộng lớn
và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ ràng hơn thì
cung Quan Lộc diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể
chỉ rõ một ngành nghề nào đó như y khoa, điện tử, giáo sư,
cảnh sát, quân nhân, ngân hàng, ngoại giao, văn học, nghệ
thuật, kinh doanh thương mại v.v….. Cung Quan Lộc cũng nói
lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.

Như chúng ta đã nói trước đây, Thân cư cung nào thì cung đó
sẽ trở thành lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của
người ấy. Do đó, người Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn
trong trường học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành
học mà họ chọn lựa vì đó là cửa ngõ đưa họ vào đời, là nghề
nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận trọng trong
việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn
năng khiếu và ưa thích.

13
Người Thân Cư Quan Lộc không thích làm những nghề có tính
cách tạm bợ. Cho nên khi họ đã bước vào một ngành nghề
nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một
đời. Mẫu người này cho dù làm công hay làm chủ cũng không
thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít khi bị mất việc. Có thể
nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải vất
vả đi tìm việc như những người khác.

Thân cư Tài Lộc là mẫu người thừa hành đắc lực nhất. Họ là
những nhân viên, những thuộc cấp và là những người cộng
tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ.
Điều này dễ hiểu vì họ là những người yêu nghề, thích học
hỏi.

Người Thân cư Quan Lộc coi sự làm việc như một lạc thú ở đời
chứ không phải là một nghề để sinh sống. Họ rất hăng say với
công việc.

Những đặc điểm nêu trên là mẫu người Thân cư Quan Lộc mà
có cung Quan Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan Lộc xấu
xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận
trên đường công danh, và đây cũng là người sống chết với
nghề của mình một cách vất vả, lao đao, hoặc là trường hợp
đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là “sinh
nghề, tử nghiệp” chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh
liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh,
bại tinh hội hợp. Như vậy, quan niệm cho rằng người có Thân
cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều sai lầm. Làm quan hay

14
làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng
phải tùy thuộc vào cung Quan Lộc tốt hay xấu.

Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi Đẩu Số, sự sắp xếp của 12


cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm đối
diện với cung Phu Thê cho nên cung Quan Lộc có thể xem
như cái bóng phản chiếu của cung Phu Thê vậy. Do đó khoa
Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời vợ, 2 đời
chồng thì cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người
chồng thứ hai của đương số.

Điều này rất có ý nghĩa đối với những người Thân cư Quan
Lộc, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của họ sẽ bị
ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai.
Điều này chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư
Phu Thê.

Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số Thân cư Quan Lộc thì


ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc trong
trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài
trường hợp điển hình mà chúng ta nói đến như: Một người
đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần
hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không
khác gì Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.

Trong trường hợp như vừa nêu trên, một quan điểm khác của
nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về “Tai Nạn Trinh
Tiết” ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng “…..bất cứ là
lá số của một người phụ nữ nào khi cung Quan Lộc hay cung

15
Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận về yếu tố sao, chắc chắn sẽ
không còn là con gái khi về nhà chồng”

Như vậy theo quan điểm này thì bất cứ cung Thân an tại đâu
và bất kể cung Thân hay Quan Lộc cho dù có các sao đoan
chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ “trinh tiết” của
đương số cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu
trong cuộc đời.

Cũng trong trường hợp nữ Mệnh có số Thân cư Quan Lộc mà


cung Quan Lộc bị
Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều hung tinh hay sát tinh
thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với một
người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể
tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau.

Một điểm đặc biệt nữa là đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà


cung Quan Lộc bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì đó
cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay
tai nạn làm mất danh tiết của mình.

Riêng đối với các ông, nếu là những người có quan niệm sống
bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng người
vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo
việc nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà
Thân cư Quan Lộc hoàn toàn không thích hợp với quý ông có
quan niệm “chồng chúa, vợ tôi” Lý do dễ hiểu là những người
đàn bà có Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất
mạnh. Họ muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn

16
ông để suốt đời không bị lệ thuộc vào người chồng.

Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi
cung Quan Lộc bị
Tuần/Triệt thì trong đời của đương số phải thay đổ nghề
nghiệp ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành
nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan Lộc và toàn bộ lá số.
Đặc biệt đối với những người Thân cư Quan Lộc thì nghề
nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề hay cùng trong
một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương
số.

Tóm lại, cung Quan Lộc biểu hiện cho công danh, sự nghiệp,
tiền tài và danh vọng của một người, cho nên những người có
số Thân cư Quan Lộc thì những yếu tố trên là mục đích mà họ
sẽ mang hết tâm huyết của họ để đạt được.

BÀI 5:

MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ THIÊN DI”

Nằm ở vị trí đối diện với cung Mệnh trên lá số, cho nên cung
Thiên Di có một tầm quan trọng không kém gì cung Mệnh. Có
thể nói cung Thiên Di là cái bóng của cung Mệnh trong nhiều
ý nghĩa. Cung Thiên Di xung chiếu với cung Mệnh, cho nên
những gì xấu tốt của cung này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ vào
cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài Lộc, tức hai cung
có vị trí hợp chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn
điều này đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu, tức là

17
cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ, cho nên phải mượn
chính tinh của cung Thiên Di mà nói lên ý nghĩa của cung
Mệnh.

Đầu tiên, hai chữ Thiên Di không phải chỉ nói lên ý nghĩa của
sự dời đổi hay di chuyển, mà cung Thiên Di còn nói lên cái
lãnh vực hay địa bàn sinh hoạt của mỗi người ngoài đời, ngoài
xã hội. Nói một cách khác, nếu cung Mệnh biểu hiệu con
người của mình khi sinh ra đời, thì cung Thiên Di biểu hiệu
con người của mình, vị trí của mình ngoài xã hội nói chung,
và trong môi trường sinh hoạt hằng ngày của mình nói riêng.

Cung Thiên Di còn nói lên nhiều nét đặc biệt khác như nghề
nghiệp, sự giao thiệp, khuynh hướng tôn giáo, sống hay làm
ăn xa ở nơi quê người, chết tha phương hay chết trên quê
hương của mình, ra đời được người thương mến hay không,
chẳng hạn những người có số Hoa Cái cư Thiên Di là những
người ra ngoài thường được nhiều người thương mến, hay
ngoài đời thường có được người giúp đỡ hay không, như
những người số có cung Thiên Di giáp Tả Hữu, giáp Nhật
Nguyệt hay giáp Quang Quý là số mà người ta thường nói là
được quý nhân phò trợ, hay những người thân phải tự lập
thân, suốt đời chỉ là kẻ độc hành, cũng vì hai sao Cô Quả
đóng ở Thiên Di, hoặc số ra đời là được tiền hô hậu ủng, cũng
là vì cung Thiên Di được cách tiền Cái, hậu Mã vậy. Và một
lần nữa, chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên một lá số
của khoa Tử Vi rất có ý nghĩa: cung Thiên Di tam hợp với hai
cung Phúc Đức và Phu Thê, cho nên, sự may mắn hay bất
hạnh, sự thành công hay thất bại của mỗi người ở ngoài đời

18
đều một phần nào do phước đức của dòng họ cũng như của
chính mình tạo nên, và sự hỗ trợ của người bạn đời, là người
chồng hay người vợ, đến từ đằng sau hay bên cạnh mình là
những yếu tố không thể chối bỏ.

Những đặc tính căn bản của cung Thiên Di vừa nói trên sẽ
giúp chúng ta dễ dàng nhìn thấy nét đặc biệt của mẫu người
Thân Cư Thiên Di. Thân cư tại Thiên Di nên cá tính đầu tiên
mà chúng ta nhìn thấy ở mẫu người này là tính thích hoạt
động, thích cuộc sống phải có sự thay đổi cũng như thích di
chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không phải là mẫu
người trong gia đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu
người như ông bà chúng ta thường ví là ăn cơm nhà vác ngà
voi hay việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.

Từ đó, nếu quý bà mà đức lang quân có số Thân Cư Thiên Di


thì đừng mong cuối tuần các ông sẽ ở nhà dọn dẹp nhà cửa
hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng đừng có buồn với những bữa
ăn cơm lạnh, canh nguội bởi các ông về trễ vì phải họp hội
đoàn, thăm bạn bệnh, đến chùa hay nhà thờ giúp thầy, giúp
cha v.v...

Và ngược lại, nếu phu nhân của quý ông mà có số Thân Cư


Thiên Di, thì trước khi cưới hỏi, quý ông cũng nên lo học trước
cách luộc trứng, nấu cơm sao cho chín, cũng như học cách
pha sữa, thay tả, ru con sao cho con ngủ v.v..., bởi vì người
đàn bà có số Thân Cư Thiên Di cũng là mẫu người ngoài xã
hội, họ thích cuộc sống bên ngoài hơn là cuộc sống trong gia
đình, những sinh hoạt bên ngoài mang đến cho họ nhiều

19
niềm vui và sự thích thú hơn là những việc của một người đàn
bà phải làm cho chính bản thân họ, hoặc cho chồng con bên
trong gia đình.

Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không chịu được cảnh sống
lẻ loi đơn chiếc vì họ là con người của đám đông, của bạn bè,
của hội hè đình đám... Người Thân Cư Thiên Di thích giao
thiệp rộng nên thường là những người có năng khiếu trong
lãnh vực ngoại giao và tổ chức.

Trong lãnh vực nghề nghiệp, người Thân Cư Thiên Di thích


làm những nghề có tính cách di động, thường được đi đây, đi
đó, tiếp xúc với nhiều người... Chẳng hạn như hoa tiêu hàng
không hay hàng hải, tiếp viên hàng không, chuyển vận đường
bộ, hướng dẫn viên du lịch, phóng viên báo chí hay truyền
thanh, truyền hình, đại diện thương mãi, ngoại giao v.v... đều
là những ngành nghề thích hợp với cá tính của mẫu người
Thân Cư Thiên Di.

Hầu hết những người có số Thân Cư Thiên Di thường ra đời


sớm, vào nghề và tự lập sớm hơn những người cùng lứa tuổi,
điều này có thể vì hoàn cảnh và cũng có thể vì cá tính như
vậy. Người Thân Cư Thiên Di có nhiều cơ hội để đi đây, đi đó,
sống xa nhà, xa quê hương, nhất là trường hợp cung Thiên Di
đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi là những vị trí của Thiên Mã, một
sao chỉ về sự di chuyển và thay đổi, như vậy chắc chắn họ là
những người thường có cuộc sống nơi đất khách quê người,
làm ăn, sinh sống và chết cũng tại quê người.

20
Và một nét đặc biệt nữa của mẫu người Thân Cư Thiên Di là
cung Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh, cho nên
khi Thân cư vào cung Thiên Di thì Thân và Mệnh đối diện
nhau, do đó, người Thân Cư Thiên Di như có “hai con người”
trong họ, một con người với những bản chất đã có từ lúc sinh
ra, và một con người khác là con người ngoài xã hội, đậm nét
nhất là trong môi trường mà họ sinh hoạt hằng ngày.

Tóm lại, mẫu người Thân Cư Thiên Di là mẫu người có một


cuộc sống sôi động và thích hợp với ngoài xã hội hơn là trong
gia đình. Họ sinh ra để làm việc, để hoạt động và có máu
giang hồ, cho nên thường thích ra đời sớm, thích sống xa nhà,
xa quê hương cho thỏa chí tang bồng.

Kỳ sau, chúng ta sẽ nói đến mẫu người Thân Cư Tài Lộc, là


những người sinh vào giờ Thìn, tức là từ 7 giờ sáng đến 9 giờ
sáng, hoặc những người sinh vào giờ Tuất, tức là từ 7 giờ tối
đến 9 giờ tối.

BÀI 6

MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ TÀI LỘC”

Trong một lá số, cung Quan Lộc và Tài Lộc là hai cung có vị
trí hợp chiếu với Mệnh và được xem là hai cung quan trọng.
Chữ Tài Lộc cũng nói lên hết ý nghĩa của cung này. Nếu như
cung Quan Lộc diễn đạt con đường công danh, sự nghiệp và
cả một phần nào chuyện vợ chồng, thê thiếp thì cung Tài Lộc
không chỉ đơn thuần nói về vấn đề tiền bạc mà cũng phần

21
nào phản ảnh lãnh vực nghề nghiệp của mình.

Điều mà chúng ta sẽ thấy trong một vài lá số mà nghề


nghiệp của đương sự được mô tả trong cung Tài Lộc còn rõ
ràng hơn cung Quan Lộc nữa. Trường hợp này thường thấy
trong các lá số của người Thân Cư Tài Lộc mà chúng ta sẽ
bàn đến.

Cung Tài Lộc diễn tả vấn đề tiền bạc của một đời người. Có
tiền nhiều hay ít, có tiền bằng cách nào, làm ra tiền sớm hay
muộn, kiếm tiền dễ dàng hay khó khăn, tiền do chính bàn tay
mình tạo dựng nên hay được thụ hưởng di sản của giòng họ.
Tiền bạc do lộc của trời như trúng số, hoặc do người khác
mang đến. Có tiền rồi giữ được hay không? Hay dễ bị hao tài?
Tiền bạc có mang lại hạnh phúc cho đương số hay không, hay
có tiền thì có tai họa đi liền theo sau v.v…..

Cung Tài Lộc ở vị trí đối diện với cung Phúc Đức cho nên ông
bà chúng ta có câu: “Có phúc mới có phần” ngụ ý là số giàu
cũng do Phúc Đức. Bởi vậy cung Tài Lộc cũng chỉ rõ người có
số được hưởng gia tài, sản nghiệp của ông bà, cha mẹ để lại
hoặc tiền tài phải do tự hai bàn tay của mình tạo dựng nên
mới có được. Nói một cách khác, tất cả những tốt xấu của
cung Phúc Đức đều có ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Tài Lộc
hơn những cung khác, và đó cũng là sắp xếp rất có ý nghĩa
của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những môn học huyền bí
của người Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng sâu xa triết lý nhà
Phật.

22
Những người sinh vào giờ Thìn (từ7am tới 9am) hay là những
người sinh vào giờ Tuất (từ 7pm tới 9pm) thì Thân sẽ rơi vào
cung Tài Bạch. Có người nghĩ rằng nếu Thân cư Quan Lộc thì
sẽ làm quan, Thân cư Tài Lộc thì sẽ giàu có. Quan niệm này
không chính xác bởi vì tuy là số thân cư Quan Lộc nhưng làm
quan hay làm người bình dân thì cũng còn tùy vào cung Quan
Lộc của đương sự tốt hay xấu. Tương tự, như số Thân cư Tài
Lộc, giàu hay nghèo cũng còn tùy vào cung Tài Lộc tốt xấu ra
sao. Tuy nhiên, những người Thân cư Tài Lộc, họ có những
nét đặc biệt khái quát như sau:

Trước tiên, tiền bạc là vấn đề chủ yếu và là mục đích quan
trọng trong cuộc sống của họ. Nói như vậy không có nghĩa là
người có Thân cư Tài Lộc quan niệm sống của họ chỉ có tiền
mà họ là những người có khả năng làm ra tiền. Làm ra tiền
nhiều hay ít, dễ dàng hay khó khăn, và bằng cách nào thì
cũng còn tùy vào lá số của mỗi người. Dù nghèo hay giàu,
người Thân cư Tài Lộc thấu hiểu giá trị của đồng tiền và sử
dụng đồng tiền ra sao cho xứng đáng với giá trị của nó.
Chuyện đáng xài thì xài, chuyện không đáng thì 1 xu cũng
không bỏ ra. Mẫu người này quan niệm tiền là cái đích tiên
quyết phải có, rồi từ đó xử dụng tiền như một phương tiện để
được những mục đích khác mà họ mong muốn.

Người Thân cư Tài Lộc thường có năng khiếu về thương mại,


kinh doanh. họ là những người thích hợp để trở thành chủ
nhân của những cơ sở làm ăn mua bán và thường trở nên
giàu có bằng đường kinh doanh nếu cung Tài Lộc của họ tốt
đẹp. Ngược lại, một người có Thân cư Tài Lộc mà cung Tài Lộc

23
lại không được sáng sủa thì họ sẽ là người suốt đời vất vả vì
tiền, hay thường gặp những tai họa về tiền bạc. Có thể đến
một vận hạn nào đó, họ cũng có cơ hội làm ra tiền nhưng lại
không giữ được tiền trong tay.

Cuối cùng, như chúng ta đã nói ở trên, khi Thân cư vào cung
Tài Lộc thì Thân sẽ ở vị trí đối diện với cung Phúc Đức. Có
nhiều vị nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số thì họ cho rằng
cung Thân quan trọng hơn Mệnh vì cung Thân biểu tượng cho
trung vận và hậu vận, là khoảng thời gian mà chúng ta bắt
đầu rời khỏi vòng tay của cha mẹ để lăn lộn vào đời tự lập
thân. Và như vậy, những người Thân cư Tài Lộc, cung Thân sẽ
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cung Phúc Đức kể từ khi họ
bước chân vào đời. Nói một cách khác, hậu vận của một
người Thân cư Tài Lộc sẽ ra sao cũng là một phần tùy thuộc
vào sự tốt xấu của cung Phúc Đức. Nếu nói theo triết lý của
đạo Phật là đương số hưởng được sự tích đức của ông bà, cha
mẹ hay là đương số phải trả nghiệp cho ông bà, cha mẹ của
mình.

BÀI 7

MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHU/THÊ”

Dù trong thời đại nào, dù phương Đông hay phương Tây thì
gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong khoa Tử
Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử
Tức. Hai cung này nói lên những vấn đề vợ chồng, con cái của

24
mỗi người. Chúng ta vẫn thường nghe câu: “Sau lưng một
người đàn ông thành công là một người đàn bà đảm đang tài
giỏi.” Có phải vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có
tầm quan trọng không kém gì hai cung chính là Quan Lộc và
Tài Bạch? Còn đối với phụ nữ thì cung Phu Thê lại càng quan
trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với thời phong kiến xa
xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng
mờ, hầu như không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và
cuộc đời của họ như thế nào cũng do cung Phu Thê của họ
định đoạt mà thôi. Thật đúng với ý nghĩa “xuất giá tòng phu”

Ngày nay, người đàn bà đã ra ngoài xã hội, đã có vai trò và vị


trí không thua kém gì người đàn ông. Nhưng dù sao, đối với
quan niệm của người Á Đông chúng ta thì không phải vì vậy
mà sự quan trọng của cung Phu Thê bị giảm đi. Trong thực tế
hai chữ “gia đạo” lúc nào cũng là nền tảng của cuộc sống con
người trong bất cứ thời đại nào hay xã hội nào. Điều này
chúng ta sẽ thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân
cư Phu Thê.

Những người sanh vào giờ Tỵ (từ 9am tới 11am) hoặc giờ Hợi
(từ 9pm tới 11 pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu Thê. Người
ta cho rằng rằng ông có Thân cư Phu Thê là số được nhờ vợ
và nể vợ. Đàn bà có Thân cư Phu Thê là số nhờ chồng và nể
sợ chồng. Điều này không đúng, chúng ta sẽ bàn đến sau.

Mẫu người Thân cư Phu Thê có nhiều nét đặc biệt, nhất là
trên lãnh vực tình cảm. Người Thân cư Phu Thê thường gặp
người chồng/vợ mình trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ

25
gặp nhau và có tình cảm với nhau như đã quen biết nhau từ
kiếp trước, nay lại gặp nhau để xây tiếp lâu đài tình ái còn
đang dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ chưa tròn,
tùy theo lá số của mỗi người.

Từ nét đặc biệt đó mà người Thân cư Phu Thê có một cuộc


sống ràng buộc nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc chặt chẽ
này có thể do từ tình cảm tốt đẹp mà họ có được, nhưng cũng
có thể là vì hoàn cảnh mà họ phải chịu trói buộc với nhau.
Hình ảnh bị trói buộc với nhau vì hoàn cảnh điển hình nhất
mà chúng ta đã thấy trong thời gian trước đây đó là hình ảnh
của cựu Tổng Thống Bill Clinton. Dù đang gặp một hoàn cảnh
đắng cay, hay có thể nói là “còn tình đâu nữa mà thù đấy
thôi” Nhưng họ vẫn ở bên nhau, xuất hiện bên nhau trên
truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho xong vở tuồng
mà họ phải diễn.

Nói một cách khác, trong lĩnh vực tình cảm, người Thân cư
Phu Thê thường có một cuộc sống khăng khít với nhau, cho
dù trong những trường hợp cuộc sống không được hạnh phúc
hay gặp những hoàn cảnh ngang trái, dường như có một sợi
dây vô hình nào đó cứ buộc chặt họ lại với nhau, không chia
ly dễ dàng như những người khác.

Ngoài sự ràng buộc trong vấn đề tình cảm, người Thân cư Phu
Thê còn có sự ràng buộc trong lãnh vực nghề nghiệp. Hầu hết
họ và vợ/chồng của họ là những người làm cùng ngành nghề
hay cùng chung một cơ sở thương mại với nhau. Có thể
không cùng nghề nghiệp nhưng công việc của hai người luôn

26
có sự liên hệ và hợp tác hổ trợ cho nhau.

Ngoài ra, người Thân cư Phu Thê thường có thêm một nghề
tay trái nữa. Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một cái thú
tiêu khiển của đương số, hoặc cũng có thể như một nghiệp
mà họ phải theo đuổi. Dần dần có thể trở thành một lãnh vực
sinh hoạt không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày
của họ. Cũng có một số người thành công, thành danh bởi
nghề tay trái này hơn là nghành nghề chính của họ. Bây giờ
chúng ta có thể trở lại với hai nghi vấn mà chúng ta đã đề
cập lúc mở đầu:

1. Có phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ


chồng/vợ hay không?

Đối với người Á Đông chúng ta thì chuyện “xuất giá tòng phu”
là một quan niệm bình thường. Do đó, nếu một người đàn bà
có số Thân cư Phu Thê mà cuộc đời phải nương tựa vào chồng
của mình thì đó là một điều hợp tình hợp lý. Nhưng đối với
nam giới, nhất là trong xã hội phong kiến trọng nam khinh
nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là bị phán ngay là
số nhờ vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số.

Để giải đoán cho phân minh, chúng ta phải cân nhắc giữa
cung Phu Thê và cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn, người
có Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh của đương số yếu hơn cung
Phu Thê (Mệnh nhược Thê cường) có nghĩa là người vợ của
đương số có khả năng hơn chồng về mọi mặt từ trong nhà
cho đến những giao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có

27
thể nghĩ rằng những gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung
của hai người thì phần lớn đều do tay của người vợ. Đối với
người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối cảnh xã hội ngày nay
có khác, hai chữ “tòng phu” không còn nữa cho nên chúng ta
cũng phải cân nhắc như vậy.

Ngược lại nếu cung Mệnh của đương số tốt đẹp, sáng sủa hơn
cung Phu Thê (Mệnh cường, Thê nhược) thì đây không phải là
số nhờ chồng/vợ. Trường hợp này thông thường thì hai người
cùng làm chung một ngành nghề hay cùng chung một cơ sở
làm ăn, họ cùng góp sức tạo dựng với nhau trong cuộc sống
chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc chặt chẽ với
nhau như đã bàn ở trên.

2. Có phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng


hay không?

Để trả lời vấn đề này, chúng ta cũng phải cân nhắc vấn đề
mạnh và yếu giữa cung Mệnh và cung Phu Thê của đương số.
Nếu Mệnh nhược Phu cường thì phải nể, sợ chồng là điều
đương nhiên rồi. Chẳng hạn, lá số của một ông chồng có bộ
sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ Mệnh, là bộ sao tiêu biểu cho
văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá Liêm
Tham là biểu tượng cho võ cách. Trường hợp này việc điều
hành từ trong ra ngoài cũng nhu vai trò chánh yếu trong gia
đình đều do người vợ một tay thao túng hết.

Điều này chúng ta cũng thấy rõ những đấng mày râu tuy
cung Mệnh không thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung Phu

28
Thê lại có các sao như Thái Âm, Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp
chiếu thì đấy cũng là hội viên cùng hội với Thúc Sinh rồi.

BÀI 8

MẪU NGƯỜI “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính
tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12 cung
của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng,
năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc tính
và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung
quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh
tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà
Mệnh không có chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường
gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).

Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà
không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh
VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của
mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng
chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở
cung xung chiếu mà thôi.

Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài
trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoặc
ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở
cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của
người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh.

29
Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người
VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của
vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó
nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm
phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê người,
và tuổi đời không được thọ.

Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì
Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn quân không
có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự
mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong
một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc
của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại. Người
VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau
lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và
thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu
thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa
đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình
hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành.

Người VCD tánh tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất
thông minh. Do vậy, những công việc như soạn thảo kế
hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v….. rất thích hợp với
họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng
thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay.

Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có


khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm

30
cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ
thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình.
Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoản tiền vận của cuộc
đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.

Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ
bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng
ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được
tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên
trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt
đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5
năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn.

Là mẫu người có tài, có trí họ có thể đạt được những công


danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ
“Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường
nói: “Đa tài thì bạc mệnh” Cho nên người VCD ít ai có được
tuổi thọ cao. Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm
con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình,
hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người.

Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người
VCD vẫn được hai cách tốt:

1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa
thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao
KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị
không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi
phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa phát

31
dã như lôi.” Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như
sấm chớp. Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự
bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là
cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi.

Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên
chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không
thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không
thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt xấu lẫn
lộn cho nên không được tròn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam
không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ
ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi
nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu.

Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không
thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt
nhất. Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ”
Cách này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì
các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là một
trong những cách hoạch phát.

Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG


thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1
sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di) Trong tam hợp
Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này
như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng
lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ.

Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay

32
sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung
chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh. Cách
này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần” có nghĩa
là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì
tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở
thành phá tán.

2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu,


vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm
trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng
một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rở. Khoa
Tử Vi gọi là “Mênh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa”
Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới
đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không” Điều đó xét ra không cần
thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài,
đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh.

Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4,
năm Tân Dậu. Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão
(Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc
lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách
“Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện” Người đắc
cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua
một đấng quân vương mà thôi.

Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư
trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị
lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông
thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều

33
binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình
nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ
1 người mà trên muôn vạn người.

Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông
phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi
chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều
không thích hợp với người Mệnh VCD. Phải chăng vì vậy mà 6
lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về
không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời,
ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng
không thành.

Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự


cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó.

Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát
nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10
vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại
dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông
Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của
khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi
thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD?

BÀI 9:

MẪU NGƯỜI “THAM VŨ ĐỒNG HÀNH”

Mẫu người “Tham Vũ Đồng Hành” là những người có cung

34
Mệnh an tại tứ mộ, tức là bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và có
hai sao Tham Lang và Vũ Khúc tọa thủ đồng cung hoặc xung
chiếu với nhau. Nếu cung Mệnh an tại Thìn và Tuất, thì Tham
Lang và Vũ Khúc sẽ xung chiếu với nhau. Nếu cung Mệnh an
tại Sửu và Mùi thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ tọa thủ đồng
cung. Sau phần trình bày khái quát về cuộc đời của mẫu
người Tham Vũ Đồng Hành nói chung, chúng ta sẽ đi vào chi
tiết để xem sự khác biệt của mẫu người tuy là Tham Vũ Đồng
Hành, nhưng Tham Vũ đồng cung tọa thủ tại Mệnh có gì khác
biệt với người Tham Lang thủ Mệnh và Vũ Khúc xung chiếu,
cũng như Vũ Khúc thủ Mệnh và Tham Lang xung chiếu?

Trước tiên, chúng ta nói qua về đặc tính của hai sao Tham
Lang và Vũ Khúc là hai chính tinh trong cách Tham Vũ Đồng
Hành Cư Tứ Mộ, rồi sau đó mới nói đến hai sao phụ khác nữa
là Linh Tinh và Hỏa Tinh thì mới đủ bộ và đúng cách. Tham
Lang là Bắc Đẩu tinh, hành của Tham Lang có người cho là
hành Thủy, có người cho là hành Hỏa và cũng có người cho là
hành Mộc. Theo thiển ý của người viết thì Tham Lang thuộc
hành Mộc, bởi vậy, khi Tham Lang (đào hoa) tọa thủ tại cung
Tí (cung Thủy), khoa Tử Vi gọi đây là cách Phiếm Thủy Đào
Hoa, nghĩa là hoa đào trôi dạt trên dòng nước. Bản tính của
Tham Lang là đặt nặng vấn đề vật chất trong cuộc sống.
Thích hội hè đình đám, những chỗ đông người với những cuộc
vui. Tính rất năng động, háo danh, háo thắng và thích làm
những chuyện lớn cho nên có nhiều tham vọng. Ưu điểm của
Tham Lang là có năng khiếu về kinh doanh, có khả năng tổ
chức, nhưng khuyết điểm là mau chán nản và dễ bỏ cuộc nửa
chừng. Nếu Tham Lang ở các vị trí miếu hay vượng địa thì

35
chủ về uy quyền, giàu sang và sống lâu.

Vũ Khúc cũng là Bắc Đẩu tinh và thuộc hành Kim. Bản chất
của Vũ Khúc rất nghịch với Tham Lang ở điểm Tham Lang
thích vui chơi ở chỗ đông người thì Vũ Khúc lại thích cô đơn,
làm việc gì cũng muốn độc hành. Người có Vũ Khúc thủ Mệnh
tính gan dạ, táo bạo, có khả năng tổ chức, có đầu óc kinh
doanh, chủ quyền uy, danh vọng và giàu sang. Chính những
điểm tương đồng này giữa Vũ Khúc với Tham Lang mà bộ
Tham Vũ là một bộ sao của những tay kinh doanh có hạng
trên thương trường. Có người cho rằng Tham Vũ là hai sao
thuộc về võ cách, tượng trưng cho võ nghiệp thì tại sao lại
hợp với lãnh vực kinh doanh? Để trả lời cho điều này, chúng
ta hãy nhìn vào cuộc sống của người Hoa Kỳ cũng như cộng
đồng người Việt tị nạn, một số những cựu quân nhân, sau khi
giã từ vũ khí, họ đã thành công một cách dễ dàng trên
thương trường. Vậy phải chăng, những đức tính và khả năng
cần có của một người điều binh trên chiến trường cũng cần
thiết cho một người lăn lộn trên thương trường, đúng với câu
mà người Trung Hoa vẫn nói: thương trường như chiến
trường.

Được xem là đắc cách Tham Vũ Đồng Hành thì hai sao Tham
Lang và Vũ Khúc phải đóng tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
gọi là tứ mộ, bốn cung này thuộc hành Thổ cho nên đó là bốn
vị trí miếu địa, vượng địa của hai sao Tham Vũ. Một điều kiện
quan trọng khác là tại bốn vị trí này, bộ Tham Vũ phải gặp
một hoặc cả hai sao Linh Tinh, Hỏa Tinh. Hai sao Linh Hỏa có
thể đồng cung, xung chiếu hay tam hợp chiếu với hai sao

36
Tham Vũ thì mới đầy đủ uy lực mà khoa Tử Vi thường gọi là
cách Tham Vũ đồng hành cư tứ mộ, ngộ Linh, Hỏa hào phú
gia tư, hầu bá chi quý. Có nghĩa là người Mệnh an tại bốn
cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, có Tham Lang và Vũ Khúc đồng
cung hay xung chiếu, lại thêm có một hoặc hai sao Hỏa Tinh,
Linh Tinh chiếu vào là số giàu sang, phú quý như bậc hầu bá
dưới thời phong kiến ngày xưa.

Điều mà chúng ta lưu ý ở đây là sự thành công, phú quý của


mẫu người Tham Vũ Đồng Hành không phải từ quan trường,
mà chính là từ thương trường. Như trên chúng ta đã nói, mẫu
người Tham Vũ Đồng Hành rất gan dạ, tự tin, nhiều tham
vọng, có óc tổ chức và có năng khiếu về thương mãi, cho nên
họ là những tay kinh doanh có tầm vóc chứ không phải chỉ
làm ăn buôn bán lẻ tẻ. Đó phải chăng là do sự ảnh hưởng kỳ
diệu của vòng Ngũ Hành tương sinh trong cách này: hành
Hỏa của Linh Tinh, Hỏa Tinh một mặt phù trợ cho hành Thổ
của bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để tương sinh cho hành
Kim của Vũ Khúc, đồng thời cũng đốt cho Kim này thành Thủy
để dưỡng Mộc của Tham Lang, rồi Mộc của Tham Lang lại là
củi cho ngọn lửa Linh, Hỏa cháy bùng lên...

Một đặc điểm khác đáng lưu ý của mẫu người Tham Vũ Đồng
Hành là vì ảnh hưởng của Vũ Khúc, cho nên mẫu người này
thường lao đao, lận đận trong tiền vận, và sớm lắm thì cũng
phải qua trung vận, đa số phải đến hậu vận mới có thể gọi là
thành công như ý muốn và lúc đó cơ nghiệp mới có thể bền
vững được.

37
Hỏa Tinh và Linh Tinh là hai sao Hỏa, cho nên lúc phát thì sẽ
giúp cho bộ Tham Vũ phát rất nhanh, nhưng nếu phát không
đúng vào thời vận thì cũng chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên rồi
cũng tắt đi một cách nhanh chóng. Nếu biết được lý lẽ này,
mẫu người Tham Vũ Đồng Hành chẳng nên bôn ba sớm trong
cuộc đời mà chuốc nhiều phiền não, đắng cay. Điều này rất
nhiều người đã biết, nhưng họ không cam lòng, để cuối cùng
cũng nói được một câu an ủi với chính mình như Nguyễn Du
đã nói: càng phong trần danh ấy càng cao! Đặc điểm này
thấy rõ nhất ở những người Tham Vũ Đồng Hành mà Mệnh an
tại hai cung Sửu và Mùi, hai sao Tham Vũ sẽ đồng cung, khắc
chế nhau mạnh mẽ trong tiền vận (khoảng 33 hoặc 36 tuổi)
khiến cho đương số bao lần thấm mệt và sớm ngộ được cái ý
nghĩa của câu: có tài mà cậy chi tài... Phải qua trung vận và
bắt đầu vào hậu vận thì sự nghiệp của người Tham Vũ Đồng
Hành có Mệnh an tại Sửu hay Mùi mới được ổn định và bền
vững cho đến cuối cuộc đời.

Nói đến sự thành công của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành
nhanh hay chậm, bền vững hay ngắn ngủi thì chúng ta cũng
nên lưu ý trường hợp nếu Mệnh an ở tứ mộ, có Tham Lang tọa
thủ đồng cung với Hỏa Tinh, thì đây còn gọi là cách Tham
Hỏa Tương Phùng, nếu gặp Linh Tinh thì gọi là cách Tham
Linh Tịnh Thủ, cũng là những dạng của Tham Vũ Đồng Hành,
nhưng với cách này, khi đến thời, đương số sẽ phát rất nhanh
vì ảnh hưởng mạnh mẽ của Ngũ Hành tương sinh giữa Tham
Lang thuộc Mộc và Hỏa Tinh thuộc Hỏa đồng cung với nhau.
Tuy nhiên, công danh sự nghiêp dù có phát rất nhanh chóng,
nhưng cũng chẳng giữ được lâu bền, vì đây cũng chỉ là cách

38
bạo phát, bạo tàn mà thôi.

Tương tự như vậy, chúng ta xét đến vị trí của hai chính tinh
Tham Vũ tại tứ mộ. Đối với những người Tham Vũ Đồng Hành
mà Mệnh an tại hai cung Thìn và Tuất thì sự khắc chế của hai
sao Tham Vũ tương đối nhẹ hơn vì nằm trong vị trí xung chiếu
nhau, vì vậy, sự nghiệp của mẫu người này sẽ thành đạt sớm
hơn, nhưng mức độ của sự thành đạt lại không có kích thước
bằng những người Mệnh an tại Sửu Mùi.

Và một điểm khác biệt nữa là cá tính của mỗi mẫu người
Tham Vũ Đồng Hành sẽ có sự khác biệt tùy theo cung an
Mệnh. Khi Mệnh an ở Thìn Tuất thì nếu chúng ta giao tiếp với
những người này, chúng ta sẽ nhận ra họ như có hai con
người khác nhau: một con người vì ảnh hưởng của Vũ Khúc
nên thường sống cô độc, suy nghĩ và quyết định một mình,
nhưng khi ra ngoài, sao Tham Lang lại làm cho họ thành một
con người khác, họ biết nói, biết làm cho vui lòng người khác,
mặc dù trong thâm tâm họ không thích như vậy, và phải
chăng đây cũng là một đặc tính giúp họ thành công trong
lãnh vực kinh doanh?

Tóm lại, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là một mẫu người lý
thú khi chúng ta quen biết hoặc hợp tác trong vấn đề làm ăn
mua bán với nhau. Họ là những người có cá tính rất mạnh,
gan lì, táo bạo và nhiều tham vọng. Địa bàn giúp họ thành
công là thương trường. Và thời điểm mà họ xây dựng được sự
nghiệp như ý là hậu vận của cuộc đời.

39
BÀI 10

MẪU NGƯỜI “NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO”

Khoa Tử Vi chia và xếp hạng các tinh đẩu ra làm 3 loại: Chính
Tinh, trung tinh và phụ tinh. Sao Tử Vi được xem như chủ tể
của các vì sao hay còn gọi là đế tinh. Vì vậy, Tử Vì cũng tựa
như một vị Vua dưới thời phong kiến. Vua cũng có thể là minh
quân, cũng có thể là hôn quân hoặc chỉ là Vua bù nhìn. Bản
chất của sao Tử Vi cũng vậy. Nếu ở những vị trí miếu, vượng
thì Tử Vi là một ông Vua đức độ, được thêm hiền thần (cát
tinh) phò trợ thì chắc chắn là một minh quân. Ngược lại nếu ở
vị trí hãm địa hay bị bọn gian, nịnh thần (ám tinh, hung tinh)
vây quanh thì đương nhiên sẽ trở thành một hôn quân. Nhưng
cũng có một vài vị Vua tuy sa cơ thất thế, lạc vào hãm địa
nhưng lại không trở thành xấu xa mà chỉ có khuynh hướng
chán mùi trần thế, muốn bỏ đời tìm đạo. Đó chính là nét đặc
thù của mẫu người Tử Tham Mão Dậu. Hay cũng có thể gọi là
mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo.

Trước tiên chúng ta thử tìm xem những nguyên nhân nào đã
khiến cho bộ Tử Tham khi cư ở Mão Dậu lại trở thành tốt
không tốt hẳn, mà xấu cũng không xấu hẳn như vậy? Hai
cung Mão và Dậu là hai vị trí không tốt cho sao Tử Vi. Cũng
tại hai vị trí này Tử Vi gặp Tham Lang hãm địa. Tuy là đế tinh
nhưng nằm ở nơi bất lợi cho nên Tử Vi mất hết uy lực nên dễ
đưa đến khuynh hướng chán đời., yếm thế, và hay có cái nhìn
nghiêng nhiều về lãnh vực tâm linh. Muốn tìm sự yên ổn cho
tâm hồn nơi tôn giáo.

40
Đi xa hơn, chúng ta hiểu rằng khi nói về phương vị trong khoa
Tử Vi thì cung Mão là phương Đông, là hướng của mặt trời
mọc, là biểu tượng ban mai. Cung Dậu là phương Tây, là
hướng mặt trời lặn, là biểu tượng của hoàng hôn. Hai cung
Mão và Dậu là hai thời điểm bắt đầu và chấm dứt của một
ngày, cũng là biểu tượng của sự sớm nở tối tàn, sớm nắng
chiều mưa, và chính những biểu tượng này đã góp phần vào
khuynh hướng bi quan, yếm thế cho Tử Vi tại hai cung Mão
Dậu.

Ngược lại, bản tánh của Tham Lang là ham vui, thích sự náo
nhiệt ồn ào trong cuộc sống. Khi hãm địa thì sự ham thích
danh lợi của Tham Lang lại càng mạnh mẽ hơn và ba chữ
“Tham, Sân, Si” đều có đủ. Chữ “Tham” dẫn đầu để lôi kéo
quyến rũ Tử Vi vào vòng lẩn quẩn của thế tục.

Như vậy, chúng ta có thể nói đây là nét đặc biệt của mẫu
người Tử Tham Mão Dậu. Nhưng chúng ta cũng nên phân biệt
2 mẫu người sau đây:

1. Mẫu người có khuynh hướng về tôn giáo mạnh hơn những


người khác khi còn nhỏ, giống như một bản tính trời sinh. Đó
là trường hợp chúng ta thấy những đứa bé lúc nhỏ theo cha
mẹ đến chùa, nhà thờ, hoặc tham dự những lễ lạt, thờ cúng,
v.v…..Có những em bé làm theo như bổn phận, nhưng cũng
có những đứa bé lại có ý thích thú, tự ý học thuộc kinh sách,
tự ý đến chùa, đến nhà thờ để tham dự những sinh hoạt một
cách tích cực….. Và dần dần cái ý tưởng về tôn giáo ngày

41
càng rõ ràng hơn những đứa bé khác cùng trang lứa... Khi lớn
lên, tùy theo mỗi hoàn cảnh trải qua trong cuộc sống, nội tâm
của họ phải chịu sự giằng co giữa đời và đạo khiến cho họ
nhìn đời mà ít khi thấy màu hồng.

Và tùy theo mức độ hướng về đời hay đạo, bên nào mạnh
hơn, có nghĩa là còn tùy theo sự ảnh hưởng của các sao đi
cùng với chính tinh Tử Tham. Có người thể hiện khuynh
hướng tôn giáo một cách tiêu cực như thích làm việc xã hội,
bỏ công bỏ của ra làm việc từ thiện, hoặc tích cực hơn thì đó
là những người tu tại gia, và hơn thế nữa thì theo con đường
tu hành ngay từ khi còn bé.

Những biến chuyển này đều do tính trung hậu, phúc đức của
Tử Vi mà ra. Nhưng ở Mão và Dậu, oái ăm thay Tử Vi lại ngồi
chung với Tham Lang hãm địa. Đây là hình ảnh cho một cuộc
đời khổ não. Bởi vậy dù đã bước vào con đường tu hành
nhưng nợ trần vẫn chưa dứt.

2. Mẫu người Tử Tham Mão Dậu là lúc khởi đầu của cuộc đời,
họ hoàn toàn chưa có một ý niệm mạnh mẽ gì về tôn giáo cả.
Nhưng đến một lúc nào đó họ bị vấp ngã để rồi chính những
sự đau đớn chua cay ở đời đã dẫn dắt họ đến với đạo. Nhưng
vào được với đạo hay không thì còn tùy vào các sao đi cùng
Tử Tham. Chẳng hạn nếu gặp Không Kiếp thì khả năng và sác
xuất tu hành rất cao. Nếu gặp Xương, Khúc thì tâm còn vướng
nặng chuyện của trần tục cho nên khó mà tu thành.

Ngoài ra nếu không đề cập đến phương diện tâm linh thì cuộc

42
đời của những người Tử Tham Mão Dậu cũng ba chìm bảy nổi,
thành bại thất thường từ cuộc sống vật chất cho đến vấn đề
tình cảm lúc nào cũng đòi hỏi ở đương số một sự phấn đấu.
Nhưng cuộc đời cũng buồn nhiều hơn vui, ít khi được xúng ý
toại lòng.

Tóm lại: Mẫu người Tử Tham Mão Dậu có một nét đặc biệt là
có lòng tín ngưỡng rất mạnh ngay từ khi còn bé. Cuộc sống
của họ bị giằng co giữa đời và đạo, điển hình như những
người tu tại gia, tu xuất v.v….. Điểm này có phần giống
những người có Thiên Không thủ Mệnh, là những người tuy
không bi quan, yếm thế như Tử Tham Mão Dậu mà họ chỉ
hướng về tôn giáo mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bị
vấp ngã, hay lưng trời gãy cánh (bán thiên triết sĩ).

BÀI 11:

MẪU NGƯỜI “TỲ HÀ NGỌC (CỰ KỴ)”

Tâm lý chung của nhiều người khi nghiên cứu về khoa Tử Vi là


thường chỉ chú tâm đến những bộ sao chính như Tử Phủ Vũ
Tướng, Sát Phá Liêm Tham hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương v.v...
Thật ra những cách đơn giản như Cự Kỵ, hoặc các bộ sao nhỏ
như Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ bàn đến cũng
cho chúng ta thấy một số mẫu người có những nét rất đặc
biệt trong cuộc đời, nếu không muốn nói là những cách,
những bộ sao nhỏ này đôi khi còn ảnh hưởng sâu đậm hơn và
chi phối mạnh mẽ hơn trên cuộc đời của đương số. Và trước
khi phác họa những nét đặc biệt cũng như những điểm giống

43
nhau và khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người
Thai Phục Vượng Tướng, chúng ta hãy bàn qua bản chất của
mỗi sao trong hai cách này.

Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu tinh, hành Thủy,
miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý nghĩa
thì Cự Môn là cái miệng, và chúng ta đã biết, con người sống
cũng nhờ cái miệng, chết cũng vì cái miệng, được người
thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng
của mình mà thôi... Ngoài ý nghĩa trên, nếu Cự Môn tọa thủ
tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của
sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng
biện, thích hợp với các ngành ngoại giao, giao thiệp, dạy học,
luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá số của con cái mình có cách
Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và
Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái
đi vào ngành luật, vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những
luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại, nếu Cự Môn rơi vào những
nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ, cứ mở
miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những
chuyện thị phi khẩu thiệt mà thôi.

Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí


Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn
trong đá, Cự Môn gặp Thái Dương là cách Cự Nhật, là ngọc
lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ là cách Cự
Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có
nghĩa là ngọc bị tì vết.

44
Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều
tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng, thị phi,
kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản
chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn
thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ cũng có một điểm tốt là giữ được
của.

Cách Cự Kỵ không có gì đáng nói đối với nam mệnh, ngoài


những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay
bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông
biển, mà cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi
gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay
nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn
bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn
nhiều đến lá số của những người đàn bà có cách Cự Kỵ.

Khi lá số của một nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ


đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có
điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải lưu ý một điều là khi luận
đoán một lá số của nữ mệnh mà có những cách như Cự Kỵ,
Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ
đề cập tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận
trọng, vì vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết và phẩm hạnh của
một người đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân biệt rõ ràng mỗi
trường hợp sau đây.

Trường hợp lá số của một người đàn bà mà cung Mệnh có Cự


Môn miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải quan
sát thêm ở cung Mệnh và các cung chính khác như cung

45
Thân, cung Phúc, cung Phu, cung Quan, cung Nô... để xem
nếu có những sao xác định nết đoan chính như Thái Dương,
Tứ Đức... hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa,
Thiên Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay
gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng thị phi
hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh
của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu
tình dục (sexual harassement). Mức độ nặng hơn, nếu gặp
những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật
mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v... Hoặc
có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những tai
họa về sông biển như một số người đã gặp trên đường vượt
biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp
này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc
sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà rơi xuống bùn nên vấy bùn,
hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là
tai nạn của đương số mà thôi.

Trường hợp nếu Cự Môn tuy là miếu, vượng mà gặp Hóa Kỵ,
lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Văn
Xương, Văn Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật
chất, nặng phần tình dục như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên
Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy ra cho đương số là do
bản tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn
cảnh chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn,
nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì làm sao
mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và khi đã có
gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì
chồng con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù

46
cho họ cũng có địa vị trong xã hội, là những mệnh phụ phu
nhân... Trường hợp này có thể ví như mẫu người của Vương
Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà
nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì
làm sao trách được sự đánh giá nghiêm khắc của người sau:
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên ngọc
của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc
vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải
do tay người dũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.

Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn hãm địa tọa thủ mà không


được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính” hóa
giải phần nào thì đây là một mẫu người đặc biệt. Là mẫu
người có một bề ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích,
nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy rõ con người thật được
che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố
kỵ đủ điều... Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì
ba chữ Tì Hà Ngọc thật là đúng nghĩa!

Khoa Tử Vi cũng cho rằng, cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại cung


Mệnh hay các cung chính yếu khác như cung Phúc Đức, cung
Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung Phu Thê cũng còn nói lên sự
bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách
Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối tình hay chỉ một cuộc
hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo
kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của
mẫu người này, nếu không được những sao hóa giải. Các trở
ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường là do sự khắc khẩu,
ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích

47
kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.

Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt cho cả nam mệnh và nữ mệnh,


nhưng đối với nữ mệnh thì sự ảnh hưởng nặng nề và tai hại
hơn trong lãnh vực trinh tiết và phẩm hạnh của đương số. Nói
chung, nữ mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì cuộc đời chắc chắn là
một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức độ nặng nhẹ mà
thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc
biệt, cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi
Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ
xấu trở thành tốt vì có sự ứng hợp.

BÀI 12

MẪU NGƯỜI “NHẬT NGUYỆT ĐỒNG LÂM”

Nhật là Thái Dương, là mặt trời. Nguyệt là Thái Âm, là mặt


trăng. Hai vầng Nhật Nguyệt là 2 trong 14 chính tinh của
khoa Tử Vi. Những đặc tính của Nhật Nguyệt rất thực tế. Mặt
trời là nguồn năng lượng lớn nhất đối với qủa đất của chúng
ta cho nên người có Thái Dương thủ Mệnh là người rất năng
động. Dù nam hay nữ tính tình cũng có phần nóng nảy.

Từ cổ chí kim mặt trăng luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho
các thi nhân cho nên người có Thái Âm thủ Mệnh thường
mang tính đa sầu, đa cảm. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn
bản chất của mỗi sao trước khi có cái nhìn khái quát về mẫu
người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.

48
Thái Dương thuộc nam đẩu tinh, hành Hỏa, miếu địa ở Tỵ,
Ngọ tức là mặt trời vào lúc giữa trưa, và vượng địa ở Dần,
Mão, tức là mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí trên, Thái Dương
chủ về sự thông minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy quyền.
Thái Dương rất hợp với người Dương Nam, Dương Nữ, và
những người sinh vào ban ngày.

Thái Âm thuộc bắc đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Dậu,
Tuất, Hợi, là lúc mặt trăng tỏa sáng nửa đêm, vượng địa ở hai
cung Thân (lúc trăng mới mọc), và Tí (lúc trăng sắp tàn)

Ở những vị trí miếu vượng, Thái Âm là sự nhân từ, tánh đa


sầu, đa cảm và lãng mạn, có khiếu về văn chương, nghệ
thuật. Đồng thời Thái âm cũng chủ sự giàu có về điền sản
như nhà cửa, đất đai…..Thái Âm đặc biệt phò trì cho người
Âm Nam, Âm Nữ, những người mạng Mộc, Thủy, và người
sinh vào ban đêm, nhất là sinh vào những đêm trăng tròn 15,
16 thì càng tuyệt hảo.

Trong cơ thể, Nhật Nguyệt tượng trưng cho đôi mắt. Trong
gia đình, Thái Dương là ông, là cha, là chồng, Thái Âm là bà,
là Mẹ, là vợ…..Điều này rất rõ khi cung hạn có Nhật hay
Nguyệt tọa thủ thì những gì xảy ra trong hạn đó không những
là cho chính bản thân của mình mà còn nói lên những sự việc
xảy ra cho chồng, cho vợ, cha mẹ, ông bà của đương số nữa.
Sự biểu tượng này cũng nói lên tình cảm hay sự gần gũi mật
thiết trong cuộc sống giữa người con đối với cha hay mẹ.
Chẳng hạn, khi chúng ta thấy lá số của một người có Thái
Dương thủ Mệnh thì người này chịu ảnh hưởng tánh tình của

49
cha nhiều hơn, có thể sẽ nối nghiệp cha, hoặc có thể vì hoàn
cảnh, đương số sẽ sống gần gũi và hợp với cha nhiều hơn là
với mẹ.

Khi nói đến hai sao Nhật Nguyệt, khoa Tử Vi có một nguyên
tắc mà chúng ta thường nghe là: “Chính bất như chiếu” nghĩa
là: Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ
cũng hợp lý, rất thực tế. Chẳng hạn như chúng ta đặt một
ngọn đèn ngay trước mặt mà đọc sách thì ánh sáng chiếu
trực tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và mau mỏi mệt hơn
là để ngọn đèn chiếu lên chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi
phản chiếu vào trang sách.

Chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn khi đi sâu vào trường hợp Nhật
Nguyệt đồng cung. Trong 12 cung của lá số, bộ Nhật Nguyệt
chỉ đồng cung ở hai vị trí Sửu, Mùi tạo nên một mẫu người
khá đặc biệt gọi là mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.

Nhật Nguyệt Đồng Lâm cũng giống như hiện tượng Nhật
Thực, Nguyệt Thực. Nghĩa là trong một khoảng thời gian nào
đó, mặt trời, mặt trăng, và trái đất cùng ở một đường thẳng.
Như chúng ta đã thấy, khi Nhật Thực hay Nguyệt Thực thì
mặt trăng che mặt trời hoặc mặt trời che mặt trăng, cho nên
ánh sáng mờ mờ ảo ảo, ngày chẳng ra ngày, đêm cũng không
giống đêm. Đó chính là nét đặc thù đầu tiên của mẫu người
Nhật Nguyệt Đồng Lâm.

“Những người bất hiển công danh


Cũng bởi Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi.”

50
Ý nghĩa thật qúa rõ ràng: Những người có Mệnh an tại
Sửu/Mùi, có Nhật Nguyệt tọa thủ thì một đời công danh cũng
như sự nghiệp khó lòng được như ý. Ngoại trừ một vài trường
hợp đặc biệt mà chúng ta sẽ bàn đến sau.

Mệnh an tại Sửu/Mùi có Nhật-Nguyệt đồng thủ, mặc dù không


phải là những vị trí miếu vượng của Nhật-Nguyệt nhưng cũng
là người khá thông minh vì đó là bản chất thuần túy của vầng
Nhật-Nguyệt. Tuy nhiên vì hai nguồn ánh sáng nằm cùng với
nhau cho nên Nhật-Nguyệt tự che lấy ánh sáng của nhau như
đã nói ở trên. Vì vậy người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có trí nhớ
kém và thường hay có những quyết định lầm lẫn, mãi cho
đến khi việc đã xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân hận
tại sao lúc đó mình làm như vậy. Nhật-Nguyệt là biểu tượng
của ngày và đêm, và cũng là biểu tượng của Âm và Dương
trong vũ trụ cho nên người có NN thủ hay chiếu Mệnh thường
có năng khiếu về ngành điện tử, điện toán, vi tính v.v…..

Nhật - Nguyệt đồng cung cũng như Nhật Thực, Nguyệt Thực
là khoảng thời gian mà ánh sáng và bóng tối hòa lẫn với
nhau, trắng đen lẫn lộn, và như chúng ta thường gọi là lúc
tranh tối tranh sáng. Bởi thế, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm
thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những chứng nhức đầu kinh
niên, căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn một
điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật khi còn bé.

Riêng đối với phái nữ, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần
có kinh nguyệt thường bị đau bụng dữ dội hơn những người

51
khác. Và họ thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi
là bệnh khí huyết.

Nếu nói như vậy, Mệnh có Nhật-Nguyệt đồng thủ tại Sửu/Mùi
thì đây không phải là một cách tốt, ngoại trừ những trường
hợp đặc biệt như sau:

1.Mệnh có Nhật Nguyệt tọa thủ tại Sửu/Mùi mà có Tuần án


ngữ, và được các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Quang
Quí, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số
của những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những người làm
ngành truyền thông, hay là giới văn nghệ sĩ danh tiếng và có
địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật.

2.Mệnh có Nhật Nguyệt đồng thủ tại SửuMùi, có Hóa Khoa,


Hóa Lộc đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở
nên tốt đẹp. Công danh sự nghiệp vững vàng, có quyền cao
chức trọng trong xã hội.

Tóm lại, ngoài hai trường hợp vừa nêu trên, Nhật Nguyệt
Đồng Lâm ở Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm
nhưng đây là mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không
gặp được thời vận điển hình như nhà thơ Tú Xương ngày
trước.

Cũng là Nhật-Nguyệt đồng cung, nhưng đúng với nguyên tắc


căn bản mà chúng ta đề cập ở trên “Nhật Nguyệt chiếu Mệnh
tốt hơn thủ Mệnh” Như vậy nếu Mệnh an ở Sửu được NN đồng
cung ở Mùi xung chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật-Nguyệt tọa

52
thủ tại Mệnh. Và phú Tử Vi cũng khẳng định điều này: “Nhật
Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài.” Trong trường
hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của Nhật-
Nguyệt, và có Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm
tăng thêm độ sáng cho Nhật-Nguyệt. Được cách này, công
danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn.

Như vậy, khi nói đến mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm,
chúng ta phải phân biệt 2 trường hợp. Nếu Nhật-Nguyệt đồng
thủ Mệnh thì cuộc đời được mô tả khái quát như câu: “Những
người bất hiển công danh, cũng vì Nhật-Nguyệt đồng tranh
Sửu Mùi” Nếu Nhật-Nguyệt đồng cung xung chiếu Mệnh thì
công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay.

Nhưng cho dù ở trường hợp nào thì mẫu người Nhật Nguyệt
Đồng Lâm giống nhau ở chổ mắt yếu, nhức đầu kinh niên,
thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau
bụng dữ dội khi hành kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là
văn chương và nghệ thuật.

BÀI 13

MẪU NGƯỜI “THAI PHỤC VƯỢNG TƯỚNG”

Trong khoa Tử Vi Đẩu Số, “Thai Phục Vượng Tướng” chỉ là


một bộ sao nhỏ, gồm các sao: Thai, Phục Binh, Đế Vượng,
Tướng Quân hay Thiên Tướng. Trong cơ thể, sao Thai chỉ bộ
phận sinh sản của đàn bà, cũng có nghĩa là bào thai, là sự

53
sinh đẻ, là vấn đề sinh lý, tình dục, một cấu tạo mới hay sự
thay đổi mới. Phục Binh chỉ sự lừa gạt, dối trá, âm mưu, gài
bẫy, hãm hại. Đế Vượng có nghĩa là cái lưng, là số nhiều, là
sự hưng thịnh, phát đạt. Đế Vượng còn chỉ sự sinh sôi nảy nở,
sự canh cải mới mẻ. Thiên Tướng/Tướng Quân trong cách này
hàm ý nghĩa là người đàn ông.

Bộ Thai Phục Vượng Tướng (TPVT) không có ý nghĩa gì nhiều


về công danh, sự nghiệp hay giàu sang phú quý, và cũng
không có gì đáng nói với nam giới. Đối với nữ giới, bộ sao này
rất là quan trọng. TPVT cũng phần nào giống như bộ Cự Kỵ,
hay Tham Kỵ, nói lên bản tánh, những biến cố, cũng như
những khúc quanh quan trọng về mặt tình cảm, hay khuynh
hướng tình dục trong cuộc đời của một người, đặc biệt là phụ
nữ. Vì vậy chúng ta phải rất thận trọng và cân nhắc khi thấy
một lá số nữ mệnh có cách TPVT. Bởi vì lời giải đoán là sự
đánh giá về danh tiết và phẩm hạnh của đương số. Điều đó
đối với một người đàn bà tối ư quan trọng.

Trường hợp nữ mệnh có TPVT nằm trong các cường cung như
Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di, Thê mà chính cung có những sao
chủ sự đoan chính, hay những sao có khả năng khắc chế tính
lãng mạn, dâm đãng, lẳng lơ, sự buông thả trong vấn đề tình
dục, thì lá số đó sẽ có 2 trường hợp:

1. “Tiền Dâm Hậu Thú” có nghĩa là ăn ở với nhau trước rồi


mới cưới hỏi sau. Với nhịp sống của một xã hội tân tiến hôm
nay thì vấn đề này trở nên hết sức bình thường. Nhưng nếu
ngược trời gian trở về một thế kỷ trước đây thì qủa là một

54
điều khó có thể chấp nhận được. Điều lý thú là khoa Tử Vi có
thể nói lên những điều thầm kín ấy một cách khá chính xác.

2. Sao Thai, Phục Binh nói lên sự hư thai, Đế Vượng ý nói


nhiều lần. Đương số có thể gặp cả hai trường hợp nêu trên.

Cũng cách TPVT nhưng Mệnh và các cung chính lại không có
những sao khắc chế, ngược lại có thêm những dâm tinh khác
như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu, Mộc Dục…..đồng thủ
hay hợp chiếu thì đương số sẽ thất trinh, thất tiết với người
khác khi lấy chồng, hoặc sống với nhau theo kiểu già nhân
ngãi, non vợ chồng, chứ không có cưới hỏi gì.

Trường hợp nữ Mệnh gặp cách TPVT mà cung Mệnh và những


cung chính bị nhiều sát tinh như Địa Không, Địa Kiếp đồng
cung hay hợp chiếu thì sự thất tiết có thể là do hoàn cảnh
hay tai nạn ngoài ý muốn. Không hẳn đương số là hạng đàn
bà lẳng lơ mất nết.

Trường hợp có sao Thai thủ Mệnh, nhưng không đủ 4 sao mà


Thai lại gặp Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ đồng cung hoặc
hợp chiếu thì ý nghĩa ở đây không những chỉ đơn thuần vấn
đề ăn ở với nhau trước khi cưới hỏi mà còn chỉ bản tánh lẳng
lơ, mất nết, thích chuyện ngoại tình, cho nên phú Tủ Vi mới
có câu:

“Đào Hồng mà ngộ sao Thai


Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng.”

55
hay

“Đồng Hồng mà ngộ sao Thai


Chồng vừa khỏi cửa đón trai vào nhà”

Trường hợp nữ mệnh có TPVT mà sao Thai cùng với những


dâm tinh khác tọa thủ tại Mệnh, mà đương số đã có gia đình
thì sẽ có thai do ngoại tình. Nếu Thai gặp Song Hao thì dễ bị
hư thai, gặp Lưu Hà hay Hóa Kỵ thì dùng thuốc mà phá thai,
hặp Thiên Hình hay Kiếp Sát thì nạo thai, hay khi sanh phải bị
mổ xẻ.

Nếu Thai tọa thủ tại Mệnh có Thiên Riêu đồng cung hay hợp
chiếu thì đây cũng là mẫu đàn bà có cuộc sống rất buông thả.
Nếu Thai Riêu gặp thêm Đào Hoa nữa thì phải chịu một kiếp
phong trần, và nếu không được những sao khắc chế bớt sẽ dễ
trở thành gái giang hồ, đàn bà lăng loàn, xem thường luân
thường đạo lý.

Cũng cách TPVT mà có Phục Binh thủ Mệnh hoặc xung chiếu
từ Thiên Di thì sự thất trinh của đương số thường là bị dụ dỗ,
cưỡng bức, hay gài bẫy. Nếu có thêm sát tinh Không Kiếp
đồng cung hay hợp chiếu thì càng chắc chắn hơn.

Trường hợp nữ Mệnh không thuộc cách TPVT nhưng trong lá


số bộ sao này nằm ở một cung nào đó thì chúng ta cũng nên
cân nhắc 2 trường hợp sau đây:

1. Mệnh của đương số là người đoan chính, đến hạn gặp TPVT

56
thì vấn đề sinh con đến trong hạn này.

2. Nếu Mệnh là người đa tình, lãng mạn mà hạn gặp TPVT


(phải đủ 4 sao) thì phải nên thận trọng trong vấn đề giao lưu
tình cảm. Trong hạn này (thường ứng nghiệm vào tiểu hạn 1
năm) cuộc đời sẽ có nhiều thay đổi, những khúc quanh trong
vấn đề tình cảm, và có thể khúc quanh này sẽ thay đổi cả
cuộc sống hiện tại của đương số.. Và một điều đáng lưu ý là
sự việc không chỉ đơn thuần trên vấn đề tình cảm mà TPVT
còn có ý nghĩa sâu đậm trên vấn đề xác thịt.

Đối với nam giới thì cách TPVT chỉ rõ bản tính đặt nặng vấn
đề vật chất hơn tình cảm. Trong tình yêu, họ cho rằng trái tim
và tâm hồn của người yêu chưa đủ, mà phải chiếm đoạt cho
được cả thân xác. Nếu hội thêm những sao như Tham Lang,
Phá Quân hãm địa, Không Kiếp, Quan Phù, Quan Phủ…..thì
đương số chắc chắn là bà con của họ Sở.

Tóm lại, trong cách TPVT, đặc biệt đối với phụ nữ thì nói lên
sự chủ ý hay tự nguyện của đương số nặng hơn là vì hoàn
cảnh, hay tai nạn như cách Cự Kỵ. Nhìn chung, mẫu người
TPVT có thể bao gồm mọi thành phần, mọi giai cấp trong xã
hội, từ một người đàn bà tầm thường cho đến một mệnh phụ
phu nhân, vì đây chỉ là lãnh vực tình cảm hay khuynh hướng
tình dục, là vấn đề phẩm hạnh của con người.

BÀI 14

MẪU NGƯỜI “KHỐC HƯ”

57
Thiên Khốc và Thiên Hư chỉ là hai sao nhỏ trong những phụ
tinh của khoa Tử Vi. Nhưng không phải vì thế mà chúng
không có ý nghĩa gì đáng kể trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta. Thật vậy, con người khi lọt lòng mẹ đã cất tiếng
khóc chào đời, khi lớn lên cũng qua tiếng cười mà biết được
niềm hạnh phúc, cũng như tiếng khóc đễ biết được nổi thống
khổ, thành bại ở đời. Khốc Hư là biểu tượng của 2 giọt nước
mắt, vì vậy cho dù bất cứ lãnh vực nào của cuộc đời, khi nói
đến sức khỏe, tình duyên, hôn nhân, tiền bạc, hay công danh
sự nghiệp thì sự hiện diện của Khốc Hư cũng cho ta biết
đương số khi nào đi vào những lãnh vực này, con đường với
những nụ cười thoải mái hay con đường đầy nước mắt thương
đau.

Chẳng hạn, chưa nói đến khốc hư tọa thủ tại Mệnh mà chỉ nói
đến Khốc Hư tọa thủ tại cung Quan Lộc thì cũng hiểu được
công việc làm của đương số phải vất vả, lận đận, ba lần bại
mới được một lần nên. Cùng một ngành nghề nhưng người có
Khốc Hư ở Quan Lộc phải lao tâm khổ lực hơn những người
không có. Nếu Khốc Hư ở Tài Lộc thì đồng tiền kiếm được
chắc chắn phải đổi bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc Hư
ở Phu Thê thì việc hôn nhân phải trải qua nhiều trở ngại, nếu
ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng nhiều hơn là nụ cười.
Khốc Hư ở cung Tử Tức thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ, đến
khi con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con
cái. Khốc Hư ở Nô Bộc thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả
người tình của mình đều thường xuyên đem đến những phiền
muộn cho mình trong việc giao tế, làm ăn và chuyện tình

58
cảm.

Thiên Khốc, Thiên Hư đều thuộc hành Thủy, đắc địa ở Tí, Ngọ,
Mão, Dậu, và Mùi. Là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, cho nên
người có KH thủ Mệnh thường hay lo lắng, hay suy tư, và
cũng rất hay bị đau ốm bệnh tật. Đây là mẫu người kín đáo
và có phần cô đôc tựa như Vũ Khúc hay Đẩu Quân thủ Mệnh
vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha mẹ, anh
em. Khi có gia đình thì khắc với vợ con, nhưng sự xung khắc
không đến nổi trầm trọng. Người KH nếu chưa qua khỏi tiền
vận thì đừng nên toan tính nhiều để rồi thất vọng. Muốn được
xứng ý toại lòng phải từ trung vận trở về sau.

Tuy nhiên, nếu trên cương vị một người chủ hay một cấp chỉ
huy thì mẫu người KH thủ Mệnh là một cấp thừa hành tốt vì
họ là người có tinh thần trách nhiệm. Giao việc cho họ, chúng
ta sẽ thấy họ lo lắng, suy nghĩ, soạn thảo kế hoạch, đắn đo
cân nhắc rất thận trọng. Và khi đã làm thì làm đến nơi đến
chốn.

Nhưng oái oăm thay, với tinh thần làm việc như thế mà ít khi
người KH đạt được kết qủa một cách dễ dàng ngay từ phút
đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi mẫu người KH là “Tiền Trở Hậu
Thành” Có nghĩa là thường bị trở ngại lúc đầu rồi sau đó mới
thành công. Tuy nhiên đặc tính Tiên Trở Hậu Thành chỉ ảnh
hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà thôi, rồi sau đó sự tác hại
sẽ nhẹ dần. Về đặc tính này, người KH có phần nào giống
người Vô Chính Diệu: trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và
trong cả một đời người, chỉ được may mắn, hanh thông vào

59
nửa đời sau mà thôi.

Có phải chăng vì vậy mà người KH rất có ý chí, luôn luôn có


gắng để vươn lên trong mọi tình huống. Khi vượt qua khỏi cái
tiền vận gian nan sẽ bước vào một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm
nổi bật của người KH là khả năng thuyết phục người khác, có
tài hùng biện và rất sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu KH
đi chung với Cự Nhật hay Tang Hổ thì đây là những thầy giáo
giỏi, những nhà ngoại giao hay chính khách có tài.

KH có hai vị trí tốt đẹp là hai cung Tí và Ngọ mà chúng ta


quen gọi là Khốc Hư Tí Ngọ là cách tiền bần hậu phú. Nếu
Mệnh an tại Tí/Ngọ có KH đồng cung (ờ Tí tốt hơn Ngọ) thì
cuộc đời trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi ở vào thời điểm
nào, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.

BÀI 15

MẪU NGƯỜI “VĂN TINH ÁM CỦNG”

Khoa Tử Vi Đẩu Số đã có từ hơn 4000 năm nay cho nên


những ý niệm cũng như cách sắp xếp các sao đều đặt căn
bản trên một xã hội phong kiến. Mỗi sao là một biểu tượng.
Có sao biểu tượng cho một vị Vua như Tử Vi, có sao biểu
tượng cho quan văn như bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, cho quan
võ như Sát Phá Liêm Tham, cho giới sĩ phu như Xương Khúc,
Khôi Việt, Hổ Tấu v.v….. Đặc biệt hai sao Văn Xương, Văn
Khúc được gọi là văn tinh, biểu tượng cho văn cách của học

60
vấn và khoa bảng.

Văn Xương là bắc đẩu tinh, hành kim, còn có tên là Văn Quế,
chủ về văn học và sự cao quý. Văn Khúc là nam đẩu tinh,
hành thủy, có tên là Văn Hoa, chủ về nghệ thuật và sự sinh
đẹp. Cả hai đều đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi. Khi
đắc địa Xương khúc chủ về công danh qua con đường khoa
bảng. Những người Mệnh có Xương Khúc tọa thủ đồng cung,
xung chiếu hay hợp chiếu thì khoa Tử Vi gọi là cách Văn Tinh
Ám Củng.

Đây mà mẫu người thông minh và hiếu học, có năng khiếu


đặc biệt về văn chương, thi phú, ca nhạc, kịch, điêu khắc, hội
họa…..nói chung là lĩnh vực văn học và nghệ thuật. Cho nên
Xương Khúc đắc địa mà gặp thêm Đào Hồng Hỷ hoặc Long
Phượng Tuế Tấu thì đây là số của những ca nghệ sĩ , tài tử
điện ảnh nổi danh.

Người đắc cách Văn Tinh Ám Củng (VTAC) thường theo học
những khoa về văn chương, nhân văn ngoại ngữ, và nếu toàn
bộ lá số tương đối tốt, họ là những người đạt được bằng cấp
cao và đặc biệt là có năng khiếu về sinh ngữ. Trường hợp
Xương Khúc hãm địa thì đường học vấn của họ thường bị
dang dở, nhưng vẫn có năng khiếu về nghệ thuật. Cho nên họ
thường là những người khéo tay. Nếu sinh hoạt trong ngành
thủ công như đan, may, thêu, dệt, thợ bạc, nghề tóc,
nails.v.v….. thì tuy không giàu có nhưng suốt đời cũng được
cơm no áo ấm.

61
Đặc biệt đối với nữ mệnh, người có Xương Khúc dù đắc hay
hãm thì cũng là người có nhan sắc, biết cách ăn mặc và khéo
trang điểm. Chữ nhan sắc đây không chỉ nói đến vẻ đẹp trên
khuôn mặt mà còn phải nói đến một thân hình đẹp, nhất là
bộ ngực bởi vì Xương Khúc là biểu tượng của đôi nhủ hoa của
người đàn bà.

Tuy nhiên khi nói về nhan sắc của một người đàn bà qua lá
số, chúng ta phải phân biệt cái đẹp của Đào Hoa và cái đẹp
của Xương Khúc khác nhau ở chổ nào. Đào Hoa là nét đẹp lộ
hẳn ra bên ngoài, tất cả vẻ đẹp hầu như đều lộ rõ trên khuôn
mặt như một đóa hoa đã nở, cái đẹp của một khuôn mặt mà
khoa tướng mệnh gọi là Đào Hoa Diện, vẻ đẹp trên phương
diện thẫm mỹ, nhưng chưa hẳn đã đẹp dưới cái nhìn của khoa
tướng mệnh. Nét đẹp của Đào Hoa dễ lôi cuốn, khêu gợi, hấp
dẫn, dễ thu hút đối phương ngay từ phút ban đầu. Nhưng khi
tiếp xúc lâu hơn, có thể gây cho đối phương một chút thất
vọng nào đó chẳng hạn như ăn nói không có duyên, hời hợt
bên ngoài, suy nghĩ nông cạn, cởi mở qúa trớn hay suồng sã
lẳng lơ…..

Ngược lại, nét đẹp của Xương Khúc không loè loẹt phô trương
như Đào Hoa. Có thể nói cái nét duyên dáng nhiều hơn là
đẹp. Một người có Xương Khúc thủ Mệnh thì nhan sắc có thể
chỉ ở mức trung bình, nhưng khi tiếp xúc càng lâu thì càng bị
thu hút bởi cái duyên ngầm, cái nét đa tình hấp dẫn, hoặc có
thể do những yếu tố khác như sự thông minh, có kiến thức,
và có trình độ học vấn, có chiều sâu tâm hồn, ăn nói khéo
léo, tế nhị, hoặc có một tâm hồn lãng mạn…..

62
Tuy nhiên, nữ Mệnh có Xương Khúc đặc địa thì ngoài những
đặc tính vừa nêu trên, có thể nói đây là mẫu người đàn bà có
một bản năng tình dục rất mạnh, nhưng khác với sự buông
thả, lẳng lơ của Đào Hoa ở chổ họ có thể tự kiềm chế được.
Họ chỉ bộc lộ điều này với người yêu hay vợ chồng của họ mà
thôi. Và trong cái khung cảnh của xã hội ngày nay, có lẽ đây
không hẳn là một điều xấu. Có thể nói, đối với những người
đàn ông có khuynh hướng cởi mở trong vấn đề tình cảm thì
người đàn bà có Xương Khúc thủ mệnh đúng là một người
tình lý tưởng.

Nhưng trường hợp nữ mênh có Xương Khúc hãm địa tọa thủ
thì khuynh hướng buông thả trong vấn đề tình cảm và tình
dục rất gần với Đào Hoa. Do đó, cuộc đời phải ba chìm bảy
nổi và nhiều phiền muộn với chồng con. Nếu Xương Khúc
hãm địa mà lại gặp thêm sát tinh, hung tinh hội chiếu thì đây
là mẫu người đàn bà hình phu khắc tử, có nghĩa là số sát
chồng, hại con.

Nữ Mệnh có Xương Khúc hãm địa và có Thiên Riêu đồng cung


hay hợp chiếu là người mê tính dị đoan, thích những chuyện
đồng bóng. Nếu bộ ba Xương, Khúc, Riêu gặp thêm Hóa Kỵ
thì đây là người đàn bà có bề ngoài rất kiều mị, ai gặp cũng
phải động lòng vì nét hấp dẫn và lôi cuốn. Nhưng bản tính rất
dâm đãng, cuộc sống rất phóng túng, buông thả và tuổi thọ
cũng chẳng được bao nhiêu.

Trường hợp Mệnh có Văn Khúc và Vũ Khúc đắc địa đồng thủ,

63
đây là cách Nhị Khúc Vượng Cung, là người văn võ song toàn,
công danh sự nghiệp rất bền vững. Đặc biệt đối với những
người tuổi Giáp có sự ứng hợp nên càng tốt đẹp hơn những
tuổi khác. Mẫu người Nhị Khúc Vượng Cung thường lúc nào
cũng có 2 nghề, hoặc sinh hoạt trong hai lĩnh vự khác nhau
và đối nghịch nhau nhưng bên nào cũng đều đạt mức thành
công dễ dàng.

Trường hợp cung Mệnh an tại Tứ Mộ có Tham Lang và Hỏa


Tinh tọa thủ đồng cung, thì đây là cách Tham Hỏa Tương
Phùng, một dạng của cách Tham Vũ Đồng Hành mà chúng ta
đã nói đến. Nếu cách này có thêm Văn Khúc đắc địa đồng
cung hay hợp chiếu thì đương số là người có chức tước và địa
vi cao trong xã hội.

Tóm lại mẫu người VTAC là người rất lý thú khi chúng ta tiếp
xúc, kết giao bằng hữu, cộng tác làm ăn, và cũng là những
người tình, người chồng hay người vợ lý tưởng. Nếu Xương
Khúc không nằm trong một lá số qúa tệ thì họ là những người
có phong cách, có trình độ, có chiều sâu tâm hồn. là những
nhà văn, nhà thơ, những ca nhạc sĩ nổi danh…..

Riêng đối với phái nữ thì đây là người có nhan sắc, duyên
dáng và đa tình. Thật xứng với cái tên Văn Quế, Văn Hoa mà
khoa Tử Vi thường gọi.

BÀI 16

MẪU NGƯỜI “DỊCH MÔ

64
Dịch Mã chỉ là một phụ tinh nhưng lại đóng những vai trò khá
quan trọng trong một lá số. Có thể nói từ lá số của một bậc
quân vương, một danh tướng, một thương gia, hay một người
bình dân mà đến thời điểm nào đó trong cuộc đời tạo dựng
được những công danh sự nghiệp cho mình thì hầu như lá số
của họ không thể không có sự góp phần của Thiên Mã. Lý do
thật đơn giản vì Thiên Mã là biểu tượng của tài năng. Bởi vậy,
một lá số mà cung Mệnh và cung Thân có Thiên Mã tọa thủ
gọi là cách Dịch Mã.

Người ta thường cho rằng Thiên Mã thuộc hành Hỏa và trong


12 cung của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần, Thân,
Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Trong
khoa Tử Vi, Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc
phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu bay, tàu hỏa…..

Đặc tính chủ yếu của người Dịch Mã là tính năng động, tháo
vác, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển, thích tranh cãi,
hay thay cũ đổi mới…..Vởi những đặc tính ấy cho nên Thiên
Mã không chỉ ảnh hưởng ở hai cung Mệnh và Thân mà nó còn
tác động mạnh mẽ vào các cung chính như Quan Lộc, Thiên
Di…..là những lãnh vực của công danh và sự nghiệp.

Tuy nhiên khi nói đến mẫu người Dịch Mã, chúng ta phải hiểu
rõ ý nghĩa của chữ “dịch” là xê dịch, chuyển đổi, di chuyển,
biến động….. do đó cũng có người cho rằng hành của Thiên
Mã thay đổi theo hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có
nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở Dần (hành Mộc) thì Mã ứng với

65
người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã ứng cho người
mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã ứng với
người mạng Kim và Thủy…..v.v. Nhu vậy, khi hành của Thiên
Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì đương số là người có tài
năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng của
mình. Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời
lại không được những vận hội may mắn, không được đời biết
đến khiến cho tài năng phải bị mai một như một kẻ sinh bất
phùng thời.

Người có Mệnh an ở hai cung Dần Thân có Tử Phủ và Thiên


Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe
cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ cố
vấn, phụ tá cho các cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay
giám đốc của một cơ sở hành chánh, thương mại…..Hoặc
cũng có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính
thức nhưng ra đời thường được kề cận với những người có
quyền thế trong xã hội.

Người có Thiên Mã thủ Mệnh và có Nhật Nguyệt đồng cung


hay hợp chiếu là cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ
người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về văn
nghiệp hơn là võ nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu
rộng, có trình độ học vấn, có năng khiếu về các ngành như
ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi vào
những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này
sẽ đạt được những công danh sự nghiệp một cách dễ dàng,
và có người có thể thành công trên cả hai lĩnh vực cùng một
lúc. Chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu

66
có nhờ làm thương mại. Người Thư Hùng Mã có khả năng
song thủ hỗ bác tương tự như người có Thân cư trong tam
hợp Phúc, Di, và Phu Thê.

Người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn đồng cung là cách Chiết Tiễn,
có nghĩa là bẻ roi đánh ngựa, giục ngựa lên đường, chỉ người
có tài. Khởi sự làm gì cũng được may mắn thuận lợi. Nếu
Thiên Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Thiên Di xung chiếu thì đây là
cách Lộc Mã Giao Trì, ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là
người được vận hội may mắn, được thừa hưởng những công
lao thành qủa của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc
Tồn là lộc trời cho, nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ
những người trở nên giàu có nhờ trúng số, hoặc được thừa
hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc Mã
mưu sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may
mắn.

Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh là
Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ người có tài năng là
thường là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là số
của những quân nhân được thăng cấp rất nhanh chóng. Tuy
nhiên cách Chiến Mã này tiềm tàng những tai họa về chân
tay như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách
hóa giải. Nếu đủ bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại
từ nhỏ, hoặc bị bại liệt do các chứng bệnh khác đưa đến như
bị tai biến mạch máu não, tiểu đường .v.v…..

Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Khốc, Điếu Khách là


cách Mã Khốc Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc vàng, chỉ

67
những người có tài năng, có danh tiếng trong một lãnh vực
nào đó. Hạn gặp Mã Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến,
là thời điểm mà danh tiếng của mình được người đời biết đến.
Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng gặp được
những cơ hội may mắn như được cấp trên giao phó công việc
và được tín nhiệm hay thăng thưởng do khả năng và những
thành qủa tốt đẹp của mình.

Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi Liêm đồng cung hay
xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay như trong
truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự như Mã
Khốc Khách, chỉ người có tài năng và được nhiều may mắn,
làm việc gì cũng thành chông dễ dàng và nhanh chóng. Hạn
gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển. Nếu khởi sự một
điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn
là thời cơ đã đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với
những công việc đi đây đi đó, cuộc đời là những chuyến hành
trình không dứt.

Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Hình đồng cung là cách Phù Thi
Mã, là ngựa kéo xe tang. Người có cách này suốt đời cực khổ,
làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại nhiều, và
thường gặp toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn
khổ, tang tóc triền miên. Hạn gặp Mã Hình thì phải hết sức
thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến trong thời gian
này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của
mình.

Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La đồng cung gọi là Mã Đà hay

68
Chiết Túc Mã. Có ý nghĩa là ngựa què, chỉ những người không
được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn
chung toàn là những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người
khác làm thì thuận lợi may mắn, mình làm thì khó khăn, trở
ngại. Bởi vậy trên phương diện dùng người, thì giao một công
việc cần có kết qủa sớm, hay một kế hoạch quan trọng cho
người có số Mã Đà hay đang trong vận Mã Đà thì đây là một
quyết định từ sai lầm đến mạo hiểm của người có trách
nhiệm.

Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt đồng cung, gọi là Mã Tuyệt hay
Cùng Đồ Mã. Có nghĩa là ngựa chạy đến đường cùng, chỉ
người làm việc thường thất bại, cuộc đời thường lâm vào cảnh
bế tắc. Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp tuần triệt, gọi là Tử
Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn
nặng hơn Cùng Đồ Mã.

Thiên Mã là một trong những lưu tinh (sao lưu) khi xem hạn.
Có nghĩa l2 vị trí của Thiên Mã sẽ thay đổi theo mỗi năm và
gọi là Lưu Thiên Mã. Đó cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch”
khi gọi Thiên Mã là Dịch Mã.

Khi xem hạn, nếu thấy Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung,
xung chiếu hay hợp chiếu thì những điều sau đây sẽ xảy đến
trong vận hạn: mua xe, đổi xe, đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du
lịch v.v…..Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi. Ví dụ: nếu
đã đổi chổ ở thì sẽ không thay đổi việc làm, đi xa v.v…..
Nhưng cũng rất có thể xảy ra hai sự việc cùng một lúc. Những
gì thay đổi trong vận hạn ít nhiều tùy theo vị trí của Thiên Mã

69
và Lưu Thiên Mã đồng cung hay xung chiếu. Mức độ tốt xấu
của sự việc còn tùy thuộc vào những sao chi phối trong hạn
đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm việc khác. Cũng
có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt).

Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã điều quan trọng mà chúng ta
phải cân nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh.
Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành của Mã sinh cho hành của
bản Mệnh thì Mã này mới là Mã của mình. Ngược lại nếu
không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà thôi.

Trên thực tế chúng ta thấy hai lá số đều có Thiên Mã thủ


Mệnh nhưng khả năng và sự may mắn của hai người hoàn
toàn khác nhau rất nhiều. Người có Thiên Mã không hợp với
bản Mệnh thì cũng là người có tài năng nhưng tánh tình rụt
rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và không có ý chí phấn đấu để
nắm lấy cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất đắc chí.

Với một lá số trung bình trở lên, người Dịch Mã là người đa


tài. họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể thành công trên
nhiều lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động,
thích sự đổi thay và những chuyến hành trình như những
bông hoa tô thắm cho cuộc đời của họ. Về khía cạnh này, cá
tính của người Dịch Mã có phần nào giống như mẫu người
Thân Cư Thiên Di mà chúng ta đã đề cập trước đây.

BÀI 17

MẪU NGƯỜI “ĐÀI CÁC”

70
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ cho nên có nhiều người khi giải
đoán lá số thường ít khi để ý đến sao này. Thật ra, tuy chỉ la
phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng có thể tạo nên bản chất đặc biệt
của mẫu người mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống
hằng ngày. Biết đâu, có thể người đó là chính mình, chồng
mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của mình hay
một người nào đó mà mình quen biết.

Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng, thuộc hành Kim và không
thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của phụ tinh
này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Các Tinh. Chỉ
hai chữ Đài Các cũng đã nói lên bản chất của những người
Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư Thiên Di và có thể gọi
chung là mẫu người Đài Các.

Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng diện, sự sang trọng quý
phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh, dù
là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng
thanh nhã, nói năng và cư xử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu
người rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn
mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái
tóc, chọn lựa một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu
son phấn nào đó cho phù hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện
đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu cầu cần thiết
như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa để
khoe sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ.

Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh

71
nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Thái Âm, Đào Hồng
Hỷ…..là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời
trang, diễn viên kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v…..Nếu là
những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng,
dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng
khuynh hướng lãng mạn.

Dưới thời đại phong kiến của Trung Hoa, cái quan niệm vương
quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như Long chầu,
Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4
biểu tượng đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Các, Hoa
Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền, hiễn đạt hay công danh sự
nghiệp.

Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ Mệnh nhưng phía trước
của Mệnh, Thân, Thiên Di, Quan Lộc có Hoa Cái, phía sau có
Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là
lọng đi trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà
chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt
về công danh và sự nghiệp.

Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa thủ ở cung Thiên Di, bản
tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm
đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới
thương mến. Có thể vì tính tình của họ vui vẻ, thân thiện, cởi
mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ
nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có
cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa
Cái cư Thiên Di rất thích hợp với những công việc như chào

72
hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại giao v.v…..

Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái có thể thay đổi tùy
theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn, người có
Hoa Cái thủ Mệnh sẵn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp
thêm Đào Hoa, Mộc Dục, Riêu…..thì sự lãng mạn sẽ đi qúa
trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm và tình dục.
Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài
các…..Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này
cũng thuộc loại giai cấp thượng lưu, của những kẻ có tiền, có
quyền lực.

Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ Mệnh cũng thích sửa
soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa…..Hoa Cái ở đây cũng
nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số.
Mức độ nặng hay nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.

BÀI 18

MẪU NGƯỜI “ĐÀO HOA”

Đà Lạt là thành phố của mộng mơ và nổi tiếng bởi những


cành hoa Anh Đào khoe sắc trong nắng ấm mùa xuân. Màu
hồng nhạt của hoa Anh Đào như màu má của những người
con gái Đà Lạt ở tuổi xuân thì hấp dẫn biết bao du khách, và
cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho người văn nghệ sĩ. Có
phải chăng vì vậy mà người ta đã dùng tên của loài hoa này
làm biểu tượng cho những người có một sức hấp dẫn, thu hút

73
người khác? Trong khoa Tử Vi Đẩu Số, một phụ tinh có cùng ý
nghĩa như vậy và cũng mang tên Đào Hoa, cho nên có thể
nói, những người có số Đào Hoa thủ mệnh là mẫu người Đào
Hoa mà chúng ta sẽ bàn đến.

Sao Đào Hoa và Hồng Loan thường đi đôi và có cùng chung


một đặc tính. Đào Hoa hành Mộc, Hồng Loan hành Thủy.
Những sách Tử Vi không đề cập đến những vị trí đắc địa hay
hãm địa của Đào Hồng. Tuy nhiên, có người căn cứ trên thực
tại để định những vị trí tốt xấu của Đào Hồng. Như cung Mão
được xem là vị trí tốt nhất của Đào Hoa vì cung Mão là thời
điểm của bình minh, những cánh hoa còn đọng sương mai,
khởi đầu của sự khoe sắc tươi thắm rực rở nhất trong ngày.
Cung Ngọ là giữa trưa, hoa không còn tươi thắm nữa vì bị
nắng cháy. Cung Tí thì ở vào ban đêm, là thời điểm mà hoa
đã khép cánh.

Quan niệm này cũng hợp lý, tuy nhiên vẫn có những loài hoa
chỉ nở về đêm như hoa Quỳnh, Dạ Lý Hương, Thiết Mộc Lan
v.v….. chỉ khoe sắc và tỏa hương nồng trong bóng tối mà
thôi. Đã mang kiếp hoa thì tất phải sớm nở tối tàn, dù cho rực
rở trong buổi bình minh thì có còn tươi thắm được đến buổi
bình minh hôm sau chăng?

Nhưng nếu nói theo quan điểm trên, Đào Hoa đắc địa ở Tí,
Ngọ, Mão, Dậu tức là Tứ Tuyệt, Hồng Loan đắc địa ở Dần
Thân Tỵ Hợi tức Tứ Sinh, thì quan điểm cũng có cái triết lý khi
phân tích về bản chất của Đào Hồng, là hai sao biểu tượng
cho phái nữ. Khi nói Đào Hoa ở Tứ Tuyệt, chúng ta có thể

74
tưởng tượng hoàn cảnh của một cô con gái có nhan sắc
nhưng tư nhỏ đã sinh sống trong một hoàn cảnh rất nghiệt
ngã, khiến cho người con gái này phải có đầy đủ thủ đoạn để
sinh tồn. Còn ngược lại, Hồng Loan ở tứ sinh như một người
con gái khuê các, nên bản chất hiền lương đoan chính.

Tuy vậy, theo thiển ý của người viết, vị trí của Đào Hồng
không quan trọng bằng những sao mà Đào Hồng trao duyên
gởi phận, và điều này sẽ được dẫn chứng ở phần sau. Ở đây,
chỉ lấy một ví dụ, bất kể Đào Hoa ở vị trí nào mà khi gặp
Hồng Loan và Thiên Hỷ thì trở thành bộ sao tốt gọi tắt là Đào
Hồng Hỷ hay còn gọi là Tam Minh.

Đối với khoa Tử Vi, Đào Hồng đều là biểu tượng của sự sinh
đẹp, cho nên có ý nghĩa chỉ về phái nữ nhiều hơn phái nam.
Người có Đào Hoa hay Hồng Loan thủ mệnh, dù nam hay nữ
đều có nhan sắc, đẹp trai, đẹp gái. Nét mặt lúc nào cũng vui
tươi, tính tình vui vẻ cởi mở. Tuy nhiên, chúng ta phải phân
biệt cái đẹp và cái nết của hai sao Đào Hồng khác nhau ở
điểm nào?

Khi nói về nhan sắc, hàm ý nói về phái nữ, cái đẹp của Đào
Hoa là nét đẹp lộ liễu ra bên ngoài, lồ lộ như một đóa hải
đường, vẻ đẹp mà khoa Tướng Mệnh gọi là Đào Hoa Diện,
hoặc Đào Hoa Nhãn, là nét đẹp có sức hấp dẫn, lôi cuốn thu
hút người đối diện ngay từ phút ban đầu từ khuôn mặt, đôi
mắt, cử chỉ, lời ăn tiến nói có vẽ lôi cuốn, lẳng lơ, hoặc có một
lối sống buông thả…..

75
Cái đẹp của Đào Hoa có thể nhìn thấy ở bất cứ tầng lớp nào
trong xã hội, từ một mệnh phụ phu nhân cho đến một người
mẫu, một diễn viên, một thôn nữ, thậm chí một cô gái giang
hồ….. Nhưng địa vị và vẻ đẹp bên ngoài đó không bảo đảm là
nết hạnh của họ cũng tốt đẹp như vậy.

Còn nét đẹp của Hồng Loan là nét đẹp của sự nhu tình, duyên
dáng, thanh cao, quý phái, đài các. Cái đẹp nghiêng nhiều về
tinh thần hơn là vật chất. Nữ mệnh có Hồng Loan có thể chỉ là
một người đàn bà nhan sắc trung bình, nhưng có duyên, là
mẫu người nhu mì và có chiều sâu tâm hồn. Tuy nhiên, khi đi
chung với Đào Hoa cả hai sẽ có ảnh hưởng tương hỗ nhau.
Hồng Loan chỉ chế giảm được một phần nhỏ khuynh hướng
vật chất và buông thả của Đào Hoa mà thôi, còn phần lớn là
bị lôi cuốn bởi Đào Hoa.

Ngoài ý nghĩa về nét đẹp và tính nết, Đào Hồng còn chủ sự
nhanh chóng, sớm sủa, dễ dàng và may mắn. Chẳng hạn,
Đào Hồng tọa thủ ở Mệnh, cung Thiên Di, hay cung Quan Lộc
là số của những người ra đời sớm, đi làm sớm hay có công
danh sự nghiệp sớm hơn những người cùng lúa tuổi với mình.
Đây cũng là số của những người có nhiều may mắn trong vấn
đề học hành thi cử, và khi ra trường lại tìm được việc làm dễ
dàng hơn những người khác. Nếu cung Tài Lộc có Đào Hồng
tọa thủ thì đương số sớm làm ra tiền và kiếm tiền một cách
dễ dàng.

Nếu hai sao Đào Hồng gặp thêm Hỷ Thần hay Thiên Hỷ chủ
sự may mắn về thi cử, sự thăng quan tiến chức, cũng là việc

76
cưới hỏi. Hạn gặp Đào Hồng Hỷ là sự báo hiệu một tin vui sắp
đến. Trong lãnh vực nghề nghiệp, Đào Hồng Hỷ chỉ những
người sinh hoạt trong các bộ môn ca nhạc kịch, điện ảnh.
Trong gia đình, Hồng Loan là biểu tượng của con gái, nếu
Hồng Loan gặp Thiên Khôi là chỉ người trưởng nữ.

Nhu vậy đối với khoa Tử Vi, mẫu người Đào Hoa là những
người cung Mệnh có Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ hay
xung chiếu. Đặc tính đáng chú ý của họ là sức thu hút đối với
người khác phái, họ là những người đắt đào, đắt kép, bước ra
khỏi nhà là có người thương, người theo, có người sẳn sàng
gánh vác, nâng đỡ mọi điều…..

Tuy nhiên, người Đào Hoa không phải lúc nào cũng được may
mắn tốt đẹp như vậy, nhất là đối với nữ phái. Nếu Đào Hồng
bất hạnh trao duyên gởi phận cho những sao xấu thì thà
đừng có Đào Hồng còn hơn. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hồng
tọa thủ, gặp Hóa Kỵ, Riêu hay Thai đồng cung hay hợp chiếu,
thì đương số là người đàn bà đẹp nhưng lẳng lơ, buông thả và
cuộc đời sẽ trầm luân với những buồn thương sầu hận. Nếu
Đào Hồng những sát tinh như Không Kiếp thì có thể nói là một
nỗi bất hạnh cho đương số.

Chúng ta lấy cuộc đời của Vương Thúy Kiều để làm một ví dụ
điển hình: mối tình đầu vừa chớm nở đã đành trao lại cho em
để bán mình vào lầu xanh. Tấm thân đã phải đổi chủ biết bao
nhiêu lần, rồi xuống tóc, rồi trầm mình, nhưng nợ trần đâu dễ
phủi tay? Đó là mẫu người Đào Hoa lụy vì tình, oan nghiệt vì
tình, vì nhan sắc mà gặp tai họa, hoặc là lâm vào hoàn cảnh

77
mà người đời thường hay gọi “trao duyên nhầm tướng cướp”
Nếu Đào Hồng ngộ Thiên Không thì cũng như Đào Hoa gặp
lửa, chắc chắn duyên phận phải bẽ bàng và có thể xa lánh cõi
đời bằng con đường tu hành như chuyện Lan và Điệp.

Đối với nam giới, nếu cung Quan Lộc có Đào Hồng thì đương
số ra đời sớm lý do có thể là do tính thích tự lập hoặc vì hoàn
cảnh đưa đẩy. Họ cũng là người lập được công danh sự
nghiệp rất sớm, và điều đáng nói là sự thành công đó không
hẳn hoàn toàn do khả năng của chính họ mà một phần là do
sự nâng đỡ, giúp sức của người khác phái, nguyên nhân chính
là vấn đề tình cảm. Tương tự, đối với nam mệnh mà cung Tài
Lộc có Đào Hồng thì đương số làm ra tiền một cách dễ dàng.
Nếu lá số tốt đẹp họ có thể là những người giàu có lúc còn trẻ
tuổi, và chắc chắn rằng sự thành đạt đó không thể thiếu sự
góp phần của người khác phái bởi những quan hệ tình cảm
đặc biệt nào đó., và đôi khi đó chỉ là tình cảm một chiều.

Chúng ta thường nghe câu: “sau lưng một người đàn ông
thành công là bóng dáng của một người đàn bà tài giỏi”
Nhưng không phải Đào Hồng lúc nào cũng cũng được may
mắn tọa thủ trong một lá số tốt đẹp để biểu tượng cho một
người đàn bà giỏi. Nam số nếu Mệnh hay cung Quan có Đào
Hồng gặp hung tinh, sát tinh thì hậu qủa sẽ là những gì mà
cựu Tổng Thống Clinton hay Thái Tử Charles đã gánh chịu.
Bởi vậy, trong lá số của người đàn ông nếu Đào Hồng gặp
những sao tốt như Tử Phủ hay Nhật Nguyệt…..thì đương số
được công thành danh toại. Với phái nữ, đó là hình ảnh của
một người vợ “vượng phu ích tử”, một hồng nhan tri kỷ.

78
Ngược lại, Đào Hồng gặp những sao xấu, thì Đào Hồng cũng
là một hồng nhan nhưng cũng là họa thủy. Chẳng hạn như
Đào Hồng ngộ Không Kiếp ở cung Mệnh hay cung Quan Lộc,
nhẹ thì như đã nói ở trên, nặng thì chung cuộc có khác gì
cảnh Hạng Võ phải biệt Ngu Cơ rồi tự vẫn bên bờ Ô Giang.
Hoặc nam mệnh có Đào Hồng tọa thủ ở cung Tài Lộc gặp
Song Hao, Địa Kiếp thì tiền kiếp được cũng nhờ đàn bà, tán
gia bại sản cũng vì đàn bà.

Đối với khoa Tử Vi, không phải chỉ có hai sao Đào Hoa và
Hồng Loan là biểu tượng cho mẫu người đào hoa mà còn có
nhiều sao khác như Liêm Trinh, là một sao võ cách nhưng vẫn
được mệnh danh là đào hoa tinh. Ý nghĩa đào hoa của Liêm
Trinh thường dùng cho Nam nhiều hơn Nữ. Đàn ông cung
Mệnh có Liêm Trinh, dù đắc hay hãm cũng là người có số đào
hoa họ có duyên ngầm, có một nét đa tình nào đó dễ thu hút
người khác phái. Tuy Liêm Trinh là một sao về võ cách nhưng
bản tính vốn liêm khiết và tự trọng cho nên trong tình trường,
họ thường bị người khác phái chủa động và tấn công trước.
Trong lĩnh vực tình cảm, Liêm Trinh có những đặc tính gần với
Hồng Loan hơn là Đào Hoa.

Tham Lang cũng là một đào hoa tinh, nhưng tình cảm của
Tham Lam rất giống Đào Hoa, nặng về vật chất, buông thả,
sa đọa. Nếu cung Mệnh an tại Tí có Tham Lang tọa thủ là
cách “phiếm Thủy Đào Hoa” = Hoa đào trôi theo dòng nước,
chỉ những người có tâm hồn lãng mạn, đường tình lao đao lận
đận, hoặc những người có cuộc sống buông thả, phong trần.
Cách Phiếm Thủy Đào Hoa có nghĩa ý đối với phái nữ nhiều

79
hơn Nam.

Thái Âm cũng là biểu tượng của người đào hoa bởi vì Thái Âm
mặt trăng, là nguồn cảm hứng bất tận cho người văn nghệ sĩ
từ cổ chí kim. Cho nên, người mà cung Mệnh hay cung Phúc
Đức có Thái Âm thì ít nhiều cũng là người đa tình lãng mạn,
yêu chuộng văn chương nghệ thật, là mẫu người sống vì
nhạc, thác vì tình. Đặc biệt đối với nam mệnh, nếu Thái Âm
tọa thủ tại cung Thê thì đương số là người đào hoa, thích bay
bướm, nhưng nể vợ, sợ vợ như Thúc Sinh trong truyện Kiều
vậy.

Ngoài ra một số sao khác như Cự Môn, Xương Khúc, Hoa


Cái…..hoặc một vài cách như Thai Phục Vượng Tướng, Cự Kỵ,
Tham Kỵ, Hoa Cái cư Thiên Di…... đều là đặc tính của mẫu
người đào hoa, ít hay nhiều, tốt hay xấu còn tùy vào mỗi lá số
hoặc những sao mà chúng đi chung.

Những sao khắc chế được tính đào hoa gồm có Thái Dương,
Hóa Khoa, Lộc Tồn, Tứ Đức, Thiên Hình, Thiên Không…..riêng
đối với nữ mệnh, Thiên Hình và Thiên Không có tác dụng khắc
chế qúa mạnh, không những làm mất hết tánh đào hoa mà
còn khiến đương số phải chịu cảnh lận đận trên đường tình
duyên. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hoa gặp Thiên Hình, đây
là người đàn bà có nhan sắc, nhưng tâm hồn khô khan, ăn nói
không duyên dáng…..hay nói một cách khác, đúng xa mà
nhìn thì thấy đẹp, nhưng đến gần thì chỉ là một cành hoa
giấy.

80
Từ những nét vừa nêu trên, chúng ta thấy rằng ý nghĩa chính
của Đào Hồng là sự sinh đẹp và tình ái. Cho nên Đào Hồng
thích hợp với tuổi trẻ hơn là lúc về già. Vì vậy, trong tiền vận
hay trung vận nếu gặp Đào Hồng + sát tinh nhập hạn thì
cũng không đáng sơ như khi ở hậu vận, nhất là đối với những
người mệnh Vô Chính Diệu.

Và sau hết, chúng ta cũng đừng quên rằng, mẫu người đào
hoa giống như lúc nào cũng nắm trong tay con dao hai lưỡi.
Con dao Đào Hoa trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu. trong hạnh
phúc có mầm móng của sự đau khổ.

Chúng ta thấy Đào Hồng cũng cùng một nguyên tắc như Nhật
Nguyệt đó là “chính bất như chiếu” Do đó cách tốt đẹp hơn
hết là Đào Hồng không nên tọa thủ ở Mệnh, nhất là đối vớ nữ
phái. Một chút nhan sắc trời cho mà phải đánh đổi cả một đời
truân chuyên, điều này thử nghĩ có đắng hay không? Vị trí tốt
nhất cho Đào Hồng là cung Quan Lộc hay cung Tài Lộc. tại
đây, Đào Hồng chiếu về Mệnh thì đương số vẫn là người có
nhan sắc, tuy nhan sắc không rực rỡ và phô bày cái đẹp ra
bên ngoài nhưng lại tránh được bốn chữ “Hồng Nhan Đa
Truân” Và nói chung cho cả nam nữ thì Đào Hồng ở hai cung
Tài và Quan giúp cho đương số thành công dễ dàng hơn trên
phương diện công danh và sự nghiệp chứ không chỉ trói buộc
đương số vào cái vòng tình cảm như khi Đào Hồng thủ Mệnh.

Đối với đàn bà, nhan sắc là trời cho nhưng hồng nhan đa
truân hay hồng nhan bạc mệnh thì cũng là ý trời. Dù nam hay
nữ, có thể một lúc nào đó, người đào hoa phải tự hỏi mình

81
được nhiều người thương là hạnh phúc hay phiền muộn?
Cũng như mấy ai biết được giữa hồng nhan tri kỷ va hồng
nhan họa thủy phải chăng chỉ là một đường tơ? Phúc hay họa
thì chỉ có khoa Tử Vi Đẩu Số mới trả lời cho chúng ta rõ ràng
mà thôi.

BÀI 19

MẪU NGƯỜI “TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ”

Trong truyện Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung có 4 nhân vật
đại gian , đại ác hợp thành một nhóm gọi là Tứ Ác, đứng đầu
trong nhóm tà đạo để chống lại phe chính phái. Khoa Tử Vi
cũng vậy, có sao thiện thì cũng có sao ác. Cầm đầu trong
nhóm hung tinh này là hai đại sát tinh Địa Không và Địa Kiếp
mà chúng ta thường gọi là Không Kiếp. Hai sao này cũng như
những sao khác, có thể nhìn thấy bất cứ một nơi nào trên lá
số, nhưng đặc biệt khi Địa Không tọa thủ tại cung Mệnh và
Địa Kiếp tọa thủ tại cung Thân, hoặc Kiếp ở Mệnh, Không ở
Thân làm thành cách Mệnh Kiếp Thân Không, và đó là mẫu
người đặc biệt, có thể gọi chung là mẫu người Không Kiếp mà
chúng ta sẽ bàn đến.

Trước khi phác họa những nét chính về cuộc đời của mẫu
người này, chúng ta hãy nói sơ qua những đặc tính của hai
sao này. Không Kiếp thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần Thân Tỵ
Hợi. Tại cung Tỵ và Hợi thì KHÔNG KIếP đồng cung cho nên
dù tốt xấu, uy lực của Không Kiếp sẽ gấp đôi so với Không
Kiếp xung chiếu nhau ở hai cung Dần Thân.

82
Xét về ngũ hành thì Không Kiếp tọa thủ tại cung Tỵ là tốt
nhất vì hành của sao và hành của cung cùng hành Hỏa. Vị trí
thích hợp thứ hai là cung Dần vì hành Mộc của cung tương
sinh cho hành Hỏa của Không Kiếp, làm cho uy lực của Không
Kiếp khá mạnh mặc dù là đơn thủ.

Nói chung, dù đắc hay hãm, KHÔNG KIếP chủ sự hung hiểm,
phá tán, bất hạnh, hoạch phát, hoạch phá. Dù nam hay nữ
mà cung Mệnh hay cung Thân có Không Kiếp đắc địa tọa thủ
cùng với những sao tốt là người kín đáo, thâm trầm, biết suy
xét, có mưu trí và rất gan dạ. Tuy nhiên người Không Kiếp
không được kiên nhẫn, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng
và sớm thấy kết qủa. Cho nên nếu không được như ý hay chỉ
thất bại lần đầu là nản chí ngay, bỏ cuộc dễ dàng. Nếu Không
Kiếp đắc địa cùng những sao xấu tọa thủ ở Mệnh thì những
đức tính thăng trầm, gan dạ sẽ biến đương số thành người
thủ đoạn và dễ đi vào con đường tà đạo.

Nếu hãm địa thủ Mệnh + những sao tốt, dù nam hay nữ, bản
tánh trở nên bất nhất, lúc chính, lúc tà, lúc tốt lúc xấu, vui
buồn bất chợt khiến cho những người giao tiếp với đương số
phải e dè. Nếu Không Kiếp hãm địa thủ Mệnh cùng với những
sao xấu thì tánh tình nham hiểm, xảo quyệt, thủ đoạn, hung
dữ, bạo ngược.

Người Mệnh / Thân có Không Kiếp đắc địa hay hãm địa
thường bị những chứng bệnh về da như mụt nhọt, ghẻ ngứa
vì dị ứng, những chứng bệnh về đường hô hấp như viêm phổi,

83
viêm cuống họng, hen suyễn, khó thở….. Đã mang danh là
đại sát tinh cho nên những bệnh tật hay tai họa do Không
Kiếp mang đến chắc không phải là đơn giản, nhẹ nhàng. Dưới
cái nhìn của khoa Tử Vi thì vấn đề chế giải tùy thuộc vào
phúc đức của mỗi người và tùy theo sự bất hạnh xảy ra ở thời
điểm nào trong cuộc đời. Không Kiếp như Đào Hồng, càng về
cuối cuộc đời thì càng tác hại nặng nề hơn lúc trẻ.

Trong cuốn Tử Vi Ảo Bí của Việt Viêm Tử có đề cập đến quan


điểm Không Kiếp Vô Luận. Quan điểm này cho rằng: những
người sinh vào tháng 4 (tháng Tỵ) và tháng 10 (tháng Hợi) thì
không bị Không Kiếp phá tán vì có sự ứng hợp với hai cung Tỵ
Hợi, là hai vị trí đắc địa của Không Kiếp. Quan điểm này đưa
đến 2 nghi vấn, đầu tiên là Không Kiếp an theo giờ sinh, vậy
tại sao chỉ vô luận đối với tháng sinh mà không áp dụng “vô
luận” với giờ sinh? Thứ hai là Không Kiếp cũng đắc địa ở Dần
Thân, nhưng tại sao những người sinh vào tháng Dần, và
tháng Thân lại không được hưởng cách Không Kiếp Vô Luận?
Theo quan niệm cổ xưa của phương đông, đàn ông chú trọng
đến công danh sự nghiệp, còn đàn bà nặng về chồng con. Đối
với người Không Kiếp thì hai chữ công danh, phú quý phải
nhìn theo một quan niệm căn bản của khoa Tử Vi, hung tinh
đắc địa phát dã như lôi, có nghĩa là hung tinh đắc địa sẽ phát
nhanh như sấm sét. Điều đó sẽ kéo theo một hệ qủa không
thể nào tránh được, bạo phát thì bạo tàn. Bởi vậy, người
Không Kiếp làm việc gì cũng đạt đến kết qủa một cách nhanh
chóng, nhưng những gì đã ở trong tầm tay lại khó giữ được
lâu bền.

84
Đó chính là hai mặt của Không Kiếp, con dao hai lưỡi, một tay
nâng mình lên, một tay xô mình ngã, càng cao danh vọng thì
càng lắm đau thương. Ý nghĩa đó chúng ta phải nhìn thấy để
đừng qúa tin tưởng vào sự tốt đẹp của Không Kiếp khi hai sao
này đắc địa, hoặc có những sao khác kiềm chế. Đặc tính của
Không Kiếp là như vậy, trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu, điều
mà chúng ta nghĩ là may mắn thì đó cũng chính là mầm
móng của tai họa trong nay mai. Bởi vậy cái quan niệm thà
một phút huy hoàng rồi chợt tắt, xem ra có vẽ thích hợp với
mẫu người Không Kiếp, cờ đến tay thì phất, có trong tay thì
hưởng.

Như vậy, những sao nào có thể kiềm chế nổi hai đại sát tinh
này? Có người cho rằng Tử Phủ miếu vượng thì đủ uy lực chế
ngự Không Kiếp. Nhưng theo thiển ý của người viết, nếu Tử Vi
hay Thiên Phủ cho dù có miếu địa mà đúng riêng lẻ một mình
cũng tối kỵ Không Kiếp. Tử Vi gặp Không Kiếp khác gì Vua bị
gian thần lộng quyền. Thiên Phủ mà gặp KHÔNG KIếP thì nhà
kho trống trơn. Nói chung, các văn tinh, sát tinh, quý tinh
không đủ uy lực để chế ngự hai đại sát tinh này mà chỉ có
những võ tinh như Sát Phá Liêm Tham và Thiên Tướng miếu
vượng là không sợ Không Kiếp. Trói buộc được Không Kiếp chỉ
có Tuần Triệt.

Trường hợp đặc biệt là các văn tinh chỉ có Nhật Nguyệt là
không sợ các sao “không” như Thiên Không, Địa Không mà
ngược lại, vì ý nghĩa chữ “không” đối với NN là một bầu trời
xanh thẳm không gợn áng mây, là điều kiện lý tưởng cho NN
tỏa sáng.

85
Đối với nữ Mệnh, Không Kiếp là hai sao bất hạnh cho đường
tình duyên. Nữ mệnh có Không Kiếp là người cao số, lúc thiếu
thời thì tình duyên lận đận, khi lập gia đình thì khắc chồng,
khắc con. Sự xung khắc nặng hay nhẹ thì vẫn tùy thuộc vào
từng lá số và mỗi thời điểm trong cuộc đời, lúc còn trẻ, nhẹ
thì sinh ly, giữa hay cuối đời, nặng thì tử biệt.

Nổi bất hạnh của nữ mệnh có KHÔNG KIếP còn tùy thuộc vào
những sao mà Không Kiếp đi cùng, chẳng hạn hư Đào Hồng,
Riêu Thai, Cự Kỵ, Tham Kỵ, Xương Khúc….. (điều này thấy
không hợp lý bởi vì KHÔNG KIếP không bao giờ đi cùng với
Xương Khúc. Các bạn nên cân nhắc vấn đề này) Gặp Không
Kiếp thì là cách hồng nhan bạc phận mà cũng có thể là bạc
mệnh. Tình duyên trắc trở, việc cưới hỏi gặp nhiều trở ngại,
làm kế, làm lẽ, hai ba đời chồng, bị chồng ruồng rẫy phụ bạc,
hay bạo hành vì tai nạn hay vì tính lẳng lơ, buông thả mà thất
trinh, thất tiết. Vì hoàn cảnh hay do mình tự chọn làm gái
giang hồ v.v….. đều là những nhịp cầu oan nghiệt mà người
đàn bà gặp những cách vừa nêu trên sẽ phải bước qua.

Tuy nhiên các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Không Kiếp thì
cuộc đời cũng khá nhiều gian truân nhưng không đến nổi tan
tác hay trầm luân như những tuổi khác. Nếu 4 tuổi Thìn, Tuất
Sửu, Mùi đắc cách Không Kiếp kiếp Tỵ Hợi thì công danh phú
quý sẽ đạt được một cách dễ dàng, và thật bất ngờ. Những
tuổi khác cũng được hoạch phát nhưng không giữ được lâu
bền.

86
Trong một lá số nếu Mệnh và Thân tốt thì cuộc đời từ ngày lọt
lòng mẹ cho đến khi tư giã cõi đời đều được sung sướng.
Hoặc nếu Mệnh Thân được một tốt, một xấu thì ít ra cuộc đời
cũng có một khoảng thời gian sung sướng. Trường hợp nếu
Mệnh và Thân cùng xấu thì cả cuộc đời là những chuỗi ngày
gian truân. Và đó là nét đặc biệt của mẫu người Mệnh Không
Thân Kiếp, hay Mệnh Kiếp Thân Không, một mẫu người có
đầy đủ tất cả những hình ảnh đã nêu trên. Và nếu Nguyễn Du
dùng truyện Kiều đễ diễn đạt cái quan niệm tài mệnh tương
đố của mình, thì chúng ta cũng có thể nói rằng, mẫu người
Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không là mẫu
người đa tài, đa năng, đa dạng và cũng đa truân, là mẫu
người mà khi bước chân vào đời đã phải ở trong cái vòng tài
mệnh tương đố của tạo hóa.

Tuy vậy, chúng ta cũng còn một biệt lệ cho những người
Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không sinh vào
các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì lại có sự ứng hợp, cho nên
cuộc đời sẽ chiết giảm được rất nhiều những điều bất hạnh do
Không Kiếp mang đến.

Nếu đã nói như vậy thì niềm an ủi cũng là sự kiêu hãnh mỗi
một khi mình vươn lên được trước những thử thách cay nghiệt
đó, càng phong trần danh ấy càng cao.

BÀI 20

MẪU NGƯỜI “BẠCH THỦ THÀNH GIA”

87
Khi nguyên cứu về khoa Tử Vi, chúng ta nên lưu ý một điều là
không phải chỉ những chính tình như Tử Vi, Thiên Phủ, Liêm
trinh, Thất Sát v.v….. mới là những sao làm nên chuyện lớn.
Nhưng đôi lúc, chỉ là những phụ tinh, nếu ở đúng cách, đúng
chỗ thì vẫn giúp đương số làm nên sự nghiệp một cách dễ
dàng. Đó chính là trường hợp của sao Kình Dương mà khoa Tử
Vi thường gọi là cách Kình Dương Độc Thủ, hay còn gọi là
mẫu người Bạch Thủ Thành Gia, có nghĩa là tay trắng làm
nên sự nghiệp.

Kình Dương thuộc nhóm bắc đẩu tinh, hành Kim, có tên là
Dương Nhận, chủ về sát phạt và hình khắc. Kinh Dương đắc
địa ở tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) Người có Kình Dương đắc
địa tọa thủ tại Mệnh thì thân hình cao và gầy, mặt xương,
tánh qủa quyết, can đảm, dũng mãnh, thích phiêu lưu mạo
hiểm, làm việc gì cũng muốn mau chóng. Là người túc trí đa
mưu, đa tài, đa năng và có lẽ vì vậy mà cái “tôi” rất lớn, dù
cho có giữ sự khiêm cung nhưng cũng khó có thể che giấu
được nét kiêu căng tự phụ vốn sẳn là bản chất.

Bởi những đặc tính vừa nêu trên, người có Kình Dương thủ
Mệnh rất thích hợp với võ nghiệp hoặc các ngành kinh doanh
về kỹ nghệ. Nam phái, Mệnh có Kình Dương đi kèm với bộ sao
Sát Phá Liêm Tham thì dễ làm nên sự nghiệp trên chiến
trường. Nhưng nếu Kình gặp thêm Linh Hỏa và Kiếp Sát thì
đây cũng là cách sinh nghề tử nghiệp, khó tránh được chuyện
phơi thây ngoài chiến địa. Như chúng ta có nói, Tham Vũ
đồng hành ở tứ mộ là mẫu người của thương trường, nhưng

88
nếu gặp thêm Kình Dương thì đấy lại là người nghiêng về
quân đội, là những quân nhân rất gan dạ và cũng là cấp chỉ
huy có khả năng trong lãnh vực tham mưu, chiến lược.

Nếu Kình Dương hãm địa thủ Mệnh mà không có những


sao tốt đi kèm thì cho dù nam hay nữ, tánh tình cũng rất
hung bạo, liều lĩnh, nông nổi, bướng bỉnh, ương ngạnh, xảo
trá. Cuộc đời chỉ gặp toàn là những tai họa, bệnh tật, và dễ
dính dáng đến chuyện tù tội.

Kình Dương hãm ở Mệnh cũng là người khéo tay, có năng


khiếu về nghành thủ công. Nếu Kình hãm đi cùng với những
sao biểu tượng cho nghệ thuật như Nhật Nguyệt, Xương Khúc
v.v….. đây là những nghệ nhân trong các lãnh vực như điêu
khắc, hội họa, trang trí nhà cửa, làm nữ trang…..

Nhưng dù đắc hay hãm địa, người có Kình Dương thủ Mệnh,
nếu không có những sao chế giải, là người chủ trương sống ở
đời “vô độc bất trượng phu” Đối với họ, cứu cách mới quan
trọng, không cần phải câu nệ đến phương tiện.

Ngoài 4 vị trí tốt đệp của Kình Dương là tứ mộ, Kình Dương
cũng có nhiều ý nghĩa đáng kể tại một vài vị trí khác như Tí
Ngọ và Mão Dậu. Tại 4 cung này, nếu không có những sao tốt
chế giải thì Kình Dương chủ sự bệnh tật, tai họa và chết yểu.

Tuy nhiên, đặc biệt tại cung Ngọ, Kình Dương đóng một vai
trò hai mặt tốt và xấu. Nếu Mệnh an tại Ngọ có Kình Dương
tọa thủ là cách Mã Đầu Đới Kiếm, kiếm treo đầu ngựa, là kẻ

89
anh hùng lập công trên lưng và chết cũng trên lưng ngựa.
Kình tại Ngọ, gặp được những sao tốt đẹp tọa thủ đồng cung
như Thiên Đồng, Thái Âm, hay Khoa Quyền Lộc…..thì đây là
cách phát về võ nghiệp, là số của những bậc danh tướng,
công trạng hiển hách, thường được bổ nhậm trấn giữ biên
cương. Nhưng với cách này, trong cái tốt luôn ẩn tàng những
điều bất hạnh. Lưỡi kiếm Kình Dương giúp anh hùng tạo nên
sự nghiệp, và cũng chính lưỡi kiếm oan nghiệt này đã giữ
đúng định luật khắc khe của tạo hóa:

“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng


Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu….."

Đó chính là số của Quan Vân Trường của thời Tam Quốc phân
tranh. Cách Mã Đầu Đới Kiếm đã đưa đến cái chết bi thảm
của một đấng anh hùng như vậy.

Ngoài ra hai cung Dần thân cũng không phải là vị trí tốt lành
cho Kình Dương. Tại hai cung này. Kình Dương chỉ sự bệnh tật
tai họa, thất bại….. Nói chung, Mệnh ở Dần Thân có Kình
Dương thì cuộc đời có thể diễn tả trong bốn chữ “tay làm hàm
nhai” tệ hại nhất đối với người tuổi Giáp và Mậu, dù cho có
may mắn được thừa hưởng di sản của ông bà, cha mẹ thì
cũng phá tán hết tổ nghiệp mà thôi.

Tuy nhiên, nếu Mệnh ở Dần Thân có Kình, được những sao tốt
khác cùng tọa thủ thì cuộc đời sẽ được cơm no áo ấm nhờ
bẩm sinh có năng khiếu về nghề thủ công. Nếu có thêm
những sao chế giải bớt sự phá hoại của Kình thì khi vào trung

90
hay hậu vận có thể sẽ trở mình thành đại phú bởi một ngành
thủ công nào đó như dệt, kim hoàn, điêu khắc v.v…..

Như vậy chúng ta thấy rằng, trong 12 cung của thiên bàn, chỉ
có 4 cung tứ mộ là đất dụng võ của kình dương mà thôi. Đối
với nam phái, Mệnh an tại tứ mộ có Kình Dương cùng với
những sao tốt đẹp là số phát về võ nghiệp. Nhưng nếu ở tứ
mộ, Kình gặp Tử Phủ thì lại phát về kinh thương. Với những
cách vừa nêu trên mà gặp những người có các tuổi Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi thì có sự ứng hợp, nên mức độ tốt đẹp được
tăng lên gấp bội, và khoa Tử Vi gọi là cách kình Dương Nhập
Miếu.

Đối với phái Nữ, Mệnh tại tứ mộ có Kình Dương là người đàn
bà đảm đang, hành xử ngoài đời không thua gì đấng mày râu,
là người dám nói, dám làm. Có thể nói một cách không qúa
đáng, đây là mẫu người đàn bà làm quan cho chồng. Điều
này không phải chỉ ảnh hưởng của một Kình Dương đắc địa
mà chúng ta phải nhớ rằng, đàn bà có Mệnh an ở tứ mộ là
người rất thông minh, sắc sảo, ít nhất là trong một lãnh vực
nào đó.

Bởi vậy, có người cho rằng, nữ phái, Mệnh ở tứ mộ có Kình,


cùng với những sao tốt đẹp là người đàn bà “vượng phu ích
tử” chỉ nên hiểu theo ý nghĩa của một người đàn bà đảm
đang, có khả năng từ hai bàn tay trắng tự mình, hay giúp
chồng tạo dựng sự nghiệp. Còn trên những khía cạnh khác
vấn đề tình cảm, sự tâm đầu ý hợp giữa hai vợ chồng….. chắc
chắn không nhiều thì ít cũng khó tránh khỏi sự xung khắc

91
trong gia đạo. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn trong
trường hợp Kình Dương tọa thủ đồng cung với Nhật Nguyệt, là
hai sao biểu tượng cho vợ chồng, thì ý nghĩa lúc đó sẽ ngược
lại, nam thì khắc vợ, gái thì lúc trẻ cao số, lập gia đình thì
khắc chồng, sát chồng. Từ đó, chúng ta cũng thấy thêm một
điều nữa là Nhật Nguyệt không sợ Không Kiếp mà chỉ sợ Kình
Đà.

Trong một lá số, Nhật Nguyệt dù miếu vượng mà gặp phải


Kình Đà thì sớm muộn gì cũng sẽ đau khổ, bệnh tật về mắt,
vợ chồng xung khắc, và nếu không có những sao hóa giải,
nhẹ thì sinh ly, nặng thì tử biệt.

Tóm lại cách Kình Dương Độc Thủ trong một lá số tương đối
tốt đẹp sẽ giúp cho đương số đạt được công danh sự nghiệp.
Tuy nhiên, cuộc đời của người Kình Dương thủ Mệnh là con
đường đầy chông gai. Sự thành công của họ là từ hai bàn tay
trắng, bằng sức phấn đấu cũng như khả năng của chính bản
thân. Cho nên lúc thiếu thời thường gian nan vất vả, cho đến
trung vận hay hậu vận thì mới được công thành doanh toại.

BÀI 21

MẪU NGƯỜI “LƯNG TRỜI GÃY CÁNH”

Trong nhóm hung sát tinh của khoa Tử Vi, người ta ít chú

92
trọng đến sao Thiên Không, một phụ tinh nhỏ xếp vào hàng
em út so với đại sát tinh Không Kiếp mà chúng đã đề cập
trong chương trước. Theo thiển ý của người viết thì Thiên
Không là một phụ tinh rất đáng cho chúng ta lưu ý khi giải
đoán một lá số và nhất là lúc xem hạn. Ngoài những ý nghĩa
căn bản và đơn giản của một ác tinh, Thiên Không còn mang
nhiều sắc thái đối nghịch nhau rất lý thú mà chúng ta phải
cân nhắc thận trọng khi giải đoán một lá số có Thiên Không
thủ Mệnh để khỏi đi đến những kết luận sai lầm đáng tiếc.

Thiên Không thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần, thân, Tỵ, Hợi và
đó cũng là nơi đắc địa của Không Kiếp, cho nên tại những vị
trí này, Thiên Không sẽ có uy lực không kém gì không kiếp,
và cũng như các đàn anh, Thiên Không chủ sự phá tán, thất
bại, gãy đổ nửa chừng.

Người có THIÊN KHÔNG hãm địa thủ mệnh thì tính tình gian
xảo, qủy quyệt, chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để ăn ở
với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng không làm
được việc gì ngoài những trò tiểu xảo hầu thủ lợi cho cá nhân
mình, nhưng chung cuộc thì cũng tự hại mình mà thôi.

Người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ mệnh tính tình táo bạo,
thăng trầm, túc trí đa mưu, thích toan tính những chuyện lớn
lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh hùng
trở thành gian hùng dễ như trở bàn tay. Bởi vậy, như đã nói ở
trên, ý nghĩa lý thú của THIÊN KHÔNG là chúng ta có thể ví
người Thiên Không là người “nhị trùng bản ngã”. Trong con
người THIÊN KHÔNG có một người thiện, một người ác, có

93
chính, có tà…..Một lá số với cách cục tốt đẹp nào đó khiến
chúng ta kết luận đương số là anh hùng, nhưng cẩn thận, anh
hùng có thể là gian hùng nếu có thêm Thiên Không đồng thủ
mệnh.

Cái bản ngã thứ nhì của THIÊN KHÔNG hiểu theo triết lý nhà
Phật thì THIÊN KHÔNG còn có ý nghĩa “sắc sắc không không”
Cho nên, người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ mệnh gần giống
với mẫu người Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã
có khuynh hướng yếm thế, có những ý nghĩ và cuộc sống gần
gũi với tôn giáo. Cái khổ của người THIÊN KHÔNG là sự dằn
vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của THIÊN KHÔNG, một
thiện một ác, một chánh một tà, một đời một đạo, lôi kéo,
giằng co đương số suốt cả cuộc đời: Mệnh tọa Thiên Không
định xuất gia, có nghĩa là người Thiên Không thủ mệnh lòng
chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay không đớ
còn tùy thuộc vào những sao phối hợp mà chúng ta đề cập
sao đây.

Sự cân nhắc thận trọng với lá số THIÊN KHÔNG lại càng nên
thận trọng hơn đối với hai sao Đào Hồng, là biểu tượng cho
sắc đẹp, nghệ thật và nhất là nữ phái. Có nhiều sách cho
rằng THIÊN KHÔNG thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam hay nữ,
cũng là những người có khả năng quyến rũ người khác phái
bằng những ngón nghề riêng của mình. Theo thiển ý của
người viết, chúng ta phải phân biệt hai trường hợp.

Đối với nam mệnh, THIÊN KHÔNG là biểu tượng cho bản chất
của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho nên

94
nam phái có TH + ĐH ở mệnh là người đào hoa và biết dùng
những ưu điểm trời phú cho mình như nhân dáng, lời ăn,
tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền thế..v.v…..Nói chung là
dùng mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà
vào một mục đích nào đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục
Binh, Quan Phù, Quan Phủ….. thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến
chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội một cách trắng trợn.

Đối với phái nữ, Đào Hoa là biểu tượng chính của đương số, là
cánh hoa biết nói, còn THIÊN KHÔNG là lửa trên trời. Đào Hoa
gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách
này là người có nhan sắc nhưng lại không có duyên. Chữ
duyên ở đây bao hàm cả hai ý nghĩa: Sự duyên dáng từ cử chỉ
đến cách ăn nói của người đàn bà, và cũng là ý nghĩa của
duyên phận. Chúng ta thường thấy những người đàn bà có
sắc đẹp bên ngoài nhưng khi tiếp xúc thì không tìm thấy một
nét hấp dẫn nào qua tính tình hay nội tâm. Họ cũng như cành
hoa hữu sắc vô hương, và phải chăng vì vậy mà Đào Hoa ngộ
Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có
sức quyến rũ nam phái.

Và tương tự, chúng ta nên thận trọng trong việc giải đoán với
sao Hồng Loan, cùng ý nghĩa như Đào Hoa. Mệnh có Thiên
Không + Hồng Loan là người có tư cách thanh cao, thích an
nhàn, ẩn dật, và khuynh hướng xa lánh trần tục rất rõ ràng.
Hai chữ “không hồng” với quan niện triết lý của nhà Phật,
phải chăng là không vướng bụi hồng trần?

Một ý nghĩa đáng kể mà chúng ta đã nói ở trên là sự thất bại,

95
sự đổ gãy nửa chừng của người có Thiên Không thủ mệnh. Sự
gãy đổ này có thể xảy ra trên mọi lãnh vực từ công danh, sự
nghiệp cho đến chuyện tình cảm gia đạo v.v…..Bởi vậy,
chúng ta có thể gọi người THIÊN KHÔNG thủ Mệnh là mẫu
người Bán Thiên Triết Sỉ = Lưng Trời Gãy Cánh.

Người có cách Tham Vũ Đồng Hành là người làm nên sự


nghiệp từ thương trường. Nhưng nếu mệnh có Thiên Không
thì chắc chắn thì đương số ít nhất cũng phải một lần thất bại
đau thương rồi mới làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi lá số, có
người đổ vỡ trên đường công danh, có người gãy đổ trên
đường tình ái….. Và cho đến việc tu hành cũng không phải là
con đường nhẹ nhàng đối với những người đã có lòng thoát
tục. Cho nên cuối cùng họ đành chấp nhận cuộc sống nửa đời
nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời.

Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc tính lưng trời gãy cánh khi
THIÊN KHÔNG nhập hạn. Một tay chọc trời khuấy nước như
Hạng Võ mà hạn gặp THIÊN KHÔNG cũng đành phải mất
nước, biệt Ngu Cơ và tự vẫn bên dòng Ô Giang. Hạn gặp
Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ mưu
tính chuyện gì cho tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính
tới đâu thì chung cuộc cũng chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi.
Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể còn tệ hại hơn, kể cả
chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán.

Những tác hại của THIÊN KHÔNG sẽ nhẹ nhàng hơn đối với
những người Mệnh Vô Chính Diệu vì cung mệnh của họ vốn
đã là “không” nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì

96
đáng ngại. Những người có Nhật Nguyệt thủ mệnh cũng
không sợ Thiên Không vi hai vầng nhật nguyệt lại càng sáng
tỏ trong bầu trời không gợn áng mây che.

Cuối cùng, một đặc điểm oái oăm khác của mẫu người Thiên
Không là cho dù hôm nay có làm nên công danh sự nghiệp,
có quyền cao chức trọng, thì cũng nên hiểu rằng chung cuộc
của mình rồi cũng hai bàn tay trắng mà thôi.

Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng không phải chỉ những chính
tinh mới quyết định số mệnh của một con người, mà đôi lúc
những phụ tinh lại là những khúc quanh rất quan trọng của
một đời người.

BÀI 22

MẪU NGƯỜI “NHẬT TRẦM THỦY BỂ”

Khi phác họa về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta
đã nêu rõ những đặc tính của sao Thái Dương trong một vài vị
trí đặc biệt. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc lại những đặc tính của
Thái Dương trong những vị trí tốt đẹp trước khi nói đến Thái
Dương sẽ như thế nào ở vào các vị trí hãm địa.

Thái Dương thuộc Nam Đẩu tinh, hành Hỏa, miếu ở hai cung
Tỵ Ngọ, tức là mặt trời lúc giữa trưa và vượng địa ở hai cung
Dần Mão, là lúc mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí này, Thái
Dương chủ sự thông minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy
quyền. Thái Dương hợp với những người Dương Nam, Dương

97
Nữ và những người sinh vào ban ngày. Ngoài những vị trí
miếu vượng vừa nêu trên, hai cung Sửu Mùi cũng là hai vị trí
đắc địa của Thái Dương, mặc dù đó là thời gian đã là giao
điểm giữa đêm và ngày.

Như vậy sáu cung còn lại từ cung Thân đến cung Tí là những
vị trí hãm địa của Thái Dương, là thời điểm của bóng đêm,
mặt trời không ánh sáng. Trong sáu cung hãm địa này, Thái
Dương có hai vị trí khá đặc biệt là cung Tí và Hợi, khoa Tử Vi
gọi là cách Nhật Trầm Thủy Bể (NTTB), nghĩa là mặt trời chìm
xuống đáy nước. Tuy vậy, nhưng ít nhiều mặt trời vẫn còn giữ
được ánh quang huy, vẫn còn giá trị của một vầng Thái
Dương.

Người có Thái Dương thủ Mệnh tại hai cung Tí Hợi là người
hiền lương rộng lượng, có lòng nhân từ với mọi người nhưng
đôi lúc tính tình cũng hơi cố chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử
tốt đẹp với mọi người, cho nên nghĩ rằng người khác cũng sẽ
đối xử với mình như vậy. Là người thông minh, tuy nhiên
không được bền chí, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng,
gặp trở ngại thì dễ dàng nản lòng, bỏ cuộc. tính khí thanh
cao, thích sự tao nhã, thích cuộc sống an nhàn, đặc biệt là có
năng khiếu về thẩm mỹ, văn chương và nghệ thuật.

Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể từ nhỏ đã có nhiều bệnh tật.


Đáng kể nhất là những bệnh về mắt, bệnh về máu huyết như
áp huyết cao, thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị chứng đau đầu
kinh niên. Nếu muốn qua khỏi bệnh tật này, lúc trẻ phải sống
xa gia đình hoặc xa quê hương càng tốt. Được như vậy thì sức

98
khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng kéo dài hơn. Tuy
nhiên vẫn phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong
người hay tay chân không bị khuyết tật gì bẩm sinh, và nếu
có thêm nhưng sao như Kình Đà, Thiên Hình, Kiếp Sát thì mắt
có thể bị vật nhọn đâm vào hay phải chịu sự mổ xẻ.

Nói về đường công danh sự nghiệp thì mẫu người NTTB là


những người có khả năng thiên phú, nổi bật nhất là trong
lãnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng oái oăm thay, tài năng
của họ cũng như mặt trời chìm sâu đáy nước cho nên hầu
hết, họ là những ngưới bất đắc chí. Trong cuộc sống, trong
công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng ngày
họ thường gặp phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể
thi thố hết tài năng của mình được. Đây cũng là trường hợp
những người mang khả năng tâm huyết đạt thành qủa, nhưng
thành qủa đó lại do người khác hưởng chứ người đời không
biết đến mình. Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo
chương trình, kế hoạch, tham mưu, cố vấn, các chuyên viên,
các khoa học gia âm thầm làm việc trong những phòng thí
nghiệm v.v…..

NTTB dù nam hay nữ cũng là những người khéo tay và có


khiếu về thẩm mỹ. Họ xuất sắc trong những lãnh vực như nấu
ăn, trang điểm, thêu thùa, trang trí nhà cửa….. Nếu có thêm
những sao về văn học như Thái Âm, Xương Khúc, Khôi Việt,
Đào Hồng Hỷ….. hợp chiếu thì họ là những nghệ sĩ có thực tài
nhưng vì hoàn cảnh mà tài năng phải bị mai một, hoặc là tác
phẩm của họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và
những trường hợp mà chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên

99
tuổi của một ca sĩ, một diễn viên trên sân khấu, màn ảnh…..
lại được nhiều người biết đến và hâm mộ hơn là những nhạc
sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn. Cũng như những tác phẩm nổi
tiếng, những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào
đó, thường vẫn do một người khác viết dùm (người Mỹ gọi là
Ghost Writer) Đó là ý nghĩa của mặt trời chìm đáy nước.

Riêng với nữ mệnh, Thái Dương ở Tí Hợi là người có nhan sắc


nhưng nét mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn bởi có
câu “Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung.” Tính tình đa
sầu đa cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và có thể nói bốn
chữ công dung ngôn hạnh đều hội đủ. Họ thường hợp và sống
gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng vì Thái Dương hãm, cho nên
khi lập gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn
nhiều hơn vui.

Nói chung, Thái Dương dù hãm nhưng nếu không gặp những
hung tinh hay ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc. Nếu
may mắn được những sao tốt đi kèm, hoặc được Tuần Triệt
án ngữ thì hậu vận cũng có một cuộc sống an nhàn sung
sướng. Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh thiếu thời thường
gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu,
chỉ khi về già thì cuộc sống mới có phần toại nguyện.

Nhưng đặc biệt với những người tuổi Bính và tuổi Đinh thì lại
rất hợp với Thái Dương tại cung Tí, cuộc đời vẫn được giàu
sang phú qúy: “Thái Dương cư tí, Bính Đinh phú qúy trung
lương.” Với các tuổi khác, tuy là có tài năng, nhưng suốt đời
chỉ gặp toàn là những cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà

100
thơ Tú Xương hay Cao Bá Quát mà thôi.

BÀI 23

MẪU GƯỜI uc1“MỆNH TUẦN THÂN TRIỆT”

Trong 118 vì sao của khoa Tử Vi có hai sao được xem là đặc
biệt nhất. Đó là sao Tuần và Triệt. Tuần Triệt (TT) an theo
năm sinh và hàng can của năm sinh, và đặc biệt là vị trí của
Tuần Triệt nằm giữa ranh giới của hai cung chứ không tọa thủ
trong một cung nào như các sao khác. Điểm đặc biệt thứ hai
là vị trí đắc hãm và hành của chúng. Đây cũng là một vấn đề
tranh cãi rất nhiều. Có người cho rằng Tuần thuộc hành hỏa
và Triệt hành kim. Cũng có người cho rằng Tuần và Triệt đều
hành thủy. Một số khác lại cho rằng Tuần và Triệt không có
hành cố định, đóng ở cung nào thì mang hành của cung đó.
Như vậy, lập luận này sẽ đưa đến kết qủa là Tuần Triệt có lúc
chỉ có một hành trong trường hợp chúng đóng giữa hai cung
Thân và Dậu đều thuộc hành kim. Nhưng giả sử Tuần Triệt
đóng giữa hai cung Ngọ và Mùi thì thì Tuần Triệt phải mang
hai hành Hỏa của cung Ngọ và Thổ của cung Mùi. Xét cho
cùng, điều này xem ra không hợp lý lắm.

Khi nói về ngũ hành, ví dụ như nói về hành của một hướng,
như Đông Nam thì chúng ta nói là Mộc đới Hỏa, hoặc hành
của Phượng Các là Mộc đới Thổ chứ không thấy ai nói vừa
mang hành Mộc và mang hành Thổ. Chữ “đới” ở đây có nghĩa

101
là “nghiêng về” hay “thiên về” Trong cuốn tử vi Ảo Bí của
Việt Viêm Tử, tác giả cho rằng Triệt có hành Kim đới Thủy và
Tuần có hành Hỏa đới Mộc.

Về những vị trí đắc hãm của Tuần Triệt thì cũng có người cho
rằng TT chỉ đắc địa ở Tỵ Ngọ và Thân Dậu, còn những vị trí
khác đều hãm địa. Nhưng điều này cũng không hợp lý vì
chúng ta biết Triệt không đóng ở Tỵ Ngọ. Và cũng theo quan
điểm này thì nếu TT đắc địa sẽ không tác hại, còn nếu hãm
địa thì sẽ tác hại. Đây là điều không hợp lý thứ hai. Sau khi
nói đến ý nghĩa của hai sao TT dưới đây, chúng ta sẽ thấy
bản chất của TT là như thế nào.

Tóm lại, người viết đồng ý với quan điểm của Thái Thứ Lang,
tác giả của cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, “hai sao Tuần Triệt
không có những vị trí đắc địa hay hãm địa và cũng không
thuộc một hành nào trong ngũ hành.”

Đầu tiên chúng ta thấy rằng, chỉ với cái tên của hai sao này
cũng đã nói lên rất nhiều ý nghĩa. Tuần có nghĩa là tuần tiểu,
tuần phòng, canh giữ, vây hãm. Triệt là chặc đứt, phá tan,
tiêu tán, làm mất hết. Từ đó, hai sao TT vừa đóng vai trò vừa
chính vừa tà, vừa thiện vừa ác đối với các sao trong cung mà
chúng trấn đóng.

Khi nói đến ảnh hưởng của TT, có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng TT làm đảo ngược ý nghĩa tốt
xấu của tất cả những sao trong hai cung mà chúng đóng. Ví
dụ: một sao đắc địa gặp TT thì những đặc tính tốt đẹp của

102
sao này bị mất đi và trở nên hãm. Ngược lại nếu sao hãm địa
gặp TT thì lại trở nên tốt đẹp giống như đắc địa. Như vậy thì
uy lực của TT qúa lớn vì TT không phải chỉ ảnh hưởng lên 1
sao mà chúng ảnh hưởng lên tất cả các sao mà chúng trấn
đóng. Quan điểm đảo ngược này chúng ta thấy trong một vài
trường hợp đặc biệt. Ví dụ: Liêm Tham ở Tỵ, Hợi rất xấu,
nhưng nếu gặp TT thì trở nên tốt đẹp, và được gọi là phản vi
kỳ cách, đổi xấu thành tốt.

Quan điểm thứ hai thì cho rằng TT không hề đảo ngược ý
nghĩa của các sao trong vòng ảnh hưởng của chúng, mà chỉ
giảm bớt những đặc tính tốt xấu của các sao. Theo thiển ý
của người viết, quan điểm này xem ra có phần hợp lý hơn. Tỉ
lệ chiết giảm của Triệt tuy rất cao nhưng cũng chưa đếm mức
độ 100% để có thể thay đổi hẳn bản chất của một sao nào
đó. Hơn nữa, cũng có trường hợp những sao đắc địa mà gặp
TT thì lại càng tốt hơn chứ không hề bị đảo ngược, như trường
hợp Cự Cơ ở hai cung Tí Ngọ (Thạch Trung Ẩn Ngọc) là ngọc
còn ẩn trong đá, nếu gặp TT phá vỡ cho ngọc lộ ra bên ngoài
thì càng đúng cách.

Khi nói về mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt hay Mệnh Triệt
Thân Tuần, Thái Thứ Lang đã gián tiếp xác định mức độ ảnh
hưởng của TT nói chung. Theo Thái Thứ Lang, người Mệnh
Tuần Thân Triệt cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa thứ
mệnh thì cuộc đời về già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy
chúng ta có thể ghi nhận một điều, đối với Tuần, thà có chính
tinh đắc địa để chấp nhận mức độ tốt bị giảm bớt còn hơn là
gặp chính tinh hãm địa rồi trông chờ Tuần làm cho tốt đẹp.

103
Đối với người Mệnh Triệt Thân Tuần thì Thái Thứ Lang cho
rằng, Mệnh cần phải Vô Chính Diệu thì lúc về già mới được
xứng ý toại lòng. Như vậy chúng ta thấy rằng, ảnh hưởng của
của Tirệt mạnh mẽ hơn Tuần nhiều, cho nên cung Mệnh thà
không có chính tinh vẫn còn tốt hơn có chính tinh, dù đắc hay
hãm địa.

Trên thực tế chúng ta thấy hai sao TT không có uy lực để


thay trắng đổi đen một cách hoàn toàn, chẳng hạn, một
người có Thái Dương đắc địa thủ Mệnh gặp TT thì bản tính
của người này không thể trở thành giống bản tính của người
có Địa Kiếp thủ Mệnh được. Nói một cách khác, TT chỉ ảnh
hưởng mạnh mẽ trên lãnh vực công danh, sự nghiệp của
đương số chứ không triệt tiêu được bản chất lương thiện của
một Thái Dương vốn đã đắc địa.

Ngoài ra, ảnh hưởng của TT ở mức độ nào còn tùy thuộc vào
ý nghĩa của mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do nhiều sao
hợp lại, chứ không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn như sao
Thiên Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng, Tướng Quân…..dù đắc
hay hãm cũng tối kỵ TT hơn các sao khác bởi vì kiếm gãy,
ngựa què, tướng mất đầu…..thì tất nhiên là vô dụng. Tương
tự, Thất Sát ở Dần thân là người anh hùng một mình một
kiếm, nhất hô bá ứng, nhưng gặp Triệt lại trở thành anh hùng
gãy kiếm. uc1 uc1 uy vậy, cũng có những trường hợp đặc
biệt, ví dụ như hai sao Cự Cơ ở Tí Ngọ như chúng ta đã nói ở
trên. Vì ý nghĩa của cách Thạch Trung Ẩn Ngọc cho nên TT lại
rất cần thiết.

104
Chúng ta vừa nói đến ảnh hưởng của TT trên các sao, còn ảnh
hưởng của TT trên các cung thì như thế nào? Có phải sự ảnh
hưởng của TT trên hai cung mà chúng trấn đóng đều như
nhau? Điều này chúng ta cũng có hai quan điểm:

1. Ảnh hưởng của TT trên mỗi cung nặng hay nhẹ còn tùy
thuộc đương số là Dương Nam, Âm Nữ hay là Âm Nam, Dương
Nữ. Nói một cách khác là theo chiều của vòng đại hạn của
mỗi lá số. Ví dụ: Lá số có vòng đại hạn đi theo chiều thuận, có
nghĩa là từ cung Mệnh rồi qua Phụ Mẫu, Phúc Đức v.v….. Và
nếu Triệt đóng giữa cung Mệnh và cung Huynh Đệ, như vậy
chúng ta nói là Triệt chặn đầu cung Huynh Đệ và vuốt đuôi
cung Mệnh. Khi nói Triệt chặn đầu một cung nào thì ảnh
hưởng của Triệt ở cung đó sẽ mạnh hơn đối với cung mà Triệt
vuốt đuôi, và tỉ lệ ảnh hưởng được xác định cũng theo nguyên
tắc Âm Dương:

Dương hành tam thất (3/7)


Âm quy nhị bát )2/8)

Như vậy, nếu theo chiều thuận của vòng đại hạn thì cung nào
bị TT chận đầu sẽ chịu ảnh hưởng 7 phần, nếu đi ngược sẽ
chịu ảnh hưởng 8 phần và tương tự các cung xung chiếu hay
tam hợp chiếu với các cung có TT đóng cũng chịu ảnh hưởng
nặng nhẹ theo nguyên tắc này.

2. Ảnh hưởng của TT phân phối đều trên hai cung mà chúng
trấn đóng chứ không có cung nào nặng hơn cung nào như ý

105
nghĩa của quan điểm thứ nhất. Người viết đồng ý với quan
điểm thứ hai vì chúng ta thấy rằng ảnh hưởng của TT chỉ
khác nhau trên các cung có chính tinh mà thôi. Thường
những cung có chính tinh không nên gặp TT. Trái lại, những
cung nào VCD thì lại rất cần có TT . Trong trường hợp này TT
đóng vai trò của một người giám hộ để bảo vệ cho một gia
đình không có gia chủ. Từ đó, chúng ta rút ra một hệ luận là
ảnh hưởng của TT đối với chính tinh có tầm quan trọng hơn
đối với các phụ tinh.

Ngoài ra, TT đôi lúc còn đóng hai vai trò khác nhau, một
thiện, một ác. Chẳng hạn nếu ba cung tam hợp, gọi là tam
phương, bị nhiều sát tinh thủ hay hợp chiếu mà được Triệt
đóng thì mọi sự hung hiểm cũng giảm đi rất nhiều. Ngược lại,
bốn cung Mệnh, tài Quan, Di, gọi là Tứ Chính, dù có đắc cách
tới đâu nhưng đã gặp Tuần thì cũng xem như bị phá hết:
“Tam phương vô sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng. Tứ chính
giao phù kỵ, nhất không chi trực phá.”

Và trên đây chúng ta mới nói đến vùng ảnh hưởng của TT,
còn thời gian ảnh hưởng của hai sao này thì như thế nào?
Thường có người cho rằng Triệt ảnh hưởng 30 năm đầu của
cuộc đời, Tuần ảnh hưởng 30 năm sau của cuộc đời. Theo
thiển ý của cá nhân, Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong
khoảng tiền vận, rồi từ yếu dần ở trung vận và hậu vận. Ảnh
hưởng của Tuần thì không có khoảng thời gian nào mạnh hay
yếu, cứ ở mức trung bình, đều đặn và bền bỉ từ tiền vận cho
đến hậu vận.

106
Trường hợp cung Mệnh có Triệt thì ảnh hưởng của Triệt sẽ
như thế nào? Cung Mệnh cũng như các cung khác thông
thường có đủ sao xấu và tốt xen lẫn nhau. Có sao đắc địa, có
sao hãm địa. Đối với những sao tốt đắc địa thủ Mệnh, đương
số sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm giảm bớt những ý nghĩa tốt
đẹp của các sao này. Sự bất lợi sẽ xảy ra trong thời ky tiền
vận của đương số, và sau đó, khi uy lực của Triệt yếu dần thì
sự tốt đẹp của các sao tốt sẽ được phục hồi ở một mức độ
nào đó mà thôi chứ không thể nào được 100% như trường
hợp không bị Triệt.

Ngược lại, trong khoảng tiền vận thì đương số lại được một lợi
điểm là, giả sử, nếu có những hung tinh hay sát tinh thủ
mệnh, thì nhờ ảnh hưởng của Triệt mà đương số tránh được
phần nào những điều không tốt do các hung sát tinh gây nên.
Nhưng từ trung vận trở lên, khi Triệt yếu dần, không còn đủ
uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự tốt xấu lúc đó chỉ
còn tùy thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên
nào mạnh thì chế ngự được bên đó.

Nói chung, Triệt đóng tại Mệnh thì tiền vận (từ lúc sinh ra cho
đến 32 tuổi đối với người Thủy Nhị Cục, 33 với Mộc Tam Cục,
34 với Kim tứ Cục, …..) Thường bị lao đao lận đận và dễ gặp
hoàn cảnh mồ côi sớm (trường hợp Triệt đóng giữa hai cung
Mệnh và Phụ Mẫu )

Trường hợp Triệt đóng tại cung Thân thì ảnh hưởng của Triệt
không có gì đáng kể vì uy lực của Triệt mất dần trong khoảng
trung vận và hậu vận, có thể xem Triệt như một áng mây,

107
gây rắc rối trở ngại cho đương số những lúc khởi sự một việc
gì mới mà thôi.

Trường hợp cung Mệnh có Tuần đóng thì tất cả những gì tốt
đẹp do các sao tốt mang đến, cũng như những hung họa do
hung sát tinh gây ra cho đương số đều giảm xuống ở mức
trung bình, và muốn biết cuộc đời của đương số thế nào trong
khoảng tiền vận thì chúng ta phải đặt cả tốt và xấu lên bàn
cân. Thường người ta cho rằng Mệnh ứng với tiền vận, nhưng
thật ra Mệnh vẫn là cái gốc của đời người, cho nên sau tiền
vận, Mệnh vẫn còn ảnh hưởng ở mức độ nhẹ. Như vậy, khi
Tuần đóng ở Mệnh, thì sau khoảng thời gian của tiền vận
những mức độ tốt hay xấu của cung Mệnh do Tuần chi phối
vẫn còn âm hưởng.

Nếu Tuần đóng tại cung Thân thì vấn đề tốt hay xấu cũng
tương tự như trên. Nếu có khắc thì trong trường hợp này là
Tuần chỉ chi phối trong khoảng thời gian trung vận và hậu
vận mà thôi.

Nếu cả Tuần và Triệt cùng đóng ở cung Mệnh hay cung Thân
thì thế nào? Điều này cũng có hai ý kiến khác nhau.

1. Một số cho rằng khi TT gặp nhau thì sẽ tự hoá giải cho
nhau và hai cung đó xem như không có mặt của TT nữa. Điều
này xét ra không hợp lý lắm bởi vì khoa Tử vi không có những
sao nào cùng nhóm lại triệt tiêu nhau. Những sao cùng nhóm
luôn hỗ trợ cho nhau, tốt thì tốt thêm, xấu thì xấu hơn. Chẳng
hạn như Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc, hay hủy hại nặng nề

108
khi Không Kiếp gặp thêm Hỏa Linh. Chỉ có những sao khác
nhóm mới khắc chế nhau như Thiên Hình khắc chế và làm
giảm đi sự lẳng lơ của Đào Hoa.

2. Mệnh có cả TT như một nhà tù có hai ông cai ngục. Ông


chính là Triệt, ông phụ là Tuần. Hết khoảng thời gian của tiền
vận khi Triệt về hưu thì cũng còn ông Tuần cai quản, chứ
không hề nhà giam được bỏ ngỏ.

Sau hết, trường hợp chúng ta muốn nói ở đây là những lá số


có Tuần đóng ở Mệnh và Triệt đóng ở Thân mà chúng ta
thường nghe là mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay trường
hợp Mệnh Triệt Thân Tuần, thì cuộc dời của hai mẫu người
này như thế nào?

Để có câu trả lời, cách tốt nhất là chúng ta để lên bàn cân
từng phần một rồi cộng trừ các số thành với nhau để có đáp
số cuối cùng. Mệnh có Tuần đóng, nếu Mệnh tốt thì mức độ
chiết giảm do Tuần gây ra tương đối nhẹ nhàng, còn nếu
cung Mệnh xấu, thì sự cứu vãn của Tuần cũng không được
bao nhiêu. Những hung sát tinh cũng như những đúa con phá
gia chi tử trong một gia đình bất hạnh. Họa chăng chỉ có
người cha là triệt còn đủ uy lực để chế ngự, chứ còn mẹ Tuần
thì không đủ sức.

Qua trung vận và hậu vận thì ứng vào cung Thân. Nếu cung
Thân tốt mà có Triệt đóng thì cũng không gây ảnh hưởng gì
đáng kể, có chăng chỉ là những trở ngại gây rắc rối lúc ban
đầu mà thôi. Trường hợp nếu cung Thân xấu thì Triệt ở đây

109
cũng như người nộm dùng để dọa chim chứ không có năng
lực gì đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân Triệt mà
có cung Thân tốt đẹp thì về già cuộc đời cũng đạt được nhiều
mãn nguyện.

Trường hợp đối với những người Mệnh Triệt Thân Tuần thì
cũng tương tự. Mức độ tốt xấu của cung Mệnh sẽ bị chiết
giảm nhiều hơn, và sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra trong
khoảng tiền vận mà thôi. Rồi từ đó cho đến hết cuộc đời, ảnh
hưởng của sự tốt xấu trên cung Thân chỉ ở mức độ ôn hoà.
Như vậy đối với mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì thời gian
thử thách nhất là thời thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt
đẹp thì cuộc đời tương đối cũng được bình ổn.

Tuy nhiên, người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay Mệnh Triệt Thân
Tuần cũng có những trường hợp đặc biệt như, nếu cung Mệnh
hay cung Thân VCD mà có Tuần hay Triệt đóng thì tốt hơn là
không có TT. Hoặc là cung Mệnh vừa có cả Tuần lẫn Triệt vừa
thêm hai sao Thiên Không và Địa Không, tùy theo có bao
nhiêu sao KHÔNG, chúng ta gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị
không, tam không hay tứ không, đều là những cách hoạch
phát. Hoặc là nếu TT đóng tại Mệnh hay Thân mà hai cung
này VCD lại được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì cũng rất tốt đẹp.

Tóm lại, TT là hai sao đặc biệt nhất trong 118 sao của khoa
Tử Vi, và cũng đã trở thành đề tài tranh luận rất nhiều. Nhưng
tốt nhất là tùy theo kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự
chọn cho mình một quan điểm riêng. Dù sao, khi nói đến TT,
chúng ta đều thấy ảnh hưởng tốt xấu của hai sao này trên

110
một lá số nào đó không phải là điều đơn giản. Giống như một
người bị bệnh phải uống thuốc, như người bị chứng đau nhức
phải uống thuốc giảm đau. Nhưng khi uống thuốc giảm đau
nhiều thì lại sinh ra chứng đau bao tử, uống thuốc chữa bệnh
đau bao tử nhiều thì lại sinh ra chứng bất lực.. Ảnh hưởng của
TT cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này thì phá bên kia, và
có lẽ cái thâm sâu của khoa Tử Vi là ở chổ đó.

BÀI 24

MẪU NGƯỜI “CỰ CƠ MÃO DẬU”

Giai cấp xã hội của thời phong kiến xa xưa được xếp hạng thứ
tự Sĩ, Nông, Công, Thương. Kinh doanh thương mại được đứng
vào hàng thú tư. Nhưng thật sự thì ai cũng hiểu một quan
niệm, gần như là một định luật đó là “phi thương bất phú”.
Khoa Tử Vi cũng đề cập đến những mẫu người của thương
trường, trong đó có mẫu người Cự Cơ Mão Dậu, là một trong
những mẫu người doanh thương mà chúng ta khảo sát sau
đây.

Cự Môn là một bắc đẩu tinh, thuộc hành Thủy. Có lẽ hành


Thủy khiến cho Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn cảnh,
“ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” Cự Môn đắc địa đi với những võ
tinh thì sẽ hỗ trợ cho võ tinh thêm mạnh mẽ để phát về võ
nghiệp. nếu đi với những sao văn tinh thì sẽ thành công trong
lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với những sao có
khuynh hướng về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh

111
doanh cự phách, và tương tự, khi đi với dâm tinh thì Cự Môn
rất buông thả.

Cự Môn miếu địa ở Mão Dậu, vượng địa ở Tý Ngọ Dần, đắc địa
ở Thân và Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc dù bị xếp
hạng là ám tinh nhưng Cự Môn miếu vượng thủ Mệnh là người
thông minh và nhân hậu. Cự hãm thì thật sự đúng với biệt
danh là ám tinh.

Cự Môn là biểu tượng của cái miệng, của lời ăn tiếng


nói…..cho nên khi đắc địa thì khéo ăn nói, có tài hùng biện,
có khả năng thuyết phục người. Nhưng nếu hãm thì lời nói
thiếu suy nghĩ, dễ mất lòng người và dễ bị tai tiếng thị phi,
đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng vì cái miệng của mình thiếu
thận trọng.

Với bản tính bất nhất như đã nói trên, may mắn cho Cự Môn
tại hai vị trí miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp được thiện
tinh Thiên Cơ, thuộc nam đẩu tinh, hành Mộc. Và Thiên Cơ
cũng góp một phần bản chất vào mẫu người doanh thương
Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở Thìn Tuất Mão Dậu,
vượng ở Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Thiên Cơ
là một phúc thiện tinh cho nên dù hãm cũng không hề mất
hết thiện tính của mình. Khi đắc địa, Thiên Cơ chỉ sự khéo léo
về tay chân, sáng suốt về trí óc, có mưu trí nhưng lại xử sự
nhân từ và cởi mở. Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ về phú
quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng khiếu về kinh doanh.

Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng miếu tại Mão Dậu. Hành Thủy

112
của Cự Môn càng sinh vượng cho hành Mộc của Thiên Cơ, hơn
nữa, cũng tại vị trí này, Thiên Cơ đặc biệt có năng khiếu về
kinh doanh, cho nên Cự Môn trở thành kẻ đồng hành rất tốt.
Với bản tánh gan dạ, liều lĩnh, Cự Môn đã hỗ trợ Thiên Cơ
mạnh mẽ trong lãnh vực này.

Người Cự Cơ Mãu Dậu là những người trong thương trường.


Nhưng chúng ta cần phân biệt lãnh vực hoạt động của đôi
bên. Người Tham Vũ Đồng Hành thường hoạt động trong lãnh
vực kỹ nghệ chuyên môn v.v….. Còn người Cự Cơ Mão Dậu
không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là ngành hàng
tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật
v.v…..Hay nói một cách khác là bản tính uyển chuyển của Cự
Môn, cho nên những sao đi kèm với Cự Cơ sẽ quyết định
đương số sẽ kinh doanh trong lãnh vực nào.

Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu có Cự Cơ với Hổ Tuế Phù, thì đây
là những người có năng khiếu về luật pháp, những nhà làm
luật, những quan tòa hay những danh sư danh tiếng, và chắc
chắn những tổ hợp luật sư sẽ là những lãnh vực kinh doanh
của họ.

Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa,


Tấu là người có năng khiếu về văn học, nghệ thuật, cho nên
khi vào đường kinh doanh thì lãnh vực hoạt động thường là
những nhà xuất bản sách, báo chí, nhạc, hay phim…..

Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Tả Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang,


Qúy là người kinh doanh trong các ngành y dược học. Nhỏ thì

113
là phòng mạch, một pharmacy, lớn thì một clinic, một bệnh
viện, một viện bào chế dược phẩm…..

Nhưng cách Cự Cơ Mão Dậu cũng chỉ mới là giới tiểu thương,
nếu muốn kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có thêm Song
Hao mới gọi là đắc cách Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là
tất cả các dòng sông đều chảy về hướng Đông.

Khi nói về cách Song Hao ở Mão Dậu, chúng ta thấy có hai
nguyên nhân. Đầu tiên là do địa thế của nước Trung Hoa, tất
cả những dòng sông đều chảy về hướng Đông, cho nên cổ thi
có câu: “tự cổ nhân sinh thường hận, thủy thường đông” có
nghĩa là từ xưa đến nay người đời ai mà không ôm một mối
hận lòng, điều này cũng tự nhiên như dòng sông chảy về
hướng Đông.
Song Hao thuộc hành Thủy, lại được hành Kim của cung
Dậu tương sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất tận.
Trong thiên nhiên, nước là biểu tượng của tiền bạc. Song Hao
lại là biểu tượng của số nhiều. Những dòng sông từ Dậu là
phương Tây, chảy về Mão là phương Đông, khiến cho hành
Mộc của Thiên Cơ được hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm
vóc của mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu. Cũng vì thế
mà Mệnh an tại Mão tốt hơn ở Dậu, tốt nhất đối với những
tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này sẽ đạt phú quý một
cách dễ dàng hơn những tuổi khác. Nếu Mệnh ở Dậu, thì
đương số cũng là người kinh doanh mà trở nên giàu có,
nhưng càng giàu thì tuổi thọ càng giảm:

“Cự Cơ Dậu, thượng hóa cát dã

114
Túng hữu tài quan, dã bất chung”

Nhưng Cự Cơ Mão Dậu đắc cách Chúng Thủy Triều Đông thì
lại có người cho rằng Cự Cơ đã gặp Song Hao thì chớ nên có
Hóa Lộc mà bị phá cách. Lý do quan điểm này cho rằng Hóa
Lộc hành Thổ, khắc với hành thủy của Song Hao khiến cho
Thiên Cơ thiếu nước. Lý luận này xét ra không được ổn vì
cũng có nhiều sao khác thuộc hành Thổ như Lộc Tồn, tại sao
chỉ áp dụng cho Hóa Lộc mà thôi?

“Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự Cơ, tối hiềm Hóa Lộc”

Thật ra Song Hao ở Mão Dậu kỵ với Hóa Lộc không phải
nguyên nhân chính là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là do
ý nghĩa của Song Hao mà ra.

Hao là hao tốn, tiêu hao. Với ý nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc
Tồn không nên gặp Hao, nếu gặp thì khác nào mang tiền thả
trôi theo dòng nước. Tóm lại, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ +
Song Hao + Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì đương số cũng là ra tiền
một cách dễ dàng, nhưng tiền vào tay mặt thì ra tay trái.

Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ là người đàn bà có


tay làm ăn buôn bán, trên thương trường đương số không
thua gì những đấng mày râu. Tuy nhiên, một Thiên Cơ hiền
lành không thể trói buộc nổi Cự Môn với bản tánh liều lĩnh,
phóng khoáng. Cự Môn dù miếu vượng cũng có điều bất lợi
cho phái nữ bởi vì Cự Môn là cái miệng, là lời ăn tiếng nói, là
khẩu thiệt thị phi, khắc khẩu, vợ chồng xa nhau thì thương

115
nhớ, gần nhau thì cãi vã suốt ngày…..Cho nên đàn bà có Cự
Môn thủ Mệnh hay Thân thì bên ngoài giỏi, tháo vát nhưng
bên trong gia đạo thường vẫn có điều không ổn, ít nhiều hạnh
phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự Môn lãng vãng
đâu đó. Đó chính là nguyên nhân khiến cho Cự Môn phải
mang danh là ám tinh.

Nhưng nếu dùng lăng kính của Freud mà chiếu rọi cho tận
cùng, thì một phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão Dậu có
khá nhiều tham vọng và khuynh hướng tình dục rất mạnh
mẽ. Với bản chất đặc biệt đó chúng ta thấy có hai mẫu người
đàn bà Cự Cơ Mão Dậu:

1. Họ có thể che dấu hay dồn nén khuynh hướng tình dục của
mình thành những tham vọng trên lãnh vực làm ăn kinh
doanh của họ, và đây chính là con đường mà Freud gọi là
“tình dục thăng hoa thành tài năng”

Trong những trường hợp tương tự như thế, chúng ta mới thấy
quan điểm của Freud đã được khoa Tử Vi chứng nghiệm. Thật
vậy, khi xét đến những là số của những vị chân tu chúng ta
đều thấy hầu hết những lá số này đều có bóng dáng của Đào
Hồng hay những dâm tinh khác. Điều này không có gì nghịch
lý, kẻ chân tu vốn cũng đầy đủ thất tình lục dục như mọi
người, có khi còn mạnh hơn, nhưng cái hay là họ đẩy tất cả
những thất tình lục dục đó vào một chữ “không” biến tình dục
thành tài năng, và được như vậy họ mới quán triệt được chữ
“đạo”, rồi mới hiểu được chữ “ngộ” là gì.

116
2. Là người có cuộc sống buông thả, phóng khoáng. Họ dùng
những thành qủa, giai cấp mà họ đạt được trong xã hội đễ
biện minh cho quan niệm sống của họ. Và trên thương
trường, đây cũng là người đàn bà không thua sút ai, mà cả
trong cuộc chơi, họ cũng là người dám bỏ ngàn vàng để mua
lấy trận cười làm vui…..Đó chính là mẫu người đàn bà mà
chúng ta thường gọi là “đàn bà dễ có mấy ai”

BÀI 25

MẪU NGƯỜI “ĐA TÀI ĐA NĂNG”

Chúng ta vẫn thấy những người tuy sống trong một hoàn
cảnh thoải mái, một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng nét
mặt của họ lúc nào cũng có sự tư lự, một nét suy tư nào đó,
hay phảng phất trên mặt một thoáng buồn miên man như
người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu kín. Khoa Tử Vi,
những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn
hoặc Bạch Hổ tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang
Hổ.Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ là hai bại tinh trong nhóm lục
bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ không phải là
người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói
đến. Ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ
vào hai sao Tang Hổ.

Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch Hổ thuộc hành Kim, cả hai
đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào cũng đi
đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là
người gan dạ, cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có

117
đủ sự gan lì để thử thách với nghịch cảnh. Khả năng đó có thể
xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời của những
người này kể từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ
đã chờ sẳn rồi.

Người Tang Hổ thường chịu cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu
không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha mẹ, gia đình
ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị.
Phải chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn
sâu kín trên khuôn mặt, và nét buồn này sâu đậm nhất trong
khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tức là khoảng tiền vận
rồi sau đó sẽ phai nhạt dần.

Để bù trừ cho những bất hạnh đó, người có Tang Hổ đắc địa
là người đa tài đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình cương quyết và
đôi khi trở thành ương ngạnh, nhưng họ là người quyền biến
và có khả năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn
cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất của họ là sự suy luận và phán
đoán rất sắc bén. Đó chính là yếu tố căn bản cho khả năng
hùng biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy,
những lãnh vực về chính trị, ngoại giao và luật pháp đều là
những sở trường của người Tang Hổ.

Trong trường hợp Tang Hổ hãm địa thủ mệnh thì cuộc đời
luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu
không làm những ngành nghề liên quan như cảnh sát, toà án,
luật sư…..thì dễ vướng vào vòng tù tội và tuổi thọ cũng ngắn
ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam lẫn nữ, dù đắc
hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất

118
là những bệnh về xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong
máu…..Riêng với nữ mệnh thì nét mặt u sầu, chưa lập gia
đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia đình rồi lại
khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ
hình khắc có thể thành sát phu. Cho nên nếu lập gia đình
muộn cũng có thể chế giải được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ
thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn, khi có con thì lại
khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh
sản như tử cung, buồng trứng…..Ngoài ra, người Tang Hổ, dù
nam hay nữ, lúc còn trẻ không có tay nuôi súc vật, phải vào
trung vận thì đặc tính này mới giảm dần.

Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong


rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền uy, và thường
phát về võ nghiệp.

Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung


Mão thuộc phương đông, là thời gian của bình minh, là thời
điểm bắt đầu của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu
tượng cho một vận hội tốt đẹp đang chờ đón. Cho nên, người
đắc cách này, cuộc đời thường hay gặp được những may mắn
đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu
còng gọi là cách “tứ phương củng phục anh hùng” ý nói
những người có khả năng lãnh đạo, thâu phục được anh hùng
hào kiệt bốn phương.

Người mệnh an tại Dậu có Bạch Hổ là cách Hổ Khiếu Tây


Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gian của hoàng
hôn vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì

119
đó là lúc cọp đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Theo
ý của người viết thì hai chữ Tây Phương hàm ý là “cõi Phật”
Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng có
nghĩa là có lòng hướng Phật. Người có cách này là người có
tánh tình nhân hậu và thường có khuynh hướng tôn giáo
mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm linh, thì người Bạch
Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão
Dậu.

Trong hai sao Tang Hổ thì Bạch Hổ có tầm ảnh hưởng đáng
kể hơn Tang Môn. Ví dụ như Bạch Hổ đi với Tấu Thư (Hổ Tấu)
có nghĩa là Hổ mang hòm sách, chỉ người có số khoa bảng,
học rộng hiểu nhiều. Bạch Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ
mọc thêm cánh, cách này giống như Phi Mã, chỉ những người
thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành
công rất dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã
là vận may đang đến, nếu dự tính điều gì thì nên mạnh dạn
xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ được như ý, có việc
rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương…..

Bạch Hổ cũng là một trong Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái)


Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận
lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được
phần nào những tai họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ
Linh là cơ hội tốt cho vấn đề công danh.

Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình Dương đồng cung thủ Mệnh
là cách “hổ hàm kiếm” = Hổ ngậm kiếm, chỉ người gan dạ,
oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh

120
hội họp thì đường binh nghiệp sẽ phát rất nhanh.

Tang Hổ cũng là những sao lưu, cho nên hạn có Tang Hổ, gặp
Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập hạn
gặp Khốc Hư cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn
gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là
những chứng bệnh về máu huyết và bệnh về xương như đau
khớp, rỗng xương….. Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn
gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai.

“Nam nhân Tang Hổ hữu tài uyên bác


Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu”

Hai câu trên có thể dùng để tóm lược những nét đặc thù của
mẫu người Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa năng. Đàn
bà Tang Hổ tình duyên ngang trái, gia đạo buồn phiền.

BÀI 25

CẢI SỐ ĐƯỢC KHÔNG ?

Con người từ khi bước chân vào đời ai cũng hăm hở, lạc quan
và đầy lòng tự tin. Ở vào cái tuổi mà người ta gọi là “Tam
Thập Nhị Lập” ít có ai nghĩ đến hai chữ “số mệnh”. Nhưng
dần dần khi đã va chạm với cuộc sống, trải qua một vài lần
thất bại đổ vỡ ….. thì lúc đó mới bắt đầu thấm mệt mới bắt
đầu hiểu ý của Nguyễn Du, “có tài mà cậy chi tài” hoặc có
phần khắt khe và hoàn toàn ràng buộc vào cái ý niệm “thiên

121
mệnh” là “bởi số, chạy đâu cho khỏi số ?”

Tin hay không tin, tin ít hay nhiều, mức độ tin tưởng sẽ tỷ lệ
theo tuổi đời, và có thể tin sớm hay tin muộn vào hai chữ ‘số
mệnh” thì cũng còn tùy thuộc đường đời của mỗi người, là
con đường đầy hoa lá hay sỏi đá chông gai ? Và người Á Đông
của chúng ta cho rằng, vào khoảng lứa tuổi 40, có thể gọi là
khoảng đời mà con người đã “tận nhân lực” cho nên có thể
bắt đầu “tri thiên mệnh”

Như vậy biết số để làm gì? Và biết số rồi có cải được hay
không?

Vấn đề đầu tiên, biết số để làm gì, biết số có lợi ích gì không,
là những điều có thể có câu trả lời tương đối dễ dàng. Có
người nói rằng:

- Tôi không bao giờ xem Tử Vi, biết rồi thêm buồn thêm lo mà
thôi.

Khi nói như vậy, họ đã hàm ý tin rằng mỗi người đều có số
mệnh, và ít nhiều họ đã thấy hay cảm thấy được cuộc đời của
họ không có gì lạc quan lắm, cho nên chấp nhận một cuộc
sống “đến đâu hay đến đó” biết trước chỉ thêm lo nghĩ mà
không làm được gì để thay đổi.

Nhóm người này rất ít và mang cái tâm trạng của loài đà
điểu, sợ thì chui đầu xuống đất cát, còn hầu hết đều muốn
biết số của mình như thế nào. Và những người này lại có hai

122
quan niệm, một thụ động và một chủ động. Những người thụ
động là khi biết số của mình rồi thì thôi, phó mặc cho số như
“thuyền đời mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” ngược
lại, những người có quan niệm chủ động thì họ tin vào số, dựa
vào số, nương theo số để tránh hết những trở ngại mà họ đã
biết trước. Đây chưa phải là một hình thức cải số mà chúng ta
sẽ đề cập đến. Có thể nói đây là một hình thức tích cực của
sự cải số, biết số và làm đúng với số cũng là một cách giúp
chúng ta tránh được phần nào trở ngại, có thể là những trở
ngại nhỏ nhặt, nhưng cũng có thể là những nguyên nhân đưa
đến những sự thất bại to lớn. Ví dụ, người Mệnh Vô Chính
Diệu, nếu biết số của người VCD là không nên đứng mũi chịu
sào, có nghĩa là nếu trong quân đội thì không nên giữ chức vị
trưởng, dù lớn hay nhỏ, hoặc bên hành chánh thì không nên
giữ những chức vụ như trưởng phòng, giám đốc v.v….. hoặc
trong lãnh vực làm ăn kinh doanh thì không nên là người ra
mặt điều hành. Một ví dụ khác, người làm ăn mua bán nếu
biết hạn của mình năm nay không tốt thì họ chỉ giữ cơ sở của
họ như cũ chứ không bỏ công bỏ của để khuếch trương phát
triển rồi chuốc lấy sự thất bại lỗ lã. Còn ngược lại, nếu biết là
hạn tốt, họ sẽ mạnh dạn mạo hiểm hơn mà vẫn gặt hái được
những thành qủa như ý. Và trên khía cạnh tiêu cực, nếu mình
biết trước số mình nghèo, tình duyên mình lận đận, con cái
mình sẽ hư hỏng, về già mình sẽ cô đơn lẻ bóng v.v…..thì ít
ra mình đã biết, đã ít nhiều có sự chuẩn bị về tâm lý. Khi sự
việc xảy đến, những ảnh hưởng về tinh thần sẽ có phần nhẹ
nhàng, có thể chịu đựng được và có thể vượt qua dễ dàng
hơn là trường hợp bất ngờ.

123
Đi xa hơn, bậc làm cha mẹ nếu biết được số mệnh là một
điều rất hữu ích trong vấn đề giúp đỡ con cái của mình. Mặc
dù chúng ta vẫn nói, không ai hiểu con cái bằng cha mẹ,
nhưng thật ra sự hiểu biết của cha mẹ về con cái rất hạn hẹp.
Ngoài tính tình và những sở thích hiện tại, có nghĩa là đang
trong lứa tuối đó của mỗi đứa con, thì cha mẹ không thể nào
nhìn thấy được những biến chuyển và những thay đổi trong
tương lai của mỗi đứa con của mình. Nhưng khoa Tử Vi có thể
nhìn thấy được những điều đó và giúp cho cha mẹ hiểu rõ
năng khiếu, sở trường, sở đoản của mỗi đứa con để hướng
dẫn con cái chọn ngành mà học, chọn nghề mà làm. Nói
chung, nếu cha mẹ có thể nhìn thấy trước cuộc đời của con
mình, sung sướng hay cực khổ, may mắn hay gian truân, tình
cảm được hạnh phúc hay lận đận, thì ít ra cha mẹ cũng có sự
bù đắp trước về mặt tâm lý giúp cho con cái khỏi bị ngỡ
ngàng và thất vọng khi phải đối diện với nghịch cảnh của đời
mình.

Trên một phương diện khác, biết số là một yếu tố hữu ích cho
thuật dùng người. Ba chữ “thuật dùng người” không hẳn mình
phải là một cấp lãnh đạo, chỉ huy v.v….. nhưng trong vấn đề
hợp tác làm ăn với nhau, biết rõ người hợp tác với mình cũng
là một điều quan trọng. Hoặc trong vấn đề giao thiệp của
cuộc sống hằng ngày, biết số giúp mình biết người và khỏi
lầm người thì cũng tránh được sự ân hận về sau.

Những điều vừa nêu trên đề cập vấn đề chúng ta biết số và


thuận theo số, như vậy biết số rồi, chúng ta có cải số được
hay không?

124
Đối nghịch lại với quan niệm “thiên mệnh” là quan niệm
“nhân định thắng thiên” Nhân sinh quan này phản ảnh phần
nào khả năng tự tôn của con người, sự phấn đấu là tự tin của
những tâm hồn lạc quan. Trong những bộ môn Khoa Học
Huyền Bí thì môn Phong Thủy, Tướng Mệnh, và Tử Vi Đẩu Số
đều đề cập đến phần nhân định, có nghĩa là con người có
phần nào chủ động trong số mệnh của họ, chỉ khác nhau ở
chỗ mức độ mà con người có thể cùng tạo hoá dự phần vào
sự thay đổi số phận của mình.

Nói như vậy là chúng ta đã sớm có câu trả lời, con người có
thể cải số được nhưng rất hạn hẹp và chỉ ở một mức độ nào
đó thôi chứ không thể nào thay đổi, lật ngược lại cả 180 độ.
Trong những môn vừa nêu trên thì khoa Phong Thủy có thể
sửa đổi một cách dễ dàng nhất vì đối tượng của Phong Thủy
là nhà ở, cơ sở thương mại hay mộ phần. Về khoa Tướng
Mệnh, sự sửa đổi không thể nhờ vào khoa thẩm mỹ mà chỉ
đặt trên yếu tố cái tâm của con người, “tướng tùy tâm sinh”
Và khoa Tử Vi mà chúng ta đề cập ở đây chỉ dẫn cho chúng ta
những trường hợp và phương cách cải số nhưng xét ra cũng
rất hạn chế và kết qủa của cuộc cải số này vẫn còn ràng buộc
chặt chẽ vào những yếu tố quan trọng mà con người khó lòng
kiểm chứng được, đó là phúc đức của mỗi người. Khi nói phúc
đức của mỗi người chúng ta đã hiểu rằng phúc đức tạo được
do chính bản thân mình tạo ra và phúc đức mà mình thừa
hưởng được từ cha mẹ, ông bà hay nói chung là của dòng họ.

Như vậy, chúng ta đã nói biết số và thuận theo số cũng là

125
một hình thức cải số nhưng tiêu cực. Còn những cách cải số
tích cực hơn nhưng cũng rất hạn hẹp, ví dụ, một vài trường
hợp thấy trong các sách Tử Vi như nếu một đứa con nào đó
có số khắc với cha mẹ thì đứa con ấy sẽ bị đau ốm, bệnh tật
hoặc là có thể từ khi sinh ra đứa con này, cha mẹ của nó
thường hay gặp những chuyện không may như mất việc, làm
ăn thua lỗ v.v…..Trong trường hợp này, cách hóa giải là cho
đứa con ở với ông bà nội/ngoại, hay chú bác cô dì…..

Cách hóa giải của khoa Tử Vi thoạt nghe thì có vẻ dễ dàng


nhưng thực tế thì đây là một vấn đề rất tế nhị. Có cha mẹ nào
sinh con ra mà không muốn chính tay mình nuôi con. ở đây
chưa nói đến sự ảnh hưởng sâu xa về tâm lý sau này của đứa
bé. Tuy vậy, nếu làm được thì đổi lại sự bình yên cho cả hai
bên, cha mẹ và con cái.

Một ví dụ khác như đối với những người con gái mà khoa Tử
Vi gọi là “cao số” hoặc có số hình khắc với chồng con, nặng
nề hơn là số sát phu thì những lời khuyên thông thường là
không nên cử hành đám cưới hỏi linh đình, mà càng nên đơn
giản, càng lặng lẽ âm thầm càng tốt. Tùy theo mức độ khắc
sát nặng nhẹ, hoặc lễ cưới không đốt đèn long phụng, không
rướt dâu, hoặc có thể ở mức độ là cô dâu lặng lẽ xách vali về
nhà chồng, hay một hình thức khác mà chúng ta thường nghe
nói là cưới chạy tang. Cưới chạy tang là trường hợp đôi bên
chưa có ý định làm đám cưới, nhưng nếu trong gia đình hai
bên có tang, thì đây cũng là một cơ hội hóa giải sự khắc sát
nặng nề, những giọt nước mắt ngày sau khóc chồng thì nay
đã đổ xuống cho tang sự.

126
Như vậy, đối với khoa Tử Vi, chúng ta có thể cải số, nhưng chỉ
ở một mức độ nào đó và cũng giới hạn trong một vài lãnh
vực. Việc cải số đối với khoa Tử Vi vẫn đặt căn bản trên quan
niệm phúc đúc là chính yếu, đức năng thắng số. Cái yếu tố
phúc đức này có được hay không là tùy ở cái tâm, cái tánh và
hành động của mỗi cá nhân. Ví dụ như một giai đoạn về đức
năng thắng số là một cậu bé được ông thầy coi số và nói với
cha mẹ cậu ta sẽ không sống qúa tuổi 17. Một ngày tình cờ đi
qua con suối, cậu bé thấy tổ kiến có hàng ngàn con kiến đang
bị cuốn trôi theo dòng nước. Cậu bé can đảm lội xuống suối
để cứu tổ kiến. Và cha mẹ đã ngạc nhiên khi thấy cậu vẫn
sống qua tuổi 17.

Còn thời Tam Quốc phân tranh, Khổng Minh Gia Cát Lượng,
trên thông thiên văn, dưới rành địa lý, làm phép cầm sao bổn
mạng của mình để sống thêm vài năm nữa mà thất bại.
Người xưa đã nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” Gia
Cát Lượng vì phò tá nhà Hán mà đã ra tay đốt chết 10 vạn
quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốt Hồ Lô, rồi đốt luôn
80 vạn quân Tào trên sông Xích Bích thì như vậy phúc đức
còn đâu mà toan cải số ?

Tóm lại, những phương pháp cải số của khoa Tử Vi vừa giới
hạn, vừa khó thực hiện. Một cách được xem là căn bản và áp
dụng tổng quát là quan niệm “đức năng thắng số”

Nhưng hai chữ phúc đức vừa khó đo lường, vừa có vẻ mơ hồ


khiến cho con người đâm ra nghi ngờ và đưa đến những ý

127
nghĩ có vẻ đùa giỡn nhưng cũng phần nào hàm ý sự hoài nghi
như có câu “ người ngay thường mắc nạn, kẻ ác lại sống lâu.”
Và nếu đem cái triết lý qủa báo của nhà Phật thì lại đi vào
một nghi vấn khác: đâu phải lúc nào cũng thấy “qủa báo
nhãn tiền” ? Nếu không “nhãn tiền” thì đến bao giờ? Đi xa
qúa sẽ làm lung lay niềm tin của con người.

128

You might also like