You are on page 1of 2059

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TIẾP NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC-

LÊNIN
VÀ KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT
NAM (1911-1920)

Ngày 5 tháng 6 nǎm 1911, với bí danh Vǎn Ba, Nguyễn


Tất Thành(1) nhận làm phụ bếp cho tàu Amiran Latusơ
Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Nǎm sao, rời
Sài Gòn đi Mác-xây (Marseille) Pháp, bắt đầu cuộc hành
trình tìm đường cứu nước. Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920,
Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở châu Âu, châu
Phi , châu Mỹ, nghiên cứu và học hỏi để quyết định con
đường Cứu nước. Bản yêu sách của nhân dân Việt
Nam
do Nguyễn A'i Quốc gửi đến
Cuối nǎm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. ở Hội nghị Véc-xây (Versailles)
đây anh được biết ở nước Nga V.I Lênin đã lãnh đạo cách
mạng thành công, sáng lập Nhà nước công nông đầu tiên trên thếgiới, bảo vệ quyền lợi của đại
đa số nhân dân lao động. Tin vui ấy đã cổ vũ lòng hǎng hái của Nguyễn Tất Thành.

Nǎm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Nǎm 1919 các nước đế quốc thắng trận
họp Hội nghị Véc-xây (Versailles). Nhân dịp này thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn A'i Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành) đã gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi
quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.

Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Nguyễn A'i Quốc được đọc Luận
cương của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau này nhớ lại niềm sung sướng
khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Luận cương của V. I Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào
bị đọa đày đau khổ.! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.

Nguyễn A'i Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông
Dương tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp
tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này Anh đã cùng với
những nhà hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp
như: Macxen Casanh (Marcel Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê
(Paul Vaillant Couturier)... bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại
những người cơ hội. Trên diễn đàn của Đại hội, Nguyễn A'i
Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu
gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa khác.
Người đề nghị: "Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách
Nguyễn A'i Quốc phát biểu tại thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức ... Đảng
Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước
họp tại thành phố Tours nǎm thuộc địa. Chúng tôi thấyrằng việc Đảng xã hội gia nhập Quốc
1920 tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể là từ nay
Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa".
Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế cộng sản, trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

Sau Đại hội Tua, người cộng sản Việt Nam đầu tiên Nguyễn A'i Quốc bắt tay ngay vào hoạt động
nhằm đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các thuộc địa đấu tranh chống áp bức, giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ VẬN DỤNG
SÁNG TẠO
ĐƯỜNG LỐI CỦA V.I LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
THUỘC ĐỊA (1920-1924)

Nǎm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước
của các thuộc địa Pháp thành lập Hội liên hiệp thuộc địa nhằm tổ
chức và lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Điều
lệ của Hội nêu rõ: "Mục đích của Hội là tập hợp và hướng dẫn
cho mọi người dân các xử thuộc địa hiện sống trên đất Pháp để
soi sáng cho những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt
ở nước Pháp nhằm mục đích đoàn kết họ; thảo luận và nghiên
cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc địa".
Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết đấu
tranh tự giải phóng và nhấn mạnh "Vận dụng công thức của Các Bìa sách
Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh "Bản án chế độ thực dân
em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Pháp"
Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em
trong công cuộc ấy".

Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động cách mạng ở các thuộc địa, Hội liên hiệp thuộc
địa đã xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ). Nguyễn A'i Quốc là linh hồn của tờ báo, vừa là
chủ nhiệm, kiêm chủ bút, thủ quỹ, báo xuất bản bằng tiếng Pháp nhưng ở trang đầu còn có tên
báo bằng chữ ả rập và chữ Hán. Số 1 của tờ báo ra ngày 1 tháng 4 nǎm 1922, trong đó có lời
kêu gọi nêu rõ: Báo Le Paria ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung
Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Ma-đa-gat-xca, ở Đông Dương, Ǎng ti và Guyannơ... Báo kêu gọi
họ đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, hô hào họ tổ
chức lại nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực
hiện tình yêu thương và hữu ái... Báo Le Paria là vũ khí chiến đấu. Sứ mệnh của nó đã rõ ràng:
giải phóng con người.

Tác phẩm của Nguyễn A'i Quốc "Bản án chế độ thực dân Pháp" được xuất bản vào cuối nǎm
1925. Nhiều bài trong tác phẩm đã được đǎng báo Le Paria và một số báo, tạp chí ở Pháp và
Liên Xô. Bằng những chứng cớ và số liệu cụ thể, những người thật việc thật Nguyễn A'i Quốc đã
thức tỉnh nhân dân các thuộc địa, đồng thời chỉ ra con đường đấu tranh của cách mạng thuộc
địa, Nguyễn A'i Quốc chỉ rõ: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô
sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con
vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại
kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại
mọc ra".

Trong bài viết nhan đề "Đông Dương" đǎng trong Tạp chí
Cộng sản (La Revue Communiste) số 15 tháng 5 nǎm
1921, Nguyễn A'i Quốc nhấn mạnh : "Ngày mà hàng
trǎm triệu nhân dân châu A' bị tàn sát và áp bức thức
tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân
lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng
khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc họ có
thể giúp nhũng người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".

Tháng 6 nǎm 1923, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng


sản và Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn A'i Quốc rời nước
Nhà số 13 và 13/1 (nay là 248-250) Pháp sang Liên Xô. Được thực tiễn cách mạng Nga lúc
đường Vǎn Minh, (Quảng Châu),
nơi Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn
luyện
cán bộ cách mạng Việt Nam
đó cổ vũ, Nguyễn A'i Quốc kiên trì đấu tranh bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I Lênin
về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự chú ý của Quốc tế Cộng sản tới phong trào đấu tranh
của nhân dân các nước thuộc địa.

Nguyễn A'i Quốc đặc biệt quan tâm tới tình cảnh của người nông dân trong các nước thuộc địa.
Họ chiếm đại đa số trong xã hội và cách mạng thuộc địa không thể thắng lợi nếu không có sự
tham gia của đông đảo nông dân. Tại Hội nghị lần thứ I Quốc tế Nông dân (tháng 10 nǎm 1923)
Nguyễn A'i Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và được cử vào đoàn Chủ tịch của
Hội đồng. Người còn được mời làm chuyên gia của Ban thư ký giúp Hội đồng chuẩn bị nội dung
cho các cuộc họp và là chuyên gia về những công việc liên quan đến các thuộc địa.

Người viết nhiều bài báo về tình cảnh nông dân Bắc Phi, nông dân Trung Quốc, nông dân Việt
Nam. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn A'i Quốc đã tố cáo những thủ
đoạn thực dân để biến nông dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng. Vì vậy người nông dân không
còn đường sống mà phải đấu tranh, họ là lực lượng cách mạng vô cùng to lớn. Kết thúc bài phát
biểu Nguyễn A'i Quốc kêu gọi: "Thưa các đồng chí, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc
tế của các đồng chí chỉ trở thành một Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương
Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột
và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí".

Trong các bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (nǎm 1924) Nguyễn A'i Quốc đã đề cập
vấn đề về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, kêu gọi sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân thế giới với cách mạng thuộc địa. Tại phiên họp XXV ngày 3 tháng 7
nǎm 1924 Nguyễn A'i Quốc chỉ rõ: "Trong tất cả các thuộc địa Pháp, nạn nghèo đói đều tǎng, sự
phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước
thuộc địa họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân
vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức , thiếu người lãnh
đạo. Quốc tế cộng sản phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và
chỉ cho họ con đườngđi tới cách mạng và giải phóng".

Cuối nǎm 1924 Nguyễn A'i Quốc yêu cầu được trở về châu A'
để thực hiện hoài bão giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc
địa, trong đó có nhân dân Việt Nam.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH SÁNG LẬP CHÍNH ĐẢNG


CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM (1924-1930)

Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924 Nguyễn A'i Quốc đến Quảng Châu
(Trung Quốc). Trong báo cáo gửi Chủ tịch Đoàn quốc tế cộng
sản ngày 18 tháng 12 nǎm 1924, Nguyễn A'i quốc đã thông báo
về việc đã tiếp xúc với nhóm những người Việt Nam yêu nước ở
Quảng Châu để huấn luyện về phương pháp hoạt động tổ chức
và sau ba tháng học xong sẽ trở về Đông Dương, và có một
đoàn khác sang. Người nhấn mạnh: "Trong lúc này, đây là biện
pháp duy nhất".
Bìa sách "Đường Cách mệnh" -
Tác phẩm lý luận cách mạng
Nguyễn A'i Quốc đã cùng một số đồng chí trực tiếp giảng bài Việt Nam
cho các lớp huấn luyện. Những bài giảng của Người được tập
hợp in thành sách mang tên "Đường Cách mệnh" xuất bản nǎm
1927. Một trong những vấn đề đầu tiên Nguyễn A'i Quốc đặc biệt quan tâm là đào tạo những
người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người; hiểu lý luận Mác - Lênin; biết đoàn kết và tổ chức nhân dân cùng phấn đấu
vì sự nghiệp chung. Phân tích những bài học kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế
giới, Nguyễn A'i Quốc nêu rõ cách mạng Việt Nam phải theo gương cách mạng Nga đánh đuổi
đế quốc giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến tay sai đem lại ruộng đất cho nông dân.
Người nói: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật... Cách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công phải lấy dân chúng làm gốc, phải có đảng vững
bền".

Tháng 6 nǎm 1925, trên cơ sở số cán bộ được huấn luyện, Nguyễn A'i Quốc thành lập Hội Việt
Nam Thanh niên cách mạng", tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 21 tháng 6
nǎm 1925, báo "Thanh niên" ra đời. Đây là tờ báo cách mạng làm nhiệm vụ tuyên truyền giới
thiệu về chủ nghĩa Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga; giải thích đường lối chiến lược và sách
lược của cách mạng Việt Nam. Báo là người tuyên truyền tập thể, người cổ động và tổ chức tập
thể, góp phần quan trọng vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 5 nǎm 1927, Nguyễn A'i Quốc, rời Quảng Châu, đi Mátxcơva, sau đó đi Béc lin, tham dự
Hội nghị Ban chấp hành mở rộng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc tại Brúc xen (Bỉ), đi Y'
và trở về Xiêm (Thái Lan). Cuối nǎm 1929, Người trở lại Trung Quốc, triệu tập Hội nghị thống
nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào cầu nǎm 1930.

Vai trò của lãnh tụ NAQ đối với sự ra đời của Đảng c.s VN.
a. Sự chuẩn bị về mặt chính trị:
Do cmạng thuộc địa không được sự quan tâm đúng mức của Quốc tế cộng sản nên Người
đi sâu nghiên cứu, tham gia vào các diễn đàn, viết báo... để tuyên truyền về vấn đề thuộc
địa, cmạng thuộc địa.
-Cuối năm 1917, giữa lúc c.tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, Người trở lại Pháp. Tại
đây Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội
Pháp, lập ra Hội những Người Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt Nam hồn để tuyên
truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp
-Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho báo "Người cùng khổ", viết nhiều bài đăng trên
Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động
Pháp.
-Năm1923,NAQ rờiPhápđiMatxcova để tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, đồng thời
trực tiếp học
1
tập nghiên cứu kinh nghiệm C mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin. Người viết bài cho
báo Sự thật của Đảng Cộng Sản Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng
Sản.
- Năm1924, Người tham dự Đại hội V của Quốc tế Cộng Sản và các đại hội của Quốc tế
công hội, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên...
b. Sự chuẩn bị về mặt tổ chức
- Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng Cộng Sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số
chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa nhằm
tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân
- Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu. Tại đây, Người cùng các nhà
cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn độ... thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
Việc làm này đã nêu bật tầm quan trọng vấn đề đkết d.tộc trên toàn thế giới.
-Tháng6-1925,
2
Người sáng lập HộiVN cáchmạng Thanh niên hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên
truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định
về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
-Từ năm1925-927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một
đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
c.Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng
Được thể hiện thông qua hai tác phẩm Đường Kách Mệnh (1925) và Bản án chế độ thực
dân Pháp(1927). Hai tác phẩm đã:
- Vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc và khẳng định chủ nghĩa đế quốc là kẻ
thù. Từ đó thức tỉnh tinh thần đấu tranh trong quần chúng nhân dân.
-Người khẳng định chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để vì quyền lợi của đa số
- Người chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và ở chính
quốc

VAI
TRÒ
CỦA
HỒ
CHÍ
MIN
H
TRO
NG
VIỆ
C
THÀ
NH
LẬP
ĐẢN
G
CSV
N?
- Năm
1917,
Nguyễ
n Ái
Quốc
trở lại
Pháp.
Khi
Cách
mạng
tháng
Mười
Nga
thành
công,
Người
tham
gia
những
hoạt
động
chính
trị sôi
nổi
ngay
trên
đất
Pháp
như :
tham
gia
hoạt
động
trong
phong
trào
công
nhân
Pháp.
Năm
1919,
Người
tham
gia
Đảng
Xã hội
Pháp.
-
Tháng
6-
1919,
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã thay
mặt
nhóm
người
yêu
nước
Việt
Nam
tại
Pháp
gửi “
Bản
yêu
sách 8
điểm”
đến
Hội
nghị
Vécxai
, nhằm
tố cáo
chính
sách
của
Pháp

đòi
Chính
phủ
Pháp
thực
hiện
các
quyền
tự do,
dân
chủ và
quyền
bình
đẳng
của
dân tộc
Việt
Nam.
Mặc

không
được
chấp
nhận,
nhưng
“ Bản
yêu
sách”
đã gây
tiếng
vang
lớn đối
với
nhân
dân
Pháp

nhân
dân
các
nước
thuộc
địa của
Pháp.
Tên
tuổi
Nguyễ
n Ái
Quốc
từ đó
được
nhiều
người
biết
đến.
-
Tháng
7-1920
:
Nguyễ
n Ái
Quốc
đọc
bản Sơ
khảo
lần thứ
nhất
những
luận
cương
về
vấn đề
dân tộc

thuộc
địa của
Lênin.
Người

cùng
phấn
khởi
và tin
tưởng,

Luận
cương
đã chỉ
rõ cho
Người
thấy
con
đường
để giải
phóng
dân tộc
mình.
Từ đó,
Người
hoàn
toàn
tin
theo
Lênin,
dứt
khoát
đi theo
Quốc
tế thứ
III.
- Tại
Đại
hội lần
thứ 18
của
Đảng
Xã hội
Pháp
họp tại
Tua
vào
cuối
tháng
12-
1920,
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã bỏ
phiếu
tán
thành
việc
gia
nhập
Quốc
tế thứ
III,
tham
gia
sáng
lập
Đảng
Cộng
sản
Pháp
và trở
thành
người
Cộng
sản
Việt
Nam
đầu
tiên.
Sự
kiện
này
đánh
dấu
một
bước
ngoặt
trong

tưởng
chính
trị của
Nguyễ
n Ái
Quốc,
từ
lập
trường
yêu
nước
chuyển
sang
lập
trường
Cộng
sản.
- 1921:
Người
sáng
Hội
liên
hiệp
các
dân tộc
thuộc
địa
Pháp
để
tuyên
truyền,
tập
hợp
lực
lượng
chống
chủ
nghĩa
đế
quốc.
-
1922 :
Ra báo
“ Le
Paria”
( Ngườ
i cùng
khổ )
vạch
trần
chính
sách
đàn áp,
bóc lột

man
của
chủ
nghĩa
đế
quốc,
góp
phần
thức
tỉnh
các
dân tộc
bị áp
bức
đứng
lên tự
giải
phóng.
-
1923 :
Sang
Liên
Xô dự
Hội
nghị
Quốc
tế
nông
dân,
sau đó
làm
việc ở
Quốc
tế
Cộng
sản.
-
1924 :
Dự
Đại
hội
Quốc
tế
Cộng
sản lần
thứ V.
Ngoài
ra,
Người
còn
viết
nhiều
bài cho
báo
Nhân
Đạo,
Đời
sống
công
nhân
và viết
cuốn
sách
nổi
tiếng “
Bản án
chế độ
thực
dân
Pháp”
- đòn
tấn
công
quyết
liệt
vào
chủ
nghĩa
thực
dân
Pháp-
-
Những
hoạt
động
của
Nguyễ
n Ái
Quốc
(chủ
yếu
trên
mặt
trận tư
tưởng
chính
trị)
nhằm
truyền
bá chủ
nghĩa
Mác-
Lênin
vào
nước
ta.
Thời
gian
này
tuy
chưa
thành
lập
chính
đảng
của
giai
cấp vô
sản ở
Việt
Nam,
nhưng
những

tưởng
Người
truyền
bá sẽ
làm
nền
tảng

tưởng
của
Đảng
sau
này.
Đó là :
* Chủ
nghĩa
tư bản,
đế
quốc là
kẻ thù
chung
của
giai
cấp vô
sản các
nước

nhân
dân
các
thuộc
địa.
Đó là
mối
quan
hệ mật
thiết
giữa
cách
mạng
chính
quốc

thuộc
địa.
* Xác
định
giai
cấp
công
nhân

nông
dân là
lực
lượng
nòng
cốt của
cách
mạng.
* Giai
cấp
công
nhân
có đủ
khả
năng
lãnh
đạo
cách
mạng,
thông
qua
đội
tiên
phong

Đảng
Cộng
sản.
-
Tháng
6-1925
:Người
thành
lập “
Hội
Việt
Nam
Cách
mạng
thanh
niên”
và cho
xuất
bản
tuần
báo “
Thanh
niên”
làm cơ
quan
ngôn
luận
của
Hội.
-
Tháng
7-1925
:
Nguyễ
n Ái
Quốc
cùng
một số
nhà
cách
mạng
Quốc
tế, lập
ra
“Hội
các
dân tộc
bị áp
bức ở
Á
Đông”,

quan
hệ chặt
chẽ
với
Hội
Việt
Nam
cách
mạng
thanh
niên.
- Tại
Quảng
Châu,
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã mở
nhiều
lớp
huấn
luyện
ngắn
ngày
để đào
tạo,
bồi
dưỡng
cách
mạng.
-
Những
bài
giảng
của
Nguyễ
n Ái
Quốc
tại các
lớp
huấn
luyện

Quảng
Châu
sau đó
đã
được
xuất
bản
thành
sách
“Đườn
g Kách
Mệnh.
- Từ
năm
1928 :
Hội
Việt
Nam
cách
mạng
thanh
niên đã
xây
dựng
được
cơ sở
của
mình ở
khắp
nơi.
Hoạt
động
của
Hội
góp
phần
truyền
bá tư
tưởng
Mác-
Lênin,
thúc
đẩy
phong
trào
cách
mạng
Việt
Nam
theo
xu thế
cách
mạng
vô sản.
Sự ra
đời và
hoạt
động
của
Hội
Việt
Nam
cách
mạng

bước
chuẩn
bị chu
đáo về
chính
trị , tổ
chức
và đội
ngũ
cán bộ
cho
việc
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
sau
này.
- Giữa
năm
1927-
1930 :
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã từ
Xiêm
(Thái
Lan )
về
Trung
Quốc,
với
danh
nghĩa
đại
diện
Quốc
tế
Cộng
sản
triệu
tập
Hội
nghị
hợp
nhất
các tổ
chức
cộng
sản,
thành
lập
một
Đảng
Cộng
sản
duy
nhất ở
Việt
Nam.
NGÀ
Y
THÀ
NH
LẬP
ĐẢN
G
CỘN
G
SẢN
VIỆ
T
NA
M
(ĐCS
VN)-
Cuối
thế kỷ
XIX,
sau khi
bình
định
xong
Việt
Nam,
thực
dân
Pháp
bắt
tay
thực
thi các
chính
sách
thực
dân hà
khắc,
biến
nước
ta từ
một
nước
phong
kiến
độc lập
trở
thành
một
nước
thuộc
địa
nửa
phong
kiến.
Sự
thống
trị tàn
bạo
của
thực
dân
Pháp
đã làm
cho
mâu
thuẫn
dân tộc
diễn ra
hết sức
gay
gắt,
hàng
loạt
phong
trào
yêu
nước
theo
các
khuyn
h
hướng
khác
nhau
liên
tiếp nổ
ra
nhằm
giải
quyết
mâu
thuẫn
chủ
yếu
đó.
Tiêu
biểu là
phong
trào
Cần
Vương
do vua
Hàm
Nghi
và Tôn
Thất
Thuyết
khởi
xướng;
phong
trào
Đông
Du của
Phan
Bội
Châu;
phong
trào
cải
cách
của
Phan
Chu
Trinh,
khởi
nghĩa
Yên
Thế do
Hoàng
Hoa
Thám
lãnh
đạo...C
ác
cuộc
đấu
tranh
giải
phóng
dân tộc
tuy
diễn ra
quyết
liệt,
song
cuối
cùng
đều bị
thất
bại, vì
thiếu
một
đường
lối cứu
nước
đúng
đắn,
thiếu
một tổ
chức
lãnh
đạo có
khả
năng
tập
hợp
sức
mạnh
của
toàn
dân
tộc.
Trong
bối
cảnh
đó,
tháng
6-
1911,
người
thanh
niên
yêu
nước
Nguyễ
n Tất
Thành
đã rời
Tổ
quốc
ra đi
tìm
con
đường
cứu
nước
giải
phóng
dân
tộc.
Năm
1920
Nguyễ
n Tất
Thành-
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã đến
với
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin;
đây
không
chỉ là
bước
ngoặt
đối với
cuộc
đời
hoạt
động
cách
mạng
của
Nguyễ
n Ái
Quốc,
mà còn

bước
ngoặt
của
cách
mạng
Việt
Nam.

luận
của
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin
đã soi
rọi cho
Nguyễ
n Ái
Quốc:
Muốn
cứu
nước
và giải
phóng
dân tộc
thì
trước
hết
phải có
“Đảng
cách
mệnh”
để
“trong
thì vận
động
và tổ
chức
dân
chúng,
ngoài
thì liên
lạc với
dân tộc
bị áp
bức và
vô sản
giai
cấp
mọi
nơi”.
Từ
nhận
thức
đó
Nguyễ
n Ái
Quốc
ra sức
chuẩn
bị mọi
mặt
cho
việc
thành
lập
một
chính
đảng
vô sản
ở Việt
Nam,
Người
từng
bước
truyền
bá có
hệ
thống
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin
vào
trong
nước,
đưa
phong
trào
công
nhân
chuyển
dần từ
trình
độ tự
phát
lên
tự
giác;
đưa
phong
trào
yêu
nước
chuyển
dần
sang
lập
trường
cộng
sản.
Tháng
3-
1929,
Chi bộ
Cộng
sản
đầu
tiên
được
thành
lập ở
số nhà
5D,
Hàm
Long,

Nội,
gồm

Trần
Văn
Cung,
Trịnh
Đình
Cửu,
Ngô
Gia
Tự,
Nguyễ
n Đức
Cảnh,
Đỗ
Ngọc
Du,
Nguyễ
n
Phong
Sắc,
Nguyễ
n Văn
Tuân

Dương
Hạc
Đính.
Ngày
1-5-
1929,
tại Đại
hội
toàn
quốc
của
Hội
Việt
Nam
Cách
mạng
Thanh
niên ở
Hương
Cảng,
đoàn
đại
biểu
Bắc
Kỳ
đưa ra
đề
nghị
thành
lập
Đảng
Cộng
sản.
Đề
nghị

không
được
chấp
nhận,
trở về
nước,
ngày
17-6-
1929,
những
đảng
viên
trong
Chi bộ
Cộng
sản
5D
Hàm
Long
đã
tuyên
bố
thành
lập
Đông
Dương
Cộng
sản
Đảng.
Ngày
25-7-
1929
An
Nam
Cộng
sản
Đảng
được
thành
lập ở
Nam
Kỳ.
Tháng
9-1929
Đông
Dương
Cộng
sản
Liên
đoàn
được
thành
lập ở
Trung
Kỳ.
Chỉ
trong
một
thời
gian
ngắn ở
Việt
Nam
đã có
ba tổ
chức
cộng
sản
được
tuyên
bố
thành
lập.
Điều
đó
phản
ánh xu
thế tất
yếu
của
phong
trào
đấu
tranh
cách
mạng
ở Việt
Nam.
Song
sự tồn
tại của
ba tổ
chức
cộng
sản
hoạt
động
biệt
lập
trong
một
quốc
gia có
nguy

dẫn
đến
chia rẽ
lớn.
Yêu
cầu
bức
thiết
của
cách
mạng
là cần
có một
Đảng
thống
nhất
lãnh
đạo.
Nguyễ
n Ái
Quốc,
người
chiến
sĩ cách
mạng
lỗi lạc
của
dân tộc
Việt
Nam,
người
duy
nhất có
đủ
năng
lực và
uy tín
đáp
ứng
yêu
cầu đó
của
lịch
sử:
thống
nhất
các tổ
chức
cộng
sản
thành
Đảng
Cộng
sản
duy
nhất ở
Việt
Nam.
Từ
ngày 3
đến 7-
2-
1930,
Hội
nghị
hợp
nhất ba
tổ
chức
Cộng
sản
họp tại
Cửu
Long
(Hươn
g
Cảng,
Trung
Quốc)
dưới
sự chủ
trì của
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc.
Tham
gia
Hội
nghị
có các
đồng
chí
Trịnh
Đình
Cửu,
Nguyễ
n Đức
Cảnh
(đại
biểu
DDCS
D);
Nguyễ
n
Thiệu,
Châu
Văn
Liêm
(đại
biểu
(ANC
SĐ).
Đại
biểu
ĐDCS

không
đến
kịp.
Hội
nghị
nhất trí
thành
lập
đảng
thống
nhất,
lấy tên

Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
thông
qua
Chánh
cương
vắn
tắt,
Sách
lược
vắn
tắt,
Chươn
g trình
tóm tắt

Điều lệ
vắn tắt
của
Đảng.
Ngày
3
tháng
2 năm
1930
trở
thành
Ngày
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Hội
nghị
hợp
nhất
các tổ
chức
cộng
sản
Việt
Nam
mang
tầm
vóc
lịch sử
như là
Đại
hội
thành
lập
Đảng.
Đảng
được
thành
lập là
kết quả
của
cuộc
đấu
tranh
giai
cấp và
đấu
tranh
dân tộc
ở nước
ta
trong
những
năm
đầu thế
kỷ
XX; là
sản
phẩm
cuả sự
kết
hợp
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin
với
phong
trào
công
nhân

phong
trào
yêu
nước;
là kết
quả
của
quá
trình
lựa
chọn,
sàng
lọc
nghiê
m khắc
của
lịch sử
và là
kết quả
của
quá
trình
chuẩn
bị đầy
đủ về
chính
trị, tư
tưởng
và tổ
chức
của
một
tập thể
chiến
sĩ cách
mạng,
đứng
đầu là
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc.
Đó là
một
mốc
lớn
đánh
dấu
bước
ngoặt
trọng
đại
trong
lịch sử
cách
mạng
Việt
Nam,
chấm
dứt
cuộc
khủng
hoảng
về
đường
lối cứu
nước
kéo dài
mấy
chục
năm.
Trong
Chánh
cương
vắn
tắt,
Sách
lược
vắn tắt
do
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc
khởi
thảo,
được
Hội
nghị
thành
lập
Đảng
thông
qua đã
xác
định
cách
mạng
Việt
Nam
phải
tiến
hành
cách
mạng
giải
phóng
dân tộc
tiến
lên chủ
nghĩa
xã hội.
Độc
lập dân
tộc và
chủ
nghĩa
xã hội
là con
đường
cách
mạng
duy
nhất
đúng
để
thực
hiện
mục
tiêu
giải
phóng
dân
tộc,
giải
phóng
giai
cấp,
giải
phóng
xã hội,
giải
phóng
con
người.
Sự ra
đời
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
với
Cương
lĩnh,
đường
lối
cách
mạng
đúng
đắn
chứng
tỏ giai
cấp
công
nhân
Việt
Nam
đã
trưởng
thành,
đủ sức
lãnh
đạo
cách
mạng.
Sự ra
đời
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
gắn
liền
với tên
tuổi
của
Nguyễ
n Ái
Quốc-
Hồ
Chí
Minh,
người
sáng
lập và
rèn
luyện
Đảng
ta.
CÁC
H
MẠ
NG
THÁ
NG

M
1945
Năm
1941,
cuộc
chiến
tranh
thế
giới đã
bước
sang
năm
thứ ba.
Tháng
6-
1941,
phát
xít
Đức
mở
cuộc
tấn
công
Liên
Xô.
Cuộc
chiến
tranh
ái quốc
vĩ đại
của
nhân
dân
Liên
Xô bắt
đầu.
Tính
chất
của
cuộc
chiến
tranh
đã thay
đổi về
căn
bản.
Trên
thế
giới
hình
thành
hai
trận
tuyến:
một
bên là
lực
lượng
dân
chủ do
Liên

đứng
đầu,
một
bên là
khối
phát
xít
Đức,
Ý,
Nhật.
Đầu
năm
1941,
lãnh tụ
Nguyễ
n Ái
Quốc
về
nước
triệu
tập
Hội
nghị
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
(Hội
nghị
lần thứ
tám).
Hội
nghị
đã nêu
một s
mâu
thuẫn
cần
giải
quyết
lúc bấy
giờ
như
mâu
thuẫn
giữa
dân tộc
ta với
bọn đế
quốc
Pháp –
phát
xít
Nhật.
Hội
nghị
chủ
trương
trước
hết
phải
giải
phóng
các
dân tộc
Đông
Dương
ra khỏỉ
ách áp
bức
Pháp -
Nhật.
Hội
nghị
chủ
trương
thành
lập
Việt
Nam
độc lập
đồng
minh
(Việt
Minh)
gồm
các tổ
chức
quần
chúng,
cùng
nhau
giải
phóng
dân
tộc.
Từ sau
khi ra
đời,
Mặt
trận
Việt
Minh
đã
nhanh
chóng
trở
thành
hạt
nhân
quy tụ
sức
mạnh
đoàn
kết dân
tộc.
Lực
lượng
cách
mạng
giương
cao
ngọn
cờ đại
nghĩa
của
Việt
Minh
ngày
càng
được
mở
rộng
và phát
triển
không
ngừng.
Giữa
lúc đó,
chiến
tranh
thế
giới
thứ hai
đã có
những
chuyển
biến
mau
lẹ,
phát
xít
Đức bị
tiêu
diệt và
phải
đầu
hàng.
Ở châu
Á,
quân
phiệt
Nhật
cũng
đầu
hàng

điều
kiện.
Ngay
lúc đó,
Hội
nghị
toàn
quốc
của
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
họp ở
Tân
Trào
(Tuyên
Quang
) quyết
định
phát
động
tổng
khởi
nghĩa
trong
cả
nước,
giành
lấy
chính
quyền
trước
khi
quân
đồng
minh
kéo
vào.
Ngày
16 - 8 -
1945,
Quốc
dân
Đại
hội
chính
thức
khai
mạc,
tượng
trưng
cho ý
chí,
nguyệ
n vọng

khối
đại
đoàn
kết
toàn
dân
tộc,
thông
qua đề
nghị
tổng
khởi
nghĩa
của
Mặt
trận
Việt
Minh.
Đại
hội đã
nhất trí
tán
thành
quyết
định
tổng
khởi
nghĩa,
thông
qua 10
chính
sách
của
Việt
Minh,
lập Ủy
ban
dân tộc
giải
phóng
Việt
Nam
do Chủ
tịch
Hồ Chí
Minh
đứng
đầu.
Ngay
sau đó,
Hồ
Chủ
tịch đã
gửi thư
tới
đồng
bào cả
nước
kêu
gọi nổi
dậy
tổng
khởi
nghĩa
giành
chính
quyền
''...Giờ
quyết
định
cho
vận
mệnh
dân tộc
ta đã
đến.
Toàn
quốc
đồng
bào
hãy
đứng
dậy
đem
sức ta
mà tự
giải
phóng
cho
ta...
Tiến
lên!
Tiến
lên!
Dưới
lá cờ
Việt
Minh,
đồng
bào
hãy
dũng
cảm
tiến
lên!”
Tại Hà
Nội,
không
khí
cách
mạng

cùng
sôi
động.
Các
tầng
lớp
nhân
dân
hăng
hái gia
nhập
các
đoàn
thể
cứu
quốc,
các đội
tự vệ
chiến
đấu.
Tối
ngày
15 - 8,
đội
tuyên
truyền
xung
phong
của
Việt
Minh
đã tổ
chức
diễn
thuyết
công
khai ở
các rạp
hát lớn
trong
thành
phố.
Ngày
16 - 8,
truyền
đơn,
biểu
ngữ
kêu
gọi
khởi
nghĩa
xuất
hiện
khắp
nơi.
Chiều
ngày
17 - 8,
Tổng
hội
Viên
chức
tổ
chức
một
cuộc
mít
tinh tại
Nhà
hát
lớn.
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương

Đảng
bộ Thủ
đô đã
huy
động
quần
chúng
trong
các tổ
chức
cứu
quốc
thành
phố,
biến
cuộc
mít
tinh
thân
Nhật
thành
cuộc
mít
tinh
ủng hộ
Việt
Minh,
rồi
biến
thành
một
cuộc
biểu
tình
tuần
hành
qua
các
phố,
có cờ
đỏ sao
vàng
dẫn
đầu,
vừa cổ
động
chươn
g trình
Việt
Minh,
vừa hô
hào
nhân
dân
tham
gia
khởi
nghĩa.
Đến
ngày
19
tháng
8, khí
thế
cách
mạng
tràn
ngập
khắp
thủ đô

Nội.
Nhân
dân
thủ đô
kéo tới
quảng
trường
Nhà
hát lớn
dự
cuộc
mít
tinh
lớn do
Mặt
trận
Việt
Minh
tổ
chức.
Cuộc
mít
tinh
nhanh
chóng
chuyển
thành
cuộc
biểu
tình,
nhân
dân
nhanh
chóng
chiếm
phủ
Khâm
sai,
Toà
Thị
chính,
trại
lính
bảo an,
Sở
cảnh
sát và
các
công
sở của
chính
phủ bù
nhìn.
Cuộc
khởi
nghĩa
của
nhân
dân
Thủ đô
hoàn
toàn
thắng
lợi.
Ngay
từ
những
ngày
đầu
thu
tháng
8, đặc
biệt
sau
khởi
nghĩa
toàn
thắng
ở thủ
đô Hà
Nội,
một
không
khí
chuẩn
bị khởi
nghĩa
sục sôi
trong
cả
nước.
Từ
ngày
14 đến
ngày
18 - 8,
nhiều
xã,
huyện
thuộc
các
tỉnh từ
Bắc
vào
Nam
đã nối
tiếp
nhau
nổi
dậy
giành
chính
quyền.
Ngày
23 - 8,
Huế,
thành
lũy
hàng
trăm
năm
của
triều
Nguyễ
n và là
thủ
phủ
của
chính
quyền

nhìn
trung
ương
đã
nhanh
chóng
lọt vào
tay
ng-
ghen
thấy
rằng,
muốn
làm
cho
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa''
phù
hợp
với
yêu
cầu
cuộc
đấu
tranh
cách
mạng
của
giai
cấp vô
sản,
cần
phải từ
bỏ
quan
điểm
về chủ
nghĩa
cộng
sản
không
tưởng
của
Vai-tơ-
lin.
Mùa
xuân
1846,
Vai-tơ-
lin đến
Bruc-
xen,
thủ đô
nước
Bỉ gặp
Mác

trình
bày
quan
điểm
của
mình:
“Tôi
cho
rằng
sự tự
do
tương
ái của
con
người
là cơ
sở của
xã hội
cộng
sản,
chỉ cần
chúng
ta có
một
phươn
g án
như
vậy để
mọi
người
làm
theo là
được''.
Mác
nghe
Vai-tơ-
lin nói
vậy đã
trả lời:
''Vậy
làm
thế nào
để
đánh
đổ chế
độ xã
hội cũ?
Ông
không
chủ
trương
dùng
bạo
lực
sao?”
Vai-tơ-
lin
điềm
nhiên
trả lời:
''Chuy
ện đó
để bọn
ăn
mày,
bọn kẻ
cướp
và bọn
tội
phạm
làm,
còn
công
nhân
chỉ cần
tổ
chức
các cơ
cấu
phúc
lơi và
nhà ăn
chung,
xây
dựng
công
xã tự
do
tương
ái,
khiến
mọi
người
đều
bình
đẳng.
Theo
quan
điểm
đó cho
nên
ngọn
cờ của
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa”
mới
mang
khẩu
hiệu:
''Mọi
người
đều là
anh
em''”.
Mác
nói:
“Tôi
biết rất
nhiều
người
trong
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa''
tin vào
chủ
nghĩa
cộng
sản
bình
quân
của
ông,
nhưng
ông
không
thể
thuyết
phục
giai
cấp tư
sản
đem
tài sản

quyền
lực của
mình
phân
phối
đều
cho
mọi
người.
Xin
nói
ngay
rằng
đó là
ảo
tưởng.
Hiện
nay,
cái mà
công
nhân
cần là
lý luận

đường
lối
chính
xác
chứ
không
phải là
tình
cảm và
nguyệ
n
vọng.
Chỉ có
tiến
hành
cách
mạng
vô sản
mới lật
đổ
được
chế độ
tư bản.
Đây là
con
đường
duy
nhất
đúng
đắn''.
Mác

Vai-tơ-
lin
không
thể đi
đến
thống
nhất
khi hai
bên
hoàn
toàn
khác
nhau
về tư
tưởng

luận.
Mấy
tháng
sau,
Mác

Ăng-
ghen
thành
lập ở
Bruc-
xen
''Uỷ
ban
thông
tấn
cộng
sản''.
Ngay
sau đó,
Uỷ ban
đã liên
lạc với
nhiều
chi bộ
của
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa”.
Trong
một
cuộc
họp
của Uỷ
ban,
Mác

Vai-tơ-
lin đã
tranh
luận
công
khai.
Khai
mạc
cuộc
họp,
Ăng-
ghen
tuyên
bố:
''Cần
phải có
một
luận
điểm
chung
làm
căn cứ
cho
hành
động
của
những
người
cộng
sản''.
Vai-tơ-
lin
nghe
xong
lập tức
phát
biểu,
cho
rằng
phải
động
viên
công
nhân
còn
tuyên
truyền
lý luận
không
phải là
chuyện
quan
trọng”.
Mác
chất
vấn:
''Vai-
tơ-lin,
ông
luôn
mồm
nói
phải
động
viên,
vậy
thử
hỏi,
ông
căn cứ
vào
đâu để
chứng
minh
hoạt
động
đó là
đúng,
và căn
cứ vào
đâu để
xác
định
các
hoạt
động
sau
này?''
Trước
hàng
loạt
câu hỏi
của
Mác,
Vai-tơ-
lin tỏ
ra lúng
túng

không
thể trả
lời
được.
Lúc
bấy
giờ
Mác
mới
nói
một
cách
nghiê
m túc:
''Cái

giai
cấp vô
sản
cần là
lý luận
khoa
học,
chứ
không
phải là
tình
cảm
ngây
thơ''.
Ông
nhắc
nhở
mọi
người
rằng
công
tác
quan
trọng
nhất là
dùng
lý luận
đúng
đắn,
khoa
học để

trang
cho
công
nhân.
Chỉ có
như
vậy
mới
làm
cho họ
nhận

những
chủ
trương
sai
lầm,
kể cả
cái
''chủ
nghĩa
cộng
sản
bình
quân''
của
Vai-tơ-
lin. Cả
hội
trường
vỗ tay
nhiệt
liệt,
biểu
thị sự
đồng
tình
với
quan
điểm
của
Mác.
Mùa xuân năm 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập “Đồng minh những người chính nghĩa”
ở Luân Đôn và tiến hành cải tổ tổ chức này. Ít lâu sau, Đồng minh triệu tập Đại hội đại
biểu lần thứ nhất.

Tại Đại hội này, căn cứ vào đề nghị của Mác và Ăng-ghen, ''Đồng minh những người
chính nghĩa'' đổi tên thành “Liên đoàn nhũng người cộng sản'' và thông qua cương lĩnh
mới, lấy khẩu hiệu ''Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại'' thay thế cho khẩu hiệu mơ hồ:
''Mọi người đều là anh em''.

Mùa thu năm đó, Liên đoàn những người cộng sản triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai.
Các đại biểu đều thấy cần phải có một tuyên ngôn làm cương lĩnh cho hoạt động của Liên
đoàn. Mác và Ăng-ghen đã bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn. Tháng 2 năm 1848, ''Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản'' chính thức được công bố tại Luân Đôn.

Sự ra đời của ''Tuyên ngôn Đảng Cộng sản'' đã gây chấn động toàn thế giới. Tuyên ngôn
đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản,
chứng minh quy luật tất yếu chế độ tư bản sẽ bị diệt vong và chế độ cộng sản sẽ thắng lợi.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển rất quan trọng của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng- ghen trình bày trong tác phẩm này là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác vẫn
là kim chỉ nam dẫn đường.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về đảng và
xây dựng đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng đảng
của Đảng ta. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định: Sự lãnh đạo của
Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất
yếu

trong
tất
cả
các
giai
đoạn
cách
mạng.

Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt
trong công tác xây dựng đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo. Tư
tưởng về sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp trong Tuyên ngôn trở thành cơ sở
cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.

Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản chất lập trường
quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết luận đó vận dụng trong
công tác phát triển đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần. Những tư
tưởng quan điểm về xây dựng đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong
công tác xây dựng đảng của Đảng ta.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


(ĐCSVN)- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việ
Nam),
đánh
thắng
các
cuộc
chiến
tranh
xâm
lược,
xoá bỏ
chế độ
thực
dân
phong
kiến,
hoàn
thành
sự
nghiệp
giải
phóng
dân
tộc,
thống
nhất
đất
nước,
tiến
hành
công
cuộc
đổi
mới,
xây
dựng
và bảo
vệ
vững
chắc
nền
độc lập
dân
tộc.
Hội
nghị
thành
lập
1.
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
ra đời,
bước
ngoặt
quyết
định
của
cách
mạng
Việt
Nam.
Từ
năm
1858,
thực
dân
Pháp
xâm
lược
Việt
Nam,
từng
bước
thiết
lập chế
độ
thống
trị
tàn
bạo,
phản
động
của
chủ
nghĩa
thực
dân
trên
đất
nước
ta.
-Về
chính
trị,
chúng
trực
tiếp
nắm
giữ các
chức
vụ chủ
chốt
trong
bộ
máy
nhà
nước,
thi
hành
chính
sách
cai trị
chuyên
chế,
biến
giai
cấp tư
sản
mại
bản và
địa chủ
phong
kiến
thành
tay sai
đắc
lực.
Đồng
thời
chúng
thực
hiện
chính
sách
đàn áp,
khủng
bố hết
sức dã
man,
tàn
bạo,
làm
cho
nhân
dân
mất
hết
quyền
độc
lập,
quyền
tự do
dân
chủ.
-Về
kinh
tế,
chúng
thực
hiện
chính
sách
độc
quyền,
kìm
hãm sự
phát
triển
kinh tế
độc lập
của
nước
ta, vơ
vét tài
nguyê
n và
bóc lột
nặng
nề,
làm
cho
nhân
dân ta,
trước
hết là
công
nhân

nông
dân bị
bần
cùng
hoá,
nền
kinh tế
bị què
quặt,
lệ
thuộc
vào
kinh tế
Pháp.
- Về
văn
hoá-xã
hội,
chúng
thực
hành
chính
sách
ngu
dân,
khuyế
n
khích
văn
hoá nô
dịch,
vong
bản, tự
ti,
sùng
Pháp,
kìm
hãm
nhân
dân ta
trong
vòng
tối
tăm,
dốt
nát, lạc
hậu.
Với
chính
sách
khai
thác
thuộc
địa
triệt để
của
thực
dân
Pháp,
xã hội
Việt
Nam

những
biến
đổi
lớn,
hai
giai
cấp
mới ra
đời:
giai
cấp
công
nhân
và giai
cấp tư
sản.
Từ chế
độ
phong
kiến
chuyển
sang
chế độ
thuộc
địa
nửa
phong
kiến,
xã hội
Việt
Nam
xuất
hiện
hai
mâu
thuẫn
cơ bản
ngày
càng
gay
gắt:
mâu
thuẫn
giữa
dân tộc
ta với
đế
quốc
Pháp
xâm
lược
và mâu
thuẫn
giữa
nhân
dân ta,
chủ
yếu là
nông
dân
với
giai
cấp địa
chủ
phong
kiến.
Hai
mâu
thuẫn
đó có
quan
hệ chặt
chẽ
với
nhau,
trong
đó
mâu
thuẫn
giữa
dân tộc
với đế
quốc
xâm
lược là
chủ
yếu.
Nhiệm
vụ
chống
đế
quốc
Pháp
xâm
lược

nhiệm
vụ
chống
phong
kiến
tay sai
không
tách
rời
nhau.
Đấu
tranh
giành
độc lập
dân tộc
và đấu
tranh
đòi
quyền
dân
sinh
dân
chủ,
đó là
yêu
cầu
của
cách
mạng
Việt
Nam
đặt ra.
Ngay
từ khi
thực
dân
Pháp
xâm
lược,
nhân
dân ta
đã liên
tiếp
đứng
lên
chống
lại
chúng.
Hàng
trăm
phong
trào,
cuộc
khởi
nghĩa
oanh
liệt
dưới
ngọn
cờ của
các sĩ
phu và
các
nhà
yêu
nước
đương
thời,
nhưng
đều
thất
bại và
bị thực
dân
Pháp
đàn áp
tàn
bạo.
Nguyê
n nhân
cơ bản
dẫn
đến
thất
bại là
thiếu
một
đường
lối cứu
nước
đúng
đắn.
2.
Nguyễ
n Ái
Quốc
tìm
đường
cứu
nước.
Sự ra
đời
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Giữa
lúc
cách
mạng
Việt
Nam
đang
chìm
trong
cuộc
khủng
hoảng
về
đường
lối cứu
nước,
Nguyễ
n Tất
Thành
(Hồ
Chí
Minh)
rời Tổ
quốc
đi tìm
đường
cứu
nước.
Bước
ngoặt
lớn
trong

tưởng
của
Nguyễ
n Ái
Quốc
diễn ra
khi
Người
đọc
toàn
văn:

thảo
ần thứ
nhất
những
luận
cương
về vấn
đề dân
tộc và
thuộc
địa của
Lênin.
Người
hiểu
sâu sắc
những
vấn đề
cơ bản
của
đường
lối giải
phóng
dân
tộc, đó
là con
đường
cách
mạng
vô sản,
giải
phóng
dân tộc
gắn
với
giải
phóng
giai
cấp,
độc lập
dân tộc
gắn
với
chủ
nghĩa
xã hội,
giai
cấp vô
sản
phải
nắm
lấy
ngọn
cờ giải
phóng
dân
tộc,
gắn
cách
mạng
giải
phóng
dân tộc
từng
nước
với
phong
trào
cách
mạng
vô sản
thế
giới.
Từ đây
Người
dứt
khoát
đi theo
con
đường
cách
mạng
của
Lênin.
Nguyễ
n Ái
Quốc

người
Việt
Nam
đầu
tiên
tiếp
thu
sáng
tạo chủ
nghĩa
Mác-
Lênin,
tìm ra
con
đường
đúng
đắn
giải
phóng
dân tộc
Việt
Nam.
Trở
thành
chiến
sĩ cộng
sản,
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã
tham
gia
hoạt
động
trong
phong
trào
cộng
sản và
công
nhân
quốc
tế, tích
cực
vận
động
phong
trào
cách
mạng
thuộc
địa,
nghiên
cứu và
truyền
bá chủ
nghĩa
Mác-
Lênin
về Việt
Nam.
Tháng
12-
1924,
Nguyễ
n Ái
Quốc
về
Quảng
Châu
Trung
Quốc
trực
tiếp
chỉ đạo
việc
chuẩn
bị
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Chủ
nghĩa
Mác-
Lênin

những
tài liệu
tuyên
truyền
của
Nguyễ
n Ái
Quốc
được
giai
cấp
công
nhân

nhân
dân
Việt
Nam
đón
nhận
như
"người
đi
đường
đang
khát
mà có
nước
uống,
đang
đói mà

cơm
ăn".
Nó lôi
cuốn
những
người
yêu
nước
Việt
Nam
đi theo
con
đường
cách
mạng
vô sản.
Phong
trào
đấu
tranh
của
giai
cấp
công
nhân

nhiều
tầng
lớp
nhân
dân
phát
triển
mạnh
mẽ,
đòi hỏi
phải có
tổ
chức
đảng
chính
trị lãnh
đạo.
Chỉ
trong
một
thời
gian
ngắn ở
Việt
Nam
đã có
ba tổ
chức
cộng
sản
được
tuyên
bố
thành
lập: Ở
Bắc
Kỳ có
Đông
Dương
Cộng
sản
Đảng
(6-
1929).
Ở Nam
Kỳ có
An
Nam
Cộng
sản
Đảng
(7-
1929).

Trung
Kỳ có
Đông
Dương
Cộng
sản
Liên
đoàn
(9-
1929).
Điều
đó
phản
ánh xu
thế tất
yếu
của
cách
mạng
Việt
Nam.
Song,
sự tồn
tại của
ba tổ
chức
cộng
sản
hoạt
động
biệt
lập
trong
một
quốc
gia có
nguy
cơ dẫn
đến
chia rẽ
lớn.
Yêu
cầu
bức
thiết
của
cách
mạng
là cần
có một
đảng
thống
nhất
lãnh
đạo.
Nguyễ
n Ái
Quốc,
người
chién
sĩ cách
mạng
lỗi lạc
của
dân tộc
Việt
Nam,
người
duy
nhất có
đủ
năng
lực và
uy tín
đáp
ứng
nhu
cầu đó
của
lịch
sử:
thống
nhất
các tổ
chức
cộng
sản
thành
Đảng
Cộng
sản
duy
nhất ở
Việt
Nam.
Từ
ngày 3
đến 7-
2-
1930,
Hội
nghi
hợp
nhất ba
tổ
chức
cộng
sản
họp tại
Cửu
Long
(Hươn
g
Cảng,
Trung
Quốc)
dưới
sự chủ
trì của
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc.
Hội
nghị
nhất trí
thành
lập
đảng
thống
nhất,
lấy tên

Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
thông
qua
Chánh
cương
vắn
tắt,
Sách
lược
vắn
tắt,
Chươn
g trình
tóm tắt

Điều lệ
vắn tắt
của
Đảng,
Điều lệ
tóm tắt
của
các hội
quần
chúng.
Hội
nghị
hợp
nhất
các tổ
chức
cộng
sản
Việt
Nam
mang
tầm
vóc
lịch sử
như là
một
Đại
hội
thành
lập
Đảng.
Đảng
được
thành
lập là
kết quả
của
cuộc
đấu
tranh
giai
cấp và
đấu
tranh
dân tộc
ở nước
ta
trong
những
năm
đầu thế
kỷ
XX; là
sản
phẩm
của sự
kết
hợp
chủ
nghĩa
Mác-
Lênin
với
phong
trào
công
nhân

phong
trào
yêu
nước;
là kết
quả
của
quá
trình
lựa
chọn,
sàng
lọc
nghiê
m khắc
của
lịch sử
và là
kết quả
của
quá
trình
chuẩn
bị đầy
đủ về
chính
trị, tư
tưởng
và tổ
chức
của
một
tập thể
chiến
sĩ cách
mạng,
đứng
đầu là
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc.
Đó là
một
mốc
lớn
đánh
dấu
bước
ngoặt
trọng
đại
trong
lịch sử
cách
mạng
Việt
Nam,
chấm
dứt
cuộc
khủng
hoảng
về
đường
lối cứu

Sự ra
đời
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
với
Cương
lĩnh,
đường
lối
cách
mạng
đúng
đắn
chứng
tỏ giai
cấp
công
nhân
Việt
Nam
đã
trưởng
thành,
đủ sức
lãnh
đạo
cách
mạng.
Sự ra
đời
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
gắn
liền
với tên
tuổi
của
Nguyễ
n Ái
Quốc-
Hồ
Chí
Minh,
người
sáng
lập,
lãnh
đạo và
rèn
luyện
Đảng
ta.
Đảng
lãnh
đạo
cách
mạng
giải
phóng
dân tộc
đánh
thắng
các
cuộc
chiến
tranh
xâm
lược
thống
nhất
đất
nước
Sau
thời
gian
học tập
ở Liên
Xô,
tháng
4-1930
đồng
chí
Trần
Phú
trở về
nước
hoạt
động.
Theo
đề
nghị
của
Nguyễ
n Ai
Quốc,
Trần
Phú
tham
gia
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
lâm
thời và
được
phân
công
cùng
Ban
Thườn
g vụ
chuẩn
bị kỳ
họp
thứ
nhất
của
BCHT
W và
dự
thảo
Luận
cương
chính
trị.
Hội
nghị
BCHT
W lần
thứ
nhất
họp từ
ngày
14 đến
ngày
31-10-
1930
tại
Hương
Cảng
(Trung
Quốc)
do
Trần
Phú
chủ trì,
đã
thông
qua
Nghị
quyết
về tình
hình

nhiệm
vụ cần
kíp của
Đảng,
dự
thảo
Luận
cương
chính
trị của
Đảng,
Điều lệ
Đảng

Điều lệ
các tổ
chức
quần
chúng.
Theo
chỉ thị
của
Quốc
tế
Cộng
sản,
Hội
nghị
đã đổi
tên
ĐCSV
N
thành
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
. Hội
nghị
đã bầu
BCHT
W
chính
thức,
đồng
chí
Trần
Phú
được
bầu là
Tổng
Bí thư.
Tháng
3-1935
Đại
hội đại
biểu
lần thứ
nhất
của
Đảng
đã họp
tại một
địa
điểm ở
phố
Quan
Công,
Ma
Cao
(Trung
Quốc).
Trên
cơ sở
đánh
giá
tình
hình
thế
giới và
trong
nước,
Đại
hội đề
ra 3
nhiệm
vụ chủ
yếu
của
toàn
Đảng
trong
thời
gian
trước
mắt là:
Củng
cố và
phát
triển
Đảng;
tranh
thủ
quần
chúng
rộng
rãi;
chống
chiến
tranh
đế
quốc.
Đại
hội đã
thông
qua
Nghị
quyết
chính
trị và
Điều lệ
Đảng;
thông
qua
các
nghị
quyết
về vận
động
công
nhân,
nông
dân,
thanh
niên,
phụ
nữ,
binh
lính và
các
nghị
quyết
về
công
tác liên
minh
phản
đế,
công
tác
trong
các
dân tộc
thiểu
số, về
đội tự
vệ và
cứu tế
đỏ.
Đại
hội đã
bầu ra
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng,
đồng
chí Lê
Hồng
Phong
được
bầu
làm
Tổng
Bí thư.
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng
nhất trí
cử
đồng
chí
Nguyễ
n Ai
Quốc
là đại
diện
của
Đảng
bên
cạnh
Quốc
tế
Cộng
sản.Tại
Đại
hội VII
Quốc
tế
Cộng
sản,
với tư
cách
Trưởn
g đoàn
đại
biểu
Đảng
ta,
đồng
chí Lê
Hồng
Phong
đã
được
bầu là
Uỷ
viên
Ban
Chấp
hành
Quốc
tế
Cộng
sản.
Đại
hội đại
biểu
lần thứ
nhất
của
Đảng
có ý
nghĩa
lịch sử
quan
trọng;
Đại
hội đã
đánh
dấu sự
khôi
phục
được
hệ
thống
tổ
chức
của
Đảng
từ
Trung
ương
đến địa
phươn
g, từ
trong
nước
ra
ngoài
nước,
thống
nhất
phong
trào
đấu
tranh
cách
mạng
của
công
nhân,
nông
dân và
các
tầng
lớp
nhân
dân
khác
dưới
sự lãnh
đạo
của
Đảng.
Ngay
22-6-
1938

Hồng
Phong
bị bắt
tại Sài
Gòn,
sau 6
tháng

giam,
chúng
đưa về
quê
nhà
quản
thúc.
Lo sợ
trước
vai trò
của
lãnh tụ

Hồng
Phong
ngày
29-9-
1939
bọn
mật
thám
Pháp
lại bắt
giam
đồng
chí tại
Khám
lớn Sài
Gòn.
Cuối
năm
1940
chúng
đày Lê
Hồng
Phong
ra Côn
Đảo.
Trước
sự đầy
đoạ
khắc
nghiệt,
tra tấn

man,
tàn bạo
của kẻ
thù,
đồng
chí vẫn
nêu
cao khí
tiết của
người
cộng
sản.
Đồng
chí bị
kiệt
sức và
trút
hơi thở
cuối
cùng
vào
trưa
ngày
5-9-
1942
Đại
hội đại
biểu
toàn
quốc
lần thứ
II của
Đảng
đánh
dấu
một
mốc
quan
trọng
trong
quá
trình
lãnh
đạo và
trưởng
thành
của
Đảng
ta.
Đường
lối do
Đại
hội đề
ra đã
đáp
ứng
yêu
cầu
trước
mắt
của
kháng
chiến
và yêu
cầu lâu
dài của
cách
mạng

thực
sự là
những
đóng
góp
quý
báu
vào
kho
tàng lý
luận
cách
mạng
nước
ta.
Hơn 9
năm
sau
Đại
hội
Đảng
lần thứ
II
(1951)
cách
mạng
Việt
Nam
đã có
những
thay
đổi
lớn.
Đại
hội lần
thứ III
của
Đảng
họp tại
Thủ đô
Hà Nội
từ
ngày
5-9-
1960
đến
ngày
10-9-
1960.
Về dự
Đại
hội có
525
đại
biểu
chính
thức
và 51
đại
biểu
dự
khuyết
thay
mặt
hơn 50
vạn
đảng
viên
trong
cả
nước
Trong
lời
khai
mạc
Đại
hội,
đồng
chí Hồ
Chí
Minh
Chủ
tịch
Đảng
đã khái
quát
nhiệm
vụ mới
của
cách
mạng
Việt
Nam
và chỉ

“Đại
hội lần
này là
Đại
hội
xây
dựng
chủ
nghĩa
xã hội
ở miền
Bắc và
đấu
tranh
hoà
bình
thống
nhất
nước
nhà”.
Sau lời
khai
mạc,
đồng
chí Lê
Duẩn,
Uỷ
viên
Bộ
Chính
trị đọc
Báo
cáo
Chính
trị
trước
Đại
hội.
Báo
cáo
Chính
trị nêu

nhiệm
vụ cơ
bản
của
cách
mạng
miền
Nam là
giải
phóng
miền
Nam
khỏi
ách
thống
trị của
đế
quốc

phong
kiến,
thực
hiện
độc lập
dân tộc

người
cày có
ruộng,
góp
phần
xây
dựng
một
nước
Việt
Nam
hoà
bình,
thống
nhất,
độc
lập,
dân
chủ và
giầu
mạnh.
Vì vậy
nhiệm
vụ
trước
mắt
của
cách
mạng
miền
Nam là
đoàn
kết
toàn
dân,
kiên
quyết
đấu
tranh
chống
đế
quốc
Mỹ
xâm
lược
và gây
chiến,
đánh
đổ tập
đoàn
thống
trị Ngô
Đình
Diệm,
tay sai
của đế
quốc
Mỹ,
thành
lập
một
chính
quyền
liên
hợp
dân tộc
dân
chủ ở
miền
Nam,
thực
hiện
độc lập
dân
tộc,
các
quyền
tự do
dân
chủ và
cải
thiện
đời
sống
nhân
dân,
giữ
vững
hoà
bình,
thực
hiện
thống
nhất
nước
nhà
trên cơ
sở độc
lập và
dân
chủ,
tích
cực
góp
phần
bảo vệ
hoà
bình ở
Đông-
Nam-
Á và
trên
thế
giới.
Báo
cáo
nhấn
mạnh
tính
chất
lâu
dài,
gian
khổ và
phức
tạp của
cách
mạng
miền
Nam
và quá
trình
giành
thắng
lợi của
cách
mạng
miền
Nam là
quá
trình
phát
triển từ
thấp
đến
cao,
kết
hợp
nhiều
hình
thức
đấu
tranh,
lấy
việc
xây
dựng,
củng
cố,
phát
triển
lực
lượng
cách
mạng
của
quần
chúng
làm cơ
sở.
Báo
cáo
Chính
trị đã
phân
tích
một
cách
sâu sắc
về
đường
lối
cách
mạng
xã hội
chủ
nghĩa
ở miền
Bắc.
Sự
nghiệp
cách
mạng
xã hội
chủ
nghĩa
ở miền
Bắc
trước
hết
phải
biến
miền
Bắc
thành
căn cứ
vững
chắc
cho
cách
mạng
cả
nước,
giải
phóng
miền
Nam
thống
nhất
nước
nhà.
Báo
cáo
chính
trị chỉ
rõ nội
dung
cơ bản
của
công
cuộc
cải tạo
xã hội
chủ và
xây
dựng
chủ
nghĩa
xã hội
của
miền
Bắc,
đó là
một
quá
trình
cải
biến
cách
mạng
về mọi
mặt
nhằm
đưa
miền
Bắc từ
nền
kinh tế
chủ
yếu
dựa
trên sở
hữu cá
thể về
tư liệu
sản
xuất
tiến
lên nền
kinh tế
xã hội
chủ
nghĩa
dựa
trên sở
hữu
toàn
dân và
sở hữu
tập
thể, từ
chế độ
sản
xuất
nhỏ
tiến
lên chế
độ sản
xuất
lớn xã
hội
chủ
nghĩa.
Đường
lối
chung
của
cách
mạng
miền
Bắc
trong
thời kỳ
quá độ
tiến
lên chủ
nghĩa
xã hội
là:
Đoàn
kết
toàn
dân,
phát
huy
tinh
thần
yêu
nước
nồng
nàn và
truyền
thống
phấn
đấu
anh
dũng,
lao
động
cần cù
của
nhân
dân ta,
đồng
thời
tăng
cường
đoàn
kết với
các
nước
xã hội
chủ
nghĩa
anh
em, để
đưa
miền
Bắc
tiến
nhanh,
tiến
mạnh,
tiến
vững
chắc
lên chủ
nghĩa
xã hội,
xây
dựng
đời
sống
ấm no,
hạnh
phúc,
củng
cố
miền
Bắc
thành
cơ sở
vững
mạnh
cho
cuộc
đấu
tranh
thực
hiện
hoà
bình
thống
nhất
nước
nhà,
góp
phần
tăng
cường
phe
xã hội
chủ
nghĩa,
bảo vệ
hoà
bình ở
Đông
Nam Á
và thế
giới.
Tiếp
theo
Báo
cáo
Chính
trị,
đồng
chí Lê
Đức
Thọ
đọc
báo
cáo về
việc
sửa đổi
Điều lệ
Đảng.
Báo
cáo chỉ

trước
tình
hình
mới,
yêu
cầu cơ
bản
của
việc
xây
dựng
Đảng
là phải
ra sức
củng
cố
Đảng
về mặt

tưởng
và tổ
chức,
phải
giữ
vững

nâng
cao
hơn
nữa
tính
chất
giai
cấp và
tính
chất
tiên
phong
của
Đảng
để
nâng
cao
sức
chiến
đấu và
năng
lực
lãnh
đạo
của
Đảng,
bảo
đảm
cho
Đảng
có khả
năng
lãnh
đạo
Nhà
nước,
lãnh
đạo
quản

kimh
tế và
văn
hoá,
xây
dựng
thắng
lợi chủ
nghĩa
xã hội
ở miền
Bắc và
làm
tròn
nghĩa
vụ
lãnh
đạo
cuộc
đấu
tranh
thực
hiện
thống
nhất
nước
nhà.
Đại
hội đã
bầu
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
mới
gồm
47 uỷ
viên
chính
thức
và 31
uỷ
viên
dự
khuyết
. Ban
Chấp
hành
Trung
ương
đã bầu
Bộ
Chính
trị gồm
11 uỷ
viên
chính
thức
và 2
uỷ
viên
dự
khuyết
; Ban
Bí thư
Trung
ương
Đảng
có 7
đồng
chí.
Đồng
chí Hồ
Chí
Minh
được
bầu lại
làm
Chủ
tịch
Đảng

đồng
chí Lê
Duẩn
được
bầu
làm Bí
thư thứ
nhất
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng..
Trong
diễn
văn bế
mạc
Đại
hội của
Chủ
tịch
Hồ Chí
Minh,
Người
khẳng
định:
Đại
hội lần
thứ hai
đã đưa
kháng
chiến
đến
thắng
lợi.
Chắc
chắn
rằng
Đại
hội lần
thứ III
này sẽ

nguồn
ánh
sáng
mới,
lực
lượng
mới
cho
toàn
Đảng
và toàn
dân ta
xây
dựng
thắng
lợi chủ
nghĩa
xã hội
ở miền
Bắc và
đấu
tranh
thực
hiện
hoà
bình
thống
nhất
nước
nhà.
Sau
đại
thắng
mùa
Xuân
năm
1975,
đất
nước
ta
bước
vào kỷ
nguyê
n mới -
kỷ
nguyê
n hoà
bình,
độc
lập,
thống
nhất và
cả
nước
đi lên
chủ
nghĩa
xã hội.
Đại
hội lần
thứ IV
của
Đảng
là Đại
hội
toàn
thắng
của sự
nghiệp
giải
phóng
dân
tộc; là
Đại
hội
tổng
kết
những
bài học
lớn
của
cuộc
kháng
chiến
chống
Mỹ
cứu
nước,
là Đại
hội
thống
nhất
Tổ
quốc
đưa cả
nước
tiến
lên con
đường
xã hội
chủ
nghĩa.
Đại
hội
họp từ
ngày
14 đến
20-12-
1976
tại Hà
Nội.
Dự
Đại
hội có
1008
đại
biểu
thay
mặt
cho
1,5
triệu
đảng
viên
trong
cả
nước.
Đồng
chí
Tôn
Đức
Thắng
đã đọc
Diễn
văn
khai
mạc;
đồng
chí Lê
Duẩn
đọc
Báo
cáo
Chính
trị của
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng;
đồng
chí
Phạm
Văn
Đồng
đọc
Báo
cáo về
phươn
g
hướng,
nhiệm
vụ và
mục
tiêu
chủ
yếu
của kế
hoạch
nhà
nước 5
năm
lần thứ
hai
(1976-
1980);
Báo
cáo
tổng
kết
công
tác xây
dựng
Đảng
và sửa
đổi
Điều lệ
Đảng
do
đồng
chí Lê
Đức
Thọ
trình
bày.
Báo
cáo
Chính
trị đã
tổng
kết quá
trình
đấu
tranh
anh
dũng,
bền bỉ,
liên
tục và
thắng
lợi vẻ
vang
của
quân
và dân
ta
chống
lại
cuộc
chiến
tranh
xâm
lược
lớn
nhất và

cùng
ác liệt
của đế
quốc
Mỹ để
giải
phóng
miền
Nam
thống
nhất
nước
nhà.
Báo
cáo
cũng
chỉ rõ
những
nguyê
n nhân
đưa
đến
thắng
lợi và
những
bài học
có giá
trị để
lại cho
Đảng

nhân
dân ta.
Trên
cơ sở
phân
tích
mọi
mặt
tình
hình
của đất
nước
khi
bước
vào sự
nghiệp
xây
dựng
chủ
nghĩa
xã hội;
Đại
hội xác
định
đường
lối
chung
của
cách
mạng
xã hội
chủ
nghĩa
là:
Nắm
vững
chuyên
chính
vô sản,
phát
huy
quyền
làm
chủ tập
thể của
nhân
dân lao
động,
tiến
hành
đồng
thời ba
cuộc
cách
mạng :
Cách
mạng
về
quan
hệ sản
xuất,
cách
mạng
khoa
học kỹ
thuật,
cách
mạng

tưởng
và văn
hoá,
trong
đó
cách
mạng
khoa
học-kỹ
thuật
là then
chốt;
đẩy
mạnh
công
nghiệp
hoá xã
hội
chủ
nghĩa

nhiệm
vụ
trung
tâm
ủa cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và
lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình,
độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đường
lối chung, Báo cáo vạch rõ đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; phương
hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Đại hội cũng đã
nêu ra những nhiệm vụ cụ thể về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và công tác xây
dựng Đảng. Đại hội quyết định đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông
qua Điều lệ mới của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Đại hội bầu ra gồm 102
uỷ viên chính thức và 32 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản lần thứ nhất ngày 19-12-1976 đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên chính thức
và 3 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị đã bầu Ban Bí thư gồm 9 đồng chí, đồng chí

Duẩn
được
bầu
làm
Tổng
Bí thư.
Đại
hội đại
biểu
toàn
quốc
lần thứ
V của
Đảng
họp từ
ngày
27 đến
ngày
31-3-
1982
tại Thủ
đô Hà
Nội.
Dự
Đại
hội có
1033
đại
biểu
thay
mặt
cho
1.727.
000
đảng
viên.
Đồng
chí
Tổng
Bí thư

Duẩn
trình
bày
Báo
cáo
Chính
trị của
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
khóa
IV.
Báo
cáo
khẳng
định:
Thành
công
rực rỡ
của
Đảng
ta và
nhân
dân ta
là đã
nhanh
chóng
thống
nhất
nước
nhà về
mặt
nhà
nước,
thiết
lập hệ
thống
chuyên
chính
vô sản
trong
cả
nước

thực
hiện
nhiều
chính
sách
thúc
đẩy
quá
trình
thống
nhất về
mọi
mặt,
tạo nên
cuộc
sống
hòa
hợp
dân
tộc,
chan
hòa từ
Bắc
đến
Nam.
Thắng
lợi của
hai
cuộc
chiến
tranh
bảo vệ
Tổ
quốc là
thắng
lợi có
ý
nghĩa
lịch sử
hết sức
to lớn.
Báo
cáo
nêu bật
những
thành
tựu
trên
các
lĩnh
vực
kinh
tế, văn
hóa;
đồng
thời
xác
định rõ
hai
nhiệm
vụ
chiến
lược
là: Xây
dựng
thành
công
chủ
nghĩa
xã hội;
sẵn
sàng
chiến
đấu,
bảo vệ
vững
chắc
Việt
Nam
xã hội
chủ
nghĩa.
Đại
hội
khẳng
định
tiếp
tục
thực
hiện
đường
lối
cách
mạng
xã hội
chủ
nghĩa

đường
lối xây
dựng
nền
kinh tế
xã hội
chủ
nghĩa
do Đại
hội lần
thứ IV
của
Đảng
vạch
ra.
Báo
cáo về
công
tác xây
dựng
Đảng
đã
nhấn
mạnh
công
tác xây
dựng
Đảng
có vị
trí đặc
biệt
quan
trọng
và chỉ

nhiệm
vụ
then
chốt
của
công
tác xây
dựng
Đảng
hiện
nay là
tiếp
tục
nâng
cao
tính
giai
cấp
công
nhân,
tính
tiên
phong
của
Đảng,
xây
dựng
Đảng
vững
mạnh
về
chính
trị, tư
tưởng
và tổ
chức
nhằm
bảo
đảm
thực
hiện
thắng
lợi
đường
lối của
Đảng,
nâng
cao
năng
lực
lãnh
đạo
của
Đảng
đối với
sự
nghiệp
xây
dựng
chủ
nghĩa
xã hội
và bảo
vệ Tổ
quốc,
làm
cho
Đảng
ta luôn
luôn
giữ
vững
bản
chất
cách
mạng

khoa
học,
một
Đảng
thật sự
trong
sạch,
có sức
chiến
đấu
cao,
gắn bó
chặt
với
quần
chúng.
Đại
hội đã
nghe
Báo
cáo
phươn
g
hướng
nhiệm
vụ và
những
mục
tiêu
chủ
yếu về
kinh tế
và xã
hội
trong 5
năm
1981-
1985

những
năm
80 do
đồng
chí
Phạm
Văn
Đồng -
Ủy
viên
Bộ
Chính
trị,
Chủ
tịch
Hội
đồng
Bộ
trưởng
trình
bày.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự
khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2
ủy viên dự khuyết, đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày
15 đến ngày 18-12-1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng
viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc Đại hội.
Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa V. Đồng chí Võ Văn Kiệt, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo phương
hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm (1986-1990).

Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội nhận định năm năm qua là
một chặng đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã giành được
những thắng lợi to lớn. Khẳng định những thành tựu, đồng thời Đại hội cũng chỉ rõ tình
hình kinh tế - xã hội nước ta đang có nhiều khó khăn, chúng ta chưa thực hiện được mục
tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời
sống của nhân dân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến
được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức
đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá tình hình, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế.
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Đổi mới cơ ché quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội. Phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà
nước. Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn
các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt trong Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các
biểu hiện tiêu cực và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và
49 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị
gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết, bầu Ban Bí thư gồm 13 đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm
là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt
để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao
của Đảng trước đất nước và dân tộc. Đường lối do Đại hội VI đề ra thể hiện sự phát triển
tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng mở ra thời kỳ mới của sự
nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

You might also like