Professional Documents
Culture Documents
LÊNIN
VÀ KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT
NAM (1911-1920)
Nǎm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Nǎm 1919 các nước đế quốc thắng trận
họp Hội nghị Véc-xây (Versailles). Nhân dịp này thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn A'i Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành) đã gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi
quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Nguyễn A'i Quốc được đọc Luận
cương của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau này nhớ lại niềm sung sướng
khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Luận cương của V. I Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào
bị đọa đày đau khổ.! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Nguyễn A'i Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông
Dương tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp
tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này Anh đã cùng với
những nhà hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp
như: Macxen Casanh (Marcel Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê
(Paul Vaillant Couturier)... bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại
những người cơ hội. Trên diễn đàn của Đại hội, Nguyễn A'i
Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu
gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa khác.
Người đề nghị: "Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách
Nguyễn A'i Quốc phát biểu tại thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức ... Đảng
Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước
họp tại thành phố Tours nǎm thuộc địa. Chúng tôi thấyrằng việc Đảng xã hội gia nhập Quốc
1920 tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể là từ nay
Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa".
Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế cộng sản, trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sau Đại hội Tua, người cộng sản Việt Nam đầu tiên Nguyễn A'i Quốc bắt tay ngay vào hoạt động
nhằm đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các thuộc địa đấu tranh chống áp bức, giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ VẬN DỤNG
SÁNG TẠO
ĐƯỜNG LỐI CỦA V.I LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
THUỘC ĐỊA (1920-1924)
Nǎm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước
của các thuộc địa Pháp thành lập Hội liên hiệp thuộc địa nhằm tổ
chức và lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Điều
lệ của Hội nêu rõ: "Mục đích của Hội là tập hợp và hướng dẫn
cho mọi người dân các xử thuộc địa hiện sống trên đất Pháp để
soi sáng cho những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt
ở nước Pháp nhằm mục đích đoàn kết họ; thảo luận và nghiên
cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc địa".
Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết đấu
tranh tự giải phóng và nhấn mạnh "Vận dụng công thức của Các Bìa sách
Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh "Bản án chế độ thực dân
em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Pháp"
Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em
trong công cuộc ấy".
Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động cách mạng ở các thuộc địa, Hội liên hiệp thuộc
địa đã xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ). Nguyễn A'i Quốc là linh hồn của tờ báo, vừa là
chủ nhiệm, kiêm chủ bút, thủ quỹ, báo xuất bản bằng tiếng Pháp nhưng ở trang đầu còn có tên
báo bằng chữ ả rập và chữ Hán. Số 1 của tờ báo ra ngày 1 tháng 4 nǎm 1922, trong đó có lời
kêu gọi nêu rõ: Báo Le Paria ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung
Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Ma-đa-gat-xca, ở Đông Dương, Ǎng ti và Guyannơ... Báo kêu gọi
họ đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, hô hào họ tổ
chức lại nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực
hiện tình yêu thương và hữu ái... Báo Le Paria là vũ khí chiến đấu. Sứ mệnh của nó đã rõ ràng:
giải phóng con người.
Tác phẩm của Nguyễn A'i Quốc "Bản án chế độ thực dân Pháp" được xuất bản vào cuối nǎm
1925. Nhiều bài trong tác phẩm đã được đǎng báo Le Paria và một số báo, tạp chí ở Pháp và
Liên Xô. Bằng những chứng cớ và số liệu cụ thể, những người thật việc thật Nguyễn A'i Quốc đã
thức tỉnh nhân dân các thuộc địa, đồng thời chỉ ra con đường đấu tranh của cách mạng thuộc
địa, Nguyễn A'i Quốc chỉ rõ: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô
sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con
vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại
kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại
mọc ra".
Trong bài viết nhan đề "Đông Dương" đǎng trong Tạp chí
Cộng sản (La Revue Communiste) số 15 tháng 5 nǎm
1921, Nguyễn A'i Quốc nhấn mạnh : "Ngày mà hàng
trǎm triệu nhân dân châu A' bị tàn sát và áp bức thức
tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân
lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng
khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc họ có
thể giúp nhũng người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".
Nguyễn A'i Quốc đặc biệt quan tâm tới tình cảnh của người nông dân trong các nước thuộc địa.
Họ chiếm đại đa số trong xã hội và cách mạng thuộc địa không thể thắng lợi nếu không có sự
tham gia của đông đảo nông dân. Tại Hội nghị lần thứ I Quốc tế Nông dân (tháng 10 nǎm 1923)
Nguyễn A'i Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và được cử vào đoàn Chủ tịch của
Hội đồng. Người còn được mời làm chuyên gia của Ban thư ký giúp Hội đồng chuẩn bị nội dung
cho các cuộc họp và là chuyên gia về những công việc liên quan đến các thuộc địa.
Người viết nhiều bài báo về tình cảnh nông dân Bắc Phi, nông dân Trung Quốc, nông dân Việt
Nam. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn A'i Quốc đã tố cáo những thủ
đoạn thực dân để biến nông dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng. Vì vậy người nông dân không
còn đường sống mà phải đấu tranh, họ là lực lượng cách mạng vô cùng to lớn. Kết thúc bài phát
biểu Nguyễn A'i Quốc kêu gọi: "Thưa các đồng chí, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc
tế của các đồng chí chỉ trở thành một Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương
Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột
và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí".
Trong các bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (nǎm 1924) Nguyễn A'i Quốc đã đề cập
vấn đề về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, kêu gọi sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân thế giới với cách mạng thuộc địa. Tại phiên họp XXV ngày 3 tháng 7
nǎm 1924 Nguyễn A'i Quốc chỉ rõ: "Trong tất cả các thuộc địa Pháp, nạn nghèo đói đều tǎng, sự
phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước
thuộc địa họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân
vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức , thiếu người lãnh
đạo. Quốc tế cộng sản phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và
chỉ cho họ con đườngđi tới cách mạng và giải phóng".
Cuối nǎm 1924 Nguyễn A'i Quốc yêu cầu được trở về châu A'
để thực hiện hoài bão giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc
địa, trong đó có nhân dân Việt Nam.
Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924 Nguyễn A'i Quốc đến Quảng Châu
(Trung Quốc). Trong báo cáo gửi Chủ tịch Đoàn quốc tế cộng
sản ngày 18 tháng 12 nǎm 1924, Nguyễn A'i quốc đã thông báo
về việc đã tiếp xúc với nhóm những người Việt Nam yêu nước ở
Quảng Châu để huấn luyện về phương pháp hoạt động tổ chức
và sau ba tháng học xong sẽ trở về Đông Dương, và có một
đoàn khác sang. Người nhấn mạnh: "Trong lúc này, đây là biện
pháp duy nhất".
Bìa sách "Đường Cách mệnh" -
Tác phẩm lý luận cách mạng
Nguyễn A'i Quốc đã cùng một số đồng chí trực tiếp giảng bài Việt Nam
cho các lớp huấn luyện. Những bài giảng của Người được tập
hợp in thành sách mang tên "Đường Cách mệnh" xuất bản nǎm
1927. Một trong những vấn đề đầu tiên Nguyễn A'i Quốc đặc biệt quan tâm là đào tạo những
người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người; hiểu lý luận Mác - Lênin; biết đoàn kết và tổ chức nhân dân cùng phấn đấu
vì sự nghiệp chung. Phân tích những bài học kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế
giới, Nguyễn A'i Quốc nêu rõ cách mạng Việt Nam phải theo gương cách mạng Nga đánh đuổi
đế quốc giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến tay sai đem lại ruộng đất cho nông dân.
Người nói: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật... Cách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công phải lấy dân chúng làm gốc, phải có đảng vững
bền".
Tháng 6 nǎm 1925, trên cơ sở số cán bộ được huấn luyện, Nguyễn A'i Quốc thành lập Hội Việt
Nam Thanh niên cách mạng", tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 21 tháng 6
nǎm 1925, báo "Thanh niên" ra đời. Đây là tờ báo cách mạng làm nhiệm vụ tuyên truyền giới
thiệu về chủ nghĩa Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga; giải thích đường lối chiến lược và sách
lược của cách mạng Việt Nam. Báo là người tuyên truyền tập thể, người cổ động và tổ chức tập
thể, góp phần quan trọng vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 5 nǎm 1927, Nguyễn A'i Quốc, rời Quảng Châu, đi Mátxcơva, sau đó đi Béc lin, tham dự
Hội nghị Ban chấp hành mở rộng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc tại Brúc xen (Bỉ), đi Y'
và trở về Xiêm (Thái Lan). Cuối nǎm 1929, Người trở lại Trung Quốc, triệu tập Hội nghị thống
nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào cầu nǎm 1930.
Vai trò của lãnh tụ NAQ đối với sự ra đời của Đảng c.s VN.
a. Sự chuẩn bị về mặt chính trị:
Do cmạng thuộc địa không được sự quan tâm đúng mức của Quốc tế cộng sản nên Người
đi sâu nghiên cứu, tham gia vào các diễn đàn, viết báo... để tuyên truyền về vấn đề thuộc
địa, cmạng thuộc địa.
-Cuối năm 1917, giữa lúc c.tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, Người trở lại Pháp. Tại
đây Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội
Pháp, lập ra Hội những Người Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt Nam hồn để tuyên
truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp
-Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho báo "Người cùng khổ", viết nhiều bài đăng trên
Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động
Pháp.
-Năm1923,NAQ rờiPhápđiMatxcova để tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, đồng thời
trực tiếp học
1
tập nghiên cứu kinh nghiệm C mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin. Người viết bài cho
báo Sự thật của Đảng Cộng Sản Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng
Sản.
- Năm1924, Người tham dự Đại hội V của Quốc tế Cộng Sản và các đại hội của Quốc tế
công hội, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên...
b. Sự chuẩn bị về mặt tổ chức
- Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng Cộng Sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số
chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa nhằm
tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân
- Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu. Tại đây, Người cùng các nhà
cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn độ... thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
Việc làm này đã nêu bật tầm quan trọng vấn đề đkết d.tộc trên toàn thế giới.
-Tháng6-1925,
2
Người sáng lập HộiVN cáchmạng Thanh niên hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên
truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định
về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
-Từ năm1925-927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một
đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
c.Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng
Được thể hiện thông qua hai tác phẩm Đường Kách Mệnh (1925) và Bản án chế độ thực
dân Pháp(1927). Hai tác phẩm đã:
- Vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc và khẳng định chủ nghĩa đế quốc là kẻ
thù. Từ đó thức tỉnh tinh thần đấu tranh trong quần chúng nhân dân.
-Người khẳng định chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để vì quyền lợi của đa số
- Người chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và ở chính
quốc
VAI
TRÒ
CỦA
HỒ
CHÍ
MIN
H
TRO
NG
VIỆ
C
THÀ
NH
LẬP
ĐẢN
G
CSV
N?
- Năm
1917,
Nguyễ
n Ái
Quốc
trở lại
Pháp.
Khi
Cách
mạng
tháng
Mười
Nga
thành
công,
Người
tham
gia
những
hoạt
động
chính
trị sôi
nổi
ngay
trên
đất
Pháp
như :
tham
gia
hoạt
động
trong
phong
trào
công
nhân
Pháp.
Năm
1919,
Người
tham
gia
Đảng
Xã hội
Pháp.
-
Tháng
6-
1919,
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã thay
mặt
nhóm
người
yêu
nước
Việt
Nam
tại
Pháp
gửi “
Bản
yêu
sách 8
điểm”
đến
Hội
nghị
Vécxai
, nhằm
tố cáo
chính
sách
của
Pháp
và
đòi
Chính
phủ
Pháp
thực
hiện
các
quyền
tự do,
dân
chủ và
quyền
bình
đẳng
của
dân tộc
Việt
Nam.
Mặc
dù
không
được
chấp
nhận,
nhưng
“ Bản
yêu
sách”
đã gây
tiếng
vang
lớn đối
với
nhân
dân
Pháp
và
nhân
dân
các
nước
thuộc
địa của
Pháp.
Tên
tuổi
Nguyễ
n Ái
Quốc
từ đó
được
nhiều
người
biết
đến.
-
Tháng
7-1920
:
Nguyễ
n Ái
Quốc
đọc
bản Sơ
khảo
lần thứ
nhất
những
luận
cương
về
vấn đề
dân tộc
và
thuộc
địa của
Lênin.
Người
vô
cùng
phấn
khởi
và tin
tưởng,
vì
Luận
cương
đã chỉ
rõ cho
Người
thấy
con
đường
để giải
phóng
dân tộc
mình.
Từ đó,
Người
hoàn
toàn
tin
theo
Lênin,
dứt
khoát
đi theo
Quốc
tế thứ
III.
- Tại
Đại
hội lần
thứ 18
của
Đảng
Xã hội
Pháp
họp tại
Tua
vào
cuối
tháng
12-
1920,
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã bỏ
phiếu
tán
thành
việc
gia
nhập
Quốc
tế thứ
III,
tham
gia
sáng
lập
Đảng
Cộng
sản
Pháp
và trở
thành
người
Cộng
sản
Việt
Nam
đầu
tiên.
Sự
kiện
này
đánh
dấu
một
bước
ngoặt
trong
tư
tưởng
chính
trị của
Nguyễ
n Ái
Quốc,
từ
lập
trường
yêu
nước
chuyển
sang
lập
trường
Cộng
sản.
- 1921:
Người
sáng
Hội
liên
hiệp
các
dân tộc
thuộc
địa
Pháp
để
tuyên
truyền,
tập
hợp
lực
lượng
chống
chủ
nghĩa
đế
quốc.
-
1922 :
Ra báo
“ Le
Paria”
( Ngườ
i cùng
khổ )
vạch
trần
chính
sách
đàn áp,
bóc lột
dã
man
của
chủ
nghĩa
đế
quốc,
góp
phần
thức
tỉnh
các
dân tộc
bị áp
bức
đứng
lên tự
giải
phóng.
-
1923 :
Sang
Liên
Xô dự
Hội
nghị
Quốc
tế
nông
dân,
sau đó
làm
việc ở
Quốc
tế
Cộng
sản.
-
1924 :
Dự
Đại
hội
Quốc
tế
Cộng
sản lần
thứ V.
Ngoài
ra,
Người
còn
viết
nhiều
bài cho
báo
Nhân
Đạo,
Đời
sống
công
nhân
và viết
cuốn
sách
nổi
tiếng “
Bản án
chế độ
thực
dân
Pháp”
- đòn
tấn
công
quyết
liệt
vào
chủ
nghĩa
thực
dân
Pháp-
-
Những
hoạt
động
của
Nguyễ
n Ái
Quốc
(chủ
yếu
trên
mặt
trận tư
tưởng
chính
trị)
nhằm
truyền
bá chủ
nghĩa
Mác-
Lênin
vào
nước
ta.
Thời
gian
này
tuy
chưa
thành
lập
chính
đảng
của
giai
cấp vô
sản ở
Việt
Nam,
nhưng
những
tư
tưởng
Người
truyền
bá sẽ
làm
nền
tảng
tư
tưởng
của
Đảng
sau
này.
Đó là :
* Chủ
nghĩa
tư bản,
đế
quốc là
kẻ thù
chung
của
giai
cấp vô
sản các
nước
và
nhân
dân
các
thuộc
địa.
Đó là
mối
quan
hệ mật
thiết
giữa
cách
mạng
chính
quốc
và
thuộc
địa.
* Xác
định
giai
cấp
công
nhân
và
nông
dân là
lực
lượng
nòng
cốt của
cách
mạng.
* Giai
cấp
công
nhân
có đủ
khả
năng
lãnh
đạo
cách
mạng,
thông
qua
đội
tiên
phong
là
Đảng
Cộng
sản.
-
Tháng
6-1925
:Người
thành
lập “
Hội
Việt
Nam
Cách
mạng
thanh
niên”
và cho
xuất
bản
tuần
báo “
Thanh
niên”
làm cơ
quan
ngôn
luận
của
Hội.
-
Tháng
7-1925
:
Nguyễ
n Ái
Quốc
cùng
một số
nhà
cách
mạng
Quốc
tế, lập
ra
“Hội
các
dân tộc
bị áp
bức ở
Á
Đông”,
có
quan
hệ chặt
chẽ
với
Hội
Việt
Nam
cách
mạng
thanh
niên.
- Tại
Quảng
Châu,
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã mở
nhiều
lớp
huấn
luyện
ngắn
ngày
để đào
tạo,
bồi
dưỡng
cách
mạng.
-
Những
bài
giảng
của
Nguyễ
n Ái
Quốc
tại các
lớp
huấn
luyện
ở
Quảng
Châu
sau đó
đã
được
xuất
bản
thành
sách
“Đườn
g Kách
Mệnh.
- Từ
năm
1928 :
Hội
Việt
Nam
cách
mạng
thanh
niên đã
xây
dựng
được
cơ sở
của
mình ở
khắp
nơi.
Hoạt
động
của
Hội
góp
phần
truyền
bá tư
tưởng
Mác-
Lênin,
thúc
đẩy
phong
trào
cách
mạng
Việt
Nam
theo
xu thế
cách
mạng
vô sản.
Sự ra
đời và
hoạt
động
của
Hội
Việt
Nam
cách
mạng
là
bước
chuẩn
bị chu
đáo về
chính
trị , tổ
chức
và đội
ngũ
cán bộ
cho
việc
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
sau
này.
- Giữa
năm
1927-
1930 :
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã từ
Xiêm
(Thái
Lan )
về
Trung
Quốc,
với
danh
nghĩa
đại
diện
Quốc
tế
Cộng
sản
triệu
tập
Hội
nghị
hợp
nhất
các tổ
chức
cộng
sản,
thành
lập
một
Đảng
Cộng
sản
duy
nhất ở
Việt
Nam.
NGÀ
Y
THÀ
NH
LẬP
ĐẢN
G
CỘN
G
SẢN
VIỆ
T
NA
M
(ĐCS
VN)-
Cuối
thế kỷ
XIX,
sau khi
bình
định
xong
Việt
Nam,
thực
dân
Pháp
bắt
tay
thực
thi các
chính
sách
thực
dân hà
khắc,
biến
nước
ta từ
một
nước
phong
kiến
độc lập
trở
thành
một
nước
thuộc
địa
nửa
phong
kiến.
Sự
thống
trị tàn
bạo
của
thực
dân
Pháp
đã làm
cho
mâu
thuẫn
dân tộc
diễn ra
hết sức
gay
gắt,
hàng
loạt
phong
trào
yêu
nước
theo
các
khuyn
h
hướng
khác
nhau
liên
tiếp nổ
ra
nhằm
giải
quyết
mâu
thuẫn
chủ
yếu
đó.
Tiêu
biểu là
phong
trào
Cần
Vương
do vua
Hàm
Nghi
và Tôn
Thất
Thuyết
khởi
xướng;
phong
trào
Đông
Du của
Phan
Bội
Châu;
phong
trào
cải
cách
của
Phan
Chu
Trinh,
khởi
nghĩa
Yên
Thế do
Hoàng
Hoa
Thám
lãnh
đạo...C
ác
cuộc
đấu
tranh
giải
phóng
dân tộc
tuy
diễn ra
quyết
liệt,
song
cuối
cùng
đều bị
thất
bại, vì
thiếu
một
đường
lối cứu
nước
đúng
đắn,
thiếu
một tổ
chức
lãnh
đạo có
khả
năng
tập
hợp
sức
mạnh
của
toàn
dân
tộc.
Trong
bối
cảnh
đó,
tháng
6-
1911,
người
thanh
niên
yêu
nước
Nguyễ
n Tất
Thành
đã rời
Tổ
quốc
ra đi
tìm
con
đường
cứu
nước
giải
phóng
dân
tộc.
Năm
1920
Nguyễ
n Tất
Thành-
Nguyễ
n Ái
Quốc
đã đến
với
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin;
đây
không
chỉ là
bước
ngoặt
đối với
cuộc
đời
hoạt
động
cách
mạng
của
Nguyễ
n Ái
Quốc,
mà còn
là
bước
ngoặt
của
cách
mạng
Việt
Nam.
Lý
luận
của
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin
đã soi
rọi cho
Nguyễ
n Ái
Quốc:
Muốn
cứu
nước
và giải
phóng
dân tộc
thì
trước
hết
phải có
“Đảng
cách
mệnh”
để
“trong
thì vận
động
và tổ
chức
dân
chúng,
ngoài
thì liên
lạc với
dân tộc
bị áp
bức và
vô sản
giai
cấp
mọi
nơi”.
Từ
nhận
thức
đó
Nguyễ
n Ái
Quốc
ra sức
chuẩn
bị mọi
mặt
cho
việc
thành
lập
một
chính
đảng
vô sản
ở Việt
Nam,
Người
từng
bước
truyền
bá có
hệ
thống
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin
vào
trong
nước,
đưa
phong
trào
công
nhân
chuyển
dần từ
trình
độ tự
phát
lên
tự
giác;
đưa
phong
trào
yêu
nước
chuyển
dần
sang
lập
trường
cộng
sản.
Tháng
3-
1929,
Chi bộ
Cộng
sản
đầu
tiên
được
thành
lập ở
số nhà
5D,
Hàm
Long,
Hà
Nội,
gồm
có
Trần
Văn
Cung,
Trịnh
Đình
Cửu,
Ngô
Gia
Tự,
Nguyễ
n Đức
Cảnh,
Đỗ
Ngọc
Du,
Nguyễ
n
Phong
Sắc,
Nguyễ
n Văn
Tuân
và
Dương
Hạc
Đính.
Ngày
1-5-
1929,
tại Đại
hội
toàn
quốc
của
Hội
Việt
Nam
Cách
mạng
Thanh
niên ở
Hương
Cảng,
đoàn
đại
biểu
Bắc
Kỳ
đưa ra
đề
nghị
thành
lập
Đảng
Cộng
sản.
Đề
nghị
dó
không
được
chấp
nhận,
trở về
nước,
ngày
17-6-
1929,
những
đảng
viên
trong
Chi bộ
Cộng
sản
5D
Hàm
Long
đã
tuyên
bố
thành
lập
Đông
Dương
Cộng
sản
Đảng.
Ngày
25-7-
1929
An
Nam
Cộng
sản
Đảng
được
thành
lập ở
Nam
Kỳ.
Tháng
9-1929
Đông
Dương
Cộng
sản
Liên
đoàn
được
thành
lập ở
Trung
Kỳ.
Chỉ
trong
một
thời
gian
ngắn ở
Việt
Nam
đã có
ba tổ
chức
cộng
sản
được
tuyên
bố
thành
lập.
Điều
đó
phản
ánh xu
thế tất
yếu
của
phong
trào
đấu
tranh
cách
mạng
ở Việt
Nam.
Song
sự tồn
tại của
ba tổ
chức
cộng
sản
hoạt
động
biệt
lập
trong
một
quốc
gia có
nguy
cơ
dẫn
đến
chia rẽ
lớn.
Yêu
cầu
bức
thiết
của
cách
mạng
là cần
có một
Đảng
thống
nhất
lãnh
đạo.
Nguyễ
n Ái
Quốc,
người
chiến
sĩ cách
mạng
lỗi lạc
của
dân tộc
Việt
Nam,
người
duy
nhất có
đủ
năng
lực và
uy tín
đáp
ứng
yêu
cầu đó
của
lịch
sử:
thống
nhất
các tổ
chức
cộng
sản
thành
Đảng
Cộng
sản
duy
nhất ở
Việt
Nam.
Từ
ngày 3
đến 7-
2-
1930,
Hội
nghị
hợp
nhất ba
tổ
chức
Cộng
sản
họp tại
Cửu
Long
(Hươn
g
Cảng,
Trung
Quốc)
dưới
sự chủ
trì của
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc.
Tham
gia
Hội
nghị
có các
đồng
chí
Trịnh
Đình
Cửu,
Nguyễ
n Đức
Cảnh
(đại
biểu
DDCS
D);
Nguyễ
n
Thiệu,
Châu
Văn
Liêm
(đại
biểu
(ANC
SĐ).
Đại
biểu
ĐDCS
LĐ
không
đến
kịp.
Hội
nghị
nhất trí
thành
lập
đảng
thống
nhất,
lấy tên
là
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
thông
qua
Chánh
cương
vắn
tắt,
Sách
lược
vắn
tắt,
Chươn
g trình
tóm tắt
và
Điều lệ
vắn tắt
của
Đảng.
Ngày
3
tháng
2 năm
1930
trở
thành
Ngày
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Hội
nghị
hợp
nhất
các tổ
chức
cộng
sản
Việt
Nam
mang
tầm
vóc
lịch sử
như là
Đại
hội
thành
lập
Đảng.
Đảng
được
thành
lập là
kết quả
của
cuộc
đấu
tranh
giai
cấp và
đấu
tranh
dân tộc
ở nước
ta
trong
những
năm
đầu thế
kỷ
XX; là
sản
phẩm
cuả sự
kết
hợp
chủ
nghĩa
Mác-
Lê nin
với
phong
trào
công
nhân
và
phong
trào
yêu
nước;
là kết
quả
của
quá
trình
lựa
chọn,
sàng
lọc
nghiê
m khắc
của
lịch sử
và là
kết quả
của
quá
trình
chuẩn
bị đầy
đủ về
chính
trị, tư
tưởng
và tổ
chức
của
một
tập thể
chiến
sĩ cách
mạng,
đứng
đầu là
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc.
Đó là
một
mốc
lớn
đánh
dấu
bước
ngoặt
trọng
đại
trong
lịch sử
cách
mạng
Việt
Nam,
chấm
dứt
cuộc
khủng
hoảng
về
đường
lối cứu
nước
kéo dài
mấy
chục
năm.
Trong
Chánh
cương
vắn
tắt,
Sách
lược
vắn tắt
do
đồng
chí
Nguyễ
n Ái
Quốc
khởi
thảo,
được
Hội
nghị
thành
lập
Đảng
thông
qua đã
xác
định
cách
mạng
Việt
Nam
phải
tiến
hành
cách
mạng
giải
phóng
dân tộc
tiến
lên chủ
nghĩa
xã hội.
Độc
lập dân
tộc và
chủ
nghĩa
xã hội
là con
đường
cách
mạng
duy
nhất
đúng
để
thực
hiện
mục
tiêu
giải
phóng
dân
tộc,
giải
phóng
giai
cấp,
giải
phóng
xã hội,
giải
phóng
con
người.
Sự ra
đời
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
với
Cương
lĩnh,
đường
lối
cách
mạng
đúng
đắn
chứng
tỏ giai
cấp
công
nhân
Việt
Nam
đã
trưởng
thành,
đủ sức
lãnh
đạo
cách
mạng.
Sự ra
đời
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
gắn
liền
với tên
tuổi
của
Nguyễ
n Ái
Quốc-
Hồ
Chí
Minh,
người
sáng
lập và
rèn
luyện
Đảng
ta.
CÁC
H
MẠ
NG
THÁ
NG
TÁ
M
1945
Năm
1941,
cuộc
chiến
tranh
thế
giới đã
bước
sang
năm
thứ ba.
Tháng
6-
1941,
phát
xít
Đức
mở
cuộc
tấn
công
Liên
Xô.
Cuộc
chiến
tranh
ái quốc
vĩ đại
của
nhân
dân
Liên
Xô bắt
đầu.
Tính
chất
của
cuộc
chiến
tranh
đã thay
đổi về
căn
bản.
Trên
thế
giới
hình
thành
hai
trận
tuyến:
một
bên là
lực
lượng
dân
chủ do
Liên
Xô
đứng
đầu,
một
bên là
khối
phát
xít
Đức,
Ý,
Nhật.
Đầu
năm
1941,
lãnh tụ
Nguyễ
n Ái
Quốc
về
nước
triệu
tập
Hội
nghị
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
(Hội
nghị
lần thứ
tám).
Hội
nghị
đã nêu
một s
mâu
thuẫn
cần
giải
quyết
lúc bấy
giờ
như
mâu
thuẫn
giữa
dân tộc
ta với
bọn đế
quốc
Pháp –
phát
xít
Nhật.
Hội
nghị
chủ
trương
trước
hết
phải
giải
phóng
các
dân tộc
Đông
Dương
ra khỏỉ
ách áp
bức
Pháp -
Nhật.
Hội
nghị
chủ
trương
thành
lập
Việt
Nam
độc lập
đồng
minh
(Việt
Minh)
gồm
các tổ
chức
quần
chúng,
cùng
nhau
giải
phóng
dân
tộc.
Từ sau
khi ra
đời,
Mặt
trận
Việt
Minh
đã
nhanh
chóng
trở
thành
hạt
nhân
quy tụ
sức
mạnh
đoàn
kết dân
tộc.
Lực
lượng
cách
mạng
giương
cao
ngọn
cờ đại
nghĩa
của
Việt
Minh
ngày
càng
được
mở
rộng
và phát
triển
không
ngừng.
Giữa
lúc đó,
chiến
tranh
thế
giới
thứ hai
đã có
những
chuyển
biến
mau
lẹ,
phát
xít
Đức bị
tiêu
diệt và
phải
đầu
hàng.
Ở châu
Á,
quân
phiệt
Nhật
cũng
đầu
hàng
vô
điều
kiện.
Ngay
lúc đó,
Hội
nghị
toàn
quốc
của
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
họp ở
Tân
Trào
(Tuyên
Quang
) quyết
định
phát
động
tổng
khởi
nghĩa
trong
cả
nước,
giành
lấy
chính
quyền
trước
khi
quân
đồng
minh
kéo
vào.
Ngày
16 - 8 -
1945,
Quốc
dân
Đại
hội
chính
thức
khai
mạc,
tượng
trưng
cho ý
chí,
nguyệ
n vọng
và
khối
đại
đoàn
kết
toàn
dân
tộc,
thông
qua đề
nghị
tổng
khởi
nghĩa
của
Mặt
trận
Việt
Minh.
Đại
hội đã
nhất trí
tán
thành
quyết
định
tổng
khởi
nghĩa,
thông
qua 10
chính
sách
của
Việt
Minh,
lập Ủy
ban
dân tộc
giải
phóng
Việt
Nam
do Chủ
tịch
Hồ Chí
Minh
đứng
đầu.
Ngay
sau đó,
Hồ
Chủ
tịch đã
gửi thư
tới
đồng
bào cả
nước
kêu
gọi nổi
dậy
tổng
khởi
nghĩa
giành
chính
quyền
''...Giờ
quyết
định
cho
vận
mệnh
dân tộc
ta đã
đến.
Toàn
quốc
đồng
bào
hãy
đứng
dậy
đem
sức ta
mà tự
giải
phóng
cho
ta...
Tiến
lên!
Tiến
lên!
Dưới
lá cờ
Việt
Minh,
đồng
bào
hãy
dũng
cảm
tiến
lên!”
Tại Hà
Nội,
không
khí
cách
mạng
vô
cùng
sôi
động.
Các
tầng
lớp
nhân
dân
hăng
hái gia
nhập
các
đoàn
thể
cứu
quốc,
các đội
tự vệ
chiến
đấu.
Tối
ngày
15 - 8,
đội
tuyên
truyền
xung
phong
của
Việt
Minh
đã tổ
chức
diễn
thuyết
công
khai ở
các rạp
hát lớn
trong
thành
phố.
Ngày
16 - 8,
truyền
đơn,
biểu
ngữ
kêu
gọi
khởi
nghĩa
xuất
hiện
khắp
nơi.
Chiều
ngày
17 - 8,
Tổng
hội
Viên
chức
tổ
chức
một
cuộc
mít
tinh tại
Nhà
hát
lớn.
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
và
Đảng
bộ Thủ
đô đã
huy
động
quần
chúng
trong
các tổ
chức
cứu
quốc
thành
phố,
biến
cuộc
mít
tinh
thân
Nhật
thành
cuộc
mít
tinh
ủng hộ
Việt
Minh,
rồi
biến
thành
một
cuộc
biểu
tình
tuần
hành
qua
các
phố,
có cờ
đỏ sao
vàng
dẫn
đầu,
vừa cổ
động
chươn
g trình
Việt
Minh,
vừa hô
hào
nhân
dân
tham
gia
khởi
nghĩa.
Đến
ngày
19
tháng
8, khí
thế
cách
mạng
tràn
ngập
khắp
thủ đô
Hà
Nội.
Nhân
dân
thủ đô
kéo tới
quảng
trường
Nhà
hát lớn
dự
cuộc
mít
tinh
lớn do
Mặt
trận
Việt
Minh
tổ
chức.
Cuộc
mít
tinh
nhanh
chóng
chuyển
thành
cuộc
biểu
tình,
nhân
dân
nhanh
chóng
chiếm
phủ
Khâm
sai,
Toà
Thị
chính,
trại
lính
bảo an,
Sở
cảnh
sát và
các
công
sở của
chính
phủ bù
nhìn.
Cuộc
khởi
nghĩa
của
nhân
dân
Thủ đô
hoàn
toàn
thắng
lợi.
Ngay
từ
những
ngày
đầu
thu
tháng
8, đặc
biệt
sau
khởi
nghĩa
toàn
thắng
ở thủ
đô Hà
Nội,
một
không
khí
chuẩn
bị khởi
nghĩa
sục sôi
trong
cả
nước.
Từ
ngày
14 đến
ngày
18 - 8,
nhiều
xã,
huyện
thuộc
các
tỉnh từ
Bắc
vào
Nam
đã nối
tiếp
nhau
nổi
dậy
giành
chính
quyền.
Ngày
23 - 8,
Huế,
thành
lũy
hàng
trăm
năm
của
triều
Nguyễ
n và là
thủ
phủ
của
chính
quyền
bù
nhìn
trung
ương
đã
nhanh
chóng
lọt vào
tay
ng-
ghen
thấy
rằng,
muốn
làm
cho
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa''
phù
hợp
với
yêu
cầu
cuộc
đấu
tranh
cách
mạng
của
giai
cấp vô
sản,
cần
phải từ
bỏ
quan
điểm
về chủ
nghĩa
cộng
sản
không
tưởng
của
Vai-tơ-
lin.
Mùa
xuân
1846,
Vai-tơ-
lin đến
Bruc-
xen,
thủ đô
nước
Bỉ gặp
Mác
và
trình
bày
quan
điểm
của
mình:
“Tôi
cho
rằng
sự tự
do
tương
ái của
con
người
là cơ
sở của
xã hội
cộng
sản,
chỉ cần
chúng
ta có
một
phươn
g án
như
vậy để
mọi
người
làm
theo là
được''.
Mác
nghe
Vai-tơ-
lin nói
vậy đã
trả lời:
''Vậy
làm
thế nào
để
đánh
đổ chế
độ xã
hội cũ?
Ông
không
chủ
trương
dùng
bạo
lực
sao?”
Vai-tơ-
lin
điềm
nhiên
trả lời:
''Chuy
ện đó
để bọn
ăn
mày,
bọn kẻ
cướp
và bọn
tội
phạm
làm,
còn
công
nhân
chỉ cần
tổ
chức
các cơ
cấu
phúc
lơi và
nhà ăn
chung,
xây
dựng
công
xã tự
do
tương
ái,
khiến
mọi
người
đều
bình
đẳng.
Theo
quan
điểm
đó cho
nên
ngọn
cờ của
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa”
mới
mang
khẩu
hiệu:
''Mọi
người
đều là
anh
em''”.
Mác
nói:
“Tôi
biết rất
nhiều
người
trong
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa''
tin vào
chủ
nghĩa
cộng
sản
bình
quân
của
ông,
nhưng
ông
không
thể
thuyết
phục
giai
cấp tư
sản
đem
tài sản
và
quyền
lực của
mình
phân
phối
đều
cho
mọi
người.
Xin
nói
ngay
rằng
đó là
ảo
tưởng.
Hiện
nay,
cái mà
công
nhân
cần là
lý luận
và
đường
lối
chính
xác
chứ
không
phải là
tình
cảm và
nguyệ
n
vọng.
Chỉ có
tiến
hành
cách
mạng
vô sản
mới lật
đổ
được
chế độ
tư bản.
Đây là
con
đường
duy
nhất
đúng
đắn''.
Mác
và
Vai-tơ-
lin
không
thể đi
đến
thống
nhất
khi hai
bên
hoàn
toàn
khác
nhau
về tư
tưởng
lý
luận.
Mấy
tháng
sau,
Mác
và
Ăng-
ghen
thành
lập ở
Bruc-
xen
''Uỷ
ban
thông
tấn
cộng
sản''.
Ngay
sau đó,
Uỷ ban
đã liên
lạc với
nhiều
chi bộ
của
''Đồng
minh
những
người
chính
nghĩa”.
Trong
một
cuộc
họp
của Uỷ
ban,
Mác
và
Vai-tơ-
lin đã
tranh
luận
công
khai.
Khai
mạc
cuộc
họp,
Ăng-
ghen
tuyên
bố:
''Cần
phải có
một
luận
điểm
chung
làm
căn cứ
cho
hành
động
của
những
người
cộng
sản''.
Vai-tơ-
lin
nghe
xong
lập tức
phát
biểu,
cho
rằng
phải
động
viên
công
nhân
còn
tuyên
truyền
lý luận
không
phải là
chuyện
quan
trọng”.
Mác
chất
vấn:
''Vai-
tơ-lin,
ông
luôn
mồm
nói
phải
động
viên,
vậy
thử
hỏi,
ông
căn cứ
vào
đâu để
chứng
minh
hoạt
động
đó là
đúng,
và căn
cứ vào
đâu để
xác
định
các
hoạt
động
sau
này?''
Trước
hàng
loạt
câu hỏi
của
Mác,
Vai-tơ-
lin tỏ
ra lúng
túng
và
không
thể trả
lời
được.
Lúc
bấy
giờ
Mác
mới
nói
một
cách
nghiê
m túc:
''Cái
mà
giai
cấp vô
sản
cần là
lý luận
khoa
học,
chứ
không
phải là
tình
cảm
ngây
thơ''.
Ông
nhắc
nhở
mọi
người
rằng
công
tác
quan
trọng
nhất là
dùng
lý luận
đúng
đắn,
khoa
học để
vũ
trang
cho
công
nhân.
Chỉ có
như
vậy
mới
làm
cho họ
nhận
rõ
những
chủ
trương
sai
lầm,
kể cả
cái
''chủ
nghĩa
cộng
sản
bình
quân''
của
Vai-tơ-
lin. Cả
hội
trường
vỗ tay
nhiệt
liệt,
biểu
thị sự
đồng
tình
với
quan
điểm
của
Mác.
Mùa xuân năm 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập “Đồng minh những người chính nghĩa”
ở Luân Đôn và tiến hành cải tổ tổ chức này. Ít lâu sau, Đồng minh triệu tập Đại hội đại
biểu lần thứ nhất.
Tại Đại hội này, căn cứ vào đề nghị của Mác và Ăng-ghen, ''Đồng minh những người
chính nghĩa'' đổi tên thành “Liên đoàn nhũng người cộng sản'' và thông qua cương lĩnh
mới, lấy khẩu hiệu ''Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại'' thay thế cho khẩu hiệu mơ hồ:
''Mọi người đều là anh em''.
Mùa thu năm đó, Liên đoàn những người cộng sản triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai.
Các đại biểu đều thấy cần phải có một tuyên ngôn làm cương lĩnh cho hoạt động của Liên
đoàn. Mác và Ăng-ghen đã bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn. Tháng 2 năm 1848, ''Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản'' chính thức được công bố tại Luân Đôn.
Sự ra đời của ''Tuyên ngôn Đảng Cộng sản'' đã gây chấn động toàn thế giới. Tuyên ngôn
đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản,
chứng minh quy luật tất yếu chế độ tư bản sẽ bị diệt vong và chế độ cộng sản sẽ thắng lợi.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển rất quan trọng của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng- ghen trình bày trong tác phẩm này là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác vẫn
là kim chỉ nam dẫn đường.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về đảng và
xây dựng đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng đảng
của Đảng ta. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định: Sự lãnh đạo của
Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất
yếu
trong
tất
cả
các
giai
đoạn
cách
mạng.
Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt
trong công tác xây dựng đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo. Tư
tưởng về sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp trong Tuyên ngôn trở thành cơ sở
cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.
Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản chất lập trường
quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết luận đó vận dụng trong
công tác phát triển đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần. Những tư
tưởng quan điểm về xây dựng đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong
công tác xây dựng đảng của Đảng ta.
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày
15 đến ngày 18-12-1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng
viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc Đại hội.
Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa V. Đồng chí Võ Văn Kiệt, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo phương
hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm (1986-1990).
Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội nhận định năm năm qua là
một chặng đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã giành được
những thắng lợi to lớn. Khẳng định những thành tựu, đồng thời Đại hội cũng chỉ rõ tình
hình kinh tế - xã hội nước ta đang có nhiều khó khăn, chúng ta chưa thực hiện được mục
tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời
sống của nhân dân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến
được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức
đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá tình hình, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế.
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Đổi mới cơ ché quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội. Phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà
nước. Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn
các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt trong Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các
biểu hiện tiêu cực và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và
49 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị
gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết, bầu Ban Bí thư gồm 13 đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm
là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt
để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao
của Đảng trước đất nước và dân tộc. Đường lối do Đại hội VI đề ra thể hiện sự phát triển
tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng mở ra thời kỳ mới của sự
nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.