You are on page 1of 4

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI ĐỐI VỚI VIỆC CHUẨN BỊ VỀ TƯ

TƯỞNG, CHÍNH TRỊ VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC THÀNH LẬP CHÍNH ĐẢNG CỦA
GIAI CẤP VÔ SẢN Ở VIỆT NAM.

- Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người tham gia
những hoạt động chính trị sôi nổi ngay trên đất Pháp như : tham gia hoạt động trong phong trào công nhân
Pháp. Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “ Bản yêu
sách 8 điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và đòi Chính phủ Pháp thực hiện các
quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “ Bản yêu sách” đã gây tiếng vang lớn đối với nhân dân Pháp và
nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc từ đó được nhiều người biết đến.
- Tháng 7-1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con
đường để giải phóng dân tộc mình. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đi theo Quốc tế thứ
III.
- Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã
bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành
người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu
nước chuyển sang lập trường Cộng sản.
Sự kiện này mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam giai đoạn phát triển mới: giai đoạn gắn
phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con
đường của cách mạng Nga - tức con đường cách mạng vô sản.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, trở thành người Cộng sản đầu tiên, Nguyễn
Ái Quốc vừa tiếp tục học tập, vừa tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng tiên phong ở Việt Nam.
* Tại Pháp:
- Người tích cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tranh thủ sự ủng hộ của Đảng Cộng sản
Pháp và nhân dân Pháp đối với cách mạng Việt Nam.
- Tham gia vào các hoạt động của Hội những người Việt Nam yêu nước Pháp, vận động đồng bào hướng
về Tổ Quốc.
- Năm 1921 Người cùng với một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa khác như: Angiêri, Tuynidi,
Marốc ... thành lập " Hội liên hiệp thuộc địa" để tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc.
- 1922 : Ra báo “ Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa
đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.Nguyễn Ái Quốc là người phụ
trách chính của tờ báo.
- Người tích cực tổ chức các buổi diễn thuyết, viết bài đăng trên báo " Người Cùng Khổ", " Nhân Đạo", "
Đời sống nông dân" ...
- Năm 1925, tác phẩm " Bản án chế độ thực dân Pháp" được xuất bản ở Pari.
Những sách báo trên đây đã góp phần tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở các nước thuộc địa., truyền bá tư
tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, làm thức tỉnh đồng bào trong nước.
* Tại Liên Xô:
- Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật từ Pari sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất
( 10-1923 ), và Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V ( 7-1924 ) ...
- Ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu các vấn đề về dân tộc và thuộc địa. Người đã có các
tham luận quan trọng tại các đại hội quốc tế, viết nhiều bài cho các báo " Sự Thật" - cơ quan ngôn luận
của Đảng Cộng Sản Liên Xô, tạp chí " Thư tín Quốc tế" của Quốc tế Cộng Sản ...
- Nguyễn Ái Quốc tiếp tục phát triển và hoàn thiện thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, thông
qua hoạt động thực tiễn và nghiên cứu sách báo mácxít. Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ mối quan hệ giữa cách
mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về chính trị, tư tưởng cho sự thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt
Nam.
* Tại Quảng Châu:
- Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu ( Trung Quốc ) nhằm tập hợp người yêu
nước Việt Nam đang hoạt động ở đây, giáo dục, truyền bá cho học chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Người quyết định cải tổ Tâm tâm xã, chọn một số người hăng hái, tiên tiến nhất, lập ra nhóm “ Cộng Sản
đoàn” ( 2-1925 ). Đến tháng 6-1925, Người thành lập “ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và cho xuất
bản tuần báo ‘ Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội.
- Tháng 7-1925, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Quốc tế, lập ra “ Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở Á Đông”, có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.
- Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cách mạng.
- Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó đã được xuất bản
thành sách “Đường Kách mệnh” ( 1927 ). Nội dung sách xác định tính chất, nhiệm vụ, lực lượng của cách
mạng Việt Nam, đặc biệt là nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng mácxít, về mối quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam với cách mạng vô sản thế giới.
- Từ năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên chủ trương thực hiện phong trào “ vô sản hoá”. Nhờ
đó chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá sâu rộng trong phong trào cách mạng Việt Nam, đồng thời hội
viên cũng ngày càng trưởng thành trong thực tiễn, lao động và tranh đấu.
- Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã xây dựng được cơ sở của mình ở khắp nơi ( thành thị, nông
thôn, nhà máy, hầm mỏ, đồn điền). Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lênin, thúc đẩy
phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản.
- Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị,
tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
* Thời kì từ giữa năm 1927 đến 1930:
- Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan ) về Trung Quốc, với danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản triệu
tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
- Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.

1/ Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, tìm thấy
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đồng thời đó là cơ sở lý luận của Đảng.
2/ NAQ đã chuyển bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
a) Tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào nước ta thông qua các sách báo: Nhân đạo, Đời sống công
nhân, Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mạng v.v...
b) Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin chuẩn bị thành lập
Đảng.
3/ Đến 1929, 3 tổ chức cộng sản ra đời nhưng lại công kích lẫn nhau. Yêu cầu của lịch sử cần phải có
một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Với thiên tài và uy tín, NAQ đã thống nhất 3 tổ chức
cộng sản thành 1 đảng duy nhất- Đảng Cộng sản Việt Nam.
4/ Người đã vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đặt nền tảng cho đường lối cách mạng của
Đảng ta.
5/ Tóm lại, NAQ là Người sáng lập ta ra Cộng sản Việt Nam

SO SÁNH LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG (10/1930) VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ
(2/1930)
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, là một bước ngoặt vĩ đại của cách
mạng Việt Nam. Để xác lập đường lối, chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ
mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, cương lĩnh chính trị đã được
vạch ra. Tại hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3/2/1930 đến ngày 7/2/1930 ở Hương Cảng – Trung Quốc,
các đại biểu đã nhất trí thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt và Chương trình tóm tắt do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta-Cương
lĩnh Hồ Chí Minh. Tiếp theo đó, vào tháng 10.1930 cũng tại Hương Cảng-Trung Quốc Ban chấp hành
Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã thông qua Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo.

Cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị là những văn kiện thể hiện đường lối cách mạng của
Đảng ta. Vậy giữa hai văn kiện này có những điểm gì giống và khác nhau ?. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu
vấn đề này.

Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, xác định rõ phương hướng
chiến lược, nhiệm vụ cụ thể và cơ bản, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng, đoàn kết quốc tế
và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn kiện. Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và Luận cương chính trị(10/1930) có những điểm giống nhau
sau:

1/ Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng
Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi
tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách. Phương
hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.

2/ Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân
tộc.

3/ Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ bản
đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.

4/ Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và vũ
trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền
về tay công nông.
5/ Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể hiện sự
mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.

6/ Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên là
do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.

Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau: Cương lĩnh chính trị xây
dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn (Đông Dương).

1/ Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh chính trị xác định kẻ
thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách
mạng( nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng,
nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của cưong lĩnh xác định:
làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội
công nông, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các
cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được
tiến hành cùng một lúc có quan hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương
đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa
xác định được kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn đề
dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.

2/ Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách mạng là giai cấp
công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc
trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. Như vậy,
ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp công nhân thì cương lĩnh cũng phát huy
được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với
Luận cương thì xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản
dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân
có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác
ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công
nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều
đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của
tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả
năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay
sai. Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy
nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập khuân máy móc chủ
nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính
trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng
đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách
mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch
sử .
=> Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời
của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt
trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và
hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.

You might also like