You are on page 1of 44

Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Huy động vốn từ phát hành giấy tờ có giá................25

Lời mở đầu

Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập kinh tế
khu vực và toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng hàng đầu
trong sự nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi đó là vấn đề về nguồn lực, vấn đề
vốn - vấn đề thuộc cơ sở “ hạ tầng mềm” cho đầu tư phát triển. Đây là vấn đề
mang tính cấp thiết, đầy biến động đòi hỏi phải xây dựng, phát triển và thường
xuyên được xử lý, điều chỉnh nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế,
giải quyết được những thiếu hụt trong chi tiêu của Chính phủ. Vậy thì giải pháp
nào cho huy động vốn; chúng ta phải có những phương án, quyết sách cụ thể
mang tính chiến lược trong dài hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn cũng như
nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại với
chức năng của mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn
còn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, nhất là các hình thức
huy động trung và dài hạn để cho vay và đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở
hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ. Hệ thống ngân hàng đang
phấn đấu nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và

1
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

tranh thủ các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế,
đẩy mạnh cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng,
đồng thời tập trung giảm tỷ lệ nợ quá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã và đang hoàn thiện, phát huy
hơn nữa vai trò và thế mạnh của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Với bề dày lịch sử của mình, ngân hàng Vietcombank trong
thời kì đổi mới đã có bước chuyển mình quan trọng từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần
vào công cuộc cải cách nền kinh tế đất nước.
Tính bức xúc trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương
mại nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng như nhu cầu về vốn cho sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang theo
đuổi chính là động lực cho em chọn nghiên cứu về đề tài: “Giải pháp tăng
cường huy động vốn tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank”
cho chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề chia làm 3 chương bao gồm:
Chương I: Các vấn đề cơ bản về vốn của ngân hàng thương mại.
ChươngII: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng Ngoại thương
Viêt Nam.
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng Ngoại thương
Viêt Nam.

2
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN


TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Những vấn đề cơ bản về vốn trong NHTM


1.1.1. Khái niệm về vốn của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, ngời chủ sở
hữu của chúng gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu
tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho Ngân hàng, để
Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại
vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

3
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng
1.1.2.1. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh
được thì phải có :Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố
quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.
Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt độnh kinh
doanh, ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có
vốn. Như đã biết, đặc trưng của hoạt động ngân hàng: Vốn không chỉ là
phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của
NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường
tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài
hạn). Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có nhiều lợi thế trong kinh doanh. Hơn nữa,
vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành pháp luật trước hết là luật
NHTW, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ.
Vốn có vai trò quyết định tới họat động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó,
ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì Ngân hàng
phải chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh
doanh, vừa là đối tượng kinh doanh. Các NHTM thực hiện kinh doanh loại
“hàng hoá đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và
thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi
thành lập theo qui định của pháp luật, các Ngân hàng phải thường xuyên tìm
mọi biện pháp để tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh.

1.1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh toán và nâng cao vị thế của NHTM

4
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô
hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trờng là điều trọng
yếu. Uy tín đó phải đợc thể hiện trớc hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả
cho khách hàng của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân
hàng là vốn tiền gửi và đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi
họ có yêu cầu rút tiền. Với một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay
vốn trên thị trờng là rất lớn, một mặt ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay,
mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động
đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán. Trong khi đó, với một
ngânh hàng trờng vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả năng thanh toán đồng thời
vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, do đó sẽ tạo được uy tín
ngày càng cao.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân

hàng càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của

ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng

của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động

kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh

có hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế của ngân hàng.

1.1.2.3.Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh
khác của Ngân hàng
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản
mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến
khả năng thu hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, thậm chí

5
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất khách hàng
và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn
dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu cầu về vốn, có điều kiện để mở rộng
quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại
hình khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh
doanh chứng khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và
tạo thêm vốn cho Ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh
trên thị trường. Vì vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.

1.1.2.4. Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng

Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ
thuật của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng
vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ
động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải
cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt
động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận
lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ xung thêm vốn tự có của
ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của ngân
hàng trên mọi lĩnh vực.

Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng
tổng hòa các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng
tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay
mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua
(leasing), mua bán nợ (factoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán.

6
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong
hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.

Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm
bảo khả năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ,
đảm bảo cân đối tiền – hàng trong nền kinh tế.

Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng
phải thường xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao
hiệu quả của vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của
hoạt động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng
cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động của NHTM
ở tất cả các quốc gia.

1.2. Các hình thức huy động vốn trong NHTM


Do NHTM huy động theo phương thức “đi vay để cho vay” mà vốn tự
có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt
động. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển, NHTM phải quan tâm tới các hình
thức tạo vốn để không ngừng mở rộng, phát triển vốn để cạnh tranh trên thị
trường. Quá trình tạo vốn được thực hiện thông qua các hình thức sau:

1.2.1. Tiền gửi không kì hạn (tiền gửi thanh toán)


Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hoặc cá nhân: đây là khoản tiền
mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ.
Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá
nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu của ngân hàng, cá nhân đều
có thể được nhập vào thiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung đây là một

7
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

khoản huy động có lãi suất thấp, có khi bằng không, thay vào đó chủ tài khoản
được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Mặc dù, đối với tiền gửi thanh toán, người gửi có thể gửi vào hoặc rút ra
bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch nhất định về
thời gian và số lượng, nên các loại tài khoản này luôn có số dư. Ngân hàng có
thể huy động số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Một số ngân hàng
kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay như cho vay thấu
chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán. Một số ngân hàng
sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất
của loại tiền gửi này lên nhằm cạnh tranh với các tài chính tín dụng khác.
Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, để
khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các NHTM thực hiện
trả lãi cho loại tiết kiệm tiền gửi này (hiện nay khoảng 3-3,6%/năm – nguồn
Vneconnomy.vn). Ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm khoảng 30% tiền
gửi của các ngân hàng. Vì lẽ đó, tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản thanh toán này
được ngân hàng đặc biệt coi trọng.
Bên cạnh đó các ngân hàng có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền
gửi thanh toán của các ngân hàng khác, nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và
một số mục đích khác, NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên,
quy mô của nguồn này thường không lớn.

1.2.2. Tiền gửi có kì hạn


Nhiều khoản thu của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả
sau một khoảng thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trọng
hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của
người gửi tiền ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ
hạn là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thỏa thuận về
thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, theo nguyên tắc

8
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

khách hàng ký thác chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên
trên thực tế do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các ngân hàng thường cho
phép khách hàng được rút trước hạn. Trong trường hợp này có thể có hai cách
giải quyết: hoặc khách hàng vay tiền của ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền
thì dùng số tiền và lãi thu được để trả nợ (cả gốc và lãi vay của ngân hàng);
hoặc là thỏa thuận với khách hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp
hơn.
Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì
mục đích của người gửi tiền là kiếm lợi chứ không phải là để thanh toán. Do
đó, khác với loại tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến
loại nguồn vốn này.
Để tăng cường huy động nguồn vốn này, trước hết các ngân hàng thường
đưa ra nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại khách
hàng khác nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau: 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng, 12 tháng, 2 năm, 5 năm. Với mỗi loại thời hạn, ngân hàng áp
dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất
càng cao.

1.2.3. Đi vay của Ngân hàng khác


Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ giữa các ngân hàng có quan hệ trên thị
trường liên ngân hàng tạo thuận tiện cho khách hàng và một số mục đích khác,
ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy
mô nguồn này thường không lớn do hình thức này chỉ được áp dụng trong
trường hợp ngân hàng có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa đầu tư, cho vay
hoặc hiệu quả việc đầu tư, cho vay không hiệu quả bằng gửi tiền ở ngân hàng
khác.

1.2.4. Phát hành các giấy tờ có giá

9
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Giống như các doanh nghiệp khác ngân hàng cũng huy động vốn bằng
cách phát hành các giấy tờ có giá (hay còn gọi là các công cụ nợ) như kỳ phiếu,
trái phiếu, tín phiếu ngân hàng…để huy động vốn trên thị trường vốn.

Các công cụ nợ của ngân hàng là các giấy nhận nợ mà ngân hàng bán
cho công chúng. Đây là cách thức vay vốn của NHTM, bởi vì những người sở
hữu các công cụ này được hoàn trả vốn vào thời gian đáo hạn cộng thêm khoản
tiền lãi nhất định. Những công cụ nợ của ngân hàng là:

- Tín phiếu ngân hàng: Đây là công cụ nợ ngân hàng dùng để huy động
những khoản vốn ngắn hạn.

- Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Là những công cụ nợ để ngân hàng huy
động những khoản vốn trung - dài hạn.

Nếu đối với các tài khoản tiền gửi phụ thuộc nhiều vào sở thích của
khách hàng thì việc sử dụng các công cụ nợ là một hình thức huy động vốn
mang tính chủ động của ngân hàng. Tuy nhiên việc khách hàng có chấp nhận
mua các công cụ nợ đó hay không mới là điều quan trọng. Nguồn vốn huy động
có được bằng việc phát hành các công cụ nợ sử dụng cho những khoản tín dụng
trong kế hoạch của ngân hàng. Với lãi suất tín dụng trong kỳ kế hoạch, ngân
hàng xác định mức lãi suất nhất định cho các công cụ nợ, hay đưa vào thời hạn
các khoản tín dụng trong kế hoạch mà ngân hàng xác định sử dụng loại công cụ
ngắn hạn hay trung - dài hạn.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn của NHTM
1.3.1. Các nhân tố khách quan
1.3.3.1. Tình hình kinh tế xã hội

Đây là yếu tố khách quan đối với ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng
chung đến việc huy động và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế trong đó

10
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

có nguồn vốn của NHTM. Cụ thể trong một nền kinh tế phát triển nguồn tiền
gửi, tiền tiết kiệm gửi vào các NHTM ngày càng nhiều… Ngoài ra với một nền
kinh tế phát triển thì công nghệ ngân hàng được hiện đại hoá, người dân có thói
quen sử dụng những lợi ích do các NHTM cung ứng, các nghiệp vụ thanh toán
chủ yếu qua ngân hàng, ngân hàng thu được càng nhiều khoản vốn, chiếm dụng
được vốn trong thanh toán. Lạm phát là một yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn
đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Người dân gửi tiền vào ngân hàng
hy vọng rằng họ sẽ thu được khoản tiền lãi nhất định, lạm phát cao hoặc biến
động có thể làm trượt giá đồng tiền và họ sẽ chuyển các tài khoản của họ sang
hình thái khác có tính ổn định hơn về giá trị.
Bên cạnh đó, các yếu tố như thu nhập của dân cư, thời vụ chi tiêu cũng
là các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Tại các
thành phố lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ hình thành
một nguồn tiền gửi lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và
thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền, thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính
ổn định của nguồn tiền. Ví dụ: vào dịp cuối năm, nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng
như tiền gửi của các doanh nghiệp có xu hướng giảm sút đặc biệt trong điều
kiện thanh toán bằng tiền mặt còn đang phổ biến như nước ta hiện nay.

1.3.1.2. Môi trường pháp lý và chính sách vĩ mô kinh tế


Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương, phương hướng
trong hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng
thương mại. NHTM xây dựng các chiến lược kinh doanh cho riêng mình phải
dựa trên cơ sở tuân thủ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như
chính sách tiết kiệm, chính sách lãi suất,.. Ngân hàng nhà nước điều hành chính
sách tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực, vai trò hiệu quả và theo sát thị
trường, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì mới tạo

11
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

điều kiện và thúc đẩy phát triển các thị trường tiền tệ cũng như hoạt động của
hệ thông ngân hàng. Mặt khác, việc xây dựng một môi trường pháp lý lành
mạnh, thông thoáng cũng là một nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hiệu
quả hoạt động huy động và sử dụng vốn của các NHTM.

1.3.2. Các nhân tố chủ quan


1.3.2.1. Lãi suất
Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt động
tín dụng, cho vay và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi nhuận khi
xem xét kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào. Khi
lãi suất thay đổi theo diễn biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ,
phản ánh đúng tín hiệu của thị trường, điều đó khiến ngân hàng phải tìm kiếm,
hoạch định mức lãi suất phù hợp cho mình. Trong trường hợp lãi suất biến
động do tác động của các yếu tố phi vật chất (yếu tố tâm lí, yếu tố cạnh tranh
không lành mạnh...) sẽ có tác động bất lợi đối với hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Đây là khó khăn đối với các ngân hàng thương mại có quy mô hoạt động
nhỏ, vốn tự có và khả năng tài chính thấp. Trong trường hợp đó là viêc tăng lãi
suất huy động, tác động hiệu ứng đối với toàn bộ hệ thống, buộc các ngân hàng
khác cũng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng gửi tiền trong khi đó có thể
không thực sự có khó khăn về nguồn vốn. Trong nền kinh tế thị trường, các
hiện tượng kinh tế thường có diễn biến, thay đổi nhanh. Lãi suất cũng là yếu tố
nhạy cảm và thường xuyên thay đổi, gắn liền với sự thay đổi của quan hệ cung
cầu về vốn. Vì vậy, NHTM trong quá trình hoạt động cần có sự theo dõi sát sao
sự biến động đó để có những giải pháp ứng phó kịp thời nhằm ổn định tình
hình kinh doanh của mình.

1.3.2.2. Công nghệ Ngân hàng

12
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Hoạt động huy động vốn của ngân hàng ngày càng có có sự cạnh tranh
mạnh mẽ không chỉ giữa các NHTM trong nước, mà trong tiến trình hội nhập
với nền kinh tế thế giới, hệ thống các NHTM Việt Nam còn phải chịu sự cạnh
tranh gay gắt với các ngân hàng có nhiều kinh nghiệm và tiềm lực trên toàn thế
giới. Công nghệ ngân hàng cũng là một nhân tố không kém phần quan trọng
quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động huy động vốn của NHTM.
Công nghệ ngân hàng liên quan trực tiếp đến các mặt hoạt động như thanh
toán, giao dịch, kế toán…Một ngân hàng sở hữu công nghệ lạc hậu so với các
ngân hàng khác: hoạt động giao dịch, thanh toán và các dịch vụ còn thực hiện
thủ công dẫn đến chậm trễ trong giao dịch với khách hàng và không đa dạng
hoá được các loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng, điều này sẽ làm hạn
chế khả năng thu hút vốn của ngân hàng. Chính vì vậy ngân hàng không cạnh
tranh được với các ngân hàng khác được đầu tư công nghệ hiện đại hơn. Để có
thể cạnh tranh trên thị trường huy động vốn, các ngân hàng phải không ngừng
đổi mới công nghệ, áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến vào các hoạt
động giao dịch thanh toán nhanh với khách hàng, Đối với một ngân hàng có
công nghệ tiên tiến thì chất lượng phục vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ
tốt hơn, sẽ huy động được nhiều vốn hơn. Các NHTM ở Việt Nam hiện nay
đang đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ ngân hàng và coi đây như sức mạnh để
cạnh tranh trên thị trường dịch vụ tài chính. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong: ứng dụng lập mạng thanh toán liên ngân hàng nội bộ tập trung, hệ
thống quản lý vốn ngoại tệ tập trung, ứng dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, triển
khai ứng dụng thanh toán SWIFT, dịch vụ thẻ ATM đã mở ra nhiều cơ hội hơn
cho ngân hàng. Các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ thông tin
ngày càng đa dạng và phong phú hướng đến việc tối đa hoá tiện ích và lợi ích
của khách hàng.

1.3.2.3. Chiến lược Marketing Ngân hàng

13
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Chiến lược Marketing ngân hàng cần phải được chú trọng đúng mức trong
chiến lược kinh doanh dài hạn của ngân hàng nói chung và huy động vốn nói
riêng. Xây dựng được một chiến lược Marketing hoàn chỉnh sẽ tăng khả năng
sinh lợi trong kinh doanh cũng như tăng cường huy động vốn của ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển,
tạo ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thực
tế, để đạt được điều này không phải là đơn giản vì khi áp dụng marketing vào
ngân hàng thường gặp một số khó khăn như: Với xu hướng phát triển kinh tế,
nhu cầu của khách hàng ngày càng cao. Các ngân hàng cần phải đổi mới nhanh
chóng trang thiết bị, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ…
Thông qua công tác marketing ngân hàng cần phải đưa ra các hình thức huy
động vốn với thời hạn, giá cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ
thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu, mong muốn của khách hàng về chất lượng,
chủng loại các sản phẩm của ngân hàng. Không những thế, công tác marketing
ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo
khách hàng về với mình để không ngừng mở rộng thêm các khách hàng mới,
ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các
thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến
lược marketing. Dựa trên yếu tố này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh
hoạt, mềm dẻo các công cụ kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động
của ngân hàng để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ
thuật marketing được tập trung vào 4 chính sách lớn:

- Chính sách thông tin, ngiên cứu, tìm hiểu điều tra.

Thực thi chính sách này cần huy động toàn bộ phương tiện vật chất cần
thiết để thực hiện việc quan sát, phân tích và tổng hợp các lĩnh vực cơ bản có
liên quan đến thị trường của ngân hàng. Từ các thông tin có được ngân hàng sẽ

14
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

đưa ra các chính sách kinh doanh nói chung và chính sách huy động vốn nói
riêng phù hợp với nhu cầu của khách hàng và nhu cầu sử dụng vốn của thị
trường.

- Chính sách sản phẩm giá cả.

Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng bao gồm các dịch vụ cơ bản của
nghề ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn, nguồn vốn sử dụng vốn, nghiệp vụ
thanh toán và các nghiệp vụ ngoại vi mang tính chất hỗ trợ như dịch vụ tư vấn
khách hàng, nghiệp vụ thông tin theo nhu cầu, dịch vụ két… có những nghiệp
vụ ngoại vi không mạng lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng, song có tác dụng
kích thích sự chú ý, thu hút khách hàng và làm tăng giá trị cung ứng sự thỏa
mãn của khách hàng đối với các dịch vụ cơ bản. Đặc biệt với sự đa dạng hóa
các sản phẩm của nghiệp vụ huy động vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở
rộng khả năng huy động vốn. Hiển nhiên, một ngân hàng có các dịch vụ tốt, đa
dạng sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng khác mà các sản phẩm dịch
vụ không tốt. Một ngân hàng mà có dịch vụ thanh toán hoạt động tốt, đa dạng
sẽ thu hút được nhiều tiền gửi thanh toán hơn các ngân hàng khác.

Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lãi
suất của các khoản tiền gửi, tiền vay, chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Yếu tố giá
có vai trò quan trọng đối với kết quả huy động vốn, sử dụng vốn và cung ứng
dịch vụ khác của ngân hàng. Chính sách lãi suất cạnh tranh là một chiến lược
quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động, đặc biệt
cần thiết khi lãi suất thị trường đang ở mức tương đối cao. Các ngân hàng cạnh
tranh giành vốn không chỉ với nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm và người
phát hành các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn
khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ
thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ

15
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

đang nắm giữ sang một công cụ khác hoặc chuyển tiền đầu tư, tiết kiệm từ một
tổ chức này sang một tổ chức khác để có lợi nhuận cao hơn.

- Chính sách phân phối.

Chính sách phân phối là tập hợp toàn bộ những phương tiện vật chất đưa
ra sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Việc đa dạng hóa các
kênh phân phối, mở rộng các quầy giao dịch (số lượng các quầy giao dịch, địa
điểm mở quầy, các sản phẩm, dịch vụ cung ứng tại quầy, trang thiết bị được sắp
xếp tại quầy, trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên…) có ảnh hưởng rất lớn đến
công tác huy động vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có càng nhiều kênh phân
phối, nhiều quầy giao dịch thì cơ hội tiếp xúc với khác hàng càng nhiều, từ đó
khả năng huy động vốn sẽ tăng lên. Tuy nhiên, việc mở rộng các kênh phân
phối, mở thêm nhiều quầy giao dịch cần phải tính đến yếu tố chi phí để mở
rộng sao cho phù hợp với hiệu quả thu được từ nó.

- Chính sách giao tiếp, quảng bá.

Mục tiêu của chính sách này là làm thế nào để quảng bá thương hiệu của
ngân hàng ra đông đảo quần chúng nhân dân, giúp cho họ hiểu rõ về ngân hàng
và các dịch vụ ngân hàng. Bởi vì sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng tạo
ra hình ảnh của ngân hàng, tạo ra sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân
hàng. Giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Ngoài ra, hoạt động quảng
cáo bao gồm các biện pháp tuyên truyền các thông tin về sản phẩm cũng như
dịch vụ tiện ích của ngân hàng cũng là công cụ hữu hiệu để nâng cao vị thế của
ngân hàng, thu hút thêm khách hàng cho ngân hàng, tạo lòng tin của khách
hàng đối với ngân hàng.

1.3.2.4. Công tác cán bộ tổ chức

16
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Chìa khoá thành công của một ngân hàng ngoài các nhân tố khác không
thể không kể đến nhân tố con người. Một ngân hàng xây dựng được một đội
ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đoàn kết, thân thiện, năng động, có bộ
máy tổ chức khoa học hợp lý, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh sẽ
có lợi thế trong huy động vốn . Bởi lẽ, ngân hàng với trang thiết bị cơ sở hạ
tầng hiện đại, các nhân viên nhiệt tình, lịch sự và có chuyên môn nghiệp vụ cao
tạo ấn tượng tốt đối với khách hàng, điều này sẽ thu hút được khách hàng đến
giao dịch.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG


VIETCOMBANK
2.1. Khái quát về Ngân hàng VCB
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển VCB
Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
chính thức hoạt động ngày 2 tháng 6 năm 2008 sau khi thực hiện thành công kế
hoạch cổ phần hóa thông qua phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng ngày
26/12/2007.
Trải qua 45 năm phấn đấu và phát triển, Vietcombank đã không ngừng
vươn lên, trở thành ngân hàng hàng đầu Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như
quản lý và kinh doanh vốn, thanh toán quốc tế, dịch vụ thẻ, công nghệ ngân
hàng…
Từ một ngân hàng chuyên phục vụ trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại,
Vietcombank ngày nay đã có mạng lưới chi nhánh vươn rộng ra hầu khắp các
tỉnh thành lớn trên cả nước với các sản phẩm ngân hàng đa dạng, đáp ứng nhu
cầu của mọi đối tượng khách hàng. Mạng lưới của Vietcombank bao gồm Hội
sở chính tại 198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội, 1 Sở giao dịch, hơn

17
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

300 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con tại Việt Nam, 1
công ty con tại Hong Kong, 4 công ty lien doanh, 3 công ty lien kết, 1 văn
phòng đại diện tại Singapore. Bên cạnh đó VCB còn phát triển hệ thống
Autobank với 11,183 máy ATM và điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên
toàn quốc, hoạt động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới 1,300 ngân
hàng đại lý tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Năm 2008 đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển của
Ngân hàng với việc chính thức chuyển mình trở thành ngân hàng thương mại
cổ phần có vốn điều lệ và tổng tích sản lớn nhất Việt Nam. Trong bối cảnh kinh
tế gặp nhiều khó khăn, đứng trước thách thức quan trọng là vừa phải chuyển
đổi cơ cấu hoạt động, vừa đảm bảo đạt hiệu quả kinh doanh, toàn hệ thống
Vietcombank đã nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề ra.

2.1.2. Sơ lược về tình hình huy động vốn tại VCB


Trong những năm qua, trước diễn biến phức tạp của thị trường vốn và sự
cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại, ngay từ đầu năm Ban Lãnh
đạo Vietcombank đã quán triệt trong toàn hệ thống coi công tác huy động là
một trong những những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu và xuyên suốt. Ban lãnh
đạo cũng đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị trong hệ thống nhằm tập trung nguồn
lực cho công tác huy động và kinh doanh vốn. Thực hiện phương châm “An
toàn – Chất lượng – Tăng trưởng – Hiệu quả”, trong một vài năm qua VCB đã
hoàn thành tốt các chỉ tiêu do Đại hội cổ đông giao và vượt qua những khó
khăn trong công tác huy động vốn. Cụ thể là:
Trong năm 2008, để đối phó với tình hình lạm phát tăng cao, Ngân hàng
Nhà nước đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán. Mặt bằng lãi suất tăng cao làm cho hoạt động huy động
vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khắn. Mặc dù vậy, tổng huy động vốn của

18
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

VCB năm 2008 vẫn tăng trưởng ở mức 9,9%, huy động vốn trực tiếp từ nền
kinh tế tăng 10,5%.
Trong năm 2009, trước diễn biến phức tạp của thị trường vốn và sự cạnh
tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại, ngay từ đầu năm Ban Lãnh đạo
Vietcombank đã quán triệt trong toàn hệ thống coi công tác huy động là một
trong những những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu và xuyên suốt trong năm. Ban
lãnh đạo cũng đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị trong hệ thống nhằm tập trung
nguồn lực cho công tác huy động và kinh doanh vốn. Chính vì vậy, VCB vẫn
giữ được mức tổng huy động vốn tăng 17,5% và huy động VNĐ từ khách hàng
tăng 18,8% so với năm trước. Trong bối cảnh bị cạnh tranh gay gắt, huy động
vốn tiền gửi của dân cư vẫn có mức tăng trưởng khá tốt (34,5%) là nhờ vào các
chương trình huy động vốn trải đều trong năm, và sự cố gắng, nỗ lực của hầu
hết các chi nhánh trong hệ thống.

- Với chính sách lãi suất linh hoạt, sự đa dạng về các sản phẩm huy
động vốn, công tác huy động vốn của VCB đã thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo
đủ nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán và vay của khách
hàng và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dự trữ bắt buộc tại NHNN. Vietcombank
tiếp tục khẳng định vị thế là một ngân hàng có truyền thống lâu đời, hàng đầu
tại Việt Nam và ảnh hưởng ngày càng tăng trên trường quốc tế.

2.2. Thực trạng huy động vốn tại VCB


2.2.1. Hình thức huy động vốn của VCB
Huy động vốn là một trong những nhiệm vụ tạo vốn hàng đầu của Ngân
hàng VCB thông qua các nghiệp vụ chủ yếu như: huy động tiền gửi, nghiệp vụ
ngoại bảng của ngân hàng và các nghiệp vụ trung gian khác. Khi chuyển sang
hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân hàng bước
đầu còn nhiều bỡ ngỡ, hiệu quả kinh doanh nhiều mặt bị hạn chế, kể cả mảng

19
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

huy động vốn. Nhưng cùng với sự nỗ lực của bản thân ngân hàng, sự ủng hộ từ
nhiều phía, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, ngân hàng đã quen dần cơ
chế mới, đạt được những thành quả nhất định trong kinh doanh. Chỉ xét riêng
về mảng huy động vốn của ngân hàng, cả quy mô và chất lượng đều được phát
triển. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng đa dạng, đáp ứng
được nhu cầu đổi mới trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời
gian tới.
Nắm bắt được tình hình nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh
tế, VCB luôn tìm cho mình những hướng đi, những giải pháp phù hợp với sự
phát triển kinh tế của đất nước, đẩy mạnh công tác huy động vốn và từng bước
đã đạt được những kết quả nhất định, phản ánh qua tình hình tăng trưởng nguồn
vốn huy động và cơ cấu nguồn vốn huy động.
Công tác huy động vốn luôn là tiền đề để thực hiện các nhiệm vụ của
ngân hàng, là bước cơ bản đầu tiên trong suốt quá trình kinh doanh của ngân
hàng. Chính vì vậy mà việc cạnh tranh, thu hút khách hàng gửi tiền là vấn đề
sống còn đối với bản thân mỗi ngân hàng. Hiểu rõ như vậy nên VCB luôn cải
tiến mở rộng các hình thức huy động vốn một cách linh hoạt theo xu hướng
chung của thị trường, tích cực đổi mới phong cách phục vụ để khai thác có hiệu
quả mọi nguồn vốn trên địa bàn cho các nhu cầu kinh tế. Các hình thức huy
động vốn chủ yếu được áp dụng trong thời gian qua tại Ngân hàng VCB gồm:
+ Nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn.

+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế.


+ Vay của các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng.
+ Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.

2.2.2. Quy mô và cơ cấu huy động vốn

20
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Trong thời gian qua Ngân hàng VCB phát huy được thế mạnh của mình
trong công tác huy động vốn do đã tận dụng được khả năng, vị thế của mình và
đưa ra được những chiến lược khả thi cao trong dài hạn. Mặt khác, chính sách
lãi suất rất nhạy bén, phương thức trả lãi linh hoạt như: trả trước, trả sau, trả lãi
định kì, trả lãi bậc thang. . . nên ngân hàng có thể huy động vốn khi cần thiết rất
đầy đủ và kịp thời. Không những thế, công tác tiếp thị được đẩy mạnh, Ngân
hàng tiếp cận nhiều doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích đối với khách
hàng nên không những đã giữ được khách hàng truyền thống; ngoài ra ngân
hàng còn mở rộng tìm kiếm khách hàng có tiềm năng về vốn để nhận tiền vay,
tiền gửi.
Thời kì 2008-2009, mục tiêu phấn đấu của ngân hàng là tiếp tục đẩy
mạnh huy động vốn với mức huy động tăng từ 10,2% - 17,5% so với năm trước
đó. Đây là mức phấn đấu rất khó khăn đối với ngân hàng, bởi trong hoàn cảnh
ngân hàng đang chịu những bất lợi từ tình hình kinh tế trong nước. Tiếp nối đà
suy thoái của năm 2008, nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới đã tiếp tục suy giảm
sâu trong nửa đầu năm 2009 nhưng rồi đã gượng dậy và dần hồi phục trong nửa
cuối năm. Nền kinh tế Việt Nam đã khá thành công khi đạt được mức tăng
trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực (5,32%) trong khi vẫn giữ
được lạm phát ở mức thấp (6,52%), FDI cam kết và giải ngân vẫn đạt mức cao,
đời sống xã hội ổn định, … Gói kích thích kinh tế của Chính Phủ mà trọng tâm
là chương trình hỗ trợ lãi suất đã mang lại những hiệu ứng tích cực cho hoạt
động ngân hàng; nhưng những diễn biến phức tạp của lãi suất, tỷ giá, thanh
khoản,… cũng khiến hoạt động của các ngân hàng gặp không ít khó khăn.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại NHCT Ba Đình 2005-2009
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu Tổng huy động Chênh lệch Tốc độ tăng
vốn với năm
trước
Trước Năm 2005 108.313

21
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

khi cổ Năm 2006 120.695 12.382 11,4%


Năm 2007 144.810 24.115 20%
phần hóa
Sau khi Năm 2008 159.980 15.170 10,5%
cổ phần Năm 2009 169.457 9.477 5,9%
hóa
(nguồn: thuyết minh báo cáo tài chính VCB)
Bảng: Lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm dân cư năm 2010

VNĐ

TT Thời kỳ (tháng) Lãi suất (%/tháng)


1 12 11.2%
2 9 11.2%
3 6 11.2%
4 3 11.2%
5 2 11%
6 1 11%
7 Không kỳ hạn 3

USD
TT Thời kỳ (tháng) Lãi suất (%/tháng)
1 12 4.2%

2 9 4.0%
3 6 3.7%
4 3 3.5%

5 2 3.3%

6 1 3.2%

22
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

7 Không kỳ hạn 0.2%

Với những nỗ lực lớn khắc phục khó khăn, giai đoạn 2008-2009, nguồn
vốn huy động của chi nhánh liên tục tăng trưởng mạnh, hoàn thành tốt nhu cầu
về điều hoà vốn cũng như cung ứng cho tín dụng. Cụ thể:
Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2008 đạt 159,980 tỷ đồng, tăng
15,170 tỷ đồng tốc độ tăng 10,2% so với đầu năm, đạt hơn 10,5% so với kế
hoạch giao. Trong đó:
+ Vốn huy động VNĐ đạt 95,056 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58,8%.

+ Vốn huy động ngoại tệ( quy VNĐ): Đạt 80,869 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 41,2%.

• Cơ cấu nguồn vốn về khu vực kinh tế:

+Tiền gửi của tổ chức kinh tế : Đạt 99,146 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 62%.

+ Tiền gửi dân cư: đạt 57,242 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 48%.

• Cơ cấu nguồn vốn về thời hạn:

+ Tiền gửi không kỳ hạn đạt 52,456 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33.4%.

+ Tiền gửi có kỳ hạn đạt 101,118 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 66,6%.


Năm 2009:
Tính đến ngày 31/12/2009, tổng nguồn vốn huy động đạt 169,457 tỷ
đồng, tăng 9,477 tỷ đồng tốc độ tăng % so với đầu năm. Trong đó:
+ Vốn huy động VNĐ đạt 100,353 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60%, tăng
5,297 tỷ đồng tốc độ tăng 5,6% so với đầu năm.

23
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

+ Vốn huy động ngoại tệ( quy VNĐ): Đạt 69,937 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 40%, giảm 11,472 tỷ đồng so với đầu năm.

• Cơ cấu nguồn vốn về khu vực kinh tế:

+Tiền gửi TCKT: Đạt 90,216 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 53,2%, giảm 8,933
tỷ đồng, tốc độ giảm 9% so với đầu năm.

+ Tiền gửi dân cư: đạt 76,964 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,8%, tăng
19,722 tỷ đồng, tốc độ tăng 34,4% so với đầu năm.

• Cơ cấu nguồn vốn về thời hạn:

+ Tiền gửi không kỳ hạn đạt 47,256 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 27,9%, giảm
5,2 tỷ đồng giảm 10% so với đầu năm.

+ Tiền gửi có kỳ hạn đạt 117,061 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 72,1% tăng
16,943 tỷ đồng tăng 16,7% so với đầu năm.

Huy động vốn từ tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm.

Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ truyền thống của các
NHTM Việt Nam, nguồn vốn này thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng
nguồn vốn huy động của các ngân hàng. Chính vì tiền gửi tiết kiệm vị trí quan
trọng trong tổng nguồn vốn huy động cho nên thời gian qua, Ngân hàng ngoại
thương Việt Nam đã đưa ra các biện pháp tích cực nhằm huy động tối đa nguồn
vốn này. Tuy nhiên, làm được như vậy không phải là dễ, để có thể huy động
nguồn vốn này đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi chi nhánh phải không ngừng hoàn
thiện và mở rộng các nghiệp vụ huy động vốn như: mở thêm địa bàn huy động,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo, các cách thức huy động vốn với các
loại thời hạn và các mức lãi suất khác nhau để khách hàng lựa chọn. Bên cạnh
đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng, tạo tâm lý thoải mái
cho khách hàng mỗi khi đến giao dịch với ngân hàng.

24
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Thực tế cho thấy, trong các năm qua (2008-2009) công tác huy động vốn
tiền gửi tiết kiệm đã đạt được những kết quả khả quan. Tính đến 31/12/2008
nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm và thanh toán là 153,547 tỷ đồng,
năm 2009 là 164,317 tỷ đồng, tăng 7,01% so với năm 2008. Đây là một tỷ lệ
chứng tỏ chi nhánh đã sử dụng các biện pháp nhằm huy động nguồn vốn này
một cách đúng đắn, linh hoạt tạo được mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng và
nâng cao uy tín trong hoạt động và phản ánh nỗ lực cố gắng phấn đấu của tập
thể lãnh đạo chi nhánh nói chung và những người làm công tác huy động vốn
nói riêng trong việc khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Huy động vốn từ phát hành giấy tờ có giá

Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá là hình thức huy động
linh hoạt nhằm giải quyết những nhu cầu tức thời, ngân hàng căn cứ căn cứ vào
từng thời điểm để quyết định đưa ra hình thức huy động này một cách chủ
động, có thể huy động vốn ngắn hạn hoặc trung dài hạn. Trong những năm qua,
công tác huy động vốn thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ
tiền gửi của Ngân hàng VCB nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn đã đạt
được kết quả khả quan. Năm 2008 là một năm quan trọng đối với lịch sử VCB
và cũng là năm đầu tiên Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN hoạt động với tư
cách là ngân hàng TMCP. vốn huy động từ kỳ phiếu, trái phiếu là 79 tỷ đồng;
năm 2003 là 189 tỷ đồng, tăng 110 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng trưởng
là 139,2% so với năm 2002 và tính đến 31/12/2004 con số này đã đạt 235 tỷ
đồng, tăng 46 tỷ đồng, tỷ lệ tăng tương ứng là 24% so với cùng kỳ năm trước.
Kết quả này phản ánh sự cố gắng trong công tác huy động vốn đối với hình
thức phát hành giấy tờ có giá của cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh.

2.2.3. Mạng lưới tổ chức huy động vốn

25
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Nguồn vốn huy động tại chỗ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn,
có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của
ngân hàng. Nguồn này đảm bảo cho ngân hàng chủ động trong hoạt động, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của toàn xã hội thông qua việc tập trung
các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vào ngân
hàng để đầu tư vào nền kinh tế, tiết giảm thời gian, chi phí bảo quản và tạo thu
nhập cho người gửi tiền. Trong thời gian qua, VCB đã đẩy mạnh huy động
nguồn tại chỗ thông qua việc mở rộng mạng lưới huy động không những trên
địa thành phố Hà Nội mà còn cả các tỉnh, thành phố khắp cả nước nhằm khai
thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ cho mục tiêu kinh doanh
của ngân hàng. Tạo một mạng lưới kinh doanh rộng khắp ở các khu vực thương
mại-dịch vụ và khu vực đông dân cư là một phương tiện hữu hiệu tăng khả
năng huy động cũng như thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Vietcombank luôn chú trọng đầu tư cho việc phát triển, mở rộng mạng
lưới. Riêng năm 2009, VCB thành lập thêm 7 chi nhánh tại các tỉnh Quảng Trị,
Phú Yên, Bắc Giang, Trà Vinh, Kon Tum..và 48 phòng giao dịch. Hiện tại,
VCB gồm Hội sở chính, 70 chi nhánh và sở giao dịch và 248 phòng giao dịch.

2.3. Đánh giá công tác huy động tại VCB


Để đạt được những kết quả như trên trong tình hình kinh tế có nhiều bất
lợi cho hoạt động huy động vốn , ngân hàng đã thực hiện tốt các công việc sau:
Ngân hàng đã đa dạng hoá các phương thức huy động vốn kết hợp với sử
dụng linh hoạt công cụ lãi suất để thu hút nguồn tiền gửi từ các tầng lớp dân cư,
từ các doanh nghiệp đáp ứng tốt nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, giữ vững và
đảm bảo được độ ổn định về nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh.
- Tiếp tục phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị khách hàng
truyền thống, những đơn vị có nguồn vốn lớn thông qua làm công tác thanh
toán sao cho nhanh chóng và thuận lợi chu đáo. Đồng thời mở rộng quan hệ

26
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

khách hàng mới nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức.
- Khuyến khích các đơn vị điện nước, điện thoại, điểm bán xăng dầu mở
tài khoản, chuyển tiền và thực hiện chi trả lương tại chi nhánh.
- Phân công người theo dõi quản lý đơn vị nguồn vốn để nắm bắt tình
hình các doanh nghiệp, xem tình hình hoạt động của doanh nghiệp, lắng nghe ý
kiến của doanh nghiệp để đưa ra giải pháp phục vụ một cách tốt nhất.
- Thường xuyên theo dõi, phân tích nhằm nắm bắt tình hình biến động
lãi suất cũng như dự báo biến động nguồn vốn trên thị trường, nhằm có kế
hoạch cụ thể điều chỉnh linh hoạt lãi suất cho phù hợp.
- Thực hiện phân tích, lựa chọn và mở rộng màng lưới hoạt động tại các
địa bàn đông dân cư nhằm thu hút tiền gửi nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư theo
định hướng tăng trưởng nguồn vốn lâu dài của ngân hàng. Kết quả hoạt động
của ngân hàng đã chứng tỏ được phần nào uy tín của ngân hàng và nỗ lực của
gần 10.000 cán bộ công nhân viên ngân hàng.
Bên cạnh những thuận lợi và những thành tích đã đạt được thì trong quá
trình hoạt động của ngân hàng Ngoại thương còn gặp phải những vấn đề còn
tồn đọng cần phải tháo gỡ:
- Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế giảm 6% so với năm trước đã làm tăng
lãi suất đầu vào đáng kể của chi nhánh, vì vậy cần phải tiếp tục quan tâm hơn
nữa đến doanh nghiệp có tiền gửi lớn, tạo điều kiện ưu đãi để họ tiếp tục tin
tưởng và giữ vững quan hệ lâu dài với ngân hàng.
- Trong giai đoạn năm 2008- nửa đầu năm 2009 nền kinh tế toàn cầu lâm
vào suy thoái, các ngân hàng cũng không tránh khỏi lao đao trong việc huy
động vốn. Mặt khác, nền kinh tế trong giai đoạn này chứa đựng những yếu tố
biến động khó dự đoán về lạm phát, tỷ giá, lãi suất, phá sản,...Vì vậy, việc gửi
các khoản tiền tiết kiệm có kì hạn ngắn thường được khách hàng lựa chọn để
họ dễ dàng chuyển đổi mục đích sử dụng vốn sang mua vàng, ngoại tệ, ... hơn
là gửi tiết kiệm.

27
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

- Công cụ tài chính chủ yếu để thu hút vốn của ngân hàng Ngoại thương
hiện nay là chứng chỉ tiền gửi dài hạn và trái phiếu nhưng ngân hàng chưa có
thị trường cho phát hành và giao dịch chứng khoán nên những người có vốn
không muốn đầu tư vào những giấy tờ có giá dài hạn khó chuyển đổi thành
tiềm mặt khi cần thiết.
- Về cơ sở vật chất hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng măc dù trong những năm qua đã có sự đầu tư đáng kể
song vẫn có những hạn chế nhất định. Trong thời gian tới ngân hàng vẫn tiến
hành dần từng bước thực hiện chương trình hiện đại hóa NH trên mọi
phương diện: Đổi mới cơ sở vật chất. Mở rộng mạng lưới trang thiết bị, dịch
vụ đông thời với việc đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công
nhân viên.

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG


VỐN TẠI VCB
3.1. Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại VCB
Bước sang năm 2010, năm khởi đầu của chiến lược phát triển 10 năm
đưa Vietcombank trở thành tập đoàn tài chính đa năng nằm trong top 70 các
định chế tài chính lớn nhất châu Á và giữ vị thế hàng đầu tại Việt Nam,
Vietcombank đặt ra phương châm “Tăng tốc – An toàn – Chất lượng – Hiệu
quả” và sẽ “linh hoạt, quyết liệt” trong chỉ đạo điều hành để đạt được những
mục tiêu đặt ra. Đó là: tăng trưởng huy động vốn từ nền kinh tế 23%, tăng
trưởng tín dụng 20%, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, đưa vào áp dụng
chính sách phân loại nợ theo định tính với tỷ lệ nợ xấu không quá 3,5%, đảm
bảo tỷ lệ chi trả cổ tức cho cổ đông như các năm trước và dành lợi nhuận tích
lũy cho mục tiêu tăng trưởng.

28
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

3.2. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại VCB
3.2.1. Hoàn thiện công nghệ ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, sự thành bại phụ thuộc rất lớn
vào công nghệ ngân hàng. Sức mạnh nằm trong tay những ngân hàng đặc
quyền về thông tin, có hệ thống thanh toán hiện đại…Hiện nay, ngành ngân
hàng đã sử dụng công nghệ tin học khá rộng rãi với nhiều loại máy hiện đại, có
một đội ngũ cán bộ chuyên gia về máy tính đông đảo, tạo cơ hội sử dụng tối ưu
nguồn vốn và huy động ngày càng nhiều nguồn. Để bắt kịp với nhịp độ đó,
Ngân hàng VCB cần coi trọng củng cố và kiện toàn phương tiện giải quyết mọi
nhu cầu thanh toán; chuyển từ hình thức bán tự động sang tự động hoàn toàn
một số khâu thanh toán chủ yếu. Nâng cao hiệu suất giao dịch, phục vụ nhanh
và đúng khách hàng trong các khâu thanh toán bù trừ, vận hành thị trường liên
ngân hàng bằng điện tử; tăng cường cung cấp dịch vụ thẻ điện tử (cung cấp
dịch vụ ngân hàng tại nhà, lắp đặt máy rút tiền tự động tại các điểm giao dịch),
thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ
ngân hàng hiện có, chú trọng nghiên cứu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới đáp
ứng nhu cầu được phục vụ ngày càng lớn, đòi hỏi ngày càng cao của khách
hàng. Sẽ làm cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt của chi nhánh được
thực hiện ngày càng tốt hơn, từ đó sẽ thu hút các thành phần kinh tế và các tầng
lớp dân cư mở tài khoản, gửi tiền và sử dụng dịch vụ thanh toán của chi nhánh.
Mặt khác, với việc làm tốt công tác thanh toán sẽ tạo thuận lợi rất lớn cho hoạt
động tín dụng thông qua việc thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều để phục
vụ đầu tư cho vay, phục vụ phát triển kinh tế.
Về quy trình nghiệp vụ, thủ tục, giấy tờ cần cải tiến cho ngày càng đơn
giản dễ hiểu, rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng giúp cho việc thanh
toán nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, đầy đủ, tiết kiệm
thời gian cho cả khách hàng lẫn ngân hàng.

29
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Như vậy, để tăng khả năng cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả thì chi
nhánh cần không ngừng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đổi mới trang thiết
bị, hoàn thiện cơ chế thanh toán trong nội bộ ngân hàng, ứng dụng công nghệ
tin học để quản lý chặt chẽ các nghiệp vụ, trên cơ sở đó giúp cho chi nhánh
sớm hòa nhập vào mạng lưới thanh toán hiện đại.

3.2.2. Mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch


Nền kinh tế càng phát triển, khối lượng công việc ngày càng tăng lên thì
vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để khách hàng có thể đến giao dịch với ngân
hàng mà không mất nhiều thời gian, vì thời gian đang ngày càng trở thành
“vàng bạc” thực sự. Với quỹ thời gian eo hẹp chưa chắc đã đủ cho họ hoàn
thành công việc của mình chứ chưa nói đến việc bỏ ra thời gian để tới với ngân
hàng, thậm chí còn phải chờ đợi cán bộ ngân hàng rất lâu để hoàn tất một
nghiệp vụ (khi đông khách).
Để khuyến khích công chúng gửi tiền, giao dịch nhiều hơn, ngân hàng
cần tiết kiệm và giảm bớt thời gian cho khách hàng thông qua việc bố trí mạng
lưới một cách thích hợp, mở thêm các quỹ tiết kiệm lưu động đi thu tiền gửi tận
nhà, hoặc cơ sở sản xuất, kinh doanh khi dân chúng yêu cầu đặc biệt là tại
những nơi có dự án đầu tư triển khai trên địa bàn để vận động và nhận tiền gửi
dân cư khi họ nhận tiền đền bù từ giải phóng mặt bằng. Đồng thời, nghiên cứu
mở thêm các chi nhánh, quầy giao dịch tại các khu đông dân cư, các trung tâm
thương mại lớn của các thành phố, các thị xã...chính điều này sẽ cho phép ngân
hàng khai thác nguồn vốn với khối lượng lớn trong thời gian dài, mặc dù chi
phí bỏ ra ban đầu là tương đối lớn. Nhưng sự thâm nhập của mạng lưới ngân
hàng, bàn tiết kiệm lưu động vào cộng đồng dân cư sẽ góp phần quan trọng làm
thay đổi tâm lý, tập quán giữ tiền, sử dụng tiền của người dân.

3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn

30
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Ngân hàng tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm huy động, nâng cao hơn nữa
tiện ích thông qua chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm. Về lâu dài ngân
hàng phấn đấu đạt được mục tiêu: bất kì cá nhân tổ chức nào có nguồn tiền
chưa sử dụng, đều có thể tìm kiếm ở ngân hàng một loại hình huy động nào đó
phù hợp với mong muốn của họ. Riêng đối với hình thức huy động tiết kiệm kì
hạn truyền thống, cần có những sửa đổi theo hướng linh hoạt cho phép khách
hàng đó rút tiền trước hạn tong phần, trả lãi định kì với những món gửi lớn,
khách hàng được quyền lựa chọn kì hạn bất kì trong trong giới hạn kì hạn tối đa
của ngân hàng.

3.2.4. Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán
bộ ngân hàng
Nhân tố con người trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có tầm quan
trọng đặc biệt. Nó quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Đối với hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố không thể
thiếu, quyết định nguồn vốn huy động cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Bởi
chính các cán bộ kế toán là người trực tiếp nhận tiền gửi, thanh toán cho khách
hàng... nên đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trình độ chuyên môn cao, có tinh
thần trách nhiệm trong công việc, có phong cách làm việc văn minh, lịch sự,
cách thức giải quyết công việc khoa học. Do vậy, để huy động vốn đạt hiệu quả
cao thì ngân hàng cần chú trọng hơn nữa về cán bộ công nhân viên của mình
thông qua việc thường xuyên đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao trình độ, năng
lực đội ngũ cán bộ công nhân viên nói chung và cán bộ làm công tác nguồn vốn
nói riêng. Cụ thể:
- Cần đào tạo và đào tạo lại có hệ thống cán bộ công nhân viên theo tiêu
chuẩn quy định. Nghĩa là, cán bộ làm công tác huy động vốn phải có kiến thức
về mặt nghiệp vụ như: phải được đào tạo về tin học, về thanh toán không dùng
tiền mặt... cán bộ công nhân viên phải được phổ cập các kiến thức cơ bản về

31
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

vốn, lãi suất, ngoại tệ...để đáp ứng các yêu cầu của công việc ngày càng phức
tạp. Từ đó có khả năng xử lý mọi tình huống công tác một cách thành thạo, giải
đáp được mọi thắc mắc của người gửi tiền, hướng dẫn họ làm đúng thủ tục
nhằm tạo niềm tin nơi khách hàng. Đây là yếu tố đánh vào tâm lý khách hàng,
khi khách hàng cảm thấy thoả mãn, hài lòng thì lần sau có tiền họ tiếp tục gửi
vào và giới thiệu thêm nhiều khách hàng hơn nữa.
- Tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp, tổ chức cán bộ công nhân
viên sao cho phù hợp với trình độ, được bố trí sử dụng đúng chuyên môn với
phong cách làm việc, phẩm chất đạo đức, kỷ luật lao động và có tâm huyết với
nghề nhằm phát huy năng lực sở trường của từng cán bộ.
- Cần trang bị kiến thức Marketting nhằm tạo điều kiện cho mỗi thành
viên trong ngân hàng trở thành một mắt xích trong việc thu thập và xử lý thông
tin, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng. Đặc biệt là những cán bộ thường
xuyên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng thì việc trang bị kiến thức sao cho họ
phải là những cán bộ Marketting tốt nhất, phải luôn biết tận dụng mọi cơ hội để
quảng cáo, giới thiệu về ngân hàng mình, để hình ảnh ngân hàng trở lên gắn bó,
không thể thiếu trong tâm trí khách hàng.
- Cần chú trọng đổi mới phong cách phục vụ khách hàng. Hiện nay, khi
bước vào ngân hàng, khách hàng vẫn còn bỡ ngỡ. Họ đến với ngân hàng chỉ
với một trong hai lý do: Hoặc là đến giao dịch hoặc là đến tìm hiểu ngân hàng
trước khi quyết định trở thành khách hàng của ngân hàng đó. ở một số ngân
hàng có những người lần đầu tiên đến ngân hàng, họ không biết phải đến phòng
nào, bàn nào trước và cần làm những thủ tục gì trong khi đó lại không có người
hướng dẫn, hỏi nhân viên thì có thể nhận được thái độ lạnh lùng, bất cần hay trả
lời hờ hững cho qua chuyện, đôi khi còn cáu gắt, khinh thường...Với thái độ
phục vụ như vậy thử hỏi khách hàng có còn tìm đến ngân hàng nữa hay không?
Từ đó cho thấy thái độ, phong cách phục vụ của nhân viên ngân hàng là rất
quan trọng. Vì vậy, tất cả các NHTM nước ta hiện nay và Chi nhánh NHCT Ba

32
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

Đình nói riêng, tuy phong cách phục vụ khách hàng đã được cải thiện rất nhiều
nhưng vẫn cần phải đổi mới hơn nữa, nhất là những nhân viên tiếp xúc thường
xuyên, trực tiếp và hàng ngày với khách hàng. Hơn ai hết, họ là bộ mặt, là hình
ảnh của ngân hàng, do vậy, phải thực sự nhiệt tình, vui vẻ, lịch sự, tận tâm, biết
lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, có trình độ chuyên môn vững vàng
và có phong cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, tận tình, chu đáo...tạo ra sự
đồng cảm và lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng, làm cho khách hàng
cảm thấy mình rất quan trọng đối với ngân hàng, thấy mình đang thực sự được
là “thượng đế”, hãnh diện khi bước vào ngân hàng. Để từ đó, ngân hàng sẽ
ngày càng thu hút được nhiều người đến gửi tiền và sử dụng các dịch vụ khác
của ngân hàng, giúp ngân hàng nâng cao vị thế cạnh tranh và mở rộng thị phần.
- Ngân hàng cũng cần phối hợp với trung tâm đào tạo tin học nâng cao,
tổ chức các lớp học ngoại ngữ, phối hợp với Trung tâm thông tin trong việc
nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đảm bảo vận hành hệ thống vi tính đạt
hiệu quả.
- Cần đẩy mạnh công tác tự đào tạo trong nội bộ ngân hàng, trong nội bộ
phòng để các thành viên bổ trợ thêm kiến thức chuyên môn và của những bộ
phận công việc liên quan để hỗ trợ nhau, nâng cao hiệu quả trong công việc.
Để làm tốt những công việc trên, ngân hàng nên có chế độ quan tâm,
khuyến khích thích đáng bằng lợi ích và vật chất đối với cán bộ thực sự có
thành tích trong hoạt động của ngân hàng và trong trong công tác huy động vốn
nói riêng.

3.2.5. Phát huy hiệu quả chiến lược Marketing Ngân hàng
Một công tác không kém phần quan trọng trong chiến lược huy động vốn
của ngân hàng là chính sách Marketting, trong đó nổi bật là hoạt động quảng
cáo, khuyếch trương, tuyên truyền thông tin. Đây là việc làm ngân hàng đương
nhiên phải thực hiện để có thể đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường

33
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

cạnh tranh gay gắt về lĩnh vực cung ứng các sản phẩm tài chính ra quảng đại
quần chúng. Ngoài việc mở rộng phạm vi hoạt động và chuyển tải các thông tin
về ngành ngân hàng; quảng cáo, khuyếch trương trong huy động vốn, nhất là
huy động tiết kiệm còn có ý nghĩa tuyên truyền ý thức tiết kiệm cho người dân,
tạo cơ sở tập trung được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng nhằm thực
hiện các chương trình đầu tư, phát triển đất nước, mà trước hết là phát triển
nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn, cải thiện đời sống và tri thức người nông
dân.
Trong thời gian qua, chi nhánh đã ý thức rõ vai trò to lớn của công tác
Marketting nói chung và hoạt động tuyên truyền, quảng cáo nói riêng nên đã
không ngừng đẩy mạnh công tác này, nghiên cứu áp dụng vào thực tế những
biện pháp quảng cáo, khuyếch trương mới, phù hợp với tâm lý và sở thích
người dân. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập ngân hàng ngày càng cao, mức
độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt, bên cạnh việc không ngừng nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh, đầu tư sinh lời, ngân hàng cần phải coi trọng hơn
nữa chính sách khuyếch trương, quảng cáo – một bộ phận quan trọng của chiến
lược Marketting. Cụ thể:
- Ngân hàng thường xuyên cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động
tài chính, báo cáo tài chính kiểm toán...thông qua các ấn phẩm, truyền thanh,
truyền hình để dân chúng biết cụ thể hơn về khả năng hoạt động và các dịch vụ
của chi nhánh cũng như lợi ích mà nó sẽ đem lại cho khách hàng. Từ đó tạo ra
cho khách hàng một cái nhìn tổng quát và chi tiết hơn về hoạt động của hệ
thống ngân hàng nói VCB, tăng lòng tin của họ và họ sẽ gửi tiền nhiều hơn.
- Để khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng biết thêm
thông tin một cách thực tế hơn, ngân hàng nên khuyến khích họ tham gia vào
các buổi nói chuyện, thuyết trình giới thiệu về hoạt động của ngân hàng, đặc
biệt là các sản phẩm huy động vốn tại các cơ quan, xí nghiệp, trường học hay
đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng... Qua đó làm cho mọi người dân

34
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

thấy được các ưu điểm của việc gửi tiền và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng,
đó là tính an toàn, tiện dụng, khả năng sinh lời.
- Tuy nhiên chỉ tuyên truyền, quảng cáo là không đủ, muốn tạo lòng tin
trong dân thì phải chứng minh bằng thực tế các ưu điểm của ngân hàng và các
dịch vụ ngân hàng. Tại các địa bàn hoạt động mới, nơi người dân chưa quen
với việc mở tài khoản tại ngân hàng, ngân hàng nên làm thí điểm việc mở tài
khoản tiền gửi cá nhân ở một số cơ quan, xí nghiệp; Khuyến khích một số cơ
quan mở tài khoản cá nhân cho cán bộ và trả lương qua các tài khoản này một
cách miễn phí. Nếu ngân hàng thành công trong thí điểm thì chẳng những đã
tạo được lòng tin trong dân chúng mà chính những người tham gia thí điểm này
sẽ là những quảng cáo viên tốt nhất cho ngân hàng.
Cùng với việc tăng cường tuyên truyền, quảng cáo thì khuyến mãi là
công cụ hỗ trợ đắc lực để hoạt động tuyên truyền, quảng cáo đạt hiệu quả cao.
Để thu hút ngày càng nhiều vốn, ngân hàng nên áp dụng các hình thức khuyến
mãi đa dạng, tạo sự thích thú nơi khách hàng, khách hàng không những được
hưởng mức lãi suất mà còn được hưởng sự ưu đãi do khuyến mãi đem lại như:
tham dự hình thức quay xổ số dự thưởng theo số sổ hoặc seri, sổ chứng từ có
giá, áp dụng lãi suất ưu đãi hoặc khuyến khích vật chất đối với những khách
hàng duy trì giao dịch thường xuyên với ngân hàng như tặng quà vào những dịp
đặc biệt (Lễ, Tết, ngày sinh nhật...), tài trợ cho các phong trào văn nghệ, thể
thao, làm công tác từ thiện...nhằm gây ảnh hưởng, nâng cao uy tín của ngân
hàng sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư.
Như vậy, ngân hàng cần vận dụng một cách linh hoạt có sáng tạo các
giải pháp khuyếch trương, quảng cáo trên đây, sẽ tăng khả năng huy động vốn,
đồng thời tạo ra ưu thế cạnh tranh của ngân hàng về mọi mặt hoạt động.

3.2.6. Gắn liền huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu quả
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, giữa nguồn vốn và sử dụng vốn

35
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

có mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ, hỗ trợ, chi phối lẫn nhau. Nguồn vốn là
cơ sở, tiền đề để ngân hàng thực hiện đầu tư, cho vay. Chỉ khi ngân hàng tiến
hành đầu tư, cho vay thì đồng vốn mới sinh lời. Do đó, sử dụng vốn là căn cứ
quan trọng để ngân hàng quyết định khối lượng, cơ cấu nguồn vốn cần huy
động. Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là một cách tạo vốn và phát
triển vốn một cách vững chắc nhất, vì khi đồng vốn đầu tư, cho vay phát huy
hiệu quả làm cho kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên và nhờ đó
ngân hàng có thể thu hút nguồn vốn ngày càng lớn. Ngân hàng cần đặc biệt
quan tâm và làm tốt công tác quản lý, sử dụng vốn với phương châm: Việc mở
rộng tín dụng phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn và
tăng trưởng vốn. Để thực hiện được phương châm trên thì:
- Ngân hàng phải bám sát định hướng phát triển kinh doanh của Hội
đồng quản trị, các giải pháp điều hành của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam. Thường xuyên tiếp cận, bám sát các dự án lớn thuộc
mục tiêu chiến lược của Chính phủ để có thể đưa ra các giải pháp hữu hiệu
phục vụ công tác đầu tư có hiệu quả.
- Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với khách hàng với phương châm: Lắng
nghe ý kiến đề xuất từ các đơn vị, nắm bắt chính sách khách hàng của các tổ
chức tín dụng khác trên địa bàn, từ đó chỉnh sửa kịp thời những kiến nghị của
khách hàng trên quan điểm bình đẳng, hiệu quả và an toàn kinh doanh.
- Tiến hành phân loại khách hàng để đưa ra định hướng đầu tư cho từng
nhóm khách hàng cụ thể.
- Đổi mới, nâng cao trang thiết bị hoạt động ngân hàng, hiện đại hoá hệ
thống thông tin quản lý sao cho có khả năng cung cấp kịp thời, chính xác các
tín hiệu của thị trường để từ đó Phòng kinh doanh đưa ra chiến lược sử dụng
vốn phù hợp, đáp ứng mục tiêu kinh doanh.
- Thường xuyên, tăng cường làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát, bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cán bộ tín dụng, giáo dục phẩm chất, đạo đức,

36
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

phong cách cán bộ, đồng thời phải bố trí sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực
chuyên môn, sở thích từng người, quán triệt nguyên tắc an toàn trong kinh
doanh.
Thực hiện tốt những giải pháp này sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của
ngân hàng, việc sử dụng vốn có hiệu quả thúc đẩy quan hệ giữa ngân hàng với
khách hàng, tạo cho ngân hàng ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch
và gửi tiền với số lượng lớn. Từ đó, góp phần tăng cường quy mô và chất lượng
nguồn vốn huy động.

3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại VCB
3.3.1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước
Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn của ngân hàng VCB chỉ có
thể thực hiện tốt nếu điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường pháp lý ổn định,
khẳng định vai trò to lớn của Nhà nước và Chính phủ đối với hoạt động ngân
hàng.
 ổn định môi trường kinh tế vĩ mô:
Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm nhiều yếu tố bao trùm tới toàn bộ
hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế như: tăng trưởng kinh tế, lạm
phát, thâm hụt cán cân thanh toán, chính sách tỷ giá... Chúng có tác động to lớn
đến hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn của ngân hàng
nói riêng. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô thì Nhà nước cần có những việc
làm cụ thể sau:
Phối hợp với các cơ quan chức năng của mình đảm bảo điều tiết một nền
kinh tế phát triển ổn định, tránh các đột biến làm giảm bất thường giá trị đồng
tiền, đặc biệt là các khoản tiền gửi tại ngân hàng, dù là dưới hình thức nào.
Thông qua việc kiểm soát tốc độ lạm phát, Nhà nước đã góp phần bảo đảm sức

37
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

mua của đồng tiền không bị suy giảm, nghĩa là giá trị thực tế ổn định làm cho
người dân tin tưởng vào đồng tiền, vì một người sẽ không ngần ngại gửi một
món tiền vào ngân hàng khi họ tin tưởng rằng sau thời gian nhất định sẽ thu về
khoản tiền có giá trị cao hơn so với giá trị gửi trước kia. Mặt khác, thông qua
việc xác định tỷ giá hợp lý sẽ giảm thiểu hiện tượng đầu cơ ngoại tệ... thu hẹp
phạm vi hoạt động của ngoại tệ, mở rộng phạm vi lưu hành VND góp phần vào
việc kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả và chính xác, xây dựng lãi suất phù
hợp và giữ vững ổn định tiền tệ.
 Tạo lập môi trường pháp lý ổn định.
Hoạt động của NHTM vẫn nằm trong môi trường pháp lý do Nhà nước
quy định, chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh doanh ngân hàng;
Đòi hỏi Nhà nước phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của mình xây
dựng được môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ, bảo vệ người gửi tiền, nghĩa
là các điều khoản của Luật, Bộ luật liên quan, cũng như các văn bản pháp quy
ngang hoặc dưới luật hiện hành phải đảm bảo số tiền khách hàng gửi vào ngân
hàng được bảo toàn và tăng trưởng. Việc ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ,
rõ ràng sẽ tạo niềm tin cho dân chúng, đồng thời với những quy định khuyến
khích của Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa
người tiêu dùng và người tiết kiệm, chuyển một phần tiêu dùng sang đầu tư,
chuyển dần cất trữ dưới dạng vàng, ngoại tệ, bất động sản sang đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh hay gửi tiền vào ngân hàng.
 ổn định môi trường xã hội.
Đối với nước ta hiện nay, việc huy động vốn của các ngân hàng bị ảnh
hưởng bởi yếu tố tâm lý của người dân, đặc biệt thói quen giữ tiền ở nhà, mua
vàng tích trữ, dường như với họ như thế an toàn hơn, tiện dụng hơn vì khi nào
cần tiền họ sẵn sàng bán đi nhanh chóng còn nếu gửi ngân hàng thì khi rút ra sẽ
không tiện vì một số thủ tục, giấy tờ và không có lợi vì rút trước hạn. Chính vì

38
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

vậy Nhà nước cần có biện pháp tích cực nhằm khuyến khích động viên người
dân gửi tiền và chi tiêu qua tài khoản mở tại ngân hàng, nên có quyết định bắt
buộc các cán bộ thuộc cơ quan Nhà nước phải mở tài khoản và sẽ được trả
lương qua tài khoản đó... để có thể thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi
trong dân cư vào ngân hàng. Bên cạnh đó, Nhà Nước cần có chính sách phát
triển kinh tế đúng đắn, từ đó, nâng cao đời sống và thu nhập của người dân để
họ có thể tăng tích luỹ và sẽ gửi tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều hơn.

3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia
với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định cán cân
thanh toán và giảm thất nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển xã hội, nâng cao
đời sống người dân. Do đó Ngân hàng Nhà nước cần thực thi chính sách tiền tệ
đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh thực tế từng thời kỳ giúp người dân yên tâm
gửi tiền vào ngân hàng. Khi nền kinh tế ổn định, giá trị đồng tiền không biến
động lớn và có thể kiểm soát được, người dân có thu nhập ổn định hơn, họ sẽ
gửi tiền vào ngân hàng với tâm lý thoải mái, khi đó ngân hàng có cơ hội thu hút
nhiều nguồn vốn hơn đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư sinh lời. Mặt khác, Ngân
hàng Nhà nước cần chú trọng và nâng cao quản lý ngoại hối một cách có hiệu
quả vì nó tác động ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ
mô của Chính phủ và đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Có quản lý ngoại
hối hiệu quả thì mới ổn định tiền tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát. Có như vậy, làm mới góp phần làm nền kinh tế phát triển, nâng cao mức
sống của người dân và người dân sẽ có nhiều tiền gửi vào ngân hàng hay tạo
cho mọi người tâm lý yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường hoạt động thanh kiểm tra, giám sát
các NHTM để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn ngành ngân

39
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

hàng. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
cho các NHTM để họ có thể tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh hiện
tại cũng như triển khai áp dụng trong tương lai.

3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Vietcombank


Thứ nhất, luôn có cơ chế lãi suất cạnh tranh linh hoạt: Lãi suất là yếu tố
quan trọng giúp các ngân hàng hấp dẫn được khách hàng đến gửi tiền. Bởi vì
hầu hết người có tiền tâm lý muốn đem gửi ngân hàng, trước hết họ sẽ so sánh
lãi suất huy động mà các ngân hàng đưa ra xem nơi nào hơn, kế đến mới là vấn
đề an toàn tiền gửi cho họ cũng như các dịch vụ tiện ích mà họ được hưởng.
Nếu khách hàng đánh giá các ngân hàng có cung hệ số an toàn và các dịch vụ
tiện ích như nhau, họ sẽ chọn ngân hàng nào trả cho họ lãi suất cao hơn. Điều
này họ có thể dễ dàng tìm hiểu và nắm bắt khi các phương tiện thông tin đại
chúng ngày càng trở nên thông dụng và phổ biến ở nước ta (điện thoại, báo chí,
thông tin kinh tế trên truyền hình…).
Để thực hiện cơ chế lãi suất huy động cạnh tranh, ngân hàng phải thường
xuyên theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên cùng địa bàn hoạt
động để có các quyết định điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mặt bằng lãi
suất trên thị trường và đặc điểm riêng của ngân hàng. Ngân hàng cũng cần quan
tâm đến lãi suất tín phiếu kho bạc bởi vì trên thực tế kho bạc thường phát hành
tín phiếu trả lãi cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại do
kho bạc có được thuận lợi là không bị khống chế lãi suất trần.
Thứ hai, ngân hàng cần đa dạng các kì hạn gửi tiền với nhiều mức lãi suất
khác nhau. Các nguồn tiền nhàn rỗi, tiền để dành của người dân rất đa dạng,
nếu ngân hàng chỉ huy động với các kì hạn 3-6-9-12 tháng… thì với những
khoảng thời gian nhàn rỗi của đồng tiền không khớp với những kì hạn huy
động của ngân hàng sẽ không khuyến khích các khách hàng dến giao dịch với
ngân hàng,. Chẳng hạn như người có tiền nhàn rỗi trong 2 tháng nhưng ngân

40
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

hàng chỉ huy động kì hạn tối thiểu là 3 tháng, vì thế khách hàng không gửi kì
hạn được. Mặc dù khàch hàng có thể chọn cách gửi không kì hạn nhưng vì lãi
suất không kì hạn thấp hơn lãi suất kì hạn nên tạo ra sự bất lợi cho khách hàng.
Tuy nhiên, việc đa dạng hóa các kì hạn gửi tiền sẽ làm cho công việc giao
dịch, quản lý, lưu trữ hồ sơ của ngân hàng trở nên phức tạp hơn nhưng không
phải không thực hiện được. Trước đây đã có ngân hàng nhận tiền gửi cho tất cả
các kì hạn từ 1 đến 12 tháng và hiện cũng có ngân hàng nhận tiền gửi của
khách hàng với bất kì kì hạn nào trên 12 tháng.Đa dạng hóa các kì hạn tiền gửi
với các mức lãi suất khác nhau theo nguyên tắc kì hạn càng dài thì lãi suất huy
động càng cao.
Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức thanh toán. Khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng với vì nhiều mục đích khác nhau, có người vì mục đích an toàn, có
người chủ yếu để lấy lãi tiêu xài hàng tháng như các đối tượng là cán bộ hưu
trí, sinh viên…có người dư dả gửi tiền để đồng vốn ngày càng được sinh sôi,
nảy nở. Vì thế họ chọn cách tính lãi cuối kì, lãi suất cao hơn rút lãi trước và rút
lãi hàng tháng. Hiện nay đa số các ngân hàng đang áp dụng 2 hình thức trả lãi
trước và trả lãi cuối kì. lý do theo các ngân hàng là để đơn giản cho công tác
huy động vốn, ổn định được vốn hoạt động, trên cơ sở đó các ngân hàng dễ cân
đối được kế hoạch huy động và sử dụng vốn. Tuy nhiên phải thấy rằng, mục
tiêu của ngân hàng hiện nay là tranh thủ, thu hút và khai thác tối đa mọi nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội, kể cả với số lượng nhỏ. Do đó trong thời gian tới,
cần duy trì thường xuyên hình thức trả lãi hàng tháng như đã từng làm trước
đây để thõa mãn được nhiều mục đích của người gửi tiền và qua đố thu hút
được ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Thứ tư, khuyến khích bằng lợi ích vật chất: Khi khách hàng gửi tiền,
ngoài việc so sánh lãi suất huy động nơi nào cao hơn còn quan tâm đến những
lợi ích vật chất mà họ nhận được. Chẳng hạn như vì lí do nào đó khách hàng
cần rút vốn trước hạn để giải quyết các nhu cầu chi tiêu tài chính nhưng không

41
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

được ngân hàng cho rút trước hạn hoặc cho rút trước hạn nhưng không trả lãi sẽ
gây tâm lý khó chịu và ấn tượng không tốt của khách hàng đối với ngân hàng,
nhiều khi dẫn đến những tranh cãi không hay. Do đó trong thời gian tới, ngân
hàng cần áp dụng hình thức nhận cầm sổ tiết kiệm và cho phép khách hàng
chiết khấu kì phiếu do ngân hàng phát hành. Ngân hàng cũng có thể nghiên cứu
để từng bước chuyển sang trả lãi bằng lãi suất tiền gửi có kì hạn. Cụ thể là: Khi
khách hàng cần rút vốn trước hạn, ngân hàng sẽ trả lãi cho khách hàng bằng lãi
suất tiền gửi có kì hạn của kì hạn nào cao nhất mà khách hàng đã gửi được,
cộng với lãi suất tiền gửi không kì hạn của số ngày (tháng) lẻ. Chẳng hạn như
một khách hàng gửi tiết kiệm 6 tháng nhưng đến tháng thứ 5 khách hàng xin rút
trước hạn, ngân hàng sẽ trả lãi kì hạn 3 tháng cho khách hàng cộng với lãi suất
không kì hạn của 3 tháng. Điều này sẽ khắc phục được nhược điểm của quy
định không cho phép khách hàng rút vốn trước hạn hoặc cho rút vốn trước hạn
nhưng không trả lãi hoặc trả bằng lãi suất tiền gửi không kì hạn đối với những
trường hợp thời hạn đã gửi gần đến ngày đáo hạn nhưng khách hàng xin rút vốn
trước hạn. Khi đó nếu ngân hàng không cho rút vốn trước hạn hoặc cho rút
nhưng không trả lãi sẽ gây thiệt thòi cho khách hàng, còn nếu ngân hàng trả lãi
bằng lãi suất tiền gửi không kì hạn thì tiền lãi tính ra không được bao nhiêu so
với những trường hợp khách hàng chọn gửi kì hạn thấp hơn. Hệ quả tất yếu là
lần sau khách hàng có thể không chọn gửi tiền tại ngân hàng hoặc chọn kì hạn
ngắn hơn để gửi. Điều này mâu thuẫn với mục tiêu kế hoạch và biện pháp tăng
dần tỷ trọng vốn huy động trung dài hạn của ngân hàng.
Thứ năm, định kì quảng cáo và niêm yết công khai đầy đủ lãi suất, thể lệ
gửi tiền tiết kiệm. Việc quảng cáo sẽ có tác dụng gây chú ý cho khách hàng về
hình ảnh của ngân hàng để họ có sự so sánh và chọn lựa. Mặt khác, không phải
ai cũng am tường hết mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng như các chính sách
khuyến khích, ưu đãi mà họ được hưởng. Nhất là với những khách hàng do
trình độ học vấn chưa cao và với những khách hàng mới lần đầu đến gửi tiền tại

42
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

ngân hàng. Bảng niêm yết đầy đủ, công khai các tiện ích, dễ hiểu sẽ tạo cho
khách hàng tâm lý thoải mái dễ chịu và đơn giản trong thủ tục gửi tiền, hơn nữa
sẽ giúp cho khách hàng tìm thấy được một cơ hội hấp dẫn để gửi tiền cho ngân
hàng mà các ngân hàng khác không có được.
Trụ sở khang trang, tác phong giao tiếp lịch thiệp, tận tình hướng dẫn khách
hàng cũng là nhân tố quyết định đến thành công trong kinh doanh của ngân
hàng. Trong thời buổi cạnh tranh hiện nay, ngân hàng nào giải quyết tốt được
mặt này sẽ có lợi thế trong việc thu hút khách hàng đến giao dịch với ngân
hàng.
Kết luận
Vốn huy động của các ngân hàng thương mại là một nhân tố quan trọng trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong hoàn cảnh nước ta có nền
kinh tế kém phát triển và khoa học kĩ thuật còn lạc hậu so với thế giới thì nguồn
vốn này lại càng đặc biệt quan. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với
xây dựng một thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả, trở thành công cụ
phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, thông qua chức năng là trung
gian luân chuyển và huy động vốn cho đầu tư phát triển. Là nhân tố chính trong
thị trường tài chính ngân hàng thương mại bằng mọi biện pháp phải đẩy mạnh
huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phục vụ cho đầu tư phát triển, đặc biệt
là nguồn vốn trung và dài hạn, bởi đây là nguồn vốn sử dụng cho đầu tư lâu dài
và khả năng luân chuyển vốn lớn. Với việc nghiên cứu đề tài tăng cường huy
động vốn của ngân hàng thương mại và cụ thể là ngân hàng VCB, em đã nhận
thức được vai trò to lớn của huy động nguồn vốn của ngân hàng thương mại đối
với nền kinh tế. Trong thời buổi cạnh tranh huy động vốn của các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng ngày càng gay gắt như hiện nay thì việc đưa ra những giải
pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn thực sự có hiệu quả trong các
ngân hàng luôn là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược kinh doanh của các
ngân hàng. Trong hơn 15 năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại luôn đóng

43
Báo cáo thực tập Nguyễn Bá Sơn

vai trò chủ yếu trong việc huy động vốn trong nền kinh tế, với mức tăng tổng
nguồn vốn huy động hàng năm bình quân tăng tới 23-27%. Điều đó cho thấy rõ
vai trò của ngân hàng thương mại trong việc huy động và tập trung các nguồn
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nói riêng và sự ổn định và phát triển kinh tế của
Việt Nam nói chung.

44

You might also like