Professional Documents
Culture Documents
So sánh vận đơn truyền thống và vận đơn đường biển điện tử
Vận đơn truyền thống
(VĐTT) Vận đơn đường biển điện tử
(VĐ ĐT)
Hình thức VĐTT thường được các công ty vận tải in sẵn theo mẫu riêng
gồm hai mặt. Một bộ vận đơn thông thường bao gồm 3 bản vận đơn gốc và
các bản copy VĐ ĐT là một thông điệp điện tử, do vậy nó không có khái
niệm mặt trước, mặt sau. VĐ ĐT chỉ có một bản chứ không phát hành 3 bản
gốc như VĐTT
Nội dung Mặt thứ nhất của VĐTT ghi các thông tin về người gửi hàng,
người chuyên chở, tàu chuyên chở và hàng hóa được chuyên chở.
Mặt thứ hai in các điều khoản chung qui định quyền và nghĩa vụ của các bên
liên quan VĐ ĐT có đầy đủ nội dung của một vận đơn đường biển mặc dù
nó không chia thành mặt trước, mặt sau. Những qui định chung về quyền và
nghĩa vụ của các bên được qui định riêng tại mục “Điều khoản và điều kiện”
tách rời bản ghi nội dung của VĐ ĐT
Ngoài ra, VĐ ĐT còn có một số yếu tố khác như mật khẩu, mã khoá v.v…
nhằm đảm bảo an toàn và tính bảo mật của VĐ ĐT
Nguồn luật điều chỉnh Hiện nay tồn tại 3 nguồn luật điều chỉnh VĐTT:
1. Công ước Brussel 1924 và 2 nghị định thư sửa đổi vào năm 11968 và vào
năm 1979
2. Công ước Hamburg 1978
3. Quy tắc Hage-Visby
4. Luật điều chỉnh hoạt động chuyên chở hàng hoá của các nước. Tuỳ thuộc
vào loại VĐ ĐT mà có nguồn luật điều chỉnh, tuy nhiên trên thực tế có 3
nguồn luật điều chỉnh:
5. Incoterms 2000
6. Qui tắc CMI
7. Qui tắc về vận đơn Belero
8. Luật điều chỉnh hoạt động chuyên chở hàng hoá của các nước.
+ Nội dung của Vận đơn Bolero (B.B/L): có nội dung cơ bản giống như vận
đơn truyền thống do người chuyên chở cấp cho người gửi hàng. B.B/L có
thể bị ghi chú sạch hay không sạch (clean or unclean), hàng đã xếp lên tàu
hay nhận để xếp phù hợp với tập quán hàng hải quốc tế. B.B/L có thể bao
gồm các điều khoản và điều kiện chung của người chuyên chở.
+ Điểm khác biệt so với vận đơn truyền thống là B.B/L không có phần ghi
tên người chuyên chở, người gửi hàng, những người được chuyển nhượng
khác, đồng thời người chuyên chở không trực tiếp ký vào B.B/L mà ký bằng
chữ ký kỹ thuật số vào bức thông điệp trong đó có chứa B.B/L khi người
chuyên chở gửi đến trung tâm xử lý B.B/L.
Một số ưu điểm của Vận đơn điện tử
+ Tiết kiệm thời gian : Phương thức lưu chuyển vận đơn truyền thống
thường kéo dài nhiều ngày thậm chí là nhiều tuần, tuỳ thuộc vào khoảng
cách địa lý giữa các bên và tốc độ kiểm tra chứng từ của các ngân hàng.
Trong nhiều trường hợp khi quãng đường chuyên chở hàng hoá không dài
cộng thêm việc tốc độ chuyên chở ngày càng nhanh chóng, hàng hoá đến
cảng trước khi vận đơn được chuyển cho người nhận hàng, do đó người
nhận hàng không có vận đơn để nhận hàng từ người chuyên chở. Với vận
đơn đường biển điện tử, việc lưu chuyển chỉ mất vài giờ, do vậy, người nhận
hàng luôn được đảm bảo vận đơn đến trước hàng hoá. Trong thời đại ngày
nay, việc tiết kiệm thời gian là vô cùng quan trọng, nhất là đối với các mặt
hàng mang tính mùa vụ nên việc sử dụng vận đơn đường biển điện tử có ý
nghĩa rất quan trọng.
+ Tiết kiệm chi phí: Vận đơn đường biển điện tử là các bản ghi điện tử do
đó, việc tạo lập, sử dụng, lưu chuyển hay xuất trình đều được tiến hành
thông qua hệ thống điện tử viễn thông. Điều này đã giúp người sử dụng vận
đơn cũng như những người liên quan khác tiết kiệm được chi phí in ấn, phát
hành và lưu trữ vận đơn.
+ Bảo mật: Khi tạo lập vận đơn đường biển điện tử, người lập sẽ được cấp
mă khoá kép mà chỉ có người chủ sở hữu vận đơn, người chuyên chở và các
cơ quan trung gian trong việc lưu chuyển vận đơn đường biển điện tử là nắm
được mã khoá cũng như nội dung của vận đơn, do vậy đảm bảo được tính
bảo mật của vận đơn. Trong khi đó, những thông tin của vận đơn truyền
thống dễ bị lộ hơn nữa khi bị thất lạc, điều này không bao giờ có thể xảy ra
đối với vận đơn đường biển điện tử.
+ Phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật: Cuộc cách mạng
khoa học công nghệ đang bùng nổ trên khắp thế giới đặc biệt là cuộc cách
mạng về công nghệ thông tin với các phương tiện điện tử như Internet, Fax,
trao đổi dữ liệu điện tử EDI. đã và đang tác động và làm thay đổi cuộc sống
của con người theo hướng ngày càng nâng cao điều kiện sống và sinh hoạt.
Trong khi đó nếu sử dụng vận đơn truyền thống sẽ không ứng dụng được
những thành tựu của công nghệ tin học. Do vậy, vận đơn đường biển điện tử
ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với xu thế phát
triển khách quan của thời đại.
3.2.2.3.. Nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biển điện tử
i. Incoterms2000
ICC đã tiên liệu sự phát triển của EDI và đưa ra các qui tắc diễn giải mới.
Điều 8A và 8B Incoterms 2000 đề cập tới giá trị hiệu lực của thông tin điện
tử: “ở nơi nào người mua và người bán thoả thuận liên lạc bằng điện tử thì
có thể dùng thoả thuận trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange
agreement) có giá trị tương đương thay cho chứng từ thông thường.
Vì thế các bên cần phải thoả thuận sẽ sử dụng các thông điệp điện tử thay
thế các chứng từ vận tải thông thường trong đó bao gồm cả vận đơn truyền
thống.
ii. Qui tắc của CMI đối với vận đơn đường biển điện tử
Điểm đáng chú ý của qui tắc này là áp dụng đối với vận đơn phải được kiểm
tra. Những qui tắc này đã được tổ chức CMI soạn thảo tại Paris vào tháng 6/
1990. Và các qui tắc của CMI không mang tính chất bắt buộc. Do vậy, các
bên phải thoả thuận các qui tắc này và trên cơ sở đó thống nhất với hợp đồng
chuyên chở. Điều 1 nêu rõ: “ Qui tắc này áp dụng bất kỳ lúc nào các bên
chấp nhận.” Nếu các bên quyết định chuyển từ vận đơn CMI sang vận đơn
giấy tờ thì mã khoá riêng sẽ mất hiệu lực.
Điểm mấu chốt của qui tắc CMI chính là sự ra đời của vận đơn đường biển
điện tử. Các qui tắc này không nhằm mục đích điều chỉnh về EDI nói chung
và vận đơn nói riêng trên cơ sở toàn diện. Do đó, các qui tắc này không
nhằm để thay thế luật thực chất áp dụng cho vận đơn.
iii. Quy tắc Bolero. Tuỳ thuộc vào loại vận đơn đường biển điện tử mà có
nguồn luật điều chỉnh như khi sử dụng vận đơn Bolero thì sẽ phải theo các
qui tắc do Bolero International Limited đưa ra (Bolero rulebook - chủ yếu
cũng dựa trên qui tắc của CMI).
3.2.2. Quy trình sử dụng Vận đơn điện tử
Thông thường, quy trình xử dụng hệ thống điện tử để thuê tàu được tiến
hành như sau:
i. Đăng ký khách hàng (Customer Registry)
Trước khi tiến hành đăng ký thuê khoang tàu thì người gửi hàng phải đăng
ký mã tài khoản khách hàng (Customer ID) với hãng tàu. Sau khi vào trang
web của một hãng tàu mà người gửi hàng muốn thuê lưu cước, chọn nút “
Registry”. Sau đó, trên trang chủ sẽ hiện ra trang đăng ký khách hàng.
Người gửi hàng điền các thông tin cá nhân vào mẫu đăng ký và gửi nó bằng
cách nhấn chuột vào nút “OK”. Sau khi kiểm tra lại các thông tin đã điền,
nhấn chuột vào nút “Submit” để hoàn thành việc đăng ký. Sau 48 tiếng, hãng
tầu sẽ thông báo kết quả đăng ký cùng với hướng dẫn tải (download) chứng
chỉ kỹ thuật số (digital certificate).
ii. Đăng ký thuê lưu cước tàu trực tuyến (Online booking)
Sau khi nhập mã tài khoản khách hàng (Customer ID), nhấn chuột vào nút
Bookings. Sau đó, người gửi hàng tiến hành tạo một tờ khai thuê lưu cước
mới thông qua nút “Create Booking”.
- Trang “Create Booking” bao gồm 4 mục:
+ Booking homepage
+ Booking Details (Thông tin trên tờ lưu cước)
+ Cargo Details (Chi tiết về hàng hoá)
+ Finish (Hoàn thành việc đăng ký)
- Người gửi hàng sử dụng các mục: Booking Details, Cargo Details và
Finish để hoàn thành việc gửi giấy thuê lưu cước.
Ngoài những chi tiết cần điền giống như giấy lưu cước trong phương thức
thuê tàu chợ truyền thống, thì những chi tiết trong phương thức này còn bao
gồm:
+ Địa chỉ e-mail của các bên
+ Những số tham chiếu (Reference Numbers) do hãng tàu áp cho từng người
gửi hàng và từng lần gửi hàng.
+ Mã con tàu
- Sau khi điền đầy đủ thông tin ở hai mục Booking Details và Cargo Details,
người gửi hàng nhấn chuột vào nút “Finish” để hoàn thành. Sau khi kiểm tra
lại các thông tin đã điền, nhấn chuột vào nút “Send” để gửi giấy thuê lưu
cước.
iii. Hãng tàu sẽ trả lời yêu cầu thuê lưu cước trong vòng 48 giờ làm việc,
cùng các chi tiết hướng dẫn việc vận chuyển hàng ra cảng.
iv. Người gửi hàng theo đúng hướng dẫn của hãng tàu, vận chuyển hàng ra
cảng và giao cho người chuyên chở.
v. Người chuyên chở nhận hàng, kiểm tra. Sau đó gửi bức thông điệp tới hệ
thống Bolero để yêu cầu tạo lập vận đơn đường biển điện tử. Người gửi
hàng sẽ nhận được vận đơn điện tử thông qua hệ thống Bolero.
3.2.3. Những vấn đề cần lưu ý khi áp dụng thương mại điện tử trong
vận tải, giao nhận
+ Chữ ký trong vận đơn đường biển điện tử
Vận đơn đường biển điện tử được ký bởi đại diện của người chuyên chở tại
cảng xếp hàng. Khi đó xác nhận được số lượng và tình trạng của hàng hoá
xếp lên tàu, chủ tàu hoặc đại diện của chủ tàu cũng có tư cách pháp lý để kí
vận đơn. Một vận đơn đôi khi cũng được ký hậu cho bên thứ ba trong quá
trình chuyên chở. Vì vậy khi sử dụng vận đơn điện tử, tất yếu chúng ta phải
sử dụng chữ kí điện tử.
Khi sử dụng vận đơn điện tử, người gửi hàng sẽ có mã khoá kép để đảm bảo
tính bảo mật. Khi đó, người gửi hàng sử dụng mã khoá riêng (Private key)
của mình để mã hoá bức thông điệp. Chiếc chìa khoá này là duy nhất và chỉ
có người gửi hàng mới biết; sau đó người gửi hàng sẽ dùng chiếc chìa khoá
chung (Public key) của người chuyên chở để mã hoá lại bức thông điệp. Bức
thông điệp này sẽ được gửi đến người chuyên chở. Người chuyên chở chỉ có
thể giải mã bức thông điệp với chiếc chìa khoá riêng của mình. Điều này sẽ
xác nhận rằng người chuyên chở sẽ nhận được bức thông điệp gốc từ người
gửi hàng. Chiếc chìa khoá chung được đăng ký tại một bên thứ ba có uy tín
(tổ chức Bolero). Tổ chức này sẽ xác nhận các thông tin về bản thân người
muốn đăng ký chữ ký điện tử. Điều này khuyến khích người sẽ nhận bức
thông điệp được mã hoá tiếp cận với chìa khoá chung. Một ưu điểm nữa của
hệ thống mã hoá kép là hệ thống này cho phép bức thông điệp này được truy
cứu lại nguồn gốc mà đối với chữ ký được qui ước thì người nhận sẽ khó có
thể xác nhận được chữ ký được ký bằng tay hay không.
Muốn đọc được chữ kí điện tử của người ký theo phương pháp này, người
đọc phải tìm đúng phần mã khoá công khai của người gửi, ngoài cách “gặp
gỡ và trao đổi trực tiếp mã khoá công khai cho nhau”, “nhờ môt bên trung
gian chuyển khoá công khai”, thì cách chủ yếu là “sử dụng các trung tâm
phân phối mã khóa kép (key distribution center)” như các trung tâm cung
cấp chữ kí điện tử: Humin, SignOnline, Interlink Electronics … Tại các
trung tâm này có lưu giữ các cuốn danh bạ công khai chủ yếu- giống như
một cuốn danh bạ điện thoại, trong đó có ghi rõ tên doanh nghiệp, tên người
ký, quốc gia, thành phố đăng ký chữ ký, thời hạn hiệu lực của chữ ký và mã
khoá công khai tương ứng của chữ ký đó. Khi cần sử dụng, người dùng có
thể tải xuống phần khoá công khai cần thiết đó từ mạng Internet về máy tính
của mình và sử dụng. Ngược lại, họ cũng có thể đăng ký và gửi phần mã
khoá công khai của mình vào trung tâm này cho một hoặc nhiều người sử
dụng khác nhau có thể đọc được chữ ký của mình.
+ Một số đạo luật riêng về chữ kí điện tử của các nước:
- Khung pháp lý về CKĐT 13/12/1999 của EU;
- Luật giao dịch điện tử 2000 (Electronic Communications Act 2000) có
hiệu lực ngày 25/7/2000 của Anh;
- Luật chữ kí điện tử thương mại quốc gia và thương mại toàn cầu
(Electronic Signatures in Global and National Commerce, gọi tắt là E-sign
Act) ngày 30/6/2000, có hiệu lực từ ngày 1/10/2000
- Luật giao dịch điện tử thống nhất (UETA) của Hoa Kỳ;
- Luật CKĐT (Electronic Signature Bill) 7/1997 có hiệu lực vào năm 2000
của Đức;
- Luật bảo vệ thông tin cá nhận và tài liệu điện tử 1999 của Canada;
- Luật giao dịch điện tử (Electronic Transaction Act 1998) của Singapore;
Sắc lệnh giao dịch TMĐT (E-transaction Ordiance) có hiệu lực từ 7/1/2000
của Hồng Kông;
- Luật giao dịch điện tử 1999 của Australia; và một số nước khác như Thái
Lan, Nhật Bản cũng đã thông qua các đạo luật về thương mại điện tử.
- Việt Nam đã có dự thảo Luật giao dịch điện tử, Nghị định về chữ ký điện
tử và dịch vụ chứng thực điện tử.
+ Các quy tắc về vận đơn điện tử của Uỷ ban hàng hải quốc tế (CMI)
Cơ sở pháp lý đầu tiên điều chỉnh vận đơn điện tử là do Uỷ ban hàng hải
quốc tế (International Maritime Committee - CMI) đưa ra năm 1990. “Các
quy tắc về vận đơn điện tử” (“ Rules for Electronic Bills of Lading”) của
CMI là một tập hợp các điều khoản mà các bên có thể tự nguyện coi là một
phần không tách rời của hợp đồng mua bán (incorperate into a sales
contract) trên cơ sở sự thoả thuận của các bên.
Quy tắc 1 nêu ra phạm vi áp dụng của các quy tắc này: “Các quy tắc này
được áp dụng trên cơ sở sự thoả thuận của các bên”.
Trong trường hợp hai bên quyết định chuyển vận đơn CMI thành vận đơn
giấy thì khoá bí mật (Private Key) của bản vận đơn đó sẽ trở nên vô hiệu.
Tình huống này xảy ra trong một số trường hợp, ví dụ như người cầm vận
đơn mới (new holder) không có các phương tiện điện tử cần thiết để nhận
một vận đơn điện tử. Các quy tắc của CMI đã lường trước được điều này và
đưa ra một biện pháp giải quyết linh hoạt là chuyển vận đơn điện tử thành
vận đơn giấy.
Điều 4(d) quy định thông điệp xác nhận nhận hàng “sẽ có hiệu lực như thể
thông điệp nhận hàng này được thể hiện trên vận đơn giấy”. Điều này cũng
có nghĩa thông điệp xác nhận nhận hàng này tương đương với một vận đơn
giấy. Sau khi nhận được thông điệp xác nhận nhận hàng, người gửi hàng
phải xác nhận việc nhận được thông điệp cho người chuyên chở. Trong
thương mại truyền thống, người cầm vận đơn có quyền sở hữu hàng hoá và
có quyền ký hậu vận đơn cho một bên thứ ba để chuyển nhượng quyền sở
hữu đối với hàng hoá. Các quy tắc của CMI sử dụng công cụ là “khoá bí
mật” (“Private Key”) để thực hiện việc ký hậu và chuyển quyền sở hữu đối
với vận đơn điện tử.
Khoá bí mật được định nghĩa trong Quy tắc 2 là “ bất cứ hình thức điện tử
thích hợp nào… mà các bên thoả thuận để đảm bảo sự chân thực và nguyên
vẹn của một cuộc truyền tin”. Cách quy định như vậy tạo điều kiện cho việc
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới đang và sẽ diễn ra trong lĩnh vực mã hoá và
giải mã các dữ liệu điện tử. Người nắm giữ khoá bí mật do đó có thể ra lệnh
giao hàng, chuyển quyền kiểm soát hàng hóa cho một bên thứ ba bất kỳ và
chỉ định hoặc thay thế người nhận hàng được chỉ định. Người nắm giữ khoá
bí mật như vậy là có đầy đủ các quyền mà người nắm giữ vận đơn giấy có
được.
Khi người nắm giữ khoá bí mật đồng thời là người thực tế nắm giữ vận đơn
muốn chuyển quyền sở hữu vận đơn cho một người khác, anh ta sẽ phải
thông báo cho người chuyên chở ý định của anh ta. Khoá bí mật (mỗi người
nắm giữ vận đơn có một khoá bí mật riêng) sẽ được sử dụng để xác nhận
tính chân thực của dữ liệu. Tuy nhiên vẫn cần có những biện pháp an ninh
để đảm bảo tính bí mật của việc truyền tin. Sau đó, người chuyên chở phải
xác nhận đã nhận được thông điệp của người nắm giữ khoá bí mật và chuyển
xác nhận nhận hàng (vận đơn) cho người chủ mới của hàng hoá. Khoá bí
mật lúc đó sẽ bị thu lại để chờ sự chấp thuận của người chủ mới của hàng
hóa về việc chuyển quyền sở hữu. Khi người nắm giữ vận đơn mới đã chấp
thuận việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá, người chuyên chở sẽ cấp cho
người này một khoá bí mật mới va khoá bí mật trước đó sẽ bị huỷ bỏ. Người
chuyên chở trực tiếp thực hiện chức năng cơ quan đăng ký sở hữu và điều
này sẽ làm phát sinh một số vấn đề sẽ được đề cập dưới đây.
Việc giao hàng sẽ được thực hiện nếu người nhận hàng chứng minh được tư
cách của mình với người chuyên chở. Do đó, không cần thiết phải xuất trình
vận đơn gốc để nhận được hàng.
Để ngăn ngừa các trở ngại về mặt pháp lý có thể phát sinh do luật của các
quốc gia khác nhau có các quy định khác nhau về việc chứng từ phải được
lập dưới dạng văn bản viết (“in writing”), CMI đã đưa ra Quy tắc số 11. Quy
tắc này nói rằng các bên thoả thuận rằng bất kỳ một đạo luật quốc gia hay
tập quán nào yêu cầu hợp đồng chuyên chở phải có bằng chứng dưới dạng
văn bản sẽ được đáp ứng bằng các dữ liệu điện tử được truyền tải và xác
nhận (transmitted and confirmed data). Ngoài ra, các bên thoả thuận sẽ
không dùng luận điểm là hợp đồng không được lập bằng văn bản trong
trường hợp xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, quy tắc này chưa xoá bỏ được
hoàn toàn những hoài nghi về khả các trở ngại pháp lý đối với vận đơn điện
tử.
1.3. Những vấn đề cần lưu ý
Liệu cơ chế khoá bí mật có thể thay thế được vận đơn có thể chuyển nhượng
truyền thống hay không? Bằng việc chấp nhận thông điệp xác nhận gửi hàng
người mua nhận được các quyền được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, điều này
được thực hiện trên giả thiết là thông điệp xác nhận việc nhận hàng là chân
thực. Nếu người nhận nhận được một thông điệp giả mạo, rắc rối thực sự
nảy sinh. Những vấn đề này không thể khắc phục được chỉ bằng một tuyên
bố rằng khoá bí mật và thông điệp xác nhận việc nhận hàng tương đương với
một vận đơn bằng giấy.
Các rắc rối cũng có thể nảy sinh từ việc người chuyên chở phải đóng vai trò
của cơ quan đăng ký sở hữu. Đây là trách nhiệm quá nặng nề đối với người
chuyên chở. Người chuyên chở phải đảm bảo bí mật cho mỗi giao dịch
chuyển nhượng quyền sở hữu. Tuy nhiên không có điều khoản nào trong bản
quy tắc quy định rõ giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở nếu không
đảm bảo được việc đó. Do đó người chuyên chở có lẽ sẽ không tham gia vào
các giao dịch mà giới hạn trách nhiệm của mình không được quy định rõ
ràng.
Quy tắc không quy định rõ thời gian và địa điểm vận đơn được ký kết.
Trong trường hợp này các bên lại phải dựa vào Tư pháp quốc tế (Private
International Law) để xác định thời gian, địa điểm hình thành hợp đồng.
Các ngân hàng cũng không mấy tin tưởng vào độ an toàn của hệ thống khoá
bí mật. Giao dịch càng phức tạp, càng có nhiều bên tham gia thì an ninh của
hệ thống càng khó đảm bảo.
Các quy tắc của CMI cũng không đưa ra cơ chế chứng thực vận đơn điện tử.
Nhiều ý kiến cho rằng bên cạnh quy định về khoá bí mật, CMI phải có các
quy định về hệ thống mã số công cộng (public key system) để chứng thực
vận đơn.
(“The Impact of EDI on Bills of Lading – A Global Pespective on the
Dynamics Involved” by Erik Muthow).
Yêu cầu về “văn bản” (“writing” or “document”)
Yêu cầu về việc các chứng từ phải được lập bằng văn bản là yêu cầu phổ
biến của hầu hết các luật quốc gia. Ví dụ, ở Úc, Đạo luật chuyên chở hàng
hoá bằng đường biển năm 1991 (Cwlth) định nghĩa thuật ngữ ‘hợp đồng
chuyên chở’ là “hợp đồng được thể hiện bằng một vận đơn hoặc bất ký
chứng từ sở hữu nào khác…”. Và chứng từ được liệt kê gồm:
a. bất kỳ giấy tờ hoặc chất liệu nào có chữ viết trên đó.
b. Bất kỳ giấy tờ hoặc chất liệu nào có các ký hiệu, cac hình ảnh…có ý
nghĩa mà một người có đủ năng lực có thể hiểu được chúng; và
c. Bất kỳ đồ vật hoặc chất liệu nào phát ra hình ảnh hoặc chữ viết mà có thể
tái tạo lại được nhờ vào hoặc không cần nhờ vào sự trợ giúp của bất kỳ đồ
vật hay thiết bị nào khác.
Mặc dù theo quy định trên thì rõ ràng chứng từ không chỉ được hiểu là
chứng từ dưới hình thức giấy tờ nhưng riêng đối với vận đơn đường biển,
trên thực tế, các toà án Úc cũng chỉ chấp nhận các vận đơn lập trên giấy vì
vận đơn theo luật bắt buộc phải có chữ ký.
Tại Anh đã có án lệ mà cơ sở dự liệu trên máy tính được chấp thuận là văn
bản (document). Tuy nhiên điều này có lẽ vẫn chưa thoả mãn các yêu cầu
đối với “văn bản viết” (“writing”). Luật diễn giải (Interpretation Act) năm
1978 của Anh định nghĩa “writing” bao gồm “đánh máy, in, in thạch bản,
chụp ảnh và các cách thức thể hiện và mô phỏng các từ ngữ dưới dạng có thể
nhìn thấy được”. Do đó, nếu một văn bản phải đáp ứng yêu cầu được thể
hiện dưới dạng viết, một thông điệp dự liệu sẽ không phải là một văn bản.
Tuy nhiên, do việc liên lạc bằng các phương tiện điện tử ngày càng trở nên
phổ biến thì thuật ngữ “văn bản” cũng phải được hiểu theo nghĩa rộng hơn.
Theo Luật mẫu, hiệu lực pháp lý của các dữ liệu điện tử hoàn toàn tương
đương với văn bản viết. Điều 6 của Luật mẫu quy định trường hợp pháp luật
(luật quốc gia) đòi hỏi thông tin phải thể hiện bằng văn bản viết thì một
thông điệp dữ liệu được coi là thoả mãn đòi hỏi ấy nếu thông tin hàm chứa
trong đó là có thể truy cập được để sử dụng cho mục đích tham chiếu sau
này trừ một số trường hợp cụ thể được liệt kê.
Chữ ký và các phương pháp chứng thực khác:
Phương pháp chứng thực phổ biến nhất mà luật pháp quốc gia và quốc tế
thường yêu cầu đó là chữ ký bằng tay. Chữ ký có vai trò quan trọng không
chỉ bởi nó chứng thực các bên của hợp đồng mà còn là bằng chứng thể hiện
ý chí của các bên sẵn sàng chịu các trách nhiệm pháp lý. Việc chứng thực
một thông điệp điện tử bằng chữ ký là để cho người nhận thông điệp đó
cũng như các bên thứ ba biết nguồn gốc của thông điệp cũng như ý chí của
bên đưa ra thông điệp đó.
Công ước Hamburg quy định việc ký có thể được thực hiện “ bằng tay, bằng
fax, đục lỗ, đóng dấu, bằng các biểu tượng hoặc bằng bất kỳ phương tiện
máy móc hoặc điện tử nào, nếu không mâu thuẫn với luật quốc gia nơi vận
đơn được phát hành”.
Tuy nhiên đối với hầu hết các toà án, thuật ngữ “chữ ký” vẫn chỉ được giới
hạn ở chữ ký bằng tay. Theo quy định của Luật mẫu, các giải pháp kỹ thuật
thích hợp sẽ có hiệu lực pháp lý như chữ ký truyền thống và các bên có toàn
quyền thoả thuận giải pháp kỹ thuật cụ thể. Điều 7 của Luật mẫu quy định:
“Trong trường hợp pháp luật đòi hỏi phải có chữ ký của một người nào đó,
thì một thông điệp dữ liệu được coi là đáp ứng đòi hỏi ấy nếu: (a) có sử dụng
một phương pháp nào đó để xác minh được người ấy và chứng tỏ được sự
chấp thuận của người ấy với thông tin hàm chứa trong thông điệp dự liệu đó;
và (b) phương pháp ấy là đủ tin cậy với nghĩa là thích hợp cho mục đích mà
theo đó thông điệp dữ liệu ấy đã được tạo ra và truyền đi, tính đến tất cả các
tình huống, bao gồm cả các thoả thuận bất kỳ có liên quan”.
Theo điều khoản này, Luật mẫu không quy định một phương pháp kỹ thuật
cụ thể đối với chữ ký, bất kỳ công nghệ chữ ký điện tử nào cũng có thể được
ứng dụng trong tương lai mà không cần phải sửa đổi luật.
Chứng từ sở hữu và khả năng chuyển nhượng
Chứng từ sở hữu là chức năng quan trọng nhất của vận đơn. Một câu hỏi liên
quan đến chứng từ sở hữu và khả năng chuyển nhượng trong bối cảnh vận
đơn điện tử đang từng bước thay thế vận đơn truyền thống là liệu khả năng
chuyển nhượng vận đơn và theo đó là chuyển quyền sở hữu hàng hoá có thể
thực hiện được bằng vận đơn điện tử hay không.
Nhóm công tác của UNCITRAL về EDI chưa kết thúc cuộc nghiên cứu về
vấn đề này. Theo kế hoạch, UNCITRAL sẽ phải tổ chức thêm các cuộc hội
thảo về khả năng chuyển nhượng vận đơn và chuyển quyền sở hữu đối với
hàng hoá của vận đơn đường biển. Nghiên cứu này sẽ xem xét các gợi ý và
kiến nghị của nhiều quốc gia cũng như tổ chức quốc tế. Một gợi ý thú vị thu
hút được sự chú ý của nhóm công tác là gợi ý của các chuyên gia Mỹ: “Cần
phải lưu ý một điểm là cái được chuyển nhượng không phải là tờ giấy hay
một thông điệp điện tử (đó chỉ là phương tiện), mà là các quyền và/ hoặc
quyền sở hữu đối với đối tượng của giao dịch”
Kết quả của vấn đề cuối cùng và cũng là vấn đề quan trọng nhất để vận đơn
điện tử có thể đảm đương được các chức năng của vận đơn truyền thống do
đó vẫn đang ở phía trước và sẽ được đưa vào bản cuối cùng của Luật mẫu.
(Electronic Bills of Lading and Functional Equivalance của John Livermore
and Krailerk Euarjai/elj.warwich.ac.uk/jilt/ecomm/98_2liv/)
HỆ THỐNG BOLERO.NET
Khái quát quá trình ra đời và phát triển của các chứng từ vận tải điện tử
Vài nét về sự ra đời, phát triển, mục tiêu và các bộ phận chủ yếu của hệ
thống Bolero
Bolero là viết tắt của “ Bill of Lading Electronic Registry Organization”. Dự
án Bolero được sự ủng hộ của Uỷ ban Châu Âu và được thực hiện trên cơ sở
sự hợp tác giữa Society for Worldwide Interbank Finance Transaction
(SWIFT) và Thorough Transport Mutual Insurance Association Ltd. (TT
club). Ý tưởng của các bên khi tiến hành dự án này là nếu một tổ chức
chuyên thực hiện việc thanh toán các giao dịch thương mại quốc tế và một tổ
chức có chức năng giảm thiểu rủi ro cho các nhà chuyên chở trong các giao
dịch này mà hợp tác với nhau để xây dựng và vận hành một hệ thống điện tử
thì hệ thống đó dễ được thị trường chấp nhận hơn là một hệ thống do những
người chẳng có chút liên quan nào đến thương mại quốc tế tạo lập nên.
Hệ thống Bolero được chính thức đưa vào hoạt động từ ngày 27 tháng 9 năm
1999. Bolero bao gồm hai công ty riêng biệt, do đối tượng khác nhau sở hữu
nhưng có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau trong việc duy trì hoạt
động của cả hệ thống. Bolero Association Limited (BAL) do các thành viên
của nó sở hữu. BAL được thành lập năm 1995 và bao gồm tất cả các thành
viên của Bolero.net cũng như các tổ chức ngành nghề (cross-industry
bodies) ủng hộ mục tiêu tạo ra một nền thương mại điện tử thay thế cho nền
thương mại dựa trên giấy tờ từ trước tới nay. Bolero International Limited là
một công ty liên doanh giữa SWIFT và TT Club và là người cung cấp các
dịch vụ của hệ thống Bolero.net.
(The Bills of Lading Electronic Registry Organization – The Bolero Project
của Simon Taylor/ www.elbornes.com)
Các mục tiêu chính mà dự án Bolero theo đuổi bao gồm:
1. Đảm bảo các dịch vụ do Bolero cung cấp đáp ứng được các yêu cầu của
các thành viên; và các dịch vụ thương mại khác có liên quan được phát triển
đồng bộ với các dịch vụ trên;
2. Hoạt động như một diễn đàn liên ngành để giải quyết các vấn đề liên quan
đến thực tiễn thương mại điện tử trong thương mại quốc tế, tập trung vào các
vấn đề liên quan đến các chứng từ có khả năng chuyển nhượng và các chứng
từ điện tử tương đương;
3. Tạo lập và phổ biến các chuẩn mực trong thương mại điện tử;
4. Thiết lập một khuôn khổ pháp lý đảm bảo rằng các yêu cầu đối với các
chứng từ vận tải truyền thống có thể được đáp ứng bằng các chứng từ điện
tử tương ứng mà không làm thay đổi sự cân bằng về rủi ro đã được thiết lập
giữa các bên;
5. Làm đầu mối liên lạc với các cơ quan quản lý quốc gia và quốc tế để đảm
bảo rằng các nhu cầu của doanh nghiệp được cân nhắc đến một cách đầy đủ
trong quá trình hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ sở kỹ thuật phục vụ cho sự
phát triển của thương mại.
The Companies Act 1985 to 1989/www.bolero.net
Cấu trúc kỹ thuật của hệ thống Bolero (Slides)
1. Core Messaging Platform: Đây là một hệ thống dùng để gửi các thông
điệp điện tử (trong đó có vận đơn Bolero) giữa các thành viên của Bolero
với nhau, với Bolero International và Bolero Association. Hệ thống này còn
cung cấp các thông báo về việc tiếp nhận các thông điệp và theo dõi các
thông điệp sau khi chúng được gửi đi. Đồng thời Core Messaging Platform
cũng gửi các thông tin sang cho một bộ phận khác của Bolero là Hệ thống
đăng ký sở hữu (The Title Registry). Tuỳ theo nhu cầu của người gửi, các
thông điệp còn có thể bao gồm các tài liệu gửi kèm (attachments). Cách các
thông điệp được gửi và nhận trong hệ thống cũng như cách mà các thông
điệp này được bảo mật sẽ được trình bày chi tiết trong phần ...
2. Hệ thống đăng ký sở hữu (The Title Registry): Đây là một cơ sở dữ liệu
được xây dựng trên cơ sở các chỉ dẫn đặc biệt của người sử dụng. Nội dung
của cơ sở dữ liệu này quyết định quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên có
liên quan đến một vận đơn Bolero. Các thông tin liên quan đến một vận đơn
cụ thể có thể thay đổi nhiều lần sau khi vận đơn được phát hành. Mục đích
chính của hệ thống này là để tạo cho vận đơn điện tử chức năng là chứng từ
sở hữu hàng hoá được mô tả trên vận đơn, chức năng quan trọng nhất của
vận đơn truyền thống.
3. Cơ sở dữ liệu về người sử dụng (User Database) : Đây là hệ thống lưu giữ
các thông tin về các thành viên của hệ thống Bolero. Hệ thống này được sử
dụng để nhận diện các thành viên hợp lệ, giới hạn sự tiếp cận với hệ thống
Bolero, và quyết định tính chân thực của các thông điệp do các thành viên
gửi đến cũng như liên lạc với các thành viên, gửi hoá đơn đòi tiền dịch vụ và
các mục đích tương tự. Mặc dù thường được nhắc đến như một cơ sở dữ liệu
thống nhất, hệ thống này thực chất là một tập hợp các thông tin có liên quan
chặt chẽ được quản lý và sử dụng một phần bởi Bolero Association và một
phần bởi Bolero International.
4. User Support Resources: Hệ thống này bao gồm (1) một giao diện kết nối
với Core Messaging Platform cho phép người sử dụng giám sát các thông
điệp của mình, (2) một giao diện kết nối với cơ sở dữ liệu của người sử dụng
cho phép nhân viên quản trị của người sử dụng (User’s administrator) quản
lý tài khoản (account) mà Bolero cấp cho từng thành viên, (3) một tập hợp
các thông tin chung được đưa trên mạng Internet về tất cả các thành viên của
hệ thống Bolero, mục trợ giúp hướng dẫn cách sử dụng hệ thống Bolero, các
bản tin, cảnh báo và các thông tin tương tự và một bàn trợ giúp giải đáp các
thắc mắc của các thành viên trực tiếp qua điện thoại hoặc e-mail. Trong
tương lai Bolero có thể sẽ bổ sung nhiều hình thức hỗ trợ các thành viên hơn
nữa vào hệ thống này. Hệ thống User Support Resouces trực tuyến được thể
hiện dưới hình thức một trang web. Nội dung của các thông điệp được gửi
tới Core Messaging Platform và Hệ thống đăng ký sở hữu sẽ được đảm bảo
không có sự thay đổi khi được đưa vào hệ thống User Support Resources
5. Hệ thống của người sử dụng (User Systems): là các phương tiện kỹ thuật
cho phép các thành viên sử dụng hệ thống Bolero, bao gồm một kênh liên
lạc (communications link) tới một mạng lưới kết nối với Core Messaging
Flatform, phần cứng của máy tính để có thể kết nối với kênh liên lạc trên và
phần mềm để tạo, gửi, nhận các thông điệp qua Core Messaging Flatform và
hiển thị User Support Resources.
Bốn thành phần đầu tiên là các dịch vụ chủ yếu mà Bolero sẽ cung cấp cho
các thành viên. Thành phần thứ năm sẽ được cung cấp bởi một bên thứ ba
(các công ty hoặc các cơ quan nhà nước chuyên cung cấp các dịch vụ này)
và phải phù hợp với mô tả của Bolero để đảm bảo có thể tương thích với
Core Messaging Platform.
3. Cơ sở pháp lý của hệ thống Bolero
Để cả hệ thống Bolero có thể hoạt động trôi chảy cần có các thoả thuận giữa
(i) những người sử dụng hệ thống với Bolero và (ii) những người sử dụng hệ
thống với nhau. Vấn đề này được giải quyết thông qua việc ban hành Bolero
Rulebook.
Tất cả các thành viên khi gia nhập hệ thống Bolero sẽ bị ràng buộc bởi
Bolero Rulebook. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng Bolero Association và
Bolero International không đảm bảo cũng như không chịu trách nhiệm về
bất kỳ nghĩa vụ nào mà một thành viên phải có với bên kia theo các quy định
của Bolero Rulebook hoặc các nguồn luật khác.
Về bản chất, Bolero Rulebook quy định cách thức các công ty sử dụng hệ
thống Bolero để phát hành vận đơn điện tử. Bolero Rulebook chịu sự điều
chỉnh của luật Anh, và các toà án Anh sẽ có thẩm quyền các giải quyết tranh
chấp phát sinh có liên quan đến các quy tắc này.
Nội dung của Bolero Rulebook khá đầy đủ, chi tiết, bao gồm ba phần chính
là:
Phần 1: Các định nghĩa và giải thích
Phần 2: Các điều khoản chung
Phần 3: Hệ thống đăng ký sở hữu
Một bộ phận không thể tách rời của Rulebook là Phụ lục quy định cụ thể về
các thủ tục vận hành (operational procedures) của hệ thống. Mặc dù bản quy
tắc này bao quát nhiều nội dung, điều khoản cốt lõi của nó là các thành viên
của hệ thống Bolero chấp nhận các thông điệp điện tử được gửi qua hệ thống
Bolero như thể chúng được thể hiện trên giấy và thừa nhận hiệu lực của chữ
ký điện tử trong hệ thống Bolero.
4. Cơ chế kết nạp thành viên của Bolero
Một trong những ưu điểm của hệ thống Bolero là mỗi đối tượng tham gia hệ
thống đều có thể yên tâm rằng các đối tác làm ăn trong cùng hệ thống là
những người mà Bolero đã có những hiểu biết nhất định và đều chịu sự điều
chỉnh của Bolero Rulebook. Do đó một người sử dụng có thể tin tưởng rằng
các thông điệp mà mình nhận được là chân thực. Hệ thống Bolero giảm
thiểu khả năng các công ty gặp phải các đối tác “ảo”. Thêm vào đó, do tất cả
người sử dụng đều tuân thủ một khuôn khổ pháp lý chung nên hệ thống
Bolero còn giảm thiểu sự không chắc chắn về việc luật nào sẽ được áp dụng
đối với thương mại điện tử và rủi ro về việc các đạo luật vẫn điều chỉnh hoạt
động thương mại không áp dụng đựơc cho các giao dịch điện tử. Để đảm
bảo các thành viên tham gia hệ thống đều được xác định một cách rõ ràng và
đều chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý bởi các quy tắc của Bolero, hệ thống
Bolero áp dụng một hệ thống kiểm soát chặt chẽ ngay ở khâu kết nạp thành
viên. Quy trình kết nạp thành viên phải đủ tin cậy để đặt nền móng cho việc
nhận diện thành viên và chứng thực các dòng thông điệp sau này.
Gia nhập là quá trình thông qua đó một thành viên mới gia nhập cộng đồng
Bolero và có thể sử dụng hệ thống Bolero. Hệ thống Bolero bao gồm cả các
thành phần pháp lý và kỹ thuật đan xen vào nhau do đó việc gia nhập hệ
thống Bolero liên quan đến cả khía cạnh pháp lý và khía cạnh kỹ thuật. Do
tính chất này các đối tượng muốn gia nhập Bolero nên tìm cho mình một cố
vấn pháp luật và một kỹ thuật viên để hỗ trợ cho quá trình gia nhập Gia nhập
chỉ là một phần của quá trình bắt đầu sử dụng hệ thống Bolero. Ngoài việc
đăng nhập, một thành viên mới phải mua sắm và thử nghiệm hệ thống của
chính mình, thiết lập một kết nối kỹ thuật số với Bolero, đào tạo nhân viên,
xây dựng quy chế sử dụng và kiểm soát nội bộ, và các hoạt động kỹ thuật
khác cần thiết cho việc áp dụng bất kỳ một quy trình kinh doanh mới nào.
Quy trình đăng nhập hệ thống Bolero gồm 3 bước chính sau đây:
• Hình thành hợp đồng: Để trở thành thành viên của hệ thống Bolero, một
thành viên phải ký kết ba hợp đồng sau đây: (1) Hợp đồng dịch vụ BAL
(BAL Service Contract) để trở thành thành viên của Hiệp hội Bolero (Bolero
Association), (2) hợp đồng với từng thành viên khác của hệ thống cam kết
tuân thủ Bolero RuleBook và (3) Hợp đồng tiến hành dịch vụ (Operational
Service Contract) ký kết với Bolero International để sử dụng các dịch vụ của
hệ thống Bolero.
• Cung cấp thông tin và các tài liệu chứng minh (Providing information and
supporting documentation): Để có thể cung cấp các dịch vụ một cách hiệu
quả nhất, Bolero International và Bolero Association đều cần có những
thông tin nhất định về người sử dụng như tên công ty, địa chỉ…Một số thông
tin về một thành viên còn cần phải có sự xác nhận tin cậy về tính chính xác
để các thành viên khác có thể nhận biết được thành viên đó và tin cậy vào
tính chân thực của các thông điệp mà thành viên đó gửi đi. Người xác nhận
các thông tin đó (hiện tại là Bolero International) do đó phải có đầy đủ
chứng cứ để khẳng định tính chính xác của thông tin. Đối tượng đăng nhập
phải cung cấp các tài liệu cần thiết để hỗ trợ cho việc xác nhận của Bolero
International.
• Thiết lập tài khoản kỹ thuật (Technical account set-up): Khi người sử dụng
tiềm năng đã ký và cung cấp các thông tin cần thiết để xác nhận tính chính
xác của các thông tin, Bolero International sẽ mở một tài khoản cho người
sử dụng mới, phát hành các chứng nhận (Certificates) sẽ được sử dụng để
nhận diện các chữ ký điện tử, và nhập thông tin của người sử dụng này vào
cơ sở dữ liệu của người sử dụng (User Database).
Bước này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở người sử dụng đã có sự chuẩn
bị đầy đủ về mặt kỹ thuật. Những công việc liên quan đến kỹ thuật cần phải
hoàn thành là:
• Thiết lập hệ thống của người sử dụng: Người sử dụng phải cài đặt và vận
hành một hệ thống nội bộ để tiếp cận và sử dụng hệ thống Bolero. Bolero
International không cung cấp hệ thống này nhưng người sử dụng có thể mua
của các nhà cung cấp được liệt kê tại địa chỉ
www.boleroassociation.org/dow_soft.htm.
• Chọn mã nhận diện của người sử dụng (RID): Mã này dùng để nhận diện
người sử dụng với tư cách một công ty trong hệ thống Bolero. Người sử
dụng có thể chọn chính tên thương mại của công ty mình, miễn là tên này
không quá giống với RID của một người sử dụng khác.
• Cung cấp mã khoá công cộng (public key): mã khoá công cộng này sẽ
được điền vào chứng nhận mà Bolero cấp cho mỗi người sử dụng. Để cung
cấp được mã khoá công cộng, hệ thống của người sử dụng phải tạo ra nó
cùng với mã khoá bí mật (private key) tương ứng.
hoặc
Fnot ( thông báo gửi không thành công) Core Messaging Platform
Người gửi thông điệp ban đầu Thông điệp gửi đi (như đã được Bolero
chuyển tiếp dưới hình thức một thông điệp FMsg) đã được gửi thành công
đến người nhận như đã nêu trong xác nhận của người nhận
Không có xác nhận về việc nhận thông điệp gửi đi (như đã được chuyển tiếp
dưới hình thức một thông điệp FMsg) trong thời gian quy định (cần chú
thích)
6. SBRf (từ chối đề nghị giao dịch) Người nhận thông điệp FMsg Core
Messaging Platform Người nhận quyết định không chấp nhận đề nghị giao
dịch trong thông điệp FMsg mà người nhận đã nhận được và xác nhận
7. FBRf (chuyển tiếp từ chối đề nghị giao dịch) Core Messaging Platform
Người gửi thông điệp ban đầu Người nhận quyết định không chấp nhận đề
nghị giao dịch trong thông điệp FMsg như đã nêu trong thông điệp SBRf gửi
cho Core Messaging Platform