You are on page 1of 21

Thiên văn học Tài liệu sưu tầm

1. CÁC HÀNH TINH KHÔNG NẰM TRÊN MỘT ĐƯỜNG THẲNG


Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người cho biết, thực tế
trong lịch sử đã có nhiều lần các hành tinh đứng cùng về một phía, nhưng chưa bao giờ chúng gây ra bất ổn. Vì
theo chu kỳ, 2 năm một lần, Mặt Trời - Trái Đất - Sao Hỏa đứng gần về một phía. 60 năm Mặt Trời - Trái Đất -
Sao Mộc đứng về một phía, để 5 hành tinh sẽ đứng về một phía tương đối thẳng hàng phải mất hàng nghìn năm.
Có điều chắc chắn là các hành tinh đó sẽ xếp thẳng hàng khi chu kỳ của chúng gặp nhau, nhưng không
bao giờ nằm trên một đường thẳng khít vì mặt phẳng của các hành tinh này không trùng nhau. Chỉ có khả năng
trùng với mặt phẳng của đường kinh tuyến, cùng về một phía so với Mặt Trời.
Cho dù cùng đứng về một phía, lực hấp dẫn gia cường của Trái Đất có tăng lên đôi chút cũng không ảnh
hưởng gì. Về phương diện vật lý, lực hấp dẫn tạo ra từ hiện tượng này là rất nhỏ so với Mặt Trăng. Mặt Trăng là
hành tinh gần Trái đất nhất, lực hấp dẫn nhiều nhất cũng mới chỉ gây nên hiện tượng thủy triều trên Trái Đất.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Anh Tuấn, chủ nhiệm Câu lạc bộ Thiên văn Nghiệp dư TP.HCM cũng
cho rằng, không thể có chuyện các hành tinh có thể đứng thẳng hàng tuyệt đối. Trong lịch sử chưa bao giờ xảy
ra hiện tượng này, cũng chưa có nghiên cứu khoa học nào cho thấy sẽ có ngày các hành tinh xếp thẳng hàng
nhau.

1.1 Không có ngày tận thế theo thuyết này

Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải khẳng định: "Giả sử có việc các hành tinh cùng nằm trên mặt
phẳng tuyệt đối cũng không thể xảy ra ngày tận thế vì các chu kỳ của các hành tinh xung quanh Mặt Trời theo
một chu kỳ khác nhau.
Nếu một vòng quay của Trái đất là 365 ngày thì Sao Hỏa là 2 năm, Sao Mộc gần hết 12 năm, Sao Thổ là
30 năm. Sẽ có một lúc các hành tinh đó nằm trên một đường thẳng, người ta gọi đó là hiện tượng "ngũ tinh liên
châu". Ví dụ ngày 9/9/1999 có lời dự báo về một sự kinh hoàng sắp xảy ra, người ta tưởng đó là ngày tận thế,
tuy nhiên, thế giới đã "bình an vô sự".
Ông Nguyễn Anh Tuấn cũng nhận định, ngay cả khi các hành tinh có tiến sát vào gần nhau thì các sự
thay đổi cũng không lớn đến mức để tạo ra ngày tận thế. Các nghiên cứu cho thấy, vào năm này, vị trí của các
hành tinh và những thiên thể xung quanh vẫn tiếp tục quay theo quỹ đạo bình thường.
"Tôi khẳng định là không có chuyện các hành tinh nằm thẳng hàng khít khìn khịt. Hoặc giả sử nó có như
thế thì cũng không thể có một nạn đại hồng thủy xảy ra được. Trong lịch sử phát triển loài người chưa bao giờ
có hiện tượng đó.", ông Nguyễn Phúc Giác Hải nhấn mạnh.
Khả năng xếp thẳng hàng của hơn hai hành tinh trong hệ Mặt Trời là một hiện tượng không thường xảy
ra. Theo tính toán chu kỳ vận động của các hành tinh thì có thể ngày 21/12/2012, sao Thủy, sao Kim và sao
Mộc sẽ tương đối thẳng hàng, nhưng các hành tinh khác thậm chí còn chẳng ở gần đường thẳng đó.
Về cơ bản, thời gian cần có để xuất hiện khả năng thẳng hàng của một số hành tinh như vậy là khoảng
340 triệu năm, và chu kỳ để tất cả các hành tinh trong hệ Mặt Trời, bao gồm cả Trái Đất chúng ta, xếp thành
một đường thẳng là 180 tỷ tỷ năm.

2, HỆ MẶT TRỜI

Hệ Mặt Trời (cũng được gọi là Thái Dương Hệ) là một hệ hành tinh có Mặt Trời ở trung tâm và các
thiên thể nằm trong phạm vi lực hấp dẫn của Mặt Trời, gồm 8 hành tinh chính quay xung quanh, 7 trong số các
hành tinh này có vệ tinh riêng của chúng, cùng một lượng lớn các vật thể khác gồm các hành tinh lùn (như
Diêm Vương Tinh), tiểu hành tinh, sao chổi, bụi và plasma.

2.1 Cấu trúc

Từ trong ra ngoài, Hệ Mặt Trời gồm

 Mặt Trời

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 1 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
 Các hành tinh là Thủy Tinh, Kim Tinh, Trái Đất, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh,
Hải Vương Tinh.
 Ba hành tinh lùn là Ceres, Diêm Vương Tinh và Eris (được chính thức xếp loại hành tinh lùn kể từ tháng
8 năm 2006).
 Ngoài cùng là Vòng đai Kuiper và Đám Oort.

Các hành tinh còn có các vật thể bay quanh chúng như các vệ tinh tự nhiên, các vòng đai của vài hành tinh
(như vành đai Sao Thiên Vương, vành đai Sao Thổ, ...), các vệ tinh nhân tạo. Các tiểu hành tinh cũng có các vệ
tinh của chúng.

Xen kẽ giữa các hành tinh có các thiên thạch và bụi cùng các sao chổi. Ngoài ra còn có nhật quyển
(heliosphere), cấu trúc lớn nhất trong Hệ Mặt Trời, được tạo thành từ ảnh hưởng của từ trường quay của Mặt
Trời trên plasma, gọi là gió Mặt Trời, choán đầy không gian trong hệ Mặt Trời. Nó hình dạng hình cầu với giới
hạn ngoài cũng chính là giới hạn của Hệ Mặt Trời.

2.2 Cấu trúc hệ Mặt Trời

Khoảng cách trong Hệ Mặt Trời thường được đo bằng các đơn vị thiên văn. Một đơn vị thiên văn, viết
tắt là AU, là khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời, hay 149.598.000 kilômét.

Đa số các vật thể trên quỹ đạo quanh Mặt Trời đều nằm trong mặt phẳng quỹ đạo gần nhau, và gần mặt
phẳng hoàng đạo, và cùng quay một hướng. Kích thước của quỹ đạo các hành tinh và cả vành đai tiểu hành tinh
tuân gần đúng theo quy luật Titius-Bode, một quy luật gần đúng và có thể chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.

Các vật thể trong Hệ Mặt Trời được chia thành ba vùng. Các hành tinh Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất,
vành đai các tiểu hành tinh chính và Sao Hỏa nhóm thành các hành tinh vòng trong, gọi là vùng I. Các hành tinh
còn lại cùng các vệ tinh của chúng tạo các hành tinh vòng ngoài, vùng II. Vùng III gồm vùng của các vật thể
bên kia của Hải Vương Tinh (Trans-Neptunian) như vành đai Kuiper, Đám Oort và vùng rộng lớn ở giữa.

2.3 Phân bố khối lượng

Mặt Trời, một sao thuộc dãy chính G2, chiếm 99,86% khối lượng hiện được biết đến của cả hệ. Hai vật
thể có đường kính lớn nhất của hệ, Sao Mộc và Sao Thổ, chiếm 91% phần còn lại (khoảng 0.1274% khối lượng
cả hệ). Đám Oort có thể chiếm một phần đáng kể, nhưng hiện nay sự hiện diện của nó còn chưa đượcxácđịnh.

2.4 Gió Mặt Trời

Mặt Trời phát ra một nguồn tia liên tục gồm các hạt có khối lượng, ở dạng plasma được biết đến như gió
Mặt Trời. Nó tạo thành một vùng có áp suất thấp thâm nhập vào không gian giữa các hành tinh ở mọi hướng,
vươn tới khoảng cách ít nhất là mười tỷ dặm tính từ Mặt Trời. Các lượng nhỏ gồm bụi cũng có mặt trong không
gian giữa các hành tinh và gây ra hiện tượng ánh sáng hoàng đạo. Một số bụi có lẽ đến từ bên ngoài Hệ Mặt
Trời. Sự ảnh hưởng của từ trường quay của Mặt Trời đối với không gian giữa các hành tinh tạo nên kết cấu lớn
nhất trong Hệ Mặt Trời, gọi là nhật quyển.

Gió Mặt Trời tạo ra nhiều ảnh hưởng đến khí quyển Trái Đất, tạo ra bão từ, cực quang

2.5 Các hành tinh vòng trong

Các hành tinh vòng trong: Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, Sao Hỏa

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 2 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Bốn hành tinh kiểu Trái Đất (terrestrial planet) ở vòng trong có đặc trưng ở sự rắn đặc của chúng, được
tạo thành từ đá. Chúng được tạo thành trong những vùng nóng hơn gần Mặt Trời, nơi các vật liệu dễ bay hơi
hơn đã bay mất chỉ còn lại những thứ có nhiệt độ nóng chảy cao, như silicate, tạo thành vỏ rắn của các hành tinh
và lớp phủ bán lỏng bên ngoài, và như sắt, tạo thành lõi của các hành tinh này. Tất cả đều có các hố tạo ra bởi
va chạm và nhiều đặc trưng kiến tạo bề mặt, như các thung lũng nứt rạn và các núi lửa. Chúng tự quay quanh
trục chậm chạp và có rất ít hoặc không có vệ tinh nào cả. Tổng cộng cả nhóm chỉ có 3 vệ tinh.

Với tính chất lí hóa gần như Trái Đất, nhóm hành tinh bên trong đều có bề mặt là đá (nên lưu giữ được
nhiều dấu vết những vụ va chạm với các thiên thạch), nhưng chỉ trên Trái Đất mới có mặt các hợp chất hữu cơ.

Sao Thuỷ, cách Mặt Trời 0,39 AU, là hành tinh nằm gần Mặt Trời nhất và cũng là hành tinh nhỏ nhất,
không điển hình nhất trong nhóm. Nó không có khí quyển và hiện nay vẫn chưa quan sát được các hoạt động
địa chất. Cái lõi sắt to của nó gợi ý rằng nó từng có vỏ to lớn bên ngoài và cái vỏ đó đã bị lấy đi trong giai đoạn
hình thành đầu tiên bởi trọng lực của Mặt Trời.

Sao Kim, cách Mặt Trời 0,72 AU, là hành tinh kiểu Trái Đất thực sự. Giống như Trái Đất, Sao Kim có
lớp vỏ silicate dày bao bọc bên ngoài lõi sắt, cũng như một khí quyền đáng kể và bằng chứng về hoạt động địa
chất bên trong từng xảy ra trước kia, như các núi lửa. Nó khô hơn Trái Đất, và khí quyển của nó đậm đặc hơn
Trái Đất 90 lần, tuy nhiên, chứa chủ yếu thán khí và axít sunfuric.

Trái Đất, cùng vệ tinh tự nhiên Mặt Trăng, cách Mặt Trời 1 AU, là hành tinh lớn nhất trong nhóm bên
trong. Trái Đất cũng là nơi duy nhất cho thấy những minh chứng rõ ràng về hoạt động địa chất đang diễn ra. Nó
là hành tinh duy nhất có thủy quyển, kích thích sự hình thành các kiến tạo địa chất nhiều tầng. Khí quyền của nó
khác biệt căn bản so với các hành tinh trong nhóm, nó đã biến đổi với sự hiện diện của sự sống và chứa 21%
ôxi. Vệ tinh của Trái Đất, Mặt Trăng, thỉnh thoảng được coi là một hành tinh kiểu Trái Đất trong cùng quỹ đạo,
bởi vì quỹ đạo của nó quay quanh Mặt Trời không bao giờ khép lại tròn một vòng khi quan sát từ bên trên. Mặt
Trăng có nhiều đặc tính chung của những hành tinh kiểu Trái Đất khác, mặc dù nó không có lõi sắt bên trong.

Sao Hoả, cách Mặt Trời 1,5 AU, nhỏ hơn Trái Đất và Sao Kim, có khí quyển loãng gồm thán khí. Bề
mặt của nó, lỗ chỗ các núi lửa lớn và các rãnh thung lũng như các thung lũng Marineris, cho thấy rằng nó từng
có các hoạt động địa chất và chứng cứ hiện nay cho thấy rằng có thể nó còn tiếp tục đển rất gần đây (Trái Đất).
Sao Hoả có hai mặt trăng nhỏ được cho là các tiểu hành tinh bị nó tóm được.

2.6 Vành đai tiểu hành tinh

Tiểu hành tinh cũng là thiên thể chuyển động quanh Mặt Trời nhưng do có kích thước khá bé (vài chục
đến vài trăm km) nên lực hấp dẫn tạo ra không đủ để làm chúng có dạng hình cầu. Trong hệ Mặt Trời có
khoảng 100.000 tiểu hành tinh, trong đó khoảng 10% đã được đặt tên. Đại đa số tập trung vào khoảng giữa sao
Hỏa và sao Mộc.

2.7 Các hành tinh vòng ngoài

Các hành tinh vòng ngoài còn được gọi là những "ông khổng lồ khí" (gas giant), do chúng rất to lớn và
chiếm đến 99% khối lượng bay quanh Mặt Trời. Kích thước khổng lồ của chúng và khoảng cách của chúng đến
Mặt Trời có nghĩa là chúng có thể giữ lại đa phần hydro và heli bị đẩy ra từ vòng trong do quá nhẹ.

Sao Mộc, cách Mặt Trời 5,2 AU, là hành tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Nó có khối lượng gấp 318 lần
Trái Đất, lớn gấp 2,5 lần khối lượng của tất cả các hành tinh khác gộp lại. Thành phần của nó gồm phần lớn
gồm hydro và heli, không khác nhiều so với Mặt Trời. Ba trong số 63 vệ tinh của nó, Ganymede, Io và Europa,
có các yếu tố chung với các hành tinh, như có núi lửa và nguồn nhiệt bên trong. Sao Mộc có một vành đai đá
mờ.

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 3 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Sao Thổ, cách Mặt Trời 9,5 AU, nổi tiếng vì hệ thống vành đai rộng của mình, có nhiều tính chất chung
giống với Sao Mộc, như thành phần khí quyển, mặc dù khối lượng của nó nhỏ hơn nhiều, chỉ gấp 95 lần khối
lượng Trái Đất. Hai trong số 49 vệ tinh của nó, Titan và Enceladus, có các dấu hiệu hoạt động địa chất, mặt dù
chúng được tạo thành chính từ băng. Titan là vệ tinh duy nhất trong Hệ Mặt Trời có sự hiện diện của một khí
quyển đáng kể.

Sao Thiên Vương, cách Mặt Trời 16,9 AU, và Sao Hải Vương, cách Mặt Trời 30 AU, trong khi vẫn có
nhiều đặc tính chung với các "ông khổng lồ khí" khác nhưng chúng giống nhau hơn so với Sao Mộc và Sao
Thổ. Cả hai đều nhỏ, chỉ gấp 14 và 17 lần Trái Đất. Khí quyển của chúng chứa một phần trăm nhỏ hơn hydro và
heli, và một phần lớn hơn "băng", như nước, amoniắc và mêtan. Vì lý do này một số nhà thiên văn cho rằng
chúng thuộc đặc tính riêng của chúng, "các hành tinh kiểu Sao Thiên Vương", hay "các ông khổng lồ băng". Cả
hai hành tinh đều có hệ vành đai tối và mỏng. Vệ tinh lớn nhất của Sao Hải Vương là Triton, có hoạt động địa
chất.

Vòng ngoài còn có các vật thể kiểu sao chổi có quỹ đạo kỳ lạ nằm trong vùng giữa Sao Thiên Vương và
Sao Hải Vương, gọi là centaur. Centaur đầu tiên được khám phá là 2060 Chiron, đã được cho là sao chổi vì nó
cho thấy một cái đuôi đang phát triển, hay đầu sao chổi, giống như các sao chổi thường thể hiện khi nó đến gần
Mặt Trời.

2.8 Ngoài Hải Vương

Vùng bên ngoài Sao Hải Vương chứa các thiên thể ngoài Hải Vương Tinh, phần lớn còn chưa được
khám phá.

2.9 Vành đai Kuiper

Sự biểu diễn tưởng tượng của vành đai Kuiper và xa hơn là đám mây Oort.

Vùng này, thực tế bắt đầu bên trong quỹ đạo Sao Hải Vương, là một vành đai gồm những mảnh vỡ,
giống với vành đai các tiểu hành tinh nhưng được tạo thành chủ yếu từ băng và rộng lớn hơn. Nó nằm ở khoảng
giữa 30 AU và 50 AU tính từ Mặt Trời. Vùng này được cho là nơi khởi nguồn của những sao chổi ngắn hạn,
như sao chổi Halley. Mặc dù người ta ước tính có khoảng 70.000 vật thể ở vành đai Kuiper có đường kính lớn
hơn 100km, tổng khối lượng của vành đai Kuiper rất nhỏ, có lẽ tương đương hay hơi lớn hơn khối lượng Trái
Đất.

Nhiều vật thể ở vành đai Kuiper có quỹ đạo bên ngoài mặt phẳng hoàng đạo. Sao Diêm Vương được coi
là một phần của vành đai Kuiper. Giống như những vật thể khác trong vành đai, nó có quỹ đạo lệch tâm
nghiêng 17 độ so với mặt phẳng hoàng đạo và ở khoảng cách từ 29,7 AU ở điểm cận nhật đến 49,5 AU ở điểm
viễn nhật. Các vật thể thuộc vành đai Kuiper có quỹ đạo giống với Sao Diêm Vương được gọi là thiên thể kiểu
Diêm Vương Tinh. Một số vật thể có quỹ đạo tương tự nhau cũng được gộp thành nhóm. Những vật thể còn lại
của vành đai Kuiper với các quỹ đạo "truyền thống" hơn, được xếp vào loại thiên thể ngoài Sao Hải Vương
(Cubewanos).

Vành đai Kuiper có một khoảng trống rất rõ ràng. Ở khoảng cách 49 AU, số lượng các vật thể được
quan sát thấy giảm sút, tạo thành "Vách đá Kuiper" và hiện vẫn chưa biết nguyên nhân của nó. Một số người
cho rằng một thứ gì đó phải tồn tại ở phía ngoài vành đai và đủ lớn tới mức quét sạch mọi mảnh vỡ còn lại, có
lẽ lớn như Trái Đất hay Sao Hoả. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn còn gây tranh cãi.

2.10 Sao Diêm Vương và Charon

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 4 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Sao Diêm Vương là một hành tinh lùn nằm trong vành đai Kuiper. Hiện vẫn còn đang tranh cãi liệu
Charon có còn là một vệ tinh của Sao Diêm Vương hay được xếp loại thành một hành tinh lùn vì đây là một hệ
kép.

2.11 Đĩa phân tán

Trải rộng hơn ra phía bên ngoài của Vành đai Kuiper là đĩa phân tán. Các vật thể của đĩa phân tán được
cho rằng có cùng nguồn gốc với Vành đai Kuiper nhưng bị bắn vào các quỹ đạo thất thường hơn ở ngoài rìa.

Một vật thể đặc biệt của đĩa phân tán là 2003 UB313, được tìm ra vào năm 2003 nhưng được khẳng định
hai năm sau đó bởi Mike Brown (Caltech), David Rabinowitz (Đại học Yale) và Chad Trujillo (Gemini
Observatory), đã khởi động lại cuộc tranh cãi cũ về cái gì tạo nên một hành tinh bởi vì nó lớn hơn Sao Diêm
Vương tới 30%, với đường kính ước tính khoảng 1864 dặm. Hiện nay nó không có tên, nhưng được trao cho cái
tên tạm là 2003 UB313; nó cũng được gọi là "Xena" bởi những người tìm ra nó, lấy tên một nhân vật truyền
hình. Nó có nhiều điểm tương đồng với Sao Diêm Vương: quỹ đạo của nó rất lệch tâm, với điểm cận nhật là
38,2 AU (gần bằng khoảng cách của Sao Diêm Vương tới Mặt Trời) và điểm viễn nhật 97,6 AU, và nó rất
nghiêng so với mặt phẳng hoàng đạo, tới 44 độ, hơn nhiều so với bất kỳ vật thể nào được biết đến trong Hệ Mặt
Trời, trừ một vật thể mới được khám phá gần đây là 2004 XR190. Giống như Sao Diêm Vương, nó được tin
rằng được cấu thành phần lớn từ đá và băng, và có một mặt trăng. Tuy nhiên, việc nó và các vật thể lớn nhất
trong vành đai Kuiper phải được coi là hành tinh hay Sao Diêm Vương phải bị xếp hạng lại là một thiên thể
ngoài Hải Vương Tinh vẫn còn là vấn đề chưa được giải quyết.

2.12 Eris

Eris là hành tinh lùn lớn nhất trong Thái Dương hệ và là thiên thể thứ chín quay quanh Mặt Trời (tính
theo khoảng cách).

2.13 Khả năng về một vùng mới

Sedna, vật thể kiểu sao Diêm Vương mới được tìm thấy với một quỹ đạo khổng lồ, hình elip với thời
gian quay quanh Mặt Trời là 10.500 năm cùng điểm cận nhật và viễn nhật vào cỡ 76 AU và 928 AU. Ở điểm
cận nhật nó là một thành viên của vành đai Kuiper và có thể là thành viên đầu tiên của một vùng mới. 2000
CR105 cũng được cho là một thành viên của vùng này.

1.14 Các sao chổi

Các sao chổi phần lớn được tạo thành từ băng dễ bay hơi và có quỹ đạo rất lệch tâm, thường điểm cận
nhật ở bên trong quỹ đạo của các hành tinh vòng trong và điểm viễn nhật xa bên ngoài Sao Diêm Vương. Các
sao chổi chu kỳ ngắn có điểm viễn nhật ở gần hơn, tuy nhiên, một sao chổi già thường bị bay hơi hết những gì
có thể bay được khi đi qua gần Mặt Trời thường có nhiều đặc tính của tiểu hành tinh. Các sao chổi chu kỳ dài có
chu kỳ kéo dài hàng nghìn năm. Một số sao chổi có quỹ đạo hình hyperbol có thể có nguồn gốc bên ngoài Hệ
Mặt Trời.

2.15 Các vùng ở xa hơn

Điểm kết thúc của Hệ Mặt Trời và là điểm khởi đầu của không gian giữa các sao vẫn chưa được định
nghĩa chính xác. Biên giới này là nới bằng hai áp suất đẩy ra của gió Mặt Trời cân bằng với lực hấp dẫn từ bên
trong Hệ Mặt Trời.

Nhật quyển trải rộng ra phía ngoài tạo thành một hình cầu vĩ đại có bán kính khoảng 95 AU, hay gấp ba
lần bán kính quỹ đạo của Sao Diêm Vương. Rìa ngoài của hình cầu là điểm mà ở đó gió Mặt Trời va chạm với

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 5 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
các loại gió đối nghịch khác của không gian giữa các sao. Ở đó gió đi chậm lại, đặc lại và trở nên rối
loạn hơn, tạo thành một kết cấu hình bầu dục vĩ đại được gọi là nhật bao (heliosheath) có hình dáng và tính chất
rất giống đuôi một sao chổi; trải dài ra bên ngoài thêm 40 AU nữa về phía gió sao, nhưng có đuôi về hướng
ngược lại dài hơn rất nhiều lần. Biên giới bên ngoài của vỏ, là nhật mãn (heliopause), là điểm mà tại đó gió Mặt
Trời cuối cùng cũng kết thúc, và tiến vào không gian liên hành tinh. Phía bên kia của heliopause, ở khoảng 230
AU, có hình cung, là một "đường rẽ nước" do Mặt Trời để lại khi nó di chuyển trong Ngân Hà.

Nhưng cả điểm này cũng không được cho là bên ngoài Hệ Mặt Trời, vì lực hấp dẫn của Mặt Trời vẫn
thống trị thậm chí cho tới Mây Oort. Đám mây Oort là một khối to lớn những vật thể đóng băng, hiện vẫn chỉ có
tính giả thuyết, được cho là nguồn gốc của những sao chổi thời gian dài và bao quanh Hệ Mặt Trời giống như là
một cái vỏ ở khoảng cách 50.000 đến 100.000 AU phía ngoài Mặt Trời, hay thậm chí là nửa đường đến hệ sao
khác. Vì thế, đa phần của Hệ Mặt Trời vẫn còn chưa được nghiên cứu.

2.16 Trong dải Ngân Hà

Hệ Mặt Trời là một phần của thiên hà có tên gọi là Ngân Hà (Sông sao) hay Milky Way (dòng sữa)
(trong văn chương còn gọi là sông Ngân), đây là một thiên hà xoắn ốc với đường kính khoảng 100.000 năm ánh
sáng chứa khoảng 200 tỷ ngôi sao, trong đó Mặt Trời của chúng ta là một ngôi sao thông thường điển hình.

Hệ Mặt Trời nằm trong Bông Địa phương ở cánh tay của chòm sao Lạp Hộ thuộc Ngân Hà. Khoảng
cách từ Hệ Mặt Trời tới tâm của Ngân Hà khoảng từ 25.000 đến 28.000 năm ánh sáng. Vận tốc của hệ Mặt Trời
trên quỹ đạo là khoảng 220 km trên s, và nó hoàn thành một chu kỳ quay khoảng 226 triệu năm. Tại vị trí của
Hệ Mặt Trời trong dải Ngân Hà thì vận tốc vũ trụ cấp bốn là khoảng 1.000 km/s (tính theo người quan sát ở Trái
Đất).

Xung quanh hệ Mặt Trời, trong vòng bán kính cách chúng ta (Trái Đất) 5 parsec (khoảng dưới 17 năm
ánh sáng) hiện các nhà khoa học đang thống kê được 49 hệ sao, trong đó có 65 sao sáng và 4 sao lùn nâu

2.17 Proxima Centari

Ngôi sao gần hệ Mặt Trời nhất trong dải Ngân Hà là sao lùn đỏ Proxima Centauri trong chòm sao Bán
Nhân Mã, cách chúng ta khoảng 4.243±0.002 năm ánh sáng. Cạnh đó là sao đôi Alpha Centauri 4.365±0.007
năm ánh sáng. Sau đó là sao Barnard với khoảng cách 5.98 ± 0.003 năm ánh sáng.

Hệ Mặt Trời có quỹ đạo rất không bình thường trong dải Ngân Hà. Nó vừa rất gần với quỹ đạo tròn vừa
gần với khoảng cách chính xác mà từ đó vận tốc quỹ đạo phù hợp với vận tốc của các bước sóng nén tạo ra các
nhánh xoắn ốc. Hệ Mặt Trời thuộc về nhánh trong các nhánh xoắn ốc có thể tạo thành sự sống giống như trên
Trái Đất. Bức xạ từ các siêu tân tinh trong các nhánh xoắn ốc trên lý thuyết có thể tiêu diệt hay ngăn cản mọi sự
sống trên bề mặt các hành tinh. Khác với các phần còn lại của các nhánh xoắn ốc, Trái Đất có thể là một sự
khác thường do nó có khả năng tạo thành các hình thái khác nhau của sự sống trên bề mặt của nó.

2.17 Nguồn gốc và sự tiến hoá

Lịch sử Hệ Mặt Trời bắt đầu từ cách đây khoảng 5 tỷ năm, với sự hình thành từ một đám mây thể khí
gọi là đám bụi Mặt Trời, theo giả thuyết được đưa ra lần đầu tiên năm 1755 bởi Immanuel Kant và được trình
bày một cách độc lập bởi Pierre-Simon Laplace.

Để tính ra tuổi Hệ Mặt Trời, có thể đo lượng còn lại của các đồng vị phóng xạ không bền vững không có
nguồn sinh ra liên tục sau khi Hệ Mặt Trời hình thành. Bằng cách quan sát xem các đồng vị này đã suy giảm
đến mức độ nào, đồng thời biết được chu kỳ bán rã của chúng, có thể tính ra tuổi của chúng. Những hòn đá cổ
nhất trên Trái Đất ước tính 3,9 tỷ năm tuổi, tuy nhiên rất khó để tìm được những hòn đá đó vì Trái Đất đã hoàn

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 6 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
toàn thay đổi bề mặt của nó. Các thiên thạch, vốn được hình thành trong giai đoạn ban đầu của đám bụi mặt
trời, được tìm thấy có tuổi già nhất là 4.6 tỷ năm, suy ra Hệ Mặt Trời đã được hình thành từ cách đây ít nhất 4.6
tỷ năm.

Đám bụi Mặt Trời ban đầu có hình dáng gần giống hình cầu, đường kính 100 AU và có khối lượng bằng
2 đến 3 lần khối lượng Mặt Trời. Theo thời gian, một sự nhiễu loạn, có thể một sao siêu mới bên cạnh, gây sóng
hấp dẫn xung kích vào không gian của đám bụi, làm nén đám bụi này, đẩy vật chất của nó sâu vào bên trong, tới
lúc lực hấp dẫn vượt qua áp suất khí bên trong và nó bắt đầu sụp đổ.

Khi đám bụi sụp đổ, nó giảm kích thước, điều này làm nó xoay tròn nhanh hơn để giữ mô men động
lượng bảo toàn. Các định luật cơ học cho thấy kết quả của các lực hấp dẫn, áp suất khí, và lực ly tâm trong
chuyển động quay khiến cho đám bụi bắt đầu trở nên dẹt thành hình một cái đĩa quay tròn với một chỗ phình
lên ở giữa, gọi là đĩa bụi Mặt Trời. Mặt phẳng trung bình của đĩa bụi này rất gần với mặt phẳng hoàng đạo sau
này.

Khi đĩa bụi Mặt Trời trở nên đặc hơn, một hình thức đầu tiên của sao trung tâm (tức Mặt Trời sau này)
được tạo thành ở giữa, gọi là tiền Mặt Trời. Hệ này được sự ma sát của các viên đá va chạm vào nhau làm nóng
lên. Những nguyên tố nhẹ hơn như hydro và heli thoát khỏi phần tâm và tràn ra phía rìa ngoài của đĩa, để lại các
nguyên tố nặng tập trung bên trong, hình thành bụi và đá ở trung tâm. Các nguyên tố nặng hơn kết thành khối
với nhau để tạo thành các tiểu hành tinh và các tiền hành tinh. Ở vùng ngoài của tinh vân này, băng và các khí
dễ bay hơi còn tồn tại, và như một kết quả, các hành tinh bên trong là đá và các hành tinh bên ngoài có đủ khối
lượng để giữ lại lượng lớn các khí nhẹ, như hydro và heli.

Sau 100 triệu năm, áp suất và sự cô đặc hydrô ở trung tâm của đĩa bụi sụp đổ trở lên đủ lớn để tiền Mặt
Trời duy trì các phản ứng nhiệt hạch. Kết quả của việc này, hydro bị biến thành heli trong các phản ứng đó, và
một lượng lớn nhiệt được toả ra.

Trong thời gian đó, tiền Mặt Trời biến thành Mặt Trời và các tiền hành tinh và tiền tiểu hành tinh biến
thành các hành tinh thông qua sự tập trung dần dần khối lượng. Tất cả các hành tinh được hình thành trong một
thời gian ngắn, khoảng vài triệu năm. Chúng đều có quỹ đạo nằm gần mặt phẳng trung bình của đĩa bụi ban
đầu; nghĩa là mặt phẳng hoàng đạo (mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất) cũng nằm gần mặt phẳng trung bình này
và gần với các mặt phẳng quỹ đạo của các hành tinh khác.

2.18 Khám phá và thám hiểm:

2.18.1 Lịch sử

Các hành tinh bên trong Sao Thổ từng được các nhà thiên văn ngày xưa biết đến, họ quan sát sự di
chuyển của những vật thể đó so với những vùng có vẻ đứng im gồm các ngôi sao. Sao Kim và Sao Thuỷ vốn đã
được quan sát là hai vật thể riêng biệt dù có khó khăn trong việc kết nối "Sao hôm" và "Sao mai". Họ cũng biết
rằng hai vật thể không phải một điểm, Mặt Trời và Mặt Trăng, di chuyển trên cùng một cái nền đứng im. Tuy
nhiên, sự hiểu biết về trạng thái của những vật thể đó hoàn toàn thiếu chính xác.

Trạng thái và cấu trúc của Hệ Mặt Trời vẫn còn bị hiểu biết chưa chính xác vì ít nhất là hai lý do. Trái
Đất đã bị coi là đứng im, và sự di chuyển của các vật thể trên trời vì thế cũng chỉ là bên ngoài. Mặt Trời đã bị
coi là quay quanh Trái Đất, giống như các hành tinh hay thiên thể khác. Quan niệm này về vũ trụ, với Trái Đất
ở trung tâm, được goi là hệ địa tâm. Nhiều vật thể trong hệ mặt trời và các hiện tượng không được nhận thức
đầy đủ nếu không có trợ giúp của kỹ thuật.

Trong vài trăm năm qua, các tiến bộ về nhận thức và kỹ thuật đã giúp con người hiểu thêm nhiều về hệ
mặt trời. Sự nhận thức đầu tiên và có tính nền tảng là cuộc cách mạng của Nicolaus Copernicus cho rằng các

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 7 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
hành tinh quay quanh Mặt Trời - hệ nhật tâm - với Mặt Trời ở trung tâm. Điều đã gây sốc nhất và gây ra nhiều
tranh cãi nhất không phải là việc Mặt Trời ở trung tâm mà là Trái Đất thuộc ngoại biên, và có quỹ đạo. Các
hành tinh vốn chỉ bị coi đơn giản là các điểm trên bầu trời, nhưng nếu chính Trái Đất là một hành tinh, có lẽ
những hành tinh khác, giống như Trái Đất, chỉ là những hình cầu to lớn và cứng chắc.

Về mặt triết học, có một số sự chống đối thuyết nhật tâm. Tình trạng tự nhiên của các vật khoáng, nặng
giống như Trái Đất được tin rằng sẽ nằm im. Các hành tinh được cho rằng được cấu tạo từ vật liệu riêng biệt,
phù du (sớm nở tối tàn) và nhẹ. Mọi người từng tin rằng sự chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời làm cho
không khí biến mất khỏi bề mặt. Nếu Trái Đất đang chuyển động, các nhà thiên văn học đã có thể quan sát thị
sai của các ngôi sao, như việc các ngôi sao xuất hiện và thay đổi vị trí so với các vật thể ở xa hơn vì lý do Trái
Đất thay đổi vị trí.

Sự phát minh ra kính viễn vọng cho phép một sự tiến bộ căn bản về kỹ thuật trong việc khám phá Hệ
Mặt Trời, với kính viễn vọng đã được cải tiến của Galileo Galilei đã cho phép nhiều lợi ích trong việc khám phá
các vệ tinh của các hành tinh khác, đặc biệt là bốn vệ tinh lớn của Sao Mộc. Điều này cho thấy tất cả các vật thể
trong vụ trụ không quay quanh Trái Đất. Tuy nhiên, có thể phát minh lớn nhất của Galileo là việc hành tinh Sao
Kim có các pha giống như Mặt Trăng, chứng minh rằng nó phải quay quanh Mặt Trời.

Sau đó, vào năm 1678, Isaac Newton dùng định luật vạn vật hấp dẫn của mình giải thích lực vừa giữ
Trái Đất quay quanh Mặt Trời vừa giữ không khí không bị cuốn đi mất.

Cuối cùng, năm 1838, nhà thiên văn Friedrich Wilhelm Bessel đã thành công trong việc đo đạc thị sai
của ngôi sao 61Cygni, chứng minh một cách thuyết phục rằng Trái Đất đang chuyển động.

2.18.2 Ngày nay

Với sự khởi đầu thời đại vũ trụ, một thời đại vĩ đại trong thám hiểm đã được thực hiện bởi các chuyến
thăm dò vũ trụ không người lái được tổ chức và thực hiện bởi nhiều cơ quan vũ trụ. Tàu thăm dò vũ trụ đầu tiên
hạ cánh xuống một vật thể trong Hệ Mặt Trời là tàu thám hiểm Luna 2 của Liên Xô, nó hạ cánh xuống Mặt
Trăng năm 1959. Từ đó, ngày càng có nhiều hành tinh khác ở xa hơn được khám phá, với việc tàu vũ trụ đáp
xuống Sao Kim năm 1965, Sao Hoả năm 1976, tiểu hành tinh 433 Eros năm 2001, và vệ tinh Titan của Sao Thổ
năm 2005. Các tàu vũ trụ cũng đã tiến gần tới các hành tinh khác như Mariner 10 đi qua Sao Thuỷ năm 1973.

Tàu vũ trụ đầu tiên khám phá các hành tinh vòng ngoài là Pioneer, bay qua Sao Mộc năm 1973. Pioneer
11 là tàu đầu tiên đến Sao Thổ năm 1979. Các tàu vũ trụ Voyager đã làm một cuộc hành trình vĩ đại đến các
hành tinh vòng ngoài sau khi chúng được phòng lên năm 1977, với hai tàu bay qua Sao Mộc năm 1979 và Sao
Thổ năm 1980-1981. Voyager 2 sau đó tiến sát đến Sao Thiên Vương năm 1986 và Sao Hải Vương năm 1989.
Các tàu Voyager hiện đang ở bên ngoài quỹ đạo của Sao Diêm Vương, và đến tháng 6 năm 2006, tàu Voyager 1
đã vượt qua ranh giới của Hệ Mặt Trời.

Sao Diêm Vương vẫn chưa được thăm viếng bởi một tàu vũ trụ nào của con người dù việc NASA phóng
tàu New Horizons vào tháng 1 năm 2006 có thể làm thay đổi điều này. Tàu dự tính sẽ bay qua Sao Diêm Vương
vào tháng 7 năm 2015 và sau đó sẽ nghiên cứu thêm càng nhiều càng tốt về các vật thể trong vành đai Kuiper.

Thông qua những vụ khám phá không người lái đó, con người đã có thể có những ảnh chụp gần hơn về
đa số các hành tinh và trong trường hợp có thể hạ cánh, tiến hành các xét nghiệm về đất đá và khí quyển của
chúng. Các cuộc thám hiểm có người lái, dù sao, cũng chỉ đưa con người tới được Mặt Trăng, trong chương
trình Apollo. Lần cuối con người đáp tàu lên Mặt Trăng là vào năm 1972, nhưng những sự khám phá gần đây
về băng trong những miệng núi lửa sâu ở các vùng cực của Mặt Trăng đã gợi nên ý tưởng suy đoán rằng tàu vũ
trụ có người lái có thể quay lại Mặt Trăng trong thập kỷ tới hoặc sau đó. Chương trình phòng tàu vũ trụ có
người lái đến Sao Hoả đã được dự đoán từ nhiều thế hệ những người yêu thích thiên văn. Châu Âu (ESA) hiện

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 8 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
đang đặt kế hoạch phóng tàu có người lái khám phá Mặt Trăng và Sao Hoả như một phần của Chương trình
thám hiểm Aurora được xác nhận vào năm 2001. Hoa Kỳ cũng có một chương trình tương tự gọi là Tầm nhìn
Thám hiểm Vũ trụ năm 2004.

2.19 Giả thuyết sao đôi

Có giả thuyết cho rằng Mặt Trời có thể là một phần trong một hệ sao đôi, với một ông bạn đồng hành
được gọi là Nemesis. Nemesis được cho là có thể giải thích một số trạng thái đều đặn về thời gian của sự tuyệt
chủng của cuộc sống trên Trái Đất. Các lý thuyết cho rằng Nemesis tạo ra các xáo trộn định kỳ trong đám mây
Oort gồm các sao chổi bay quanh Hệ Mặt Trời, gây ra các "cơn mưa sao chổi". Một số chúng va chạm với Trái
Đất, gây ra sự huỷ diệt sự sống. Lý thuyết này không còn được nhiều nhà khoa học cho là nghiêm túc, phần lớn
bởi vì các quan sát hồng ngoại không thể tìm thấy bất kỳ một vật thể nào như vậy, vốn phải dễ nhận thấy với
các bước sóng đó.

Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/; Thể loại: Bài đang được viết | Hệ Mặt Trời

3. THIÊN HÀ

NGC 4414, một thiên hà xoắn ốc đặc trưng trong chòm sao Coma Berenices, với đường kính khoảng
56.000 năm ánh sáng và khoảng cách xấp xỉ 60 triệu năm ánh sáng.

Thiên hà là một tập hợp từ khoảng 10 triệu (107) đến nghìn tỷ (1012) các ngôi sao khác nhau xen lẫn bụi,
khí và có thể cả các vật chất tối xoay chung quay một khối tâm. Đường kính trung bình của thiên hà là từ 1.500
đến 300.000 năm ánh sáng. Ở dạng đĩa dẹt, thiên hà có các hình dạng khác nhau như thiên hà xoắn ốc hay thiên
hà bầu dục. Khu vực gần tâm của thiên hà có kích thước ước chừng 1.000 năm ánh sáng, và có mật độ sao cao
nhất cũng như kích thước các sao lớn nhất.

Dù vật chất tối lý thuyết dường như chiếm khoảng 90% khối lượng đa số thiên hà, tình trạng của những
thành phần không nhìn thấy được này vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Có một số bằng chứng cho thấy rằng
những hố đen khối lượng siêu lớn có thể tồn tại tại trung tâm của đa số, nếu không phải là toàn bộ, các thiên hà.

Không gian liên thiên hà, khoảng không nằm giữa các thiên hà, được lấp đầy plasma loãng với mật độ
trung bình chưa tới một nguyên tử trên mỗi mét khối. Có lẽ có hơn một trăm tỷ (1011) thiên hà trong khoảng
không gian vũ trụ có thể quan sát được của chúng ta.

Trái Đất nằm trong một hệ mặt trời thuộc một thiên hà có tên là Ngân Hà; Hệ Mặt Trời của chúng ta
nằm ở phía ngoài rìa của đĩa thiên hà Ngân Hà, trên nhánh Tráng Sĩ. Vào các buổi tối mùa hè, từ Trái Đất nhìn
vào tâm sẽ thấy một dải các sao thường được gọi là dải Ngân Hà. Tuổi của Ngân Hà được ước lượng vào
khoảng 13 tỷ năm, ngoài ra tuổi đời còn được tính bằng số vòng quay của nó.

Thiên hà gần Ngân Hà nhất có tên là thiên hà Andromeda. Các thiên hà ở gần nhau có xu hướng tiến lại
gần và sát nhập vào nhau, tạo thành một thiên hà lớn hơn.

Các thiên hà cũng giống như các hành tinh và các hệ hành tinh, chúng cũng tập hợp thành những nhóm
gọi là Quần tụ thiên hà. Các Quần tụ thiên hà lại họp lại trở thành Siêu thiên hà...

3.1 Từ nguyên

Từ thiên hà có gốc Hán-Việt là , chỉ đến sông Hà Hán , một con sông trên trời, với chiều dài rất
lớn[1].

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 9 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Trong tiếng Anh, từ galaxy xuất phát từ thuật ngữ tiếng Hy Lạp để chỉ thiên hà của chúng ta, galaxias
(γαλαξίας) hay kyklos galaktikos có nghĩa "vòng sữa" theo hình dáng biểu thị của nó trên bầu trời. Trong
Thần thoại Hy Lạp, thần Zeus đã đặt cậu con trai mới sinh với một người phụ nữ bình thường-Alcmene của
mình là Hercules lên trên bầu vú của Hera khi bà đang ngủ, nhờ thế cậu bé bú được dòng sữa thần thánh của bà
và trở thành bất tử. Hera thức dậy và nhận ra rằng cậu bé không phải con của bà: bà đẩy đứa trẻ ra và một dòng
sữa từ bầu ngực bà phun lên bầu trời đêm.

Khi các nhà thiên văn học phát hiện rằng một số vật thể trước kia từng được xếp hạng là các tinh vân
xoắn ốc trên thực tế là những đám sao khổng lồ, sự kiện này đã được gọi là "lý thuyết đảo vũ trụ"; nhưng rõ
ràng đó là sự định danh lầm lẫn, bởi vì vũ trụ có nghĩa là mọi thứ hiện hữu. Vì thế, thuật ngữ này đã bị bỏ đi,
được thay thế bởi thuật ngữ thiên hà bao hàm tổng quát mọi vật thể như vậy.

3.2 Lịch sử quan sát

Lịch sử khảo sát thiên hà của chúng ta và những thiên hà khác trong vũ trụ phần lớn có được từ cuốn
Thiên văn thiên hà của James Binney và Michael Merrifield.[2]

Năm 1610, Galileo Galilei đã sử dụng một kính viễn vọng nghiên cứu dải sáng trên bầu trời đêm được
gọi là Ngân hà và phát hiện ra rằng nó được hình thành từ số lượng vĩ đại những ngôi sao mờ. Trong một bản
luận văn năm 1755, Immanuel Kant, dựa trên công việc trước đó của Thomas Wright, để suy đoán (một cách
chính xác) rằng Thiên hà có thể là hình thể đang quay của một số lượng sao rất lớn, gắn kết với nhau bằng các
lực hấp dẫn tương tự như hệ mặt trời nhưng ở quy mô lớn hơn nhiều. Vì thế đĩa do các ngôi sao hình thành nên
sẽ được quan sát thấy như một dải băng trên bầu trời khi chúng ta đứng quan sát từ bên trong nó. Kant cũng
phỏng đoán rằng một số tinh vân quan sát được trên bầu trời đêm có thể là những thiên hà riêng biệt.

Tới cuối thế kỷ 18, Charles Messier đã biên tập một danh mục gồm 109 tinh vân sáng nhất, sau này có
thêm một bản danh sách khác lớn hơn với năm nghìn tinh vân do William Herschel biên tập. Năm 1845, Lord
Rosse xây dựng một kính viễn vọng mới và đã quan sát được sự phân biệt giữa các tinh vân xoắn ốc và tinh vân
elíp. Ông cũng đã khám phá được một số điểm đặc trưng của các tinh vân đó, đây là điểm khởi đầu cho suy
đoán sau này của Kant. Tuy nhiên, tinh vân không được tất cả mọi người chấp nhận là các thiên hà riêng rẽ ở xa
xôi cho đến khi vấn đề này được Edwin Hubble giải quyết vào đầu thập niên 1920, nhờ có một kính viễn vọng
mới. Ông đã xác định được những phần bên ngoài của một số tinh vân xoắn ốc là những tập hợp các ngôi sao
riêng lẻ và phân biệt được một số biến số Cepheid variable (Cepheid variable), vì thế cho phép ông ước tính
khoảng cách tới tinh vân: chúng quá xa để có thể được coi là một phần của Ngân hà. Năm 1936, Hubble đã đưa
ra một hệ thống xếp hạng các thiên hà vẫn còn được sử dụng tới ngày nay là Dãy Hubble.

Nỗ lực đầu tiên nhằm miêu tả hình dáng của Ngân hà và vị trí của Hệ mặt trời bên trong nó được
William Herschel tiến hành năm 1785 khi ông cẩn thận đếm số lượng các ngôi sao trên các vùng trời khác nhau.
Sử dụng cách tiếp cận khoa học hơn, năm 1920 Kapteyn đã có được một bức tranh về một thiên hà ellipsoid
(đường kính ~15 kiloparsecs) với Hệ mặt trời nằm gần trung tâm. Một phương pháp nghiên cứu khác do Harlow
Shapley tiến hành dựa trên việc liệt kê danh sách các đám hình cầu mang lại một hình ảnh khác hẳn: Ngân hà là
một đĩa dẹt với đường kính ~70 kiloparsecs và Hệ mặt trời nằm cách xa trung tâm. Cả hai cách thức trên đều
không thể giải thích được sự thu hút ánh sáng của bụi liên sao hiện diện trong mặt phẳng thiên hà; Robert Julius
Trumpler từng xác định số lượng hiệu ứng này năm 1930 khi nghiên cứu những cụm mở (open cluster), bức
tranh hiện nay về thiên hà của chúng ta như đã được miêu tả phía trên.

Năm 1944, Hendrik van de Hulst đã dự đoán sự tồn tại bức xạ vi sóng ở chiều dài 21 cm, phát sinh từ
khí hydrô nguyên tử liên sao; bức xạ này đã được quan sát thấy năm 1951. Bức xạ này cho phép sự nghiên cứu
sâu hơn về Thiên hà, bởi vì nó không bị ảnh hưởng bởi sự hấp thu của bụi và sự dịch chuyển hiệu ứng doppler
của nó có thể được dùng để tính ra chuyển động của khí trong Thiên hà. Những quan sát đó dẫn tới yêu cầu về
một cấu trúc vạch đang quay tại trung tâm Thiên hà. Với những kính viễn vọng radio ngày càng cải tiến, các

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 10 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
nhà thiên văn học đã có thể truy tìm dấu vết khí hydro trong các thiên hà khác. Trong thập kỷ 1970 nó được
khám phá khi Vera Rubin nghiên cứu tốc độ quay của khí trong những thiên hà mà tổng khối lượng những vật
chất nhìn thấy (từ các ngôi sao và khí) không giải thích chính xác tốc độ quay của khí. Vấn đề quay thiên hà này
được cho là sẽ được giải thích bởi sự hiện diện của một khối lượng lớn những vật chất tối không quan sát được.

Từ đầu thập kỷ 1990, Kính viễn vọng vũ trụ Hubble đã cung cấp cho chúng ta những quan sát tốt hơn.
Một trong số những điều mới được khám phá là vật chất tối không nhìn thấy trong thiên hà của chúng ta không
chỉ gồm riêng những ngôi sao nhỏ và mờ. Hubble Deep Field, một vùng nhận bức xạ vũ trụ từ rất lâu và khá
trống rỗng trên bầu trời, cung cấp bằng chứng cho thấy có khoảng một trăm bảy mươi tỷ thiên hà trong vũ trụ.
Những kỹ thuật thám sát hiện đại sử dụng quan phổ không thể nhìn thấy đối với con người (kính thiên văn
radio, máy ảnh hồng ngoại, kính thiên văn tia x), cho phép thám sát được các thiên hà khác chưa được Hubble
quan sát. Nói chính xác hơn, những cuộc thám sát thiên hà trong vùng tránh thoát (vùng bầu trời bị Ngân Hà
ngăn chặn) đã cho thấy sự tồn tại của một số thiên hà khác.

3.3 Các kiểu thiên hà

Có ba kiểu thiên hà chính: elíp, xoắn ốc, và không đều. Một cách miêu tả các kiểu thiên hà khác hơi
rộng hơn dựa trên hình dáng bên ngoài của chúng là dãy Hubble. Bởi vì dãy Hubble hoàn toàn dựa trên hình
thức nhìn thấy bên ngoài, nó có thể thiếu một số đặc điểm quan trọng của thiên hà như tỷ lệ hình thành sao
(trong các starburst galaxy) hay hoạt động tại lõi (trong các thiên hà hoạt động).

Thiên hà của chúng ta, Ngân hà, thỉnh thoảng được gọi đơn giản là Thiên hà (viết hoa), là một thiên hà
xoắn ốc có vạch kẻ hình đĩa 30 kiloparsecs hay đường kính khoảng một trăm nghìn năm ánh sáng và dày hàng
nghìn năm ánh sáng. Nó chứa khoảng 3×1011 (ba trăm tỷ) ngôi sao và có tổng khối lượng khoảng 6×1011 (sáu
trăm tỷ) lần Hệ mặt trời.

Trong các thiên hà xoắn ốc, những cánh tay xoắn có hình gần xoắn ốc loga, một mô hình về lý thuyết có
thể là kết quả của một sự nhiễu loạn của một khối lượng các ngôi sao lớn không có cùng vận tốc quay. Giống
như các ngôi sao, các cánh tay xoắn cũng quay quanh tâm, nhưng chúng quay với tốc độ góc không đổi. Điều
này có nghĩa các ngôi sao đi vào và đi ra khỏi các cánh tay xoắn ốc. Các cánh tay xoắn được cho là những vùng
có mật độ cao hay là vùng của các sóng mật độ. Khi các ngôi sao đi vào một cánh tay, chúng chậm lại, vì thế
tạo ra mật độ lớn hơn; nó tương tự như một làn "sóng" chậm lại di chuyển dọc theo một con đường cao tốc đầy
những xe đang chuyển động. Các cánh tay có thể quan sát được bởi mật độ cao tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hình thành sao và vì thế chúng cũng là nơi chứa nhiều ngôi sao sáng và sao trẻ.

Dù đa số thiên hà hiện biết là các thiên hà elíp hay thiên hà xoắn ốc, đa số các thiên hà trong vũ trụ có lẽ
là các thiên hà lùn. Những thiên hà tí hon này nhỏ hơn khoảng một trăm lần so với Ngân hà, chứa chỉ vài triệu
ngôi sao. Nhiều thiên hà lùn có thể quay quanh một thiên hà lớn duy nhất; Ngân hà có ít nhất một tá vệ tinh như
vậy. Các thiên hà lùn cũng có thể được xếp hạng là elíp, xoắn ốc hay không đều. Bởi vì các thiên hà elíp lùn ít
giống với những thiên hà elíp lớn, chúng thường được gọi là thiên hà hình cầu lùn.

3.4 Thiên hà hoạt động

Một tỷ lệ những thiên hà chúng ta có thể quan sát thấy được xếp hạng là các thiên hà hoạt động. Có
nghĩa là, một lượng lớn trong tổng năng lượng phát ra từ nó là từ một nguồn riêng biệt chứ không phải là từ các
ngôi sao, bụi và môi trường liên sao. Mô hình tiêu chuẩn cho Thiên hà hoạt động dựa trên việc phát sinh năng
lượng từ vật chất rơi vào trong một hố đen khối lượng siêu lớn ở vùng trung tâm.

Các thiên hà phát ra bức xạ năng lượng cao ở dạng tia x được xếp hạng là các Thiên hà Seyfert, quasars
và blazar. Các thiên hà hoạt động phát ra tần số radio từ relativistic jet phun ra từ lõi được xếp hạng là Thiên hà

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 11 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
radio. Một mô hình thống nhất của các kiểu thiên hà đó giải thích sự khác biệt của chúng dựa trên góc nhìn của
người quan sát.

3.5 Các cấu trúc ở tầm vóc lớn hơn

Rất ít thiên hà tồn tại biệt lập; chúng được gọi là các trường thiên hà (field galaxies). Đa số thiên hà là
ranh giới hấp dẫn của một số thiên hà khác. Các cấu trúc này gồm tới khoảng 50 thiên hà được gọi là các nhóm
thiên hà, và những cấu trúc lớn hơn nữa có thể chứa nhiều nghìn thiên hà được gộp vào một vùng vào đường
kính khoảng vài megaparsec và được gọi là các đảo. Các đảo thiên hà thường có một thiên hà elíp lớn ở giữa,
cùng với thời gian nó dần tiêu diệt các thiên hà vệ tinh xung quanh bằng lực thủy triều và cướp lấy khối lượng
của chúng. Các Siêu đảo là những tập hợp vĩ đại tới hàng chục nghìn thiên hà, siêu đảo có mặt trong các đảo,
các nhóm và thỉnh thoảng tồn tại độc lập; ở mức siêu đảo, các thiên hà được sắp xếp thành các phiến và các sợi
bao quanh khoảng những chân không lớn. Trên mức này, vũ trụ dường như đẳng hướng và đồng nhất.

Thiên hà của chúng ta là một thành viên của Nhóm địa phương (Local Group), với thiên hà ưu thế là
Andromeda; tổng thể Nhóm địa phương chứa khoảng ba mươi thiên hà trong khoảng không gian đường kính
khoảng một megaparsec. Nhóm địa phương là một phần của Siêu đảo Virgo, với đảo ưu thế là Virgo (thiên hà
của chúng ta không phải là một thành viên của nó).

3.6 Sự thành tạo và quá trình phát triển thiên hà

Việc nghiên cứu sự thành tạo thiên hà và quá trình phát triển của nó là nỗ lực nhằm giải đáp câu hỏi về
việc các thiên hà đã hình thành như thế nào và con đường phát triển của nó trong lịch sử vũ trụ. Một số lý thuyết
về vấn đề này hiện đã được chấp nhận rộng rãi, nhưng đây vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu sôi động trong vật lý
thiên văn.

3.6.1 Thành tạo

Phương thức thành tạo thiên hà là một câu hỏi mở lớn trong thiên văn học. Các lý thuyết có thể được
chia thành hai nhóm chính: từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên. Các lý thuyết từ trên xuống dưới như mô
hình Eggen–Lynden-Bell–Sandage (ELS), các tiền thiên hà hình thành trong một vụ sụp đổ đồng thời ở mức độ
lớn kéo dài khoảng một trong triệu năm.[3] Các lý thuyết từ dưới lên như mô hình Searle-Zinn (SZ), các đảo
hình cầu hình thành trước, và sau đó một số vật thể như vậy sẽ bồi tụ để hình thành một thiên hà lớn hơn. Các lý
thuyết hiện đại phải được sửa đổi để tính đến sự hiện diện có thể của những quầng vật chất tối lớn. Một phác
thảo mô hình thành tạo thiên hà như sau.

Một thời gian ngắn sau khi tái tổ hợp, vật chất baryon bắt đầu cô đặc xung quanh các quầng vật chất tối
lạnh. Các ngôi sao quầng tốc độ cao không kim loại (được gọi là Sao Population III) là những vật thể đầu tiên
phát triển xung quanh một tiền thiên hà khi nó bắt đầu cô đặc lại. Các ngôi sao vĩ đại nhanh chóng trở thành
siêu sao mới, nhả ra các nguyên tố nặng vào không gian liên sao. Trong vài tỷ năm sau đó, các cụm hình cầu, hố
đen siêu lớn ở trung tâm và chỗ phồng thiên hà của các sao Population II không kim loại bắt đầu hình thành.
Trong vòng hai tỷ năm, các vật liệu còn lại rơi vào một đĩa tiền thiên hà. Thiên hà sẽ tiếp tục thu hút các vật liệu
rơi vào từ các đám mây tốc độ cao và các thiên hà lùn trong suốt quãng đời của nó; vòng sinh sản và chết đi của
các ngôi sao sẽ làm vật liệu nặng trở nên phong phú, cuối cùng cho phép sự thành tạo các hành tinh.

Có lẽ chúng ta vẫn chưa tìm thấy thiên hà già nhất, IOK-1, được Masanori Iye thuộc Đài quan sát Thiên
văn Quốc gia Nhật Bản sử dụng Kính viễn vọng Subaru tại Hawaii quan sát thấy tháng 9 năm 2006. Nó phát ra
bức xạ Lyman alpha có mức độ chuyển dịch về phía đỏ 6.96, nghĩa là nó đã có mười ba tỷ năm tuổi. Trong khi
một số nhà khoa học khác tuyên bố các vật thể khác (như Abell 1835 IR1916) thậm chí có thể còn già hơn, tuổi
và thành phần của IOK-1 được xác định với độ chính xác cao hơn.[4]

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 12 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Sự tồn tại của những tiền thiên hà già như vậy cho thấy chúng có thể đã từng phát triển trong cái gọi là
"Thời Đen tối" (trước các thế hệ sao đầu tiên) từ không gian không quy luật và không đẳng hướng của thời kỳ
tái tổ hợp, khoảng ba trăm ngàn năm sau Big Bang. Những sự không quy luật như vậy đã được quan sát thấy
bởi Kính thiên văn Vi sóng Không đẳng hướng Wilkinson (WMAP) năm 2003.

Những bằng chứng thêm nữa về mô hình hình thành thiên hà như vậy có được khi nghiên cứu các ngôi
sao Population III già. Ngôi sao khổng lồ, HE0107-5240, được các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học
Hamburg phát hiện năm 2002, được cho là ngôi sao già nhất từng được phát hiện trong Ngân hà, bởi không
giống các ngôi sao trẻ, rõ ràng nó không chưa kim loại. (Xem [1].) Kể từ đó, một số ngôi sao rất già khác (như
HE 1327) cũng đã được phát hiện.

3.6.2 Phát triển

Những nghiên cứu cho thấy Ngân hà đang di chuyển về phía Thiên hà Andromeda ở cạnh với tốc độ
130 km/s, và tùy theo sự di chuyển của cả hai phía, hai thiên hà có thể sẽ va chạm vào nhau trong khoảng năm
hay sáu tỷ năm nữa. Những vụ va chạm thiên hà như vậy xảy ra khá thường xuyên. Với khoảng cách xa xôi
giữa các ngôi sao như đã biết, đa phần các hệ sao vẫn tồn tại an toàn sau những vụ va chạm như vậy. Tuy nhiên
sự tước đoạt hấp dẫn của khí liên sao và bụi vốn tạo nên những cánh tay xoắn sẽ tạo ra một dải dài các ngôi sao,
tương tự như điều quan sát thấy ở thiên hà NGC 250 hay Thiên hà Antennae.

Dù Ngân hà chưa từng va chạm với một thiên hà khác có kích cỡ tương tự với Thiên hà Andromeda,
bằng chứng về những vụ va chạm trong quá khứ của Ngân hà với các thiên hà lùn nhỏ hơn ngày càng có nhiều
hơn.

Các thiên hà xoắn ốc, như Ngân hà, chỉ tạo ra các thế hệ sao mới khi chúng còn sở hữu các đám mây
phân tử hydro liên sao đặc trong những cánh tay xoắn của chúng. Các thiên hà elíp đã mất phần lớn khí này và
mất khả năng tạo sao. Tuy nhiên, việc cung cấp nguyên liệu thành tạo sao cũng có giới hạn; khi các ngôi sao
biến khí hydro thành các nguyên tố nặng hơn, sẽ ít có sao mới được thành lập hơn.[cần dẫn nguồn]

Sau sự kết thúc của quá trình thành tạo sao trong một trăm tỷ năm, "thời đại sao" sẽ kết thúc sau khoảng
mười nghìn tỷ tới một trăm nghìn tỷ năm (1013–1014 năm), khi những ngôi sao nhỏ nhất và có tuổi lớn nhất
trong thể cầu dạng sao của chúng ta, những ngôi sao lùn đỏ bắt đầu mờ đi. Cuối thời đại sao các thiên hà sẽ gồm
các vật thể nén: các sao lùn nâu, các hố đen lùn, các ngôi sao lùn trắng lạnh lẽo, các sao neutron, và các hố đen.
Cuối cùng, như một kết quả của sự giãn hấp dẫn, toàn bộ các ngôi sao hoặc sẽ rơi vào hố đen siêu lớn ở trung
tâm các thiên hà, hoặc lao vào trong không gian liên thiên hà sâu thẳm sau các quá trình va chạm.

3.6.3 Sinh vật học thiên hà

Sinh vật học như chúng ta biết hiện nay có lẽ chỉ tồn tại xung quanh các ngôi sao đơn, kiểu G thế hệ thứ
ba tại những vùng giữa các cánh tay xoắn của các thiên hà xoắn ốc, tương tự Mặt trời. Các Thiên hà elíp, là kết
quả của nhiều quá trình va chạm thiên hà, nhanh chóng mất các đám mây khí hydro liên sao, và không thể tạo ra
các thế hệ sao mới. Các thiên hà không đều có ít những ngôi sao già và vì thế dường như ít có mức độ tập trung
đầy đủ các nguyên tố nặng vốn là điều kiện cần để các hệ sinh thái kiểu Trái đất có thể phát triển. Thậm chí bên
trong các thiên hà xoắn ốc, sinh vật học như chúng ta biết hiện nay dường như chỉ hạn chế bên trong các cánh
tay xoắn, bởi vì trong quầng thiên hà hay phía ngoài các cánh tay xoắn các nguyên tố nặng không tồn tại nhiều,
trong khi các đám mây khí xung quanh trung tâm thiên hà lại có mức độ tập trung quá nhiều các nguyên tố
nặng, và những phản ứng liên sao xảy ra quá thường xuyên khiến những hành tinh kích cỡ trái đất khó hình
thành trên một quỹ đạo tròn ổn định xung quanh các ngôi sao của chúng.

Lấy từ http://vi.wikipedia.org/ ; Thể loại: Thiên hà | Thuật ngữ thiên văn học

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 13 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
4. Thiên hà mắt đen: Blackeyegalaxy
Hình ảnh này của Messier 64 (M64) được chụp bằng Hubble's Wide Field Planetary Camera 2
(WFPC2). Các hình ảnh màu sắc là một hỗn hợp chuẩn bị của các di sản Hubble đội từ hình ảnh được chụp qua
bốn bộ lọc màu khác nhau. Các bộ lọc màu xanh cô lập và gần ánh sáng hồng ngoại, cùng với ánh sáng màu đỏ
phát ra từ hydro nguyên tử và ánh sáng màu xanh lá cây từ Strömgren y.

M64 có một ban nhạc ngoạn mục hấp thụ tối tăm của bụi ở phía trước của nhân tươi sáng của thiên hà,
tạo ra tăng tới biệt danh của các Mắt đen hoặc Evil Eye thiên hà.

Thoạt nhìn, M64 dường như là một pinwheel khá bình thường-shaped thiên hà xoắn ốc. Như trong phần
lớn các thiên hà, tất cả các ngôi sao trong M64 đang quay theo hướng đó, chiều kim đồng hồ như trong hình ảnh
Hubble. Tuy nhiên, chi tiết nghiên cứu vào những năm 1990 đã dẫn tới sự phát hiện đáng chú ý rằng liên sao
khí ở các vùng bên ngoài của M64 xoay theo hướng ngược lại từ khí và các ngôi sao trong khu vực nội thành.

Hoạt hình thành của các ngôi sao mới xảy ra trong vùng cắt, nơi va chạm khí oppositely luân phiên,
được nén, và hợp đồng. Đặc biệt đáng chú ý trong hình ảnh đang nóng, ngôi sao xanh trẻ có chỉ được hình
thành, cùng với những đám mây hồng của khí hydro glowing rằng fluoresce khi tiếp xúc với ánh sáng cực tím
từ các ngôi sao mới được thành lập.

Nhà thiên văn học tin rằng khí oppositely quay phát sinh khi M64 hấp thu một thiên hà vệ tinh mà va
chạm với nó, có lẽ nhiều hơn một tỷ năm trước. Thiên hà nhỏ này đã được gần như hoàn toàn bị phá hủy, nhưng
các dấu hiệu của sự va chạm vẫn tồn tại những chuyển động ngược của khí ở rìa ngoài của M64.

http://hubblesite.org/newscenter/archive/releases/2004/04/image/a/
Tác giả: NASA và The Hubble Heritage Team (AURA / STScI)

5. Tiểu hành tinh đụng Trái Đất:


,

Thiên thạch, tiểu hành tinh có gì khác nhau? Theo dự báo, năm 2036, tiểu hành tinh Apophis
đụng Trái Đất... Không nên hoảng loạn - giới thiên văn khuyến cáo và trả lời những câu hỏi thường gặp
nhất về chuyện này

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 14 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Tiểu hành tinh Apophis được giới khoa học dự đoán là sẽ
đụng Trái Đất vào ngày 13/4/2036 (Ảnh: Spacedaily)

- Nguy cơ thiên thạch va vào Trái Đất có bị phóng đại lên không?

- Không. Không hề có sự phóng đại. Cũng như với những thiên tai khác mà loài người đang đối mặt, thì
việc thiên thạch va vào Trái Đất đã trở thành một nguy cơ thật sự. Căn cứ vào các chứng cứ gần đây, các
nhà khoa học ước tính rằng xác suất để một tiểu hành tinh gây nên thảm họa cho con người trong thế kỷ
21 là 1/5.000.

- Chúng ta có nên quá lo lắng đến mức hoảng loạn không?


- Không nên. Đây là một mối nguy hiểm mà chúng ta có thể đối phó được và có trách nhiệm phải vượt
qua được. Hơn nữa, bạn cần nhớ rằng xác suất để bạn chết trong một vụ đụng độ giữa Trái Đất và vật
thể vũ trụ thấp hơn rất nhiều so với xác suất để bạn tử vong vì một tai nạn xe hơi.

- Làm thế nào để tính toán được đường bay trong tương lai của một tiểu hành tinh?

- Có thể nói ngay rằng một tiểu hành tinh nào đó vẫn có thể đi ngang qua Trái Đất trong nhiều năm tới,
thậm chí ngay sau khi chúng ta mới phát hiện ra nó.

Các tiểu hành tinh vẫn giữ nguyên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời trừ khi có một sự cố xảy ra làm chệch
hướng đi của nó, chẳng hạn như khi đến quá gần một trong những hành tinh. Các chương trình vi tính của của
các chuyên gia đang theo dõi tất cả mọi biến động của các tiểu hành tinh.

Một khó khăn thực sự là là khi chúng ta phát hiện một tiểu hành tinh đang di chuyển đến quá gần Trái Đất
nhưng chúng ta lại không có đủ dữ liệu để biết chắc rằng nó sẽ “tha” cho hành tinh của chúng ta. Đó là điều dẫn
đến những lo lắng đang được thể hiện trên các phương tiện truyền thông.

Như là một thông lệ, cứ sau vài tuần quan sát – có khi vài tháng, các chuyên gia sẽ thu thập được những số
liệu đo đạc chính xác về quĩ đạo của các tiểu hành tinh để từ đó đưa ra các dự báo về hướng di chuyển của
chúng.

- Nếu có một tiểu hành tinh đe dọa Trái Đất, chúng ta có thể làm cho nó nổ tung không?

- Nếu phát hiện một tiểu hành tinh có khả năng va vào Trái Đất, chúng ta có thể tìm cách làm cho nó
chệch hướng di chuyển để không va vào Trái Đất. Nếu dùng vũ khí hạt nhân để phá hủy một tiểu hành
tinh thì mọi chuyện sẽ không đơn giản như chúng ta thường thấy trong phim đâu. Tốt nhất là chúng ta
giữ cho tiểu hành tinh còn nguyên vẹn, vì nếu nó bị nổ tung, những mảnh vỡ của nó cũng vẫn là mối đe
dọa đối với Trái Đất. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể đẩy tiểu hành tinh chệch ra khỏi quỹ đạo của nó
bằng cách thực hiện một vụ nổ vừa phải trên tiểu hành tinh đó.

Vấn đề hết sức quan trọng là chúng ta phải dự báo được nguy cơ sớm, tức nhiều năm trước khi nguy cơ đó
có thể xảy ra. Đó là lý do tại sao cần phát triển nhanh các chương trình phát hiện các vật thể nguy hiểm đối với
Trái Đất. Và đó là một nhiệm vụ mang tính toàn cầu.

- Nơi nào tốt nhất trong vũ trụ để quan sát các tiểu hành tinh?

- Các chương trình tìm kiếm hiện nay đang tập trung vào một phần của bầu trời được gọi là “đối thủ”. Đó
là khu vực bầu trời ngay trên đỉnh đầu của chúng ta vào lúc 12 giờ đêm. Có lẽ đó là cách dễ nhất để

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 15 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
quan sát một tiểu hành tinh, bởi vì đó là lúc chúng hiện rõ nhất trong viễn vọng kính qua sự phản chiếu
ánh sáng mặt trời.

Tất nhiên là cần quan sát toàn bộ bầu trời đêm vào mọi đêm, để không bỏ sót bất cứ tiểu hành tinh nào.
Nhưng các chương trình dò tìm hiện nay chưa thể thực hiện được điều đó.

Còn nhiều việc để làm trong lĩnh vực này. Cần có những viễn vọng kính lớn hơn nhiều, bởi vì hiện nay chỉ
có thể phát hiện được những tiểu hành tinh lớn mà thôi. Để thấy được những vật thể nhỏ hơn, cần có những
viễn vọng kính có tầm bao quát một khu vực lớn hơn trên bầu trời.

- Một tiểu hành tinh và một sao chổi khác nhau như thế nào?

- Sự khác nhau giữa một tiểu hành tinh và một sao chổi được xác định bởi thành phần cấu tạo của chúng.
Tiểu hành tinh chủ yếu được cấu thành bởi đá và kim loại; còn sao chổi thì có thành phần chủ yếu là
những khối băng, và khi sao chổi di chuyển đến gần Mặt Trời thì một phần khối băng đó bốc hơi làm
cho nó trở nên sáng rực do phản chiếu ánh sáng Mặt Trời, nên dễ nhận ra. Trong khi đó, các tiểu hành
tinh thì vừa có kích thước nhỏ vừa tối tăm, vì thế rất khó phát hiện chúng. (Theo BBC)

Về Apophis

APOPHIS (99942) (99942 là số thứ tự trong danh sách tiểu hành tinh được khám phá từ trước đến nay)
Khám phá
Các nhà thiên văn Roy A. Tucker (Mỹ),
Được khám phá bởi:
David J. Tholen (Mỹ), và Fabrizio Bernardi (Ý)
Ngày khám phá 19/06/2004
Tên thay thế 2004 MN4
Chủng loại tiểu hành tinh Aten
Đặc điểm quỹ đạo
Khoảng cách xa mặt trời nhất: 164,351 Gm (1,099 đơn vị thiên văn)
Khoảng cách gần mặt trời nhất: 111,633 Gm (0,746 đơn vị thiên văn)
Chu kỳ quỹ đạo: 323,587 d (0,89 a)
Tốc độ trung bình trên quỹ đạo: 30,73 km/s
Độ nghiêng: 3,331°
Độ lệch tâm 0,191
Đặc điểm vật lý
Kích thước ~250 m (ước tính)
Khối lượng 2×1010 kg (ước tính)
Nhiệt độ ~290 K
Năng lượng 4,0e-02 MT
Độ sáng biểu kiến tuyệt đối 19,2

Cho đến thời điểm này, theo Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA), 99942 Apophis đang là
tiểu hành tinh có khả năng đe dọa loài người nhiều nhất.

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 16 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Một cú va đập của 99942 Apophis vào vùng đô thị có thể mang đến tổn thất bằng với sự phá hủy mà cơn
bão Katrina (năm 2005 tại Mỹ), sóng thần năm 2004 ở Ấn Độ Dương và trận động đất năm 1906 tại San
Francisco cộng lại.

5.1 Một số thuật ngữ:


5.1.1 Thiên thạch (meteoroid):
Là những mảnh vỡ tương đối nhỏ trong Hệ Mặt Trời. Khi tiến vào bầu khí quyển của một hành tinh, các
thiên thạch bị đốt nóng bởi áp suất của bầu khí quyển của hành tinh và bị phá hủy một phần hoặc hoàn toàn.
Những mảnh tồn tại được có thể rơi xuống hành tinh đó.
Theo Hội Thiên văn quốc tế (IAU), thiên thạch được định nghĩa như sau: "Một vật thể rắn di chuyển
trong không gian liên hành tinh, có kích thước nhỏ hơn nhiều so với tiểu hành tinh nhưng lớn hơn nhiều so
với một nguyên tử hoặc phân tử”.
IAU cũng định ra phạm vi kích thước của thiên thạch là từ 100 µm đến 10 m theo chiều dài. Lớn
hơn 10 m, vật thể đó sẽ được gọi là tiểu hành tinh; còn nhỏ hơn 100 µm thì được gọi là bụi liên hành tinh.
5.1.2 Tiểu hành tinh (Asteroid):
Hay hành tinh nhỏ, là từ để chỉ một nhóm các thiên thể nhỏ trôi nổi trong hệ mặt trời trên quỹ đạo
quanh Mặt trời. Asteroid (từ tiếng Hy Lạp có nghĩa "giống sao") là từ được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Anh
để chỉ các tiểu hành tinh, và đã trở thành thuật ngữ ưu tiên của Liên đoàn Thiên văn học Quốc tế.
Trong Hệ Mặt trời, tiểu hành tinh đầu tiên và lớn nhất được phát hiện là Ceres, hiện tại nó được xếp loại
là một hành tinh lùn, trong khi số còn lại hiện được xếp loại như những vật thể nhỏ Hệ Mặt trời.
Cho đến nay, hàng trăm nghìn tiểu hành tinh đã được khám phá bên trong hệ mặt trời và tỷ lệ khám phá
hiện nay là khoảng 5.00 tiểu hành tinh/tháng. Tới ngày 17/9/2006, trong tổng số 342.358 tiểu hành tinh được
biết, 136,563 có quỹ đạo được xác định đủ để được đánh ký hiệu chính thức. Trong số đó, 13.422 có tên chính
thức.
5.1.3 Sao chổi (Comet):
Sao chổi là một thiên thể gần giống một tiểu hành tinh nhưng không cấu tạo nhiều từ đất đá, mà chủ yếu
là băng. Nó được miêu tả bởi một số chuyên gia bằng cụm từ "quả bóng tuyết bẩn" vì nó chứa Carbonic, mêtan
và nước đóng băng lẫn với bụi và các khoáng chất. Đa phần các sao chổi có quỹ đạo elíp rất dẹt, một số có viễn
điểm quỹ đạo xa hơn nhiều so với Diêm Vương Tinh.
Quỹ đạo của sao chổi còn khác biệt so với các vật thể khác trong Hệ Mặt Trời ở chỗ chúng không nằm
gần mặt phẳng hoàng đạo mà phân bố ngẫu nhiên toàn không gian. Khi lại gần Mặt Trời, nhiệt độ tăng làm vật
chất của sao chổi bốc hơi và, dưới áp suất của gió Mặt Trời, tạo nên các đuôi bụi và đuôi khí, trông giống như
tên gọi của chúng, tức có hình cái chổi.

Minh Quang (Theo NASA, Wikipedia) nguồn "VietNamNet".

6. Vành đai tiểu hành tinh


Vành dài chính giữa hai quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc

Trong Hệ Mặt Trời, vành đai tiểu hành tinh bao gồm các tiểu hành tinh là các thiên thể nhỏ hơn hành
tinh, thường không đủ khối lượng để giữ hình dạng hình cầu, có quỹ đạo nằm chủ yếu giữa quỹ đạo Sao Hoả và
quỹ đạo Sao Mộc (giữa 2,3 và 3,3 AU từ Mặt Trời), và cấu tạo chủ yếu từ các khoáng chất không bay hơi.

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 17 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Tập hợp các tiểu hành tinh tạo thành vành đai các tiểu hành tinh. Vành đai chính có hàng nghìn các
tiểu hành tinh lớn hơn 1 km, và hàng triệu các vật thể bé như bụi. Dù có số lượng lớn như vậy, tổng khối lượng
của cả vành đai chính nhỏ hơn khối lượng Trái Đất 1000 lần. Các tiểu hành tinh với đường kính nhỏ hơn 500 m
được gọi là thiên thạch. Các thiên thạch và bụi có thể va quệt vào khí quyển Trái Đất và tạo ra các "cơn mưa"
sao băng.

Các tiểu hành tinh có thể tập hợp thành những nhóm tiểu hành tinh và các gia đình tiểu hành tinh, dựa
trên các tính chất quỹ đạo riêng biệt của chúng. Các mặt trăng của tiểu hành tinh là các tiểu hành tinh quay theo
quỹ đạo lớn hơn các tiểu hành tinh. Chúng không được phân biệt rõ ràng như các mặt trăng của hành tinh, thỉnh
hoảng chúng hầu như lớn bằng hành tinh bên cạnh.

Có nhiều tiểu hành tinh chịu nhiễu lực hấp dẫn, đặc biệt từ Sao Mộc, đã bay với quỹ đạo đặc biệt nhiễu
loạn. Bên trong Hệ Mặt Trời có đầy rẫy các tiểu hành tinh bay lung tung, nhiều cái trong số chúng cắt ngang
quỹ đạo của các hành tinh bên trong. Đặc biệt, nhiều tiểu hành tinh bị Sao Mộc giữ lại trên quỹ đạo của nó, nằm
trong cả điểm L4 hay L5 của Sao Mộc, gọi là các tiểu hành tinh Trojan, dù thuật ngữ Trojan thỉnh thoảng cũng
được sử dụng cho các tiểu hành tinh ở những điểm Lagrange của các hành tinh khác.

6.1.1 Các tiểu hành tinh đặc biệt

Tiểu hành tinh lớn nhất, Ceres, có đường kính khoảng 1.000km; đủ lớn để có dạng hình cầu, làm nó có
thể trở thành một hành tinh theo một số định nghĩa.

6.1.2 Nguồn gốc

Các tiểu hành tinh được cho là những gì còn sót lại của một hành tinh kiểu Trái Đất, hoặc nhỏ hơn đã
không thể kết hợp lại từ khi Hệ Mặt Trời đang mới hình thành, vì sự gây nhiễu của lực hấp dẫn từ Sao Mộc.

7. Thiên thạch
Thiên thạch trong tiếng Việt hiện nay được dùng không thống nhất, để chỉ nhiều loại thiên thể với các
bản chất hoàn toàn khác nhau.

Thiên thạch là một vật thể tự nhiên từ ngoài không gian và tác động đến bề mặt Trái đất. Còn trong khi ở
trong không gian thì nó được gọi là vân thạch. Khi thiên thạch từ trong không gian vào đến bầu khí quyển của
Trái đất thì áp suất ánh sáng làm thiên thạch nóng lên và phát ra ánh sáng và xuất hiện cái đuôi thiên thạch
hướng từ phía Trái đất đi ra.

Thường thì khi thiên thạch di chuyển với vấn tốc nhanh và khi va vào bề mặt của một hành tinh hay tiểu
hành tinh thì nó để lại trên bề mặt của hành tinh đó những mảnh vỡ hay những dấu vết về sự va chạm. Chúng ta
có thể thấy rõ những ảnh chụp từ trong không gian của NASA về những vết rỗ trên Mặt trăng vì ở đây không có
gió hay trên Hỏa tinh (Sao Hỏa).

Trên thế giới đã tìm thấy rất nhiều những nơi mà dấu vế về vụ va chạm thiên thạch để lại. Tính đến giữa
năm 2006, trên thế giới đã có khoảng 1050 mẫu thiên thạch từ những vụ va chạm và có khoảng 31000 tài liệu
ghi chép về thiên thạch.

Một số từ điển tiếng Việt (từ điển giải nghĩa) đã định nghĩa khác nhau về thiên thạch là vẫn thạch[1]
(tiếng Anh: meteorite), đôi khi còn viết là vân thạch. Nhiều tài liệu dùng từ "thiên thạch" để chỉ tiểu hành tinh
(tiếng Anh:asteroid)

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 18 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Một số từ điển Anh Việt dịch chung lẫn nhau giữa vẫn thạch, vân thạch, thiên thạch cho từ meteoroid,
meteor, meteoroid.[2]

7.1 Cách đặt tên

Những thiên thạch được đặt cái tên theo nơi mà được tìm thấy chúng, thường là một thành phố hay thị
trấn hoặc gần một nơi nào đấy xét về mặt địa lý. Còn trong trường hợp tìm thấy nhiều thiên thạch ở cùng một
nơi thì thêm vào những ký tự hoặc chữ số vào sau tên gọi (ví dụ như, Allan Hills 84001 hay Dimmitt (b)). Một
số thiên thạch được đặt một biệt hiệu hoàn toàn khác: thiên thạch Sylacauga ở trong thành phố Talladega
County, Alabama, Hoa Kỳ đôi khi còn được gọi thiên thạch Hodges sau Ann Hodges. Tuy nhiên, những cái tên
biệt hiệu này thường được các nhà khoa học, thiên văn học nghiên cứu và đặt tên.

7.2 Vành đai tiểu hành tinh

Hình ảnh của hệ mặt trời chúng ta thể hiện vòng thiên thạch ở giữa Hỏa tinh và Mộc tinh.

Giữa Hoả tinh và Mộc tinh là một dải được gọi là Vành đai tiểu hành tinh. Hầu hết tất cả các tiểu hành
tinh ở đây được xem như là thiên thạch với đủ kích cỡ, từ kích thước một hòn đã nhỏ tới một quả bóng và có
khi tới hơn 1.000 km đường kính.

Hơn 5 ngàn tiểu lớn nhất được phát hiện. Cả thẩy số lượng của chúng có thể lên tới hàng triệu. Một số
người cho rằng các tiểu hành tinh đã bị phá hủy. Nhưng nếu vậy thì số còn lại biến đi đâu, bởi nếu có tập trung
hết lại thì chúng cũng chỉ có kích thước bằng một vệ tinh cở nhỏ.

Không phải tất cả các tiểu hành tinh đều có cấu tạo hoàn toàn là đá, một số có chứa carbon hay kim loại,
và có nhiều loại khác nhau. Tàu vũ trụ đã tới gần một vành đai tiểu hành tinh để tìm hiểu về cấu tạo của nó.
Tiểu hành tinh có tên là Ida thậm chí còn có cả một vệ tinh tí hon của mình.

Trong các bộ phim, các tiểu hành tinh nằm san sát bên nhau, nhưng thực tế, chúng rải rác thua thớt trong
vành đai. Nếu bạn hay tới gần một tiểu hành tinh, bạn sẽ không thể nhìn thấy những tiểu hành tinh khác.

7.2 Số liệu và tên gọi

Ceres là hành tinh lùn nhỏ nhất được biết trong Hệ Mặt trời

Khi được phát hiện, tiểu hành tinh sẽ được đánh số. Chỉ khi nào các nhà thiên văn học biết được quỹ đạo
của nó thì mới được đặt tên. Ceres[4], tiểu hành tinh đầu tiên được phát hiện, được tìm ra năm 1801.

Tập hợp các tiểu hành tinh tạo thành vành đai các tiểu hành tinh. Vành đai chính có hàng nghìn các
tiểu hành tinh lớn hơn 1 km, và hàng triệu các vật thể bé như bụi. Dù có số lượng lớn như vậy, tổng khối lượng
của cả vành đai chính nhỏ hơn khối lượng Trái Đất 1000 lần. Các tiểu hành tinh với đường kính nhỏ hơn 500 m
được gọi là thiên thạch. Các thiên thạch và bụi có thể va quệt vào khí quyển Trái Đất và tạo ra các "cơn mưa"
sao băng.

7.3 Sao chổi

Thực tế các tiểu hành tinh rất khó quan sát. Chúng hiện ra trong kính thiên văn như những điểm sáng mờ
mờ. Nếu muốn cái gì đó để xem cho sướng mắt thì bạn phải quan sát một sao chổi. Tiếng Anh gọi sao chổi là
comet, xuất phát từ chữ kometes trong tiếng Hi Lạp có nghĩa là "lông lá".

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 19 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Sao chổi là những khối băng và bụi đường kính khoảng vài kilômét km. Chúng bay quanh Mặt trời theo
những quỷ đạo hình ê-líp. Điều đó có nghĩa là phần lớn thời gian chúng ở cách rất xa Mặt trời, nơi rất lạnh và
khiến khối băng của nó không bị tan ra. Khi chúng bay tới gần Mặt trời, khối băng nóng lên và biến thành khí.
Cái "đuôi" vĩ đại của nó xuất hiện, do khí và bụi của sao chổi tạo nên. Đuôi của sao chổi có thể dài hàng triệu
kilômét km, nhung "cái chổi" vĩ đại chói lòa đó chẳng qua chỉ có một dúm bụi mà thôi!

Ánh sáng và các hạt từ Mặt trời đập vào đuôi sao chổi làm nó luôn văng ra xa, ngược với hướng của Mặt
trời. Bạn cũng có thể nhìn thấy một sao chổi nhưng lại có nhiều cái đuôi - một số có cấu tạo là bụi, số khác mờ
hơn là những đuôi bằng chất khí. Chúng ta có thể nhìn thấy những cái đuôi bởi bụi phản chiếu ánh sáng Mặt
trời, giống như những hạt bụi trong phòng bạn lòe lên khi có một tia nắng chiếu vào.

7.4 Bụi vũ trụ

Khi một sao chổi tiến lại gần Mặt trời, bụi từ cái đuôi của nó bị thổi bay ra lại nhập vào đám các mảnh
vỡ có từ khi Thái dương hệ của chúng ta được hình thành. Mỗi ngày lại có những mảnh bụi vũ trụ rơi xuống
Trái đất chúng ta - hơn 25 ngàn tấn mỗi năm!

Hầu hết những mảnh bụi này biến mất trong bầu khí quyển của Trái đất do sự mat sát. Khi rơi xuống với
tốc độ rất lớn, những mảnh bụi này co xát với bầu khí quyển khiến nó nóng lên và cuối cùng cháy rụi. Sự ma sát
cũng là nguyên nhân khiến tàu Con thoi và các tàu vũ trụ khác bốc chấy khi chúng quay trở về Trái đất nếu
chúng không có những lớp bảo vệ.

7.5 Sao băng

Mưa sao băng Alpha-Monocerotid, 1995

Nếu những mảnh bụi này rơi xuống bầu khí quyển Trái đất vào ban đêm, bạn có thể thấy chúng bùng
cháy thành một vệt sáng. Người ta gọi chúng là sao băng. Trong một đêm đẹp trời, bạn có thể nhìn thấy nhiều
sao băng trong một tiếng đồng hồ. Đẹp nhất vẫn là những trận mưa sao băng, xảy ra khi Trái đất qua một cái
đuôi hay một đám bụi của sao chổi. Khi đó chúng ta sẽ thấy hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôi sao băng. Nó
giống như một mà pháo hoa vậy!

7.6 Vụ va chạm

Thiên thạch đã đâm vào Trái đất và xóa sổ loài khủng long 65 triệu năm trước phải có đường kính
khoảng 10 km

Một thiên thạch có kích cỡ một trái bóng sẽ gây ra ít hư hại - trừ phi nó rơi trúng đầu bạn! Nhưng chưa
từng có người nào bị chết do thiên thạch rơi trúng, mặc dù xe cộ và nhà cửa, đường xá... đã từng bị hư hại.

Các nhà thiên văn học lo tìm những thiên thạch lớn bởi chúng có thể là một tai họa nghiêm trọng. Một
vật có đường kính nhỏ hơn 50 m sẽ cháy rụi trên đường đi, nhưng phần còn lại của một khối đá có đường kính 1
km khi rơi xuống mặt đất vẫn đủ sức xóa sạch một thành phố. Rất may là vũ trụ rất rộng lớn, khả năng đó rất
nhỏ, có thể chỉ vài trăm năm một lần.

Chúng ta có thể nhìn thấy những vết thương trên Trái đất do các thiên thạch gây ra. Nhiều nhà khoa học
còn cho rằng nguyên nhân khiến cho loài khủng long biến mất là do một thiên thạch lớn rơi xuống Trái đất 64
triệu năm trước và đâm vào Trung Mỹ. Vụ va chạm này làm tung lên lớp bụi che lấp ánh sáng Mặt trời trong
nhiều năm, giết chết các loài thực vật - thức ăn của loài khủng long.

7.7 Rác vũ trụ

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 20 of 21


Thiên văn học Tài liệu sưu tầm
Không phải tất cả các vật thể bốc cháy trong khí quyển Trái đất, hay đâm xuống mặt đất, đều là những
thiên thạch. Trong suất 40 năm qua, chúng ta đã đưa nhiều vệ tinh và tàu vũ trụ lên không gian. Đang trôi vật vờ
trên đó là những bộ phận của các vệ tinh đã cũ, tên lửa và thậm chí cả một trạm vũ trụ hay chất thải của các nhà
du hành vũ trụ. Đôi khi chúng rơi vào khí quyển Trái đất và bốc cháy, làm nhiều người tưởng lầm là sao băng.

Trong không gian, những vật này va chạm với nhau và vỡ ra thành những mảnh bé hơn. Đừng tưởng thế
là yên tâm, bởi trong không gian chúng bay với tốc độ còn nhanh hơn cả một viên đạn, nên dù chúng có kích
thước bé nhỏ đến máy đi nữa, thì đó vẫn là những mối họa khôn lường.

7.8 Liên hệ với vẫn thạch

Theo một cách hiểu, thiên thạch là các mảnh vật chất (trong đó thường có các chất rắn) đến từ vùng
không gian bên ngoài vào khí quyển, rơi xuống bề mặt Trái Đất hay bề mặt các thiên thể khác (như Mặt Trăng,
Sao Hỏa, ...).

Khi đã bay qua khí quyển và rơi xuống bề mặt thiên thể, phần còn lại của thiên thạch là vẫn thạch.

Nguyễn Tất Thành; mail: thanhvl9@gmail.com Page 21 of 21

You might also like