You are on page 1of 13

Nhóm A-CKAK10

I. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài

1. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài

Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu
chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn
quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế
giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các
nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn
này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực
hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau.

2. Phân loại các nguồn vốn nước ngoài

Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như
sau:

- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn này bao
gồm:

• Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance)
• Các hình thức viện trợ khác.

Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;

- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

- Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI)

- Nguồn vốn của tổ chức phi chính phủ (NGOs)

- Kiều hối

- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế: FII,..

2.1 Nguồn vốn ODA- official development assistance- hỗ trợ phát triển chính thức

Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển.
Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi
suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển
vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc
lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.

So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn
ODF nào khác.

Tính hỗ trợ, ưu đãi thể hiện ở :

 Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là
25% của tổng số vốn ODA
 Cho vay ưu đãi :
- Lãi suất thấp( thường nhỏ hơn 3%/năm và 40% nguồn vốn này có i<
1%/năm
- Thời gian cho vay dài : 25-40 năm
- Thời gian ân hạn lớn : 8-15 năm

Các lĩnh vực đầu tư được nhận ODA:

 Cơ sở hạ tầng : chủ yếu là các nguồn vốn vay


 Nâng cao năng lực và hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ chuyển giao: là nguồn viện trợ không hoàn
lại
 Chương trình đa mục tiêu của quốc gia: sử dụng hình thức hỗn hợp là kết hợp vốn
vay và viện trợ không hoàn lại

Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các điều
kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn
và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần
phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ
có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài
những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có
thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc.

2.2 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.

Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA.
Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị,
xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời
gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước
nghèo.

Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh
doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất
quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ
yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn
này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng
tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay
là sáng sủa.

2.3 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign direct investment )

Là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm
quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Cụ thể, FDI có thể vào các nước qua các
hình thức:

1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:

• nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo hình thức 100% vốn để thành lập công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan
• Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đ thnh lập tại Việt Nam được hợp tác
với nhau và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài mới.

2. Thành lập tổ chức kinh tế dưới hình thức liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với
nhà đầu tư Việt Nam:

• Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư trong nước để đầu tư thành
lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty
hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan;
• Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức nêu trên được phép liên doanh với
nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài để thành lập một tổ chức kinh
tế mới.

3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh do doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với
nhà đầu tư tại Việt Nam:

• Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc
nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây
gọi tắt là các bên hợp doanh) thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có
quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
hợp doanh;
• Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận thành
lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều phối
không phải là cơ quan lnh đạo của các bên hợp doanh;
• Văn phịng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài
khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh
trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp
đồng hợp tác kinh doanh.
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài
khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì
nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự
án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài
nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới,
đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn.
Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư

Nhược điểm :

 Khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước tiếp nhận vốn
 Gây ô nhiềm môi trường
 Tạo ra ngành công nghiệp” không chân”: một ngành phát triển kéo theo ngành có
quan hệ ngược chiều, cùng chiều, gián tiếp với nó phát triển

2.4 Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI- Foreign portfolio investment )

Là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài
chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia
vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu
tư trực tiếp nước ngoài.

Ưu điểm:

• Góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi phí vốn
thông qua việc đa dạng hoá rủi ro.
• Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa.
• Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của chính
phủ.

Nhược điểm:

• Nếu dòng FPI vào tăng mạnh, thì nền kinh tế tiếp nhận dễ rơi vào tình trạng phát
triển quá nóng (bong bóng), nhất là các thị trường tài sản tài chính của nó.
• Vốn FPI có đặc điểm là di chuyển (vào và ra) rất nhanh, nên nó sẽ khiến cho hệ
thống tài chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng tài chính một
khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế.
• FPI làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.

2.5 Nguồn vốn đầu tư gián tiếp thông qua thị trường tài chính - FII

Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc
gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn vốn cho mỗi quốc
gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước
đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ.
Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài
chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới
nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu Á đã
tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD.

Đầu tư theo hình thức gốp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, theo đó:

• Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp để
tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp
luật có liên quan. Doanh nghiệp nhận sáp nhập, mua lại kế thừa các quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập, mua lại, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác;
• Nhà đầu tư khi góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt
Nam phải: thực hiện các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường; tuân thủ các
quy định về điều kiện tập trung kinh tế của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật
về doanh nghiệp; đáp ứng điều kiện đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư thuộc
lĩnh vực đầu tư có đi

Các quỹ đầu tư là phương tiện để nhà đầu tư đưa các khoản tiền của họ vào nhằm có
được yếu tố đầu tư đa dạng và điều kiện quản lý chuyên nghiệp. Nhà đầu tư không hưởng
lợi trực tiếp từ các cổ phiếu được mua bán trên thị trường chứng khoán mà sẽ chia sẻ hiệu
quả sau quá trình mua bán chứng khoán tập trung của quỹ đó. Lợi ích trước hết và quan
trọng hơn cả khi tham gia vào quỹ đầu tư là khả năng đầu tư đa dạng. Lợi ích khác do các
quỹ đầu tư mang lại là trình độ quản lý chuyên nghiệp. Một lợi ích nổi bật nữa của quỹ
đầu tư là các cổ phần góp vốn vào quỹ này có tính thanh khoản (nhà đầu tư muốn rút lui
khỏi tổ chức đầu tư này có thể bán lại phần tài sản của họ với giá phải chăng để chuyển
thành tiền mặt trong thời gian ngắn).

Hiện nay, nhiều công ty quản lý quỹ đầu tư tập chung chính vào thị trường Việt
Nam như Vina Capital, Mekong Capital, Dragon Capital.

Một số quỹ đầu tư chủ yếu: Quỹ đầu tư Prudential (PRUBF1), Vietnam Enterprise
Investment Fund (VEIL), Vietnam Growth Fund (VGF), Vietnam Dragon Fund
(VDF), Vietnam Opportunity Fund (VOF), PXP Vietnam Fund, Vietnam Emerging
Equity Fund (VEEF), Mekong Enterprise Fund (MEF), IDG Ventures Vietnam (IDG)

2.6 Nguồn vốn của tổ chức phi Chính phủ - NGOs

Mối quan tâm chủ yếu của các tổ chức này quan là việc xóa đói giảm nghèo, giáo
dục, chăm sóc sức khỏe cộng đồng thông qua việc thực hiện các chương trình và dự án ở
nông thôn và các vùng sâu vùng xa khác.

Những dự án này trực tiếp hướng tới hỗ trợ những người nghèo và người dân các dân tộc
thiểu số, hầu hết là ở nông thôn hay các vùng núi xa xôi, những người ít có điều kiện tiếp
cận với các nguồn lực xã hội song lại là nhóm dân cư dễ bị tác động nhất.
Ưu điểm:

Không chịu cản trở của thủ tục hành chính phức tạp, nguồn vốn có thể đến trực tiếp
được đối tượng thụ hưởng, do đó thời gian triển khai nhanh

Nhược điểm:

Quy mô vốn nhỏ và nguồn tài trợ không ổn định, khó kiểm soát và khó quản lý do
không chịu quản lý hành chính thông qua các thủ tục hành chính phức tạp

2.7 Kiều hối

Là sự di chuyển tiền bạc từ những người đang lao động ở nước ngoài đến thân nhân
của họ tại quê hương.

Tại một số nước đang phát triển,nhất là các nước xuất khẩu lao động nhiều thì số tiền
được đưa vào từ kiều hối có thể đứng hàng cao thứ nhì trong các nguồn thu nhập, cao hơn
cả viện trợ quốc tế. Số kiều hối hàng năm trên thế giới được ước tính từ 250 tỷ USD của
Ngân hàng Thế giới và các Ngân hàng Trung ương đến 401 tỷ của IFAD.

Không có bất cứ điều kiện ràng buộc nào xung quanh nguồn vốn này, không tạo gánh
nặng nợ cho quốc gia tiếp nhận, vấn đề là sử dụng nó như thế nào vào các mục tiêu đầu
tư hiệu quá

II. Nguồn vốn đấu tư nước ngoài vào Việt Nam

1. Thực trạng

Năm 2009

Vốn đăng ký mới giảm mạnh trong khi vốn tăng thêm vẫn đạt mức khá cao

Nhìn vào cơ cấu vốn đăng ký, một điều dễ nhận thấy là vốn đăng ký giảm mạnh chủ yếu
do vốn đăng ký mới sụt giảm. Với 839 dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong
năm 2009, số dự án mới chỉ bằng 53,9% so với 2008 và vốn đăng ký mới ước đạt 16,34 tỉ
USD, chỉ bằng 24,6% so với năm 2008. Điều này là hệ quả của suy thoái kinh tế toàn
cầu, các nhà đầu tư trở nên dè dặt hơn trong các quyết định đầu tư mở rộng hoạt động ra
nước ngoài.

Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm
là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008.

Mặc dù số dự án và số vốn đăng ký FDI trong năm 2009 chỉ đạt ở mức thấp khoảng
21,48 tỷ USD (bằng 30% so với năm 2008), nhưng ngược lại, vốn thực hiện vẫn đạt ở
mức khá (khoảng 10 tỷ USD, chỉ giảm 13% so với năm 2008).
Nếu như năm 2008, năm thu hút FDI đạt mức kỷ lục 71,7 tỉ USD, số dự án có quy mô
vốn đăng ký trên 1 tỉ USD là 11 dự án, mức vốn đăng ký bình quân một dự án khoảng 65
triệu USD thì năm 2009, số lượng dự án quy mô trên 1 tỉ USD đã giảm 50%, chỉ còn 5 dự
án, quy mô bình quân 1 dự án cũng chỉ bằng 1/3 của năm 2008, khoảng 25 triệu USD/dự
án. Điều này dường như phản ánh sự thận trọng hơn của các nhà đầu tư khi quyết định
đăng ký đầu tư.

Tuy nhiên, vốn đăng ký tăng thêm của các dự án đang hoạt động lại sụt giảm rất ít. Có
215 dự án đã được điều chỉnh tăng vốn với số vốn đăng ký tăng thêm là 5,14 tỉ USD,
bằng 98,3% so với năm 2008 (mức cao nhất kể từ khi ban hành văn bản pháp quy đầu
tiên về đầu tư nước ngoài). Điều tra cảm nhận về môi trường kinh doanh năm 2009 do
Ban Thư ký Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam tiến hành cuối tháng 9-2009 đã cho thấy,
các doanh nghiệp nhìn nhận môi trường kinh doanh năm 2009 tốt hơn nhiều so với năm
2008, thậm chí còn tốt hơn cả năm 2007.

Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ gia tăng nhưng đầu tư vào sản xuất vẫn chiếm vị trí chủ
đạo

Có thể thấy FDI 2009 tập trung vào lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống với 41% vốn cấp
mới và tăng thêm, kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 35% vốn đăng ký. Sự gia tăng
vốn đăng ký vào hai lĩnh vực này khiến cho tỷ trọng vốn đăng ký còn hiệu lực trong lĩnh
vực kinh doanh bất động sản đến cuối năm 2009 đã tăng lên 23% so với 20% của cuối
năm 2008 và lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống lên 8% so với 6% cuối 2008. Công
nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 54% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực cuối 2008 đã giảm
xuống còn 50% cuối năm 2009. Tuy vậy, đến thời điểm này, đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực sản xuất mà đứng đầu là công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn thu hút nhiều vốn nước
ngoài hơn lĩnh vực dịch vụ, mặc dù FDI vào lĩnh vực dịch vụ đang gia tăng nhanh chóng.

Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất trong năm 2009 với 6,73
tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai
và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ USD và
1,7 tỷ USD.

Năm 2010

7 tháng năm 2010, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tuy số lượng dự án giảm nhưng quy
mô vốn đầu tư, tốc độ giải ngân và tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu đều đạt chỉ số khả quan.

Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vừa cho biết, thu hút đầu tư trực tiếp của nước
ngoài từ đầu năm đến 20-7-2010 đạt 9,1 tỷ USD, bằng 68,2% cùng kỳ năm 2009.

Trong đó, vốn đăng ký của 533 dự án được cấp phép mới đạt 8,4 tỷ USD (giảm 16,1% về

số dự án và tăng 5,4% về số vốn so với cùng kỳ năm trước). Vốn FDI thực hiện 7 tháng
năm 2010 ước đạt 6,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2009.
Trong số 43 tỉnh, thành phố có dự án FDI được cấp phép mới từ đầu năm đến nay, Bà
Rịa-Vũng Tàu là địa phương có số vốn đăng ký lớn nhất (2,156,9 triệu USD, chiếm
25,6% tổng vốn đăng ký), tiếp đến là Quảng Ninh (2.147 triệu USD, chiếm 25,5%).
TPHCM đứng thứ 3 với 1.077,3 triệu USD, chiếm 12,8%.

Hà Lan, Hàn Quốc và Nhật Bản là 3 nhà đầu tư rót vốn vào Việt Nam nhiều nhất từ đầu
năm đến nay.

Đáng chú ý là giải ngân vốn FDI bình quân mỗi tháng từ đầu năm đến nay, vẫn duy trì
khoảng 900 triệu USD. Giải ngân vốn FDI tính đến nửa đầu năm 2010 tiếp tục tăng 5,9%
so với cùng kỳ 2009, đạt 5,4 tỷ USD. So với dự kiến giải ngân từ đầu năm thì tiến độ giải
ngân này là phù hợp.

Báo cáo của Bộ KH-ĐT cũng cho biết, giá trị sản xuất công nghiệp trong tháng 7/2010
ước tính tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài tăng 15,8% (so với khu vực kinh tế Nhà nước tăng 6,3%; khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước tăng 12,4%) .

Như vậy, khu vực FDI vẫn đang tiếp tục đạt được những chỉ số khá tốt, trên cả góc độ
giải ngân và thu hút vốn.

Cũng trong 7 tháng qua, cơ cấu vốn đầu tư của khu vực FDI có chuyển dịch theo hướng
các ngành thu hút nhiều vốn nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 34%); sản xuất,
phân phối điện, khí, nước (25,5%); bất động sản 21,2%.

Một số lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài là lĩnh
vực công nghiệp chế biến, chế tạo; lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước điều hòa;
và lĩnh vực kinh doanh bất động sản.

ODA

Năm 2010, các nhà tài trợ song phương và đa phương đã đưa ra mức cam kết cấp 8,06 tỷ
USD vốn ODA cho Việt Nam, tăng 3 tỷ USD so với năm 2009 và là mức cam kết cao
nhất từ trước đến nay. Nhật Bản là một trong những đối tác đầu tiên hiện thực hóa cam
kết kỷ lục đó.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng giá trị giải ngân 7 tháng đầu năm 2010 ước đạt 1.638
triệu USD, bằng khoảng 67% so với kế hoạch giải ngân của cả năm, trong đó vốn vay
khoảng 1.508 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 130 triệu USD.
FII

Đầu tư gián tiếp nước ngoài FII (Foreign Indirect Investment) tại Việt Nam đang chiếm
con số khiêm tốn 2% (so với 10-15% của các nước trong khu vực). Với xu hướng đẩy
mạnh thu hút đầu tư FII, sử dụng hiệu quả dòng vốn này cần kèm theo các giải pháp kích
thích hơn nữa.

Năm 2009, do tác động của khủng hoảng kinh tế, các nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam
đều bị ảnh hưởng do xuất khẩu giảm 9%, kiều hối giảm khoảng 15-20%, FDI cũng giảm
mạnh so với 2008. FII gồm đầu tư vào các chứng khoán cổ phần và chứng khoán nợ cũng
bị giảm, từ 8.6% GDP năm 2007 xuống còn 2.0% GDP năm 2009.

6 tháng đầu năm 2010, vốn FII ròng đạt mức thặng dư 1,8 tỷ USD. Một phần của nguồn
thặng dư lớn này là từ kết quả phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế (theo
phương pháp luận thống kê cán cân thanh toán quốc tế giao dịch này phải được thống kê
vào hạng mục FII thay vì vay nợ của Chính phủ).

Và nếu loại trừ phát hành trái phiếu của Chính phủ thì các nhà đầu tư nước ngoài vẫn
mua ròng trên thị trường chứng khoán Việt Nam khoảng 800 triệu USD (bao gồm cả thị
trường OTC), trong đó quý 1/2010 là 290 triệu USD.

Về diễn biến dòng vốn FII vào chứng khoán thời gian tới, sự chú ý của giới đầu tư hiện
nay là khả năng thoái vốn của của một số quỹ đầu tư nước ngoài, như trường hợp của
VEIL do Dragon Capital hay trước đó là trường hợp của Indochina Capital.

2. Tác động của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam

Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế
1.tích cực:
Về mặt kinh tế:
- ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng
16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên
giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%,
năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt
trên 16%).
- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất công nghiệp
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ
trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ
23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5
năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể
tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005.
Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt
đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi,
25% hàng may
- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các
thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu
hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được
kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này
có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng
ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp
ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích
ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời
kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân
sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân
sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân
24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân
sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-
2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc
chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách
quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn
mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN
đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm
23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%;
tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55%
trong các năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng
may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia,
nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế
giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao
cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng
nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.

Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao
động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB
cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong
khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời
sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng
năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ
thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật,
công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học
hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới:
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa
phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay,
Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta
cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định
thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo
hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư
nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.
Về mặt môi trường:
Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa
số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam
và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước (có
77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn
tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp ĐTNN
trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng tiêu
chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp trong nước). Không có doanh
nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường Việt Nam
2.Hạn chế:
- Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực,
ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn
những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi
nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư
thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó
các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh
đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm
núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn
nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát
triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá
tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ
kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ
đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực
có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa
được giải quyết kịp thời.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh
nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất
kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn
cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động.
Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến
tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và
vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan
hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
- Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường
cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật
Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã
nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là
những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị
là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế
giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong
các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện
thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ
chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp
nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị
thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những
ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức
mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao
công nghệ.

You might also like