You are on page 1of 27

Chương 1:

Những vấn đề lý luận chung về bội chi ngân sách nhà nước

1.1. Tổng quan về Ngân sách nhà nước (NSNN).


1.1.1. Lịch sử ra đời của Ngân sách nhà nước.

Trong từng giai đoạn lịch sử, sự ra đời của Nhà nước luôn gắn liền với
những sứ mệnh nhất định. Và để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, bất
kỳ nhà nước nào cũng đều tập trung trong tay mình những công cụ quyền lực
hữu hiệu. Và ngân sách nhà nước là một trong những công cụ quyền lực ấy.

Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. Sự hình
thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát
triển của kinh tế hàng hóa- tiền tệ trong các phương thức sản xuất của các cộng
đồng và Nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của Nhà nước,
sự tồn tại của kinh tế hàng hóa- tiền tệ là những tiền đề chi sự phát sinh, tồn tại
và phát triển của ngân sách nhà nước.

Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà
nước”, Ăngghen đã chỉ ra rằng Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội
có giai cấp, Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp. Nhà nước xuất hiện
với tư cách là cơ quan công quyền duy nhất để duy trì và phát triển xã hội. Và để
thực hiện nhiệm vụ đó, Nhà nước phải có nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực
công của mình, Nhà nước đã tạo ra công cụ quyền lực với tên gọi “Ngân sách
nhà nước”.

Hiện nay có rất nhiều quan điểm về ngân sách nhà nước khi nhìn từ các
góc độ nghiên cứu khác nhau. Bên cạnh đó, quan điểm đánh giá về ngân sách
1
nhà nước cùng các đặc điểm và vai trò của nó cũng phụ thuộc rất nhiều vào chế
độ chính trị của một nhà nước. Với góc độ nghiên cứu ngân sách nhà nước tại
Việt Nam thì ngân sách nhà nước cần được xem xét ở góc độ tổng thể dưới dạng
một quan hệ tài chính.

Theo điều 1, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì Ngân sách nhà nước
được định nghĩa như sau:

Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Như vậy, căn cứ theo Luật Ngân sách nhà nước thì Ngân sách nhà nước là
tập hợp các khoản thu, chi của Nhà nước trong vòng một năm, thường được gọi
là năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính, năm tài khóa). Tại Việt Nam, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phê duyệt dự toán thu chi ngân sách là
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ở đa số các nước (trong đó có Việt Nam), năm ngân sách trùng với năm
dương lịch (bắt đầu từ 1/1 đến 31/12) như Pháp, Bỉ, Hà Lan, Trung Quốc. Một
số nước như Anh, Nhật, năm ngân sách lại được bắt đầu từ 1/4 năm trước và kết
thúc vào 31/3 năm sau. Ở Australia thì từ 1/7 năm trước đến 30/6 năm sau. Tại
Mỹ, năm ngân sách từ 1/10 năm trước đến 30/9 năm sau. Sự quy định này có
tính chất lịch sử và truyền thống, tùy thuộc vào từng quốc gia và khu vực.

Ngân sách nhà nước qua các thời kỳ lịch sử

Dưới chế độ phong kiến, ngân sách nhà nước đã xuất hiện với tên gọi là
quốc khố. Vào thời kỳ này, chi tiêu của Nhà nước và chi tiêu của nhà vua quân

2
chủ không có sự tách biệt nhau. Tất cả tài sản của đất nước đều thuộc về người
đứng đầu chế độ quân chủ chuyên chế.

Bước sang thế kỷ thứ XV, XVI, tại một loạt nước châu Âu, khi giai cấp tư
sản ra đời và dần trở thành một lực lượng xã hội lớn mạnh, giai cấp này đã tiến
hành các cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ cát cứ phong kiến, thống nhất đơn
vị tiền tệ trong phạm vi cả nước, mở rộng thị trường và lưu thông hàng hóa tự
do. Cùng với đó, họ dùng sức ép về kinh tế, tài chính của mình để từng bước
buộc nhà vua phong kiến phải từ bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong việc sử dụng
quốc khố, trong việc chi tiêu của mình. Vấn đề thu thuế- nguồn thu chủ yếu của
quốc khố (ngân sách nhà nước) được chuyển giao cho Nghị viện- cơ quan quyền
lực mới của giai cấp tư sản. Nhà nước tư sản ra đời tại Hà Lan, Anh, Pháp…
đánh dấu bằng việc thống nhất giữa thu và chi vào ngân sách nhà nước. Và như
vậy,tên gọi “ngân sách nhà nước” xuất hiện trong từ điển của nhân loại cùng với
sự ra đời của nhà nước dân chủ tư sản trên thế giới.

1.1.2. Mô hình tổ chức hệ thống NSNN.

NSNN gắn liền với Nhà nước, bởi vậy chế độ chính trị ở mỗi quốc gia, cơ
cấu bộ máy nhà nước của quốc gia ấy là yếu tố quyết định tới mô hình tổ chức
NSNN. Hiện nay trên thế giới có 2 mô hình chủ yếu trong việc tổ chức hệ thống
NSNN:

 Mô hình nhà nước liên bang như các nước Mỹ, Australia…: NSNN được
tổ chức theo 3 cấp:
 Ngân sách liên bang.
 Ngân sách bang.
 Ngân sách địa phương.

3
 Mô hình nhà nước thống nhất, như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan…:
NSNN gồm 2 cấp:
 Ngân sách trung ương.
 Ngân sách địa phương.
1.1.3. Đặc điểm của Ngân sách nhà nước.

Ngân sách nhà nước luôn gắn liền với Nhà nước, nó được dùng để chỉ
những khoản thu, chi của Nhà nước được thể chế hóa bằng pháp luật.

Về bản chất, NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước
và xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài
chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của nhà nước. Các quan
hệ kinh tế này bao gồm:

 Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
dịch vụ. Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình hình thành
nguồn thu của ngân sách nhà nước qua các khoản thuế mà các doanh
nghiệp phải nộp; thông qua các khoản thu vào NSNN lợi nhuận từ các
khoản đầu tư, tài sản của Nhà nước. Đồng thời, NSNN chi hỗ trợ cho sự
phát triển của các doanh nghiệp dưới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ
trợ vốn…, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước.
 Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính. Quan hệ này phát sinh
khi Nhà nước tham gia thị trường tài chính thông qua việc phát hành các
loại chứng khoán của Kho bạc Nhà nước nhằm thu hút vốn của các chủ
thể trong xã hội, đáp ứng nhu cầu cân đối với cho NSNN.
 Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư. Mối quan hệ này thể
hiện qua việc một bộ phận dân cư thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà

4
nước bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận dân cư khác
được nhận từ NSNN các khoản trợ cấp theo quy định của pháp luật.
 Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức xã hội. Mối quan hệ này thể
hiện ở việc cấp kinh phí hình thành, hoạt động và phát triển cho các tổ
chức này từ NSNN.
 Quan hệ kinh tế giữa NSNN và hoạt động tài chính đối ngoại. Mối quan
hệ này thể hiện qua các khoản vay nợ, viện trợ của Chính phủ; cũng như
thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế.

Các quan hệ tài chính thuộc NSNN có các đặc điểm nổi bật sau đây:

 Việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN tại bất cứ quốc gia nào cũng đều gắn
liền với quyền lực của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà
nước; được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những quy định của pháp luật.
 NSNN luôn gắn liền với sở hữu toàn dân- sở hữu nhà nước, luôn gắn với
lợi ích chung, lợi ích cộng đồng. Hoạt động thu, chi NSNN là sự thể hiện
các mặt hoạt động kinh tế của Nhà nước. Thông qua NSNN, Nhà nước thể
hiện vai trò phân phối các nguồn tài chính trong xã hội và thực hiện phân
bổ các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế- xã hội, an ninh, quốc
phòng của đất nước.
 NSNN là quỹ tiền tệ của Nhà nước, bởi vậy nó cũng mang những đặc
điểm của một quỹ tiền tệ. Nét riêng có của NSNN với tư cách quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước là nó được chia làm nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng
riêng, và từ các quỹ nhỏ đó, NSNN mới được chi dùng cho những mục
tiêu đã định.

5
 Hoạt động thu chi của NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn
trả trực tiếp là chủ yếu.
1.1.4. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường.

a. Nền kinh tế thị trường.

Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức theo cách này hoặc cách khác
nhằm nhằm huy động tối đa các nguồn lực xã hội và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực đó để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của xã hội. Việc sản xuất
hàng hóa gì, sản xuất như thế nào và thực hiện phân phối ra sao, đó chính là vấn
đề cơ bản của tổ chức kinh tế xã hội, là sự thể hiện rõ rệt nhất trình độ phát triển
của một nền kinh tế.

Một nền kinh tế mà mọi vấn đề cơ bản nêu trên đều do thị trường quyết
định được gọi là kinh tế thị trường.

Trong nền kinh tế thị trường có sự vân động của hàng loạt các quy luật
kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh, quy luật
lưu thông tiền tệ…; và lợi nhuận chính là động lực cơ bản của sự vận động ấy.
Các quy luật trên biểu hiện thông qua thị trường, tạo nên cái gọi là cơ chế thị
trường.

Nhìn chung cơ chế thị trường có những ưu điểm sau:

 Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều
kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật của họ.

 Sự cạnh tranh gay gắt là một quy luật tất yếu của kinh tế thị trường, buộc
các chủ thể kinh tế phải tìm cách để tối ưu hóa sản xuất, tối thiểu hóa hao

6
phí lao động cá biệt bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản
xuất.

 Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối
lượng và cơ cấu sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội.

 Trong nền kinh tế thị trường có sự tồn tại đa dạng của các thị trường. Bên
cạnh thị trường hàng hóa đã xuất hiện từ rất sớm còn có thị trường lao
động, thị trường vốn phục vụ tối ưu cho sự kết hợp sản xuất; cùng với hệ
thống giá cả linh hoạt vận động theo cung cầu của thị trường.

Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng cơ chế thị
trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Song cơ chế thị trường
cũng mang trong mình không ít khuyết tật:

 Mục đích hoạt động của các chủ thể kinh tế trong kinh tế thị trường là tối
đa hóa lợi nhuận. Ngành nào, lĩnh vực nào có khả năng đem lại lợi nhuận
cao thì họ sẽ đổ xô vào mặt hàng, lĩnh vực đó; từ đó dẫn đến sự phát triển
mất cân đối giữa các khu vực, các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân.

 Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp sẵn sàng lạm dụng tài
nguyên gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Những tổn thất này
xã hội sẽ phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế- xã hội không được đảm
bảo.

 Khuyết tật lớn nhất của cơ chế thị trường đó là: qua sự tác động của cơ chế
này sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng thêm trầm trọng, tác
động xấu tới lối sống và đạo đức của con người.

7
Với một loạt các hạn chế kể trên, ngày nay, trên thực tế, không tồn tại, cơ
chế thị trường thuần túy mà có sự can thiệp của nhà nước. Khi đó, nền kinh tế
được gọi là nền kinh tế hỗn hợp.Với Việt Nam, Đảng ta xác định chúng ta xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

b. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường.

Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường xuất hiện trước yêu cầu
khách quan phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm khắc phục
những hạn chế của kinh tế thị trường, giúp nền kinh tế- xã hội của quốc gia phát
triển cân đối, hài hòa, hợp lý hơn. Thông qua thu, chi NSNN, Nhà nước đã thực
hiện vai trò điều tiết vĩ mô của mình. Vai trò của NSNN được thể hiện trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội cụ thể như sau:

 NSNN là công cụ chủ yếu phân bổ trực tiếp hoặc gián tiếp các nguồn lực
tài chính quốc gia, định hướng phát triển sản xuất, hình thành cơ cấu kinh
tế mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
 NSNN là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm
phát.
 NSNN là công cụ có hiệu lực của Nhà nước để điều chỉnh trong lĩnh vực
thu nhập, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
 NSNN có vai trò quan trọng trong việc củng cố, tăng cường sức mạnh của
bộ máy nhà nước, bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh.
(nguồn: Giáo trình Lý thuyết Tài chính- NXB Tài chính 2005)

1.1.5. Thu NSNN

8
Thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một
phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu
cầu Nhà nước.
(nguồn: Giáo trình Lý thuyết Tài chính- NXB Tài chính 2005)
a. Các khoản thu vào NSNN
Thu NSNN bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách
để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất tài chính, thu
NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh
trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của mình.
Theo quy định tại điều 2 Luật NSNN năm 2002 thì thu ngân sách nhà nước ở
nước ta bao gồm:
 Thuế, phí, lệ phí do các cá nhân, tổ chức nộp theo quy định của pháp luật.
 Các khoản thu từ hoạt động kinh tế Nhà nước như:
 Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế.
 Tiền thu hồi vốn Nhà nước tại các cơ sở kinh tế.
 Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
 Thu từ các hoạt động sự nghiệp.
 Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu của nhà nước.
 Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân nước ngoài, từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước.
 Thu khác: như thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản…
b. Phân loại thu ngân sách.

9
Hiện nay có rất nhiều quan điểm trong việc phân loại thu NSNN theo
những tiêu thức nhất định nhằm đáp ứng những yêu cầu nghiên cứu, phân tích
kinh tế và quản lý ngân sách. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, nhóm xin
trình bày 2 cách phân loại sau đây để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình.
 Căn cứ vào tính chất kinh tế của các nguồn thu.
Theo cách phân loại này, thu NSNN được chia thành:
 Thu từ thuế và các khoản mang tính chất thuế (như phí, lệ phí) hay còn
được gọi là thu từ thuế, phí và lệ phí. Đây là các khoản thu có tính chất bắt
buộc, không hoàn trả và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách.
 Các khoản thu không mang tính chất thuế hay còn gọi là thu ngoài thuế.
Cách phân loại này có ý nghĩa lớn trong việc xác định tỷ lệ động viên từ
thuế vào ngân sách hay tỷ lệ giữa số thuế thu được/GDP. Đây là chỉ tiêu dùng để
phân tích, đánh giá chính sách động viện vào NSNN từ thuế. Nó còn có ý nghĩa
trong việc xác định tỷ trọng nguồn thu từ thuế trong tổng số thu.
 Căn cứ vào tính chất thường xuyên của các khoản thu, thu NSNN bao
gồm:
 Thu thường xuyên: gồm chủ yếu là thuế, phí, lệ phí. Ngoài ra trong nhóm
này còn có các khoản thu khác là:
 Thu từ sở hữu tài sản ngoài thuế như thu từ hoạt động sự nghiệp,
thu sử dụng vốn ngân sách, tiền cho thuê mặt đất, mặt nước…
 Thu từ các khoản cho vay.
 Thu từ các khoản đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
 Thu từ tiền phạt, tịch thu…

10
 Thu không thường xuyên: có các khoản thu gồm việc bán các tài sản thuộc
sở hữu nhà nước, bán cổ phần thuộc sở hữu nhà nước, thu viện trợ, vay
nợ…
Từ cách phân loại này, trên cơ sở mức thu thường xuyên mà chủ yếu được
xác định từ thuế, phí, lệ phí sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách xác định được
tỷ lệ hợp lý giữa chi thường xuyên và thu thường xuyên. Tỷ lệ này là hết sức cần
thiết, vừa nhằm đảm bảo ổn định chi tiêu dùng thường xuyên, vừa làm tăng tích
lũy cho nền kinh tế.
1.1.6. Chi NSNN
a. Các khoản chi của NSNN
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực
hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
Bản chất kinh tế của chi NSNN chính là quá trình phân phối lại các nguồn
tài chính đã được tập trung vào NSNN và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Vì
thể, chi NSNN thể hiện ở những việc cụ thể, không chỉ dừng lại trên các định
hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc
thuộc chức năng mà Nhà nước đảm nhiệm.
Do tính đa dạng và phức tạp nên chi NSNN có rất nhiều khoản mục khác
nhau, bao gồm:
 Chi đầu tư phát triển: bao gồm các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng; chi cho các chương trình, mục tiêu quốc gia; chi cho hỗ trợ các
doanh nghiệp nhà nước, góp vốn liên doanh, liên kết; chi bổ sung dự trữ
nhà nước.
 Chi sự nghiệp kinh tế;
 Chi cho y tế;

11
 Chi cho giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học;
 Chi cho văn hóa, thể dục thể thao;
 Chi về xã hội;
 Chi quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể;
 Chi cho an ninh quốc phòng;
 Chi khác như: chi viện trợ, cho vay, trả nợ gốc và lãi.
b. Phân loại chi NSNN.

Nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu của mình, nhóm đề tài xin được
trình bày cách phân loại chi NSNN sau đây:

Căn cứ theo yếu tố thời hạn và phương thức quản lý NSNN, nội dung chi
NSNN được chia thành bốn nhóm như sau:

 Nhóm chi thường xuyên: bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của Nhà nước. Một cách tổng quát, chi thường xuyên bao
gồm các khoản chi lương và tiền công; chi mua sắm hàng hóa và dịch vụ;
chi chuyển giao thường xuyên.

 Nhóm chi đầu tư phát triển, bao gồm các khoản chi làm tăng cơ sở vật
chất của đất nước và góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Đây được xem là
các khoản chi mang tính chất tích lũy, gồm chi đầu tư cho cơ sở hạ tầng;
chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước, chi các chương trình dự án quốc gia…

 Nhóm chi trả nợ, viện trợ, bao gồm các khoản chi để Nhà nước thực hiện
nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong và ngoài nước đến hạn. Bên cạnh
đó trong nhóm này còn gồm có các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế.

12
 Chi dự trữ: đây là những khoản chi NSNN để bổ sung quỹ dự trữ quốc gia,
quỹ dự trữ tài chính.

Một cơ cấu chi NSNN hợp lý cho các nước đang phát triển trong đó có
Việt Nam đó là chi cho đầu tư phát triển phải chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi
ngân sách. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, tỷ trọng này lại đang có xu
hướng giảm, chi thường xuyên còn quá lớn. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là cần tăng
cường huy động các nguồn thu vào NSNN, bên cạnh đó cần đẩy mạnh xã hội
hóa một số khoản chi thường xuyên như y tế, giáo dục đào tạo… để giảm chi
thường xuyên của Nhà nước, tập trung ngân sách cho chi đầu tư phát triển.

Qua sự phân tích về vai trò của thu, chi NSNN nói trên, có thể thấy rằng
thăng bằng giữa thu và chi NSNN, cân đối NSNN là nguyên tắc quản lý NSNN
xuất phát từ yêu cầu khách quan của ổn định tiền tệ, ổn định sản xuất , đời sống
và nó còn là điều kiện để tạo dựng môi trường tài chính vĩ mô ổn định. Vì vậy,
thăng bằng thu, chi NSNN phải được coi trọng và giữ vững. Tuy nhiên, thực tế
hiện nay cho thấy không chỉ Việt Nam mà rất nhiều nước trên thế giới không kể
trình độ phát triển đều đã và đang xảy ra tình trạng thu không đủ chi. Hiện
tượng đó được gọi là bội chi NSNN.

1.2. Tổng quan về bội chi NSNN.

1.2.1. Khái niệm về bội chi NSNN

Bội chi NSNN (thâm hụt NSNN) trong một thời kỳ (1 năm tài chính, tài
khóa hay 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó.

Qua sự trình bày về thu- chi NSNN nêu trên, có thể đưa ra bảng tóm tắt
nội dung cân đối NSNN hàng năm như sau:

13
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối NSNN hàng năm.

Thu Chi
A. Thu thường xuyên (chủ yếu từ C. Chi thường xuyên.
thuế, phí, lệ phí)
D. Chi đầu tư phát triển.
B. Thu không thường xuyên
E. Chi trả nợ, viện trợ.
 Thu từ vốn (bán tài sản thuộc
F. Chi dự trữ.
sở hữu Nhà nước.

 Thu từ viện trợ.

 Lấy từ dự trữ.

 Vay thuần (vay mới- trả nợ


cũ)

NSNN được cân đối khi A+B=C+D+E+F.

Từ đó xác định được công thức tính bội chi NSNN:

Bội chi NSNN=(C+D+E+F) – (A+B) (1).

1.2.2. Các phương pháp xác định mức bội chi NSNN.

Theo sự đánh giá của các chuyên gia kinh tế ở cả trong và ngoài nước,
hiện Việt Nam đang áp dụng cách xác định bội chi NSNN theo “cách riêng của
Việt Nam”

14
Hiện Việt Nam đang áp dụng cách xác định bội chi NSNN theo công thức
(1) như đã trình bày ở trên. Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn,
cách xác định bội chi NSNN hiện nay của Việt Nam đã bao gồm toàn bộ các
khoản vay để bù đắp, có nghĩa là chi ngân sách đối với các khoản vay này được
thực hiện 2 lần: lần thứ nhất sử dụng nguồn vay cho các mục tiêu, nhiệm vụ của
NSNN; lần thứ hai bố trí ngân sách để trả nợ (gốc và lãi) khi khoản vay tới hạn.

Tuy nhiên theo thông lệ quốc tế được đưa ra bởi Quỹ tiền tệ quốc tế IMF,
cần bổ sung thêm một số nội dung về các nhiệm vụ chi ngân sách của nước ta,
gồm: đầu tư vốn theo nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA; các hoạt động
đầu tư do ngân hàng phát triển Việt Nam hỗ trợ; cho vay bằng hình thức phát
hành trái phiếu ưu đãi và chi đầu tư ngoài ngân sách- đây là các khoản chi lớn
nhưng hiện chưa được đưa vào cân đối ngân sách hàng năm ở nước ta. Đồng
thời, cách tính của IMF tách rời những ảnh hưởng của khu vực dầu khí với các
khu vực khác nhằm mục đích theo dõi tình hình nếu Việt Nam không thu được
lợi từ việc giá dầu có những biến động lớn trên thị trường thế giới. Và nếu như
thực hiện theo cách tính này của IMF, mức bội chi ngân sách năm 2007 của Việt
Nam không chỉ dừng lại ở con số 5% mà thực tế phải lên tới 6,9% GDP, quy đổi
ra con số thực tế ước tính lên tới hàng ngàn tỷ đồng.

1.2.3. Nguyên nhân dẫn tới bội chi NSNN

Hiện nay hầu như các nhà kinh tế đều thống nhất có hai nhóm nguyên
nhân cơ bản dẫn tới tình trạng bội chi NSNN của một quốc gia

a. Nhóm nguyên nhân thứ nhất được xem là nguyên nhân khách quan, đó là
do sự tác động của chu kỳ kinh tế.

15
Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại, chu kỳ kinh tế (hay còn gọi là
chu kỳ kinh doanh) là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt
là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh.

Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính chất quy luật, hiện
nay cũng chưa có học thuyết kinh tế nào đưa ra phương pháp dự báo chính xác
thời gian, thời điểm xảy ra các pha của chu kỳ này. Chính vì lẽ đó, chu kỳ kinh
tế, mà đặc biệt là pha suy thoái khiến kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân
và kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ thị trường hàng hóa, dịch vụ tới thị trường
vốn… đều bị thu hẹp dẫn tới những hậu quả tiêu cực về kinh tế xã hội. Các yếu
tố trên dẫn tới nguồn thu của Nhà nước bị thu hẹp, nhưng Nhà nước lại phải tăng
cường chi tiêu để khắc phục và làm giảm nhẹ những tác động của suy thoái, điều
này làm cho bội chi NSNN tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế ở vào giai đoạn
hưng thịnh, nguồn thu của Nhà nước được tăng lên trong khi chi từ ngân sách
không cần gia tăng một cách tương ứng, nên mức bội chi có xu hướng giảm
xuống. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh tế được gọi là bội chi chu kỳ.

b. Nhóm nguyên nhân thứ hai thuộc về chủ quan là tác động của chính sách
thu chi của Nhà nước.

Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng
nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, trong khi chưa có nguồn thu trở lại
từ hoạt động đầu tư thì tất yếu dẫn tới mức bội chi ngân sách tăng lên. Ngược lại,
trong ngắn hạn khi thực hiện chính sách kiểm soát, thắt chặt cung tiền tệ, thắt
chặt chi tiêu, mức bội chi sẽ có sự giảm xuống tương ứng. Mức bội chi do chính
sách thu chi gây ra gọi là bội chi cơ cấu.

16
Trong điều kiện bình thường, không có thiên tai lớn hay chiến tranh, tổng
hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu trong một thời kỳ được gọi là bội chi
NSNN.

1.2.4. Ảnh hưởng của bội chi NSNN.

Thực chất, bội chi ngân sách bản thân nó không gây ra những tác động
cho nền kinh tế, sự tác động của nó tới kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các
giải pháp nhằm bù đắp bội chi NSNN. Mỗi giải pháp nhằm bù đắp đều làm ảnh
hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô.

 Bội chi NSNN kéo dài là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng lạm phát.

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xem xét mối quan hệ
giữa 2 hiện tượng kinh tế là bội chi NSNN và lạm phát. Nhóm đề tài nghiên cứu
mối quan hệ này theo mối quan hệ nhân- quả, trong đó bội chi NSNN kéo dài sẽ
dẫn tới tình trạng lạm phát.

Khi NSNN rơi vào tình trạng bội chi kéo dài buộc Nhà nước phải có các
giải pháp để khắc phục tình trạng đó. Giải pháp tình thế trước mắt thường được
Chính phủ các nước sử dụng đó là in tiền để trang trải hoặc vay nợ ở trong và
ngoài nước. Kéo theo điều này là sự gia tăng khối lượng các dòng tiền cơ sở
trong lưu thông tiền tệ, làm gia tăng lượng tiền trong nền kinh tế. Điều này kéo
dài sẽ gây ra tình trạng mất kiểm soát lượng tiền trong lưu thông- nguồn gốc căn
bản của lạm phát.

 Bội chi NSNN kéo theo sự thoái lui đầu tư.

Theo “thuyết tương đương” của D.Ricardo, khi có tình trạng bội chi ngân
sách (thâm hụt ngân sách) thì tiết kiệm của dân chúng sẽ tăng lên bằng với mức
17
thâm hụt, vì thế thâm hụt ngân sách sẽ khong ảnh hưởng tới lãi suất, không gây
cản trở đầu tư.

Tuy nhiên thực tế ở nhiều nước cho thấy khi NSNN thâm hụt trong một
thời gian dài, thu vào ngân sách giảm, chi tiêu của Chính phủ gia tăng kéo theo
GDP tăng lên theo hệ số nhân, làm gia tăng nhu cầu về tiền của nền kinh tế. Với
mức cung về tiền được xác định trước (thời điểm đầu năm tài khóa) thì lãi suất sẽ
buộc phải tăng lên, bóp nghẹt một số hoạt động đầu tư. Kết quả là một phần
GNP tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt cao, từ đó kéo theo thoái lui đầu tư.
Hiện tượng thoái lui đầu tư sẽ diễn ra với quy mô nhỏ trong ngắn hạn, nhưng
tiềm ẩn sau đó là quy mô thoái lui lớn về dài hạn, từ đó làm giảm sự tăng trưởng
kinh tế.

 Bội chi NSNN tác động tới cán cân thương mại.

Trong thương mại quốc tế, hiệu số giữa kim ngạch xuất khẩu và kim
ngạch nhập khẩu của một quốc gia được gọi là cán cân thương mại. Các hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, xuất khẩu vốn… không chỉ được đánh
giá qua số lượng mà còn được thể hiện qua tỷ lệ trao đổi. Tỷ lệ trao đổi thể hiện
qua tỷ số giữa giá hàng xuất khẩu bình quân và giá hàng nhập khẩu của một quốc
gia. Như vậy, trong điều kiện khối lượng hàng hóa dịch vụ xuất nhập khẩu
không thay đổi, nếu giá hàng xuất khẩu tăng lên một cách tương đối so với giá
hàng nhập khẩu, cán cân thương mại sẽ có sự thay đổi tích cực và ngược lại.

Như đã phân tích ở trên, tình trạng bội chi ngân sách sẽ làm lãi suất bình
quân của thị trường tăng lên. Điều đó kéo theo sự gia tăng về giá trị của đồng nội
tệ so với các ngoại tệ khác, giá hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt tương đối so với
hàng hóa của các nước khác, làm giảm lượng hàng hóa xuất khẩu, giảm kim

18
ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, lãi suất đồng nội tệ tăng lên cũng làm cho hàng
hóa nhập khẩu trở nên rẻ tương đối so với các hàng hóa cùng loại sản xuất trong
nước. Kéo theo điều này là tình trạng nhập siêu của nền kinh tế, sản xuất trong
nước gặp nhiều khó khăn, tác động không ít tới tăng trưởng kinh tế

1.3. Ảnh hưởng của bội chi NSNN tới một số quốc gia trên thế giới. Bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.

1.3.1. Bội chi NSNN ở một số quốc gia trên thế giới.

a. Mỹ.

Bước sang những năm sau của thế chiến thứ hai và đặc biệt là từ thập kỷ
80 của thế kỷ trước, Mỹ đã trở thành nước có vị thế siêu cường trên thế giới.
Nhưng chính nền kinh tế lớn nhất thế giới này cũng đã không ít lần “chao đảo”
bởi tình trạng bội chi ngân sách.

Cụ thể, nếu như trong giai đoạn 1950-1970, NSNN Mỹ đã có 16 năm rơi
vào bội chi thì từ 1970 tới nay chỉ có duy nhất 2 năm là 1999 và 2000 NSNN Mỹ
có tích lũy, còn lại không năm nào không có bội chi xảy ra. Khối lượng bội chi
cũng ngày càng lớn. Trong giai đoạn từ 1930- 1979, tổng số thâm hụt ngân sách
tăng từ 17,6 tỷ USN nhảy vọt lên 300 tỷ USD. Tình hình này ngày càng trầm
trọng và trở thành căn bệnh hiểm nghèo của nền kinh tế Mỹ bắt đầu từ những
năm 80 của thế kỷ trước

19
Mức thâm hụt ngân sách Mỹ qua một số năm.

Năm 1982 1986 1988 1991


Mức thâm hụt 100 210 155 159
(tỷ USD)
(nguồn: Finance Times)

Theo báo cáo của Văn phòng ngân sách Quốc hội Mỹ, trong năm tài chính
2009 chi vượt thu tới hơn 1.400 tỷ USD, tương đương với 9,9 % GDP của nước
này; đây là tỷ lệ bội chi lớn nhất kể từ năm 1945 trở lại đây và cao gấp hơn 3 lần
con số bội chi mà Chính phủ mà cho là ở mức báo động của năm 2008 (459 tỷ
USD).

Theo thông báo gần đây nhất của Chính phủ Mỹ, chỉ tính riêng tháng
2/2010, mức thâm hụt ngân sách đạt tới con số 220,9 tỷ USD- lập kỷ lục mới về
mức bội chi ngân sách trong một tháng (con số cũ là 193,9 tỷ USD vào tháng
2/2009). Đây cũng là tháng thứ 17 liên tiếp nước Mỹ ở trong tình trạng bội chi
ngân sách.

Với mức bội chi cao và kéo dài như vậy, nhiều học giả cũng như các quan
chức thuộc Chính phủ Mỹ đã có những lo ngại về vị thế của đồng USD cũng như
tiềm lực của nền kinh tế này trước sự trỗi dậy của hàng loạt nền kinh tế khác.

 Theo Cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) Alan Greenspan thì
“vấn đề bội chi ngân sách sẽ là mối đe dọa lâu dài mà đồng USD phải đối
mặt”. Theo ông, bội chi NSNN ở mức kỷ lục hiện tại sẽ gây áp lực lớn lên
đồng USD, đồng thời khiến chi phí vay vốn bằng đồng tiền này chịu nhiều
áp lực.

20
Cũng theo ông, nếu như Chính phủ Mỹ không giải quyết được vấn đề cân
đối NSNN trong dài hạn, đồng USD sẽ khó duy trì được vị thế hiện tại trong hệ
thống tài chính toàn cầu. Đó thực sự là bài toán lớn cho Chính phủ Mỹ.

 Thâm hụt ngân sách đe dọa vị thế siêu cường của Mỹ. Đây chính là nhận
định của Tổng thống Mỹ Barack Obama. Theo tính toán lạc quan nhất
của ông, bội chi NSNN của Mỹ sẽ không thể quay lại mức hợp lý trong
vòng hơn 10 năm nữa. Và điều mà người đứng đầu Nhà Trắng lo ngại đó
là nước Mỹ có thể đã bắt đầu phải hứng chịu “căn bệnh bội chi” đã và
đang hành hạ Nhật Bản suốt hàng chục năm qua. Dư nợ quốc gia tăng
nhanh hơn so với thu nhập, từ đó làm giảm ảnh hưởng của Mỹ trên toàn
cầu. Nước Mỹ đang đứng trước lo ngại sẽ trở nên lệ thuộc nhiều hơn vào
các nước chủ nợ, mà lớn nhất hiện nay là Trung Quốc.

Cách thức chủ yếu mà nước Mỹ sử dụng để giải quyết tình trạng bội chi
ngân sách của mình đó là thông qua con đường vay nợ trong và ngoài nước, bên
cạnh đó tiến hành in thêm tiền để phục vụ cho chi tiêu của mình.

Chỉ tính riêng từ tháng 9/2007 đến hết ngày 31/12/2008, trên bảng cân đối
kế toán của Cục dữ trữ liên bang Mỹ FED đã “phình” ra từ mức 900 tỷ USD lên
con số 2.200 tỷ USD. Điều này có nghĩa là FED đã in thêm tới 1.300 tỷ USD để
bù đắp phần nào những tác động từ cuộc khủng hoảng nhà đất và trong lĩnh vực
ngân hàng của nước Mỹ vào thời điểm đó. Chính phủ Mỹ mà trực tiếp là FED
hiện không thể kiểm soát lượng USD lưu thông trong nền kinh tế Mỹ nói riêng
cũng như trên phạm vi thế giới nói chung, lý do đơn giản bởi USD hiện vẫn là
đồng tiền đóng vai trò tiền tệ quốc tế. Xuất phát từ việc mất kiểm soát lượng tiền

21
trong lưu thông, việc in thêm tiền của FED đã gián tiếp tạo điều kiện làm gia
tăng lạm phát trong nền kinh tế Mỹ.

Với Bộ Tài chính Mỹ thì “nguồn mật” mang lại cho nước này lượng tiền
khổng lồ cho các mục đích chi tiêu của Chính phủ đến từ hoạt động vay nợ thông
qua trái phiếu kho bạc mà nước Mỹ đã quen dùng trong nhiều thập kỷ qua.
Người Mỹ đã quen với việc coi trái phiếu chính phủ của mình là “giếng mật vô
tận” mà quên mất rằng, IMF đã và đang đưa ra những cảnh báo về dư nợ trái
phiếu của nước này.

b. Trung Quốc

Cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ cũng gây ra những tác động mạnh
mẽ đối với các nước đang phát triển, mà điển hình là Trung Quốc. Theo những
thông báo mới nhất của Chính phủ nước này con số thâm hụt ngân sách trong
năm tài khóa 2009 đã lên con số kỷ lục 950 tỷ Nhân Dân Tệ (NDT)- tương
đương với 139 tỷ USD, mức thâm hụt cao nhất trong vòng 60 năm trở lại đây.

280 tỷ NDT là con số mà ban đầu Bộ Tài chính Trung Quốc dự đoán,
nhưng có thể thấy con số thực tế lên tới 950 tỷ NDT. Điều này xảy ra trong bối
cảnh nước này đang đẩy mạnh chi tiêu nhằm giảm tác động của cuộc khủng
hoảng toàn cầu. Con số thâm hụt ngân sách này chiếm 3% GDP của Trung
Quốc; trong đó ngân sách trung ương bội chi 750 tỷ NDT, tăng 570 tỷ so với
năm 2008.

Trong năm 2009, Chính phủ Trung Quố đã chi 293 tỷ USD cho mạng lưới
an sinh xã hội, tăng 17,6% so với năm 2008, đồng thời nước này cũng có kế
hoạch chi 850 tỷ NDT cho 3 năm tiếp theo nhằm đảm bảo tiến trình cải cách hệ

22
thống y tế và chăm sóc sức khỏe; chi 42 tỷ NDT để hạn chế những tác động tiêu
cực của tình trạng thất nghiệp.

Theo những dự báo được đưa ra, năm 2010 nếu như tình hình không thật
sự được cải thiện, mức bội chi NSNN của Trung Quốc có thể lên tới 1.050 tỷ
NDT, tương đương với 153,8 tỷ USD, tỷ lệ bội chi trên GDP sẽ đạt tới con số
đáng báo động 5%.

Để đối phó với tình trạng bội chi tăng cao, chỉ tính riêng năm 2009 Chính
phủ nước này đã cho phép các địa phương phát hành 200 tỷ NDT trái phiếu
thông qua Bộ Tài chính, và số tiền này sẽ được phân bổ trở lại cho địa phương.
Cũng theo kế hoạch của nước này, việc tiến hành vay nợ trong nước trong năm
2010 để bù đắp phần nào thâm hụt ngân sách có thể sẽ ở mức 700 tỷ NDT.

c. Anh.

2008 đánh dấu sự kết thúc của thập kỷ tăng trưởng bùng nổ nhờ hoạt động
tín dụng tăng mạnh và những khoản đầu tư khổng lồ vào ngành địa ốc đối với
nước Anh. Vào thời điểm đó, Chính phủ Anh cũng như nhiều chuyên gia kinh tế
lo ngại nước này sẽ có thể rơi vào “thập kỷ mất mát” từng diễn ra ở Nhật Bản
vào những năm 90 của thế kỷ trước, do nền kinh tế Anh lúc bấy giờ mang nhiều
nét tương đồng với kinh tế Nhật những năm 90.

Lo ngại về điều đó, các nhà hoạch định chính sách của Anh đã đưa ra
những giải pháp mạnh tay trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Hàng loạt
các biện pháp kích thích tài khóa và tiền tệ được thực hiện nhằm ngăn chặn tình
trạng trì trệ trong cả tăng trưởng lẫn hoạt động của các ngân hàng Anh, như
những gì đã đeo đẳng nền kinh tế Nhật tới tận bây giờ.

23
Nhiều chỉ số kinh tế được Chính phủ nước này công bố gần đây đã cho
thấy những tín hiệu tích cực: doanh số bán lẻ được cải thiện, tốc độ thất nghiệp
chậm lại, xuất khẩu dần hồi phục. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích cho rằng,
những số liệu ấy có thể chỉ là tấm mặt nạ che đậy cho những vấn đề sâu xa hơn
của nền kinh tế Anh.

Khối lượng nợ của nước này đang ngày một gia tăng, trong khi thu từ thuế
lại đang bị co hẹp do các biện pháp trợ thuế trong và sau khủng hoảng. Bên cạnh
đó, nước này lại vẫn đang tiếp tục thực hiện chương trình mua vào trái phiếu
doanh nghiệp nhằm duy trì thanh khoản cho kênh huy động vốn này vào thời
điểm khó khăn hiện nay. Tính tới thời điểm 1/1/2010, Ngân hàng trung ương
Anh quốc đã chi khoảng 200 tỷ Bảng, tương đương 330 tỷ USD (khoảng 14%
GDP hàng năm của nước này) để mua vào trái phiếu của các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, chính sách này lại có mặt trái đang đem lại bất lợi lớn cho NSNN Anh.

Chỉ tính riêng tháng 10/2009, nước này đã vay vào 11 tỷ Bảng, nâng tổng
số nợ 6 tháng tính tới tháng 10 lên 86,9 tỷ Bảng . Với tốc độ vay nợ như vậy,
chắc chắn mức dự báo vay nợ chính phủ 175 tỷ Bảng mà Chính phủ Anh đưa ra
cho năm 2010 sẽ dễ dàng bị phá vỡ.

Điều đó xảy ra kéo theo mức thâm hụt ngân sách của Chính phủ Anh sẽ
lên tới 13% GDP, cao gần gấp đôi mức thâm hụt bình quân của các nước sử
dụng đồng tiền chung châu Âu. Hậu quả của điều này là Anh đang bị các hãng
định mức tín nhiệm Fitch và S&P xem xét hạ mức tín nhiệm nợ. Hiện Anh đang
nằm trong số khoảng 20 quốc gia trên thế giới được định mức tín nhiệm AAA.
Nếu điều này xảy ra, Anh sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc nay nợ thông
qua trái phiếu chính phủ của mình, bởi khi đó mức lãi suất mà nước này phải

24
gánh chịu sẽ tăng lên, vòng xoáy vay nợ- trả nợ lãi suất cao sẽ đẩy Chính phủ
vào ngõ cụt trong việc giải quyết bài toán bội chi NSNN.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Xử lý bội chi ngân sách được xem là một vấn đề làm đau đầu các nhà
hoạch định chính sách, bởi họ phải lựa chọn giữa một bên là mong muốn đạt
được một tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan, một bên là các nguồn lực có hạn,
đặc biệt là nguồn lực tài chính.

Điểm lại những kinh nghiệm trong xử lý bội chi NSNN ở nước ta và các nước
trên thế giới, có thể đưa ra những cách thức sau đây trong cách ứng phó đối với
hiện tượng kinh tế tài chính này:

 Thứ nhất, một số quốc gia đã và đang sử dụng biện pháp in thêm tiền để
tài trợ cho chi tiêu của mình. Tuy nhiên, giải pháp này dễ gây ra lạm phát
nếu như nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền làm mất cân đối trong
quan hệ tiền- hàng của nền kinh tế; đặc biệt nếu nguyên nhân của bội chi
NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng đề đầu tư cho phát triển kinh
tế gây hiện tượng tăng trưởng quá nóng và không cân đối với khả năng tài
chính quốc gia. Một số quốc gia đã phải gánh chịu những hậu quả nặng nề
từ việc sử dụng biện pháp nảy, tiêu biểu là Achentina giai đoạn 2001-
2005 với sự vỡ nợ ở quy mô quốc gia và Zimbabwe trong thời gian gần
đây với mức lạm phát 231 triệu phần trăm thiết lập vào tháng 7/2008.
Nước Mỹ hiện nay cũng đang đứng trước nguy cơ lạm phát hiện hữu sau
khi nền kinh tế được phục hồi.

25
Lo ngại những ảnh hưởng tiêu cực mà giải pháp xử lý bội chi ngân sách
này đem lại, ở nước ta từ nhiều năm trở lại đây Quốc hội không cho phép
sử dụng giải pháp này.
 Thứ hai, vay nợ trong và ngoài nước. Đây được xem là giải pháp phát huy
được tác dụng tương đối nhanh khi huy động được các nguồn tài chính
trong và ngoài nước cho xử lý bội chi ngân sách. Tuy nhiên, việc vay nợ
nước ngoài quá lớn cũng đem lại nhiều nguy cơ tiềm ẩn, đặc biệt là đối
với các nước đang phát triển. Đi kèm theo các khoản vay là sự kéo theo
các điều kiện về chính trị và kinh tế, đồng thời việc phải trả các khoản nợ
với lãi suất ngày càng sẽ làm giảm dự trữ quốc gia, nhiều khả năng đẩy tới
khủng hoảng tỷ giá. Bài học của các quốc gia láng giềng như Thái Lan,
Indonesia phải nhân nhượng rất nhiều trước những điều kiện cho vay của
IMF trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Các khoản nợ làm
cán cân ngân sách ngày càng mất cân bằng, gây ra những hậu quả lâu dài.
Đồng tiền trong nước bị mất giá, các nhà đầu tư trong nước có thể rút hoạt
động của mình khỏi nước đó.
 Thứ ba, tăng thu để bù đắp bội chi, đặc biệt là tăng thu từ thuế. Tuy nhiên
có thể thấy đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi ngân sách,
bởi những tác động tiêu cực thể hiện gần như ngay lập tức nếu áp dụng
biện pháp này: thuế làm bóp méo các hành vi kinh tế. Tăng thuế một cách
bất hợp lý kéo theo sự tăng lên giá cả hàng hóa, ảnh hưởng tới sản xuất và
đời sống, đồng thời nghiêm trọng hơn, thuế làm triệt tiêu động lực của
người sản xuất. Bởi những tác động như vậy, hiện nay có rất ít nước sử
dụng giải pháp này.

26
 Thứ tư, tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thực hiện, thực hiện hiệu
quả việc chi tiêu công. Đây là giải pháp có tác dụng lâu dài, bền vững
nhất, tuy nhiên lại có độ trễ về thời gian.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà lạm phát trở thành một vấn nạn của nền
kinh tế, vai trò quản lý NSNN nói chung và xử lý bội chi nói riêng của
Nhà nước càng có ý nghĩa cấp thiết. Nhà nước cần thực hiện cắt giảm chi
tiêu không cần thiết và thực hiện tiết kiệm cũng như thực hiện có hiệu quả
đầu tư công là giải pháp mang tính bền vững nhất, và có thể coi là lời giải
duy nhất cho bài toán xử lý bội chi ngân sách nhà nước.

Chương I đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về ngân sách nhà
nước và vấn đề bội chi ngân sách- một bài toán khó của hầu hết các nước hiện
nay. Bên cạnh đó, chương I cũng đã trình bày về tình hình bội chi ngân sách của
một số quốc gia trên thế giới trong những năm gần đây, cũng như cách thức và
các giải pháp mà các nước đã áp dụng để hạn chế tình trạng bội chi ngân sách
của mình, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong
quá trình khắc phục hiện tượng kinh tế tài chính này.

27

You might also like