You are on page 1of 36

1/4

TẬP ĐOÀN VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CÔNG TY VIỄN THÔNG VIETTEL Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Số:3144 /KH – VT – CT Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2010

PHÊ DUYỆT
Ngày 11 tháng 8 năm 2010
KT GIÁM ĐỐC
Đã ký
Đại tá. Lê Ngọc Vinh

KẾ HOẠCH
Về việc tổ chức cuộc thi tìm hiểu “Truyền thống Hội LHPNVN
80 năm- chặng đường lịch sử vẻ vang” (20/10/1930- 20/10/2010)

Căn cứ kế hoạch số 2886/KH-VTQĐ-CTr ngày 5/8/2010 của Tập đoàn về tổ chức


cuộc thi tìm hiểu “ Truyền thống Hội LHPNVN 80 năm – chặng đường lịch sử vẻ vang”
( 20/10/1930- 20/10/2010) ;
Để thực hiện tốt cuộc thi trong Công ty Viễn thông Viettel, Phòng Chính trị triển khai
kế hoạch thực hiện như sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:
* MỤC ĐÍCH
1. Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, hội viên phụ nữ Công ty hiểu rõ hơn
về truyền thống vẻ vang của Phụ nữ Việt Nam; về tổ chức và vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử. Đồng thời, góp phần bồi
dưỡng lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào, ý chí
tự cường dân tộc; phát huy truyền thống tốt đẹp của Phụ nữ Việt Nam; củng cố, tăng cường
niềm tin của Phụ nữ Quân đội vào tổ chức Hội, vào sự lãnh đạo của Đảng.
2. Tạo không khí thi đua phấn khởi trong cán bộ, hội viên phụ nữ; tiếp tục đẩy mạnh
phong trào thi đua “Phụ nữ Quân đội tích cực học tập, lao động sáng tạo hoàn thành tốt nhiệm
vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc”, phấn đấu thực hiện thắng lợi Chương trình hành động của
Phụ nữ Quân đội 5 năm (2007- 2011), Nghị quyết ĐHPNTQ lần thứ X; xác định tốt tinh thần
trách nhiệm, ý chí phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, thực hiện
tốt phong trào thi đua quyết thắng, góp phần xây dựng tổ chức đảng TSVM, xây dựng đơn vị
VMTD.
* YÊU CẦU:
Đề nghị lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan đơn vị chỉ đạo HPNCS tổ chức quán triệt, phát
động cuộc thi tới 100% cán bộ, hội viên. Triển khai cuộc thi nghiêm túc, đảm bảo tính thiết
thực, phù hợp với điều kiện từng đơn vị.

II. NỘI DUNG:


- Tìm hiểu về truyền thống vẻ vang của Phụ nữ Việt Nam và chặng đường lịch sử của tổ
chức HLHPNVN.
- Tìm hiểu về Phụ nữ Việt Nam và hoạt động của HLHPNVN trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Tìm hiểu về công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ Quân đội.
- Cống hiến ý tưởng cho công tác phụ nữ và phong trào của Phụ nữ Quân đội.
2/4

- Những kỷ niệm sâu sắc trong công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ.
(Có liên hệ về Tập đoàn, công ty, đơn vị công tác, bản thân)
III. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA:
- Toàn bộ cán bộ, hội viên phụ nữ của các HPNCS khối cơ quan, Trung tâm, chi nhánh
thuộc Công ty Viễn thông Viettel.
IV. THỜI GIAN:
- Từ ngày 10/8- 3/9/2010
V. THỂ LỆ CUỘC THI:
1.Tên cuộc thi: “Truyền thống Hội LHPNVN, 80 năm- chặng đường lịch sử vẻ vang”
(20/10/1930- 20/10/2010)
2. Hình thức thi:
- Thi viết trả lời câu hỏi, trình bày trên khổ giấy A4 dọc (đánh máy,không phô tô). Có thể
dùng tranh ảnh minh họa.
3. Phương pháp chấm:
- Các HPNCS nhận bài, chấm và tuyển chọn 05 bài xuất sắc gửi lên Phòng Chính trị Công
ty để thi cấp Tập đoàn, cấp toàn quân, kèm theo báo cáo tổng hợp số lượng bài dự thi và
kết quả chấm thi ở cấp mình.
- Các HPNCS khối Cơ quan, Trung tâm, Chi nhánh tự chấm trao giải nội bộ; bài thi phải
được lưu trữ tại cơ sở. Phòng Chính trị Công ty có thể kiểm tra bất kỳ đơn vị nào.
- Không chấm điểm trực tiếp vào bài thi.
VI. CƠ CẤU GIẢI THƯỞNG:
- Giải tập thể trao cho đơn vị tổ chức cuộc thi có hiệu quả nhất, tỷ lệ tham gia cao nhất,
nhiều người đạt giải.
- Giải cá nhân trao cho những đồng chí có bài thi trả lời đủ, đúng số lượng câu hỏi, có
chất lượng cao, thể hiện sự sáng tạo, liên hệ vận dụng tốt trong hoạt động hội và phong trào
phụ nữ của đơn vị.
1. Giải tập thể: 2. Giải cá nhân:
- 01 giải nhất. - 01 giải nhất.
- 02 giải nhì. - 03 giải nhì.
- 03 giải ba. - 03 giải ba.
- 12 giải khuyến khích - 10 giải khuyến khích.
3. Giải chuyên đề:
- 01 giải có bài viết hay nhất về kỷ niệm sâu sắc trong hoạt động hội và phong trào phụ
nữ.
- 01 giải có ý tưởng hay nhất cho công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ của đơn vị.
- Thời gian nộp bài: Mỗi HPNCS nộp 05 bài thi về Phòng Chính trị trước ngày 03/9/2010.
Theo địa chỉ liên hệ: đ/c Nguyễn Thị Bích Thảo – Phòng Chính trị Công ty Viễn thông
Viettel- 45C Giảng Võ – Ba Đình – Hà Nội.
ĐT: 0982519572 - Mail: thaontb1@viettel.com.vn
Nhận được kế hoạch, yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị triển khai tổ chức thực
hiện đạt kết quả tốt nhất.

PHÓ PHÒNG CHÍNH TRỊ


Nơi nhận:
- PCTTĐ (để báo cáo); Đã ký
- BGĐ Công ty;
- Các Phòng,Trung tâm,CN. Trung tá. Nguyễn Hữu Hùng
- Lưu: VT, CT, T8.
3/4

BÀI THI TÌM HIỂU


“Truyền thống Hội LHPNVN
80 năm- chặng đường lịch sử vẻ vang” (20/10/1930- 20/10/2010)
Họ và tên:
Cấp bậc:
Chức vụ:
Điện thoại: emai
Đơn vị: Phòng. TT. CN Công ty Viễn thông Viettel
Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel

CÂU HỎI
thi tìm hiểu Truyền thống Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
80 năm- Chặng đường lịch sử vẻ vang.

Câu 1: Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ra đời trong thời gian, hoàn cảnh nào?
Câu 2: Từ khi ra đời đến nay, Hội LHPNVN đã trải qua mấy kỳ đại hội? Hãy cho biết những
thông tin chính về các kỳ đại hội đó (Thời gian, địa điểm, bối cảnh diễn ra Đại hội, số lượng
đại biểu, số lượng BCH và số lượng thành viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội?).
Câu 3: Đồng chí hãy cho biết tên những Chủ tịch HLHPNVN qua các kỳ Đại hội? Viết về một
Chủ tịch đã để lại cho đồng chí những ấn tượng sâu sắc nhất?
4/4

Câu 4: Từ khi thành lập đến nay, Hội LHPNVN đã phát động những phong trào thi đua yêu
nước nào?
Câu 5: Đồng chí hãy ghi lại những hiểu biết của mình về một phong trào thi đua của Phụ nữ
Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước?
Câu 6: Hội LHPNVN tham gia mấy tổ chức của Phụ nữ khu vực và phụ nữ quốc tế? đó là các
tổ chức nào? thời gian bắt đầu gia nhập?
Câu 7: Đồng chí hãy cho biết Việt Nam đã tham gia Ban lãnh đạo các tổ chức phụ nữ khu
vực và phụ nữ quốc tế trong những nhiệm kỳ nào?
Câu 8: Đồng chí hãy trình bày những hiểu biết cơ bản của mình về Luật chăm sóc và giáo
dục trẻ em; Luật Bình đẳng Giới. Theo đồng chí chúng ta phải làm gì đề bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Phụ nữ và trẻ em Việt Nam?
* Liên hệ bản thân:
Theo đồng chí chúng ta phải làm gì đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Phụ
nữ và trẻ em Việt Nam?
Câu 9: Ban Công tác Phụ nữ quân độ được thành lập thời gian nào? Phụ nữ Quân đội đến
nay đã trải qua mấy kỳ Đại hội? Những thông tin chính về các kỳ đại hội đó?
Câu 10: Đồng chí hãy kể về một kỷ niệm sâu sắc nhất của mình khi tham gia công tác Hội.
Theo đồng chí chúng ta phải làm gì để công tác phụ nữ, phong trào phụ nữ của Quân đội nói
chung, của Viettel nói riêng ngày càng phát triển và đạt hiệu quả thiết thực.
ĐÁP ÁN
Câu 1: Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ra đời trong thời gian, hoàn cảnh nào?
Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa
trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ Việt Nam đã trở thành lực
lượng lao động chính. Bên cạnh đó, nước ta luôn luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo
khổ. Họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là người lao động cần cù,
sáng tạo, thông minh; là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển
bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản
sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều
bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ
những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông
Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn có nhiều phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân
của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị
Minh Khai....
- Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị
An tham gia sinh hoạt hội đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân, chị Thiu, chị
Nhuận, chị Liên thành lập tờ Phụ nữ Giải phóng ở Vinh.
- Năm 1930, trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An, Hà Tĩnh có 12.946 chị
tham gia phụ nữ giải phóng, cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính quyền Xô Viết ở trên
300 xã. Ngày 1/5/1930, đồng chí Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của
hơn 4.000 nông dân ở hai huyện Châu Thành, Mỹ Tho, trong đó có hàng ngàn phụ nữ tham
gia.
- Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội,
nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia
cách mạng
Chính vì vậy, ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được thành lập. Sự
kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách
mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Trong thời kỳ này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với những tên gọi khác nhau: Hội Phụ
nữ Giải phóng (1930 – 1935), Hội Phụ nữ Dân chủ (1936 – 1938); Hội Phụ nữ Phản đế (1939
5/4

– 1941); Đoàn Phụ nữ Cứu quốc (1941 – 1945), Hội đã vận động phụ nữ tham gia bãi công,
biểu tình, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.

Câu 2: Từ khi ra đời đến nay, Hội LHPNVN đã trải qua mấy kỳ đại hội? Hãy cho biết
những thông tin chính về các kỳ đại hội đó (Thời gian, địa điểm, bối cảnh diễn ra Đại hội,
số lượng đại biểu, số lượng BCH và số lượng thành viên Đoàn Chủ tịch Trung ương
Hội?).

1. Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ Nhất.
Tham dự Đại hội có 345 đại biểu, trong đó có 168 đại biểu chính thức đại diện cho 5
triệu hội viên và 10 triệu phụ nữ Việt Nam (trong đó có phụ nữ Việt kiều ở Pháp, Thái Lan,
Tân Đảo). Đại hội lần thú Nhất có ý nghĩa lịch sử vì đã hợp nhất Đoàn phụ nữ Cứu quốc và
Hội LHPN Việt Nam thành một tổ chức duy nhất của phụ nữ, lấy tên là Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam. Hội LHPN Việt Nam là thành viên của Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế.
Đại hội đề ra 10 nhiệm vụ cho toàn thể cán bộ, hội viên, phụ nữ thực hiện trong những
năm tới là: tham gia và ủng hộ chiến đấu; vận động chị em thi đua tăng gia sản xuất; vận động
phụ nữ trong vùng địch tạm chiếm; tăng cường sự hoạt động quốc tế; cải thiện đời sống phụ
nữ và bảo vệ nhi đồng; cứu tế xã hội; vận động phụ nữ tham chính; củng cố và phát triển Hội;
góp phần xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất; tiến hành hợp nhất Đoàn phụ nữ Cứu quốc
vào Hội LHPN Việt Nam.
Đại hội đã thông qua Báo cáo, các Quyết nghị về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của
Hội phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ và bảo vệ hòa bình dân
chủ; thông qua Chương trình, Điều lệ của Hội LHPN Việt Nam, Tuyên ngôn, Hiệu triệu gửi
toàn thể phụ nữ Việt Nam.
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam khóa I gồm 32 ủy viên.
Ban chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban Thường trực gồm 9 ủy viên.
Bà Lê Thị Xuyến được bầu là Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam và các bà: Hoàng Thị Ái,
Lê Thu Trà, Nguyễn Thị Thục Viên là Phó Chủ tịch Hội
2. Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ II.
Diễn ra từ ngày 26 đến ngày 31/5/1956, tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có hơn 700 đại biểu phụ nữ trong nước và Việt kiều ở nước ngoài (trong
đó có hơn 400 đại biểu chính thức). Tham dự Đại hội có 6 đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế.
Đại hội đề ra 5 Chương trình hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong thời kỳ 1956 -
1960: đoàn kết phụ nữ toàn quốc để cùng toàn dân phấn đấu xây dựng nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; thực hiện nam nữ bình đẳng, giải phóng
hoàn toàn phụ nữ; nâng cao trình độ chính trị, văn hoá cho phụ nữ; mở rộng các hoạt động xã
hội để nâng cao đời sống của phụ nữ và nhi đồng; đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo, Chương trình, Nghị quyết, Tuyên ngôn,
Điều lệ sửa đổi của Hội LHPN Việt Nam.
Đại hội quyết định số lượng Ban chấp hành Trung ương khoá II gồm 57 ủy viên. Đại
hội đã bầu 49 ủy viên và dành số lượng 8 ủy viên sẽ bổ sung sau (5 ủy viên cho đại biểu miền
Nam, 3 ủy viên cho đại biểu kiều bào nước ngoài). Ban chấp hành Trung ương bầu Ban
Thường vụ gồm 13 ủy viên. Bà Nguyễn Thị Thập được bầu là Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam,
và các bà: Lê Thị Xuyến, Nguyễn Thị Thục Viên, Hoàng Thị Ái, Bùi Thị Cẩm, Hà Thị Quế là
Phó Chủ tịch Hội.
3. Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ III.
Diễn ra từ ngày 8 đến ngày 11/3/1961, tại Thủ đô Hà Nội .
Tham dự Đại hội có 650 đại biểu (trong đó có 450 đại biểu chính thức). Đến dự Đại
hội còn có 19 đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế.
6/4

Đại hội đã vinh dự đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện thân mật với các
đại biểu. Đại hội đánh giá những thành tích mà Hội LHPN Việt Nam đã lãnh đạo phụ nữ tham
gia thực hiện kế hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo XHCN ở miền Bắc; góp phần đẩy mạnh
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, đặc biệt là những thành tích tham gia cao
trào Đồng khởi năm 1960.
Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ lớn cho toàn thể cán bộ, hội viên, phụ nữ thực hiện trong
nhiệm kỳ là: tăng cường đoàn kết tham gia cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa sự nghiệp giải
phóng phụ nữ ở miền Bắc lên trình độ cao hơn, sâu sắc và triệt để hơn; kiên quyết cùng toàn
dân đấu tranh giành hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, giải phóng phụ nữ và nhi đồng miền Nam khỏi ách tàn bạo của Mỹ -
Diệm; tăng cường đoàn kết hữu nghị với phụ nữ thế giới, đấu tranh cho hoà bình dân chủ, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương khoá III gồm 76 ủy viên. Ban chấp hành
Trung ương đã bầu Ban Thường trực gồm 16 ủy viên. Đại hội bầu lại bà Nguyễn Thị Thập
làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam và bầu Phó chủ tịch Hội là các bà: Hoàng Thị Ái, Hà Thị
Quế, Lê Thị Xuyến, Nguyễn Thị Thục Viên, Hà Giang.
Do yêu cầu của phong trào phụ nữ miền Nam, ngày 8/3/1961, Hội phụ nữ giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập. Ngày 8/3/1965 tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, Đảng
nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam đã trao tặng phụ nữ miền Nam bức trướng với tám
chữ vàng “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”.
Ngày 20/10/1966, Đảng và Bác Hồ tặng bức trướng cho phụ nữ cả nước với dòng chữ
“Phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang, chống Mỹ, cứu nước”
4. Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ IV.
Diễn ra từ ngày 4 đến ngày 7/3/1974, tại Thủ đô Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 796 đại biểu (trong đó có 596 đại biểu chính thức). Dự Đại hội
còn có 26 đoàn đại biểu phụ nữ thế giới. Đại hội vinh dự đón Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng
và đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đến dự và
phát biểu tại Đại hội.
Đại hội đánh giá những thành tích to lớn mà Hội LHPN Việt Nam đã lãnh đạo phụ nữ
miền Bắc thực hiện trong phong trào “Ba đảm đang”, tham gia khôi phục kinh tế và xây dựng
CNXH, chi viện cho cách mạng miền Nam, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc
của đế quốc Mỹ; đề cao thành tích của phụ nữ miền Nam với phong trào “5 tốt” góp phần
đánh thắng âm mưu của đế quốc Mỹ và buộc quân Mỹ phải rút dần về nước.
Đại hội đề ra 6 nhiệm vụ cụ thể cho toàn thể cán bộ, hội viên, phụ nữ thực hiện trong
nhiệm kỳ là: xây dựng người phụ nữ xã hội chủ nghĩa, làm tốt nghĩa vụ với Tổ quốc, xã hội
và gia đình; vận động phụ nữ tham gia phong trào thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm; cùng
các cơ quan, đoàn thể chăm lo quyền lợi, đời sống, sức khoẻ phụ nữ, trẻ em, hướng dẫn tổ
chức tốt gia đình; làm tròn nghĩa vụ với cách mạng miền Nam; tăng cường đoàn kết hữu nghị
với phụ nữ trên thế giới đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội,
cho quyền lợi của phụ nữ và trẻ em; củng cố tổ chức Hội, ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
phụ nữ, cải tiến sự chỉ đạo, chuyển mạnh phương thức hoạt động của Hội.
Đại hội quyết định lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam.
Đại hội đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh hạng Nhì do Nhà nước trao tặng cho
toàn thể phụ nữ Việt Nam .
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương khoá IV gồm 75 ủy viên. Ban chấp hành
Trung ương bầu Ban thường vụ gồm 15 ủy viên. Bà Hà Thị Quế được bầu là Chủ tịch Hội
LHPN Việt Nam và Phó chủ tịch là các bà: Lê Thị Xuyến, Hà Giang, Nguyễn Thị Minh Nhã,
Vũ Thị Chín.
Từ ngày 10 đến 12/6/1976, Hội nghị thống nhất Hội LHPN Việt Nam và Hội LHPN giải
phóng miền Nam Việt Nam họp tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội nghị tôn vinh bà Nguyễn
7/4

Thị Thập là Chủ tịch danh dự Hội LHPN Việt Nam. Hội nghị bầu lại Ban chấp hành Trung
ương gồm 114 ủy viên. Ban Chấp hành Trung ương Hội bầu Ban thường vụ gồm 30 uỷ viên.
Bà Hà Thị Quế được bầu là Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; các bà: Nguyễn Thị Định,
Lê Thị Xuyến, Nguyễn Thị Được, Hà Giang, Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Thị Minh Nhã,
Nguyễn Thị Bình, Vũ Thị Chín, Phan Thanh Vân (tức Ngô Bá Thành) là Phó Chủ tịch Hội
LHPN Việt Nam.
Với những thành tích đạt được, năm 1980 phong trào phụ nữ Việt Nam được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh hạng Nhất.
5. Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ V.
Diễn ra từ ngày 19 đến ngày 20/5/1982 tại Thủ đô Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.051 đại biểu (trong đó có 800 đại biểu chính thức đại diện cho
hơn 9 triệu hội viên và 25 triệu phụ nữ trong cả nước). Đến dự Đại hội có 9 đoàn đại biểu phụ
nữ quốc tế. Đại hội vinh dự đón đồng chí Phạm Văn Đồng, ủy viên Bộ Chính trị BCH Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến dự và phát biểu. Đại hội
đánh giá phong trào phụ nữ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong những năm 1974 -
1981 và đề ra các nhiệm vụ cho phụ nữ Việt Nam giai đoạn 1982 - 1987 là: nâng cao giác ngộ
xã hội chủ nghĩa, ý thức và năng làm chủ tập thể cho phụ nữ, xây dựng người phụ nữ mới xã
hội chủ nghĩa; động viên phong trào phụ nữ tích cực tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước 5 năm 1981-1985;
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương Hội khoá V gồm 109 ủy viên. Ban chấp hành
Trung ương Hội bầu Ban Thư ký gồm 15 ủy viên. Bà Nguyễn Thị Định được bầu là Chủ tịch
Hội LHPN Việt Nam, các bà: Nguyễn Thị Như, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Thanh, Ngô
Bá Thành được bầu là Phó Chủ tịch Hội.
Năm 1985, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Sao Vàng -Huân chương
cao qúy nhất của nước Việt Nam cho phong trào phụ nữ Việt Nam.
6. Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VI.
Diễn ra từ ngày 19 đến 20/5/1987 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.138 đại
biểu (trong đó có 700 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 10 triệu hội viên và 28 triệu phụ
nữ trong cả nước).
Đại hội đánh giá các tầng lớp phụ nữ đã thể hiện lòng yêu nước, tinh thần lao động
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời nhấn mạnh 8 nội dung phụ nữ cần thực hiện
trong công cuộc đổi mới, đó là: Giáo dục xây dựng người phụ nữ mới xã hội chủ nghĩa; Động
viên phụ nữ tích cực thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6, trọng tâm là ba chương
trình kinh tế lớn; Tham gia xây dựng, kiểm tra giám sát việc thực hiện những chính sách, chế
độ và điều kiện lao động và sinh hoạt của phụ nữ, trẻ em; Làm tốt công tác hậu phương; Vận
động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ phát huy vai trò người mẹ, góp phần xây dựng gia đình,
nuôi dạy con tốt; Tăng cường đoàn kết với phụ nữ thế giới, đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đổi mới phương thức hoạt động;
xây dựng củng cố cơ sở hội.
Đại hội quyết định số lượng Ban chấp hành Trung ương khoá VI gồm 111 ủy viên, tại
Đại hội bầu 98 ủy viên. Ban chấp hành Trung ương Hội bầu Đoàn chủ tịch gồm 15 ủy viên.
Bà Nguyễn Thị Định được bầu lại là Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; các bà: Nguyễn
Thị Thân, Trần Thị Thanh Thanh, Trương Mỹ Hoa, Ngô Bá Thành, Hoàng Xuân Sính được
bầu là Phó Chủ tịch Hội.
7. Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VII.
Diễn ra từ ngày 18 đến ngày 20/5/1992 tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.145 đại biểu (trong đó có 760 đại biểu chính thức đại diện cho hơn
10 triệu hội viên và 33 triệu phụ nữ cả nước).
Đại hội khẳng định: các cấp Hội đã có những bước đổi mới về nội dung và phương
thức hoạt động, do đó phong trào phụ nữ đã góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới đất
8/4

nước. Đại hội nêu rõ: tiếp tục thực hiện hai cuộc vận động của Hội “Phụ nữ giúp nhau làm
kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”; đề
ra các mục tiêu và phương hướng nhiệm vụ của phong trào phụ nữ những năm 1992 -1997 và
5 chương trình công tác trọng tâm, đó là: Chương trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và năng
lực cho phụ nữ; Chương trình hỗ trợ các hoạt động tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho phụ
nữ; Chương trình chăm sóc sức khoẻ phụ nữ trẻ em, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch và giáo
dục gia đình; Chương trình đổi mới tổ chức bộ máy và cán bộ, tập hợp quần chúng và xây
dựng qũy Hội; Chương trình tổ chức nghiên cứu và vận động quần chúng tham gia xây dựng,
giám sát, kiểm tra chính sách, luật pháp, cơ chế mới liên quan trực tiếp đến quyền lợi phụ nữ.
Nghiên cứu một số vấn đề về gia đình.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành TW khoá VII gồm 96 Ủy viên. Ban Chấp hành tôn
vinh bà Nguyễn Thị Định làm Chủ tịch danh dự Hội LHPN Việt Nam; bầu Đoàn Chủ tịch
gồm 11 ủy viên. Bà Trương Mỹ Hoa được bầu là Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; 3 Phó Chủ
tịch Hội là các bà: Võ Thị Thắng, Vương Thị Hanh, Nguyễn Thị Phương Minh.
Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VII đã vinh dự thay mặt cho phụ nữ cả nước
đón nhận Bức trướng có nội dung “Đoàn kết, Đổi mới, Trung hậu, Đảm đang” do Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khen tặng phong trào phụ nữ cả nước.
8. Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII.
Diễn ra từ ngày 19 - 20/5/1997 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội . Dự Đại hội
có 1.289 đại biểu (trong đó có 900 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 10 triệu hội viên và
gần 24 triệu phụ nữ cả nước). Tham dự Đại hội còn có 25 đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế của 22
nước và đại diện Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế, Liên đoàn Uỷ ban vì tự do và Liên đoàn
các tổ chức phụ nữ ASEAN.
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII là Đại hội “Đoàn kết, Đổi mới vì Bình đẳng,
Phát triển và Hoà bình, vì sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước”.
Đại hội đã khẳng định những thành tích đạt được của phong trào phụ nữ và hoạt động
của Hội LHPN Việt Nam trong 5 năm (1992-1997). Đại hội nhấn mạnh: tiếp tục thực hiện 5
chương trình trọng tâm: Chương trình giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ và
năng lực cho phụ nữ; Chương trình vận động phụ nữ nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công
nghệ; hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập; Chương trình chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ
em, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ hạnh phúc; Chương trình xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; Chương trình nghiên cứu
và kiểm tra giám sát.
Đại hội quyết định phát động phụ nữ cả nước thực hiện hai phong trào thi đua yêu
nước: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh
phúc”,“Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”.
Đại hội quyết định số lượng Ban chấp hành Trung ương Hội khoá VIII gồm 130 ủy
viên, tại Đại hội bầu 126 ủy viên. Ban chấp hành quyết định số lượng Đoàn chủ tịch gồm 21
ủy viên, tại Đại hội bầu 19 ủy viên.
Bà Trương Mỹ Hoa được bầu lại làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam. Các bà: Lê Thị
Thu, Trương Thị Khuê, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thị Phương Minh được bầu là Phó Chủ
tịch Hội LHPN Việt Nam.
Tháng 2/1998, bà Trương Mỹ Hoa đảm nhiệm vị trí Phó Chủ tịch Quốc hội; bà Hà Thị
Khiết được BCH Trung ương Hội LHPN Việt Nam bầu giữ chức Chủ tịch Hội LHPN Việt
Nam.
9. Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IX.
Diễn ra tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội từ ngày 22 - 23/2/2002 với chủ đề
"Phụ nữ Việt Nam đoàn kết, bình đẳng, năng động, sáng tạo vì sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước"
Đại hội có gần 1.200 đại biểu tham dự (trong đó có 900 đại biểu chính thức đại diện
cho hơn 11 triệu hội viên; có 19 đoàn với gần 100 đại biểu phụ nữ quốc tế các nước và đại
9/4

diện Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế, Liên đoàn Uỷ ban Vì tự do và Liên đoàn các tổ chức
phụ nữ ASEAN...)
Đại hội vinh dự đón các đồng chí: Tổng Bí thư BCH TW Đảng Nông Đức Mạnh, Chủ
tịch nước Trần Đức Lương, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Thủ tướng Chính phủ Phan
Văn Khải đến dự. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã thay mặt Ban Chấp hành Trung ương
Đảng phát biểu và trao tặng Đại hội bức trướng với dòng chữ “Phụ nữ Việt Nam Năng động -
Sáng tạo - Trung hậu - Đảm đang”.
Với tinh thần “Đoàn kết - Bình đẳng - Năng động - Sáng tạo vì sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định
những thành tích đạt được của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam
nhiệm kỳ 1997 - 2001 và kêu gọi phụ nữ cả nước tích cực thực hiện phong trào thi đua yêu
nước: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và 6
chương trình trọng tâm: Chương trình Giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực và
trình độ mọi mặt của phụ nữ; Chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế; Chương trình xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; Chương trình xây dựng và phát triển tổ
chức Hội vững mạnh; Chương trình tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện luật pháp,
chính sách về bình đẳng nam - nữ; Chương trình hoạt động đối ngoại nhân dân.
. Đại hội quyết định bầu Ban chấp hành TW Hội LHPN Việt Nam khoá IX gồm 132 ủy
viên. Ban chấp hành bầu Đoàn chủ tịch gồm 23 ủy viên.
Bà Hà Thị Khiết được bầu lại làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; các bà: Lê Thị Thu,
Trương Thị Khuê, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thị Phương Minh, Nguyễn Thị Thanh Hòa,
Nguyễn Thị Kim Liên được bầu là Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
Tháng 8/2002 bà Lê Thị Thu được Quốc hội bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm
uỷ ban Dân số - Gia đình - Trẻ em.
Tháng 7/2004, bà Nguyễn Thị Kim Thúy được bầu là Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt
Nam.
10. Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X.
Diễn ra tại Thủ đô Hà nội, từ ngày 02 đến ngày 04 tháng 10 năm 2007. Với chủ đề:
“Phụ nữ Việt Nam đoàn kết, sáng tạo, bình đẳng, phát triển, góp phần đẩy mạnh công cuộc
đổi mới đất nước”. Về dự Đại hội có 1.193 đại biểu ưu tú, đại diện cho hàng chục triệu phụ
nữ trong cả nước. Đại hội vui mừng được đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam; các đồng chí nguyên là lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước qua các
thời kỳ; các Bà mẹ Việt nam Anh hùng; đại diện nữ anh hùng lực lượng vũ trang; nữ anh
hùng thời kỳ đổi mới; các đồng chí lãnh đạo các Bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương; đại
diện các tỉnh thành uỷ; các thành viên Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ; các đồng chí
lãnh đạo Hội qua các thời kỳ; các vị khách đến từ các tổ chức quốc tế, Đại sứ quán các nước
tại Việt Nam; các đại biểu đại diện cho phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài về dự đại hội.
Đại hội đã được nghe đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, thay mặt Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phát biểu ý kiến và tặng Đại hội Bức trướng ghi dòng
chữ “Phụ nữ Việt Nam đoàn kết, sáng tạo, bình đẳng, phát triển, góp phần đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới đất nước”
Đại hội đã nhất trí thông qua các mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản và 6 nhiệm vụ của nhiệm kỳ
2007-2012 và giao cho Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam khoá X
căn cứ những kết luận và kết quả biểu quyết tại Đại hội để hoàn chỉnh và ban hành văn bản
chính thức. đại hội đã nhất trí thông qua toàn văn Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam bổ
sung, sửa đổi. đại hội quyết định tiếp tục phát động trong các tầng lớp phụ nữ cả nước phong
trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Đại hội quyết định số lượng uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam khoá X gồm 159 uỷ viên. Tại Đại hội đã bầu 154 uỷ viên. Giao cho Ban chấp hành
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam khoá X bầu bổ sung 5 uỷ viên theo cơ cấu khi có đủ điều
kiện.
10/4

Bà Hà Thị Khiết được bầu lại làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; các bà: Lê Thị Thu,
Trương Thị Khuê, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thị Phương Minh, Nguyễn Thị Thanh Hòa,
Nguyễn Thị Kim Liên được bầu là Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Đại hội cũng bầu 25
đại biểu vào Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam khoá X.

Câu 3: Đồng chí hãy cho biết tên những Chủ tịch HLHPNVN qua các kỳ Đại hội? Viết về
một Chủ tịch đã để lại cho đồng chí những ấn tượng sâu sắc nhất?

1. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ nhất (nhiệm kỳ 1950- 1956)
Đại hội bầu Bà Lê Thị Xuyến làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.

2. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ II ( nhiệm kỳ 1956- 1961)
Đại hội bầu Bà Nguyễn Thị Thập làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.

3. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ III ( nhiệm kỳ 1961- 1974)
Đại hội bầu Bà Nguyễn Thị Thập làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

4. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ IV (nhiệm kỳ 1974- 1982)
Đại hội bầu Bà Hà Thị Quế làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

5. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ V (nhiệm kỳ 1982- 1987)
Đại hội bầu Bà Nguyễn Thị Định làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

6. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ VI (nhiệm kỳ 1987- 1992)
Đại hội bầu Bà Nguyễn Thị Định làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

7. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIIbảy (nhiệm kỳ 1992- 1997)
Đại hội bầu Bà Trương Mỹ Hoa làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

8. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII (nhiệm kỳ 1997- 2002)
Đại hội bầu Bà Trương Mỹ Hoa làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

9. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ IX (nhiệm kỳ 2002- 2007)
Đại hội bầu Bà Hà Thị Khiết làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

10. Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ X (nhiệm kỳ 2007- 2011)
Đại hội bầu Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa làm Chủ tịch HLHPN Việt Nam

*Vị Chủ tịch để lại ấn tượng sâu sắc:


Nguyễn Thị Định (15 tháng 3 năm 1920 – 26 tháng 8 năm 1992) là nữ tướng đầu tiên
của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Thị Định (còn gọi là Ba Định). Bí danh: Bích Vân, Ba Tấn, Ba
Nhất và Ba Hận, sinh tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Năm 16 tuổi bà
đã tham gia phong trào cách mạng địa phương, năm 1938 bà được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Đông Dương. Năm 1945, bà tham gia giành chính quyền tại Bến Tre. Khi Chiến tranh
Đông Dương nổ ra, năm 1946, bà tham gia tổ chức vượt biển, mở tuyến chi viện vũ khí cho
Nam Bộ.
11/4

Sau khi Hiệp định Geneve ký kết, bà bí mật ở lại hoạt động tại Bến Tre. Năm 1959, bà
là người khởi xướng và lãnh đạo phong trào Đồng Khởi ở Mỏ Cày, Bến Tre và lan rộng ra
khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, hình thành "Đội quân tóc dài"
nổi tiếng.
Năm 1960, bà tham gia xây dựng Quân Giải phóng miền Nam. Năm 1965, bà nhập
ngũ, giữ chức Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam. Năm 1974, bà được phong quân hàm
Thiếu tướng.
Sau năm 1975, bà giữ chức Thứ trưởng Bộ lao động Thương binh - Xã hội; năm 1980,
Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ 1987 đến 1992, bà giữ chức Phó Chủ tịch Hội
đồng Nhà nước.
Bà mất tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 8 năm 1995, bà được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân.

Câu 4: Từ khi thành lập đến nay, Hội LHPNVN đã phát động những phong trào thi đua
yêu nước nào?
Giai đoạn 1930 - 1945
- Phong trào thi đua yêu nước của phụ nữ từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1945: Phụ nữ
là lực lượng đông đảo đã tích cực tham gia vào các phong trào do Chính phủ phát động như:
+ Phong trào “Không bỏ một tấc đất hoang”
+ Phong trào “Tuần lễ vàng”
+ Phong trào “Bình dân học vụ”
+ Phong trào “Hũ gạo kháng chiến”
+ Phong trào “Bảo trợ thiếu nhi”
+ Phong trào “Cứu đói”
Giai đoạn từ 1946 - 1954
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, phụ nữ Việt Nam tích cực
tham gia các phong trào thi đua yêu nước “Diệt giặc đói”, “Diệt giặc dốt”, “Diệt giặc ngoại
xâm” góp phần xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ.
- Trong phong trào “Diệt giặc đói”, hàng triệu phụ nữ đã vượt khó khăn, tăng gia sản
xuất “không bỏ một tấc đất hoang
- Trong phong trào “Diệt giặc dốt”, chị em đã tích cực đi học và dạy học
- Trong phong trào “Diệt giặc ngoại xâm”, nhiều phụ nữ tham gia: Dân quân du kích
và nhân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ lịch sử.
Phụ nữ tích cực tham gia vào các phong trào do Hội LHPN Việt Nam phát động:
-Phong trào“Phụ nữ tăng gia sản xuất,thực hành tiết kiệm”
- Phong trào“Phụ nữ học cày, học bừa”
- Phong trào “Phụ nữ chức nghiệp”
- Phong trào “Chống bắt lính”
- Phong trào “Vận động binh sĩ trở lại quê hương”
- Phong trào “Tầm vông diệt giặc”
- Phong trào nữ du kích Hoàng Ngân “đòn gánh đánh càn”
Giai đoạn 1955-1975
Từ năm 1955 đến năm 1975, Hội LHPN Việt Nam vận động phụ nữ tham gia xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh chống Đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam.
12/4

Thời kỳ 1955-1965: Hội LHPN Việt Nam động viên phụ nữ tham gia cải tạo và xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, chăm lo phúc lợi tập thể, bảo vệ quyền lợi phụ nữ
và nhi đồng, động viên phụ nữ tham gia sản xuất, đấu tranh với địch ở miền Nam. Hội phát
động phong trào thi đua "5 tốt" và phong trào thi đua “Kết nghĩa Bắc-Nam”.
Phong trào “5 tốt” (1961) ở miền Bắc:
- Đoàn kết, sản xuất, tiết kiệm tốt
- Chấp hành chính sách tốt
- Tham gia quản lý tốt
- Học tập chính trị, văn hoá, kỹ thuật tốt
- Xây dựng gia đình, nuôi dạy con tốt
Phong trào thi đua 5 tốt ở miền Nam có nội dung:
- Đoàn kết đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận tốt
- Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt
- Chăm sóc nuôi dưỡng thương binh tốt
- Học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn tốt
- Rèn luyện tư cách đạo đức tốt.
Phong trào “Ba đảm đang” ” (1965)
- Đảm đang sản xuất và công tác, thực hành tiết kiệm, thay thế nam giới chiến đấu
- Đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con, anh em đi chiến đấu
- Đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.

Giai đoạn 1976 - 1986


Giai đoạn 1976 – 1985 Hội LHPN Việt Nam phát động phong trào “Người phụ nữ
mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
Giai đoạn 1987 đến nay
Giai đoạn từ 1987 đến nay, HLHPN Việt nam đã phát động các phong trào:
- Cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” (1989 – 1996).
- Cuộc vận động “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học"
(1989 – 1996)
- Phong trào "Xoá mù chữ cho phụ nữ" (1989 – 1996)
- Phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng
gia đình hạnh phúc" (1997 – 2001)
- Phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất
nước” (1997 – 2001)
- Phong trào "Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo" (1997 – 2001) Phát động ngày
19/5/1997
- Phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc" (2002-2007)
Tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X, ngày 04 tháng 10 năm 2007 Đại hội
đã quyết định tiếp tục phát động trong các tầng lớp phụ nữ cả nước Phong trào “Phụ nữ tích
cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc".

Câu 5: Đồng chí hãy ghi lại những hiểu biết của mình về một phong trào thi đua của Phụ
nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước?

Miền Bắc
Thời kỳ 1965-1975: Hội LHPN Việt Nam động viên phụ nữ hoàn tốt nhiệm vụ đẩy
mạnh sản xuất, bảo vệ sản xuất, phục vụ đời sống, phục vụ chiến đấu, trong đó nhiệm vụ hàng
13/4

đầu là đẩy mạnh sản xuất và bảo vệ sản xuất. Hội phát động phong trào thi đua phụ nữ “Ba
đảm đang”. Phong trào đã động viên kịp thời mọi tầng lớp phụ nữ hăng hái lao động sản xuất;
đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo, quản lý quan trọng trong công tác; chiến đấu và phục vụ
chiến đấu; chăm lo chu đáo gia đình, góp phần quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
Miền Nam
Thời kỳ 1955-1960: Cán bộ phụ nữ các cấp tiến hành hoạt động bí mật trong lòng
địch; vận động, tập hợp quần chúng vào các tổ chức công khai, bán công khai, tranh thủ thế
hợp pháp đấu tranh với địch; tham gia tích cực phong trào “Đồng khởi”, giành thắng lợi ở
nhiều địa phương.
Thời kỳ 1961-1975: Ngày 8/3/1961, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời. Hội đã tập hợp được hơn nửa triệu hội viên, đóng vai trò nòng cốt xung kích của
đội quân tóc dài trong phong trào đấu tranh chính trị, võ trang, binh vận; góp phần tích cực bẻ
gãy các âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ và tay sai (chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục
bộ, Việt Nam hóa chiến tranh). Mùa Xuân năm 1975, phụ nữ đã cùng với quân dân cả nước
làm nên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng 1 triệu 20 vạn quân Mỹ và ngụy, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Phụ nữ miền Nam xứng đáng với danh hiệu
"Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Phong trào “5 tốt” (1961) ở miền Bắc:
- Đoàn kết, sản xuất, tiết kiệm tốt
- Chấp hành chính sách tốt
- Tham gia quản lý tốt
- Học tập chính trị, văn hoá, kỹ thuật tốt
- Xây dựng gia đình, nuôi dạy con tốt
Kết quả có 70.000 phụ nữ đạt danh hiệu “Phụ nữ 5 tốt”
Phong trào thi đua 5 tốt ở miền Nam có nội dung:
- Đoàn kết đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận tốt
- Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt
- Chăm sóc nuôi dưỡng thương binh tốt
- Học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn tốt
- Rèn luyện tư cách đạo đức tốt.
Phong trào “Ba đảm đang” ” (1965)
- Đảm đang sản xuất và công tác, thực hành tiết kiệm, thay thế nam giới chiến đấu
- Đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con, anh em đi chiến đấu
- Đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
Kết quả:có 4.000.000 phụ nữ đạt danh hiệu “Phụ nữ Ba đảm đang”.

Câu 6: Hội LHPNVN tham gia mấy tổ chức của Phụ nữ khu vực và phụ nữ quốc tế? đó là
các tổ chức nào? thời gian bắt đầu gia nhập?

Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế: Ngay từ năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đặt nền móng cho công tác đối ngoại của Hội LHPNVN bằng việc giới thiệu Hội tham gia tổ
chức quốc tế đầu tiên là Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế.

Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (ACWO): là một tổ chức phụ nữ phi chính
phủ lớn nhất trong khu vực với mục tiêu thúc đẩy sự tham gia, đóng góp và thụ hưởng của
phụ nữ trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia và khu vực. ACWO đã khẳng định vai trò
14/4

đại diện, đoàn kết và tập hợp phụ nữ ASEAN trong việc thực hiện mục tiêu của ASEAN dưới
góc độ giới.
Hội LHPN VN đã gia nhập Liên đoàn các tổ chức Phụ nữ ASEAN tại Philippin vào
tháng 6 năm 1996.

Mạng lưới các nhà lãnh đạo nữ APEC (WLN):


Năm 1998, cùng với sự gia nhập của Việt Nam vào Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC), lần đầu tiên Hội LHPNVN tham dự cuộc họp lần thứ 3 Mạng lưới
Các nhà lãnh đạo nữ APEC (WLN). Theo cơ chế luân phiên của WLN, năm 2006, Hội
LHPNVN đảm nhiệm chức Chủ tịch mạng lưới và đã tổ chức thành công Cuộc họp WLN lần
thứ 11 tại Thủ đô Hà Nội với chủ đề “Hướng tới một cộng đồng năng động: Tăng cường năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp nữ vì sự phát triển bền vững và thịnh vượng”.

Trong các hoạt động song phương, Hội đặc biệt quan tâm củng cố và tăng cường quan
hệ hữu nghị với các nước láng giềng bằng các hoạt động ký hiệp định hữu nghị đặc biệt với
Lào, Campuchia. Quan hệ giữa Hội LHPNVN và Hội Liên hiệp Phụ nữ toàn quốc Trung Hoa
cũng là một trong những mối quan hệ đối ngoại quan trọng của Việt Nam. Bên cạnh đó, Hội
tiếp tục vun đắp các mối quan hệ truyền thống như với Cuba, Nga, Belarus... Đến nay Hội đã
có quan hệ với trên 300 tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ từ hơn 60 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới.

Câu 7: Đồng chí hãy cho biết Việt Nam đã tham gia Ban lãnh đạo các tổ chức phụ nữ khu
vực và phụ nữ quốc tế trong những nhiệm kỳ nào?

Việt Nam đã tham gia ban lãnh đạo tổ chức Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế:
Bà Hà Thị Quế, nguyên chủ tịch Hội được bầu làm Phó chủ tịch Liên đoàn từ năm
1975 – 1976.
Bà Nguyễn Thị Định, cố Chủ tịch Hội, được bầu làm Phó chủ tịch Liên đoàn từ năm
1976 – 1991.

Hội LHPN VN giữ chức Chủ tịch ACWO tại nhiệm kỳ này (2008 – 2010). Năm 2010
với vai trò là Chủ tịch của ACWO, Hội sẽ tổ chức cuộc họp của Đại Hội đồng với chủ đề
“Tăng cường sự tham gia hiệu quả của Phụ nữ vì 1 ASEAN hoà bình, thịnh vượng và phát
triển bền vững”. Ngoài ra, Hội đã luân phiên giữ các chức vụ: Giám đốc, thủ quỹ, Tổng thư
ký, Phó chủ tịch theo nhiệm kỳ 2 năm một lần.

Câu 8: Đồng chí hãy trình bày những hiểu biết cơ bản của mình về Luật chăm sóc và giáo
dục trẻ em; Luật Bình đẳng Giới. Theo đồng chí chúng ta phải làm gì đề bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Phụ nữ và trẻ em Việt Nam?

LUẬT BẢO VỆ
CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM

Luật số 25/2004/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2005.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội
khoá X, kỳ họp thứ 10;
15/4

Luật này quy định về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Chương I
Những quy định chung
Điều 1. Trẻ em
Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi.
Điều 2. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
1. Luật này quy định các quyền cơ bản, bổn phận của trẻ em; trách nhiệm của gia đình,
Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2. Luật này được áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, gia đình và công dân Việt
Nam (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân); tổ chức nước ngoài hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam; trong trường hợp điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất
hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hoà nhập với gia đình, cộng
đồng.
2. Trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư
trú không ổn định; trẻ em cùng với gia đình đi lang thang.
3. Gia đình thay thế là gia đình hoặc cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt.
4. Cơ sở trợ giúp trẻ em là tổ chức được thành lập để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt.
Điều 4. Không phân biệt đối xử với trẻ em
Trẻ em, không phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con
nuôi, con riêng, con chung; không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị
xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục,
được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 5. Trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
1. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường,
Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân
có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu.
2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ở
trong nước và nước ngoài góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 6. Thực hiện quyền của trẻ em
1. Các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện.
2. Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường
của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật.
Điều 7. Các hành vi bị nghiêm cấm
Nghiêm cấm các hành vi sau đây:
1. Cha mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em được mình giám hộ;
2. Dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi;
3. Dụ dỗ, lừa dối, ép buộc trẻ em mua, bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép
chất ma tuý; lôi kéo trẻ em đánh bạc; bán, cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích
thích khác có hại cho sức khoẻ;
4. Dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm; xâm hại tình
dục trẻ em;
16/4

5. Lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc trẻ em mua, bán, sử dụng văn hoá phẩm kích động bạo
lực, đồi trụy; làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, tàng trữ văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ
em; sản xuất, kinh doanh đồ chơi, trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em;
6. Hành hạ, ngược đãi, làm nhục, chiếm đoạt, bắt cóc, mua bán, đánh tráo trẻ em; lợi
dụng trẻ em vì mục đích trục lợi; xúi giục trẻ em thù ghét cha mẹ, người giám hộ hoặc xâm
phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác;
7. Lạm dụng lao động trẻ em, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm
hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về
lao động;
8. Cản trở việc học tập của trẻ em;
9. áp dụng biện pháp có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc dùng
nhục hình đối với trẻ em vi phạm pháp luật;
10. Đặt cơ sở sản xuất, kho chứa thuốc trừ sâu, hoá chất độc hại, chất dễ gây cháy, nổ
gần cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em.
Điều 8. Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý
nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình; chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban Thể dục Thể
thao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành có liên quan thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo sự phân công của Chính
phủ.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em ở địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ.
Điều 9. Nguồn tài chính cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Nguồn tài chính cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em bao gồm ngân sách
nhà nước, viện trợ quốc tế, ủng hộ của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước, nước ngoài và
các nguồn thu hợp pháp khác.
Điều 10. Hợp tác quốc tế về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
1. Nhà nước có chính sách mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em với các nước, tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với
pháp luật mỗi nước và thông lệ quốc tế.
2. Nội dung hợp tác quốc tế bao gồm:
a) Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, hoạt động về bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em;
b) Tham gia các tổ chức quốc tế; ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em;
c) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại phục vụ công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
d) Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; trao đổi thông tin và kinh nghiệm về bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
3. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
4. Các tổ chức quốc tế liên quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước
ngoài được hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương II
17/4

Chương III.
Trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Điều 23. Trách nhiệm đăng ký khai sinh
1. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn.
2. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp
xã) có trách nhiệm thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em; vận động cha mẹ, người giám hộ
khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn.
3. Trẻ em của hộ nghèo không phải nộp lệ phí đăng ký khai sinh.
Điều 24. Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
1. Cha mẹ, người giám hộ là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em; khi gặp khó khăn tự mình
không giải quyết được, có thể yêu cầu và được cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực
hiện trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em.
2. Cha mẹ, người giám hộ, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình phải gương
mẫu về mọi mặt cho trẻ em noi theo; có trách nhiệm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển toàn diện của trẻ em.
3. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm chăm lo chế độ dinh dưỡng phù hợp với sự
phát triển về thể chất, tinh thần của trẻ em theo từng lứa tuổi.
4. Trong trường hợp ly hôn hoặc các trường hợp khác, người cha hoặc người mẹ
không trực tiếp nuôi con chưa thành niên phải có nghĩa vụ đóng góp để nuôi dưỡng con đến
tuổi thành niên, có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục con theo quy định của pháp luật.
Điều 25. Trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em sống chung với cha mẹ
1. Cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm điều kiện để trẻ em được sống chung với mình.
2. Trường hợp trẻ em được nhận làm con nuôi thì việc giao, nhận trẻ em làm con nuôi,
đưa trẻ em ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào Việt Nam phải theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp trẻ em có cha, mẹ chấp hành hình phạt tù trong trại giam mà không còn
nơi nương tựa thì Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em tại gia
đình thay thế hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em.
Điều 26. Trách nhiệm bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự
1. Gia đình, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân
phẩm, danh dự của trẻ em; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn cho trẻ em.
2. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em đều bị
xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Điều 27. Trách nhiệm bảo vệ sức khỏe
1. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra sức
khỏe, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em.
2. Cơ sở y tế công lập có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện việc chăm sóc
sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, chữa bệnh cho trẻ em.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tổ chức y tế học đường.
Bộ Y tế có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc hướng dẫn
thực hiện các biện pháp phòng tránh bệnh học đường và các bệnh khác cho trẻ em.
4. Nhà nước có chính sách phát triển sự nghiệp y tế, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh; có chính sách miễn, giảm phí khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức
năng cho trẻ em; bảo đảm kinh phí khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi.
Trong cân đối kế hoạch ngân sách hàng năm của Bộ Y tế và của Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh), Chính phủ
dành riêng một khoản ngân sách để bảo đảm cho việc khám bệnh, chữa bệnh không phải trả
tiền cho trẻ em dưới sáu tuổi ở các cơ sở y tế công lập trung ương và địa phương.
5. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân hoạt động nhân đạo, từ thiện ủng hộ kinh
phí chữa bệnh cho trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo.
18/4

Điều 28. Trách nhiệm bảo đảm quyền được học tập
1. Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập;
học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn.
2. Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện
về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em; chủ động
phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
3. Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần thiết về
đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để bảo đảm chất lượng giáo dục.
4. Người phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà trường phải
được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt, yêu
nghề, yêu trẻ, được tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ.
5. Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; chính
sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, trợ cấp xã hội để thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục.
Điều 29. Trách nhiệm bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, thể dục, thể thao, du lịch
1. Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em được vui
chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi.
2. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quy hoạch, đầu tư xây dựng điểm vui chơi,
giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao cho trẻ em thuộc phạm vi địa phương.
Không được sử dụng cơ sở vật chất dành cho việc học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí của trẻ
em vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ em.
3. Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật
chất phục vụ trẻ em vui chơi, giải trí.
4. Trên xuất bản phẩm, đồ chơi, chương trình phát thanh, truyền hình, nghệ thuật, điện
ảnh nếu có nội dung không phù hợp với trẻ em thì phải thông báo hoặc ghi rõ trẻ em ở lứa
tuổi nào không được sử dụng.
Điều 30. Trách nhiệm bảo đảm quyền phát triển năng khiếu
1. Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm phát hiện, khuyến khích, bồi dưỡng,
phát triển năng khiếu của trẻ em.
2. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia bồi dưỡng, phát triển năng khiếu
của trẻ em; tạo điều kiện cho nhà văn hoá thiếu nhi, nhà trường và tổ chức, cá nhân thực hiện
việc bồi dưỡng, phát triển năng khiếu của trẻ em.
Điều 31. Trách nhiệm bảo đảm quyền dân sự
1. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em;
đại diện cho trẻ em trong các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật.
2. Cha mẹ, người giám hộ hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan phải giữ gìn, quản lý tài
sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp trẻ em gây ra thiệt hại cho người khác thì cha mẹ, người giám hộ phải
bồi thường thiệt hại do hành vi của trẻ em đó gây ra theo quy định của pháp luật.
Điều 32. Trách nhiệm bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham
gia hoạt động xã hội
1. Gia đình, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện, giúp đỡ trẻ em được tiếp
cận thông tin phù hợp, được phát triển tư duy sáng tạo và bày tỏ nguyện vọng; có trách nhiệm
lắng nghe và giải quyết nguyện vọng chính đáng của trẻ em.
2. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhà trường có trách nhiệm tổ chức cho trẻ
em tham gia các hoạt động xã hội và sinh hoạt tập thể phù hợp với nhu cầu và lứa tuổi.
Điều 33. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm:
19/4

1. Tuyên truyền, vận động, giáo dục về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
2. Phát triển phúc lợi xã hội cho trẻ em, tạo cơ hội thuận lợi để trẻ em thực hiện
quyền, bổn phận và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức;
3. Cung cấp dịch vụ chăm sóc, trợ giúp trẻ em.
Điều 34. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm:
a) Tuyên truyền, giáo dục đoàn viên, hội viên và nhân dân chấp hành tốt pháp luật về
trẻ em;
b) Vận động gia đình, xã hội thực hiện tốt việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
c) Chăm lo, bảo vệ quyền lợi của trẻ em, giám sát việc chấp hành pháp luật về trẻ em,
đưa ra những kiến nghị cần thiết đối với các cơ quan nhà nước hữu quan để thực hiện những
nhiệm vụ đó; ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em.
2. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, ngoài việc thực hiện quy định tại khoản 1 Điều
này, có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan để tổ chức, hướng dẫn việc nuôi
con khoẻ, dạy con ngoan.
3. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, ngoài việc thực hiện quy định tại khoản 1
Điều này, có trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn hoạt động của thiếu niên, nhi đồng; phụ trách
Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
Điều 35. Trách nhiệm của cơ quan thông tin tuyên truyền
1. Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2. Giới thiệu mô hình, điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trong công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em; phát hiện, phê phán hành vi vi phạm quyền của trẻ em, trẻ em vi
phạm những việc không được làm.
Điều 36. Trách nhiệm của cơ quan bảo vệ pháp luật
1. Thực hiện hoặc phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em; chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2. Phối hợp với gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục đối với những trẻ em có
hành vi vi phạm pháp luật.
3. Việc xử lý trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ để
trẻ em nhận thấy sai lầm, sửa chữa sai lầm và tiến bộ.
Điều 37. Trách nhiệm của Nhà nước
1. Nhà nước có chính sách đầu tư, thực hiện xã hội hóa, mở rộng hợp tác quốc tế để
phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho trẻ em là con thương binh, liệt sỹ, người
có công, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em của hộ nghèo, trẻ em cư trú ở vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng các
quyền của trẻ em; có chính sách hỗ trợ gia đình thực hiện trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em.
3. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức cho trẻ em của các gia đình chưa
có hộ khẩu thường trú được đăng ký khai sinh, học tập và chăm sóc sức khoẻ tại nơi mà cha
mẹ đang làm việc, sinh sống.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phát triển mạng lưới trường học, cơ sở y
tế, nhà văn hóa, cơ sở thể thao, điểm vui chơi, giải trí cho trẻ em; khuyến khích tổ chức, cá
nhân thành lập cơ sở tư vấn cho trẻ em, cha mẹ, người giám hộ và nhân dân về việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 38. Bảo trợ các hoạt động vì sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
20/4

Nhà nước bảo trợ các công trình khoa học và công nghệ, các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, mọi sáng kiến, việc làm có lợi cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
khuyến khích các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế dành một phần quỹ phúc lợi hoặc lợi
nhuận vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 39. Quỹ bảo trợ trẻ em
1. Quỹ bảo trợ trẻ em được thành lập nhằm mục đích vận động sự đóng góp tự nguyện
của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài, viện trợ quốc tế và hỗ trợ của ngân
sách nhà nước cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2. Việc huy động, quản lý và sử dụng Quỹ bảo trợ trẻ em phải đúng mục đích, theo
chế độ tài chính hiện hành của Nhà nước.

Chương IV
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Điều 40. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị
bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm
HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải
làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ
em vi phạm pháp luật.
Điều 41. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
1. Trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải coi trọng việc phòng ngừa,
ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt
của trẻ em; kiên trì trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi sức khoẻ, tinh thần và giáo
dục đạo đức; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt.
2. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được thực hiện chủ yếu tại
gia đình hoặc gia đình thay thế. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại
cơ sở trợ giúp trẻ em chỉ áp dụng cho những trẻ em không được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia
đình hoặc gia đình thay thế.
3. Tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được học tập hoà nhập hoặc được
học tập ở cơ sở giáo dục chuyên biệt.
Điều 42. Chính sách của Nhà nước đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
1. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hưởng
các quyền của trẻ em; hỗ trợ cá nhân, gia đình nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em; khuyến
khích tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp trẻ em, thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em để bảo đảm
cho mọi trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt không còn nơi nương tựa được chăm sóc, nuôi dưỡng.
2. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình, gia đình thay thế hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em công
lập, ngoài công lập.
3. Các bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối
với cơ sở trợ giúp trẻ em trong việc giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em, phục
hồi sức khoẻ, tinh thần và giáo dục đạo đức cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Điều 43. Hình thức trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Các hình thức trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm:
1. Đóng góp tự nguyện bằng tiền hoặc hiện vật;
2. Nhận làm con nuôi, nhận đỡ đầu hoặc nhận làm gia đình thay thế để chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt;
3. Tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại cơ sở trợ giúp trẻ
em;
21/4

4. Tổ chức các hoạt động để hỗ trợ trẻ em giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt, phục hồi sức
khoẻ, tinh thần và giáo dục đạo đức.
Điều 44. Điều kiện thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em
Cơ quan, tổ chức, cá nhân muốn thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em phải có các điều kiện
sau đây:
1. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với nội dung hoạt động trợ giúp trẻ em;
2. Nhân lực có chuyên môn phù hợp với nội dung hoạt động trợ giúp trẻ em;
3. Nguồn tài chính bảo đảm chi phí cho các hoạt động trợ giúp trẻ em.
Điều 45. Hồ sơ xin phép thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân muốn thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em phải có giấy phép
hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
2. Hồ sơ xin phép thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em gồm:
a) Đơn xin thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em;
b) Đề án thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em;
c) Giấy tờ, tài liệu chứng minh bảo đảm đủ điều kiện thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em
quy định tại Điều 44 của Luật này;
d) Dự thảo quy chế hoạt động của cơ sở trợ giúp trẻ em;
đ) Sơ yếu lý lịch của người đứng ra thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em;
e) ý kiến đồng ý của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cơ sở trợ giúp trẻ em đặt trụ sở hoạt
động.
3. Khi thay đổi tên gọi, địa chỉ đặt trụ sở, chủ sở hữu, nội dung hoạt động của cơ sở trợ
giúp trẻ em thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đã thành lập cơ sở đó phải làm thủ tục đổi giấy phép
hoạt động.
Điều 46. Thời hạn cho phép thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em
1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ xin phép thành lập cơ sở trợ
giúp trẻ em, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép phải giải quyết; trường hợp từ
chối thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
2. Cơ sở trợ giúp trẻ em chỉ được hoạt động theo đúng nội dung ghi trong giấy phép
hoạt động.
Điều 47. Thẩm quyền thành lập, tạm đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động của cơ sở
trợ giúp trẻ em
1. Thẩm quyền thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em:
a) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
quyết định thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em thuộc quyền quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ;
b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em thuộc
quyền quản lý của cấp tỉnh;
c) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định
thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em thuộc quyền quản lý của huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh.
2. Cơ sở trợ giúp trẻ em vi phạm một trong các nội dung sau đây thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị tạm đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy phép hoạt động:
a) Cơ sở trợ giúp trẻ em không bảo đảm đủ điều kiện như khi xin phép thành lập;
b) Vi phạm quy chế hoạt động của cơ sở trợ giúp trẻ em đã được phê duyệt;
c) Sử dụng kinh phí hoạt động của cơ sở trợ giúp trẻ em vào mục đích khác, không
phục vụ cho việc trợ giúp trẻ em;
d) Vi phạm các quyền của trẻ em.
3. Cơ quan đã cấp giấy phép hoạt động cho cơ sở trợ giúp trẻ em có quyền tạm đình
chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy phép hoạt động của cơ sở đó.
22/4

Điều 48. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Cơ sở trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức thực hiện một hoặc một số nội dung đã đăng ký hoạt động trợ giúp trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt như tư vấn; khám bệnh, chữa bệnh, giải độc; phục hồi chức năng, sức
khoẻ, tinh thần, giáo dục đạo đức; giáo dục hoà nhập, giáo dục chuyên biệt, dạy nghề; tổ chức
việc làm; tổ chức hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao, giải trí; tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng;
2. Bảo đảm cung cấp dịch vụ thuận tiện, an toàn, chất lượng;
3. Bảo đảm kinh phí để hoạt động đúng mục đích;
4. Quản lý, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; quản lý tài chính, trang thiết bị, tài sản;
5. Được quyền tiếp nhận hỗ trợ tài chính, hiện vật của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở
trong nước và nước ngoài để thực hiện các hoạt động trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Điều 49. Kinh phí hoạt động của cơ sở trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Kinh phí hoạt động của cơ sở trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt gồm có:
1. Ngân sách nhà nước cấp cho cơ sở trợ giúp trẻ em công lập;
2. Nguồn tự có của cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em;
3. Hỗ trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài;
4. Đóng góp của gia đình, người thân thích của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt;
5. Các nguồn thu hợp pháp khác.
Điều 50. Hoạt động dịch vụ của cơ sở trợ giúp trẻ em
1. Cơ sở trợ giúp trẻ em có tổ chức dịch vụ theo nhu cầu phục hồi chức năng, cai
nghiện ma tuý, điều trị HIV/AIDS, tổ chức dạy nghề cho trẻ em vi phạm pháp luật, nuôi
dưỡng trẻ em nghiện ma tuý, trẻ em nhiễm HIV/AIDS và các nhu cầu khác được thu tiền dịch
vụ theo quy định hoặc theo hợp đồng thoả thuận với gia đình, người giám hộ.
2. Trẻ em của hộ nghèo có nhu cầu dịch vụ được người đứng đầu cơ sở trợ giúp trẻ
em xét miễn, giảm phí dịch vụ cho từng trường hợp.
Chính phủ quy định cụ thể mức thu phí dịch vụ và đối tượng được miễn, giảm phí dịch vụ.
Điều 51. Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi
1. Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được Uỷ ban nhân dân địa
phương giúp đỡ để có gia đình thay thế hoặc tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ
giúp trẻ em công lập, ngoài công lập.
2. Nhà nước khuyến khích gia đình, cá nhân nhận nuôi con nuôi; cơ quan, tổ chức, cá
nhân nhận đỡ đầu, nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị
bỏ rơi.
3. Nhà nước có chính sách trợ giúp gia đình, cá nhân hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em ngoài
công lập nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi.
Điều 52. Trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học
Trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học được gia đình, Nhà
nước và xã hội giúp đỡ, chăm sóc, được tạo điều kiện để sớm phát hiện bệnh, chữa bệnh, phục
hồi chức năng; được nhận vào các lớp học hoà nhập, lớp học dành cho trẻ em khuyết tật, tàn
tật; được giúp đỡ học văn hoá, học nghề và tham gia hoạt động xã hội.
Điều 53. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS
Trẻ em nhiễm HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử; được Nhà nước và xã hội tạo điều
kiện để chữa bệnh, nuôi dưỡng tại gia đình hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em.
Điều 54. Trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại, trẻ em
phải làm việc xa gia đình
1. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phát hiện, giải quyết kịp thời tình trạng trẻ
em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; tạo điều kiện cho trẻ em
được học nghề, làm công việc phù hợp với sức khoẻ, lứa tuổi trong phạm vi địa phương.
2. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm giữ liên hệ thường xuyên với trẻ em phải
làm việc xa gia đình để giúp đỡ, giáo dục trẻ em.
23/4

3. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có trẻ em phải làm việc xa gia đình có trách nhiệm tạo
điều kiện để trẻ em được sống trong môi trường an toàn, được chăm sóc sức khoẻ, học văn
hoá, tu dưỡng đạo đức, phẩm chất.
Điều 55. Trẻ em lang thang
1. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đến lang thang phối hợp với Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đi lang thang trong việc tổ chức, giúp đỡ đưa trẻ em trở về với gia
đình; đối với trẻ em lang thang mà không còn nơi nương tựa thì được tổ chức chăm sóc, nuôi
dưỡng tại gia đình thay thế hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em; đối với trẻ em lang thang của hộ nghèo
thì được ưu tiên, giúp đỡ để xoá đói, giảm nghèo.
2. Đối với trẻ em cùng gia đình đi lang thang thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ
em cùng gia đình đến lang thang có trách nhiệm yêu cầu và tạo điều kiện để gia đình lang
thang định cư, ổn định cuộc sống và để trẻ em được hưởng các quyền của mình.
3. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em lang thang được
sống trong môi trường an toàn, không rơi vào tệ nạn xã hội.
Điều 56. Trẻ em bị xâm hại tình dục
1. Trẻ em bị xâm hại tình dục được gia đình, Nhà nước và xã hội giúp đỡ bằng các
biện pháp tư vấn, phục hồi sức khoẻ, tinh thần và tạo điều kiện để ổn định cuộc sống.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện biện pháp giáo dục, phòng
ngừa, ngăn chặn và tố cáo hành vi xâm hại tình dục trẻ em.
Điều 57. Trẻ em nghiện ma túy
1. Cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động phòng, chống ma tuý có trách nhiệm
tổ chức cai nghiện tại gia đình hoặc tại cơ sở cai nghiện cho trẻ em nghiện ma tuý theo quy
định của Luật phòng, chống ma tuý.
2. Cơ sở cai nghiện ma tuý có trách nhiệm tạo điều kiện cho trẻ em cai nghiện được
tham gia các hoạt động lành mạnh, có ích và phải bố trí cho trẻ em cai nghiện ở khu vực dành
riêng cho trẻ em.
3. Trẻ em cai nghiện ma tuý tại cơ sở cai nghiện bắt buộc không bị coi là trẻ em bị xử
lý vi phạm hành chính.
Điều 58. Trẻ em vi phạm pháp luật
1. Trẻ em vi phạm pháp luật được gia đình, nhà trường và xã hội giáo dục, giúp đỡ để
sửa chữa sai lầm, có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quy tắc của đời sống xã hội và sống
có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Việc tổ chức giáo dục trẻ em vi phạm pháp
luật chủ yếu được thực hiện tại cộng đồng hoặc đưa vào trường giáo dưỡng.
2. Việc xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với trẻ em vi phạm pháp luật phải theo quy định của pháp luật đối với người chưa
thành niên.
3. Trẻ em vi phạm pháp luật đã bị xử lý bằng biện pháp hành chính, hình sự cách ly
khỏi cộng đồng trong một thời gian nhất định, khi trở về gia đình được Uỷ ban nhân dân cấp
xã phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện, giúp đỡ tiếp tục học văn hoá, học
nghề và hỗ trợ tìm việc làm.
4. Trường hợp trẻ em đã chấp hành xong thời hạn giáo dục hoặc hình phạt mà không
có nơi nương tựa thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đưa vào cơ sở trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, tạo điều kiện để được học nghề và có việc làm.
Chương V
Điều khoản thi hành
Điều 59. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005.
2. Luật này thay thế Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991.
Điều 60. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.
24/4

LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA QUỐC HỘI KHÓA XI, KỲ HỌP THỨ 10
SỐ 73/2006/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2006

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001của Quốc hội
khoá X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về bình đẳng giới.
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh


Luật này quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và
gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, gia đình và công dân Việt Nam (sau đây gọi chung là cơ
quan, tổ chức, gia đình, cá nhân).
2. Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá
nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam.
Điều 3. Áp dụng điều ước quốc tế về bình đẳng giới
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế
đó.
Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới
Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho
nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng
giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Điều 5. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
2. Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
3. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và
cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
4. Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị
trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
5. Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi
trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình.
6. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực
chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn
giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả
của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm
được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời
gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.
25/4

7. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là
biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề giới, dự báo tác
động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã
hội được văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
8. Hoạt động bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân thực
hiện nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới.
9. Chỉ số phát triển giới(GDI) là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng bình đẳng giới,
được tính trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập bình quân đầu người
của nam và nữ.
Điều 6. Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
1. Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
2. Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
3. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
4. Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
5. Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.
6. Thực hiện bình đẳng giớilà trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân.
Điều 7. Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới
1. Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia
đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia
vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
2. Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh convà nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để
nam, nữ chia sẻ công việc gia đình.
3. Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở
thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
4. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy
bình đẳng giới.
5. Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để
nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới
thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Điều 8. Nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về bình
đẳng giới.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới.
3. Ban hành và tổ chức thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới.
4. Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.
5. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động về bình đẳng giới.
6. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
7. Thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo về bình đẳng giới.
8. Hợp tác quốc tế về bình đẳng giới.
Điều 9. Cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
2. Bộ hoặc cơ quan ngang bộ được Chính phủ phân công chủ trì chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới quy định tại khoản 2 Điều này thực
hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
26/4

4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong phạm
vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Điều 10. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới.
2. Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức.
3. Bạo lực trên cơ sở giới.
4. Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật.

Chương II.
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC LĨNH VỰC
CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ GIA ĐÌNH

Điều 11. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.
2. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của
cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
3. Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
4. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm
vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
5. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
a) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù
hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước
phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Điều 12. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
1. Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản
xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn,
thị trường và nguồn lao động.
2. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
a) Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy
định của pháp luật;
b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư theo quy định của pháp luật.
Điều 13. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
1. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại
nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các
điều kiện làm việc khác.
2. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức
danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.
3. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
b) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;
c) Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm
việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.
Điều 14. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
1. Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.
27/4

2. Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo.
3. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
4. Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con
dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.
5. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo;
b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.
Điều 15. Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
1. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ.
2. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ,
phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế.
Điều 16. Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao
1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể
thao.
2. Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông
tin.
Điều 17. Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm
sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.
2. Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện
pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường
tình dục.
3. Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ
theo quy định của Chính phủ.
Điều 18. Bình đẳng giới trong gia đình
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan
đến hôn nhân và gia đình.
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng
trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia
đình.
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng
biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy
định của pháp luật.
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để
học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.

Chương III
CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI

Điều 19. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới


1. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng;
b) Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam;
c) Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam;
d) Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam;
28/4

đ) Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn
như nam;
e) Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam;
g) Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại khoản 5 Điều 11, khoản 2
Điều 12, khoản 3 Điều 13, khoản 5 Điều 14 của Luật này.
2. Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thẩm quyền quy định biện
pháp thúc đẩy bình đẳng giới quy định tại khoản 1 Điều này, có trách nhiệm xem xét việc
thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và quyết định chấm dứt thực hiện khi mục đích
bình đẳng giới đã đạt được.
Điều 20. Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật
1. Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm các
nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới.
2. Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới là một căn cứ quan trọng của việc rà soát
để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật.
Điều 21. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật
1. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bao
gồm:
a) Xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong lĩnh vực mà văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh;
b) Dự báo tác động của các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khi được ban
hành đối với nữ và nam;
c) Xác định trách nhiệm và nguồn lực để giải quyết các vấn đề giới trong phạm vi văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
2. Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới, chuẩn bị báo cáo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này và
phụ lục thông tin, số liệu về giới có liên quan đến dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
3. Cơ quan thẩm định văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm phối hợp với cơ
quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung đánh giá bao gồm:
a) Xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo;
b) Việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo;
c) Tính khả thi của việc giải quyết vấn đề giới được điều chỉnh trong dự án, dự thảo;
d) Việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng dự án, dự thảo theo
các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này.
4. Chính phủ quy định việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật.
Điều 22. Thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
1. Uỷ ban của Quốc hội phụ trách lĩnh vực giới có trách nhiệm tham gia với Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban khác của Quốc hội để thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới đối với các
dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội xem xét, thông qua.
2. Nội dung thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới bao gồm:
a) Xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo;
b) Việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo;
c) Việc tuân thủ thủ tục và trình tự đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
trong xây dựng dự án, dự thảo;
d) Tính khả thi của dự án, dự thảo để bảo đảm bình đẳng giới.
29/4

Điều 23. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới
1. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới là biện pháp quan trọng
nhằm nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới.
2. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới được đưa vào
chương trình giáo dục trong nhà trường, trong các hoạt động của cơ quan, tổ chức và cộng
đồng.
3. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới thông qua các
chương trình học tập, các ấn phẩm, các chương trình phát thanh, truyền hình và các hình thức
khác.
Điều 24. Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới
1. Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới bao gồm:
a) Ngân sách nhà nước;
b) Đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân;
c) Các nguồn thu hợp pháp khác.
2. Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới phải đúng mục
đích, có hiệu quả và theo quy định của pháp luật.
Chương IV
TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC, GIA ĐÌNH VÀ CÁ NHÂN TRONG
VIỆC THỰC HIỆN VÀ BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI

Điều 25. Trách nhiệm của Chính phủ


1. Ban hành chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; hằng năm
báo cáo Quốc hội về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
2. Trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới.
3. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền.
4. Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; chỉ đạo, tổ chức công tác thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.
5. Công bố chính thức các thông tin quốc gia về bình đẳng giới; quy định và chỉ đạo
thực hiện tiêu chí phân loại giới tính trong số liệu thông tin thống kê nhà nước.
6. Phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam và chỉ đạo các cơ quan hữu quan trong việc tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức của nhân dân về bình đẳng giới.
Điều 26. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới
1. Xây dựng và trình Chính phủ ban hành chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về
bình đẳng giới.
2. Xây dựng và trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành, hướng dẫn theo thẩm quyền
văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới.
3. Tham gia đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật.
4. Tổng kết, báo cáo Chính phủ việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
5. Chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ trong quản lý nhà nước về bình đẳng
giới.
6. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình
đẳng giới.
Điều 27. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm
sau đây:
30/4

1. Rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban
hành mới theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban
hành mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực mà mình
quản lý;
2. Nghiên cứu, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới;
3. Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đánh giá thực trạng bình
đẳng giới trong lĩnh vực mà mình quản lý; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải
quyết khiếu nại, tố cáo về bình đẳng giới.
Điều 28. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp
1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới tại địa
phương.
2. Trình Hội đồng nhân dân ban hành hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
bình đẳng giới theo thẩm quyền.
3. Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở địa phương.
4. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố
cáo về bình đẳng giới.
5. Tổ chức, chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục về giới và pháp luật về bình đẳng giới
cho nhân dân địa phương.
Điều 29. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
1. Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình
đẳng giới theo quy định của pháp luật.
2. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức.
3. Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới.
4. Tuyên truyền, vận động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện bình đẳng giới.
Điều 30. Trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
1. Thực hiện các quy định tại Điều 29 của Luật này.
2. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
3. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ đủ tiêu
chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia
quản lý, lãnh đạo các cơ quan trong hệ thống chính trị.
4. Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ
em gái theo quy định của pháp luật.
5. Thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.
Điều 31. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
– xã hội trong việc thực hiện bình đẳng giới tại cơ quan, tổ chức mình
1. Trong công tác tổ chức, cán bộ, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị – xã hội có trách nhiệm sau đây:
a) Bảo đảm cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nam, nữ bình đẳng trong
việc làm, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm và hưởng phúc lợi;
b) Bảo đảm việc đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trên nguyên
tắc bình đẳng giới.
2. Trong hoạt động, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội có
trách nhiệm sau đây:
a) Xác định thực trạng bình đẳng giới, xây dựng và bảo đảm thực hiện mục tiêu bình
đẳng giới trong cơ quan, tổ chức mình và có báo cáo hằng năm;
b) Bảo đảm sự tham gia của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nam, nữ
trong xây dựng, thực thi pháp luật, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
31/4

c) Giáo dục về giới và pháp luật về bình đẳng giới cho cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động do mình quản lý;
d) Có biện pháp khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thực hiện
bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức và gia đình;
đ) Tạo điều kiện phát triển các cơ sở phúc lợi xã hội, các dịch vụ hỗ trợ nhằm giảm
nhẹ gánh nặng lao động gia đình.
Điều 32. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác trong việc thực hiện bình đẳng
giới tại cơ quan, tổ chức mình
1. Trong công tác tổ chức và hoạt động, cơ quan, tổ chức không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 31 của Luật này có trách nhiệm sau đây:
a) Phải bảo đảm cho nam, nữ bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng;
b) Báo cáo hoặc cung cấp kịp thời thông tin về bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức
theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền;
c) Đề xuất hoặc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về bình đẳng giới liên quan
đến hoạt động của cơ quan, tổ chức mình.
2. Căn cứ vào khả năng, điều kiện của mình, cơ quan, tổ chức chủ động hoặc phối hợp
tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới sau đây:
a) Tổ chức các hoạt động tuyên truyền kiến thức về giới và pháp luật về bình đẳng
giới cho các thành viên của cơ quan, tổ chức và người lao động;
b) Bố trí cán bộ hoạt động về bình đẳng giới;
c) Tổ chức nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu nhằm tăng cường bình đẳng
giới;
d) Dành nguồn tài chính cho các hoạt động bình đẳng giới;
đ) Tổ chức hệ thống nhà trẻ phù hợp để lao động nam, nữ kết hợp hài hoà giữa lao
động sản xuất và lao động gia đình;
e) Hỗ trợ lao động nữ khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi
sáu tháng tuổi;
g) Tạo điều kiện cho lao động nam nghỉ hưởng nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh
con.
Nhà nước khuyến khích thực hiện các hoạt động quy định tại khoản này.
Điều 33. Trách nhiệm của gia đình
1. Tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình nâng cao nhận thức, hiểu biết và
tham gia các hoạt động về bình đẳng giới.
2. Giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ và phân công hợp lý công việc gia
đình.
3. Chăm sóc sức khoẻ sinh sản và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện làm mẹ an toàn.
4. Đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau giữa con trai, con gái trong học tập, lao
động và tham gia các hoạt động khác.
Điều 34. Trách nhiệm của công dân
Công dân nam, nữ có trách nhiệm sau đây:
1. Học tập nâng cao hiểu biết, nhận thức về giới và bình đẳng giới;
2. Thực hiện và hướng dẫn người khác thực hiện các hành vi đúng mực về bình đẳng
giới;
3. Phê phán, ngăn chặn các hành vi phân biệt đối xử về giới;
4. Giám sát việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của cộng đồng, của cơ quan, tổ
chức và công dân.

Chương V
THANH TRA, GIÁM SÁT VÀ XỬ LÝ
32/4

VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

Điều 35. Thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
1. Cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới thực hiện chức năng thanh tra về bình
đẳng giới.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra về bình đẳng giới bao gồm:
a) Thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới;
b) Thanh tra việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, các biện
pháp bảo đảm bình đẳng giới;
c) Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình đẳng giới theo quy định
của Luật này và pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
d) Xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật xử lý vi
phạm hành chính;
đ) Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về bình đẳng giới; đề nghị sửa
đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về bình đẳng giới;
e) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Điều 36. Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
1. Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.
2. Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới tại địa phương.
Điều 37. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Việc giải quyết khiếu nại về bình đẳng giới được thực hiện theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo.
Điều 38. Tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới
1. Cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
2. Việc tố cáo, giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới được
thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Điều 39. Nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới
Mọi hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được phát hiện, ngăn chặn kịp
thời. Việc xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được tiến hành nhanh chóng, công
minh, triệt để theo đúng quy định của pháp luật.
Điều 40. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính
trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể
dục, thể thao, y tế
1. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
a) Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp vì
định kiến giới;
b) Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh
đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới;
c) Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các hương ước,
quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
2. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
33/4

a) Cản trở nam hoặc nữ thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động kinh doanh vì
định kiến giới;
b) Tiến hành quảng cáo thương mại gây bất lợi cho các chủ doanh nghiệp, thương
nhân của một giới nhất định.
3. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
a) Áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ
đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ
trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới;
b) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc
người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;
c) Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch
về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình
độ, năng lực vì lý do giới tính;
d) Không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định riêng đối với lao
động nữ.
4. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
bao gồm:
a) Quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ;
b) Vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính;
c) Từ chối tuyển sinh những người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì
lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;
d) Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn và phổ biến sách giáo khoa có định kiến giới.
5. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ bao gồm:
a) Cản trở nam, nữ tham gia hoạt động khoa học, công nghệ;
b) Từ chối việc tham gia của một giới trong các khoá đào tạo về khoa học và công
nghệ.
6. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa, thông tin,
thể dục, thể thao bao gồm:
a) Cản trở nam, nữ sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các
hoạt động văn hóa khác vì định kiến giới;
b) Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình
thức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng giới, định kiến giới;
c) Truyền bá tư tưởng, tự mình thực hiện hoặc xúi giục người khác thực hiện phong
tục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức.
7. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:
a) Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt động giáo dục
sức khỏe vì định kiến giới;
b) Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác
phá thai vì giới tính của thai nhi.
Điều 41. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình
1. Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham
gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính.
2. Không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử
dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu
cầu khác của gia đình vì định kiến giới.
3. Đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính.
4. Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới
tính.
34/4

5. Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như
là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định.
Điều 42. Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới
1. Người nào có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

* Liên hệ bản thân:


Theo đồng chí chúng ta phải làm gì đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
Phụ nữ và trẻ em Việt Nam?

Câu 9: Ban Công tác Phụ nữ quân đội được thành lập thời gian nào? Phụ nữ Quân đội
đến nay đã trải qua mấy kỳ Đại hội? Những thông tin chính về các kỳ đại hội đó?
Từ ngày 6-7/5/1992, Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quân lần thứ nhất đã long trọng diễn
ra tại Thủ đô Hà Nội. 182 đại biểu đại diện cho gần 5 vạn nữ quân nhân, nữ công nhân viên
chức quốc phòng trong toàn quân đã về dự Đại hội.
Tại Đại hội, ngày 7/5/1992, được sự uỷ nhiệm của Tổng cục Chính trị, đồng chí Đại tá
Nguyễn Ngọc Cận, Uỷ viên Ban Thư kí Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trưởng Ban
Công đoàn Quốc phòng đã đọc Quyết định số 135/QĐ-CT của Tổng cục Chính trị về việc
thành lập Ban Công tác Phụ nữ Quân đội đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp về mọi mặt của Tổng
cục Chính trị và hướng dẫn về nghiệp vụ của Ban Công đoàn Quốc phòng nhằm đoàn kết, tập
hợp lực lượng nữ quân nhân, nữ công nhân viên chức quốc phòng toàn quân. Nhiệm vụ của
Ban Công tác Phụ nữ Quân đội là vận động, giáo dục, tổ chức phụ nữ trong quân đội thực
hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo đúng Hiến pháp, Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Điều lệ Công đoàn Việt Nam, các nghị quyết của Đại hội phụ nữ toàn quân, toàn quốc,
nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về
nhiệm vụ quân sự và sản xuất quốc phòng, chỉ thị của Tổng cục Chính trị, Trung ương Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Thực hiện quyền đại diện
của chị em trong quân đội, tham gia đề xuất và kiến nghị với Bộ về các chính sách có liên
quan đến quyền lợi, đời sống của nữ quân nhân, nữ công nhân viên chức quốc phòng, chăm lo
quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Hướng dẫn phụ nữ nâng cao kiến thức về mọi mặt, nâng cao hiểu
biết về giới… để chị em tham gia vào các hoạt động có hiệu quả. Hướng dẫn xây dựng, củng
cố các Ban nữ công quần chúng ở cơ sở, chăm lo bồi dưỡng cán bộ nữ công.
Ban Công tác Phụ nữ Quân đội sinh hoạt 6 tháng 1 lần, khi có yêu cầu đột xuất họp
bất thường các đồng chí trưởng, phó Ban và cán bộ Phòng Công tác Phụ nữ thuộc Ban Công
đoàn Quốc phòng 3 tháng sinh hoạt 1 lần. Thường trực của Ban Công tác Phụ nữ Quân đội là
Phòng Công tác Phụ nữ thuộc Ban Công đoàn Quốc phòng.
Các đồng chí có tên sau đây được chỉ định vào Ban Công tác Phụ nữ Quân đội:
1. Vũ Thị Hồng, trung tá, Cục Xuất bản - TCCT: Trưởng Ban
2. Nguyễn Thị Kim Giao, chuyên viên Phòng Công tác Phụ nữ - Ban Công đoàn Quốc
phòng: Phó trưởng Ban.
3. Ngô Thị Tâm, chuyên viên, Trưởng ban Công đoàn Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng - kinh tế: Phó trưởng Ban.
4. Nguyễn Thanh Phương, Giám đốc Xí nghiệp May 20 - Tổng cục Hậu cần: Uỷ viên.
5. Đinh Thị Vấn, thiếu tá, phó Phòng Giáo dục mầm non, Ban Công đoàn Quốc
phòng: Uỷ viên.
6. Trương Thị Chức, trung tá, Chủ nhiệm khoa, Trưởng ban nữ công Học viện Quân y:
Uỷ viên.
35/4

7. Đoàn Thị Thu, phó Chủ tịch Công đoàn, Trưởng ban nữ công Xí nghiệp Liên hợp
Ba Son: Uỷ viên.
Đại hội đã tiến hành bầu đoàn đại biểu đại diện cho phụ nữ quân đội đi dự Đại hội phụ
nữ toàn quốc lần thứ VII. Với tinh thần "Đoàn kết, đổi mới, vì sự bình đẳng, phát triển và
hạnh phúc của phụ nữ", Đại hội đã gửi thư kêu gọi chị em nữ quân nhân, nữ công nhân viên
chức quốc phòng toàn quân: "…Hãy phát huy hơn nữa mọi tiềm năng và sức sáng tạo, tiếp tục
đẩy mạnh phong trào: “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” do Tổng cục Chính trị phát động, xây
dựng người phụ nữ mới yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, rèn luyện học tập và công tác tiến bộ,
xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc, nuôi dạy con tốt và tích cực tham gia hoạt động công
tác phụ nữ và xây dựng tổ chức nữ công cơ sở vững mạnh”....
Từ ngày 27 đến ngày 29/3/1997, Đại hội đại biểu phụ nữ quân đội lần thứ II được tổ
chức tại Hà Nội. Về dự Đại hội có 265 đại biểu đại diện cho gần 6 vạn nữ quân nhân, nữ công
nhân viên chức quốc phòng trong toàn quân.
Từ ngày 4-5/12/2001, Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quân lần thứ III được tổ chức trọng
thể tại Thủ đô Hà Nội. Về dự Đại hội có 311 đại biểu tiêu biểu đại diện cho hơn 7 vạn cán bộ,
hội viên phụ nữ và hơn 1.000 Hội phụ nữ cơ sở trong toàn quân
Đại hội đại biểu phụ nữ quân đội lần thứ IV được tổ chức từ ngày 12-14/12/2006 tại
Thủ đô Hà Nội. Về dự Đại hội có 359 đại biểu đại diện cho hơn 8 vạn cán bộ, hội viên phụ nữ
và 1.457 Hội phụ nữ cơ sở trong toàn quân.

Câu 10: Đồng chí hãy kể về một kỷ niệm sâu sắc nhất của mình khi tham gia công tác Hội.
Theo đồng chí chúng ta phải làm gì để công tác phụ nữ, phong trào phụ nữ của Quân đội nói
chung, của Viettel nói riêng ngày càng phát triển và đạt hiệu quả thiết thực.

(Ghi chú:- Viết không quá 2.000 từ.


- Câu chuyện, hay những kỷ niệm phải là người thật, việc thật gắn với công tác
hội và phong trào phụ nữ của Tập đoàn, quân đội).
36/4

You might also like