Professional Documents
Culture Documents
THIÊN ĐẢO HỒ
Người dịch: NGUYỄN DUY CHIẾM
TẬP 3
+ ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀO TRUNG NAM HẢI LẦN THỨ HAI
+ CUỘC CHIẾN SỐNG MÁI
+ NGẪM SUY SAU KIẾP NẠN
Chương I
ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀO TRUNG NAM HẢI LẦN THỨ HAI
1
Bức thư Đặng Tiểu Bình gửi từ ngoài ngàn dặm
Những người dự quốc yến trố mắt ngạc nhiên
3. Vương Hồng Văn làm trò cười cho thiên hạ, Giang Thanh không nhổ
được “cái gai”
Sau khi Đặng Tiểu Bình xuất hiện trở lại, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn
Nguyên rất buồn chán, thất vọng. Chu Ân Lai bị bệnh nan y, Giang Thanh và đồng bọn vốn dĩ
muốn đợi khi ông vào nằm viện, lúc ấy quyền lực của chính phủ không thuộc về tay họ thì về tay
ai. Ai ngờ Chu Ân Lai vẫn chưa đi thì Đặng Tiểu Bình đã đến. Không hiểu vì sao, Giang Thanh
không sợ Chu Ân Lai, mà lại sợ Đặng Tiểu Bình. Vào những năm 50, nhiều lần bà ta được nghe
Mao Trạch Đông nói: “Cái anh chàng bé nhỏ ấy, bên ngoài thì mềm mỏng mà bên trong thì rất
cứng rắn, tiền đồ sẽ vô cùng”. Đặng Tiểu Bình vào Quốc vụ viện, vẫn chưa nói một câu nào, mà
Giang Thanh đã hoang mang lo sợ.
Ngày 24 tháng 8 năm 1973, Đại hội Đảng khóa 10 của Trung Quốc họp tại Đại lễ đường
Nhân dân. Điều làm cho các đại biểu ngạc nhiên là, khác với bất cứ Đại hội nào trước đây, Mao
Trạch Đông đã không xuất hiện cùng với tiếng nhạc Đông Phương hồng, mà ông đã ngồi trên
ghế Chủ tịch đoàn từ lâu. Sau khi Đại hội kết thúc, các đại biểu ra khỏi hội trường trước, sau đó
y tá đỡ Mao Trạch Đông đứng dậy đi ra - vốn dĩ Mao Trạch Đông bị bệnh đã không thể đứng
dậy được nữa, lại không muốn các đại biểu biết ông bị ốm, nên đành phải vào ngồi trước và ra về
cuối cùng.
Trong Đại hội Đảng khóa 10 này, điều làm Mao Trạch Đông vừa ý nhất là đã chọn được
người nối nghiệp. Ông gập ngón tay nói với các ủy viên Bộ Chính trị: “Vương Hồng Văn xuất
thân là nông dân, lại tham gia quân đội, cuối cùng lại làm công nhân trong nhà máy, công nông
binh đều trải qua, là một chiến sĩ có kinh nghiệm thực tiễn!”. Mao Trạch Đông có thể không biết
Vương Hồng Văn xuất thân là nông dân, mà không biết làm ruộng cấy trồng. Còn hai năm đi bộ
đội vì quậy phá nên phải phục viên; có làm việc mấy năm trong nhà máy nhưng là Phó phòng
bảo vệ, đã từng cưỡng hiếp mấy nữ công nhân dệt. Con người này giỏi phá phách, còn trong đầu
thì chẳng có chữ nào, được cái là Mao Trạch Đông cũng không yêu cầu. Thế là, phần tử xấu này
do có công phá hoại, nên 38 tuổi đã được làm Phó Chủ tịch thứ hai Trung ương Đảng, trong 5
Phó Chủ tịch do Đại hội khóa 10 bầu ra, anh ta đứng sau Chu Ân Lai và đứng trên những người
khác.
Mao Trạch Đông cũng thật sự chú ý bồi dưỡng người nối nghiệp này, thường xuyên kéo
anh ta tham gia các cuộc tiếp kiến khách nước ngoài, để anh ta tăng thêm kiến thức. Tháng 9
năm ngoái Thủ tướng Nhật Bản Ta-na-ca đã đến thăm Trung Quốc, thực hiện việc bình thường
hóa quan hệ bang giao Trung - Nhật. Sau đó đến Thủ tướng Tây Đức Bô-ran-đơ đến thăm, Trung
Quốc và Tây Đức thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, những sự việc trọng đại này Vương
Hồng Văn chưa kịp tham gia. May vào dịp dòng sông băng của quan hệ Trung - Mỹ được khai
thông, nguyên thủ, những người đứng đầu chính phủ các nước đến thăm không ngớt, đã cho
Vương Hồng Văn không ít dịp thực tập. Hiềm một nỗi cậu học sinh này thật không xứng đáng,
lần nào thực tập cũng nộp giấy trắng.
Mao Trạch Đông rất vừa lòng về người nối nghiệp trẻ trung mà ông mới lựa chọn. Đại
hội Đảng khóa 10 vừa kết thúc. Tổng thống Pháp Pông-pi-đu đến thăm Trung Quốc, Mao Trạch
Đông chỉ vào Vương Hồng Văn nói: “Ngài hãy nhìn anh ta, rất có tiền đồ”. Không ngờ Pông-pi-
đu chẳng thèm để ý đến Vương Hồng Văn. Vương Hồng Văn rất bực bội, quyết tâm sẽ thể hiện
thật tốt khi tiếp khách nước ngoài ở lần sau.
Cuối cùng cơ hội đã đến, tháng 11 năm 1973, Thủ tướng Ôt-xtrây-lia Hu-tơ-ra-mu đến
thăm Trung Quốc, Chu Ân Lai tiếp ông ta tại Đại lễ đường Nhân dân. Hai Thủ tướng nói chuyện
được một lúc, một quan chức ngoại giao Trung Quốc đến bên cạnh Chu Ân Lai đưa cho ông một
mảnh giấy. Chu Ân Lai hỏi Hu-tơ-ra-mu: “Chúng ta có thể nói mấy câu chuyện riêng được
không?” Hu-tơ-ra-mu dự đoán là sẽ đi gặp Mao Trạch Đông. Quả nhiên, Chu Ân Lai đã cùng
ông ta lên xe Hồng Kỳ đi tới Trung Nam Hải.
Trương Ngọc Phượng đỡ Mao Trạch Đông bắt tay Hu-tơ-ra-mu, miệng phàn nàn: “Chân
tôi đi lại khó khăn, tai nghe cũng không thính lắm”. Hu-tơ-ra-mu chú ý đến Vương Hồng Văn
còn trẻ đứng bên cạnh Mao Trạch Đông. Anh ta đứng đó, chân tay không biết để ở đâu, cứ lúng
túng mất tự nhiên, như một cậu học trò nhỏ luôn thi không đạt trung bình vào phòng thầy giáo.
Nói chung những người nước ngoài đến thăm rất ít hỏi đến việc của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng Hu-tơ-ra-mu lại khác, ông ta hỏi nhiều đến tình hình
Đại hội Đảng khóa 10 vừa kết thúc, trong đó liên quan rất nhiều đến tư liệu. Phàm khi có liên
quan đến những vấn đề này, đều do Chu Ân Lai trả lời thay. Vương Hồng Văn cũng muốn nói,
nhưng không xen vào được.
Đột nhiên Hu-tơ-ra-mu hỏi về Vương Hồng Văn: “Thưa Chủ tịch, sự thăng tiến nhảy vọt
của Vương sau đại hội khóa 10, đã nổi tiếng thế giới, ngài đã phát hiện anh ta ở đâu?” Mọi người
nhất loạt quay đầu về phía Mao Trạch Đông, xem ông trả lời như thế nào. Mao Trạch Đông
không vui về câu hỏi này, hất đầu trả lời một cách gượng ép: “Không biết”. Hu-tơ-ra-mu nói vui:
“Khi ngài và ông Chu đi trường chinh, theo tôi biết, thì anh Vương chưa đẻ”. Vương Hồng Văn
mấp máy đôi môi như muốn nói gì đó, lập tức Chu Ân Lai nói xen ngắt lời của ông ta.
Vương Hồng Văn muốn biểu hiện mình, nhưng chưa có dịp nào. Khi hội đàm sắp kết
thúc, khó khăn làm anh ta mới tìm được chỗ trống để nói xen vào, nói mấy lời khiến người đời
không sao nhịn được cười: “Đúng là tôi sinh ra vào lúc trường chinh, năm ấy tôi 1 tuổi, nhưng
cũng giống như Mao Chủ tịch và Chu Thủ tướng, đã bắt đầu làm cách mạng rồi”. Sự thổ lộ của
anh ta như vậy, khiến những người tham dự ngớ người. Sắc mặt Mao Trạch Đông bỗng thay đổi.
Sau khi Đường Văn Sinh dịch xong câu này, Hu-tơ-ra-mu tỏ ra ngạc nhiên và buồn cười, những
người phiên dịch đều bĩu môi. Tay Vương Hồng Văn này quả đã đi lên từ tạo phản, nói những
lời như thế mà không thấy ngượng mồm, đến đứa trẻ lên 5 cũng hiểu được rằng một đứa trẻ sơ
sinh 1 tuổi e rằng đến từ “cách mạng” cũng còn chưa biết nói là khác.
Mao Trạch Đông thấy Vương Hồng Văn chẳng ra sao như vậy, trong lòng rất buồn. Hu-
tơ-ra-mu muốn làm cho không khí nhộn nhịp lên một chút nên nói sang vấn đề tiền đồ của cách
mạng Trung Quốc, Mao Trạch Đông thì không còn lòng dạ nào để mà bàn, thẳng thắn nói: “Tôi
và Chu đều không sống được đến ngày cách mạng kết thúc, tôi đã bị bệnh, tôi đã báo cho Mác
biết rồi”.
Chu Ân Lai nhìn đồng hồ, ra hiệu cho khách biết là cuộc nói chuyện nên kết thúc. Mao
Trạch Đông chỉ Vương Hải Dung nói đùa: “Cô ấy quản lý tôi rất chặt, không bao giờ cho tôi nói
nhiều”. Sau khi cuộc tiếp kiến kết thúc, Mao Trạch Đông cảm thấy sự nông cạn của Vương
Hồng Văn, liền cử anh ta cùng Đặng Tiểu Bình đến các nơi trong toàn quốc điều tra nghiên cứu.
Trình độ của Vương Hồng Văn rất thấp, lại không muốn vất vả, nào có chịu cố gắng điều tra
nghiên cứu đâu, anh ta coi cơ hội học tập hiếm có này là một lần du sơn ngoạn thủy thoái mái,
đến chỗ nào cũng ăn chơi cho đã, thưởng thức những loài hoa nổi tiếng. Còn Đặng Tiểu Bình thì
ngày nào cũng tiếp những người phụ trách các địa phương, bàn công việc, giải quyết các vấn đề,
tìm hiểu tình hình cơ sở.
Cuộc chu du toàn quốc kết thúc, Đặng Tiểu Bình và Vương Hồng Vãn phải báo cáo với
Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai những thu hoạch về cuộc điều tra nghiên cứu. Vương Hồng
Văn chẳng có gì để nói, chỉ nói mấy câu báo cáo kết quả hoàn thành nhiệm vụ sáo rỗng. Đặng
Tiểu Bình thì lại nói rất nhiều vấn đề, nêu ra biện pháp giải quyết và kiến nghị tiến hành điều
chỉnh toàn quốc. Khi họ báo cáo, Mao Trạch Đông rất ít nói, báo cáo xong, Mao Trạch Đông đã
nêu ra một vấn đề mà chẳng ai ngờ tời: “Sau khi tôi chết Trung Quốc sẽ như thế nào?”. Mao
Trạch Đông chỉ vào Vương Hồng Văn: “Đồng chí nói trước đi”.
Vương Hồng Văn chẳng cần nghĩ ngợi đáp: “Nhân dân cả nước sẽ theo sát đường lối
cách mạng Mao Trạch Đông, đoàn kết nhất trí tiến hành cách mạng đến cùng”.
Trong lòng Mao Trạch Đông chợt bật ra tiếng “hừ”, đây là một câu nói mà các học sinh
tiểu học thuộc lòng. Ông quay lại hỏi Đặng Tiểu Bình: “Đồng chí nói sao? Sau khi tôi chết rồi thì
tình hình Trung Quốc sẽ như thế nào?” Đặng Tiểu Bình nói một cách gay gắt: “Một cuộc nội
chiến sẽ bùng nổ, cả nước sẽ hỗn loạn”.
Lời của Đặng Tiều Bình làm những người có mặt rất sững sờ, sắc mặt Mao Trạch Đông
chuyển sang màu trắng bệch, Chu Ân Lai mím chặt môi, Vương Hồng Văn thì tỏ vẻ tức giận,
còn Đặng Tiểu Bình thì không có thay đổi gì, thái độ rất ung dung.
Vương Hồng Văn rất đắc ý, cho rằng Đặng Tiểu Bình nhất định sẽ bị Mao Trạch Đông
quở trách nghiêm khắc, ông ta dám miêu tả Trung Quốc sau khi Mao Trạch Đông qua đời đáng
sợ như vậy. Không ngờ Mao Trạch Đông đã châm một điếu thuốc lá nhãn hiệu Gấu Mèo thong
thả hút, sau khi hút mấy hơi liền mới gật đầu nói với Đặng Tiểu Bình: “Tiểu Bình, đồng chí nói
đúng đấy. Sau khi tôi chết, khẳng định là Trung Quốc sẽ xảy ra nội chiến. Ôi, nhân tài hiếm
thấy!”.
Vương Hồng Văn bị gạt sang một bên, Mao Trạch Đông không để ý nhiều đến anh ta;
xem ra con người này phá thì có thể nhưng xây thì không được; làm việc vặt thì có thể, việc
nghiêm túc đứng đắn thì không thể làm được. Sự nông cạn của Vương Hồng Văn đã làm Mao
Trạch Đông cụt hứng, đã đánh vào mặt Mao Trạch Đông. Chu Ân Lai sợ Vương Hồng Văn bẽ
mặt không có chỗ lui, bèn khuyên anh ta: “Sau này nên cố gắng học tập. Làm Phó Chủ tịch trách
nhiệm rất lớn, không như trước đây...”. Vương Hồng Văn tiu nghỉu, không nói một câu nào.
4. Một câu nói của Đặng Tiểu Bình Tư lệnh của tám Đại quân khu thay đổi
vị trí
Từ đó về sau, Mao Trạch Đông càng ngày càng coi trọng Đặng Tiểu Bình, đối với Vương
Hồng Văn ngày càng lạnh nhạt. Vương Hồng Văn thấy địa vị của mình nguy hiểm nên ra sức
dựa vào Giang Thanh, Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên, bốn người hình thành nên một
bọn, một số văn kiện vốn phải báo cáo lên Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thì bốn người bọn họ
phê duyệt rồi đưa xuống dưới. Mao Trạch Đông luôn nghĩ đến câu nói của Đặng Tiểu Bình, thực
ra từ lâu ông đã lo lắng đến vấn đề này, sau khi Đặng Tiểu Bình đã nói đúng tâm sự của ông,
càng làm ông lo lắng sốt ruột, làm thế nào để tránh được viễn cảnh đáng sợ ấy? Biện pháp duy
nhất là chuyển đổi lẫn nhau giữa các tư lệnh đại quân khu, trọng dụng các tướng lĩnh cao cấp của
quân đội mà trước đây đã giáng chức họ và để Đặng Tiểu Bình tham gia công tác lãnh đạo của
Trung ương và Quân ủy Trung ương.
Ở đây nếu muốn hiểu vì sao Mao Trạch Đông lại làm như vậy thì trước tiên phải xem cơ
cấu tổ chức của quân đội Trung Quốc. Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ
chiến tranh, vẫn chia bộ đội thành Dã chiến quân và bộ đội địa phương. Như vậy có 5 đạo quân
dã chiến gồm Dã chiến quân thứ 1, thứ 2, thứ 3, thứ 4 và Hoa dã. Sau khi dựng nước, các Dã
chiến quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, chủ yếu chia thành 8 đại quân khu, 8 đại quân khu
này đều lấy thành phố nơi đại quân khu đóng quân để đặt tên, đó là: Quân khu Bắc Kinh, Quân
khu Thẩm Dương, Quân khu Nam Kinh, Quân khu Quảng Châu, Quân khu Vũ Hán, Quân khu
Tế Nam, Quân khu Phúc Châu, Quân khu Lan Châu. Trong đại cách mạng văn hóa, tư lệnh các
quân khu bị điều động liên tục. Nhưng có mấy tư lệnh của quân khu vẫn không thay đổi, các tư
lệnh quân khu được điều động cũng đã yên vị được mấy năm. Mao Trạch Đông cảm thấy họ quá
quen thuộc đối với bộ đội trong quân khu của mình, còn đối với bộ đội các quân khu khác thì
không quen thuộc lắm, không có lợi cho việc chuẩn bị chiến tranh, thế là ông đề nghị với Bộ
Chính trị đưa ra việc chuyển đổi lẫn nhau giữa các tư lệnh quân khu. Qua thảo luận, dĩ nhiên là
Bộ Chính trị đã đồng ý.
Tư lệnh của 8 quân khu được tập trung ở Bắc Kinh, mệnh lệnh chuyển đổi do Mao Trạch
Đông trực tiếp tuyên bố. Lúc này Vương Hồng Văn cũng được cử làm công tác lãnh đạo Quân
ủy, Mao Trạch Đông muốn tạo dựng uy tín cho Vương Hồng Văn trước mặt các tướng soái, liền
ủy nhiệm cho Vương Hồng Văn điểm danh. Vương Hồng Văn chẳng biết nếp tẻ, cũng cao giọng
điểm danh.
“Hứa Thế Hữu!”
Không có ai đáp lại. Vương Hồng Văn nhìn hội trường, sắc mặt Hứa Thế Hữu tím bầm,
mắt nhìn lên trần nhà, chẳng để ý đến anh ta. Vương Hồng Văn khi còn ở Thượng Hải sợ nhất là
phải giáp mặt với vị Tư lệnh Quân khu Nam Kinh sát gần Thượng Hải này. Vương Hồng Văn
đánh bạo, đọc lại một lần nữa: “Hứa Thế Hữu!”. Bỗng mọi người nghe thấy một tiếng “thình”, té
ra là Hứa Thế Hữu đã dàn mạnh chén nước trà xuống bàn, nên phát ra tiếng động đó. Vương
Hồng Văn ngước mắt nhìn, không chỉ có Hứa Thế Hữu mà còn các vị lão tướng khác như Dương
Đắc Chí, Bì Định Quân đều nhìn anh ta bằng con mắt khinh thường. Vương Hồng Văn sợ hãi,
ngoái đầu nhìn Mao Trạch Đông như cầu xin trợ giúp. Mặt Mao Trạch Đông tím bầm, không nói
một lời. Bây giờ Vương Hồng Văn mới được nếm sự ghê gớm của quân đội.
Chu Ân Lai bắt đầu ra tay cứu giúp. Ông cầm lấy bản danh sách nhưng không xem, mà
đọc tên từ các vị tư lệnh khác: Lý Đức Sinh, Trần Tích Liên, Hứa Thế Hữu... các vị tướng này
vừa nãy còn rất ngạo mau, bây giờ rất ngoan ngoãn, từng người đáp vang. Điểm danh xong Chu
Ân Lai tuyên bố: “Bây giờ xin mời Chủ tịch tuyên bố mệnh lệnh chuyển đổi các tư lệnh của 8
đại quân khu”.
8 tư lệnh được chuyển đổi như sau: Lý Đức Sinh ở Quân khu Bắc Kinh được điều đến
Quân khu Thẩm Dương; Trần Tích Liên ở Quân khu Thẩm Dương được điều đến Quân khu Bắc
Kinh; Hứa Thế Hữu ở Quân khu Nam Kinh được điều đến Quân khu Quảng Châu; Đinh Thịnh ở
Quân khu Quảng Châu được điều đến Quân khu Nam Kinh; Tằng Tư Ngọc ở Quân khu Vũ Hán
được điều đến Quân khu Tế Nam; Dương Đắc Chí ở Quân khu Tế Nam được điều đến Quân khu
Vũ Hán; Hàn Tiên Sở ở Quân khu Phúc Châu được điều đến Quân khu Lan Châu; Bì Định Quân
ở Quân khu Lan Châu được điều đến Quân khu Phúc Châu. Sau khi mệnh lệnh ban bố, hạn trong
10 ngày, tư lệnh các quân khu đem theo một số ít thư ký và chiến sĩ cảnh vệ đến cương vị tư lệnh
mới. Tư lệnh quân khu đã chuyển đổi cho nhau, họ đến đơn vị bộ đội không quen thuộc làm
việc, muốn hiểu nhau phải có một quá trình tương đối dài. Làm như vậy có lợi cho việc chuẩn bị
chiến tranh hay không thực sự là một vấn đề. Thời kỳ Bắc Tống, Chính phủ trung ương tăng
cường tập quyền trung ương, làm suy yếu thế lực địa phương, thường xuyên điều động quan chỉ
huy đến làm việc với những đơn vị quân đội mới, tạo nên cục diện lính không biết tướng, tướng
không biết lính, kết quả là chỉ huy không hiệu nghiệm, tướng sĩ nghi kỵ nhau, đánh trận nào thua
trận ấy.
Sau khi mệnh lệnh chuyển đổi lẫn nhau được công bố, Mao Trạch Đông lại nói chuyện
xưa và nay, nội dung không ngoài việc thuyết phục các tướng lĩnh phục tùng mệnh lệnh, nói mãi,
nói mãi, chợt Mao Trạch Đông nói đến Hạ Long: “Về Hạ Long xem ra đã làm sai rồi, đó là do
Lâm Bưu gây nên, tôi chịu trách nhiệm khôi phục danh dự cho đồng chí ấy, đối với La Thụy
Khanh, Lâm Bưu cũng thực hiện cái trò tập kích bất ngờ, Lâm Bưu bảo là La Thụy Khanh định
tập kích bất ngờ, tôi đã nghe lời của Lâm Bưu, chỉnh La Thụy Khanh, tôi đã phạm sai lầm. Đều
phải xét lại án đối với Dương, Dư, Phó, vấn đề của các đồng chí này đều do Lâm Bưu gây ra, có
rất nhiều vấn đề chỉ nghe một phía, như vậy là không hay, tôi xin tự phê bình trước các đồng
chí”.
Ngừng một lát, Mao Trạch Đông lại nói tiếp: “Từ nay trở đi, Đặng Tiểu Bình tham gia
công tác lãnh đạo Quân ủy, giữ chức Tổng Tham mưu trưởng”.
Lời của Mao Trạch Đông là một điều an ủi lớn đối với các tư lệnh quân khu. Năm tướng
soái được sửa lại án sai là sự khẳng định thành tích của họ cũng là của quân đội. Đặng Tiểu Bình
làm Tổng Tham mưu trưởng càng làm cho họ tin phục và phấn khởi. Nên biết là trong 8 tư lệnh
đại Quân khu, có một nửa vốn thuộc các Dã chiến quân thứ 2 và thứ 3, trong chiến dịch Hoài
Hải, chiến dịch vượt Trường Giang tiến về phía Nam, Đặng Tiểu Bình là Bí thư Đảng ủy của
Tổng Chỉ huy mặt trận, trực tiếp dẫn dắt và chỉ huy Dã chiến quân thứ 2 và thứ 3, Đặng Tiểu
Bình là cấp trên trực tiếp của họ.
Đáng tiếc là, việc sửa lại án sai của Mao Trạch Đông hơi muộn, Hạ Long đã qua đời
trong trại giam từ năm 1969, Dương, Dư, Phó, La Thụy Khanh coi như là còn sống và được
ngẩng đầu, họ được Quân uỷ Trung ương đón về Bắc Kinh. Ngày 30 tháng 9 năm 1974. Dương,
Dư, Phó, đã tham gia buổi chiêu đãi nhân ngày Quốc khánh lần thứ 25, họ gặp nhau trong ánh
đèn rực rỡ của Đại lễ đường Nhân dân.
Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn nhìn thấy
Dương, Dư, Phó, nhưng họ không đến chào hỏi. Sau khi về Điếu Ngư Đài, Trương Xuân Kiều lo
lắng nói: “Quân đội khó làm nhất”. Diêu Văn Nguyên cũng nói: “Quân đội nguy hiểm nhất”.
Giang Thanh nghiến răng nói: “Tôi rất mong có được con dao giết người”. Trương Xuân Kiều
gập ngón tay tính: “Trong 8 đại quân khu ngoài Đinh Thịnh ra, họ đều không nghe theo chúng ta.
Cái chức Tư lệnh Quân khu Nam Kinh của Đinh Thịnh cũng như không, chỉ huy các đơn vị ở
Quân khu Nam Kinh đối với Đinh Thịnh chỉ là ứng phó, có việc gì đều đi hỏi Hứa Thế Hữu ở
Quảng Châu. Đặc biệt là Quân đoàn 62 ở tuyến Vô Tích, Tô Châu, là chủ lực của Quân khu Nam
Kinh, trang bị đầy đủ vũ khí cực tốt, quân đoàn trưởng và chính ủy đều là cảnh vệ và thư ký cơ
yếu của Hứa Thế Hữu, hoàn toàn không để ý gì đến Đinh Thịnh, uy hiếp Thượng Hải rất mạnh”.
Diêu Văn Nguyên nghĩ một lúc rồi nói: “Hồng Văn bây giờ tham gia lãnh đạo Quân ủy, để anh
ấy nghĩ cách xem thế nào?” Trương Xuân Kiều với vẻ mặt đầy coi khinh: “Anh ta ư? Gây ra cái
sự kiện An Đình thì được, ở Quân ủy thì chỉ có thể là anh điếc, nghe theo sự xếp đặt. Ở Quân ủy
vốn đã có lão Diệp, bây giờ lại thêm Đặng Tiểu Bình, một người là Phó Chủ tịch Quân ủy trung
ương chủ trì công tác Quân ủy, một người là Tổng Tham mưu trưởng nắm thực quyền. Nói thực
đến tư cách dự thính của Hồng Văn cũng chẳng có”.
3
Mao Trạch Đông ốm nặng bảo với Giang Thanh:
“Kẻ cầm đầu tập đoàn phản cách mạng là tôi”
Chu Ân Lai nhân thời cơ cứu sống nhiều người
5. Tôi đã mời các vị lãnh đạo cấp trên của các đồng chí trở về
Ngày 12 tháng 12 năm 1973, Mao Trạch Đông chủ trì cuộc hội nghị Bộ Chính trị. Hội
nghị họp tại thư phòng kiêm phòng khách của Mao Thạch Đông.
Mao Trạch Đông đề nghị các ủy viên Bộ Chính trị có mặt hát “Ba điều kỷ luật, tám điểm
chú ý”.
Thế là, các ủy viên Bộ Chính trị cùng hát: “Mỗi một quân nhân đều phải nhớ kỹ, ba điều
kỷ luật tám điểm chú ý, thứ nhất, tất cả mọi hành động phải nghe chỉ huy, hành động nhất trí mới
có thể thắng lợi...”
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa 9, khi họp hoặc tiếp kiến cấp dưới, Mao Trạch
Đông không chỉ một lần, cùng những người lãnh đạo Trung ương và địa phương hát bài này.
Mao Trạch Đông hy vọng toàn Đảng hành động nhất trí, trước tiên là Bộ Chính trị phải nhất trí.
Thực ra ở thời kỳ rối loạn ấy, đừng nói đến toàn Đảng hành động nhất trí mà hành động của Bộ
Chính trị cũng khó mà nhất trí mặc dù trước mặt Mao Trạch Đông cùng hát, nhưng chỉ nhất trí
trên ca từ mà thôi.
Hát xong, Mao Trạch Đông lại nói: “Trâu bò mọc sừng để làm gì? Chẳng qua là để húc
nhau!”. Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh triết học.
“Một người làm việc lâu ở một nơi thì không được. Làm lâu rồi sẽ ranh mãnh!” Đó là nói
về Tư lệnh của Đại quân khu. Ông cho rằng một người ngồi trấn lâu ở một chỗ, đến 20 năm, sẽ
xuất hiện nhân tố tiêu cực.
Dừng lại trong chốc lát, Mao Trạch Đông tuyên bố quyết định quan trọng. Ông chỉ vào
Đặng Tiểu Bình vừa mới được phục hồi. “Bây giờ, mời một quân sư, tên là Đặng Tiểu Bình. Ra
một thông báo làm ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Quân ủy, Bộ Chính trị quản lý tất cả Đảng,
chính quyền, quân đội, dân chúng, học sinh, Đông Nam Tây Bắc giữa. Tôi muốn Bộ Chính trị
thêm một Tổng thư ký, đồng chí không cần danh nghĩa này, vậy thì làm Tham mưu trưởng vậy”.
Các ủy viên Bộ Chính trị lặng lẽ ngồi nghe, từ nét mặt của họ, hình như không thấy có
biểu hiện gì khác nhau về quyết định mà Mao Trạch Đông vừa công bố, nhưng trong lòng họ thì
có người vỗ tay thích thú, có người lại giậm chân tức giận.
“Bây giờ chúng ta mời một Tham mưu trưởng. Về đồng chí này, có một số người sợ
đồng chí ấy, nhưng đồng chí ấy làm việc tương đối quyết đoán. Cuộc đời của đồng chí ấy đại
khái là ba chìm bảy nổi. Là cấp trên của các đồng chí, tôi đã mời về. Bộ Chính trị đã mời về,
không phải là một mình tôi mời về”.
Mao Trạch Đông lại quay người nói với Đặng Tiểu Bình: “Đồng chí thế nào, người ta hơi
sợ đồng chí, tôi tặng đồng chí hai câu, trong nhu có cương, trong tơ mềm phải có kim nhọn, bề
ngoài mềm mỏng một chút, bên trong là công ty gang thép. Khuyết điểm trước đây sửa chữa dần
dần”.
Câu này chẳng thà nói là phê bình còn hơn nói là ca ngợi.
Mao Trạch Đông nói chuyện thường là mạn đàm, đề tài câu chuyện rất rộng, nhưng luôn
luôn quán xuyến quan điểm và tư tưởng mà ông muốn nói rõ. Bây giờ ông lại đổi sang đề tài
khác.
“Bây giờ nhiều người coi thường đoàn nhi đồng, tôi cũng từ đoàn nhi đồng đến, các đồng
chí cũng thế”. Mao Trạch Đông vừa nói vừa nhìn khắp lượt những người có mặt, “thời kỳ thanh
niên ấy của các đồng chí mười mấy tuổi, hai mươi mấy tuổi đã tài giỏi như thế, tôi thì không
tin”. Ông nhấn mạnh không nên coi thường lớp trẻ.
Căn cứ vào quyết định của Bộ Chính trị, Trung ương triệu tập Hội nghị tư lệnh 8 đại
quân khu chuyển đổi lẫn nhau. Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Mao Trạch Đông đã tiếp kiến toàn
thể tướng lĩnh cao cấp tham gia hội nghị.
Mao Trạch Đông ngồi giữa thư phòng, ngồi bên trái là Tổng Tư lệnh Chu Đức, ngồi bên
phải là Đặng Tiểu Bình vừa tham gia công tác quân ủy, Chu Ân Lai, Giang Thanh, v.v... và mấy
ủy viên Bộ Chính trị lần lượt đứng sau phía bên phải Mao Trạch Đông. Vương Hải Dung đứng
phía sau bên trái làm “phiên dịch” cho Mao Trạch Đông, dịch những câu phương ngôn ra tiếng
phổ thông.
Cuộc tiếp kiến bắt đầu, Mao Trạch Đông vỗ vai Chu Đức: “Đây là vị Tư lệnh giỏi, đây là
vị Tư lệnh đỏ của chúng ta, không phải là Tư lệnh đen”.
Sau khi Mao Trạch Đông nói mấy câu ngắn gọn, liền nắm tay trò chuyện với bốn vị
tướng lĩnh cao cấp Tiêu Kình Quang, Trần Sĩ Củ, Điền Duy Tân và Mã Ninh.
Người thứ nhất là Đại tướng Tiêu Kình Quang, Tư lệnh Hải quân, Mao Trạch Đông bắt
tay Tiêu Kình Quang hỏi: “Khỏe không?”
Khi bắt tay Thượng tướng Trần Sĩ Củ, Mao Trạch Đông hỏi: “Sức khỏe thế nào”. Trần Sĩ
Củ đứng nghiêm đáp: “Nhờ phúc của Chủ tịch, sức khỏe vẫn tốt”.
“Những người từ tỉnh Cương Sơn về không còn nhiều nữa”. Mao Trạch Đông cảm thán.
Người thứ ba Mao Trạch Đông bắt tay là Thiếu tướng Điền Duy Tân Phó Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị.
Mao Trạch Đông hỏi: “Đồng chí Điền Duy Tân, đồng chí là người ở đâu?”
“Người Đông A, Sơn Đông”. Điền Duy Tân đáp.
“Tào Thực chôn ở chỗ nào?” Mao Trạch Đông lại hỏi.
“Ngư Sơn ạ!” Điền Duy Tân vừa trả lời, vừa nghĩ Chủ tịch có chuẩn bị!
Mao Trạch Đông lại hỏi: “Bên trái có cái hồ, là hồ gì?”
Điền Duy Tân ngẫm nghĩ đáp: “A, nói đến hồ, thì cách Ngư Sơn còn xa, là hồ Đông Bình
ạ!”
“Ồ, vậy thì đúng rồi!” Mao Trạch Đông hỏi thử xong, lại chuyển sang ý khác: “Tổng cục
Chính trị sẽ giao cho đồng chí phụ trách!”.
Nghe Mao Trạch Đông nói, Điền Duy Tân không có một chút chuẩn bị nào, cảm thấy rất
đột ngột. Có điều ông vẫn nhanh chóng có phản ứng: “Đồng chí Đức Sinh đi rồi, Tổng cục
Chính trị chỉ còn một mình tôi là Phó Chủ nhiệm, để tôi tiếp tục ở lại công tác ở Tổng cục Chính
trị là cần thiết. Xin Chủ tịch cử chủ nhiệm”. “Không, đồng chí sẽ phụ trách!” Mao Trạch Đông
nói với một giọng rất rõ ràng.
Điền Duy Tân nói: “Quá trình công tác và kinh nghiệm của tôi đều không đủ, vẫn mong
Chủ tịch cử một chủ nhiệm!”.
Mao Trạch Đông không trả lời nữa, bắt đầu bắt tay và nói chuyện với vị tướng thứ tư, Tư
lệnh Không quân Mã Ninh.
Sau khi nói chuyện một cách dí dỏm với Mã Ninh, Mao Trạch Đông lại một lần nữa bắt
đầu nói chuyện với mọi người. Ông hỏi Hứa Thế Hữu ngồi ở hàng đầu: “Tôi bảo đồng chí đọc
“Hồng Lâu mộng”, đồng chí đã đọc chưa?”
“Đọc rồi ạ!” - Hứa Thế Hữu trả lời rất dứt khoát.
“Đọc mấy lần rồi?”
“Đọc một lần ạ!”
“Một lần chưa đủ, phải đọc ba lần”. Mao Trạch Đông thuận miệng đọc một đoạn dài
trong Chương thứ nhất của “Hồng Lâu mộng”.
Từ khi khi Mao Trạch Đông yêu cầu Hứa Thế Hữu đọc “Hồng Lâu mộng”, hầu như các
tướng lĩnh có mặt đều đã đọc bộ tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng này. Nhưng, bất kể là người công
tác quân sự, hay người công tác chính trị, chẳng có ai có thể đọc một đoạn dài trong “Hồng Lâu
mộng”. Vậy mà Mao Trạch Đông đã 80 tuổi vẫn đọc thuộc một đoạn dài trong “Hồng Lâu
mộng”, làm cho các tướng lĩnh ai ai cũng phải thán phục.
Đọc xong “Hồng Lâu mộng” Mao Trạch Đông còn bảo Hứa Thế Hữu học Chu Bột. Chu
Bột là một danh tướng dưới quyền của Lưu Bang trong những năm đầu thời Tây Hán là cột trụ
diệt Lữ Hậu giữ yến cho họ Lưu sau khi Lưu Bang chết.
Sáng hôm sau, hội nghị chia tổ thảo luận.
Điền Duy Tân được chia vào tổ có Chu Ân Lai. Tham gia thảo luận ở tổ này có Kỷ Đăng
Khuê cùng Tư lệnh và Chính ủy ba đại quân khu Bắc Kinh, Nam Kinh, Thẩm Dương cùng với
Đường Văn Sinh, Vương Hải Dung và Mao Viễn Tân v. v...
Khi thảo luận kết thúc, Kỷ Đăng Khuê ủy viên Bộ Chính trị chủ quản công tác tổ chức
lúc ấy hỏi Chu Ân Lai: “Mệnh lệnh viết thế nào?” Chu Ân Lai chỉ vào Điền Duy Tân: “Đồng chí
hỏi Điền Duy Tân”. Nói xong đi ngay.
Điền Duy Tân bảo: “Tôi cũng chưa trải qua việc chuyển đổi tư lệnh các đại quân khu”.
“Vậy sáng mai hội ý ở phòng Hà Bắc”. Kỷ Đăng Khuê nói.
Sáng hôm sau, Kỷ Đăng Khuê, Quách Ngọc Phong (Trưởng ban Tổ chức Trung ương
Đảng), Điền Duy Tân v.v… đến phòng Hà Bắc tại Đại lễ đường Nhân dân khởi thảo mệnh lệnh
chuyển đổi các tư lệnh 8 đại quân khu.
Buổi chiều hôm ấy, Bộ Chính trị họp thảo luận việc bổ nhiệm và miễn nhiệm. Mặc dù
trước đó Mao Trạch Đông đã tỏ thái độ. Chu Ân Lai chủ trì công việc hằng ngày của Bộ Chính
trị và Diệp Kiếm Anh chủ trì công tác Quân ủy Trung ương đều đã ủng hộ Điền Duy Tân giữ
chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị tại hội nghị. Nhưng Giang Thanh và đồng bọn kiên quyết
phản đối, đồng thời đề cử Trương Xuân Kiều là ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị làm Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị. Ngày 5 tháng 1 năm 1975, Văn kiện số 1 (1975) của “Trung ương Đảng bổ
nhiệm Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tham mưu trưởng, bổ
nhiệm Trương Xuân Kiều làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Chương II
CUỘC CHIẾN SỐNG MÁI
1
Chu Ân Lai biến mất, Mao Trạch Đông trở mặt
Cuộc gặp đặc biệt làm Trương, Vương hớn hở vui mừng
3. Hai ống cùng một lúc thổi gió vào hai tai Mao Trạch Đông
Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn như trong không
khí căng thẳng, nghiêm trọng của một cuộc quyết chiến sắp đến, đã nghiên cứu phương án hành
động của bước tiếp theo. Địa điểm tại lầu số 17 Điếu Ngư Đài.
Bốn người nhất trí cho rằng, cần phải tranh thủ sự ủng hộ của Mao Trạch Đông. Vương
Hồng Văn nhanh chóng về Trường Sa, báo cáo tình hình với Mao Trạch Đông. Ngày hôm sau,
tức ngày 18 tháng 10, Vương Hồng Văn đáp chuyên cơ đến Trường Sa. Ngay tối hôm ấy Mao
Trạch Đông đã tiếp kiến anh ta.
Khi báo cáo tình hình trù bị Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4, Vương Hồng
Văn đã báo cáo với Mao Trạch Đông:
“Thủ tướng tuy bị bệnh nằm viện, nhưng vẫn bận rộn gọi người đến nói chuyện tới nửa
đêm. Hầu như ngày nào cũng có người đến. Thường xuyên đến chỗ Thủ tướng có các đồng chí
Tiểu Bình, Kiếm Anh, Tiên Niệm v. v...”
Mao Trạch Đông lặng lẽ lắng nghe. Vương Hồng Văn nói tiếp: “Các đồng chí này qua lại
trao đổi với nhau liên tục lúc này có liên quan đến nhân sự của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn
quốc khóa 4”
Mao Trạch Đông vẫn im lặng không nói.
“Bắc Kinh hiện nay rất đậm mùi vị của Hội nghị Lư Sơn!”
Câu nói này của Vương Hồng Văn là nét bút điểm nhãn. Nếu Mao Trạch Đông coi trọng
đồng thời ủng hộ báo cáo của anh ta, liên hệ sự kiện với Hội nghị Lư Sơn tức Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 2 khóa 9, thì tính chất vấn đề sẽ rất rõ ràng.
Vương Hồng Văn chờ đợi sự ủng hộ của Mao Trạch Đông. Nhưng sự hy vọng của anh ta
tan vỡ.
Cùng ngày hôm đó, tại nhà số 10 ở Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh, Giang Thanh gọi Vương
Hải Dung và Đường Văn Sinh đến nói chuyện.
Vương, Đường như hai chị em gái, quần áo, trang điểm đến vóc dáng đều na ná như nhau
luôn mặc quần áo giản dị, đi giày vải mũi vuông, tóc cắt ngắn đến tai, đeo kính, hình tượng của
những trí thức điển hình. Hai người một người là cháu gái họ gọi Mao Trạch Đông bằng ông,
một người là con gái của Đường Minh Chiếu một quan chức của Bộ Ngoại giao. Chức vụ của họ
là phiên dịch của Bộ Ngoại giao, nhưng có địa vị đặc biệt trong tầng lớp lãnh đạo cao cấp của
Đảng. Họ không chỉ làm phiên dịch khi Mao Trạch Đông tiếp khách nước ngoài, mà còn là
khách thường xuyên trong nhà Chủ tịch Đảng. Vào những năm cuối đời của Mao Trạch Đông,
nhất là giai đoạn cuối của đại cách mạng văn hóa, khách trong nhà ông không nhiều. Các nhà
lãnh đạo khác có lúc hàng nửa năm hoặc vài tháng cũng khó được gặp mặt Mao một lần, chỉ khi
ông triệu tập Bộ Chính trị hoặc tiếp khách nước ngoài mới gặp mặt các ủy viên Bộ Chính trị
hoặc những người lãnh đạo khác. Mao Trạch Đông rất tín nhiệm Vương và Đường, muốn hai cô
gái trẻ này tham gia Hội nghị Bộ Chính trị sau đó trực tiếp nghe báo cáo của hai người về tình
hình trong nội bộ của Bộ Chính trị cùng những phản ánh tình hình các mặt trong nước. Có một
số văn kiện phát cho ủy viên Bộ Chính trị đọc đã ghi cả tên của hai người. Mao Trạch Đông biết
nội bộ Bộ Chính trị chia làm hai trận tuyến, tình hình mà hai phía báo cáo ông không dễ dàng tin
ngay, ông cần tình hình mà ông cho là chân thực. Trong điều kiện đặc biệt này, Vương và Đường
trở thành cầu nối đặc biệt giữa Mao Trạch Đông và các ủy viên Bộ Chính trị khác. Mao Trạch
Đông không chỉ có được những tình hình mà ông muốn tìm hiểu qua hai cô gái trẻ này, mà chỉ
thị của ông có lúc phải thông qua hai người này truyền đạt đến Bộ Chính trị hoặc những người
lãnh đạo khác trong Trung ương và Quốc vụ viện.
Hôm nay, Giang Thanh mời hai cô này đến, là muốn họ tâu với Mao Trạch Đông về Chu
và Đặng.
Giang Thanh đã nói với Vương và Đường những ý sau:
Mao Trạch Đông sắp tiếp kiến khách nước ngoài ở Trường Sa, có một tình hình quan
trọng nhờ các cô khi đi cùng khách nước ngoài thì báo cáo với Chủ tịch. Tối ngày 17 tháng 10,
Bộ Chính trị họp thảo luận vấn đề “tàu Phong Khánh”, Tiểu Bình và tôi đã tranh cãi với nhau,
sau đó ông ta khinh khỉnh bỏ đi, làm cho Hội nghị của Bộ Chính trị không tiếp tục họp được.
Các đồng chí lãnh đạo của Quốc vụ viện thường xuyên lấy cớ bàn công việc để xâu chuỗi. Thủ
tướng đang nằm viện cũng rất bận, không hoàn toàn là dưỡng bệnh. Tiểu Bình và Thủ tướng,
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh thường xuyên ở bên nhau. Thủ tướng là kẻ ủng hộ sau lưng.
“Việc này tôi nói không thật rõ ràng, đợi đến tối tôi mời Hồng Văn, Xuân Kiều, Văn
Nguyên cùng tới, sẽ giới thiệu thêm tình hình”. Giang Thanh nói.
Bà ta còn tiết lộ, Vương Hồng Văn sẽ báo cáo việc này với Mao Trạch Đông.
Ngay tối hôm ấy khi Vương Hải Dung, Đường Văn Sinh đến ngôi nhà số 17 Điếu Ngư
Đài theo sự sắp xếp của Giang Thanh, thì Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên
đã đợi họ ở đó rồi. Trước tiên Giang Thanh để Trương Xuân Kiều “giới thiệu tình hình trong
nước hiện nay”.
Trước hết Trương Xuân Kiều nói về vấn đề thu chi tài chính trong nước và việc xuất hiện
nhập siêu trong ngoại thương, rằng đó là do Quốc vụ viện “sùng bái phương Tây” gây nên.
“Trong vấn đề “tàu Phong Khánh”, Tiểu Bình nhảy ra không phải là ngẫu nhiên, trước
đại cách mạng văn hóa ông ta đã chủ trương “đóng tàu không bằng mua tàu, mua tàu không bằng
thuê tàu”. Trương Xuân Kiều nói.
Ý kiến về tính chất của vấn đề, Trương Xuân Kiều so sánh Hội nghị Bộ Chính trị họp vào
tối ngày 17 tháng 10 với “dòng nước ngược tháng Hai”.
Ngày hôm sau, Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh đi bệnh viện, báo cáo tình hình
việc Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên nói chuyện với họ cho Chu Ân Lai
biết.
Chu Ân Lai nghe xong báo cáo, trầm ngâm một lúc, nói: “Tôi đã biết vấn đề của Hội nghị
Bộ Chính trị. Những tình hình mà tôi được biết, không giống những gì Giang Thanh đã nói, mà
là bốn người họ đã sắp sẵn kế hoạch để chỉnh Tiểu Bình, họ đã nhiều lần làm như thế với Tiểu
Bình, Tiểu Bình đã nhịn họ rất lâu rồi”. Chu Ân Lai biết rõ sự việc rắc rối trong Hội nghị Bộ
Chính trị ngày 17 tháng 10, đã làm cho cuộc đấu tranh rõ ràng hơn, tiêu điểm của cuộc tranh luận
là việc sắp xếp nhân sự trong Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4. Vấn đề đã được đưa
đến chỗ Mao Trạch Đông, giải quyết thế nào phải xem thái độ của Mao Trạch Đông.
Cuối cùng, Chu Ân Lai nói với Vương và Đường: “Tôi đang làm việc, định tìm hiểu tình
hình thêm nữa, rồi giải quyết vấn đề dần dần”. Ngày 20 tháng 10, Vương Hải Dung và Đường
Văn Sinh đến Trường Sa báo cáo với Mao Trạch Đông tình hình xảy ra mấy ngày nay ở Bắc
Kinh, đồng thời đã bày tỏ sự bất mãn đối với Giang Thanh và mấy người... Vương và Đường đi
theo Thủ tướng Đan Mạch Ha-đơ-lin sang thăm Trung Quốc đến Trường Sa.
Mao Trạch Đông đã chỉ thị cho Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh như sau: Vì Thủ
tướng vẫn là Thủ tướng, vấn đề công tác trù bị và sắp xếp nhân sự của Đại hội Đại biểu nhân dân
toàn quốc khoá 4 phải do Thủ tướng và Vương Hồng Văn cùng giải quyết, đề nghị Đặng Tiểu
Bình giữ chức Phó Chủ tịch Đảng, Phó Thủ tướng thứ nhất, Phó Chủ tịch Quân ủy kiêm Tổng
Tham mưu trưởng, chuyển lời tới Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên bảo
họ không nên theo sau Giang Thanh để phê duyệt.
Thái độ của Mao Trạch Đông đã làm cho đợt tấn công này do Giang I'hanh và đồng bọn
gây ra bị thất bại nghiêm trọng.
1. “Bọn bốn tên” đột nhiên cung kính đối với Chu Ân Lai
Vương Hồng Văn đi Trường Sa kể tội, bị Mao Trạch Đông phê bình. Đến cuối năm,
Vương Hồng Văn lại cùng Chu Ân Lai đến Trường Sa báo cáo với Mao Trạch Đông. Vì ngủ
quên đến chậm lại bị Mao Trạch Đông phê bình. Sau khi Mao Trạch Đông nghe xong báo cáo
của Chu Ân Lai. Ngay tại chỗ phê chuẩn Chu Ân Lai làm Thủ tướng nội các, giấc mơ của “bọn
bốn tên” mưu toan để Giang Thanh tổ chức nội các hoàn toàn tan vỡ.
Bị đả kích như vậy, nhưng Vương Hồng Văn không những không suy nghĩ hối cải, trái
lại trong lòng lại nảy ra một kế, chuẩn bị hạ độc thủ đối với Chu Ân Lai. Sau khi về đến Bắc
Kinh, anh ta lập tức đến ngay Điếu Ngư Đài, báo cáo với Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu
Văn Nguyên về chuyến đi Trường Sa. Giang Thanh và đồng bọn nghe thấy Đại hội Đại biểu
nhân dân toàn quốc khóa 4 còn do Chu Ân Lai tổ chức nội các, Đặng Tiểu Bình chính thức làm
Phó Thủ tướng thứ nhất, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tham mưu trưởng. Quốc
vụ viện ngoài Trương Xuân Kiều làm Phó Thủ tướng ra, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên và
Vương Hồng Văn đều không có liên quan, không nén được đã nhảy dựng lên. Vương Hồng Văn
nói một cách bí hiểm: “Chúng ta nên tôn trọng quyết định của Chủ tịch, tích cực ủng hộ công tác
của Thủ tướng. Ở Trường Sa lần này, Chủ tịch đã nói, muốn chúng ta không nên theo Giang
Thanh phê gì cả. Vậy chúng ta không phê nữa, xin mời Thủ tướng phê, như vậy là được”.
Trương Xuân Kiều cười, gật gật đầu nói: “Rất hay, theo tôi Hồng Văn phải đến chỗ Thủ tướng
để thỉnh thị cho nhiều, bất kể việc to việc nhỏ đều phải xin ý kiến. Còn tôi theo chỉ thị của Chủ
tịch lần này sẽ học lý luận về chuyên chính vô sản. Văn Nguyên thì nắm việc phê phán chủ nghĩa
kinh nghiệm”. Giang Thanh vỗ tay ca ngợi: “Xuân Kiều nhiều mưu kế thật, anh chính là Tiêu Hà
và Trần Bình của tôi”. Cả bốn người cùng cười ha hả, họ chia nhau thực hiện...
Sau khi Chu Ân Lai từ Trường Sa trở về, chủ trì việc triệu tập Đại hội Đại biểu nhân dân
toàn quốc khóa 4, lúc này đã là tháng 1 năm 1975. Ngày 13 tháng 1, Đại hội Đại biểu nhân dân
toàn quốc khóa 4 khai mạc và bế mạc vào ngày 17 tháng 1. Chu Ân Lai thay mặt Quốc vụ viện
đọc “Báo cáo công tác của Chính phủ”, Trương Xuân Kiều đọc “Báo cáo sửa đổi Hiến pháp”.
Đại hội bầu Chu Đức làm ủy viên trưởng ủy ban thường vụ khóa 4, thông qua danh sách đề cử
vào Quốc vụ viện, bổ nhiệm Chu Ân Lai làm Thủ tướng. Phó Thủ tướng và đại bộ phận Bộ
trưởng đều do các đồng chí cũ đảm nhiệm, “bọn bốn tên” vào Quốc vụ viện chỉ có một mình
Trương Xuân Kiều (phó Thủ tướng). Ngoài ra có thân tín của Giang Thanh là Vu Hội Vmh giữ
chức Bộ trưởng Văn hóa chỉ có vậy mà thôi. Một bộ có tính chất then chốt là Bộ Quốc phòng thì
do Diệp Kiếm Anh đảm nhiệm, ngoài ra có bộ quan trọng là Bộ Công an, thì do nguyên Bí thư
Tỉnh ủy Hồ Nam, ủy viên Bộ Chính trị khóa 10 mới được điều lên Trung ương là Hoa Quốc
Phong làm Bộ trưởng, đồng thời Hoa Quốc Phong còn đảm nhiệm chức Phó Thủ tướng Quốc vụ
viện.
Trong báo cáo công tác của Chính phủ, Chu Ân Lai trịnh trọng tuyên bố đến cuối thế kỷ
đất nước phải thực hiện 4 hiện đại hóa: Công nghiệp, nông nghiệp, khoa học Kỹ thuật và quốc
phòng! Các đại biểu vỗ tay nhiệt liệt biểu thị ý nguyện của 8 trăm triệu nhân dân Trung Quốc.
Có lẽ vì mệt, gần đây Chu Ân Lai luôn luôn cảm thấy tiêu hóa không tốt, đại tiện khó
khăn. Sau khi Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 kết thúc, ông lại vào Viện 301, bác sĩ
cho kiểm tra có chuẩn bị, các bộ phận khác không có gì khác thường, nhưng trong đại tràng gần
vị trí của gan phát hiện một khối u bằng quả hạch đào. Nếu khối u này phát triển sẽ chèn đường
tiêu hóa.
Sau khi kiểm tra kết thúc, Chu Ân Lai hỏi bác sĩ: “Các đồng chí phát hiện được cái gì?”.
Bác sĩ cúi đầu không dám trả lời. Chu Ân Lai sốt ruột nói: “Các đồng chí phải nói thật với tôi, tôi
phải sắp xếp công việc, các đồng chí cứ giấu tôi thì sẽ lỡ việc”. Bác sĩ không biết làm thế nào,
đành phải nói thật với ông. Chu Ân Lai chợt hiểu ra, vị trí này chính là vị trí ông bị bệnh sưng
gan khi vượt thảo nguyên trong cuộc trường chinh 40 năm về trước. Hồi ấy bệnh này đã khỏi,
không ngờ 40 năm sau chính nơi này lại mọc ra khối u. Nguyên nhân là do công việc quá bận
rộn, không có thời gian chữa trị tận gốc, lại thêm tức giận và mệt mỏi mà dẫn đến.
Biết nguyên nhân bị bệnh nên các bác sĩ đã quyết định mổ, nhưng sau hai lần mổ, Chu
Ân Lai rất yếu, trước tiên phải truyền dịch nếu không sẽ không chịu nổi cuộc mổ.
Các bác sĩ chuẩn bị mổ, nhưng đầu giường của Chu Ân Lai chất đầy văn kiện, Diêu Văn
Nguyên đưa đến những bài viết đầy chữ sai, nội dung chẳng đâu ra đâu cũng đưa đến cho ông
sửa chữa. Chu Ân Lai ra lệnh cho thư ký: “Nói với họ rằng, từ nay về sau văn kiện đều đưa đến
chỗ Tiểu Bình, bây giờ Tiểu Bình đã gánh vác trách nhiệm rồi”.
Chu Ân Lai đã có ý kiến nên “bọn bốn tên” không dám đưa văn kiện đến chỗ Chu Ân Lai
nữa, nhưng họ lại sợ Đặng Tiểu Bình thấp lùn khỏe mạnh và thâm trầm, không dám làm khó dễ
đối với ông, Vương Hồng Văn muốn lợi dụng việc Chu Ân Lai bị ốm nặng thực hiện âm mưu
nhưng đã đổ bể.
Nhưng Vương Hồng Văn không chịu cam tâm, sau khi bàn bạc với Giang Thanh động
một tí là gọi điện thoại đến bệnh viện, yêu cầu Chu Ân Lai đích thân chủ trì Hội nghị. Chu Ân
Lai biết là họ cố ý gây rối, nhưng ông muốn trước khi chết giải quyết một số vấn đề, để cho
Đặng Tiểu Bình làm việc dễ dàng hơn, nên đã rút kim truyền dịch đi dự hội nghị.
Hôm ấy, Vương Hồng Văn lại gọi điện thoại đến yêu cầu Chu Ân Lai lậptlức tham gia
một cuộc họp do Giang Thanh chủ trì, các bác sĩ trả lời, Thủ tướng đang truyền dịch, Vương
Hồng Văn ngang ngược hạ lệnh: “Truyền dịch cũng phải đến?” Chu Ân Lai kiên quyết rút kim
truyền nói với thư ký: “Chuẩn bị xe”.
Đến phòng họp, chỉ thấy '“bọn bốn tên” cười cười nói nói, chẳng có việc gì để bàn, Chu
Ân Lai quay đầu đi ra. Giang Thanh hỏi với theo: “Thủ tướng, chúng tôi đã phê Lâm phê Khổng
hồi lâu rồi, thái độ của đồng chí sao vậy?” Chu Ân Lai lạnh lùng đáp: “Thời kỳ Phong trào Ngũ
Tứ chúng tôi đã nêu ra khẩu hiệu đánh đổ cửa hiệu Khổng Gia rồi!”.
Một câu thôi đã làm Giang Thanh tắc nghẹn không nói được câu nào. Sau khi Đặng Tiểu
Bình biết chuyện, lập tức báo cáo với Mao Trạch Đông những hoạt động của “bọn bốn tên”,
đồng thời hạ lệnh ủy viên Bộ Chính trị không được gây rối việc dưỡng bệnh của Chu Ân Lai
nữa, cần họp gì thì sẽ do ông thông báo cho Chu Ân Lai. Giang Thanh sợ Đặng Tiểu Bình nên
cũng không dám tùy tiện đến chỗ Chu Ân Lai gây rối nữa.
Giang Thanh bị Chu Ân Lai đốp cho một câu, muốn ăn vạ, nhưng Chu Ân Lai đã lên xe
đi. Bà ta liền diễn lại trò cũ, kêu khóc ầm ĩ, Diêu Văn Nguyên ngạc nhiên nói: “Trước đây ông ta
đều cúi đầu nhẫn nhục, rất ít đốp chát người khác sao hôm nay lại ghê gớm thế?” Vương Hồng
Văn hí hửng: “Các anh không biết đấy thôi, đã phát hiện khối u ở vùng gan của ông ta, các bác sĩ
nói là còn độ một năm nữa”. Diêu Văn Nguyên chợt hiểu ra: “Chẳng trách, nổi giận đùng đùng”.
Giang Thanh lại gầm lên “73, 84 rồi mà Diêm vương còn không mời họ đi”. Trương Xuân Kiều
xem đồng hồ, cười: “Trong “bọn bốn tên” chúng ta, tôi phải rút khỏi cuộc họp này thôi, để đến
giảng cho các cán bộ Cục Chính trị của các đơn vị lớn trong toàn quân về vấn đề chuyên chính
toàn diện của giai cấp vô sản”. Giang Thanh dặn: “Xuân Kiều, anh nên nói kỹ, không áp đảo thì
chúng không biết sự lợi hại của bà già này đâu”. Trương Xuân Kiều cầm cặp da nói: “Nhiệm vụ
này tôi đảm bảo rồi. Văn Nguyên, việc phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm của anh nên nhanh
chóng bắt đầu đi!”. Giang Thanh oang oang: “Đúng, bắt đầu nhanh lên, Thủ tướng là đại biểu
của chủ nghĩa kinh nghiệm”.
2. Sự chỉnh đốn toàn diện của Đặng Tiểu Bình
Sở dĩ “bọn bốn tên” tức tối, gây khó dễ khắp nơi, hạ độc thủ là do sự phát triển của tình
hình quá bất lợi đối với họ.
Việc triệu tập Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 chứng tỏ sự nỗ lực của thế lực
đúng đắn trong Đảng, muốn làm cho đất nước đi đúng đường đã có kết quả bước đầu.
Ê kíp lãnh đạo trong Quốc vụ viện được sản sinh ra từ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn
quốc khóa 4 được sắp xếp: Thủ tướng vẫn là Chu Ân Lai, Phó Thủ tướng: Đặng Tiểu Bình,
Trương Xuân Kiều, Lý Tiên Niệm, Trần Tích Liên, Kỷ Đăng Khuê, Hoa Quốc Phong, Trần Vĩnh
Quý, Ngô Quế Hiền, Vương Chấn, Dư Thu Lý, Cốc Mục, Tôn Kiện. Từ kết cấu này, có thể thấy,
cuộc đọ sức trong việc tổ chức nội các, âm mưu cướp quyền của “bọn bốn tên” đã thất bại.
Từ đó về sau, Chu Ân Lai bệnh nặng, Đặng Tiểu Bình làm Quyền Thủ tướng chủ trì công
tác của Quốc vụ viện, đồng thời trên thực tế chủ trì công việc hằng ngày của Trung ương Đảng.
Mao Mao (Đặng Dung) con gái của Đặng Tiểu Bình trong cuốn sách “Những ngày ở
Giang Tây” đã nói: “Trong thời gian ở Giang Tây, cha tôi có một thói quen, mỗi ngày trước buổi
hoàng hôn, luôn luôn đi bộ chung quanh mảnh sân nhỏ bé trong nhà chúng tôi rất có quy luật ông
trầm ngâm suy nghĩ không nói năng gì, bước đi rất nhanh... chính trong mỗi bước đi ấy, tư tưởng
của ông, niềm tin của ông, ý chí của ông càng ngày càng được xác định rõ, càng kiên định vững
vàng hơn theo từng bước, sự hàm súc và đi tới chín muồi của những tư tưởng này có phải là đã
chuẩn bị đầy đủ nhất cho cuộc đấu tranh gay gắt hơn sau này hay không?”. Mao Trạch Đông biết
đáp án là khẳng định.
Từ tháng 1 năm 1975, Đặng Tiểu Bình biết rõ là núi có hổ, nhưng ông lại đi vào nơi có
hổ ấy. Với một khí thế anh hùng không biết sợ, ông nắm chắc công tác chấn chỉnh toàn diện một
cách kiên định theo từng bước. Năm ấy nền kinh tế quốc dân từ đình trệ giảm sút nhanh chóng
chuyển hướng đi lên. Tổng sản lượng công nông nghiệp cả năm là 450,4 tỷ Nhân dân tệ, so với
năm trước (ở dưới cũng vậy) tăng trưởng 11,9%. Trong đó Tổng sản lượng công nghiệp chiếm
321,9 tỷ Nhân dân tệ, tăng trưởng 15,1%, Tổng sản lượng nông nghiệp 128,5 tỷ Nhân dân tệ,
tăng trưởng 4,6%. Sản lượng sản phẩm công nông nghiệp: lương thực 284,5 triệu tấn, tăng
trưởng 3,4%, bông 2,381 triệu tấn, giảm 3,4%; thép 23,09 triệu tấn, tăng trưởng 13,2%, than thô
482 triệu tấn, tăng trưởng 16,7%; dầu thô 77,06 triệu tấn, tăng trưởng 18,8%, lượng điện 195,8 tỷ
kw/h tăng trưởng 16%. Tổng số đầu tư xây dựng cơ bản 40,932 tỷ Nhân dân tệ, tăng trưởng
17,7%, lượng vận tải đường sắt 867 triệu tấn, tăng trưởng 12,9%. Tổng số bán lẻ của hàng hóa
xã hội 127,11 tỷ Nhân dân tệ, tăng trưởng 12,9%. Tổng thu nhập tài chính quốc gia 81,56 tỷ
nhân dân tệ, tổng chi là 82,09 tỷ Nhân dân tệ, thâm hụt 530 triệu Nhân dân tệ.
Điều quan trọng hơn là, chấn chỉnh toàn diện là một cuộc đấu tranh quan trọng của Đảng
và nhân dân chống lại sai lầm “tả” khuynh và “bọn bốn tên”, đã thức tỉnh sự giác ngộ chưa từng
có trong nhân dân cả nước đã đẩy nhanh tiến trình đi tới diệt vong của “bọn bốn tên”. Về một ý
nghĩa nào đó mà nói, nếu không có sự chấn chỉnh toàn diện năm 1975 thì sẽ không có “Phong
trào ngày 5 tháng 4” vĩ đại năm 1976. Chấn chỉnh toàn diện lại là người dẫn đường cho cuộc đấu
tranh vĩ đại dẹp loạn ổn định trật tự mà Đảng tiến hành sau này, là sự chuẩn bị quan trọng về các
mặt tư tưởng và tổ chức v. v...
Dưới sự chủ trì của Đặng Tiểu Bình, từ ngày 10 tháng 2, Quốc vụ viện lần lượt triệu tập
một loạt hội nghị như Hội nghị Bí thư công nghiệp giải quyết vấn đề đường sắt trong cả nước.
Tọa đàm công nghiệp gang thép, Hội nghị các xí nghiệp trọng điểm của công nghiệp quốc
phòng, Hội nghị Bí thư Tỉnh ủy 22 tỉnh miền Nam và Hội nghị Bí thư một số địa khu (đơn vị
hành chính lớn hơn huyện nhỏ hơn tỉnh - địa khu thường gồm một số huyện - N.D.) v. v... trong
các bài phát biểu hội nghị này, Đặng Tiểu Bình đã đề ra tư tưởng chấn chỉnh toàn diện, với các
điểm chính là:
1) Phải đưa nền kinh tế quốc dân đi lên. “… Tính từ hôm nay còn 25 năm nữa, phải xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hiện đại,
quốc phòng hiện đại và khoa học kỹ thuật hiện đại. Toàn Đảng toàn dân đều phải phấn đấu để
thực hiện mục tiêu vĩ đại này. Đó chính là toàn cục. “Trong nước có rất nhiều việc phải làm, đặc
biệt là phải đưa nền kinh tế quốc dân đi lên”.
2) Các mặt trong cả nước tồn tại vấn đề chấn chỉnh. Công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, tài chính mậu dịch, văn hóa giáo dục, khoa học kỹ thuật đều phải chấn chỉnh, cốt lõi của
việc chấn chỉnh là việc chấn chỉnh Đảng, mấu chốt là ban lãnh đạo. Vấn đề hiện nay là có một số
ban lãnh đạo “mềm”, “lười”, “rời rạc”. Qua chấn chỉnh phải xây dựng một ban lãnh đạo vững
mạnh đặt chữ “dám” lên hàng đầu.
3) Phải ổn định đoàn kết. Phải kiên quyết đấu tranh chống bè phái. Những người gây bè
phái ít nhiều đều có dã tâm. Tranh quyền đoạt lợi, giở âm mưu quỷ kế, làm cho xã hội không ổn
định, phải giành từng tấc đất, không nhường một bước đối với bè phái, đối với người gây bè
phái, cần điều đi thì điều đi, cần phê bình thì phê bình, cần đấu tranh thì đấu tranh.
4) Trong chấn chỉnh phải thực hiện chính sách giải phóng nhanh và sử dụng các cán bộ
cũ, phát huy tác dụng của cán bộ cũ. Cán bộ trung niên có khá nhiều kinh nghiệm, phải phát huy
tác dụng của họ. Đề bạt cán bộ thanh niên phải theo từng bậc một, nếu không thì không phải là
chăm sóc họ. Đối với những người gương mẫu lao động, công nhân cũ phải chú ý thực hiện
chính sách. Phải phát huy tác dụng của trí thức, không nên gọi họ là bọn xấu xa.
5) Phải nắm chế độ quy tắc. Đó là điều cần thiết để bảo đảm chất lượng sản phẩm, không
thể chỉ quản, chặn, ép. Sau khi chấn chỉnh công nghiệp, lợi nhuận vẫn phải nắm. Vừa phải nắm
chính trị, vừa phải nắm lợi nhuận.
6) Phải coi trọng giáo dục. Giáo dục nhà trường phải luôn yêu cầu lấy học là chính, trung
tâm là giáo dục, không thể hạ thấp toàn bộ trình độ giáo dục hiện đại hóa. Phải nâng cao địa vị
của người thầy.
7) Phải phát triển tốt khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất, khoa
học lạc hậu sẽ kéo lùi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
8) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tác phong tốt đẹp của Đảng. “Thực hiện
tốt việc ổn định đoàn kết, phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, cần phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, phải phát huy tác phong tốt đẹp của đảng ta và giữ vững mãi mãi. Đó là một vấn
đề vô cùng quan trọng. “Không có sự lãnh đạo của Đảng sao được? Đảng nói mà không kết quả
sao được?”.
9) Học tập trước tác Mao Trạch Đông phải học thực chất tinh thần. Phải chống lại cách
làm sai lầm của Lâm Bưu dung tục hóa tư tưởng Mao Trạch Đông, cắt rời tư tưởng Mao Trạch
Đông. “E rằng trong khá nhiều lĩnh vực tồn tại vấn đề làm thế nào để học tập, tuyên truyền, quán
triệt một cách toàn diện tư tưởng Mao Trạch Đông... chúng ta nhất định phải học tập, tuyên
truyền và thực hiện một cách toàn diện”.
Trên đây là tư tưởng chỉ đạo và phương châm chính sách đúng đắn để chấn chỉnh toàn
diện.
1
Trước lúc lìa đời Khang Sinh phun nọc độc
Đặng Tiểu Bình bị lật đổ lần thứ ba
2. Giang Thanh cử liên lạc viên đến bên cạnh Mao Trạch Đông
Chính lúc Giang Thanh hăng hái dấy lên làn sóng “Bình “Thủy Hử”“ thì bệnh của Chu
Ân Lai không thể cứu được nữa.
Ngày 7 tháng 9 năm 1975, tại bệnh viện, Chu Ân Lai tiếp Bí thư Trung ương Đảng Ru-
ma-ni I-li-na Vê-đê sơ. Đây là lần cuối cùng trong đời ông tiếp khách nước ngoài.
Chu Ân Lai nói: “Giấy mời của Mác, tôi đã nhận được rồi. Điều đó không sao cả, đó là
quy luật tự nhiên không thay đổi theo ý muốn của con người”.
Chu Ân Lai rất cảm khái nhớ lại năm xưa. “Thời gian trôi đi nhanh thật, 10 năm trước,
khi tham gia tang lễ Giooc-giơ Đô-che tại Bu-ca-rét không mặc pan-tô, tối đã đi bộ hơn bốn
tiếng đồng hồ. Bây giờ tôi có thể nói với đồng chí là chỉ bốn phút tôi cũng không đi nổi!”.
Sau lần hội kiến này, bệnh tình Chu Ân Lai nguy cấp, ngày 20 tháng 9, phải phẫu thuật
lần thứ tư, đây là lần đại phẫu thuật. Nếu xảy ra bất ngờ thì ông sẽ nằm trên bàn mổ mãi mãi
không bao giờ dậy được nữa. Ông đã ý thức được điều này, cũng ý thức được rằng Giang Thanh
đang dùng hổ dọa người. Để đề phòng hậu hoạn, trước khi vào phòng mổ, ông bảo thư ký đem
bản thảo được chỉnh lý từ băng ghi âm bài nói chuyện về chuyên đề sự kiện Ngũ Hào ngày 23
tháng 6 năm 1972 đến cho ông, ông dùng bàn tay run run ký vào trang đầu của bản thảo và còn
viết thêm: “Khi vào phòng mổ, ngày 20 tháng 9 năm 1975”. Vì bị bệnh nặng ông đã viết sót một
chữ “trước” trong câu: “Trước khi vào phòng mổ”. Trong những giờ phút như vậy, ông vẫn
không quên bản thảo cuộc nói chuyện ấy, chứng tỏ ông vô cùng lo lắng đối với Giang Thanh.
Ông biết, Giang Thanh sẽ gây chuyện sẽ bôi nhọ ông khi tung ra sự kiện Ngũ Hào.
Khi bệnh tình của Chu Ân Lai xấu đi thì bệnh của Mao Trạch Đông cũng nặng thêm. Một
mắt của Mao Trạch Đông do Đường Do Chi một bác sĩ trạc tuổi trung niên ở Khoa Mắt Bệnh
viện Quảng An Môn Bắc Kinh tiến hành phẫu thuật. Thời gian mổ, theo hồi ức của Trương Ngọc
Phượng vào trung tuần tháng 8 năm 1975, còn Lô Địch thì nói với tác giả sách này là ngày 29
tháng 7 - phải nói là hồi ức của Lô Địch chính xác hơn.
Phẫu thuật ngay tại nơi ở của Mao Trạch Đông. Khi mổ, Chu Ân Lai bất chấp bệnh tật đã
cùng Đặng Tiểu Bình ngồi chờ ở bên ngoài. Mổ rất thuận lợi. Ít lâu sau, mắt của Mao Trạch
Đông sáng trở lại.
Nhưng bệnh phế khí của Mao Trạch Đông lại chuyển thành bệnh phế tâm và ngày càng
nghiêm trọng. Việc nói năng của ông trở nên khó khăn, phát âm không rõ. Có lúc, Trương Ngọc
Phượng phải dựa vào hình dáng của đôi môi và biểu cảm để đoán rồi nói ý của ông. Nếu ông gật
đầu, chứng tỏ là đã đoán đúng, và cái ý đoán ấy liền trở thành “chỉ thị tối cao”.
Vào lúc này, tháng 9 năm 1975, bên cạnh Mao Trạch Đông có thêm một người đàn ông
khoảng hơn 30 tuổi thân thể khoẻ mạnh. Anh ta thường xuyên đến thăm Mao Trạch Đông. Ít lâu
sau, anh ta biến thành một “liên lạc viên” đặc biệt. Anh ta làm liên lạc cho Mao Trạch Đông và
Bộ Chính trị.
Người ấy là Mao Viễn Tân, cháu của Mao Trạch Đông.
Mao Viễn Tân học hết trung học, thi đỗ vào Học viện Công trình Quân sự Cáp Nhĩ Tân.
Mao Viễn Tân khỏe mạnh, đẹp trai, dáng cao lớn.
Kỳ nghỉ hè năm 1964, Mao Viễn Tân ở tại Trung Nam Hải. Mao Trạch Đông đối với anh
ta như cha với con. Mao Viễn Tân thì sùng bái Mao Trạch Đông như một ông thần thật sự. Ngày
5 tháng 7, Mao Trạch Đông nói chuyện với Mao Viễn Tân. Sau đó, Mao Viễn Tân ghi lại cuộc
nói chuyện này. Ngày 9 tháng 11 năm 1964, Bộ Giáo dục cao đẳng đã chuyển đăng “Kỷ yếu
cuộc nói chuyện của Mao Chủ tịch với Mao Viễn Tân”, từ đó Mao Viễn Tân nổi tiếng khắp cả
nước. Trong “Kỷ yếu cuộc nói chuyện” có ý kiến của Mao Trạch Đông về vấn đề giáo dục.
“Đấu tranh giai cấp là một môn học chính của các cháu. Trường của các cháu nên đến
nông thôn để thực hiện “tứ thanh”, đến nhà máy để thực hiện “ngũ phản”. Đấu tranh giai cấp mà
không biết thì sao có thể coi là tốt nghiệp đại học? Chống lại cách dạy học kiểu nhồi nhét, ngay
cả những nhà giáo dục tư sản cũng đã từ lâu nêu ra trong phong trào “Ngũ Tứ”. Vì sao chúng ta
lại không chống lại. Vấn đề cải cách giáo dục chủ yếu là vấn đề giáo viên”.
Năm 1965, Mao Viễn Tân tốt nghiệp. Theo tinh thần cuộc nói chuyện với Mao Trạch
Đông anh ta xuống đơn vị làm lính. Ít lâu sau, cách mạng văn hóa bắt đầu. Lúc ấy quy định là
những sinh viên tốt nghiệp năm 1965 có thể về trường tham gia phong trào, Mao Viễn Tân cũng
trở lại trường.
Trong cách mạng văn hóa, “Kỷ yếu cuộc nói chuyện của Mao Chủ tịch với Mao Viễn
Tân” được Hồng vệ binh in thành truyền đơn phân phát khắp nơi, thân phận đặc biệt Mao Viễn
Tân cũng được nhiều người biết đến.
Mao Viễn Tân tham gia Đoàn tạo phản đỏ của Học viện Công trình Quân sự Cáp Nhĩ
Tân và trở thành thủ lĩnh.
Năm 1968, ủy ban cách mạng tỉnh Liêu Ninh thành lập, Mao Viễn Tân được bổ nhiệm
làm Phó Chủ nhiệm. Ít lâu sau anh ta lại đảm nhiệm chức Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu rồi
Chính ủy Quân khu.
Quan hệ giữa Mao Viễn Tân và Giang Thanh rất thắm thiết, anh ta coi Giang Thanh như
mẹ đẻ và gọi Giang Thanh là mẹ. Coi bà ta là thần hộ mệnh của mình. Giang Thanh thì coi anh
ta như con trai. Mao Viễn Tân theo sát Giang Thanh về chính trị.
Ở Liêu Ninh, Mao Viễn Tân đã gây nên hai sự kiện chấn động cả nước:
Một là, vào năm 1973, khi các Trường đại học khôi phục lại việc chiêu sinh, Trương
Thiết Sinh nộp bài thi trắng lại được Mao Viễn Tân phong cho làm “anh hùng chống lại trào
lưu”, khiến Giang Thanh rất tán thưởng.
Hai là, sáng tạo ra “Kinh nghiệm Triêu Nông” “Triêu Nông” tức là Học viên Nông
nghiệp Triêu Dương (tiền thân của Học viên Nông nghiệp Thẩm Dương), thực hiện “mở cửa dạy
học”. Năm 1974, được dựng thành “Điển hình tiên tiến” của “cuộc cách mạng giáo dục” trong cả
nước.
Tháng 9 năm 1975, bệnh tình Mao Trạch Đông thêm trầm trọng, nói năng không rõ ràng,
Giang Thanh bố trí cho Mao Viễn Tân làm “liên lạc viên”, phút chốc nắm được quyền công bố
“chỉ thị tối cao”.
Mấy lần đến Bắc Kinh, Mao Viễn Tân được bác trai, bác gái chăm sóc, nên đã tự cho
mình là “Đông cung Thái tử”, kiêu ngạo ngang ngược, tưởng như là nhất thiên hạ. Anh ta ngồi
trấn ở Liêu Ninh, sau đó điều khiển từ xa hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang, trên thực tế là
“vương” của ba tỉnh Đông Bắc. Có người phong cho anh ta là “Thái Thượng hoàng ở Đông
Bắc”. Anh ta cũng dần dần biết lợi dụng chức quyền ở trong tay và chỉ huy người khác. Trong
sinh hoạt anh ta học Giang Thanh, từ tàu bè nước ngoài ở cảng Đại Liên đã nhập khẩu thuốc lá
ngoại, phim, băng hình ngoại, Giang Thanh thấy đứa cháu trai đã khôn lớn như vậy, mà mừng
thầm. Từ khi bà ta không ở chung với Mao Trạch Đông, luôn luôn lo lắng không có cách gì để
tiếp cận và thao túng Mao Trạch Đông đang bị bệnh, để lấp “chỗ trống” bà ta đã có được Mao
Viễn Tân. Cũng là để cách ly những người con của vợ trước của chồng tiếp cận với Mao Trạch
Đông, tất nhiên là vì nhu cầu chính trị dối trên lừa dưới, thao túng tình thế, bà ta đã cùng ba
“Nam thần” dày công bày mưu tính kế, nên đến tháng 9 năm 1975, đã đưa được Mao Viễn Tân
đến nơi ở của Mao Trạch Đông làm “liên lạc viên” đặc biệt. Mao Trạch Đông lúc ấy đã 83 tuổi,
bệnh tình ngày một nặng, dáng vẻ già nua, đừng nói đến việc tuần du Đại Giang Nam Bắc hay
lên lầu thành Thiên An Môn “vẫy cánh tay to lớn” mà ngay cả việc nói năng, đi lại ăn uống cũng
ngày một khó khăn. Tham gia hội nghị, tiếp khách nước ngoài cũng càng ngày càng ít. Thực sự
cần có một liên lạc viên. Thế là Mao Viễn Tân trở thành người được lựa chọn tốt nhất.
5. Người trong Đào Hoa Nguyên không phục tùng Mao Trạch Đông
Theo ý của Mao Trạch Đông, vẫn hy vọng có thể thống nhất nhận thức trên vấn đề đại
cách mạng văn hóa để có cái “ba bảy” (nghĩa là bảy phần thành tích, ba phần sai lầm). Mao
Trạch Đông đề xuất Đặng Tiểu Bình sẽ chủ trì đưa ra một quyết nghị, khẳng định thành tích của
đại cách mạng văn hóa. Trên vấn đề nguyên tắc Đặng Tiểu Bình không chịu nhượng bộ. Ông
nói, tôi là người trong Đào Hoa Nguyên, “không biết có Hán, không bàn Ngụy Tấn”, bày tỏ rằng
ông viết quyết định này là không thích hợp, khéo léo từ chối.
Do sự công kích của “bọn bốn tên”, Bộ Chính trị đã quyết định đình chỉ công tác của
Đặng Tiểu Bình.
Gần như đồng thời, từ Đại học Thanh Hoa bắt đầu lan ra cả nước, dấy lên một trận cuồng
phong chính trị to lớn hơn. Đầu tháng 11, với sự thúc đẩy và thao túng của bọn Giang Thanh,
Đảng ủy Đại học Thanh Hoa triệu tập Hội nghị Thường vụ Đảng ủy mở rộng truyền đạt lời phê
duyệt của Mao Trạch Đông đối với bức thư của Lưu Băng cùng 4 người khác... dùng bút chì viết
trên văn kiện phê duyệt như sau: “Lưu Băng và một số người ở Đại học Thanh Hoa gửi thư tố
cáo Trì Quần và Tiểu Tạ. Mũi nhọn trong thư của họ chĩa vào tôi”. Sau này Mao Trạch Đông lại
phê bình: “Tôi ở Bắc Kinh, viết thư sao không trực tiếp gửi cho tôi, mà lại nhờ Tiểu Bình
chuyển. Tiểu Bình bênh vực Lưu Băng”.
Vấn đề Đại học Thanh Hoa đề cập đến không phải là riêng rẽ mà là sự phản ánh cuộc đấu
tranh giữa hai đường lối hiện nay. “Bọn bốn tên” như vớ được vàng, vui mừng như điên, nắm
ngay lấy “chiếc lông gà làm thẻ lệnh”, lấy việc truyền đạt lời phê duyệt này làm khởi điểm, bắt
đầu cái gọi là “phản kích lại xu hướng xử lại án hữu khuynh” và cái gọi là “cuộc đại biện luận về
cách mạng giáo dục”. Người phụ trách thành ủy Bắc Kinh đích thân ra trận chỉ huy, Phó Thủ
tướng Trương Xuân Kiều phụ trách về công tác giáo dục giao trách nhiệm cho Chu Vinh Hâm
phải kiểm thảo. Đại học Thanh Hoa tổ chức cuộc Hội nghị Đảng ủy mở rộng và cuộc mít tinh
toàn trường gồm hơn 1300 người phê phán Chu Vinh Hâm và Lưu Băng v.v… chĩa mũi nhọn
vào Đặng Tiểu Bình. Công khai chỉ trích: “Đặng Tiểu Bình là Tổng đạo diễn của Lưu Băng, Lưu
Băng là người đại diện của Đặng Tiểu Bình ở Thanh Hoa”. Trong phút chốc sóng dữ cuồn cuộn,
đại tự báo “phản kích xu hướng đòi xử lại án hữu khuynh”, rợp trời rợp đất. Thanh Hoa Viên
xinh đẹp phút chốc trở thành chiến trường “phê Đặng”. “Bọn bốn tên” nhanh chóng tổ chức cán
bộ và quần chúng đi tham quan.
Hạ tuần tháng 11 năm 1975, theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, Bộ Chính trị triệu tập Hội
nghị thông báo tin gồm hơn 130 đồng chí cũ phụ trách các cơ quan Đảng, chính quyền, quân đội
tham gia tại Bắc Kinh, tuyên đọc “những điểm chính của bài nói chuyện thông báo tin” do Mao
Viễn Tân chỉnh lý và Mao Trạch Đông phê chuẩn. Những điểm chính của bài nói chuyện đã
truyền đạt bài nói chuyện nêu trên của Mao Trạch Đông về bức thư của Lưu Băng, hơn nữa nêu
rõ: “Đây là một xu hướng xử lại án hữu khuynh”. Có một số người tỏ ra không bằng lòng đối với
đại cách mạng văn hoá, luôn muốn tính sổ đối với cách mạng văn hóa, luôn luôn muốn xử lại án.
Tiếp đó Trung ương Đảng, công bố “Thông báo về việc chuyển phát những điểm chính của bài
nói chuyện thông báo tin” cho Bí thư Thứ nhất các tỉnh, thành, khu tự trị, Bí thư thứ nhất Đảng
ủy các đại quân khu, những người phụ trách Đảng ủy các bộ thuộc cơ quan Trung ương và Nhà
nước, Bí thư thứ nhất Đảng ủy các Tổng cục thuộc Quân ủy và các quân binh chủng, yêu cầu
truyền đạt và thảo luận trong Thường vụ Đảng ủy.
Thế là “thông báo tin” trở thành thuật ngữ chính trị lưu hành phổ biến nhất.
2
Mao Trạch Đông nói một lời Thiên An Môn tắm máu
Hoa Quốc Phong hềnh hệch cười, “bọn bốn tên” ngơ ngác đứng trông
2. Mao Trạch Đông bảo: Tôi cũng không đi dược nữa rồi
Khi bệnh tình của Chu Ân Lai ngày một trầm trọng, thì tình hình sức khỏe của Mao
Trạch Đông cũng khiến mọi người lo lắng. Ông nói năng khó khăn, chỉ có thể nói ra một số câu
chữ không rõ ràng từ họng. Do công tác lâu dài bên cạnh Mao Trạch Đông, nên thư ký Trương
Ngọc Phượng vẫn có thể nghe hiểu được lời của Mao Trạch Đông. Mỗi khi Mao Trạch Đông nói
chuyện với các đồng chí lãnh đạo khác, chị đều phải có mặt, để nói lại lời của Mao Trạch Đông.
Nhưng đến khi ông nói và phát âm không rõ ràng thì chị chỉ có thể nhìn miệng và biểu cảm để
đoán và nếu được ông gật đầu là được. Khi trở ngại ngôn ngữ của Mao Trạch Đông đến bước
nghiêm trọng nhất thì ông đành dùng bút viết lên giấy những điều ông suy nghĩ. Sau này, việc đi
đứng của Mao Trạch Đông đã rất khó khăn, nếu không có người đỡ thì cũng không thể đi nổi
một bước. Trong mười mấy tiếng đồng hồ trước khi tim Chu Ân Lai ngừng đập, báo cáo về bệnh
tình của ông không ngừng được đưa tới chỗ Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông lặng lẽ xem hết
báo cáo về bệnh tình nguy cấp đến các phương án chữa trị và phương án cấp cứu.
Nhân viên công tác bên cạnh Mao Trạch Đông là Trương Diệu Từ được biết tin Chu Ân
Lai qua đời liền đến ngay phòng của Mao Trạch Đông, báo cho Tiểu Vu y tá trực ban ở bên
ngoài. Tiểu Vu cầm bút chì viết lên giấy trắng tin buồn này rồi để tờ giấy lên bàn.
Y tá Mạnh Cẩm Vân lúc này đang trực ban ở phòng của Mao Trạch Đông. Mao Trạch
Đông đang nằm trên giường xem Tuyển tập Lỗ Tấn. Tiểu Mạnh nghe có tiếng chân người đến,
biết là có người đến đưa đồ, cô rón rén đi ra ngoài, nhìn thấy tờ giấy, một hàng chữ rõ ràng hiện
ra trước mắt. Tiểu Mạnh gấp tờ giấy lại rồi bỏ vào túi quay lại phòng của Mao Trạch Đông, như
không có chuyện gì xảy ra.
Khoảng hơn 3 giờ chiều, Bộ Chính trị cử người đến đưa bản in thử Cáo phó Chu Ân Lai
tạ thế cho Mao Trạch Đông. Tiểu Mạnh thấy Mao Trạch Đông tỉnh lại, tinh thần tạm được, liền
quyết định tìm cơ hội báo tin cho ông biết việc Chu Ân Lai tạ thế.
Theo thói quen, lúc này Tiểu Mạnh phải đọc báo, văn kiện cho Mao Trạch Đông. Cô đọc
một số nội dung khác rồi hơi ngừng lại một chút, liền cầm lấy bản in thử “cáo phó”, đọc với một
giọng trầm trầm, chậm rãi: “Đồng chí Chu Ân Lai nhà cách mạng vô sản vĩ đại, người chiến sĩ
cộng sản kiệt xuất của nhân dân Trung Hoa, vì bị bệnh ung thư, chữa trị không kết quả, đã mất
vào…” Mao Trạch Đông đang nghe, chậm rãi khép đôi mắt, đôi mày nhíu lại, một loáng sau từ
đôi mắt nhắm nghiền trào ra những giọt nước mắt. Tiểu Mạnh cũng thổn thức nhưng vẫn tiếp tục
đọc hết cáo phó. Mao Trạch Đông không nói một câu nào, chỉ để cho nước mắt chảy lặng lẽ,
nước mắt lăn trên má, chảy xuống khóe miệng rồi chảy xuống cổ, nhưng từ đầu đến cuối vẫn
không nói một lời.
Mấy hôm sau, Trung ương dự thảo bản quy định có liên quan đến lễ truy điệu của Chu
Ân Lai, số người gồm Bộ Chính trị cùng những người phụ trách Đảng, chính quyền, quân đội
tham gia lễ truy điệu và điếu văn để Mao Trạch Đông đọc duyệt.
Trung ương cân nhắc bệnh tình của Mao Trạch Đông, nên không bố trí ông tham gia tất
cả mọi hoạt động có liên quan sau khi Chu Ân Lai mất.
Khi Mao Trạch Đông đọc duyệt báo cáo, Trương Ngọc Phượng luôn đứng ở bên cạnh.
Không biết vì sao trong lòng chị, một người bình thường luôn tồn tại một tia hy vọng, có lẽ sẽ có
một quyết định đột ngột giống như lần tham gia lễ truy điệu Trần Nghị như 4 năm về trước, có lẽ
cũng có thể tham gia lễ truy điệu của Chu Ân Lai. Một câu nói vẫn giữ kín trong lòng rất lâu bất
giác bật ra khỏi miệng, như một đứa trẻ cô mạo muội hỏi Mao Trạch Đông: “Có tham gia lễ truy
điệu Thủ tướng không ạ?” Mao Trạch Đông vẫn đang buồn rầu, một tay cầm văn kiện vẫn chưa
kịp đặt xuống, tay kia vỗ vào cái chân hơi co, đau đớn và mệt nhọc nói với chị: “Tôi không đi
được nữa rồi”.
Từ sau Đại hội khóa 10, nhiều lần Mao Trạch Đông đã tỏ ý né tránh không muốn để cho
mọi người nhìn thấy tình trạng già nua của mình làm cho Trương Ngọc Phượng hiểu được rằng
ông không đồng ý, cũng không nỡ để mọi người nhìn thấy tâm trạng đau khổ và bệnh trạng trong
những năm cuối đời của ông.
Tiếp đó Mao Trạch Đông nói như xin lỗi: “Lễ truy điệu của mấy người ấy, tôi cũng
không thể đi được”. Mấy người ấy, Trương Ngọc Phượng sau này khi nhớ lại đã phân tích có thể
là chỉ Đổng Tất Vũ, người đã cùng ông tham gia Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất, đã qua đời
tháng 4 năm 1975, cùng lễ truy điệu của mấy đồng chí lão thành khác.
Một ngày trước lễ truy điệu, cũng tức là chiều ngày 14 tháng 1 lại là thời gian Mạnh Cẩm
Vân đọc báo cho Mao Trạch Đông. Chị đã đọc bản in thử lời điếu do Đặng Tiểu Bình đọc trong
lễ truy điệu. Mao Trạch Đông lắng nghe, ông không còn im lặng nữa mà nước mắt giàn giụa,
khóc thất thanh. Ông vẫn như mọi khi không nói một lời.
Một thời gian rất lâu sau khi Chu Ân Lai mất, tâm trạng của Mao Trạch Đông đều bao
trùm một nỗi thương cảm. Trên mặt ông gần như đã không còn nét vui tươi, thường lặng lẽ.
4. Cuộc đối thoại giữa hai ông già. Mây đen trùm kín, giông bão nổi lên
Đúng giờ phút nghiêm trọng ở không gian tầng cao của Trung Quốc, tình hình Bộ Chính
trị nảy sinh đột biến. Trong một ngôi nhà ở đại lộ phía đông Địa An Môn, Bắc Kinh có hai ông
già lặng lẽ ngồi trên xa-lông đối diện với nhau.
Lúc này, rõ ràng họ vẫn còn chìm đắm trong nỗi đau đớn vô bờ, sự qua đời của Chu Ân
Lai, tạo nên vết thương lớn trong tâm linh họ. Họ có cái cảm giác mất mát không gì bù đắp được,
như mất đi chỗ dựa chính, trong phút chốc, trong lòng cảm thấy trống rỗng.
Hai người lúc thì nói chuyện đôi câu, lúc thì đứng lên đi ra ngoài cửa, vừa đi vừa trò
chuyện. Khu nhà tứ hợp viện rộng rãi, cũng trống không. Bức tường màu xám vây quanh và
chiếc cổng màu xanh ngăn tầm nhìn của họ, đường phố bên ngoài gọi là “đường rộng” nhưng
thực tế không rộng, trên con đường đi thẳng đến Địa An Môn, luôn luôn có tiếng ồn ào vọng tới,
càng làm cho ruột gan họ rối bời.
Im lặng; im lặng, im lặng hồi lâu, trong im lặng ấp ủ những đóa hoa lửa của trí tuệ.
“Anh thấy tình hình hiện nay thế nào?” Cả hai gần như cùng một lúc nêu ra cùng một vấn
đề.
Hai ông già với những kinh nghiệm đấu tranh phong phú và với sức nhìn thấu suốt, dự
cảm thấy một trận bão táp chính trị lớn hơn sắp sửa ập tới và đều đang suy xét đến kết cục và
sách lược ứng phó khẩn cấp đối với trận bão táp ấy.
Hai ông già ấy không phải ai khác mà chính là hai nhà cách mạng tiền bối Đặng Tiểu
Bình và Diệp Kiếm Anh. Đây là hai người bạn chiến đấu cũ với sự tín nhiệm sâu sắc được xây
dựng và trải qua những thử thách sống chết trong những năm tháng của cuộc cách mạng lâu dài
của Trung Quốc. Từ nhiều năm nay Đặng Tiểu Bình rất yêu quý Diệp Kiếm Anh, nhất là trong
giờ phút nguy nan, Chu Ân Lai qua đời, “bọn bốn tên” cố sức cướp quyền lãnh đạo cao nhất của
Đảng và Nhà nước, càng cảm thấy cần phải dựa vào vị Nguyên soái già luôn trung thành với
Đảng và tài trí hơn người này. Diệp Kiếm Anh tuy lớn hơn Đặng Tiểu Bình 7 tuổi, gần bát tuần,
nhưng ông hiểu tính cách và tài năng của Đặng Tiểu Bình, rất tôn trọng người lãnh đạo xuất sắc
của Đảng và Nhà nước đã mấy lần nổi mấy lần chìm này.
Hai nhà cách mạng lão thành nhìn tình hình xấu đi nhanh chóng mà cảm thấy quá đột
ngột, thật không sao hiểu nổi. Diệp Kiếm Anh nhìn Đặng Tiểu Bình tức giận nói: “Bọn này bắt
nạt người quá đáng, từng bước lấn tới, chúng lợi dụng lúc Thủ tướng qua đời, Chủ tịch ốm nặng,
càng làm càng dữ, tiếp theo không biết chúng còn định giở trò ma gì nữa đây, chúng ta phải
nhanh chóng đưa ra đối sách!”.
“Chẳng có gì đáng sợ cả? Từ lâu tôi đã có sự chuẩn bị tư tưởng rồi, chẳng qua là bị đánh
đổ lần thứ hai. Điều đáng tiếc là còn rất nhiều việc chưa làm xong, kinh tế chưa có chuyển biến
tốt, rất nhiều đồng chí cũ chưa được giải phóng”. Đặng Tiểu Bình nói một cách tiếc rẻ.
“Vấn đề lớn nhất hiện nay là Chủ tịch không nghe được ý kiến của chúng ta. Bọn Giang
Thanh xúi Mao Viễn Tân ngầm kể tội với ông”.
“Đúng. Nhưng cũng không hoàn toàn đúng. Cuối năm ngoái, mấy lần tôi đến chỗ Chủ
tịch nói chuyện riêng vào một buổi tối, tôi còn hỏi riêng Chủ tịch, phương châm chính sách công
tác trong giai đoạn này như thế nào? Chủ tịch vẫn khẳng định. Sau đó Chủ tịch bảo Mao Viễn
Tân gặp tôi nói chuyện, nói là tôi xử lại án đại cách mạng văn hóa. Tôi nêu ý kiến của mình,
nhiều lần giải thích nhưng không có tác dụng gì!”.
Những điều này, nếu được nói ra từ miệng người khác có lẽ Diệp Kiếm Anh không tin.
Gần hai năm nay, không phải chỉ một lần, ông nghe thấy Mao Trạch Đông nói về Đặng Tiểu
Bình “nhân tài hiếm có”, “tư tưởng chính trị vững”, yêu cầu ông làm Phó Chủ tịch Quân ủy, Phó
Thủ tướng thứ nhất kiêm Tổng Tham mưu trưởng. Hơn nữa từ khi Đặng Tiểu Bình trở lại chủ trì
công tác đến nay, mọi việc đều xin ý kiến Mao Trạch Đông, đồng ý mới làm, thành tích nổi bật,
rất được lòng người, đó là chuyện mọi người đều thấy. Làm sao trong phút chốc lại quay ngoắt
một trăm tám mươi độ được? Xem ra, vấn đề căn bản là việc đánh giá đối với đại cách mạng văn
hóa. Đặng Tiểu Bình đã tỏ thái độ rõ ràng, trên vấn đề căn bản này không có đất cho sự dàn xếp.
Điều mà Diệp Kiếm Anh lo nhất là Đặng Tiểu Bình xuống dẫn đến việc “bọn bốn tên” thừa cơ
cướp quyền Quốc vụ viện.
“Làm thế nào đây?” Diệp Kiếm Anh bàn: “Chúng ta có nên đi gặp Chủ tịch lần nữa
không?”
“Đã gặp rồi, chẳng ăn thua gì”. Đặng Tiểu Bình đã có sự chuẩn bị tư tưởng, vì lợi ích của
Đảng và Nhà nước, phải kiên trì đấu tranh với “bọn bốn tên” vì nghĩa không thể rút lui. Ông trả
lời một cách kiên định: “Tính tình ở con người tôi chắc anh biết, quyết không nhượng bộ trên
vấn đề nguyên tắc!”.
“Chỉ cần còn một tia hy vọng, thì chúng ta phải cố mà giành lấy”.
“Bộ Chính trị trên thực tế đã đình chỉ công tác của tôi, tôi dự đoán, Chủ tịch đã hạ quyết
tâm, sẽ “thay ngựa!””
Tâm trạng Diệp Kiếm Anh trở nên nặng nề, nếu cục diện ấy xuất hiện thật thì làm thế
nào? Ông hy vọng biết bao, trách nhiệm mà Chu Ân Lai để lại sẽ do Đặng Tiểu Bình gánh vác!
“Tôi nghĩ rằng “thay ngựa” cũng không phải là chuyện dễ, nếu muốn thay, chỉ có hai khả
năng: Một là rút lui có trật tự, hai là “một là phê hai là bảo vệ”, chí ít vẫn tiếp tục dùng một thời
gian nữa, vì có một số sự việc, Chủ tịch sẽ không hoàn toàn giao cho họ, ông sẽ không yên
tâm!”.
Đặng Tiểu Bình đồng ý với nhận định đó: “Tôi đã chuẩn bị khả năng xấu nhất, nhưng tôi
tin, sự nghiệp của chúng ta sẽ có người kế tục. Đảng của chúng ta có hy vọng”. Ông ngừng lại,
trầm ngâm một lúc, nói một cách nghiêm túc: “Tôi không giữ cương vị lãnh đạo nữa, cũng
không sao, chỉ cần anh, vị nguyên soái già còn, và có các đồng chí cũ khác còn thì chẳng sợ gì
bọn nhãi nhép gây sự cả!”
Diệp Kiếm Anh nghe thấy những lời gửi gắm nặng tình nặng nghĩa, trong người bỗng
cảm thấy như tăng thêm gánh nặng ngàn cân, lập tức bày tỏ: “Thấy sự phát triển của tình hình,
có thể tôi cũng không giữ được. Nhưng dù thế nào, chỉ cần tôi còn một chút hơi thở, cũng sẽ tiếp
tục đấu với chúng!”.
Đặng Tiểu Bình thấy vị Nguyên soái già kiên cường như vậy, tự đáy lòng cảm thấy rất
vui, lại nhắc: “Có điều phải chú ý phương pháp đấu tranh, đây là lời dặn dò của Thủ tướng trước
lúc lâm chung”.
Hai nhà cách mạng lão thành lại rơi vào tâm trạng thương nhớ Chu Ân Lai.
5. Người mà “phái thực tế” và phái cấp tiến đều có thể chấp nhận ra sân
khấu
Sự việc quả không ngoài dự đoán, Mao Trạch Đông trong lúc bị bệnh cũng đang rất đau
đầu vì việc lựa chọn người làm Thủ tướng Quốc vụ viện. Qua quan sát cân nhắc nhiều lần, ông
vừa không bằng lòng với Đặng Tiểu Bình người đã cùng ông chiến đấu nhiều năm và được ông
coi trọng, càng không yên tâm với “bọn bốn tên” đã từng bị ông phê bình là có dã tâm. Cuối
cùng người thầy của biện chứng pháp giỏi giải quyết mâu thuẫn đã chọn được một người khác
ngoài dự kiến của mọi người.
Người ấy là Hoa Quốc Phong. Ngày 21 tháng 1 năm 1976, Mao Viễn Tân báo cáo với
Mao Trạch Đông, nói đến Hoa Quốc Phong, Kỷ Đăng Khuê v.v… nêu ra việc Quốc vụ viện đề
nghị Chủ tịch xác định một đồng chí phụ trách chủ yếu dẫn đầu để họ làm công tác cụ thể. Mao
Trạch Đông trả lời: “Đề nghị Hoa Quốc Phong dẫn đầu. Anh ta tự nhận là người có trình độ
chính trị không cao. Tiểu Bình chuyên quản lý công việc ngoại vụ”. Chí ít, từ nay về sau, Hoa
Quốc Phong đã bắt đầu chủ trì công tác của Quốc vụ viện.
Ngày 2 tháng 2, Trung ương đưa ra “Văn kiện số 1” thông báo toàn Đảng:
Theo đề nghị của lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhất trí
thông qua Hoa Quốc Phong giữ chức Quyền Thủ tướng Quốc vụ viện.
Đối với bối cảnh chính trị của quyết định này, lúc ấy một nhà văn viết truyện ký nước
ngoài đã viết:
“Bọn bốn tên” mưu toan thao túng Mao Trạch Đông đang bị ốm nặng, tất nhiên không
phải là muốn mở đường cho Hoa Quốc Phong một chính trị gia “tỉnh lẻ” không quen thuộc lắm
với mọi người nắm quyền hành. Nhưng họ điên cuồng chống Đặng Tiểu Bình không còn nghi
ngờ gì nữa đã có lợi cho việc thăng chức của Hoa Quốc Phong. Tinh thần thực tế kiên định
không thay đổi của Đặng Tiểu Bình làm cho Mao Trạch Đông không yên tâm, vì vậy, từ mùa thu
năm 1975 lại một lần nữa chĩa mũi nhọn vào Đặng Tiểu Bình. Nhưng ông đã hiểu rõ phu nhân
của mình cũng như những người ủng hộ về hình thái, ý thức ở Thượng Hải đang âm mưu hoạt
động ở hậu trường, đồng thời có dã tâm chính trị. Bản ngữ lục công bố sau khi “bọn bốn tên”
sụp đổ đã chứng thực điều đó. Trong tình hình này, điều kiện có lợi của Hoa Quốc Phong chính
là ở chỗ không tham gia một phái nào, mà là trung thành lâu dài với Mao Trạch Đông.
Nhà văn này sau khi nêu ra thân thế và chức vụ của Hoa Quốc Phong, đã đặc biệt đề cập
đến:
Điều quan trọng là, ông ta là người mà phái thực tế và phái cấp tiến đều có thể chấp
nhận. Vì vậy, vào khoảng tháng 4, Chủ tịch Đảng đã nhờ ông ta phụ trách thẩm tra “vụ án
Đặng Tiểu Bình”.
Người nước ngoài bàn luận về chính trị hiện đại ở Trung Quốc luôn thích phân thành
“phái thực tế”, “phái cấp tiến” gì đó. Đây là quan điểm và thói quen của họ, tạm không bình luận
nhiều về chuyện đó, nhưng gọi “bọn bốn tên” là “phái cấp tiến” rõ ràng là không thỏa đáng.
Phép biện chứng của lịch sử là lớp sóng sau đẩy lớp sóng trước, người mới vượt người
cũ. Nhưng sự “vượt trội” ấy thường thường có hai tình huống: “Một là sự vượt trội thông
thường. Người mới đức tài đều đủ, trai tráng khỏe mạnh, khiêm tốn thận trọng, là những người
nối nghiệp ưu tú đáng tin cậy, làm cho người giao phó yên tâm, thậm chí thấy ngượng vì không
bằng. Đúng như Diệp Kiếm Anh đã nói trong một bài thơ: “Một thời anh hùng muôn đời sự
nghiệp, Ai dám nói tiền hiền kém hậu sinh”. Một tình huống khác hoàn toàn trái với tình huống
trên.
Mọi người trông mong có nhiều người nối nghiệp như loại trên biết chừng nào!
Về thân thế của Hoa Quốc Phong, ở Trung Quốc cho đến hôm nay vẫn chưa có một cuốn
sách nào giới thiệu chính thức được xuất bản. Nhưng người nước ngoài lại có không ít sách và
bài viết ra mắt bạn đọc. Như cuốn “Hoa Chủ tịch” do Nhà xuất bản Hơ-stơ ở Luân Đôn xuất bản
năm 1980, “Hoa Quốc Phong trước đại cách mạng văn hóa (1949- 1966) ở Hồ Nam, sự trưởng
thành của một tài năng chính trị” của Ô-cơ-lin-pô-kơ và Dương Trại Cường. Ngoài ra còn có
“Truyện Hoa Quốc Phong” xuất bản ở Hương Cảng, cùng “Cuộc hội đàm của Hoa Quốc Phong
với Phơ-ri-cớt Cô-lin” v. v… và v. v… Những tác phẩm này có khen có chê, tin đồn nhảm rất
nhiều.
Hoa Quốc Phong đã giội bom đạn trong cuộc chiến tranh chống Nhật để đi vào con
đường cách mạng. Khi quê hương huyện Giao Thành tỉnh Sơn Tây bị quân Nhật giày xéo, ông
vác súng kíp lên rừng đánh du kích, vẫn là một thanh niên tràn đầy nhiệt huyết 17 tuổi đời chưa
rõ thế sự, lần đầu tiên nghe thấy tên của những người lãnh đạo Đảng và các tướng lĩnh kháng
Nhật như Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh v.v... lòng
ông tràn đầy một niềm sùng kính. Nằm mơ cũng không ngờ tới có ngày mình lại có thể vinh dự
bước vào hàng ngũ những nhân vật lãnh tụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, để ngồi ngang hàng
với những “nhân vật lớn” này. “Người cùng lứa” với Đảng Cộng sản Trung Quốc mãi đến năm
1940 mới đến với Đảng. Vận mệnh của một con người, tự mình rất khó nắm được, mà thường
thường do những nhân tố mang tính ngẫu nhiên sắp đặt. Trước khi nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa thành lập, Trung ương Đảng ra lệnh cho tỉnh Sơn Tây rút một bộ phận cán bộ và
quân nhân ở địa phương xuống phía nam. Lúc ấy Hoa Quốc Phong đang đảm nhiệm chức vụ Bí
thư huyện ủy huyện Giao Thành kiêm nhiệm chính ủy của Đại đội vũ trang là người ghi tên đầu
tiên, đầu tiên đến huyện Tương Âm tỉnh Hồ Nam, sau giữ chức Bí thư huyện ủy Tương Đàm.
“Hoa Chính ủy” nổi danh từ đó. Năm 1954 lên giữ chức Bí thư huyện ủy Tương Đàm. Trung
Quốc có câu danh ngôn “nhân kiệt địa linh” hoặc “địa linh nhân kiệt”. Tương Đàm cái “địa linh”
quê hương Mao Trạch Đông đã bồi dưỡng nên một loạt “nhân kiệt”, trong đó có Hoa Quốc
Phong. Trải qua mấy năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, trải qua những năm đại nhảy vọt rồi lại
qua đại cách mạng văn hóa tên tuổi Hoa Quốc Phong đi song song với cái tên quê hương Mao
Trạch Đông và ngày càng nổi bật cùng với tiếng tăm của vị lãnh tụ vĩ đại.
Hoa Quốc Phong ít nói, suy nghĩ thâm trầm, giỏi nắm bắt ý đồ của Mao Trạch Đông,
thường có dịp đến Bắc Kinh để báo cáo và xin ý kiến Mao Trạch Đông. Nhiệt tình “ba trung
thành” chất phác, tác phong làm việc tỉ mỉ chắc chắn vẻ thực thà khiêm tốn của ông đã để lại cho
Mao Trạch Đông ấn tượng hoàn toàn có thể tin cậy. Vì thế sau khi “người nối nghiệp” Lâm Bưu
phản bội và bị tan xác năm 1971, cùng với việc điều động Vương Hồng Văn từ Thượng Hải là
điều động Hoa Quốc Phong từ Trường Sa về Trung ương. Sau Đại hội Đảng khóa 10, Vương
Hồng Văn trở thành Phó Chủ tịch Đảng, Hoa Quốc Phong trở thành ủy viên Bộ Chính trị. Lúc ấy
ông đã thay thế Tạ Phú Trị vừa bị bệnh qua đời giữ chức Bộ trưởng Công an. Ít lâu sau đảm
nhiệm chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện cho đến cuối cùng mấy lần đảm nhiệm quyền Thủ
tướng Quốc vụ viện.
6. “Bọn bốn tên” tạm thời bị mất một quân cờ, nhưng rồi lại ăn được hai
quân
Việc bổ nhiệm Hoa Quốc Phong là một đòn giáng vào đầu “bọn bốn tên”. Vương Hồng
Văn chẳng thèm giở lại xem bản đề cương (sửa lần thứ ba) nói chuyện đã chuẩn bị từ lâu của
mình và vứt vào ngăn kéo, về sau trở thành một trong những tội trạng của y. Trương Xuân Kiều
kẻ đã tự cho là đã nắm chắc “ngôi báu” thủ tướng oán hận cùng cực đã viết những điều bực bội
trong “Cảm xúc về ngày 2 tháng 3”:
Lại là một văn kiện thứ nhất.
Năm ngoái đã ra một văn kiện thứ nhất.
Thật là đắc chí càng hung hăng.
Đến thật nhanh, đến rất dữ mà tan cũng rất nhanh.
Đường lối sai lầm sẽ không sao thực hiện được, có thể một thời đắc ý, tựa hồ như thiên
hạ là của ông ta, phải bắt đầu một thời đại mới gì đó thôi. Họ luôn đánh giá quá cao sức mạnh
của mình.
Nhân dân là nhân tố quyết định.
Đại diện cho lợi ích của nhân dân, mưu lợi cho đại đa số, trong bất kỳ tình huống nào,
đều đứng về phía quần chúng nhân dân, đứng về phía những phần tử tiên tiến thì sẽ thắng lợi.
Làm ngược lại tất nhiên sẽ thất bại. Đúng là:
Muôn nhà vạn hộ trông ngày ấy,
Sẽ đổi bùa xưa lấy đào hoa”.
Trương Xuân Kiều là kẻ giỏi tính toán. Trong bài “Hữu cảm” ông ta nói đến “Văn kiện
thứ nhất” năm ngoái là chỉ cái gì. Đó là “Văn kiện thứ nhất” của Trung ương năm 1975. Chính là
văn kiện đã bổ nhiệm Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tham
mưu trưởng quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Ở đây Trương Xuân Kiều đã “bắn một mũi
tên trúng hai đích”. Tức là nhằm vào Hoa Quốc Phong nhưng lại gắn thêm Đặng Tiểu Bình. Ông
ta muốn có một cuộc thanh toán chung để thực hiện dã tâm phản cách mạng “thay đổi triều đại”
của ông ta.
Đúng lúc này, trên đường phố Thượng Hải xuất hiện một biểu ngữ lớn “Kiên quyết yêu
cầu Trương Xuân Kiều làm thủ tướng”, chống đối với Trung ương, Trương Xuân Kiều có tật giật
mình. “Đây chẳng phải là giúp chẳng bõ phiền hay sao?” Nên ông ta đã lập tức ra lệnh che đi!
Còn truyền đi một câu chuyện cười, có người đã lặng lẽ xé ba chữ “Trương Xuân Kiều” dán lên
đầu biểu ngữ thế là biểu ngữ biến thành “Trương Xuân Kiều kiên quyết yêu cầu làm thủ tướng!”
Trong ván cờ tranh giành vị trí thủ tướng, “bọn bốn tên” tạm thời bị mất một quân, nhưng
ở một ván cờ khác họ lại ăn được hai quân, một quân là chặn được con đường Đặng Tiểu Bình
làm thủ tướng, một quân khác là lôi được Diệp Kiếm Anh xuống ngựa.
Trong “Văn kiện thứ nhất” của Trung ương này có một điều thông báo quan trọng khác.
“Trong thời gian đồng chí Diệp Kiếm Anh bị bệnh, thì đồng chí Trần Tích Liên phụ trách
chủ trì công tác của Quân ủy Trung ương”.
Lấy hình thức văn kiện Trung ương để thông báo cho toàn đảng việc treo chức vị nguyên
soái của nước Cộng hòa vì “bị bệnh” thì đây quả là lần đầu tiên chưa từng có bao giờ, nó đến rất
đột ngột. Nhưng Diệp Kiếm Anh đã có sự chuẩn bị tư tưởng. Đối với sự vinh nhục thăng giáng
của cá nhân từ lâu ông đã gạt ra ngoài, điều mà ông lo lắng là vận mệnh của đất nước và quân
đội. Ông nghĩ, Mao Trạch Đông rút cuộc đã không trao quyền cho “bọn bốn tên” mà lại giao cho
Hoa Quốc Phong, dù thế nào cũng là một việc tốt, có thể an ủi linh hồn của Chu Ân Lai ở nơi
chín suối.
Đối với việc “treo chức” của Diệp Kiếm Anh, “bọn bốn tên” tung mũ reo vui cười khẩy.
Còn tất cả mọi người lương thiện, chính trực đều lo lắng vô cùng. Rất nhiều đồng chí quan tâm
đến quốc gia đại sự, yêu quý Diệp Kiếm Anh đều tới tấp gọi điện viết thư đến Văn phòng Diệp
Kiếm Anh thăm hỏi bệnh tình. “Diệp soái mắc bệnh gì?” “Sức khỏe có yếu lắm không?” Các
đồng chí ở văn phòng đành lặng lẽ kể lại sự thực: Vẫn khỏe như xưa và rất khỏe. Nhưng mọi
người vẫn bán tín bán nghi.
Ngày 5 tháng 2, Trung ương thông báo là sẽ truyền đạt rộng “Những điểm chính của bản
thông báo” cho quần chúng trong và ngoài Đảng. Ngày 6 tháng 2, Trung ương phê chuẩn và
chuyển cho Quân ủy Trung ương về việc ngừng học tập và quán triệt chấp hành báo cáo tại cuộc
Hội nghị “Quân ủy mở rộng” của Đặng Tiểu Bình và Diệp Kiếm Anh tháng 7 năm 1975. Ngày
25 tháng 2, Trung ương triệu tập hội nghị những người phụ trách các tỉnh, thành phố, khu tự trị
và các đại quân khu trong hội nghị đã truyền đạt “Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch”, tức là
những lời nói chuyện của Mao Trạch Đông trong nhiều lần từ tháng 10 năm 1975 đến tháng 1
năm 1976 về “Phê Đặng và phản kích lại xu hướng xử lại án hữu khuynh” do Mao Viễn Tân
chỉnh lý. “Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch” được Mao Trạch Đông đọc duyệt và phê chuẩn.
Trích lục như sau:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa có đấu tranh giai cấp hay không? “Lấy ba chỉ thị làm cương
lĩnh” là gì? Ổn định đoàn kết không phải là không cần đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là
cương, điều còn lại là mục. Trên vấn đề này Sta-lin đã mắc sai lầm lớn. Lê-nin không như vậy,
ông nói sản xuất nhỏ hằng ngày hằng giờ nảy sinh ra chủ nghĩa tư bản. Lê-nin nói, xây dựng
một nhà nước tư sản không có nhà tư bản, để đảm bảo cho pháp quyền tư sản. Chúng ta sẽ xây
dựng một nhà nước như vậy, na ná như xã hội cũ, phân đẳng cấp, có 8 bậc lương, phân phối
theo lao động, trao đổi ngang giá. Phải dùng tiền để mua gạo, mua than, mua mỡ, mua rau. 8
bậc lương chẳng kể anh người nhiều hay ít.
Đại cách mạng văn hóa là gì? Là đấu tranh giai cấp đấy.
Vì sao có một số người không nhận rõ vấn đề mâu thuẫn trong xã hội xã hội chủ
nghĩa?... Vấn đề là bản thân họ thuộc giai cấp tiểu tư sản, tư tưởng dễ hữu. Bản thân họ đại
diện cho giai cấp tư sản, nên nói không thấy rõ mâu thuẫn giai cấp.
Một số đồng chí, chủ yếu là các đồng chí cũ, tư tưởng vẫn dừng lại ở giai đoạn cách
mạng dân chủ tư sản không hiểu chủ nghĩa xã hội, có sự đối lập thậm chí phản đối. Đối với đại
cách mạng văn hóa có hai thái độ một là không bằng lòng, hai là muốn tính sổ, tính sổ với đại
cách mạng văn hóa.
Đã làm quan to thì phải bảo vệ lợi ích của các vị quan to. Họ có nhà cao cửa rộng, có xe
hơi, lương cao, còn có nhân viên phục vụ, còn ghê gớm hơn nhà tư bản. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến bản thân, khi hợp tác hóa, trong Đảng có người phản đối, phê phán pháp quyền tư
sản, họ có phản cảm. Làm cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng không biết giai cấp tư sản ở đâu,
nó ở ngay trong Đảng Cộng sản, phái cầm quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trong
Đảng. Phái đi theo con đường tư bản chủ nghĩa vẫn đang đi.
Đối với đại cách mạng văn hóa, nhìn chung: cơ bản là đúng đắn, nhưng còn có chỗ chưa
đủ. Điều phải nghiên cứu hiện nay là ớ mặt chưa đủ. Tính thành ba bảy, bảy phần thành tích, ba
phần sai lầm, cách nhìn chưa chắc đã nhất trí Đại cách mạng văn hóa đã phạm hai sai lầm: một
là đánh đổ tất cả; hai là nội chiến toàn quốc. Đánh đổ tất cả trong đó có một bộ phận đánh
đúng, như tập đoàn Lưu, Lâm, một bộ phận đánh sai, như rất nhiều đồng chí cũ, những người
này cũng có sai lầm, phê phán là được. Không có kinh nghiệm chiến tranh đã hơn 10 năm rồi,
nội chiến toàn diện, cướp đoạt, đại đa số là tự phát, đánh nhau một chút cũng là một sự rèn
luyện.
Tiểu Bình... đồng chí ấy không nắm đấu tranh giai cấp, xưa nay không nhắc đến cương
lĩnh này. Vẫn cứ là “mèo trắng, mèo đen” chẳng kể là chủ nghĩa đế quốc hay chủ nghĩa Mác.
Tiểu Bình... đồng chí ấy vẫn là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, dẫn dắt tốt có thể sẽ
không đi tới mặt đối lập như Lưu, Lâm... Phê thì phải phê nhưng không nên phủ định tất cả.
“Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch” trên một loạt vấn đề đã lộn sòng phải trái. “Lấy
đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” là không đúng đắn. Hạn chế và phê phán “pháp quyền tư sản”
là không đúng đắn. “Tư tưởng của các đồng chí cũ vẫn dừng ở giai đoạn cách mạng dân chủ tư
sản”, hiện tượng này nói chung không tồn tại. Đối với “các vị quan to” phải được phân tích,
quyết không thể phủ định tất cả. Có “nhà cao cửa rộng” v. v... không thể rút ra kết luận “còn ghê
gớm hơn... nhà tư bản”. “Đánh đổ tất cả” và “nội chiến toàn quốc” không phải là vấn đề “ba
phần sai lầm”. Sai lầm nghiêm trọng nhất là đã đưa ra nhận định vấn đề đối tượng cách mạng:
“giai cấp tư sán” “ở ngay trong Đảng Cộng sản”, đó là “phái cầm quyền đi theo con đường tư
bản chủ nghĩa trong Đảng”. Những lời nói này của Mao Trạch Đông đã phản ánh nguyên nhân
căn bản việc ông phát động “phê Đặng và phản kích xu hướng xử lại án hữu khuynh”. Ông
không thể khoan dung việc Đặng Tiểu Bình đã sửa chữa một cách hệ thống những sai lầm của
đại cách mạng văn hóa. “Phê Đặng” không chỉ là sự phê phán một cách sai lầm một cá nhân, mà
là phủ định một cách sai lầm một chủ trương đúng đắn do Đặng Tiểu Bình đại biểu.
Lúc ấy có rất nhiều đồng chí tư tưởng không thông. Trong hội nghị, dựa vào tinh thần
của những lời nói chuyện kể trên của Mao Trạch Đông, đòi tố giác, phê phán Đặng Tiểu Bình,
giải quyết vấn đề “rẽ ngoặt”. Hoa Quốc Phong thay mặt Trung ương Đảng nói chuyện với hội
nghị, yêu cầu mọi người sau khi trở về phải đặt lên hàng đầu việc học tập chỉ thị của Mao Trạch
Đông và văn kiện của Trung ương, trên cơ sở học tập, “đi sâu tố giác phê phán sai lầm của
đường lối xét lại của đồng chí Đặng Tiểu Bình”. “Trong quá trình tố giác phê phán rẽ ngoặt cho
tốt”, phải “triển khai cuộc đấu tranh chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh”. Bài nói chuyện
đã nêu ra giới hạn chính sách: “Mao Chủ tịch nói, có điều gì sai Trung ương chịu trách nhiệm.
Bộ Chính trị cho rằng, chủ yếu là đồng chí Đặng Tiểu Bình phải chịu trách nhiệm”. Yêu cầu
không nên bắt những người đại diện ở các nơi của Đặng Tiểu Bình, đối với những đồng chí
phạm sai lầm, không nên bắt rồi không thả. Phong trào phải do đảng ủy lãnh đạo, không xâu
chuỗi, không tổ chức đội chiến đấu. Ngày 3 tháng 3, Trung ương Đảng ra “Thông báo về việc
học tập Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch”, truyền đạt lời nói của Mao Trạch Đông về “phê
Đặng và chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh”, yêu cầu tổ chức học tập cho các cán bộ.
Cùng ngày, Trung ương cũng truyền đạt bài nói của Hoa Quốc Phong trong Hội nghị các cán bộ
phụ trách tỉnh thành, khu tự trị và các đại quân khu.
Vấn đề “phê Đặng” chính thức công khai trong Đảng.
3
Màn kịch vụng về Vương, Trương, Giang, Diêu khó rời sân khấu
Quảng trường nổi sóng Đặng Tiểu Bình khó tránh khỏi vạ gió tai bay
Chương IV
“BỌN BỐN TÊN” CHUI VÀO CŨI
1
Đất lở trời long sáu bảy năm trời Mao Trạch Đông khó lòng sống nổi
Nắm chắc quân đội “mệnh lệnh của Diệp Kiếm Anh” được công bố lúc
nguy nan
1. Trận mưa thiên thạch trên thế giới, Mao Trạch Đông thở dài: Xem ra tôi
khó qua nổi năm nay
Sau sự kiện quảng trường Thiên An Môn, trong lòng Mao Trạch Đông buồn tẻ gấp bội,
những người cùng ông mấy chục năm giành lại giang sơn, bây giờ hầu hết đã bị ông đánh đổ,
nhưng điều đó không hề nói lên sự thắng lợi của ông, mà chỉ chứng tỏ, phần lớn các đồng chí
trong Đảng và quần chúng nhân dân cả nước không chỉ nghĩ trong lòng nữa mà là đã trực tiếp
dùng hành động để phủ định đại cách mạng văn hóa. Sự nhượng bộ theo tỷ lệ ba và bảy của ông
đã không thể đạt được sự lượng thứ của toàn đảng và nhân dân cả nước. Mình đang sống đây,
còn như thế này thì sau khi trăm tuổi, sẽ như thế nào? Nhìn khắp các ủy viên Bộ Chính trị hiện
nay, có mấy người có thể gửi gắm được, vì thế khi xem “Cuộc chiến đấu không thể nào quên”,
cuộc đời sáng lập sự nghiệp sôi động thuở xưa đã đưa đến niềm thương cảm trong lòng ông. Mao
Trạch Đông một đời trên lưng ngựa chiến chinh, một nhà cách mạng có ý chí kiên cường như
thép, đã phải khóc hu hu... bộ phim không thể tiếp tục chiếu được nữa, mọi người vừa khóc vừa
khiêng Mao Trạch Đông đã ngất lịm về phòng ngủ.
Cuộc phê Đặng, phản kích xu hướng xử lại án hữu khuynh triển khai ngày càng tệ hại
hơn, các đơn vị đều truy xét những người đã đến quảng trường Thiên An Môn, điều tra xem ai đã
viết thơ, từ, điều tra xem ai đã nói tốt nói hay cho Chu Ân Lai. Cả nước chìm trong không khí
khủng bố, trên bầu trời Trung Quốc mây đen trùm kín, khắp đất nước Trung Quốc vang lên tiếng
còi xe cảnh sát. Sản xuất ngừng trệ, quốc khố trống không, hàng hóa thiếu thốn, chạy nạn xin ăn
nhan nhản, cư dân thành thị ở rất nhiều tỉnh chỉ có thể dựa vào cung cấp định lượng ba lạng(*)
dầu mỡ một tháng để sống qua ngày, không ít nơi nhân viên còn có những cái tên “đẹp” như Nhị
Lượng, Tam Lượng như Trần Nhị Lượng (Trần hai lạng), Lưu Nhị Lượng (Lưu hai lạng) v.v…
Lòng dân oán trách sục sôi, tiếng chửi rủa đầy đường, thiên tai dồn dập đến.
Ngày thứ 17 sau khi sự kiện quảng trường Thiên An Môn qua đi, cũng tức là ngày 22
tháng 4 năm 1976, y tá Tiểu Mạnh đến đọc cho Mao Trạch Đông nghe một tin vừa công bố. Đây
là bản tin của Tân Hoa xã nói về việc đột ngột xảy ra trận mưa thiên thạch ở khu vực Cát Lâm
vùng Đông Bắc, Tiểu Mạnh vừa đọc một đoạn, Mao Trạch Đông cảnh giác ngồi nhỏm dậy, đây
là chuyện xưa nay chưa bao giờ có, ông giục Tiểu Mạnh: “Đọc tiếp đi, tôi nghe đây”. Tiểu Mạnh
lại đọc lần nữa.
Tin điện ngày 21 tháng 4 năm 1976 của Tân Hoa xã tại Trường Xuân (thủ phủ tỉnh Cát
Lâm - N.D.). Gần đây tại khu vực Cát Lâm, vùng Đông Bắc nước ta, đã có một trận mưa thiên
thạch hiếm thấy trong lịch sử thế giới. Chiều ngày 13 tháng 8 năm nay, trên không gian vũ trụ
có một ngôi sao băng bay theo phương hướng của trái đất quay quanh mặt trời với tốc độ mỗi
giây mười mấy ki-lô-mét đi vào tầng khí quyển trái đất. Vì ngôi sao băng này bị ma sát mạnh
trong tầng khí quyển dày đặc, nên khi đến bầu trời vùng Cát Lâm thì bốc cháy, phát sáng, trở
thành quả cầu lửa khổng lồ vào lúc 15 giờ lẻ 1 phút 59 giây ngày 8, đã phát nổ trên bầu trời
công xã Kim Châu ngoại ô thành phố Cát Lâm (thuộc tỉnh Cát Lâm - N.D.). Sau khi sao băng
phát nổ bắn tóe ra bốn bề theo hướng bức xạ.
Rất nhiều thiên thạch nhỏ rơi vãi khắp vùng ngoại ô thành phố Cát Lâm, ba thiên thạch
lớn nhất theo hướng bay vốn có bay về hướng tây chếch nam. Cuối cùng khi một khối thiên
thạch lớn nhất rơi xuống đất lúc 15 giờ 2 phút 36 giây đã phá vỡ lớp đất đông cứng dày 1,7 mét,
xuyên sâu vào lòng đất 6,5 mét, tạo nên trên mặt đất một hố lớn sâu 3 mét, đường kính hơn 2
mét. Lúc ấy đã làm bật tung đất đá cao tới mấy chục mét và văng ra xa đến hàng trăm mét. Ba
thiên thạch lớn nhất, mỗi viên nặng hơn 100 kg, khối lượng lớn nhất có trọng lượng 1700 kg,
vượt quá trọng lượng 1078 kg của khối thiên thạch lớn nhất trên thế giới hiện đang được cất giữ
tại nước Mỹ. Trận mưa thiên thạch này bất kể là về số lượng, trọng lượng và phạm vi tỏa rộng
khi rơi đều hiếm thấy trên thế giới.
Tiểu Mạnh đọc xong tin này, Mao Trạch Đông lại nằm xuống giường, mở to mắt, nhìn
lên trần nhà, hai giọt nước mắt trào ra từ hai mắt. Tiểu Mạnh hốt hoảng, vội vã hỏi: “Thưa Chủ
tịch, Chủ tịch thấy khó chịu ở chỗ nào?” Mao Trạch Đông thở dài, “Xem ra tôi không qua nổi
năm nay”. Tiểu Mạnh cảm thấy buồn, an ủi Mao Trạch Đông: “Chủ tịch chớ nghĩ nhiều, Chủ
tịch sẽ sống lâu”. Mao Trạch Đông cười gượng: “Con người ta ăn ngũ cốc hoa màu, có ai không
chết. Tôi hỏi cô, cô có nghe thấy dân chúng bàn luận thế nào không?” Tiểu Mạnh lắc đầu:
“Không biết ạ, để ý đến cái đó làm gì?” Mao Trạch Đông lẩm bẩm một mình: “Đúng vào lúc này
lại rơi những hòn đá ấy, dân chúng nhất định sẽ bàn luận”. Tiểu Mạnh nói: “Chẳng qua chỉ là
một ngôi sao băng rơi xuống thôi, có gì mà Chủ tịch phải quan tâm?”. Mao Trạch Đông lắc đầu:
“Cô còn nhỏ, không biết đâu”.
Mao Trạch Đông nghĩ gì? Ông nghĩ đến lịch sử, trong các sách của Trung Quốc thường
ghi chép những tin về các thiên thạch rơi, đồng thời cho rằng đó là điểm báo hiệu đất nước sẽ có
những sự biến to lớn xảy ra. Trong kinh điển Nho gia có một lý thuyết là “Thiên nhân cảm ứng”
(cảm ứng giữa trời và người), học thuyết này cho rằng: Nhân gian có thay đổi gì, “Trời” sẽ có
điềm báo tương ứng. Nếu quốc gia trăm họ yên lành thái bình thì sẽ có chim phượng hoàng bay
lượn, kỳ lân nhảy múa, mưa thuận gió hòa, bảo bối xuất hiện, đó đều là điềm lành; Nếu đất nước
có gian thần nắm quyền, quốc chính không sửa đổi, thì lụt lội hạn hán sẽ xảy ra liên tiếp, sự hung
ác quái đản đầy rẫy, đó là điềm tai họa. Trên trời rơi xuống ngôi sao lớn, mỗi ngôi đều có nghĩa
là đất nước sẽ có một nhân vật lớn qua đời. Xem trong các tiểu thuyết lịch sử như “Tam Quốc
diễn nghĩa” v.v.. viết về Gia Cát Lượng, Triệu Vân, những danh tướng qua đời đều có báo trước:
trên trời có những ngôi sao băng vào ban đêm. Thời thanh niên Mao Trạch Đông không tin
những điều ấy, nhưng giờ đây sao ông không thể rũ được những bóng đen về trận mưa thiên
thạch ấy. Ba khối đá lớn ấy, điềm ai sẽ chết đây? Lẽ nào là điềm báo về cái chết của Chu Thủ
tướng, Tổng Tư lệnh và bản thân mình, Thủ tướng đã qua đời, Tổng Tư lệnh cũng đã thọ 90, sức
khỏe không tốt, bệnh tình cũng ngày càng nặng. Lẽ nào Tổng Tư lệnh và mình không qua nổi
năm nay?
Mao Trạch Đông ngẫm nghĩ mà lòng dạ rối bời, ông cầm lấy tờ báo xem lại lần nữa. “Rất
nhiều mảnh thiên thạch nhỏ rơi xuống khu ngoại ô thành phố Cát Lâm, điều đó có ý nghĩa gì? Vì
sao lại xuất hiện mưa thiên thạch? Ông nghĩ mãi mà không ra...
Có thể là một sự trùng hợp, có thể là sự ứng nghiệm của thuyết thiên nhân cảm ứng, tai
nạn lớn ở Trung Quốc xảy ra hết lần này đến lần khác, sau khi Chu Ân Lai qua đời thì ủy viên
trưởng Chu Đức cũng ra đi.
Sau khi Chu Ân Lai mất, Chu Đức thường ngồi khóc một mình, miệng lẩm bẩm: Ân Lai,
Ân Lai”. Thường xuyên không ăn được cơm và cũng không ngủ được. Ông đã 90 tuổi, vẫn
thường xuyên xem văn kiện, tiếp kiến khách nước ngoài. Phu nhân của ông là Khang Khắc
Thanh khuyên ông nên giữ gìn sức khỏe, ông thở dài: “Ân Lai mất rồi, tôi phải làm thêm một
chút, nếu không, bọn ấy sẽ càng điên cuồng”. Vì quá căng thẳng và mệt mỏi, bệnh phổi của Chu
Đức tái phát, nhưng ông vẫn kiên trì làm việc. Ít lâu sau, do một sự sai sót trong việc sắp xếp cố
ý hoặc vô ý, đã làm cho bệnh của Chu Đức nặng thêm.
Ngày 21 tháng 6 Chu Đức tiếp kiến thủ tướng liên bang Ôt-xtrây-lia Mác-cô-mơ Phơ-
rây-dơ, do sai sót trong việc sắp xếp, Chu Đức phải đợi trong phòng khách rất lâu, nên đã bị
cảm, sau khi vào viện, lại đồng thời phát hiện bệnh viêm dạ dày và ruột cùng bệnh thận, sốt cao
không giảm. Lúc mê sảng, ông vẫn còn kêu: “Cách mạng đến cùng!”.
3 giờ chiều ngày 6 tháng 7, Chu Đức qua đời. Bắc Kinh đã tổ chức lễ truy điệu long
trọng.
Ba khối thiên thạch nếu quả là điềm dữ, thì hai khối thiên thạch đã ứng nghiệm, còn điềm
dữ của khối thứ ba, cũng chính là điềm dữ của khối thiên thạch lớn nhất có một không hai trên
thế giới sẽ rơi vào ai đây? Trận mưa thiên thạch như trút này sẽ báo điềm gì? Dân gian đồn đại
ầm ĩ, lãnh đạo trung ương vô cùng căng thẳng.
2
Tranh giành “di sản” Giang Thanh quả là đáo để
Quốc Phong, Diệp soái cùng hợp mưu bắt “bọn bốn tên”
6. Chen vai thích cánh trong cuộc “chiến tranh” cướp quyền
Tình hình vẫn đang phát triển, “cuộc đại chiến văn kiện” vẫn chưa thu quân.
Ngày 21 tháng 9, khi văn phòng Trung ương thanh tra văn kiện, phát hiện Giang Thanh
và Mao Viễn Tân lấy danh nghĩa là “xem một chút” đã lừa lấy được hai văn kiện từ chỗ Trương
Ngọc Phượng mà chưa trả lại. Một văn kiện là phụ bản ghi cuộc nói chuyện của Giang Thanh
với một phóng viên nước ngoài, một văn kiện khác là bản ghi chép cuộc nói chuyện của Mao
Trạch Đông với Dương Đắc Chí, Vương Lục Sinh ở Vũ Hán năm 1974. Đây là hai văn kiện
mang tính chất cơ mật quan trọng, nhất định phải truy đòi lại.
Giang Thanh và Mao Viễn Tân ì ra không trả. Trải qua một “cuộc tranh giành”, Giang
Thanh đành phải trao trả văn kiện và nói đây là một sự “hiểu lầm”, nhưng lại đưa ra một điều
kiện: đòi sau khi Hoa Quốc Phong xem xong chính thức phê duyệt rồi chuyển cho Vương Hồng
Văn và Trương Xuân Kiều đọc. Bà ta viết một mẩu giấy gửi cho Hoa Quốc Phong, đưa ra yêu
cầu này. Hoa Quốc Phong không trả lời bà ta, giữ văn kiện lại.
Kết quả là văn kiện trả lại đã bị Giang Thanh sửa chữa be bét. Một đoạn dài ghi những
lời bà ta ca ngợi mình, công kích người khác khi nói chuyện với phóng viên nước ngoài đã bị
xóa bỏ; một đoạn ghi chép cuộc nói chuyện khác đã được làm giả. Trong đó đã nói: Năm 1974
Mao Trạch Đông bảo Dương Đắc Chí và Vương Lục Sinh phải “giúp đỡ Diệp Quần”, người mà
3 năm trước đã chết vì rơi máy bay ở Ôn-đu-han v. v... và v.v… chẳng phải là những lời bịp bợm
hay sao?
Kẻ xảo quyệt nhất cũng là kẻ ngu xuẩn nhất. Bọn Giang Thanh vốn cho rằng lừa lấy được
văn kiện trong tay thì có thể bí mật sửa chữa, mưu đồ mượn tay Mao Trạch Đông để chỉnh cán
bộ lãnh đạo quân đội, sau này bị buộc phải trả lại, lại cuống chân cuống tay lấy giả làm thật, đã
sửa năm 1974, Mao Trạch Đông nói chuyện thành “năm 1976”. Càng vô lý hơn là Giang Thanh
đã ghi thêm chú thích vào bản ghi chép và ký tên mình.
Sự mở đầu và kết thúc cuộc “đại chiến văn kiện này”, thư ký Trương Ngọc Phượng đã tố
cáo như sau:
“Giang Thanh âm mưu lừa để lấy trộm bản thảo và văn kiện của Mao Chủ tịch. Sau khi
Chủ tịch mất, Giang Thanh tỏ ra khác thường, hằng ngày đấn chỗ ở của Mao Chủ tịch tìm tôi.
Nhiều lần muốn xem 9 bản thảo gốc cùng bản thảo đã sửa chữa và một số bút tích của Mao Chủ
tịch. Tôi cảm thấy không thỏa đáng, vì nó không hợp với thủ tục của tổ chức. Sau khi Chủ tịch
mất, Trung ương vẫn chưa quyết định văn kiện sẽ làm như thế nào, tôi không thể tùy tiện đưa
cho bà ta, tôi thoái thác là bản thảo gốc không có ở chỗ tôi. Giang Thanh, Mao Viễn Tân thấy
không thể lấy được văn kiện ở chỗ tôi, nên đã vu cho tôi tội: “lấy cắp văn kiện”, muốn dùng
“biện pháp khẩn cấp” để bức hại tôi, nhằm đạt được mục đích lừa lấy trộm văn kiện. Sau lễ truy
điệu, Giang Thanh lại tìm tôi để đòi, đòi rất gấp. Tôi rất khó xử. Sau khi Giang Thanh đi, tôi lập
tức gọi điện thoại cho đồng chí Uông Đông Hưng, đề nghị cần phải giải quyết như thế nào,
đồng thời mời đồng chí ấy đến. Sau khi đồng chí Đông Hưng đến, tôi báo cáo việc Giang Thanh
đòi văn kiện và việc Giang Thanh, Mao Viễn Tân lấy danh nghĩa xem một chút để lừa lấy hai
bản ghi cuộc nói chuyện của Mao Chủ tịch và Dương Đắc Chí cùng Vương Lục Sinh. Chủ nhiệm
Uông Đông Hưng chỉ thị, phải đòi lại hai văn kiện này. Đồng thời truyền đạt cho tôi biết là Bộ
Chính trị đã nghiên cứu chuẩn bị niêm phong văn kiện để bảo tồn”.
Đây là tội chứng của Giang Thanh lấy cắp bản thảo viết tay và văn kiện của Mao Trạch
Đông.
Cuộc “chiến tranh” cướp quyền mà “bọn bốn tên” phát động không chỉ một nơi.
Đồng thời với cái gọi là tiến hành cuộc “đại chiến văn kiện” trong “Hội nghị Thường vụ
Bộ Chính trị”, về mặt bảo vệ thi hài Mao Trạch Đông họ liên tục đưa ra những vấn đề hóc búa,
gây trở ngại. Tối ngày 19 tháng 9 quyết định di chuyển thi hài Mao Trạch Đông; Giang Thanh và
Mao Viễn Tân vốn nói là phải tham gia nhưng sau khi họ nghe nói việc bảo tồn thi thể về thời
gian và kỹ thuật đều có vấn đề, nên đã kiếm cớ nói rằng, đã không để cho họ bảo quản văn kiện
thì cũng không tham gia việc bảo tồn thi hài. Vì sao lại nhiệt tình với “văn kiện” như thế, còn với
“thi hài” thì lại lạnh nhạt? Đó chẳng phải là điều đáng suy nghĩ hay sao? Không phải là độc nhất
vô nhị, ngày 21 tháng 9, ngày niêm phong bảo tồn văn kiện, Vương Hồng Văn đã chuyển “chiến
trường” lặng lẽ trở về Thượng Hải. Anh ta lấy tư cách là Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, đồng
thời với việc cố gắng tổ chức “lực lượng vũ trang thứ 2”, còn ra sức gây dư luận, rêu rao khắp
nơi: “Việc bảo vệ thi hài Mao Chủ tịch không dễ dàng. Về vấn đề này, Giang Thanh, Xuân Kiều
và tôi rất có ý kiến đối với sự sơ suất của một số người”. “Một số người” mà anh ta nói là chỉ
Hoa Quốc Phong và một số người. Khi mọi người quan tâm hỏi làm thế nào thì anh ta đẩy toàn
bộ trách nhiệm cho “Trung ương”, rằng “bước tiếp theo các đồng chí sẽ nghe sự sắp xếp thống
nhất của Trung ương”. Đồng thời mượn cớ này để kéo dài thời gian của đơn vị tiếp nhận xử lý
thi hài, nhằm mục đích hễ thi hài xử lý không tốt ảnh hưởng tới việc bảo tồn sẽ đem tội danh
chống Mao Trạch Đông chụp lên đầu Hoa Quốc Phong và những người lãnh đạo khác. Đây là
một mũi tên độc bắn từ chiến trường Thượng Hải, cũng có thể cói là “một mũi tên trúng hai
đích”.
7. Quyết sách cuối cùng trong tình trạng khẩn cấp
Sự tiến sát từng bước của “bọn bốn tên” đặc biệt là sự quấy rầy về vấn đề niêm phong
bảo tồn văn kiện và xử lý thi hài v.v... một cách vô lý, liên tục chống đối, làm cho Hoa Quốc
Phong ăn không ngon ngủ không yên, ông ta hiểu sâu sắc rằng sự kiêu căng ngạo mạn chống
Đảng của “bọn bốn tên” ngày càng dữ, không thể nhân nhượng mãi được nữa, đã đến lúc phải
chống lại rồi.
Hoa Quốc Phong, người lãnh đạo chủ yếu của Đảng và Nhà nước này đã nghiêm chỉnh
suy nghĩ về những ý kiến của Diệp Kiếm Anh, suy nghĩ đi suy nghĩ lại về sách lược đối phó như
thế nào với “bọn bốn tên”.
Đúng, nên đến chơi các đồng chí cũ nhiều hơn. Ông đã đến gặp một số đồng chí cũ. Đặng
Dĩnh Siêu, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng, Tô Chấn Hoa, Trần Tích Liên v.v… đều đã nêu ra
một số kiến nghị với ông ta, hình thành nên kế sách lớn trị quốc an bang.
Tối ngày 21 tháng 9, Hoa Quốc Phong đi xe đến nhà Lý Tiên Niệm. Hoa Quốc Phong
vào trong nhà, vẫn chưa ngồi xuống ghế đã vội vội vàng vàng nói, đằng sau có người theo dõi,
chỉ có thể ngồi một lúc. Ông nói khái quát về những hoạt động điên cuồng cướp quyền lãnh đạo
của “bọn bốn tên” và tình cảnh khó khăn của mình: “Xem ra một cuộc đấu tranh giữa chúng ta
và họ là không thể tránh khỏi!” Lý Tiên Niệm cũng đang lo lắng sâu sắc về việc này.
Hoa Quốc Phong nghĩ tới việc lúc này ông ra mặt gặp Diệp Kiếm Anh sẽ không tiện lắm,
liền đề nghị Lý Tiên Niệm thay mặt ông đi gặp: “Đồng chí Tiên Niệm, có lẽ đồng chí đến Tây
Sơn một chuyến, nói lại với Diệp soái về ý kiến của tôi, nhất thiết phải mời đồng chí ấy tìm biện
pháp giải quyết”.
Lý Tiên Niệm đã vui vẻ nhận sứ mệnh trọng đại này.
Tục ngữ có câu: “Không có sự trùng hợp thì không thành sách”. Cái sự “trùng hợp” này
quá nửa là do người viết sách viết ra. Có điều nói ở đây thì hoàn toàn là thật. Lịch sử quả có sự
trùng hợp ấy.
Gần như cùng một thời gian, Hoa Quốc Phong đến gặp Lý Tiên Niệm đề nghị ông đến
nói lại với Diệp Kiếm Anh, thì Nhiếp Vinh Trăn cũng gặp Dương Thành Vũ và cũng đề nghị
Dương Thành Vũ nói lại với Diệp Kiếm Anh.
Từ sau khi Mao Trạch Đông bị bệnh nặng, Nhiếp Vinh Trăn đã chuyển từ Tây Sơn vào ở
trong thành. Trước khi xuống núi, ông đến từ biệt Diệp Kiếm Anh hẹn với nhau có tin tức gì thì
thông báo và liên hệ nhiều hơn. Với nhãn quang của nhà chiến lược chính trị luôn luôn chăm chú
theo dõi sự thay đổi của cục diện chính trị Trung Quốc, càng ngày ông càng cảm thấy “mấy cái
đó” giày vò quá mức. Hôm ấy ông mời Quyền Tổng Tham mưu trưởng Dương Thành Vũ đến
nhà, để nói trực tiếp về những biện pháp cần thiết. Dương Thành Vũ là chiến sĩ cũ của Hồng
quân Mẫn Tây (Tây Phúc Kiến), sinh ra ở nông thôn vùng Trường Giang Phúc Kiến là nhà quân
sự hiện đại nổi tiếng của Trung Quốc, sau khi chiến tranh kháng Nhật bùng nổ, đã chiến đấu
dưới sự lãnh đạo của Nhiếp Vinh Trăn trong một thời gian dài, đã dẫn quân bắn chết viên tướng
nổi tiếng có “Danh hiệu chi hoa” của quân Nhật. Sau khi thành lập nước 1949, trong một thời
gian dài đã công tác ở Quân khu Bắc Kinh và Bộ Tổng Tham mưu, không những có tình cảm đặc
biệt với Nhiếp Vinh Trăn mà cũng giữ mối liên hệ mật thiết với Diệp Kiếm Anh và các vị
nguyên soái khác. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, vì quan hệ công tác, ông thường xuyên ở
Tây Sơn, nên việc tiếp xúc với hai nguyên soái Diệp Kiếm Anh và Nhiếp Vinh Trăn nhiều hơn
và chặt chẽ hơn. Sau khi Nhiếp Vinh Trăn không ở Tây Sơn, rất tự nhiên ông trở thành “liên lạc
viên” của hai vị nguyên soái.
“Tôi rời Tây Sơn đã rất lâu rồi, tình hình ở đấy gần đây như thế nào? Diệp Soái có khỏe
không?” Vừa thấy Dương Thành Vũ, Nhiếp Vinh Trăn đã vồn vã hỏi thăm.
Dương Thành Vũ vẫn ở nhà số 5 trong khu Tây Sơn, cách nhà số 15 nơi Diệp Kiếm Anh
ở cũng chỉ vài chục mét, ông thường đi đường tắt tới thăm Diệp Kiếm Anh. Dương Thành Vũ
đáp: “Hôm kia tôi có tới thăm đồng chí ấy, tinh thần rất tốt”.
Nhiếp Vinh Trăn vui mừng gật gật đầu, lại hỏi tiếp: “Người ấy đã đi chưa?” Ông thấy
Dương Thành Vũ ngơ ngác, nên nói thêm ba chữ với vẻ khinh bỉ: “Vương Hồng Văn”
Dương Thành Vũ vỡ lẽ liền trả lời: “Người này lúc đến lúc đi, hành tung bất định”.
Nhiếp Vinh Trăn nói: “Cần phải cảnh giác! Mấy đứa ấy đều là bọn phản cách mạng. Việc
gì xấu xa chúng cũng có thể làm, đề phòng chúng ra tay trước. Nếu chúng ám hại được Tiểu
Bình, giam lỏng được Diệp soái, trừ bỏ được Hoa Quốc Phong, thì sẽ rất phiền. Ông ta dùng biện
pháp thông thường đấu tranh trong Đảng để giải quyết vấn đề của chúng thì chẳng ăn thua gì, chỉ
có chúng ta ra tay trước, dùng biện pháp cương quyết mới có thể phòng ngừa được bất ngờ”.
Tiếp đó Nhiếp Vinh Trăn dặn Dương Thành Vũ, nhanh chóng về Tây Sơn ngay, nói lại ý
đó với Diệp Kiếm Anh và dặn đi dặn lại là phải giữ bí mật: “Ý này lần trước ở Tây Sơn tôi đã
bàn rồi, việc không nên trì hoãn!”
Dương Thành Vũ từ biệt Nhiếp Vinh Trăn ngay đêm ấy lên Tây Sơn đến nhà số 15, Diệp
Kiếm Anh nghe có “liên lạc viên” đến chuyển lời, ông sợ tai vách mạch rừng nên dẫn Dương
Thành Vũ ra vườn hoa trước nhà, sau khi nghe xong báo cáo, ông vui vẻ: “Nghe rõ rồi, nghe rõ
rồi”.
Đêm Tây Sơn, lặng lẽ thanh bình.
Diệp Kiếm Anh ngồi bên bể nước trong sân, nhìn những trái táo trĩu nặng trên cành cây
trước mặt, tự nghĩ: Chín rồi, chín rồi, sắp chín rồi.
Một lúc sau, ông đến gần Dương Thành Vũ, trong mắt lóe lên những tia sáng khác
thường, phấn chấn nói: “Đồng chí nói với đồng chí Vinh Trăn, xin đồng chí ấy yên tâm, đồng chí
ấy và tôi đã cùng chung ý nghĩ rồi, có việc gì thì thông báo bàn bạc ngay bất kỳ lúc nào”.
Chiều ngày 24 tháng 9, trời thu trong xanh cao vút, trời nắng ấm, đúng là ngày đẹp trời.
Nhà cách mạng lão thành Lý Tiên Niệm lấy danh nghĩa là đi thăm Vườn thực vật Tây Sơn đi xe
về phía Hương Sơn, qua Di Hòa Viên, chùa Ngọa Phật, sắp sửa đến vườn Thực vật, ông khẽ bảo
lái xe rẽ ngoặt về phía bắc đi thẳng vào Tây Sơn. Xe dừng lại ở Tượng Tỵ Tử Câu. Ông dặn
những người đi cùng thông báo cho nhà số 15, có việc muốn gặp Diệp soái.
Tham mưu cảnh vệ nhận điện thoại, lập tức báo cáo thủ trưởng. Diệp Kiếm Anh cảm thấy
rất đột ngột. “Chó săn đang rình mò ở bên cạnh. Có nên gặp không? Vốn không muốn gặp,
nhưng lại thấy không thỏa đáng. Ông do dự. Sau khi Diệp Kiếm Anh bị tuyên bố “bị ốm” không
lâu, Lý Tiên Niệm cũng bị “bọn bốn tên” theo dõi giám sát cũng “nghỉ vì bị ốm”. Ông đã mạo
hiểm đến thăm Diệp Kiếm Anh, khuyên ông nên “dưỡng bệnh” ở Bắc Kinh không nên đi lại tuỳ
tiện. Sau khi hai nhà cách mạng lão thành bí mật bàn bạc, Diệp Kiếm Anh bảo ông, sau này
không nên đến nhà, cũng không nên gọi điện thoại, để tránh rắc rối. Từ đó về sau, trong một thời
gian dài hai người chẳng có liên hệ gì.
Bây giờ đã bao nhiêu lâu Lý Tiên Niệm mới lại đến nhà, lại lên núi dưới sự giám sát của
Vương Hồng Văn!
“Mã Đầu” lại đến báo cáo: “Thủ trưởng, đồng chí Tiên Niệm đã đến rồi ạ!”
Diệp Kiếm Anh ra đón.
“Trời ơi, cơn gió nào đã đưa anh đến đây?” Diệp Kiếm Anh ra đến hành lang đón hóm
hỉnh hỏi.
Người hỏi người đáp rồi cùng đi vào phòng.
Diệp Kiếm Anh đoán người bạn chiến đấu cũ mạo hiểm đến đây hẳn là có chuyện gì
quan trọng cần bàn, bèn trịnh trọng hỏi:
“Đồng chí đến đây thăm tôi vì quan hệ cá nhân hay vì vâng lệnh mà đến”.
“Vì cả hai”. Lý Tiên Niệm nhìn chung quanh vui vẻ nói.
“A, rõ rồi”. Theo thói quen Diệp Kiếm Anh quay người bật máy thu thanh, mở tiếng khá
to, “Tiếng hát” của vở kịch “Chiếc đèn đỏ” oang oang.
Lý Tiên Niệm hạ thấp giọng, truyền đạt lại ý kiến của Hoa Quốc Phong, đồng thời nhắc
đi nhắc lại: “Ý của đồng chí ấy là đề nghị đồng chí cân nhắc dùng phương thức gì và thời gian
nào giải quyết mới tốt”.
“Hay lắm!” Diệp Kiếm Anh không kìm được niềm xúc động trong lòng. Ông chờ mong
giờ phút này đã rất lâu rồi! Đòi hỏi ông phải hạ quyết tâm cuối cùng, giờ phút quyết định đã đến.
Ông bực tức nói: “Cuộc đấu tranh giữa chúng ta với chúng là cuộc đấu tranh sinh tử, không có
chỗ cho dàn xếp”.
Lý Tiên Niệm cũng nói dự đoán đối với tình hình, tán thành ý kiến của Diệp Kiếm Anh.
Họ bí mật bàn bạc với nhau một lúc, cảm thấy sự việc trọng đại, cần có sự xử trí thỏa đáng, sắp
xếp chu đáo, quả quyết dứt khoát. Mặc dù thời gian và hoàn cảnh không cho phép họ bàn nhiều,
nhưng cuộc gặp gỡ trong giờ phút then chốt này có tác dụng quan trọng đối với việc thúc đẩy
Diệp Kiếm Anh đưa ra quyết sách cuối cùng và thực thi.
Đưa tiễn Lý Tiên Niệm, Diệp Kiếm Anh mang theo tâm trạng phấn chấn xuống núi đến
nhà số 2. Ở đây, ông đã triệu kiến riêng các vị tướng Túc Dụ, Tống Thời Luân. Thông báo cho
họ biết: “Phải tăng cường canh phòng, trong lúc này mắt phải sáng, tai phải thính, miệng phải
kín!”.
Hai hôm sau, Dương Thành Vũ phải xuống núi, trước khi đi, ông đến gặp Diệp Kiếm
Anh. Diệp Kiếm Anh mỉm cười nói: “Đồng chí nói lại với đồng chí Vinh Trăn là Tiên Niệm đã
đến đây. Tôi đang cân nhắc ý kiến mà đồng chí Vinh Trăn nói lần trước”. Đồng thời nói thêm
một cách khôi hài: “Thỏ khôn phải có nhiều chỗ ở, tôi sẽ lập tức chuyển nhà, đồng chí nói với
đồng chí Vinh Trăn cũng phải chú ý an toàn!”
Nhưng, cuối cùng phải dùng biện pháp gì để giải quyết “bọn bốn tên”, Diệp Kiếm Anh
chưa định được ván cờ. Ông căn nhắc đắn đo, lật đi lật lại, từng người đối với “kính mắt” ba giọt
nước v.v… Dựa vào tình hình khác nhau của từng người, tính toán các biện pháp khác nhau, đã
tính tới việc “giải quyết chung” và cũng tính tới việc “xử trí cá biệt”, đã tính tới việc dùng biện
pháp khẩn cấp, từ “cách ly để thẩm tra” đến việc bắt giam công khai, cũng nghĩ tới biện pháp
quá độ, lần lượt điều họ khỏi Trung ương đến các tỉnh, rồi xem tình hình, từ từ giải quyết. Cuối
cùng vẫn nghiêng về cách “vét sạch trong một mẻ lưới”.
Ông lại cho người mời “tham mưu liên lạc”.
Vương Chấn luôn luôn có mặt ngay sau khi có lệnh của Diệp Kiếm Anh. Đã đến là rất
tận tuỵ.
“Anh Râu này, nhiệm vụ của anh vẫn chưa hoàn thành”.
“Vâng, tôi sẽ đi hát “Nhị tiến Cung”!”
Diệp Kiếm Anh khẽ nói với ông chuyện Lý Tiên Niệm vừa đến đây, sự việc không thể
kéo dài dược nữa. Vương Chấn tức khắc đến nhà Trần Vân để xin ý kiến.
Trần Vân trầm ngâm hồi lâu, chậm rãi nói: “Cũng đành như vậy”. Tiếp đó lại bổ sung
thêm một câu: “Chỉ có thể giải quyết như vậy một lần thôi!” Và dặn đi dặn lại là Diệp Kiếm Anh
phải nhanh chóng hạ quyết tâm lấy chắc chắn làm thượng sách.
8. “Bọn bốn tên” đại náo Bộ Chính trị
Cùng lúc này, “bọn bốn tên” ra sức củng cố “căn cứ địa” Thượng Hải.
Ngày 27 tháng 9, Trương Xuân Kiều đích thân xuất trận, đưa ra “chỉ thị ba điểm” cho
Thượng Hải: 1) Phải cảnh giác Trung ương có chủ nghĩa xét lại; 2) Từ nay về sau Trung ương sẽ
thực hiện lãnh đạo tập thể; 3) Không xuất bản “Mao tuyển” tập 5, nhưng có thể xuất bản bản in
lẻ, đưa ra trước 5 điều kiện để chọn người nối nghiệp. “Lãnh đạo tập thể mà ông ta nói chính là
lãnh đạo của “bọn bốn tên”, điều kiện của “người nối nghiệp” là điều kiện để “bọn bốn tên” lên
cầm quyền.
Ngày 28 tháng 9, Trương Xuân Kiều không yên tâm, lại cử Tiêu Mộc nhắn miệng cho
những người lãnh đạo Thành ủy Thượng Hải rằng: “Phải thường xuyên nghiên cứu tình hình đấu
tranh giai cấp. Một mặt phải đề cao cảnh giác, một mặt phải nâng cao lòng tin... Tất nhiên phải
nhìn thấy trắc trở, phải thấy được giai cấp tư sản vẫn còn lực lượng. Vấn đề là ai cầm đầu... Nói
thực, Thượng Hải vẫn chưa trải qua thử thách nghiêm trọng thực sự, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình
muốn thực hiện ở Thượng Hải nhưng không thực hiện được. Nếu Lâm Bưu thực hiện được,
Thượng Hải sẽ có thử thách lớn, phải giao chiến”.
Trương Xuân Kiều là một kẻ có âm mưu lớn, phù thủy ma quái, giỏi “nói lóng”. Ở đây đã
mập mờ bảo Thượng Hải chuẩn bị sự “thử thách nghiêm trọng” thực sự, phải chuẩn bị “giao
chiến”. Ông ta nêu rằng: “Vấn đề là ai cầm đầu?” Chính là ám chỉ vấn đề “cầm đầu”, muốn ra
tay cướp quyền lãnh đạo cao nhất! “Lời nhắn miệng” này của Trương Xuân Kiều trên thực tế là
tín hiệu của “bọn bốn tên” muốn dùng vũ trang cướp quyền, cũng là ra lệnh động viên cho đồng
đảng ở Thượng Hải tiến hành bạo loạn vũ trang phản cách mạng.
Tối ngày 28 tháng 9, Trương Xuân Kiều lặng lẽ lủi đến nhà 201 nơi ở của Giang Thanh
trong Trung Nam Hải. Trong “Tiêu Dao Cương” cao cấp, kết hợp giữa cổ sức cổ hương với thiết
bị hiện đại phương Tây, một người đàn ông và một người đàn bà của bãi Thượng Hải năm xưa
lại thầm thì to nhỏ, chuẩn bị phát động một “chiến dịch cướp quyền” mới.
Ngày 29 tháng 9, “chiến dịch” đã phát nổ trong sự ầm ĩ của cuộc đại náo Bộ Chính trị.
Tham dự cuộc họp này có Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng v.v... những
người có mặt ở Bắc Kinh và một số ủy viên ở các nơi. Nửa đêm, đồng hồ báo giờ điểm 11 tiếng.
Hội nghị vừa bắt đầu, không khí đã rất căng thẳng. Vấn đề mà người chủ trì là Hoa Quốc Phong
muốn thông qua hội nghị giải quyết là việc “bọn bốn tên” ngày nào cũng cãi cọ gây rối, muốn đè
bẹp sự ngang ngược của chúng. Trải qua sự chuẩn bị đầy đủ “bọn bốn tên” đại náo một trận,
mưu đồ cướp cho được quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng. Giang Thanh rất có lòng tin đối với
việc này, bà ta tức giận đứng lên chống lại trước tiên, nêu thẳng thừng: “Mao Chủ tịch qua đời
rồi, lãnh đạo Trung ương Đảng làm thế nào?” Công kích một cách láo xược Hoa Quốc Phong về
cái gọi là “vấn đề bảo đảm ổn định” do dự không dám quyết định, không có năng lực. Vương
Hồng Văn, Trương Xuân Kiều kẻ xướng người hoạ, đòi tăng cường lãnh đạo tập thể, sắp xếp
công tác cho Giang Thanh. Cái mà họ gọi là “sắp xếp công tác” chính là để Giang Thanh làm
Chủ tịch Đảng. Đây là vấn đề lớn đầu tiên họ suy nghĩ chuẩn bị đã lâu sốt ruột muốn giải quyết
từ sau khi Mao Trạch Đông qua đời. “Bọn bốn tên” hiểu rằng chỉ có phất ngọn cờ Giang Thanh
mới có thể đè bẹp được Hoa Quốc Phong.
Nhưng họ đã đánh giá sai tình hình. Trong lòng đa số các ủy viên, trước đây ngại vì
“đánh chuột vỡ bình” đã quan tâm và thông cảm với Giang Thanh, nhưng bây giờ tình hình đã
khác rồi, “bọn bốn tên” giương ngọn cờ Giang Thanh, gây rối một cách vô lý, lẽ tất nhiên bị
Diệp Kiếm Anh và Lý Tiên Niệm cùng đa số các ủy viên phản đối và phủ quyết.
“Bọn bốn tên” thấy phát súng đầu tiên không nổ, liền phá đám bằng cách nêu ra vấn đề
Mao Viễn Tân có về Liêu Ninh hay không. Đây hoàn toàn là có mưu tính trước. Trước đó họ đã
bày mưu cho Mao Viễn Tân gửi cho Hoa Quốc Phong một bức thư nói về việc này, nói Mao
Viễn Tân với tư cách là “liên lạc viên” của Mao Trạch Đông, nay đã không còn việc gì để làm ở
lại Bắc Kinh hay về Liêu Ninh? Nếu có việc, anh ta có thể ở lại. Bức thư này là để “dò đường”.
Muốn thăm dò Hoa Quốc Phong, đòi ông tỏ thái độ, ý đồ đích thực của họ là muốn Mao Viễn
Tân tiếp tục ở lại Bắc Kinh. Hoa Quốc Phong đã đọc bức thư của Mao Viễn Tân trong hội nghị,
đồng thời nói rõ ràng là đồng ý để Mao Viễn Tân về Liêu Ninh. Việc này đã đập tan tính toán
của “bọn bốn tên” họ vừa nghe đã nhảy dựng lên, tức giận kêu la: “Mao Viên Tân cần phải ở
lại!”. Giang Thanh nói: “Mao Viễn Tân ở lại còn phải xử lý hậu sự của Mao Chủ tịch!”.
Hoa Quốc Phong cũng không chịu lép: “Chẳng phải là đồng chí đã nói là việc hậu sự của
Mao Chủ tịch đồng chí không tham gia và Mao Viên Tân cũng không tham gia ư? Sao bây giờ
lại nói Mao Viễn Tân ở lại tham gia hậu sự?”
Giang Thanh bị đuối lý, lập tức giở giọng đàn bà đanh đá, lớn tiếng cãi chày cãi cối, phủ
nhận lời mình đã nói. Nhưng Giang Thanh đã quên là khi bà ta nói điều ấy thì Uông Đông Hưng,
Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều cũng có mặt, nhưng bà ta vẫn cãi là bà ta không nói.
Uông Đông Hưng đã phải đứng ra làm chứng, còn Vương Hồng Văn và Trương Xuân
Kiều thì ngậm tăm! Giang Thanh lập tức khóc lóc ầm ĩ vu vạ: “Các anh muốn đuổi tôi đi, tôi
không đi, tôi cứ ở lại đấy!”.
Hội nghị chìm trong không khí tẻ nhạt.
Một lúc sau, Trương Xuân Kiều kẻ giỏi nịnh lại đứng lên hoà giải: “Thế này vậy, để Mao
Viễn Tân tạm thời ở lại đây, đồng chí ấy quen thuộc tình hình, những điều mà Chủ tịch viết chỉ
có đồng chí ấy hiểu được”.
Giang Thanh tự biết mình đuối lý, liền lau nước mắt, thôi không đối đầu nữa, nói như
vẹt: “Đúng đấy! Cứ giao văn kiện, tài liệu của Mao Chủ tịch cho Mao Viễn Tân. Làm như vậy,
tôi yên tâm”. Diệp Kiếm Anh nghe tận tai nhìn tận mắt, ông vẫn quan sát sự biểu diễn của “bọn
bốn tên”. Ông hiểu rất rõ: Mao Viễn Tân là một người tiếp xúc nhiều nhất với Chủ tịch trong
thời gian Chủ tịch bị bệnh nặng, nắm rất nhiều cơ mật quan trọng, “bọn bốn tên” muốn giữ anh
ta lại, để cùng gây sự, như vậy sao được? Huống hồ khi Mao Trạch Đông còn sống đã dặn Mao
Viễn Tân không nên theo Giang Thanh, nhưng anh ta cứ theo Giang Thanh! Nghĩ đến đây, ông
nói như đinh đóng cột: “Tôi đồng ý ý kiến của đồng chí Quốc Phong, Mao Viễn Tân nên về Liêu
Ninh, văn kiện vẫn do văn phòng Trung ương phụ trách bảo quản”. Lý Tiên Niệm và mấy đồng
chí ủy viên khác cũng đều đồng ý như vậy, đều ủng hộ Hoa Quốc Phong.
“Bọn bốn tên” tiếp tục gây rối, đưa ra đủ thứ lý do, kiên quyết giữ Mao Viễn Tân ở lại.
Hội nghị căng thẳng, từ nửa đêm đến sáng hôm sau, tranh cãi kịch liệt, gây rối vô lý, làm
cho mọi người mệt mỏi vô cùng. Đột nhiên, Giang Thanh điên cuồng nổi giận, vừa khóc vừa gây
sự, nói ầm ĩ: “Ừ, các đồng chí không muốn thảo luận nữa! Được, ai có liên quan thì ở lại, ai
không có liên quan thì đi hết!” Bà ta hoàn toàn không coi người chủ trì hội nghị ra gì, nghiễm
nhiên coi mình là “nữ hoàng”, để ra lệnh.
Ai “có liên quan”? Ai “không liên quan”? Nói cho rõ, trong con mắt của Giang Thanh chỉ
có mấy người bọn họ là “có liên quan” còn những người khác đều “không có liên quan” sẽ đi
hết. Chỉ còn lại Hoa Quốc Phong, họ sẽ dễ “bắt nạt”!
Tiếp đó mấy tên nam thần cũng phụ họa với “nữ hoàng”.
Hoa Quốc Phong bị ép buộc, đành phải nói: “Phó Chủ tịch Diệp, tuổi đã cao, đồng chí
Tiên Niệm bị bệnh, hai đồng chí có thể về trước, các đồng chí khác không nên về”.
Giang Thanh không nhượng bộ một chút nào: “Không được”.
Vương Hồng Văn cũng dùng quyền uy của Phó Chủ tịch Đảng quát: “Những người
không có liên quan đều về hết!”
Diệp Kiếm Anh thấy người chủ trì hội nghị đã rơi vào cảnh khốn đốn, hơn nữa đã tuyên
bố là ông rút khỏi cuộc họp, nếu kiên quyết không về sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Hoa Quốc
Phong và thế tất sẽ xung đột trực diện với bọn Giang Thanh. Hội nghị như thế này sẽ chẳng hay
ho gì, nếu tiếp tục tham gia, sẽ chẳng có chút ý nghĩa nào. Xuất phát từ toàn cục ông đứng phắt
dậy ra về, tiếp đó có mấy ủy viên khác cũng đứng dậy, hội trường chỉ còn lại sáu bảy người.
Hoa Quốc Phong bảo mọi người ngồi xuống tiếp tục họp.
Giang Thanh vẫn khóc ầm ĩ và giục mọi người về.
Để bảo vệ Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng ngồi yên không động đậy.
Hội nghị lại trở nên căng thẳng.
Một ủy viên ngồi đợi ngoài phòng họp một lúc thấy không có kết quả, lại vào hội trường,
nói sức khỏe của Hoa Quốc Phong không tốt, hội nghị họp kéo dài không lợi, đề nghị giải tán.
“Bọn bốn tên” kiên quyết không giải tán.
Giang Thanh thấy Diệp Kiếm Anh và một số người quả là đã “bị đuổi” về, càng hí hửng
đắc ý. Tiếp tục nói bừa bãi, thao thao bất tuyệt, lúc nói Mao Viễn Tân không thể đi, lúc nói cần
Mao Viễn Tân giúp chỉnh lý văn kiện lưu trữ, tất cả văn kiện nên để bà ta bảo quản, lúc lại nói
phải triệu tập hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương. Trương Xuân Kiều, Diêu Văn
Nguyên, Vương Hồng Văn, theo giọng điệu của Giang Thanh, kẻ hô người ứng, phụ họa cho
nhau. Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng v.v… vừa nói xen vào đã bị bà ta cướp lời, cắt ngang.
Về sau, họ ngồi yên nhìn nhau, rứt khoát ngồi nghe đối phương nói, không hé răng. Đây đâu còn
là Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nữa. Mà đây là hội nghị đấu
tranh của “phái tạo phản” bao vây công kích “phái theo con đường tư bản chủ nghĩa” một trăm
phần trăm.
Hoa Quốc Phong kiên nhẫn đợi “bọn bốn tên” nói đã mệt, không nói nữa, cuối cùng hỏi
Giang Thanh: “Rốt cuộc thì đồng chí muốn làm gì?”
“Muốn thảo luận dự thảo Báo cáo chính trị của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 3” Giang Thanh đã để lộ thiên cơ.
Phó Chủ tịch Diệp Kiếm Anh và một số ủy viên không có mặt, hoàn toàn không thể thảo
luận vấn đề hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương. Cuối cùng Hoa Quốc Phong nói: “Dù
Hội nghị Trung ương lần thứ 3 muốn có Báo cáo chính trị, cũng phải do tôi làm, phải do tôi
chuẩn bị, còn việc sắp xếp nhân sự của Trung ương, phải do Bộ Chính trị thảo luận quyết định”.
Nói xong đứng dậy tuyên bố giải tán.
12. Chúng ta chơi trò “Khoa phụ đuổi theo mặt trời”
Hoàng hôn, ráng chiều lay động, Diệp Kiếm Anh ngồi vào chiếc xe Hồng Kỳ, quay lại
phía sau nhìn mặt trời đang xuống thấp, nói nhỏ: “Chúng ta phải chơi trò “Khoa phụ đuổi theo
mặt trời!”, nhắc lái xe tăng tốc, phải chạy thi với mặt trời đang lặn, đi tắt đến khu dân cư ở ngoại
ô phía đông”.
Chiếc xe con nhãn hiệu Hồng Kỳ chạy như bay. Trước khi mặt trời khuất sau núi phải
đến gần mục tiêu, cố ý rẽ ngoặt mấy chỗ tiến vào khu nhà số 8.
Đó là chỗ ở mới của Hoa Quốc Phong, đã từng là nơi ở cũ sang trọng của Xi-ha-núc.
Hoa Quốc Phong đi đi lại lại trong phòng khách rộng lớn, đang nhức óc vì chuyện “bọn
bốn tên” phát động cuộc truy bức sau Quốc khánh. Diệp Kiếm Anh đột ngột đến đã xua tan bầu
không khí bức bối, chủ nhà phút chốc thấy phấn chấn tinh thần.
“Nhìn thấy tín hiệu mà bọn chúng phát ra chưa?”
Sau khi chủ và khách cùng ngồi, hầu như cùng một lúc cả hai đầu nêu ra vấn đề ấy.
Thế là câu chuyện được bắt đầu từ đây. Diệp Kiếm Anh kể lại toàn bộ tin tức đáng tin
cậy mà chính ông nhìn thấy và nghe thấy cũng như các tin tức qua các nguồn khác.
Hoa Quốc Phong tập trung toàn bộ tinh thần lắng nghe, thinh thoảng lại gật đầu, nói xen
vào và nói lại tình hình mà mình hiểu cho Diệp Kiếm Anh biết, hai bên trao đổi ý kiến.
“Đồng chí Quốc Phong, xem ra sự phát triển của tình thế, không cho phép chúng ta chờ
đợi thêm nữa. Cần phải quyết định ngay!”, “Đúng, vốn theo dự định còn mấy ngày nữa, nhưng e
rằng không kịp”.
“Điều mà nhà quân sự tối kỵ là lỡ thời cơ. Bây giờ phải dựa vào tình hình thay đổi sự bố
trí trước đây chúng ta phải “đánh trước để áp đảo đối phương, lấy nhanh đánh chậm”! Nếu
không sẽ để mất cơ hội tốt, rơi vào thế bị động”. Diệp Kiếm Anh sợ đối phương chưa nghe rõ, lại
nhắc lại lần nữa: “Phải lấy nhanh đánh chậm, nhanh đánh chậm!”
Rất rõ ràng, đây là sự bố trí chiến lược mới nhằm đập tan “bọn bốn tên”. Diệp Kiếm Anh
đang thúc giục người lãnh đạo chủ yếu này thì thời gian cũng trôi đi nhanh chóng.
Trên mặt Hoa Quốc Phong để lộ nét nghiêm túc, trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Diệp soái,
đồng chí xem ngày nào ra tay tốt? Xin đồng chí quyết định!”.
“Theo tình hình chuẩn bị của chúng ta, tôi nghĩ chậm nhất là vào ngày kia phải ra tay,
đồng chí thấy thế nào?”
“Vậy cứ như thế”. Hoa Quốc Phong vẫn không yên tâm lắm, ông nghĩ đến tình hình cuộc
nói chuyện với Uông Đông Hưng cách đây không lâu, nói: “Nhưng không biết chỗ Đông Hưng
chuẩn bị ra sao, không biết có kịp không?”
Đang nói thì, thư ký vào báo cáo, Tô Chấn Hoa muốn tới gặp. Diệp Kiếm Anh nghe xong
đứng dậy: “Bây giờ tôi đến chỗ Đông Hưng”.
Uông Đông Hưng báo cáo với Diệp Kiếm Anh tình hình thực hiện công tác chuẩn bị.
Cuối cùng qua trao đổi khẩn cấp, xác định là hành động vào 8 giờ tối ngày 6 tháng 10, trước thời
hạn dự định. “Hội nghị” được Văn phòng Trung ương thông báo trước. Chủ yếu có hai vấn đề
cần bàn: 1. Nghiên cứu bản in thử “Tuyển tập Mao Trạch Đông” quyển 5; 2. Nghiên cứu phương
án nhà kỷ niệm Mao Chủ tịch và việc sắp xếp nơi ở cũ của Chủ tịch Mao Trạch Đông tại Trung
Nam Hải. Theo quy định, các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị sẽ tham gia, chỉ có Hoa Quốc
Phong, Diệp Kiếm Anh và Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, còn Diêu Văn Nguyên không
phải là ủy viên thường vụ thì làm thế nào? Để cho ông ta tham gia với danh nghĩa là sửa chữa
văn kiện, thông báo cho ông ta tham gia hội nghị. Diêu Văn Nguyên không ở Điếu Ngư Đài, ông
ta ở trong thành thuộc phạm vi quản lý của khu Vệ Thú Bắc Kinh. Để đề phòng bất trắc, chuẩn
bị cả hai tay, thông báo trước cho ông ta đến Hoài Nhân Đường họp. Đưa con cá sấu này đến
Trung Nam Hải nhỡ không thành thì sẽ tạm thời thông báo cho lãnh đạo khu Vệ Thú phụ trách
giải quyết tại chỗ. Đối với nhân vật đặc biệt Giang Thanh, cùng một số phần tử thuộc bè cánh
của chúng, cũng đưa ra phương án xử trí đáng tin cậy.
Để chỉ huy “chiến dịch” cuối cùng giải quyết “bọn bốn tên”, để bảo đảm cho “chiến
dịch” này toàn thắng, không xảy ra một sai sót nào, Diệp Kiếm Anh lại về Tây Sơn.
Ở đây, Vương Hồng Văn đang bận chụp ảnh chuẩn nên đã đi từ lâu.
Ở đây, thiết bị chuẩn bị chiến tranh ngầm dưới đất rất nghiêm ngặt và bí mật.
Ở đây đồi núi trập trùng, mây mù bao phủ, còn kín đáo hơn Ngọc Tuyền Sơn.
Ở đây Diệp Kiếm Anh đã gặp gỡ với Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lương Tất
Nghiệp, báo cho Lương Tất Nghiệp biết là gần đây ông đã bàn với Hoa Quốc Phong và một số
người khác về tình thế trong nước có phần căng thẳng, cơ quan Tổng cục Chính trị phải đề cao
cảnh giác, giữ vững ổn định, đồng thời phải tăng cường giáo dục quản lý bộ đội.
Lương Tất Nghiệp “thằng nhóc đỏ” từ khi còn ở khu Xô viết Trung ương đã quen với
Diệp “tham tọa” trong Quân đoàn 1, nhất là trong thời gian công tác ở Cục Chính trị Dã chiến
quân thứ 4, thường xuyên gặp Diệp Kiếm Anh và nghe ông chỉ thị.
Hôm nay trong giờ phút then chốt này, ông lại được nghe sự chỉ báo trực tiếp và nhận
nhiệm vụ. Hiện nay trên thực tế ông là người chủ trì công tác của Tổng cục Chính trị chịu đủ
những đòn kín và ức hiếp của Chủ nhiệm “danh nghĩa” Trương Xuân Kiều, nóng lòng mong
muốn gạt bỏ ngay “bọn bốn tên”. Nghe Diệp Kiếm Anh nói ông đã hiểu ý đồ, cảm thấy trách
nhiệm vô cùng nặng nề, ngay lập tức ông bày tỏ là sẽ đem hết sức kiên quyết quán triệt chấp
hành.
Ở đây Diệp Kiếm Anh lại một lần nữa mời Dương Thành Vũ đến nói chuyện.
Vừa gặp, ông đã quan tâm hỏi thăm tình hình của Nhiếp Vinh Trăn, sau đó nói: “Đồng
chí có thể nói với đồng chí Nhiếp Vinh Trăn là đã bàn bạc xong xuôi, mong đồng chí ấy cứ yên
tâm”.
Dương Thành Vũ còn muốn hỏi thêm một số chi tiết nữa, nhưng chưa kịp hỏi thì Diệp
Kiếm Anh đã đặt ra một loạt câu hỏi:
“Hiện nay cơ quan Tổng Tham mưu thế nào?”
“Việc chuẩn bị chiến đấu của quân đội ra sao?”
“Không có vấn đề gì”. Dương Thành Vũ trả lời một cách rất chắc chắn.
“Đồng chí nên cùng bàn bạc riêng với một số đồng chí đáng tin cậy, nắm chắc ba Tổng
cục, Lục quân, Không quân và Biên phòng, nhất thiết phải thực hiện tốt việc chuẩn bị chiến đấu,
dù thế nào cũng phải bảo đảm quân đội không có vấn đề”.
Như tiếp nhận mệnh lệnh chiến đấu, Dương Thành Vũ đứng dậy: “Xin Diệp soái yên
tâm, quân đội mãi mãi nghe lời Đảng, nghe chỉ huy của Quân ủy!”.
Ở đây, Diệp Kiếm Anh đã cầm điện thoại đích thân nói chuyện với cấp dưới đáng tin cậy
có liên quan đến công việc.
Một người lãnh đạo Không quân, đêm khuya trong phòng ngủ đột ngột nhận được điện
thoại của Diệp Kiếm Anh, nghe giọng nói thân thiết của ông, đã bày tỏ một cách kiên quyết: “Đề
cao cảnh giác, nghe theo mệnh lệnh, phục tùng chi huy”.
13. Ngày 6 tháng 10 ngày tận thế của Vương, Trương, Giang, Diêu
Ngày 6 tháng 10, thứ 4. Trời râm sau chuyển nhiều mây. Sức gió cấp 2 cấp 3. Nhiệt độ
cao nhất 180C. Hướng gió bắc chuyển nam. Đây là một ngày bình thường trong cuốn lịch.
Nhưng lịch sử đã chọn cái ngày bình thường này.
Ngày hôm ấy tất cả đều bình thường.
Chủ nhân của ngôi nhà số 9 Ngọc Tuyền Sơn giống như mọi ngày, ngủ dậy ăn sáng, đi
dạo, xem báo, đọc sách... tất cả đều tiến hành tuần tự.
10 giờ sáng, các thư ký lên núi lần lượt báo cáo, đưa công văn để phê duyệt. Động thái
của Trung ương, của Quân ủy, của các Tổng cục, trong nước và nước ngoài và các bản tin vắn...
Diệp Kiếm Anh rất quan tâm đến động thái quân sự, chăm chú lắng nghe, phê duyệt tỉ
mỉ.
Buổi trưa, đến lượt báo cáo về động thái quốc tế của “Teacher” (thầy giáo), Diệp Kiếm
Anh vừa ăn cơm vừa nghe. Sau khi ăn, như mọi khi ông lại mời thầy dạy tiếng Anh.
Văn kiện đã xử lý xong, ngoại ngữ cũng đã học, hình như không còn việc gì nữa? Không,
Diệp Kiếp Anh còn một việc, một việc kinh thiên động địa! Ông đang đợi điện thoại thông báo.
Nhưng chiếc máy điện thoại màu đỏ trên bàn vẫn nằm im phăng phắc. Một tiếng đồng hồ trôi
qua, rồi hai tiếng đồng hồ trôi qua...
3 giờ 30 phút, điện thoại đột ngột đổ chuông.
“8 giờ tối, Bộ Chính trị họp Thường vụ, mời Phó Chủ tịch Diệp đến Hoài Nhân Đường
trước một tiếng”.
“Mã Đầu” nhận điện thoại, lập tức báo cáo với Diệp Kiếm Anh. “Được, chuẩn bị cho
tốt!” Diệp Kiếm Anh hạ lệnh.
Cả buổi chiều, Diệp Kiếm Anh chờ đợi ở nhà số 9, tâm trạng rất không yên, nhưng lại tỏ
ra rất bình tĩnh. Đó là sự bình tĩnh trước trận “quyết chiến”! Ông đã sớm nhận được báo cáo của
Uông Đông Hưng tất cả đều theo sắp đặt tiến hành bình thường. Kết quả ra sao? Chỉ có thể chờ
đợi. Ông nghĩ tới một câu danh ngôn của Na-pô-lê-ông: Sẽ thấy rõ trên chiến trường. Đúng, chỉ
vài tiếng đồng hồ nữa sẽ thấy rõ ràng. Đó sẽ là cảnh tượng như thế nào? Kẻ phải đối phó tuy chỉ
có mấy người, nhưng nó có liên quan đến hàng trăm triệu nhân dân, quan hệ đến vận mệnh của
Đảng và Nhà nước! Mỗi khi nghĩ đến đây, Diệp Kiếm Anh thấy lo lắng, làm sao có thể yên lòng
được?
6 giờ 15 phút tối, Diệp Kiếm Anh thay quần áo thường phục màu xám, đem theo cảnh vệ
thư ký ung dung xuất phát.
Chiếc xe con nhãn hiệu Hồng Kỳ màu đen, đi ngược với phương mặt trời lặn ở phía Tây
Sơn, lao thẳng về phía Trung Nam Hải.
Ráng chiều rọi khắp bầu trời, gió vàng mát rượi. Chiếc xe Hồng Kỳ lao như một mũi tên.
Trên xe, với dáng vẻ nghiêm nghị, Diệp Kiếm Anh nhắc cảnh vệ tham mưu và lái xe
Triệu chuẩn bị ứng phó kịp thời. “Mã Đầu” lập tức nắm chặt súng, phát hiện ra rằng tối nay có
chút gì đó khác thường, tinh thần có chút căng thẳng, nhưng không biết sẽ xảy ra chuyện gì.
“Trên đường đi, các đồng chí phải lưu tâm để ý, xem có động tĩnh gì không!”
Đôi mắt Diệp Kiếm Anh nhìn thẳng ra ngoài xe nhắc nhở cảnh vệ tham mưu và lái xe
Triệu. Xe sắp đến sân bay Tây Giao (sân bay quân sự ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh - N.D.), Diệp
Kiếm Anh lại nhắc: “Mã Đầu” xem số máy bay trên sân bay có gì thay đổi không?” Lái xe Triệu
cho xe chạy chậm, đến nơi, cảnh vệ và thư ký nhẩm đếm từng chiếc báo cáo: “Có 19 chiếc trên
sân bay, trước đây vốn có 20 chiếc, nhưng gần đây bị rơi hỏng một chiếc”.
Xe mở hết tốc lực, đi qua Ngũ Khỏa Tùng, lại thấy Diệp Kiếm Anh hỏi: “Có thay đổi gì
không? Trước mặt đến Mộc Tê Địa phải đặc biệt chú ý!”.
Vì sao phải chú ý đến Mộc Tê Địa? “Mã Đầu” và lái xe Triệu cảm thấy hơi khó hiểu.
“Không có gì khác thường”.
Diệp Kiếm Anh vươn dài cổ, hai mắt luôn nhìn về phía bắc. Đến đường tiếp giáp với
Mộc Tê Địa, lại dặn: “Nhìn kỹ, phía bắc có xe đi tới không?”
“Không thấy”.
Diệp Kiếm Anh thở phào: “Được rồi, chúng ta đi tới phía trước”. Hóa ra “phía bắc” mà
ông nói là Điếu Ngư Đài, điều ông quan tâm là xe của Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn
có đuổi kịp hoặc vượt qua mình hay không.
Chiếc xe Hồng Kỳ chạy vào đại lộ Tây Trường An, giám tốc độ chạy chầm chậm, tiếp
tục quan sát không thấy gì khác thường. Đến Lục Bộ Khẩu thì theo hướng bắc đi thẳng vào cửa
tây Trung Nam Hải.
““Mã Đầu” đồng chí am hiểu Hoài Nhân Đường lắm phải không? Gần đây có thay đổi gì
không?”
“Mã Đầu” được điều từ Cục Cảnh vệ Trung ương tới, anh rất thuộc Hoài Nhân Đường.
Trước đó ít lâu, anh đã đến đây, chẳng thấy gì mới, liền báo cáo vắn tắt cho Diệp Kiếm Anh
nghe, nhưng anh vẫn không hiểu vì sao thủ trưởng lại nêu ra vấn đề này.
Đang nói chuyện thì xe đã tới Trung Nam Hải. Trời đêm rất đẹp, trời cũng thuận theo ý
người. Đêm thu Trung Nam Hải còn đẹp hơn cả cảnh xuân. Vầng trăng đầu trung tuần tháng 8
xuyên qua đám mây xám soi tỏ cả nhân gian.
Trong giờ phút đẹp đẽ này, ở nơi “đất thánh” trang nghiêm sẽ xảy ra một cuộc chiến đấu
đặc biệt ư? Đúng như thế! Trên chiến trường ầm ầm tiếng súng năm ấy. Diệp Kiếm Anh đã từng
cùng Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Chu Đức bày mưu tính kế, quyết thắng ở ngoài ngàn dặm,
tối nay lại đích thân ra tiền tuyến. Có điều ông không đem theo thiên binh vạn mã, cũng không
chuẩn bị để tiêu diệt đại quân của địch, mà chỉ là để xử trí mấy tên nhãi ranh, trừ hại cho dân,
một lần nữa lại đến chiến trường. Đây là một chiến trường rất đặc biệt. Ở đây không có chiến
hào, không có tiếng pháo, không có dàn quân của hai bên, nghiêm túc trang trọng, lặng lẽ thanh
bình, điện đèn rực rỡ. Dưới ánh trăng mờ ảo chỉ có số ít nhân viên chấp hành nhiệm vụ đặc biệt,
đảm nhiệm cảnh vệ. Tất cả đều hài hoà, yên tĩnh, bình thường.
7 giờ tối, chiếc xe Hồng Kỳ mà Diệp Kiếm Anh ngồi dừng trước cửa Hoài Nhân Đường.
Diệp Kiếm Anh xuống xe, nói với các nhân viên tùy tùng: “Các đồng chí không nên đi lại
tùy tiện, nghe chỉ huy!”. Ông nhìn tòa Hoài Nhân Đường trang nghiêm lặng lẽ và đi nhanh vào
cửa, hai sư tử đá đứng cung kính hai bên cửa vẫn oai phong lẫm liệt, rất sống động.
Nhân viên cảnh vệ đến chào Diệp Kiếm Anh, đồng thời ngăn “Mã Đầu” không cho vào
trong. Lúc này các tùy tùng mới cảm thấy tình hình không bình thường. Trên mặt nước hồ lặng
lẽ của “Thái Dịch Trì” hơi lăn tăn sóng. Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Theo lệ thường, tham mưu cảnh vệ cầm cặp tài liệu, phải đưa thủ trưởng vào phòng họp
rồi mới ra ngoài. Đây vừa là bảo vệ an toàn cho thủ trưởng cũng là bảo vệ an toàn cho văn kiện.
“Mã Đầu” cầm cặp văn kiện màu đen, tiếp tục theo sát thủ trưởng đi vào. Trưởng phòng cảnh vệ
đột ngột “ngăn lại”, nói thế nào cũng không cho vào. “Mã Đầu” không biết làm thế nào, đành vội
vàng đưa cặp văn kiện cho thủ trưởng. Đang giằng co, Diệp Kiếm Anh sốt ruột, sợ trễ thời gian,
buông cặp văn kiện, một mình đi vào. Trưởng phòng cảnh vệ thấy cặp văn kiện rơi xuống đất
mới để cho “Mã Đầu” cầm lên, bước nhanh theo Diệp Kiếm Anh, đồng thời nói nhỏ với “Mã
Đầu” đưa đến phòng chính thì lập tức ra ngay, đó là kỷ luật.
Diệp Kiếm Anh một mình đến phòng chính Hoài Nhân Đường, Hoa Quốc Phong và
Uông Đông Hưng đã ở đó. Họ gặp nhau, dùng mắt ra hiệu, không nói năng gì nhiều. Phòng
chính Hoài Nhân Đường, đây là bảo điện mà Từ Hy Thái hậu thời Thanh đã dùng rất nhiều bạc
trắng xây dựng nên.
Từ khi nước Trung Hoa mới ra đời, đến nay trở thành nơi nghị sự quan trọng của Đảng
và Nhà nước, tất cả bàn ghế trong phòng đã được dọn đi hết nên gian phòng trở nên trống trải,
chỉ có hai chiếc ghế xa-lông có tựa cao đặt ở giữa gian phòng. Hoa Quốc Phong và Diệp Kiếm
Anh đã ngồi ở đó. Giờ phút này Diệp Kiếm Anh nghiễm nhiên là một vị đại tướng quân ngồi chỉ
huy, đã có sẵn kế hoạch trong đầu. Uông Đông Hưng và các cảnh vệ nấp phía sau bức bình
phong ở giữa phòng theo dõi phía cửa, phụ trách sự an toàn của “Hội nghị”.
Trong phòng chính im phăng phắc. Kim đồng hồ chỉ hướng 8 giờ. Coi như đúng giờ,
Trương Xuân Kiều cắp cặp nghênh ngang bước vào. Vừa vào cửa, hình như ông ta cảm thấy sự
việc không bình thường, miệng không ngớt hỏi: “Có chuyện gì vậy?” Chỉ một mình Hoa Quốc
Phong đứng dậy nghiêm nghị thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố với ông ta: “Trương Xuân
Kiều, ông đã phạm tội không thể tha thứ”. Tiếp đó đọc quyết định “cách ly để thẩm tra” đã được
viết sẵn và lập tức chấp hành ngay, đôi chân Trương Xuân Kiều run rẩy như người sàng gạo, tay
sờ lên kính đeo mắt, không có bất cứ một phản ứng gì, nhân viên giám hộ đưa ông ta đến nơi chờ
thẩm vấn. Người đến tiếp sau là Vương Hồng Văn. Nhân vật lớn “văn võ toàn tài” này từ trên
chiếc xe hơi sang trọng đậu ngoài cửa Hoài Nhân Đường bước xuống, hai tay đút túi áo, vênh
váo tự đắc bước vào cửa. Ngoài dự đoán của anh ta, một người phụ trách của tổ hành động dẫn
mấy vệ sĩ từ phía bên đi tới. Tên lưu manh chính trị thấy tình hình không bình thường, lập tức
lên mặt Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, nói với giọng nghiêm khắc: “Tôi đến họp, các anh
muốn gì?” Tiếp đó dùng ngay sức lực toàn thân của vị tư lệnh phái tạo phản, tay đấm chân đá,
liều chết chống cự, nhưng cuộc đấu võ của anh ta xem ra không phải con nhà nghề, nên nhanh
chóng bị khống chế. Lần này “lực lượng vũ trang thứ 2” và bọn đàn em ở Thượng Hải không
giúp được một chút gì cho “tư lệnh”, quả là đáng tiếc! Các nhân viên cảnh vệ đưa anh ta vào
phòng chính. Từ chỗ cách đó mấy mét, anh ta nhìn thấy Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh đang
ngồi ở đó, dự cảm thấy ngày tận số đã đến, hai mắt anh ta bắn ra nhiều tia lửa căm hờn, như một
con mãnh thú điên cuồng lao đến. Nhân viên cảnh vệ đẩy anh ta ngã xuống đất. Đợi lúc anh ta bò
dậy, đại khái là đã tỉnh lại từ giấc mộng tít trời xanh, mất hết uy thế, đành ngoan ngoãn đứng đó
nghe Hoa Quốc Phong tuyên bố tội trạng và quyết định “cách ly để thẩm tra”.
Đối với tên nhãi ranh vô lại, kẻ đầu cơ chính trị, Diệp Kiếm Anh chỉ có thể nhìn với con
mắt khinh ghét còn biết nói gì được! Nhưng cho đến lúc này, bọn chống Đảng chống chủ nghĩa
xã hội vẫn không chịu thua. Vương Hồng Văn chỉ hối hận một điều đó là đã “ra tay” muộn, nếu
sớm một bước thì màn kịch ở Hoài Nhân Đường hôm nay sẽ đảo ngược lại, người đóng vai
chính ở đây là chính anh ta mà không phải là người khác. Lúc anh ta bị dẫn đi chờ thẩm vấn rời
khỏi phòng chính, nhân viên cảnh vệ nghe thấy anh ta khe khẽ than thở: “Không ngờ lại nhanh
đến thế!”. Đáng tiếc, đến bước này thì nhanh cũng thế mà chậm cũng thế, đối với anh ta chẳng
ăn thua gì nữa. Điều này chỉ có thể chứng minh ngược lại một chân lý, đó chính là dùng phương
châm chiến lược “lấy nhanh đánh chậm” để đối phó với chúng là thích hợp và chính xác biết
nhường nào.
Lúc đưa Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn đi, kim đồng hồ đã chỉ 8 giờ 15 phút.
Vẫn chưa thấy Diêu Văn Nguyên đến. “Con cá sấu” vì sao chưa mắc câu? Những người
ngồi đợi trong phòng chính thấy sốt ruột. Phải chăng khu Vệ Thú đã giải quyết rồi? Hay là các
mặt khác đã xảy ra trở ngại gì? Sự việc không thể chậm trễ, tạm thời quyết định gọi điện thoại lại
thông báo cho Diêu Văn Nguyên đến họp. “Mời” ông ta nhanh chóng đến Hoài Nhân Đường dự
họp Thường vụ Bộ Chính trị...
Thực ra, Diêu Văn Nguyên đã sớm muốn đến họp, “vị đại bút” này của “bọn bốn tên” đã
ngứa tay từ lâu rồi. Từ sau khi tung ra “kiệt tác”: “Mãi mãi làm theo phương châm đã định của
Mao Chủ tịch”, ông ta dương dương tự đắc, trong một bài viết khác quan trọng hơn do ông ta sửa
chữa ba lần và trên đó có ghi: In trang đầu “Nhân dân nhật báo” số ra ngày 9 tháng 10. Hôm nay
là ngày 6, ông ta đương chờ đợi mọi người thưởng thức “kiệt tác” này. Hôm nay đến chậm rốt
cuộc là có “trở ngại” ở chỗ nào; cũng chẳng cần truy cứu ông ta nhận được điện thoại, miệng
văng tục: “Làm cái chó gì, kéo dài mãi không họp, đáng lẽ phải họp từ lâu rồi!”. Miệng thì nói
như vậy nhưng trong lòng lại càng vội. Cái đầu hói của ông ta, thông thường khi ra ngoài, đều
phải đội mũ, nhưng hôm nay nghe nói mời ông ta họp, vội quá nên đã quên không đội, cũng
quên cả gọi cảnh vệ chỉ cắp chiếc cặp chạy ù lên xe, vội vội vàng vàng đến Trung Nam Hải.
Ơn trời ơn đất! Tự xưng là “vua không vương miện” Văn Nguyên cuối cùng đã xuất hiện
ở Hoài Nhân Đường. Không biết có phải vì ông ta đến muộn mà “bị phạt” hay vì nguyên nhân
gì, nên đã xử trí hạ một cấp đối với ông ta: Thứ nhất: Không để ông ta vào phòng chính mà chỉ ở
phòng đợi lớn tại hành lang phía đông chờ lệnh. Thứ hai, không do Hoa Quốc Phong tuyên bố
quyết định “cách ly thẩm tra” mà là qua thỉnh thị, do một Cục phó Cục Cảnh vệ Trung ương
tuyên bố. Đến khi Diêu Văn Nguyên nghe “quyết định” vỡ lẽ là chuyện gì thì cái “gậy vàng” lập
tức mềm nhũn, gục đổ xuống đất. Không biết làm thế nào, một người phụ trách tổ hành động
đành dẫn mấy vệ sĩ vực ông ta dậy rồi đưa đến nơi phải đến.
Tên bồi bút trà trộn vào văn đàn Trung Quốc này thật xứng đáng là đứa con trai của tên
phản bội, tên đặc vụ Diêu Liên Tử và là đứa con nuôi của tên đầu sỏ đặc vụ Quốc dân Đảng Từ
Ân Tăng đã từng cúc cung tận tuỵ phục vụ cho hai tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu và Giang
Thanh bao nhiêu năm nay, là kẻ nổ súng và tổ chức dư luận phản cách mạng.
Trong nhật ký của ông ta đã từng bày tỏ với Giang Thanh: dùng “cái gậy” của ông ta để
“tham chiến 10 năm” quét sạch tất cả! Đây là hung thủ luôn “dùng dao mềm” để giết người. Xét
cho cùng thì ông ta là một văn nhân, “cái đầu điện tử” của ông ta cũng rất linh nghiệm: đủ 10
năm kết thúc cuộc đời hai tay buông xuôi!
Đúng lúc “hội nghị” ở Hoài Nhân Đường khẩn trương, thì một tổ hành động chấp hành
nhiệm vụ như vậy tới phòng 201 Vạn Tư Lang ở Trung Nam Hải. Có một điểm khác là tổ này
đặc biệt được sắp xếp có hai nữ cảnh vệ.
“Vị nữ hoàng” sống trong cung điện hào hoa, mấy hôm nay chuẩn bị lễ “lên ngôi”, thực
quả là quá bận, quá phấn chấn và cũng quá mệt. Lúc này bà ta mặc bộ đồ ngủ bằng lụa, dựa vào
xa-lông dài bọc bằng vải mỏng, vừa xem băng ghi hình nhập ngoại vừa giở một tập “bản in thử”
dày về tình hình vừa đưa đến hôm nay, dương dương tự đắc, chìm đắm trong giấc mộng nữ
hoàng đẹp đẽ.
Đột nhiên, mấy vị khách không mời mà đến không xin phép, xuất hiện trong gian phòng
rộng sang trọng.
“Nữ hoàng” liếc mắt ra phía cửa, dò xét mấy người khách, nói gay gắt: “Các anh làm cái
gì?”
Có điều, thần uy của bà ta lúc này không hiệu nghiệm nữa. Một vị Phó Chủ nhiệm Văn
phòng Trung ương phụ trách tổ hành động và một cán bộ khác dẫn mấy cảnh vệ đã vào trong
phòng, đọc quyết định “cách ly để thẩm tra” cho bà ta nghe.
Chẳng đợi đọc hết, “nữ hoàng” phút chốc đã hiểu ra chuyện gì, bỗng đứng bật dậy cao
giọng quát: “Các người ra ngay!” Tiếp đó gọi liên tục: “Người đâu! Người đâu! Các người ở
đâu?”
Nhưng mụ cô độc cô quả, từng tác oai tác quái đã bị mọi người xa lánh, tất cả những
nhân viên công tác ở 201 đã bỏ mặc bà ta. Mặt “nữ hoàng” tái mét, phút chốc nằm lăn ra đất gào
khóc: “Xác Chủ tịch còn chưa lạnh”...
Quả thực nhân viên tổ hành động chẳng có lòng dạ nào để thưởng thức cái trò khôi hài:
“Giấc mộng kinh hoàng trên long sàng” này nên đã mời bà ta nhanh chóng chấm dứt và thay đổi
chỗ ở khác. “Nữ hoàng” không thể không rời khỏi “ngôi báu” đi theo nhân viên cảnh vệ đến nơi
bà ta phải đến. Các nhân viên phục vụ hàng ngày phải chịu đựng tính khí xấu xa của “mụ yêu
tinh” lúc này trừng mắt thở phào, vỗ tay thích thú, người nhổ nước bọt, người ném giấy tống tiễn
ôn thần!
Đến đây, Trung ương Đảng đứng đầu là Hoa Quốc Phong và Diệp Kiếm Anh không mất
một viên đạn, không đổ một giọt máu đã đập tan được “bọn bốn tên”.
3
Mười cái cũi sắt giam tù bộ mặt xấu xa lộ rõ
Lịch sử phán xét thẳng thừng tội chết vẫn còn dư
1
Đại cách mạng văn hóa để lại hậu qủa sai lầm chồng chất
Mao Trách Đông phát động “đại cách mạng văn hóa” vốn cho rằng thông qua “thiên hạ
đại loạn”, để đạt được một “thiên hạ đại trị”. Nhưng sự việc đã trái với mong muốn, 10 năm đại
cách mạng văn hóa làm cho Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chịu tổn thất nghiêm trọng kể từ
khi dựng nước đến nay. “Mãi mãi không bao giờ quên đại cách mạng văn hóa! Đó là tiếng hô
chung của những người đã từ từng trải qua tai họa to lớn ấy. Mọi người đều hy vọng có sự tổng
kết nghiêm túc về những bài học của đại cách mạng văn hóa, khắc sâu trong lòng và truyền cho
con cháu đời sau, quyết không cho phép một cuội nội loạn tương tự xảy ra một lần nữa trên đất
Trung Quốc. Phơi bày đầy đủ những tổn hại mà tai họa này đưa đến, có thể làm cho mọi người
rút ra bài học xương máu, khắc cốt ghi xương. Nhưng, hậu quả xấu của mười năm kiếp nạn gây
nên trên nhiều mặt, nếu nói tổn thất về mặt vật chất còn chưa thể tính được thì sự tổn hại về văn
hóa tinh thần, vết thương sâu thẳm nơi linh hồn, cho dù có dùng máy tính hiện đại nhất cũng
không thể nào tính ra được. E rằng cần phải có sự cố gắng của các nhà kinh tế học, nhà chính trị
học, nhà sử học, nhà xã hội học, nhà triết học v.v... thông qua công tác điều tra nghiên cứu khá
dài mới có thể dự đoán toàn diện chính xác và thanh toán triệt để.
1. Lý luận sai lầm cùng những thực tiễn sai lầm do nó chỉ đạo, đã tạo nên sự hỗn loạn
chưa từng có trong tư tưởng và sự suy yếu nghiêm trọng đến lòng tin đối với chủ nghĩa Mác –
Lê-nin.
2. Tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ cấu chính quyền của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa bị suy yếu nghiêm trọng.
3. Nền kinh tế quốc dân bị suy yếu cực kỳ to lớn.
4. Sự nghiệp văn hóa khoa học bị tàn phá nghiêm trọng.
5. Tư tưởng và nếp sống xã hội bị đầu độc nghiêm trọng.
2
Có ý nghĩa gì khi gỡ bỏ bức chân dung khổng lồ của Mao Trạch Đông
Giữa mùa hè năm 1980, cải cách mở cửa đã bước vào năm thứ 2, nhân dân cả nước với
nhiệt tình chưa từng có, lao vào công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, mọi người chịu
khó đi sâu nghiên cứu, cần cù học tập, sáng tạo phát minh, thi nghiên cứu sinh ra nước ngoài,
đang vui với niềm vui chung. Cũng cùng lúc ấy, Bắc Kinh đang lặng lẽ làm một việc.
Ngày 30 tháng 7, Bắc Kinh bận rộn và nóng bức, trước Đại lễ đường Nhân dân trước đây
vẫn luôn không cho phép xe cộ dừng lại tùy tiện thì bỗng có hai chiếc xe ầm chạy đến một chiếc
là xe cần cẩu lớn, một chiếc là xe tải rất dài. Tình hình khác thường này khiến mọi người qua
đường phải dừng chân và cũng làm cho các nhân viên làm việc trong Đại lễ đường Nhân dân
phải ngó đầu ra nhìn.
Chiếc cần cẩu không ngừng nâng cao, đưa người ngồi trong gầu xúc đến trước bức chân
dung khổng lồ dựng trên Đại lễ đường Nhân dân, nhân viên công tác giơ tay dỡ bức chân dung.
Trong số người đi đường có người hét: “Chân dung của lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch
không thể bỏ đi”, số đông người im lặng.
Tiếp đó, chiếc cần cẩu dùng dây thép buộc hai khẩu hiệu lớn được hàn vĩnh cửu trên Đại
lễ đường Nhân dân, kéo mạnh, khẩu hiệu rơi xuống chân tường Đại lễ đường Nhân dân, lộ ra hai
vết mới. Lại có những lời trách móc.
Những hành động như thế lần lượt được triển khai ở các nơi các ngành, các đơn vị trong
cả nước.
Ảnh của Mao Trạch Đông được dỡ từ các mi cửa, các phòng học, tượng Mao Trạch Đông
bị phá bỏ, trích lời Mao Trạch Đông rợp kín trời bị quét trùm lên, bị rửa sạch, tóm lại không còn
một câu. Mười mấy năm trước, các nơi dựng những bức tượng Mao Trạch Đông rất kiên cố, bây
giờ phá bỏ thật là rắc rối. Nghe nói ở Hà Nam, Hồ Nam v. v... có một số đơn vị phải dùng thuốc
nổ để phá bỏ vì xây quá kiên cố.
Dư luận phương Tây bắt đầu bình luận tới tấp, có báo đã bình luận; “Thời đại Mao Trạch
Đông kết thúc từ đây!”. Hương Cảng, Đài Loan kêu ầm ĩ: “Đại lục phê Mao, thế tất phải như
thế”.
Những người đã chịu đủ sự đày đọa trong đại cách mạng văn hóa lại hiểu rằng, điều này
chứng tỏ không thể nào chậm trễ trong việc xóa bỏ sùng bái cá nhân.
3
Kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản
Sửa chữa sai lầm “tả” khuynh và hữu khuynh
Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa 11, với khẩu hiệu giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị
do Hội nghị Trung ương 3 nêu ra, đông đảo cán bộ và quần chúng được giải phóng từ xiềng xích
sùng bái cá nhân và chủ nghĩa giáo điều thịnh hành trước đây, tư tưởng trong và ngoài Đảng sôi
động, xuất hiện những hiện tượng sinh động cố gắng nghiên cứu tình hình mới và vấn đề mới.
Nhưng lúc này cũng nảy sinh một số hiện tượng đáng phải chú ý và cảnh giác. Một mặt,
có một số cán bộ và quần chúng vẫn bị sự ràng buộc của tư tưởng “tả” khuynh, không hiểu biết
đường lối và phương châm chính sách của Đảng từ Hội nghị Trung ương 3 đến nay, thậm chí có
sự phản đối, mặt khác, một số ít người, xuyên tạc khẩu hiệu “giải phóng tư tưởng”, thổi phồng
sai lầm của Đảng một cách cực đoan, phủ định sự lãnh đạo của Đảng, phủ định con đường xã hội
chủ nghĩa mà Đảng đã chỉ ra. Điều nguy hiểm hơn là một số ít người trong Đảng không những
không đấu tranh với trào lưu tư tưởng tự do hoá, trái lại hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ nó.
Nếu để nó tự do phát triển, sẽ phá hoại cục diện ổn định đoàn kết mà nhân dân cả nước đã đạt
được một cách không dễ dàng, gây nên hậu quả nghiêm trọng.
Nhận thấy điều đó, tháng 3 năm 1979, trong Hội nghị công tác lý luận của Đảng, Đặng
Tiểu Bình đã nêu một cách rõ ràng bốn nguyên tắc cơ bản: Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa,
kiên trì chuyên chính vô sản, tức chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Bài phát biểu này chứng tỏ, công cuộc cải cách mở cửa mà Đảng Cộng sản Trung Quốc
thực hiện khi bắt đầu đã có phương hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng.
Trung ương Đảng cho rằng, để sửa chữa về căn bản khuynh hướng sai lầm “tả” khuynh
và hữu khuynh cần phải hiểu đúng đắn con đường lịch sử mà Đảng đã đi qua từ khi dựng nước,
tổng kết một cách khoa học những kinh nghiệm lịch sử của Đảng trong thời kỳ này. Tháng 9
năm 1979, Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa 11 được triệu lập, thảo luận và thông qua bài nói
chuyện tại cuộc mít tinh kỷ niệm 30 thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Diệp
Kiếm Anh chuẩn bị. Bài nói chuyện này đã bước đầu tổng kết lịch sử từ sau khi dựng nước, đã
khẳng định một cách đầy đủ thành tựu vĩ đại mà Đảng và Nhân dân đã giành được từ khi dựng
nước đến nay, đã tự phê bình sai lầm trong công tác trước đây của Đảng, chứng minh tiền đồ xán
lạn của đất nước. Tăng thêm sự thống nhất nhận thức của toàn Đảng và toàn dân.
4
Tràn đầy niềm tin vượt qua kỳ thi của Phơ-ra-si
“Nghị quyết” đã được nhóm khởi thảo đề cương tuân theo tinh thần bài nói chuyện của
Đặng Tiểu Bình sửa chữa. Phút chốc đã đến cuối hè.
Hôm ấy, Đặng Tiểu Bình đang cúi mình trên bàn làm việc, thư ký đi vào báo cáo, nữ
phóng viên nổi tiếng của I-ta-li-a, Ô-rin-ai-na Phơ-ra-si muốn đến phỏng vấn, hỏi Đặng Tiểu
Bình có đồng ý tiếp kiến hay không. Đặng Tiểu Bình ngẫm nghĩ nói một cách dứt khoát: “Gặp,
để tôi xem rốt cuộc bà ta ghê gớm đến đâu”.
Vì sao Đặng Tiểu Bình nói như vậy? Vốn dĩ Phơ-ra-si không phải là một phóng viên bình
thường, mà là một phóng viên có tiếng đã đi khắp nơi trên thế giới, bà ta vốn xưa nay là người
nổi tiếng hay phỏng vấn những nhân vật chìm nổi. Bà ta đặt câu hỏi rất gay gắt, phong cách năng
nổ, đáo để, cái bình nào không mở thì nêu cái bình ấy, lãnh tụ chính giới nổi tiếng của các nước
trên thế giới, hầu như đều đã nếm mùi ghê gớm của bà ta. Kít-xin-gơ là một nhân vật ghê gớm
đến nhường nào mà cũng bị Phơ-ra-si dồn ép phải thổ lộ bí mật trong lòng, cuối cùng phải than
thở: “Nhận lời phỏng vấn của Phơ-ra-si là sự việc ngu xuẩn nhất trong đời tôi”. Cho nên rất
nhiều nhà lãnh đạo các nước đều coi cuộc phỏng vấn của Phơ-ra-si là một kỳ thi.
Mùa hè năm 1980, các nước trên thế giới đều chú ý sự đánh giá của Trung Quốc đối với
Mao Trạch Đông, những nhân vật chìm nổi ở Trung quốc, nên bà ta đã đến phỏng vấn Đặng
Tiểu Bình.
Sau khi Đặng Tiểu Bình phân tích một cách chu đáo tỉ mỉ đối với tình hình và nhiệm vụ,
ông tràn đầy niềm tin chuẩn bị đón “kỳ thi” của nữ phóng viên phương Tây.
Ngày 21 tháng 8, Phơ-ra-si đáp chiếc xe con cao cấp đến văn phòng của Đặng Tiểu Bình
ở Trung Nam Hải.
Vị nữ phóng viên này quả là ghê gớm, sau khi bà ta ngồi xuống ghế, không một chút
khách sáo, nhanh chóng nêu ra những vấn đề mà cả thế giới đang chú ý: “Ảnh của Mao Chủ tịch
ở Thiên An Môn có phải là sẽ giữ lại mãi mãi không?”. Trả lời của Đặng Tiểu Bình lưu loát dứt
khoát: “Mãi mãi giữ lại. Trước đây ảnh Mao Chủ tịch treo nhiều quá, đó không phải là một việc
nghiêm túc, cũng không hề chứng tỏ sự tôn trọng đối với Mao Chủ tịch. Chúng tôi mãi mãi coi
Mao Chủ tịch là người sáng lập Đảng và Nhà nước chúng tôi để kỷ niệm”.
Phơ-ra-si không một chút khách sáo, ngay lập tức nêu ra một vấn đề gay gắt: “Đối với
người phương Tây mà nói, có rất nhiều vấn đề chúng tôi không hiểu. Nhân dân Trung Quốc khi
nói về “bọn bốn tên” đã quy cho “bọn bốn tên” rất nhiều tội lỗi, nhưng họ chìa bàn tay ra thì chỉ
có năm ngón”. Đặng Tiểu Bình biết ý của bà ta, không một chút mơ hồ ông giải thích rõ ràng:
“Sai lầm của Mao Trạch Đông và vấn đề của Lâm Bưu và “bọn bốn tên” về tính chất có khác
nhau. Phần lớn thời gian trong cuộc đời của Mao Chủ tịch đã làm những việc rất tốt, nhiều lần
ông đã cứu Đảng và đất nước khỏi cơn khủng hoảng. Chúng tôi phải đánh giá một cách khách
quan công và tội một đời của Mao Chủ tịch. Chúng tôi sẽ khẳng định công tích của Mao Chủ
tịch là thứ nhất, sai lầm của ông là thứ hai. Chúng tôi phải nói về sai lầm vào thời kỳ cuối của
Mao Chủ tịch một cách thực sự cầu thị, chúng tôi vẫn phải tiếp tục kiên trì tư tưởng Mao Trạch
Đông. Tư tưởng Mao Trạch Đông là phần đúng đắn nhất trong cuộc đời của Mao Chủ tịch. Tư
tưởng Mao Trạch Đông không chỉ dẫn đưa chúng tôi giành thắng lợi cách mạng trong quá khứ
mà hiện tại và tương lai vẫn là tài sản quý báu của Đảng và Nhà nước”.
Phơ-ra-si tỏ ra rất hài lòng đối với cuộc nói chuyện thẳng thắn dứt khoát của Đặng Tiểu
Bình. Đặng Tiểu Bình cũng muốn tiếp tục mượn ngòi bút của bà ta để tuyên truyền đường lối
của Đảng ra toàn thế giới, cuộc nói chuyện tiếp tục. Phơ-ra-si trực tiếp tấn công vào chỗ yếu
trong phòng tuyến của Đặng Tiểu Bình: “Nghe nói, Mao Chủ tịch thường oán trách ông là không
nghe lời ông ta lắm, không thích ông, có thật như vậy không?”
Theo lý giải của người Trung Quốc, câu hỏi này của Phơ-ra-si gần như đã chạm nọc ông,
nhưng Đặng Tiểu Bình không để ý, bình tĩnh trả lời: “Mao Chủ tịch nói tôi không nghe lời ông là
đã từng có, nhưng cũng không phải chỉ có một mình tôi, đối với các đồng chí lãnh đạo khác cũng
có tình hình như vậy. Điều này cũng phản ánh vào thời kỳ cuối Mao Trạch Đông cũng có một số
tư tưởng không lành mạnh, cũng có nghĩa là có những cái mang tính chất phong kiến của chế độ
gia trưởng. Ông không dễ dàng nghe những ý kiến bất đồng. Những việc mà Mao Chủ tịch phê
bình không thể nói là đều không đúng. Nhưng có không ít ý kiến đúng đắn, không chỉ của tôi,
mà của nhiều đồng chí khác nữa, ông không nghe lọt tai cho lắm. Chế độ dân chủ tập trung đã bị
phá hoại, lãnh đạo tập thể bị phá hoại. Nếu không sẽ không thể lý giải vì sao lại nổ ra đại cách
mạng văn hóa.
Phơ-ra-si cho rằng Đặng Tiểu Bình đã lơi lỏng cảnh giác nên đã ra đòn tập kích bất ngờ,
đặt ra trước mặt Đặng Tiểu Bình một vấn đề gay gắt: “Ở Trung Quốc, có một người như vậy là
chưa từng bị đánh đổ bao giờ...” Đặng Tiểu Bình biết người mà bà ta nói là Chu Ân Lai, ông xúc
động nói: “Chu Ân Lai là người suốt một đời cần cù chăm chỉ, không từ khó nhọc. Chúng tôi
quen nhau từ rất sớm, khi vừa học vừa làm ở Pháp, đã sống cùng nhau, đối với tôi mà nói trước
sau ông vẫn là người anh cả. Thời kỳ đại cách mạng văn hóa, nhiều người chúng tôi đều đi
xuống, may còn giữ lại được ông. Trong đại cách mạng văn hóa địa vị mà ông giữ là vô cùng
khó khăn, ông cũng đã nói rất nhiều lời trái với suy nghĩ của mình, đã phải làm rất nhiều việc trái
với lòng mình, nhưng nhân dân tha thứ cho ông, ông đã bảo vệ được khá nhiều người”. Đặng
Tiểu Bình lại nói: “Đồng chí Mao Trạch Đông cũng không phải là muốn chỉnh đổ tất cả các cán
bộ cũ trong đại cách mạng văn hóa. Tuy ai không nghe lời ông thì ông muốn chỉnh ngay, nhưng
chỉnh đến mức độ nào thì ông vẫn phải suy nghĩ. Cho đến sau này càng chỉnh càng tệ hại, không
thể nói là ông không có trách nhiệm, có điều cũng không thể mình ông chịu trách nhiệm. Có một
số là do Lâm Bưu và “bọn bốn tên” đã tạo nên chuyện đã rồi, có một số họ đã làm sau lưng ông”.
…
Cuộc phỏng vấn kết thúc, Phơ-ra-si rất hài lòng, Đặng Tiểu Bình nhạy bén, thẳng thắn,
tinh nhanh, tháo vát, khiến bà ta khâm phục. Vấn đề mà bà ta muốn hỏi, Đặng Tiểu Bình đều trả
lời rõ ràng dứt khoát. Ở đây không có sự ân oán cá nhân, không có thoái thác trách nhiệm, có
chăng chỉ là sự suy nghĩ chín chắn và sự ấp ủ tương lai của một nhà cách mạng lão thành đối với
lịch sử.
Hết!