You are on page 1of 92

DAPANDETHI.BLOGSPOT.

COM

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ

BÀI TẬP CUỐI KỲ


MÔN: LỊCH SỬ BÁO CHÍ THẾ GIỚI
Đề bài: Các xu hướng phát triển của báo chí thế giới

Giảng viên : Th.S Bùi Tiến Dũng


Lớp: K50 Báo chí (hệ chính quy)
Nhóm: 6
MỤC LỤC
KHÁI QUÁT CHUNG..........................................................................................................................3
CHƯƠNG II – XU HƯỚNG CỤ THỂ VỚI TỪNG LOẠI HÌNH.....................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................90
DANH SÁCH NHÓM 6 LỚP K50 BÁO CHÍ – ĐH KHXHNV........................................................91

2
KHÁI QUÁT CHUNG

Theo từ điển tiếng Việt (Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 1992 - trang
1135), “Xu hướng” có nghĩa là xu thế thiên về một chiều nào đó. Sự thiên về những
hoạt động nào đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian
lâu dài.
Từ định nghĩa đó, ta có thể hiểu Xu hướng báo chí đó là xu thế thiên về một
chiều hướng nào đó của báo chí, có mục tiêu, ý nghĩa và ảnh hưởng trong thời
gian dài. Tác động đến hệ thống báo chí của thế giới.
Báo chí từ ngày đầu ra đời đã liên tục có những thay đổi để tiến xa hơn. Từ tờ
báo chỉ là những bản chép tay rồi đến những bản báo in đầu tiên và phát triển cho tới
đa phương tiện như ngày nay, tất cả điều đó đều là kết quả của quá trình phát triển lâu
dài với nhiều thách thức. Tùy theo điều kiện lịch sử và xu hướng của công chúng, hệ
thống báo chí có những bước đi riêng của mình để đáp ứng lại những điều đó. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa, báo chí cũng chịu phần nào ảnh hưởng.
Việc nghiên cứu các xu hướng của báo chí thế giới sẽ góp phần hiểu rõ hơn đặc
điểm, thực trạng của nền báo chí toàn cầu hiện nay. Qua đó có cách thức, giải pháp
cho phù hợp với tình hình chung.
Được giao tìm hiểu về các xu hướng phát triển của báo chí thế giới, nhóm 6
phát triển đề tài theo hướng tìm hiểu chung về các xu hướng đang diễn ra trên thế
giới, rồi đi cụ thể vào từng loại hình báo chí. Trong quá trình tìm hiểu, nhóm cố gắng
lý giải nguyên nhân và điều kiện dẫn tới các xu hướng đó và dự đoán hướng phát triển
trong tương lai. So sánh các xu hướng đó với thực tại nền báo chí Việt Nam.
Trong quá trình tìm hiểu sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, mong nhận được
sự góp ý của thầy và các bạn.

3
CHƯƠNG I – XU HƯỚNG CHUNG CỦA BÁO CHÍ THẾ GIỚI
1. Toàn cầu hóa thông tin
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa thông tin đó là quá trình thông tin ở khắp mọi nơi trên thế giới
được truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng tới cho công chúng.
Ngày nay, ở bất kì đâu bạn cũng đều có thể nắm bắt được toàn bộ thông tin của
thế giới trong ngày qua. Đó là kết quả của quá trình toàn cầu hóa thông tin. Thông tin
tại mọi ngóc ngách của trái đất được các hãng truyền thông cung cấp một cách nhanh
chóng và chính xác tới cho mỗi công dân. Bạn đang ngồi ở nhà và có thể theo dõi tình
hình đang diễn ra ở Iraq hay ở Mĩ, hay như tình hình giá xăng dầu trên thế giới hiện
nay… điều sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn
1.1 Điều kiện hình thành toàn cầu hóa thông tin
Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trong các lĩnh vực
đăng tải, in ấn tạp chí, báo, sự phát triển các công nghệ phát thanh truyền hình và đặc
biệt là internet đã cho phép những thông tin từ một quốc gia có thể được biết đến trên
toàn thế giới. Quá trình toàn cầu hóa thông tin được gắn với những thành tựu mới
nhất trong kỹ thuật thông tin liên lạc và điện tử. Thông tin trong khoảnh khắc được
truyền tải tức thời tới cho người xem và người đọc. Điều đó cho phép hàng triệu
người được chứng kiến và tham gia vào các sự kiện.
Mạng internet bao phủ toàn cầu, nhờ đó mà người sử dụng có khả năng nhận
được thông tin cần thiết từ các hãng tin một cách dễ dàng. Sự xâm nhập của tiến bộ
khoa học kĩ thuật vào các hoạt động báo chí là điều rõ ràng và dễ nhận thấy. Việc áp
dụng rộng rãi kỹ thuật điện tử, truyền tải dữ liệu xuyên biên giới, việc hình thành
mạng lưới thông tin toàn cầu đã góp phần đưa tin tức nhanh chóng tới công chúng.
Điều đó là cần thiết cho một xã hội đang phát triển nhanh.

4
Một điều kiện thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa nữa là nhu cầu thông tin của
công chúng ngày một gia tăng. Các cơ quan báo chí muốn đáp ứng nhu cầu đó thì cần
phải đẩy mạnh việc khai thác sự đa dạng của thông tin, không thể bó hẹp thông tin
trong phạm vi một quốc gia hay một khu vực.
1.2 Biểu hiện của toàn cầu hóa thông tin
Biểu hiện rõ nhất là việc hình thành rất nhiều hãng thông tấn, hãng tin chuyên
khai thác tin tức trên khắp thế giới rồi bán lại cho các cơ quan thông tấn trên thế giới.
Với sự chuyên biệt này, các cơ quan báo chí chỉ cần mua lại tin từ các hãng thông tấn
đó là có thể có đủ tin tức trên thế giới cung cấp cho công chúng của mình.
Biểu hiện thứ hai đó là thông tin ở mọi nơi được cập nhật liên tục và nhiều
chiều. Nếu như trước kia, chỉ những thông tin quan trọng và có ảnh hưởng lớn mới
được đề cập, thì ngày nay những thông tin về những con người bình thường ở mọi nơi
đều có thể được nhắc tới. Thông tin về những nhân vật nổi tiếng không còn chỉ là
thông tin riêng của một quốc gia mà đã trở nên nguồn tin nóng cho những người quan
tâm trên thế giới.
Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là liệu các thông tin được toàn cầu hóa đó liệu có
trung thực? Các chuyên gia đã nhận xét, quốc gia nào làm chủ được thông tin thì quốc
gia đó sẽ giành chiến thắng. Không ai dám chắc những thông tin mà các hãng tin đưa
ra không mang màu sắc chính trị, phục vụ cho một đảng phái, một nền chính trị nào
đó. Điều đó là dễ hiểu trong thời đại thông tin có vai trò quan trọng như ngày nay.
Các chính phủ phải điều tiết các dòng thông tin trong tầm kiểm soát của họ, đưa ra
những tin tức có lợi và theo những mưu đồ chính trị được tính toán kĩ.
Không thể phủ nhận những thành tựu của công cuộc toàn cầu hóa thông tin
đem lại. Truyền hình, phát thanh, internet, báo chí đã và đang tác động về tình cảm, tư
tưởng của công chúng tiếp nhận thông tin, bất kể khoảng cách từ họ tới nguồn thông
tin là bao nhiêu. Sự kết hợp giữa thông tin toàn cầu và lợi ích khu vực làm cho hoạt
động của các phương tiện thông tin đại chúng trở nên hữu hiệu hơn nếu xét từ góc độc
hình thành và thao túng công luận.

5
2. Quốc tế hóa báo chí
Trong bối cảnh thông tin toàn cầu đang phát triển, các tập đoàn truyền thông,
các cơ quan báo chí đều muốn đẩy mạnh ảnh hưởng của mình tở các quốc gia khác.
Chính vì vậy mà họ cố gắng đưa tờ báo của mình ra khỏi khuôn khổ của một quốc
gia.
Quốc tế hóa báo chí là hình thức mà một tờ báo, ấn phẩm báo chí được phát
hành ở nhiều quốc gia, hoặc phát hành ở quốc gia này nhưng được bán ở quốc gia
khác.
2.1 Biểu hiện của quốc tế hóa trong lĩnh vực báo in
• Báo chí in ấn ở nước này, nhưng lại được phát hành ở nhiều nước trên thế giới.
• Báo chí in ấn ở nhiều nước cùng một lúc (thí dụ Nhân dân Nhật báo của Trung
quốc, tạp chí Tuyển tập (Readers Digest)
• Hai nước liên kết với nhau xuất bản một số báo
• Cơ quan báo chí mở nhiều chi nhánh ở nước ngoài
• Các tập đoàn báo chí phát triển những tờ báo cho khu vực riêng với ngôn ngữ
của khu vực đó.
2.2 Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực phát thanh

• Biểu hiện lớn nhất trong lĩnh vực phát thanh đó là xu hướng phát sóng ra nước
ngoài của các tổ hợp truyền thông.
• Có tổng số: 80 đài phát thanh ra nước ngoài, phát thanh tới 20.000 giờ trong
tuần, bằng 48 thứ tiếng, phủ sóng toàn cầu.
• Một số đài tiêu biểu như :
- VOA của Mỹ phát 2001 giờ/ tuần với 40 thứ tiếng
- BBC của Anh phát khoảng 120 giờ/ ngày với 38 thứ tiếng
- Làn sóng Đức phát 100 giờ/ ngày, với 40 thứ tiếng
- Đài CRI (Trung quốc) phát sóng 680 giờ/ngày với 43 thứ tiếng
• Những điểm cần chú ý về nội dung:

6
- Đài phát thanh ra nước ngoài của các nước không có lợi cho nước chủ nhà về
mặt kinh tế nhưng quan trọng về mặt chính trị nên được nhà nước quan tâm
- Về cơ cấu tổ chức có nét đặc biệt (có phòng PR - nghiên cứu nhu cầu công
chúng, ban dạy tiếng nước ngoài)
- Những nội dung cần chú ý trong thông tin của các nước tư bản qua đài phát
thanh:
• Mô tả các nước tư bản giàu có thanh bình, là mô hình của nhiều nước vươn tới.
• Không đưa ra đầy đủ những mặt trái, mặt tiêu cực của xh TBCN để công chúng
phê phán
• Đồng nhất mục tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa với chủ nghĩa cộng sản
• Phê phán chủ nghĩa Mác , chống phá các nước XHCN, tăng cường các chiến
lược diễn biến hòa bình
2.3 Biểu hiện quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực truyền hình

• Lợi thế của thông tin trong lĩnh vực truyền hình đó là sử dụng hình ảnh
• Xu thế nhiều đài truyền hình trên thế giới phát các chương trình truyền hình đối
ngoại
• Tăng cường các chương trình phát hình gắn với lồng tiếng hoặc có chữ dịch
hiện trên màn hình
• Hình thành nhiều đài truyền hình của khu vực, đài truyền hình cho châu lục,
hoăc đài của các tập đoàn báo chí dành riêng cho khu vực.
2.4 Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực thông tấn

• Thu thập thông tin nước ngoài đầy đủ, chính xác là nghĩa vụ và trách nhiệm của
các hãng thông tấn
• Đa dạng hóa các loại hình thông tin: hình ảnh, âm thanh, các văn bản...
• Số lượng ấn phẩm báo ảnh càng ngày càng phát triển
• Liên kết các hãng thông tấn quốc tế
2.5 Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực báo mạng

• Hình thành những trang web của các cơ quan báo chí.

7
• Các phiên bản của báo in được cập nhật thông tin nhanh chóng
• Hình thành những dịch vụ thông tin mới như chat, thư điện tử, điện thoại qua
mạng
• Thông tin nhanh chóng, vượt qua mọi trở ngại về không gian và thời gian,
• Cần có trình độ cao để có thể loại bỏ thông tin nhiễu, thông tin không có độ tin
cậy, thông tin rác rưởi.
3. Thương mại hóa báo chí
Khái niệm thương mại hóa báo chí hiện nay vẫn còn có nhiều tranh cãi. Có
nhiều người cho rằng không nên dùng từ thương mại hóa đối với báo chí, vì điều đó
có thể gây hiểu sai là các tờ báo đang “lá cải hóa”
Tuy nhiên nhóm cũng xin tự đưa ra cách hiểu của mình về “thương mại hóa
báo chí”. Đó là một quá trình mà các cơ quan báo chí tìm cách tăng thu nhập cho
mình bằng các hoạt động kinh tế khác bên cạnh việc kinh doanh các loại hình báo chí
thông thường. Đó có thể là các hoạt động quảng cáo cho các sản phẩm, thâu tóm các
khâu trong quá trình làm báo: in ấn, phát hành… phát triển thêm các dịch vụ giá trị
gia tăng trên tờ báo hoặc cũng có thể tham gia và các lĩnh vực kinh tế khác.
3.1 Điều kiện hình thành thương mại hóa báo chí
Sau cuộc “cách mạng thương mại” những năm 1830 – 1840, các phương tiện
thông tin đại chúng trở thành những doanh nghiệp tư bản sinh lời, vì vậy bản thân
chúng cũng chịu sự tác động của tất cả các quy luật của hoạt động kinh doanh: cạnh
tranh và hạn chế cạnh tranh, tập trung hóa, độc quyền hóa và những luật lệ khác. Tất
cả những điều đó để lại dấu ấn trong hoạt động báo chí hằng ngày và hoạt động của
những tổ chức hữu quan. Chính vì sau “cuộc cách mạng thương mại”, những nguồn
thu của báo chí định kỳ chủ yếu đến từ quảng cáo chứ không phải từ số lượng phát
hành nên những tổ chức đặt in quảng cáo bắt đầu hướng đến những ấn phẩm có số
lượng phát hành cao nhất. Điều đó làm cho các nhà báo phải thay đổi nội dung và
cách trình bày ấn phẩm.

8
Trong lĩnh vực kinh tế thị trường và trong bối cảnh tương mại hóa toàn cầu,
hầu như mọi lĩnh vực nghề nghiệp đều chịu ảnh hưởng của lợi ích về quảng cáo và
thương mại. Họ nhận ra vai trò của quảng cáo trên báo chí đối với tư duy của khách
hàng. Báo chí cũng nhận ra điều đó. Nhà tài phiệt truyền thông như Rupert Murdoch
đã cho chúng ta thấy kinh doanh từ các loại hình truyền thông đem lại lợi nhuận
khổng lồ như thế nào. Hoạt động tổ chức của mọi phương tiện thông tin đại chúng đều
nhằm đạt được hiệu quả cao về phương diện kinh tế - tài chính, cũng như các phương
diện tư tưởng. Nếu chỉ xét về phương diện kinh tế của vấn đề thì cần nêu rõ rằng để
đạt được mức sinh lời cao khâu quản lý ở các báo và tạp chí, các đài phát thanh truyền
hình cũng phải được xây dựng theo những nguyên tắc giống như những nguyên tắc
trong điều hành các doanh nghiệp.
3.2 Biểu hiện của thương mại hóa báo chí
Hiện nay những nguồn thu chủ yếu của mọi ấn phẩm đều gồm:
- Những khoản thu tài chính từ quảng cáo
- Những khoản thu nhờ bán báo, phát sóng…
- Những khoản thu từ các hoạt động thương mại dưới các hình thức khác
- Những khoản tiền đóng góp từ bên ngoài.
Và nền tảng cho những khoản thu bằng tiền này là khoản thu từ quảng cáo đem
lại.
Từ khi khai sinh, mục đích thương mại của báo in đã rất rõ rằng. Tờ Anzeiger
(người quảng cáo) xuất bản ở Dresden (Đức) năm 1730, theo nhà nghiên cứu Anthony
Smith, đã tự cho mình là phục vụ tất cả những ai trong hay ngoài thành phố muốn
mua bán, cho thuê hay đi thuê, cho vay hay đi vay. Ở Mỹ, trong thời gian thuộc địa,
thương mại đó là một yếu tố tiên quyết của báo chí. Nhu cầu về buôn bán hàng hóa
tiêu dùng, đặc biệt thông tin về những tuyến tàu chở hàng từ bên kia đại dương đã để
lại kết quả là các tờ báo ban đầu hầu hết gắn với từ “người quảng cáo” (Advertiser)
trên vi-nhét.

9
Bất kì một tờ báo nào, một tạp chí hoặc một ấn phẩm niên giám nào cũng dành
một vài trang cho quảng cáo. Hiện chính quảng cáo là nguồn thu chủ yếu của ấn
phẩm. Tùy thuộc vào điều kiện phát hành, truyền thống dân tộc và tình hình kinh tế, ở
từng nước các khoản thu từ quảng cáo của các phương tiện thông tin đại chúng có
khác nhau. Ở Tây Ban Nha là khoảng 80%, ở Mỹ là 75% và ở Pháp là khoảng 60%
Sức ép về kinh tế đã buộc các cơ quan báo chí bước vào cuộc cạnh tranh dữ dội
để thu hút độc giả, thay đổi trong cách thu hút quảng cáo. Nhiều cơ quan đã tiến hành
hàng loạt chiến lược để thương mại hóa sâu xa hơn ngành công nghiệp này, khiến cho
các mối quan tâm thương mại ngang với hoặc quan trọng hơn chất lượng của xã luận
hay trách nhiệm với xã hội. Riêng ngành công nghiệp báo in Mỹ: thu nhập tăng từ
12,2 tủy đô la Mỹ vào năm 1975 lên 54,4 tỷ đô la năm 2000. Nói cách khác, báo in đã
thu nhập tăng gấp 2,5 lần từ quảng cáo năm 2000 so với năm 1950. Trong vòng 30
năm qua, lượng nội dung quảng cáo trong báo in Mỹ vượt trên 60% (Báo chí & tuyên
truyền 6/2006 trang 43)
Việc các tờ báo hiện nay coi trọng tin tức thương mại hơn và phụ thuộc vào
quảng cáo để tăng thu nhập đã khiến cho độ tin cậy vào các tin bài bị giảm xuống, sự
tin cậy của công chúng với các nhà báo bị tổn hại nhiều.
Thủ tướng Vajpayee của Ấn Độ, trong cuộc phỏng vấn với BBC năm 2003 đã
nói lên mối lo ngại về sự gia tăng tính thương mại và tính giật gân trong báo chí. Ông
nhấn mạnh các loại hình báo chí phải thể vai trò quan trọng của mình bằng tính có tư
tưởng và giá trị: “Nếu không có lý tưởng, báo chí sẽ trở thành hàng hóa và không thể
tác động đến suy nghĩ của độc giả nữa”. Ở Đài Loan, giáo sư báo chí Kuan Chung-
Hsiang, Đại học Shih Hsin đã tiên đoán rằng trong tương lai gần các loại hình báo chí
Đài Loan sẽ tiếp tục xuống cấp vì ảnh hưởng của các nhóm lợi ích chính trị và thương
mại. Ở Úc, khi các nhà báo mới bị coi là “người kinh doanh nhỏ hiệu quả” đang cung
cấp sản phẩm của họ cho người dân, nhà nghiên cứu Katrina Mandy Oakham tin vào
sự đổi thay lớn mà các nhà báo không còn là người giám sát xã hội hay các thành viên
ưu tiên của “quyền lực thứ tư” nữa mà “họ là những doanh nhân sản xuất hàng hóa

10
phục vụ thị trường”. Nhà báo Michelle Grattan thậm chí cho rằng “tính thương mại”
đã nổi lên như là “giá trị cốt lõi” của báo chí. Như vậy, điều mọi người lo ngại có thể
đã thành hiện thực: báo chí được xem như là hàng hóa.
Vai trò của nhà báo đã thay đổi sâu sắc nếu chúng ta đồng ý với ý tưởng của
Simon Canning trên tờ The Autrailian: “Mọi thứ có thể sẽ thay đổi và nhà báo sẽ sớm
thấy công việc của họ không chỉ là phản ánh sự kiện, mà chính là phương tiện mà các
nhà quảng cáo phát tán thông điệp của mình”. Thậm chí báo chí và thương mại luôn
sát cánh kề vai, Canning cũng chỉ ra rằng quảng cáo đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận
bằng cách đặt các thông điệp quảng cáo của họ cạnh tin tức. Như thế, các nhà báo đã
“bị ép” để cho ra những tin tức thương mại giống như thế trở thành tin tức”.
Internet cung cấp một môi trường tuyệt vời cho ngành quảng cáo và do đó báo
chí điện tử dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng. Một ví dụ mà Canning đưa ra là
phần mềm quảng cáo có tên là IntelliTXT của công ty quảng cáo trực tuyến Vibrant
Media ở Mỹ. Khi các nhà quảng cáo sử dụng hệ thống này, họ có thể biến hàng trăm
từ trong bài báo có tiềm năng gây thu hút về sản phẩm của họ mà bạn đọc có thể đọc
sang dạng có kết nối đến quảng cáo. Và chỉ cần di con chuột tới vị trí từ đó, một màn
hình nhỏ sẽ hiện ngay ra mời gọi người đọc nhấn vào trang quảng cáo chính thức.
Ứng dụng này khiến các chuyên gia báo chí Mỹ lo ngại về việc nhà báo chọn từ khi
viết, bởi họ sẽ hướng tới những từ dễ được chuyển sang kết nối tới trang quảng cáo.
Sự can thiệp khá sâu cả về nội dung và hình thức này rõ ràng đã ảnh hưởng đến tính
chính xác, sự công bằng và đạo đức báo chí.
3.3 Ảnh hưởng của thương mại hóa với báo chí
Trong bối cảnh thương mại hóa báo chí, Lynette Sheridan Burns cho rằng các
nhà báo ngày nay luôn phải tìm cách dung hòa giữa cạnh tranh nghề nghiệp, quan tâm
thương mại và trách nhiệm đạo đức liên quan đến việc khai thác thông tin và thể hiện
thông tin. Bà cho rằng “báo chí là một công việc phức tạp – cố gắng làm hài lòng tổng
biên tập – ông chủ của bạn, bản thân bạn và toàn bộ độc giả”

11
Vì các cơ quan báo chí là các doanh nghiệp, các nhà báo phải làm hài lòng ông
chủ mình và để làm điều đó, họ phải tuân thủ những nguyên tắc riêng của phòng tin”.
Quy tắc này có thể là nhà báo phải hiểu cơ quan mình sẽ chọn cái gì đưa tin và cái gì
không. Những yếu tố này không thể nói là không làm khó xử cho họ và họ sẽ quen
với việc được bảo là làm gì, hơn là làm điều mình muốn.
Tuy nhiên ở các nước phương Tây họ có một giải pháp, đó là tách biệt các hoạt
động quảng cáo với phần hoạt động báo chí đích thực. Điều đó giúp cho bản chất của
tin tức sẽ không bị ảnh hưởng, thông tin vẫn chính xác và đảm bảo sự trung thực. Ở
đa số các quốc gia, người ta nghiêm cấm hình thức quảng cáo lén lút, núp dưới các
bản tin, tin tức. Một vài nước còn đưa ra cả luật lệ cho việc đó.
Trong báo chí, cũng như những ngành nghề khác, thời gian là tiền. Các tổng
biên tập luôn muốn có nhiều tin hơn trong thời gian ngắn hơn, áp lực đặt lên nhà báo.
Hậu quả là họ có thể trở thành những cỗ máy được lập trình để hoạt động. Họ thiếu
thời gian để nghiên cứu, điều tra, để tìm hết các ngóc ngách, phương diện của vấn đề.
Nhiều khi các ông tổng biên tập muốn mọi phương diện của một câu chuyện tội phạm
đi quá cả phạm vi giá trị thông tin câu chuyện bởi họ có thể in nhiều bản hơn để bán.
Ngược lại cũng có những câu chuyện không bao giờ được khám phá bởi chi phí lớn
về việc đi lại hoặc chúng không giúp bán được nhiều báo
Vấn đề khác của báo chí hiện nay liên quan đến tính thương mại là báo chí trả
tiền cho nguồn tin bằng các tấm séc (chequebook journalism). Tuy nhiên vấn đề này
vẫn con tranh cãi, nhưng cho thấy báo chí dùng tiền để mua tin là chuyện bình
thường. Theo Hargreaves, checkbook journalism nghĩa là báo chí trả tiền cho nguồn
tin, thậm chí là tội phạm đang chờ xét xử, để khai thác các câu chuyện, không quan
tâm tới hiệu quả của sự can thiệp của đồng tiền có thể có đối với tính tin cậy của
thông tin. Câu hỏi đặt ra là: liệu nhà báo sẽ có những thông tin trung thực từ nguồn tin
hay không? Nếu nguồn tin đòi tiền thì động cơ của họ là gì?
Nhưng đối với McClellan, một cựu chuyên gia các vấn đề thời sự của kênh
truyền hình số 9 và số 7 của Úc, các tấm séc là việc việc cần thiết cho việc thực hành

12
nghề báo. McClellan cũng cho biết tiền được chi ở Úc chỉ bằng phần nhỏ so với Anh,
Mỹ và hầu hết tiền được trả là nhỏ hơn 10.000 đô là và số tiền lớn nhất được trả cũng
không khác mấy so với 20 năm trước. Hầu hết chi phí séc ở Úc là cho những câu
chuyện cá nhân nổi bật như Delta Goodrem và Belinda Emmett. Ở Anh hay Mỹ, phí
séc ngày càng cao hơn và nhiều hơn. Monica Lewinsky được cho là đã bỏ túi khoảng
400.000 bảng cho một cuộc phỏng vấn năm 1999 sau vụ scandal với cựu tổng thống
Mỹ.
Bối cảnh của các nước tư bản là trong nền kinh tế thị trường, khi mỗi cơ quan
báo chí là một doanh nghiệp, nó phải nghĩ trước tiên đến việc làm sao để sống còn, rồi
mới nghĩ đến việc truyền tải thông tin đến cho độc giả của mình. Nghịch lý là nhu cầu
cao về thắng lợi kinh tế khó có thể đảm bảo một nền báo chí công bằng và trách
nhiệm. Điều đáng lo ngại là quan tâm đến lợi ích kinh tế đã không chỉ là do sức ép
bên ngoài, mà nó có thể phát sinh từ bên trong, ngay ở “tim” của mỗi cơ quan báo chí.
Vậy cái hứa hẹn nền báo chí tốt, vì lợi ích xã hội thực sự lại đặt lên vai các nhà báo,
với hệ thống chính trị nhân bản và nhận thức riêng, nằm trong phạm vi đạo đức nghề
nghiệp. Điều 6, quy định đạo đức nghề nghiệp của Hiệp hội báo chí Úc nói: “Đừng để
quảng cáo hay quan tâm thương mại làm tổn hại đến tính chính xác, công bằng hay
độc lập của báo chí”. Quy định này còn có thể coi là lời kêu gọi rất có ý nghĩa với
người làm báo hiện nay.
4. Tập trung và độc quyền hóa báo chí

4.1 Khái niệm


Tập trung hóa báo chí là quá trình sáp nhập giữa các cơ quan báo chí, hoặc
thôn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các cơ quan báo chí để hình thành
nên các tập đoàn báo chí.
Độc quyền, trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy
nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm, không có sản phẩm thay thế gần gũi.
Tiếng Anh: monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp monos (nghĩa là một) và polein

13
(nghĩa là bán). Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp
cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. (vi.wikipedia.org)
Độc quyền hóa báo chí đó là tình trạng mà các các tập đoàn báo chí đã thâu
tóm toàn bộ các cơ quan báo chí, biến mình trở thành duy nhất trên thị trường nhằm
phục vụ mục đích riêng của mình.
4.2 Quá trình hình thành
Quá trình tập trung và độc quyền báo chí bắt đầu được hình thành từ năm 1892
khi mà Scripps cùng với người bạn là Macrê thành lập một mối liên kết giữa 5 tờ báo
của họ. Ở Mỹ người ta đã tính toán rằng kề từ năm 1962 “các tập đoàn tài chính hữu
quan” hàng năm đã mua lại khoảng 68 tờ báo độc lập. Năm 1979, số lượng bản phát
hành của các tờ báo hằng ngày thuộc sở hữu của các tổ chức độc quyền chiếm đến
71% tổng số lượng bản phát hành của tất cả các báo. Đồng thời, trong số 38 tờ báo
hằng ngày đã truyển về tay người chủ khác thì trong 7 tháng của năm 1979 đã có 34
tờ báo trở thành sở hữu của chính các tổ chức độc quyền.
Có một điều đáng lưu ý là chính những tập đoàn báo chí hùng mạnh thì lại càng
tăng cường sự ảnh hưởng của mình về cả số lượng ấn phẩm và cả số lượng bản phát
hành. Năm 1979 ở Mỹ, số lượng các tổ chức độc quyền từ con số 11 đã tăng lên 13
với tổng số lượng bản phát hành mỗi lần của các tờ báo đều vượt quá 1 triệu bản. Kết
quả là 13 tổ chức độc quyền đó kiểm soát 42% tổng số các tờ báo hằng ngày và 50%
tổng số các tờ báo chủ nhật. Ở Mỹ tồn tại 165 tập đoàn báo chí, chiếm 60% tổng số
báo ra hằng ngày ở trong nước.
Ở Thụy Điển, xu hướng tập trung và độc quyền hóa báo chí thể hiện qua những
chỉ số phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng – loại hình ấn phẩm –
chuyển sang hệ thống “một thành phố - một tờ báo”, bởi vì số lượng các điểm dân cư
có những tờ báo cạnh tranh nhau thì không ngừng giảm sút.

14
Sự phân bố các báo ở Thụy Điển
Các điểm dân cư có 2 tờ báo hoặc
Năm Các điểm dân cư chỉ có một tờ báo
nhiều hơn
1945 51 42
1950 51 42
1955 39 53
1960 32 56
1965 23 59
1970 21 65
1975 20 64
1980 21 62
1985 24 60
1990 20 63
1995 20 58
Chú thích: Những số liệu dẫn trên liên quan đến tờ báo xuát bản 3-7 lần trong một tuần.
Sự độc quyền thông tin quyết định rất nhiều về nội dung thông tin. Báo chí
ngày nay là công cụ mạnh mẽ, nhiều nhánh và linh hoạt trong tay giai cấp thống trị và
báo chí được giai cấp thống trị sử dụng một cách khéo léo nhằm mục đích “tẩy não”
quần chúng, nhằm luận chứng và biện minh cho hành động gây tâm lý quân phiệt,
nhằm bảo đảm sự ủng hộ đối với đường lối chính trị đang được thi hành.
Ví dụ, đại công ty “Gannett company”. Năm 1966 sở hữu 26 tờ báo hằng ngày
và 6 tờ báo chủ nhật. Trong những năm 1980, nó có ảnh hưởng tới 88 tờ báo hằng
ngày và 23 tờ báo tuần, 13 đài phát thanh và 17 đài truyền hình.
Theo sự tính toán của các chuyên gia Mỹ: 20 tập đoàn nắm trong tay hơn một
nửa tổng số các tờ báo trong nước, 4 tập đoàn kiểm soát ngành truyền hình, 10 tập
đoàn kiểm soát ngành phát thanh, 12 tập đoàn thống trị trong ngành xuất bản sách, 4
tập đoàn ngự trị trong ngành điện ảnh. Đầu những năm 1980 nếu như tất cả các thành
phố Mỹ đều có những tờ báo ngày, thì 98% trong số đó đặt dưới quyền kiểm soát của
một trung tâm, trong tổng số 1700 tờ báo hằng ngày ở Mỹ có hơn 1000 báo thuộc sở
hữu “các mạng lưới”.

15
4.3 Biểu hiện của tập trung hóa, độc quyền hóa
- Quá trình giảm bớt số lượng của những tờ báo độc lập
Chẳng khó khăn gì để các ông trùm báo chí đóng cửa bất kỳ một ấn phẩm báo
chí nào có hại cho lợi ích của họ. Sự tập trung và độc quyền hóa lĩnh vực báo chí dẫn
tới một hệ quả là thông tin khi được đưa ra đã chịu một sự chi phối từ các ông trùm
truyền thông khiến cho thông tin không còn chân thực và khách quan. Có nhiều cách
khác nhau để tác động lên các cơ quan báo chí:
- Thông qua việc tham gia tài chính trong cơ quan báo chí.
- Thông quan việc kiểm soát các cơ quan tuyên truyền của chính phủ.
- Thông qua việc lãnh đạo trực tiếp các tổ chức thông tin – tuyên truyền của
các tổ chức kinh doanh lớn và trong việc lãnh đạo nhiều tổ chức xã hội.
- Chiếm lĩnh các vị trí lãnh đạo trong các tổ chức báo chí lớn.
- Thông qua quảng cáo có trả tiền là hoạt động không thể thiếu đối với sự tồn
tại của các tờ báo, tạp chí, các đài phát thanh và truyền hình về phương diện tài chính.
Năm 1999, ở Mỹ trong tổng số 1489 tờ báo hằng ngày thì chỉ có 269 tờ nghĩa là
18% là những tờ báo độc lập còn lại thì đều thuộc quyền ở hữu của các tập đoàn báo
chí. Tổng số các tờ báo hàng ngày cũng tiếp tục giảm. Năm 1998 đã có 20 tờ báo
hằng ngày đóng cửa, tính đến tháng 2/1999 chỉ còn 1489 tờ báo. Trong 10 năm trở lại
đây đã có 153 tờ báo hằng ngày chấm dứt tồn tại.Một trong những nguyên nhân dẫn
đến việc này cũng phải kể đến sự thâu tóm của các tập đoàn báo chí đối với các tờ báo
độc lập.
Quá trình tập trung và độc quyền hóa diễn ra một cách nhanh chóng, nhiều
quốc gia đã nới lỏng luật pháp tạo điều kiện cho các tập đoàn truyền thông phát triển
và tập trung hóa. Việc tập trung hóa và độc quyền hóa giờ đây không còn chỉ diễn ra
trong một quốc gia nữa mà nó đã có sự tập trung xuyên quốc gia. Các tập đoàn truyền
thông lớn muốn nâng cao ảnh hưởng của mình đã vươn xa tới các quốc gia khác và
thâu tóm các cơ quan báo chí để phục vụ cho lợi ích của họ. Quá trình đó dẫn tới hình
thành một mạng lưới tập đoàn báo chí Đa quốc gia.

16
Ngày nay quá trình tích tụ tư bản và độc quyền hóa các phương tiện thông tin
đại chúng vẫn tiếp diễn. Không phụ thuộc vào các hình thức sở hữu và các phương
pháp điều hành doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay sự tập trung và độc quyền
hóa các phương tiện thông tin đại chúng đang diễn ra theo một loạt định hướng.
Những tổ chức độc quyền đang tồn tại thì gia tăng sự hùng mạnh của mình bằng cách
không ngừng giảm số lượng các phương tiện thông tin đại chúng “độc lập”, các
phương tiện thông tin đại chúng tăng cường quan hệ với các tập đoàn xuyên quốc gia,
các cơ quan chính phủ đóng vai trò ngày càng lớn trong định hướng và thao túng các
phương tiện thông tin đại chúng. Đã xuất hiện những doanh nghiệp thông tin đại
chúng xuyên quốc gia với số tư bản “phân tán”, khi mà trên thực tế không thể xác
định được chúng thuộc sở hữu quốc gia nào.
- Sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn
Các công ty báo chí truyền thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách
mua lại, sáp nhập, thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh để thành
lập nên các tập đoàn báo chí. Với việc bỏ ra hàng tỷ đô la, các ông chủ này đã đẩy
nhanh những sự tập hợp mới trong lĩnh vực báo chí, truyền thông đại chúng, tạo ra
quy mô hoạt động, sức mạnh ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới quốc gia, phạm vi
khu vực. Điều này dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn trên toàn
thế giới đặc biệt là ở các nước TBCN phát triển. Theo số liệu của Công ty nghiên cứu
thị trường Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007, trên toàn thế giới đã ghi nhận 372
bản hợp đồng sáp nhập, mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo chí truyền thông với
tổng giá trị lên đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp đồng sáp nhập giữa Google
và Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-2007, hợp đồng sáp nhập giữa Yahoo
với Right Media trị giá 680 triệu USD. (nhóm 3)
Thế giới đa dạng, các quá trình tập trung tư bản và độc quyền nắm giữ các
phương tiện thông tin đại chúng ở các nước khác nhau đang diễn ra theo những cách
khác nhau, tuy nhiên đó đều đang là xu hướng chung của nền báo chí truyền thông thế
giới.

17
5. Quá trình phân hóa và chuyên môn hóa
Qúa trình phân hóa và chuyên môn hóa cũng là một phần không kém quan
trọng của báo chí. Đó là một phương thức trong đó một ấn phẩm báo chí chỉ tập
trung vào một lĩnh vực cụ thể của đời sống, nhằm vào một lượng đối tượng công
chúng xác định. cụ thể. Trong điều kiện toàn cầu hóa thông tin, các phương tiện thông
tin đại chúng ngày càng thực hiện mạnh hơn quá trình phân hóa và chuyên môn hóa,
tạo cơ hội cho những tổ chức ấy tìm được vị trí xã hội của mình, hướng đến một tầng
lớp dân cư hoàn toàn xác định, tác động có hiệu quả đến người đọc, người nghe và
người xem.
Thông thường chúng ta phân các tờ báo căn cứ theo quy mô phát hành thành
các tờ báo quốc gia, khu vực, địa phương. Xét theo tính chất định kỳ và thời gian ấn
hành thì người ta phân các tờ báo thành báo hằng ngày và không ra hằng ngày, báo
buổi sáng, báo buổi chiều. Xét theo tính chất và ý nghĩa xã hội thì các tờ báo được
phân ra thành các tờ báo địa chúng, có chất lượng, các báo hỗn hợp.
Có thể phân chia các tạp chí thành hai nhóm lớn:
- Các tạp chí chuyên ngành và các tạp chí đáp ứng được “lợi ích chung”.
Nhưng các tạp chí “lợi ích chung”, hay các tạp chí đại chúng lại phân thành các tạp
chí thông tin, tạp chí giải trí…
- Một số nhà nghiên cứu lại phân chia toàn bộ báo chỉ ở phương Tây ra làm 4
nhóm ấn phẩm. Đó là các ấn phẩm nông nghiệp, thương mại, chuyên ngành và các ấn
phẩm đại chúng.
Những ấn phẩm chuyên ngành bao gồm nhiều ấn phẩm phục vụ tầng lớp dân
chúng, có chung nghề nghiệp và có chung hình thức lao động. Mỗi loại ấn phẩm đều
có những đặc điểm riêng và những dấu hiệu phân biệt. Tuy nhiên giữa chúng cũng có
rất nhiều điểm giống nhau. Trước hết đó là khả năng tác động một cách có phân biệt
đến những nhóm độc giả khác nhau.
Những ấn phẩm chuyên ngành chủ yếu tập trung vào những vấn đề khoa học và
kỹ thuật – tập trung vào một lĩnh vực cụ thể. Các tạp chí chuyên ngành không chỉ phát

18
hành ở trong nước mà còn phát ra nước ngoài. Nhiều ấn phẩm còn có chi nhánh ở
nước ngoài. Nội dung của các ấn phẩm chuyên ngành này được tập trung vào một
ngành nghề cụ thể do đó khu biệt được đối tượng khán giả.
Lợi ích của quá trình phân hóa và chuyên môn hóa: Đó là nó cho phép
nâng cao hiệu quả của các bài vở của báo chí, đài phát thanh và truyền hình, sử dụng
phương tiện sẵn có với hiệu quả cao nhất. Quá trình phân hóa giúp thiết lập ra được
các ấn phẩm chuyên sâu vào một lĩnh vực, giúp cho công chúng có thể lựa chọn dễ
dàng ấn phẩm phù hợp. Trong tương lai, việc khu biệt đối tượng và lựa chọn cho
mình một lĩnh vực để kinh doanh truyền thông là một xu hướng tất yếu.
6. Gia tăng mối quan hệ giữa báo chí và kỹ thuật

Kỹ thuật có một ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển chung của xã hội, truyền
thông cũng là một lĩnh vực chịu sự tác động lớn của khoa học kỹ thuật. Trong quá
trình phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, kỹ thuật đã và đang sẽ luôn
giữ vai trò hàng đầu. Từ các hình thức truyền thống là thông tin truyền miệng từ một
người này sang người khác cho đến những chữ viết cổ đầu tiên đã góp phần trao đổi
thông tin giữa người với người. Thời kì đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển báo chí
đó là sự ra đời của máy in. Với sự ra đời của máy in vào vào năm 1455 do Johan
Gutenberg phát minh. Đó được xem là châm ngòi cho nền công nghiệp giấy bùng nổ.
Sự ra đời của máy in đã đơn giản hóa đi rất nhiều trong công đoạn làm báo, góp phần
tăng lượng xuất bản, tăng chất lượng và hình thành một nền công nghiệp báo chí. Phát
thanh – truyền hình ra đời cũng phải phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố kĩ thuật và để
phát triển chất lượng tin bài phát thanh truyền hình thì cũng đồng nghĩa với việc nâng
cao cơ sở vật chất kĩ thuật. Máy tính cùng với mạng internet ra đời đã đánh dấu sự đột
phá với lĩnh vực truyền thông. Một loại hình phương tiện mới ra đời có thể truyền tải
thông tin nhanh chóng kéo theo sự bùng nổ thông tin, điều này đã dẫn đến sự thay đổi
hết sức triệt để trong các phương tiện thông tin đại chúng.
Việc áp dụng khoa học kĩ thuật, các công nghệ mới vào các phương tiện thông
tin đại chúng đã dẫn đến những hệ quả xã hội quan trọng. Một trong những hệ quả ấy

19
được giáo sư G.V.Giêccốp nêu ra trong báo cáo khoa học của mình đó là hình thành
nên “Kỷ nguyên thông tin” (Information Era). Các quá trình thông tin hiện đại của xã
hội có một trình độ trang bị kỹ thuật cho phép con người ngoài cái thế giới bao quanh
mình – còn kiến tạo cho cái cá nhân mình một phạm vi thế giới ảo đặc biệt, sống
trong thế giới ấy theo cách mà con người ưa thích và có được một sự tự do lựa chọn
gần như tuyệt đối, điều mà con người chưa thực hiện được.
Để đáp ứng kịp nhu cầu thông tin của công chúng, cũng như thay đổi chính bản
thân mình, báo chí cần phải biết phát huy những thành quả của khoa học công nghệ,
đồng thời cũng phải tự nghiên cứu các kĩ thuật mới phục vụ cho quá trình cung cấp
thông tin.
Ta có thể nhận thấy điều đó qua các loại hình báo chí đòi hỏi công nghệ cao:
như truyền hình, các thiết bị để sản xuất ra một chương trình truyền hình phải đồng
bộ, hiện đại… nếu như muốn có một chương trình chất lượng. Công nghệ sản xuất
máy quay phim cho phép ghi lại những hình ảnh chân thực và rõ nét nhất. Công nghệ
phát sóng giúp truyền tải hình ảnh đi nhanh và giữ được chất lượng.
Báo chí và kỹ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự phát triển của báo chí
đòi hỏi kỹ thuật phải không ngừng phát triển để đáp ứng, còn sự phát triển của kỹ
thuật sẽ giúp cho truyền thông phục vụ công chúng tốt hơn.
7. Xu hướng đa phương tiện
7.1 Khái quát chung
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự bùng nổ của internet đã tác động mạnh mẽ
đến đời sống xã hội của con nguời và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của báo chí
thế giới.
Trước đó, các loại hình báo chí truyền thống (báo in, phát thanh, truyền hình)
phát triển tương đối độc lập, mỗi loại hình có những ưu thế riêng không bị lấn át.
Nhưng internet ra đời kéo theo sự ra đời của báo mạng, thông tin được cung cấp cho
công chúng theo hình thức đa phương tiện sinh động, hấp dẫn hơn và đang là sự lựa
chọn số 1 của lớp công chúng trẻ và tiếp tục ảnh hưởng tới lớp công chúng kế cận 

20
Tương lai báo chí thuộc về truyền thông đa phương tiện (đi cùng sự phát triển của
internet)
Có thể hiểu, “multimedia” hay “truyền thông đa phương tiện” là sự kết hợp
của ngôn ngữ viết, ảnh, video, âm thanh, thiết kế đồ họa và các phương thức tương
tác khác trên trang web nhằm truyền tải một câu chuyện, một vấn đề một cách đa
diện, mỗi hình thức thể hiện góp phần tạo nên câu chuyện thuyết phục nhất và đầy đủ
thông tin nhất. Đối với ngành báo chí nói riêng, đặc biệt là báo điện tử và các kênh
truyền hình trực tuyến, phóng sự đa phương tiện chính là tương lai của sự phát triển.
Theo hình thức truyền thông thông thường (media), thông tin được truyền –
phát đi bằng cách nghe, nhìn. Ví dụ một bản tin được đăng trên báo in, công chúng
đọc tờ báo và tiếp nhận thông tin ấy. Nhưng cũng cùng thông tin ấy, khi thể hiện
chúng trên Wedsite, ngoài bản text còn đính kèm hình ảnh, đoạn video có liên quan,
… Công chúng tiếp nhận thông tin bằng nhiều giác quan khác nhau, với những hình
thức thông tin khác nhau, đó là truyền thông đa phương tiện.

21
Multimedia = văn bản + hình ảnh + giọng nói + âm nhạc + video…= hiệu quả
truyền thông - www.thecommunicationsgroup.com
7.2 Nguyên nhân báo chí phát triển theo hướng đa phương tiện.
a. Sự phát triển của công nghệ truyền thông
Công nghệ truyền thông (Media Technology) là ngành bao gồm các lĩnh vực
nghiên cứu công nghệ, kỹ thuật, loại hình thông tin (báo chí - truyền hình, radio;
truyền số liệu; internet; di động; vệ tinh...); đánh giá và xây dựng các xu hướng, chiến
lược phát triển hệ thống thông tin.
Trong khoảng những năm gần đây, công nghệ truyền thông phát triển mạnh mẽ
với những bước đột phá bất ngờ: internet xóa nhòa khoảng cách thời gian – không
gian trong việc tiếp cận thông tin trên toàn thế giới, hệ thống dịch vụ mạng di động
tăng nhanh chóng, Phương tiện truyền thông kỹ thuật số đã bắt đầu phát triển và lan
rộng ra toàn cầu,…
Sự phát triển của công nghệ truyền thông chính là một mặt sự phát triển của
báo chí thế giới. Khi chưa có sự ra đời của internet, các loại hình báo chí truyền thống
(báo in, phát thanh, truyền hình) phát triển tương đối độc lập, mỗi loại hình có những
ưu thế riêng không bị lấn át. Khi internet ra đời và phát triển cùng một loạt tiện ích và
sản phẩm công nghệ truyền thông đi kèm tạo nên một sức mạnh mới mà các loại hình
truyền thông truyền thống khó cạnh tranh nổi.
Công nghệ đã cho phép báo điện tử ra đời và ngược lại, chính báo điện tử cũng
thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ mới. Những trình duyệt phiên bản mới liên
tục được cải tiến để có thể tích hợp các tính năng truyền thông đa phương tiện. Điện
thoại và những thiết bị di động hỗ trợ cá nhân như PDA cũng được nâng cấp để có thể
truy cập web tiện lợi hơn và khai thác thông tin trực tuyến.
Sự phát triển của công nghệ truyền thông đã tạo cho báo chí một hướng đi mới:
Tích hợp các phương tiện truyền thông. Cái mà các nhà truyền thông đang hướng tới
là Công nghệ Truyền thông Hợp nhất (một quá trình mà trong đó tất cả các phương
tiện truyền thông, các thiết bị truyền thông và các kênh thông tin đại chúng được tích

22
hợp lại với nhau, cho phép người sử dụng có thể liên lạc với bất cứ ai, khi họ ở bất cứ
nơi đâu, và theo thời gian thực)
b. Nhu cầu thông tin của lớp công chúng mới.
Trong một xã hội hiện đại với sự bùng nổ thông tin, công chúng ngày càng có
những yêu cầu cao hơn đối với nội dung cũng như chất lượng thông tin. Một tờ báo in
toàn chữ với những bài viết dài, những chương trình phát thanh – truyền hình buộc
khán - thính giả phải ngồi chờ đợi… nay đã không còn phù hợp. Một hình thức truyền
thông mới cho phép công chúng thu nhận thông tin bằng cả hình ảnh, âm thanh, văn
bản là sự lựa chọn của lớp công chúng mới.
Người đọc báo hôm nay đang ngày càng bị phân tâm bởi nhiều hình thức cung
cấp thông tin động, hấp dẫn, tiếp cận trên toàn bộ các giác quan, cảm quan: đọc, nghe,
nhìn, đối thoại, tham gia trực tiếp... tương lai của báo chí đang thay đổi dữ dội bởi các
khả năng khác nhau để chuyển tải thông tin nóng đến người đọc
Xu hướng tiêu thụ thông tin của người dân đã và đang thay đổi nhanh chóng do
khả năng kết nối dễ dàng vào mạng Internet toàn cầu với thông tin tràn ngập hằng
ngày, hàng trăm kênh truyền hình quốc tế qua cáp, hàng loạt kênh truyền thanh tiếp
cận người đọc mỗi ngày, mỗi giờ… Xu hướng rõ ràng là phù hợp với xã hội, do vậy
đi theo sự phát triển này là sự lựa chọn đúng đắn của các nhà truyền thông.
Đa phương tiện sẽ giúp cho công chúng dễ dàng lựa chọn hơn.
7.3 Biểu hiện của báo chí phát triển theo hướng đa phương tiện
a. Sự phát triển của các tổ chức truyền thông đa phương tiện
Các công ty truyền thông như viễn thông, truyền hình cáp và các khối giải trí
đang tranh giành nhau để có chân trong “thị trường” tích hợp các phương tiện truyền
thông mới. Ví dụ:
- Hãng Time Warner sát nhập với hãng American Online - Sự liên doanh đó
minh họa sinh động cho sự kết hợp các phương tiện truyền thông cũ và mới: báo
mạng và báo giấy

23
- Những công ty phát hành báo lớn bao gồm New York Times Co.
(www.nyt.com) và Tribune Co., nhà xuất bản của tờ Chicago Tribune
(www.tribune.com), chuyển tin chủ yếu qua mạng Internet.
- NBC (www.home.nbci.com) có một trong nhiều trang đầy tham vọng trên
Internet, và có những dự án chung về truyền hình và Internet với hãng máy tính khổng
lồ Microsoft (www.msnbc.com). Các hãng khác như CBS, ESPN, FOX va CNN đều
có những trang chính trên Internet.
"Truyền hình trên nền Internet sẽ trở nên phổ cập - bằng cớ là nhiều hãng viễn
thông lớn đang gia cố cơ sở hạ tầng cho viễn cảnh đó. Bạn sẽ được thưởng thức tất
cả các dịch vụ trên một nền duy nhất" - Bill Gates
Rõ ràng các tổ chức truyền thông đã có chung một tầm nhìn về tương lai – kết
hợp các phương tiện truyền thông và giải trí vào một phương thức truyền thông mới
có khả năng cung cấp sự lựa chọn tin tức bằng văn bản hay bằng các đoạn phim và
những bộ phim mới nhất bất kì khi nào được yêu cầu.
b. Những biểu hiện cụ thể về sản phẩm báo chí đa phương tiện
- Báo giấy không thể thiếu sản phẩm báo điện tử đi kèm.
- Các tờ báo còn có thể làm đài phát thanh, kênh truyền hình và đặc biệt là
báo mobile (gửi các bản tin cho bạn đọc qua điện thoại di động)
- Dùng giao thức Internet để phát chương trình phát thanh, truyền hình (số hóa)
Nhà báo thời truyền thông đa phương tiện (multimedia journalist) phải có kĩ
năng của nhiều loại hình báo chí, có thể tác nghiệp nhanh nhạy và sử dụng thành thạo
các sản phẩm công nghệ hỗ trợ như laptop, điện thoại di động có định vị vệ tinh, máy
ảnh, Camera…
7.4 Truyền thông đa phương tiện tại Việt Nam
Trong khi multimedia ở các nước Châu Âu và Mỹ đang phát triển mạnh mẽ thì
ở Việt Nam, khái niệm về truyền thông đa phương tiện còn khá mới mẻ. Ngoài báo in,
phần lớn các tòa báo ở Việt Nam đã mở thêm trang web để cập nhật thông tin nhanh
chóng và phục vụ một số lượng đông đảo người dùng internet. Họ cũng đã bắt đầu

24
biết khai thác lợi thế của internet bằng việc phát trực tuyến hoặc phát lại các các
chương trình TV, phim, radio, hay các đoạn video clip. Tiêu biểu trong số đó có trang
phimanh.net thuộc VNExpress; www.vnntv.vn; www3.tuoitre.com.vn/Media; hay
www.vtc.com.vn. Tuy nhiên tất cả đều ở hình thức phát lại và chủ yếu mang tính giải
trí.
8. Báo chí công dân

Không có một định nghĩa rõ ràng nào về báo chí công dân. Ta có thể hiểu báo
chí công dân là loại hình báo chí mà thông tin được thu thập, phân tích và phổ
biến bởi những người dân bình thường.
8.1. Sự ra đời của “báo chí công dân”
Trào lưu "báo chí công dân" (Citizen Journalism) nảy sinh từ nước Mỹ sau
cuộc bầu cử tổng thống 1988 như một phản ứng từ niềm tin vào các phương tiện
truyền thông đã bị xói mòn. Jay Rosen, giáo sư báo chí ở Đại học New York là một
trong những người tiên phong cổ xuý trào lưu này.
Năm 1999, những nhà hoạt động xã hội ở Seattle (Mỹ) sáng lập Trung tâm
Truyền thông độc lập (Independent Media Center - IMC) đầu tiên để bày tỏ phản ứng
trước việc tổ chức hội nghị WTO tại đây trong khi các kênh truyền thông chính thống
không hề đại diện cho tiếng nói và nguyện vọng của họ. Từ đó, IMC đã được thiết lập
ở hơn 2.000 thành phố khắp thế giới.
Cùng lúc với sự phát triển của các trung tâm IMC, những kênh thông tin của
các "nhà báo công dân" bắt đầu bùng nổ trên internet dưới các hình thức weblog, chat
room, forum, wikis… Ở Hàn Quốc, website OhMyNews.com ra đời năm 2000 trở
thành tờ báo trực tuyến nổi tiếng và thành công về mặt thương mại với khẩu hiệu:
"Mỗi công dân là một nhà báo". 80% tin bài trên website này là do các thường dân
cộng tác.
Năm 2001, website ThemeParkInsider.com của Mỹ là tờ báo trực tuyến đầu
tiên giành được một giải thưởng báo chí quan trọng của Hiệp hội Báo chí trực tuyến
Mỹ và khoa báo chí Đại học.

25
Ý tưởng cốt lõi trong triết lý và hệ thống giá trị của báo chí công dân (civic
journalism) là niềm tin cho rằng báo chí có một nghĩa vụ đối với đời sống công cộng.
8.2 Sức mạnh của báo chí công dân
Có khả năng thông tin nhanh chóng những sự việc vừa xảy ra. Đưa ra cái nhìn
khách quan và không bị chi phối bởi bất kì cơ quan nào. Bắt nguồn từ sự phát triển
của khoa học kĩ thuật và nhu cầu được nói lên chính kiến cũng hay bày tỏ quan điểm
của mình.
Báo chí công dân (Citizen Journalism) - loại hình báo chí mới sinh ra trong kỷ
nguyên Internet, đang trở thành trào lưu mạnh mẽ trên toàn thế giới. Đại diện chính
cho báo chí công dân chính là những tờ báo mạng, trang tin tức và cộng đồng web-
blog khổng lồ. Một số trang "báo chí công dân" khá nổi tiếng là NowPublic.com, với
99.214 "phóng viên" ở 3651 thành phố, OhmyNews.com, một trong những trang tin
điện tử có ảnh hưởng nhất Hàn Quốc hiện nay thu hút hơn 1 triệu độc giả mỗi ngày
với 50.000 "nhà báo công dân", YouWitnessNews của Yahoo! chuyên đăng tải nội
dung do người dùng gửi về, sau khi đã qua màn chỉnh trang của các biên tập viên
chuyên nghiệp, YouTube chuyên đăng tải các đoạn video cá nhân "hút" hàng triệu
lượt truy cập mỗi ngày..., trang tin bách khoa trực tuyến WikiPedia (wikipedia.org)
hiện có tới hơn chục ngàn cộng tác viên tích cực, với hàng triệu bài viết dưới nhiều
ngôn ngữ khác nhau (cả tiếng Việt). Nói đến báo chí công dân là phải nhắc tới cộng
đồng web - blog. Theo thống kê của hãng nghiên cứu Technorati (Mỹ), hiện tại trên
toàn thế giới có khoảng 55 triệu blog (2006) đến nay đã lên tới 72 triệu blog. Cứ 0.5
giây 1 blog ra đời, mỗi ngày trên Internet lại có thêm khoảng 100 nghìn blog mới và
khoảng 1,3 triệu đề mục được đăng tải.
Vụ khủng bố 11/9 ở Mỹ năm 2001, vụ đánh bom tàu điện ngầm ở London năm
2005 và hàng loạt các thiên tai ở Đông Nam Á đều được những thường dân chụp ảnh,
quay phim bằng máy điện thoại di động và nhanh chóng truyền tin đi khắp thế giới.
Vai trò của “nhà báo công dân” đã được thiết lập.

26
Với sự phổ biến của các phương tiện kỹ thuật số, việc truyền dữ liệu - hình ảnh,
âm thanh và video - từ ĐTDĐ đến ĐTDĐ hay đưa lên các website ngày càng đơn
giản, các nhà báo công dân hoàn toàn có thể phát huy năng lực của mình.
Sự phát triển như vũ bão của mô hình này khiến giới truyền thông toàn cầu phải
tự đặt câu hỏi, liệu đây có phải là tương lai của báo chí? Báo chí công dân biến mọi
điểm yếu của báo in truyền thống là tốc độ, "đất" đăng tin, nguồn tin và phản hồi của
độc giả trở thành những thế mạnh của mình dựa vào sức mạnh của công nghệ. Nó
khiến tin tức đã đăng trên báo không có nghĩa là kết thúc, mà thực sự bắt đầu khi công
chúng thảo luận về câu chuyện, bổ sung và sửa chữa nó.
8.3 Những hạn chế của báo chí công dân
Mặc dù báo chí công dân có khả năng đem đến những thông tin độc, hấp dẫn và
khách quan ở một góc độ nào đó, nhưng bên cạnh đó báo chí công dân cũng có những
hạn chế và điểm yếu. Điều đáng nói đầu tiên đó là độ tin cậy báo chí của các “nhà báo
công dân” rất khó kiểm chứng, đặc biệt là yếu tố chủ quan của người thông tin rất
cao. Vì thế, việc xã hội hoá báo chí theo kiểu này đôi khi là “con dao 2 lưỡi” đối với
các tờ báo thiếu biên tập viên và tỉnh táo có tay nghề cao và nhạy cảm với “thời tiết
thông tin”. Cuối năm 2006 vừa qua có một tờ báo ở bị “rút phép Thông Công” vì đã
quá lạm dụng ý kiến người dân như vậy. Không phải công dân nào cũng đưa ra được
những thông tin chính xác, có thể đó chỉ là những nhận định chủ quan vô căn cứ của
họ, hay như vì một mục đích cá nhân họ sẵn sàng gửi đến các tòa soạn những thông
tin sai lệch… điều đó sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng khi thông tin được đăng và
thông tin tới cho toàn bộ công chúng.
Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan báo chí cần thiết phải có một bộ phận
biên tập viên có đủ năng lực để xác nhận và kiểm chứng các thông tin do độc giả
mang tới.
Ở Việt Nam, blog phát triển muộn nhưng tốc độ phát triển cực nhanh đặc biệt
trong năm 2006 và lôi kéo được 80% thanh niên sử dụng mạng Internet tham gia và

27
nó cũng đã đặt ra những vấn đề đáng lưu tâm ở khía cạnh quản lý, dư luận xã hội, văn
hóa mạng…
Ngày nay, công chúng không chỉ đóng vai trò là người tiếp nhận sản phẩm báo
chí mà còn có thể tham gia vào quá trình sản xuất thông tin. Trào lưu “báo chí công
dân” đã thể hiện rằng báo chí và nền dân chủ phải kết hợp với nhau để cùng tồn tại.
Trong tương lai, các cơ quan báo chí và các nhà báo công dân sẽ sự liên kết với nhau
để tạo nên một xã hội thông tin đa chiều
9. Tiểu kết
Qua một vài đặc điểm của báo chí thế giới trên đây ta thấy rằng toàn cầu hóa
thông tin đã buộc người ta phải xét lại và hiện đại hóa các chiến lược của cộng đồng
thế giới trong lĩnh vực phổ biến thông tin. Việc kết hợp thông tin toàn cầu và “lợi ích
khu vực” sẽ làm cho hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng có hiệu quả
hơn và có hiệu lực hơn, xét trên góc độ hình thành công luận và điều khiển công luận.
Vẫn tiếp tục trở nên sâu hơn hố ngăn cách giữa các quốc gia “giàu” và những quốc
gia “nghèo”, tạo ra mối đe dọa thực tế đối với các quyền cơ bản và quyền tự do của
con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí.
Đang xuất hiện mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa báo chí và kinh tế. Trong
những năm gần đây đã có sự thay đổi trong cấu trúc. Vai trò ngày càng lớn thuộc về
quảng cáo – nguồn thu tài chính chủ yếu của các cơ quan báo chí. Ở nhiều quốc gia,
nhà nước tài trợ cho các phương tiện thông tin đại chúng một cách trực tiếp và gián
tiếp: dành cho những ưu đãi khác nhau, các khoản trợ cấp, các đơn đặt hàng về quảng
cáo cho chính phủ… quá trình các phương tiện thông tin đại chúng sáp nhập vào các
tập đoàn công nghiệp – tài chính đã cho phép đạt được sự ổn định về tài chính cho các
phương tiện thông tin đại chúng.
Quá trình phân định và chuyên môn hóa báo chí tạo điều kiện nâng cao năng
lực hiệu quả của hoạt động báo chí, đài phát thanh, truyền hình, sử dụng có hiệu quả
cao nhất các phương tiện hiện có.

28
Trong số những thay đổi trong hoạt động báo chí ở nước ngoài, có thể kể ra
một số khuynh hướng báo chí, trong đó có các khuynh hướng báo chí “nhân dân”, báo
chí tiêu dùng, báo chí nghiên cứu, báo chí điều tra… các khuynh hướng ấy nhằm nâng
cao chất lượng bài vở, các chương trình phát thanh truyền hình. Đồng thời những
khuynh hướng đó cũng phản ánh các đòi hỏi của thị trường. Thị trường ngày càng ảnh
hưởng đến báo chí.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng căn bản đến các phương tiện
thông tin đại chúng ngày nay, đến các hình thức và phương pháp hoạt động của các
nhà báo. Nhà nước tăng cường vai trò của mình. Chính sách của nhà nước cũng có
ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của các loại hình thông tin đại chúng.

29
CHƯƠNG II – XU HƯỚNG CỤ THỂ VỚI TỪNG LOẠI HÌNH
1. Đối với báo in
Trong xã hội hiện đại, những phương tiện truyền thông có lợi thế về tính nhanh
nhạy ngày càng được công chúng quan tâm nhiều hơn. Truyền hình, phát thanh với số
lượng kênh tăng lên, nội dung phong phú hơn, thông tin được cập nhật với tốc độ
nhanh hơn và ngày càng tỏ ra có ưu thế hơn so với báo viết. Đặc biệt từ năm 1997
nước ta có mạng internet thì cũng là lúc đánh dấu sự xuất hiện của một loại hình
truyền thông mới đó là báo mạng cho phép cập nhật thông tin nhanh chóng và liên
tục. Loại báo này đang thu hút một lượng lớn độc giả, nhất là các độc giả trẻ. Tình
hình hiện tại đã đặt ra một câu hỏi lớn cho báo in: Báo in phải làm gì trong công cuộc
cạnh tranh với các phương tiện truyền thông khác? Và câu trả lời là “đổi mới”, bởi
không đổi mới nghĩa là sẽ chết. Thực tiễn cho thấy ở Trung Quốc có 667 tờ báo phải
đóng cửa vì hoạt động không hiệu quả và không đúng mục đích. Nhiều tờ báo đã mất
đi độc giả thân thuộc của mình. Tờ báo tồn tại được là tờ báo biết thích nghi, chịu tìm
tòi các con đường hiệu quả nhất đánh vào thị hiếu và đến với trái tim độc giả. Trên thế
giới ngay cả những tờ báo đẳng cấp cao, có lượng độc giả lớn và tương đối ổn định
cũng không dám loại mình khỏi cái guồng quay cạnh tranh – đổi mới và sàng lọc tất
yếu của sự phát triển đó. Và thực tế báo in đang dần hình thành những xu hướng mới
để thích nghi và cạnh tranh với các loại hình truyền thông khác.
1.1 Sự thay đổi trong cách trình bày.
Báo in cổ điển trước đây được định dạng là một loại báo viết trên giấy chuyên
dụng, khổ to. Một bài có tít chính, sapo, các tít phụ. Khi trình bày vào trong trang báo
thì chỉ thấy toàn chữ rất ít hình ảnh mà nếu có thì cũng chỉ là ảnh nhỏ theo kiểu ảnh
chân dung. Kiểu làm báo ấy đã trở nên lỗi thời trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
Cái đầu tiên đập vào mắt độc giả đó là hình thức của tờ báo. Rõ ràng so với
truyền hình và báo mạng thì báo in khó mà cạnh tranh được về mặt hình ảnh. Những
thay đổi đầu tiên bắt đầu từ hình thức vì hình thức là yếu tố đầu tiên thu hút người
đọc.
30
Hình thức trang báo bao gồm các yếu tố như: măng sét, khổ báo, chữ, đường
ranh giới, khung, nền, biểu tượng mục, tranh ảnh, màu sắc.
• Măng sét (tên báo): là phần in cỡ chữ lớn, thường được trình bày ngay
đầu trang nhất, gồm: cơ quan chủ quản, huy chương, khẩu hiệu, số xuất bản, trụ sở,
điện thoại, giá bán…Tên báo được lựa chọn, thiết kế chuẩn mẫu và giữ ổn định song
măng sét không phải là yếu tố bất biến. Sự thay đổi măng sét sẽ tạo nên một sự thay
đổi lớn đối với tờ báo và nếu phù hợp, hiện đại thì nó sẽ như luồng gió thổi hồn vào
các trang báo. Một măngsét đơn giản, hợp lí, được thiết kế công phu, tính đến mọi
hiệu quả mảng phối, sự phù hợp giữa các dáng chữ, kiểu chữ, cỡ chữ, màu sắc… đảm
bảo tính thẩm mỹ cao là một yêu cầu đối với măng sét báo.
• Khổ báo: Có ba loại khổ chính là
A2= 420x594, khổ vừa A3=297x420, khổ nhỏ
A4=210x297. Theo quan điểm truyền thống,
những tờ báo khổ lớn là đại diện cho dòng báo
chất lượng cao. Nhưng việc đi tiên phong trong
việc thu hẹp khổ của tờ báo trong những năm vừa
qua đã chứng minh một điều: mọi quan điểm
truyền thống đều có thể thay đổi. Những tờ báo
tiên phong là những tờ nổi tiếng như The
Telegraph, Finalcial Times (Anh), tờ Metro (Tàu điện ngầm)… Đây là sự đổi mới về
hình thức để tạo một sự “tiếp cận” ban đầu thật ấn tượng với độc giả. Và phản ứng
của độc giả rất tốt, lượng báo phát hành lớn chính là những thành công của công cuộc
đổi mới này. Tờ báo đi đầu trong xu hướng này là tờ Independent của Anh. Trong
năm 2003, tờ này giới thiệu một ấn bản khổ nhỏ, bán song song với ấn bản khổ lớn để
khẳng định với độc giả rằng nội dung không hề thay đổi. Người đọc yêu mến tờ khổ
nhỏ vì sự tiện lợi của nó, đặc biệt là trên các chuyến tàu. Tirage của Independent đã
tăng 15% mỗi năm, và chỉ trong vòng dăm ba tháng sau, người ta không còn thấy
bóng dáng Independent khổ lớn đâu nữa.

31
Tờ Times của London uy tín cũng lựa chọn cách này. Kết quả rất khả quan tỉ
lệu tirage -8% trên một năm thành gần dương 3% một năm.
Tờ Guardian, một trong những tờ nhật báo chính thống đáng tôn trọng nhất
nước Anh, cũng đã tuyên bố đổi tờ báo sang “hình thức gọn nhẹ” (một thuật ngữ mà
ban biên tập tờ này thay cho từ “khổ nhỏ”).
Tờ Wall Street Journal châu Âu là một cái tên nổi tiếng nhưng lại làm ăn thua
lỗ. Và tháng 10/2005 tờ báo đã biến thành tờ khổ nhỏ.
85 tờ báo đã chuyển đổi sang báo khổ nhỏ từ 2001 đến năm 2005 có 28 tờ báo
nữa đã chuyển sang dạng báo khổ nhỏ hơn đăng tin vắn tắt.“Quan niệm cho rằng báo
lớn là đáng tôn trọng còn những tờ báo nhỏ chỉ biết giật gân nay đã hoàn toàn thay
đổi.” - ông Jim Chisholm, tư vấn chiến lược của Hiệp hội Báo chí thế giới Wan nói.
Tờ Die Welt nổi tiếng ở Đức đã chuyển hầu như toàn bộ nội dung sang tập san
khổ nhỏ và “đóng gói” nó thành những gì mà họ gọi là “một tờ để mang theo bên
mình”.
Biên tập viên Peter phát biểu tại Hội nghị hàng năm của hiệp hội báo chí thế
giới cho rằng: “Tờ khổ nhỏ sẽ tập trung vào tin tức, trong khi phiên bản khổ to lại
đăng những bài phân tích và thông tin nền”. Và theo ông “khổ nhỏ dễ đọc về tất cả
những gì mà bạn thực sự muốn biết”.
Ông Jim Chisolm, tư vấn chiến lược của WAN khẳng định “những con số phát
hành báo khổ nhỏ cho thấy báo khổ rộng sẽ chết nếu thị trường cứ tiếp tục phản ứng
như hiện nay và độc giả cứ việc mua những gì họ muốn”.
Ở Việt Nam đã có nhiều tờ báo có sự đổi mới về mặt thiết kế, trình bày tiêu
biểu như “Tạp chí người làm báo”, từ số tháng 6-2004 đã thay đổi kiểu chữ, măng –
set mới và đổi khổ từ khổ cũ là 19x27cm sang khổ mới là 20x30 cm nhằm đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của bạn đọc và hội viên hội Nhà báo cả nước. Ngày 1/3/2005 báo Lao
động ra bộ mới với những thay đổi từ măng – sét đến cơ cấu trang.
• Tranh ảnh:

32
Đã xưa rồi cách làm báo chỉ có chữ và chữ. Những trang báo khô khan bây giờ
đã được thổi vào một luồng gió mới đó là sự xuất hiện những tranh ảnh, bảng, biểu
đồ. Tranh có thể vẽ bằng tay hay bằng máy vi tính. Chính hình thức mới này đã tạo
cho tờ báo những mảng khối sống động và ấn tượng.
Sự độc đáo, mang dấu ấn sáng tạo của người làm báo, người nghệ sĩ đã thu hút
sự quan tâm của người đọc. Chúng ta có thể dễ dàng thấy những hình ảnh to đẹp với
màu sắc rực rỡ, sinh động không kém hình ảnh trên báo mạng và truyền hình.
Ví dụ: Tờ Hoa học trò có hình thức trình bày với những ảnh lớn có màu sắc rực
rỡ. Những hình ảnh này thường được đặt lên trang bìa để tạo sự thu hút đối với độc
giả. Thực tế những trang bìa đẹp, rực rỡ thực sự đã tạo ấn tượng đặc biệt với độc giả
trẻ tuổi. Nhân vật trang bìa cũng là những gương mặt trẻ tuổi năng động, trẻ trung.

Không chỉ trang bìa trong nội dung của một số báo như Thời trang trẻ, màn ảnh
sân khấu, Thế giới học đường…cũng có những cách trình bày ảnh rất độc đáo nhằm
mục đích tạo ấn tượng mới lạ cho bài viết.

33
Xu hướng những năm gần đây là ảnh là bắt buộc phải có đối với mỗi trang báo.
Sự xuất hiện của ảnh không chỉ hút mắt độc giả mà còn làm cho nội dung bài viết
thêm sinh động và khách quan.
Màu sắc: Các báo trước đây thường chỉ in với hai màu đen trắng thì giờ đây đã
xuất hiện những tờ báo in màu. Màu sắc hài hòa sẽ tạo cho tờ báo có điểm nhấn.
Những bức ảnh khbtcó màu sắc cũng sẽ hấp dẫn hơn. Tờ USD Today là một ví dụ
34
điển hình. Những năm 80 của thế kỉ trước là thời kì mà New York Times và Wall
Street Juornal chiếm vị trí độc tôn với những trang báo khổ lớn in bằng hai màu trắng
đen với những bài viết phân tích dài dòng. Bên cạnh hai tờ báo này còn rất nhiều tờ
báo địa phương khác có lượng độc giả đông đảo. Nhưng sự xuất hiện của USD Today
như một liều thuốc “cải lão hoàn sinh” với nền báo in khá đơn điệu, tẻ nhạt của Mỹ
lúc bấy giờ. Dù để lẫn với hàng trăm tờ báo khác trong sạp, USD Today vẫn được độc
giả nhìn thấy và dễ dàng nhận ra. Đây là lí do để USD Today trở thành một trong
những đại gia của nền báo chí Mỹ. Sự phá cách ở hình thức với màu sắc, biểu đồ,
hình vẽ, trưng cầu… đã khiến cho USD Today trở thành “một cô gái điệu đà” có sự
tươi trẻ nổi bật so với những tờ báo già cỗi, cũ kĩ. Không những vậy, cách thể hiện
của tờ báo cũng rất bắt mắt, các bài viết chủ chốt đều được đặt tít và sapo ngay trang
đầu. Hai góc trái và phải của tên báo, nơi được cho là quan trọng và thiêng liêng nhất
đối với mỗi tờ báo, đều được sử dụng bình đẳng như bất kì chỗ nào trên trang nhất, có
thể là hình ảnh, là tít và sapo… Đây cũng là tờ báo in duy nhất tại Mỹ sử dụng phông
chữ Gulliver. Có thể nói USD Today là tờ báo tiên phong cho phong cách trẻ hóa và
hiện đại của báo in tại Mỹ trong hơn hai thập kỷ qua.
Tuy nhiên nếu quá lạm dụng màu sắc sẽ dẫn đến phù phiếm khiến người đọc
rối mắt. Chúng ta có thể dễ dàng thấy một số tờ
quá lạm dụng màu sắc như tờ Nguyệt san, tờ 2!
của báo Hoa học trò, tờ thế giới Học đường,
một số tờ báo về thời trang…
Ví dụ: Tờ sinh viên dưới đây đã sử dụng
màu sắc quá nhiều và không hài hòa khiến
trang báo trông hết sức lòe loẹt. Người đọc bị
hoa mắt vì quá nhiều màu được pha trộn vào
nhau như kiểu canh thập cẩm. Tuy có màu sắc
khá bắt mắt nhưng do quá lạm dụng nên gây
phản tác dụng.

35
1.2 Những thay đổi trong các tin, bài
Báo in dài lê thê bây giờ chỉ phù hợp cho những người đã về hưu có nhiều thời
gian rảnh. Cuộc sống hiện đại đòi hỏi chúng ta phải phân chia thời gian ít ỏi cho rất
nhiều công việc và do đó nếu báo in vẫn giữ mãi những “khuôn khổ không xê dịch”
đó thì không thể cạnh tranh được công chúng với các loại hình truyền thông khác.
Độc giả đã quá nhàm chán với những tin bài dài lê thê kiểu cổ điển ấy. Xu hướng báo
chí ngày nay thiên về hướng “thông tin nhiều cửa”. Những cột đen đặc chữ giờ đây
đã được thay bằng một bài báo ngắn nhưng thông tin sâu, nhiều chiều, cho độc giả
nhiều cách tiếp cận. Xu hướng makét hiện đại tránh những bài viết quá dài, chỉ dùng
những bài có độ dài vừa phải ví dụ một bài dài 1.200 chữ người ta sẽ cắt làm hai bài
ngắn, thậm chí là ba. Trong makét hiện đại có nhiều cửa thông tin, đó là các yếu tố:
text (nội dung) rất ngắn, ảnh (tốt, lớn, có mối quan hệ chặt chẽ với tít và bài, các
bảng, biểu đồ, hộp thông tin… để độc giả có thể đọc rất nhanh. Thông tin đưa đến độc
giả phải là thông tin có giá trị nhất, thông tin đến cùng, dùng nhiều hình thức minh
họa để người đọc lập tức hiểu nội dung câu chuyện diễn ra như thế nào. Trong đó có
nhiều đơn vị thông tin có thể là cái tin, hay một bài nhỏ có tít kèm theo hình ảnh. Một
sự kiện thời sự nhất định cũng được trình bày trong khuôn khổ đã cố định, không
nhiều hơn và cũng không ít hơn, độc giả sẽ biết đọc đến đâu là hết bài. Chúng ta có
thể dễ dàng thấy được sự ưu tiên cho các “cửa vào thông tin” này trên các trang báo
hiện đại” (ông Marc Provot, giảng viên lớp học về xu hướng trình bày của báo chí
hiện đại. Nghebao.vn). Điển hình của sự thay đổi này là các tờ nhật báo lớn, trong đó
có Le Monde, Liberation và Le Figaro vốn được coi là chuẩn mực của nhật báo tiếng
Pháp và nổi danh với những bài phân tích sâu sắc cùng những cột đen đặc chữ. Le
Monde đã phải thay đổi hình thức, nội dung, tăng số lượng ảnh, tạo nhiều khoảng
trống, tạo nhiều cửa thông tin mới để thu gọn bài viết, đưa thêm nhiều “thông tin
mềm” như giải trí và thời trang.

36
37
Nhìn vào tờ báo ta có thể thấy chữ viết trong bài đã được thu gọn một cách tối
đa. Ảnh to hơn và in màu rất đẹp. Cách bố trí trang báo tạo ấn tượng về sự đơn giản,
dễ dàng cho người đọc.
Trên đây là một trang đôi của tờ Le Monde. Trang bên trái có 3 ảnh to với màu
sắc đẹp. Trang bên phải có phần chữ cực ngắn và thay vào đó là 3 bức ảnh: 1 ảnh to
chiếm trọn ½ trang. Ấn tượng về màu sắc ở đây đó là sự hài hòa và trang nhã.
Tờ USD Today của Mỹ cũng là một trong những tờ báo phát đạt vì đã chọn cho
mình một sự phá cách về nội dung bên cạnh hình thức. Các bài viết ngắn gọn và dễ
hiểu. Có bốn chuyên mục chính là Tin tức (thường được đặt ngay ở trang đầu), Tài
chính, Thể thao và Đời sống. Riêng ngày thứ sáu, chuyên mục đời sống tập trung vào
lĩnh vực giải trí như phim ảnh, truyền hình, du lịch. Đây là một cách hút độc giả của
tờ báo nhà Gannet vì những thông tin mà báo cung cấp sẽ rất bổ ích cho kỳ nghỉ cuối
tuần ngay sau đó của người dân Mỹ. Ở chuyên mục Tài chính có nhiều biểu bảng và
số liệu nhất. Đặc biệt số ra ngày thứ hai có biểu đồ phân tích tình hình tài chính tuần,
38
tháng và quý, kết hợp với đó là những bài phân tích của các chuyên gia kinh tế hàng
đầu nước Mỹ được báo đặt viết.
1.3 Xu hướng báo giá rẻ, báo miễn phí, báo đọc nhanh
a. Báo giá rẻ:
Một thời đại mới đã hình thành. Một thời đại mà cuộc sống diễn ra nhanh
chóng đến nỗi tất cả chúng ta đều bị cuốn vào guồng quay của nó. Nhịp sống gấp gáp
không cho phép người ta nhẩn nha đọc một tờ báo dài dằng dặc, dày đặc chữ mà đọc
mãi chẳng tìm thấy thông tin cốt lõi ở đâu. Thường độc giả sẽ bỏ lại tờ báo khi vừa
vào đến giữa bài. Số lượng độc giả trẻ có khả năng kiên nhẫn đọc những bài dài tới
vài nghìn chữ là rất ít. Theo hiệp hội báo chí Mỹ, thói quen đọc báo mỗi ngày của
người Mỹ trong năm 1982 là 67%. Đến năm 2002 còn 55%. Độc giả trong độ tuổi từ
18 – 34 chỉ có 17% trong khi độc giả trên 55 tuổi chiếm 43%. Tỷ lệ người đọc báo có
nguy cơ tiếp tục giảm nếu lượng độc giả không tăng. Số lượng độc giả là thước đo
chất lượng của tờ báo. Đặc biệt ngòai những công chúng mục tiêu thì một đối tượng
cực kì quan trọng mà các báo hướng tới là công chúng tiềm năng, chính là những độc
giả trẻ tuổi. Không chỉ nền báo chí Mỹ mà ở bất cứ một nền báo chí thuộc một quốc
gia nào cũng cần tìm ra giải pháp để chiếm lĩnh độc giả đặc biệt là lượng độc giả trẻ.
Sự kết hợp giữa báo chí và doanh nghiệp, báo chí là nơi để doanh nghiệp quảng cáo
các sản phẩm, dịch vụ của mình cùng với sự cạnh tranh về thông tin giữa các báo đã
làm cho giá báo giảm xuống. Xu hướng báo giá rẻ ra đời vào giữa thế kỉ 19 với từ
Penny Press. Những tờ báo giá rẻ được bán rất rẻ và nội dung thông tin rất phong phú,
đa dạng vì nó phải phục vụ nhiều đối tượng công chúng khác nhau.
Sự ra đời và phát triển của dòng báo giá rẻ giữa thế kỉ 19 là mốc phát triển quan
trọng của lịch sử báo chí thế giới. Báo đã đến được với nhiều người và do đó vị thế,
tầm ảnh hưởng của nó ngày càng lớn hơn. Xu hướng báo chí thế giới đó là giá ngày
càng giảm xuống, thông tin ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn, hấp dẫn hơn. Ở
Việt Nam cách đây khoảng 8 năm giá báo Thanh Niên là 1700 đồng, bây giờ đã hạ
giá xuống còn 1300 đồng, bằng giá báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Sự cạnh

39
tranh về thông tin và độc giả là nguyên nhân chủ yếu để Thanh Niên có quyết định
“sáng suốt” này. “Nếu cứ để giá cao hơn báo Tuổi trẻ thì Thanh Niên sẽ gặp bất lợi
và khó cạnh tranh” - Phó Tổng Biên tập của báo Thanh Niên cho biết sau khi có
quyết định sáng suốt đó tốc độ tăng trưởng số lượng báo rất nhanh năm 2006 là
300.000 bản/ kỳ, thu hút nhiều quảng cáo hơn bù đắp giá bán. Người đọc báo có lợi
hơn.
b. Báo miễn phí đọc nhanh:
Sự ra đời của những tờ báo giá rẻ đã tạo điều kiện cho báo miễn phí ra đời. Sự
ra đời của báo miễn phí đọc nhanh đồng thời còn giải quyết được bài toán là làm thế
nào để công chúng tiếp nhận thông tin một cách nhanh nhất trong một khoảng thời
gian ngắn nhất.
Khổ báo nhỏ dễ cầm ngay cả khi đi trên các phương tiện giao thông. Thông tin
ngắn gọn, trình bày rõ ràng giúp người đọc dễ đọc hơn. Chỉ 15 -20 phút là độc giả có
thể nắm được hết nội dung của tờ báo. Tiêu biểu cho kiểu báo này là tờ Twenty - five
minutes (25 phút). Tên báo đã gây ấn tượng với công chúng bởi tòa soạn này khẳng
định với công chúng rằng báo của họ chỉ đọc trong 25 phút là nắm được hết thông tin
và 25 phút cũng chính là thời gian mà chuyến tàu đến ga tiếp theo và vứt tờ báo vào
sọt rác khi xuống khỏi xe. Nghĩa là độc giả có thể đọc trong lúc nghỉ ngơi, đợi xe, lấp
đầy những giây phút trống trải ngắn ngủi trên xe buýt hay tàu điện ngầm. Những tờ
báo này được phát không ở nhiều nơi công cộng, nhiều người qua lại như trạm xe
buýt, ga tàu điện ngầm…
Tập đoàn Metro International của Thụy Điển có trụ
sở đặt tại Anh là tập đoàn đi đầu trong trào lưu báo miễn
phí. Tất cả các phiên bản Metro đều có hình thức cơ bản
là khổ báo bằng nửa khổ nhật báo chuẩn dày từ 24-32 trang với nội dung phong phú
và phong cách đặc thù của báo đọc nhanh dành cho độc giả trẻ phát hành từ thứ hai
đến thứ sáu hàng tuần. Vào tháng 1/2006 và 6 tháng sau ở Toronto, Canada Metro đã
phát hành ấn bản đầu tiên ở Philadenphia, Mỹ và đã chính thức xâm nhập vào thị

40
trường Bắc Mỹ. Đến năm 2001, hầu hết các ga điện ngầm, ga đường sắt và các trạm
xe buýt của Montreal và Boston đã bị Metro chiếm lĩnh. Tháng 11/2002 kết quả thăm
dò cho thấy tờ báo đã có nhiều khả quan 40% số độc giả thường xuyên của tờ này là
dưới 30 tuổi. Năm 2003 Tờ Metro quốc tế, nhà xuất bản đặt tại Thụy Điển phát không
cho những người đi làm hàng ngày, đã xuất bản 5,5 triệu bản in mỗi ngày tại 16 nước
năm 2003. Năm 2006 Metro xuất bản 7 triệu bản mỗi ngày, tại 81 thành phố chính ở
18 quốc gia với 17 thứ ngôn ngữ. Sự phát triển và phổ biến của tờ báo miễn phí này
đã đạt đến tầm thế giới.
Báo miễn phí đang tăng nhanh ở một số thị trường. Theo thống kê của các Hiệp
hội báo chí thế giới thì hiện nay báo miễn phí đã có mặt tại 38 quốc gia. Tổng cộng có
169 tờ báo miễn phí hàng ngày có lượng phát hành là 27,9 triệu hàng ngày, với 18,6
triệu bản phân phối tại châu Âu. Tại vương quốc Anh sự phân phối báo phát không đã
tăng từ 237.000 bản năm 1999 lên 864.000bản năm 2003.
Thị trường báo miễn phí hàng ngày tại một vài nước rất ấn tượng. Ở Tây Ban
Nha: báo miễn phí hàng ngày chiếm tỉ lệ lớn 51% của thị trường báo chí. Ở Bồ Đào
Nha là 33%. Ở Đan Mạch là 32%. Ở Ý là 29%. (theo Hiệp hội Báo chí thế giới).
Ở châu Á, Hàn Quốc là nước phát triển rầm rộ báo phát không. Năm 2000, Hàn
Quốc có duy nhất một tờ báo phát không nhưng năm 2005 thì đất nước này đã có 5 tờ.
Ở Đài Loan, ngày 26/3/2007 tờ “Upaper” của tập đoàn báo chí Liên Hợp đã ra
mắt bạn đọc Đài Loan. Đây là tờ báo miễn phí đầu tiên của Đài Loan, ngay trong
ngày đầu tiên 800.000 tờ báo “Upaper” bày ở 300 thùng báo đặt tại 69 trạm dừng xe ở
thành phố Đài Bắc đã được bạn đọc lấy sạch trong khoảng 1h đồng hồ. (Theo
www.yzzk.com).
Tại Việt Nam nếu không kể một số ấn phẩm được phát miễn phí như các tờ rơi,
một số tờ báo phát miễn phí cho đồng bào dân tộc của Chính Phủ hoặc báo phát
không cho đối tượng khách hàng nào đó, thì tờ Thế giới thương mại là tờ báo in miễn
phí đầu tiên. Thế giới thương mại là ấn phẩm do báo Thương mại phát hành. Và
những ngày cuối tháng 6/2006, độc giả Thủ đô Hà Nội khá tò mò khi nhận được

41
những tờ báo in dày dặn, thông tin hấp dẫn với những chuyên mục khá tiện ích và
hoàn toàn miễn phí. Tờ báo đã chọn một hướng đi đó là tự mình tìm đến với độc giả
qua kênh phát hành miễn phí. Và những gì mà nó thu được là đánh dấu bước đầu
thành công. Mỗi kỳ phát hành 2 vạn bản tại các tuyến phố buôn bán sầm uất như Bạch
Mai, Hàng Đào, các tụ điểm ẩm thực, các quán cà phê, các trung tâm thương mại
lớn… Những cuộc điện thoại về tòa soạn đã chứng tỏ sự quan tâm của độc giả tới tờ
báo. Và số lượng độc giả là 5 vạn, một con số rất lớn đối với một tờ báo chưa phải là
lớn như báo Thương mại. Hướng đi này của báo Thương mại đã chuẩn bị cho sự hội
nhập báo chí thế giới. (Theo Người làm báo 2006).
Miễn phí nhưng vẫn có lợi nhuận:
Báo miễn phí sống chủ yếu nhờ quảng cáo. Sự phổ biến của kiểu báo này là
một mảnh đất tốt lành để các nhà quảng cáo tìm đến. Thu nhập từ quảng cáo ở báo
miễn phí đã tăng 1,5% trong một năm và 22,6% trong vòng 5 năm (theo Hiệp hội báo
chí thế giới). Quảng cáo là đứa con tinh thần của báo phát không. Sự xuất hiện của
báo đọc nhanh miễn phí và phát với số lượng lớn là cơ hội để giới lười đọc báo tiếp
cận một cách rộng rãi, nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém (so với truyền hình,
internet…) Các tờ báo phát không này chủ yếu sống bằng quảng cáo. Quan hệ giữa
báo miễn phí đọc nhanh và quảng cáo là hình thức cộng sinh. Trong các tờ báo đọc
nhanh thành công nhất về mặt quảng cáo là tờ Express với lượng phát hành 150.000
bản mỗi số và tỉ lệ quảng cáo lúc nào cũng chiếm 50% số trang. Đối với những tờ báo
lớn đây là con số mơ ước... Nhiều hãng kinh doanh báo miễn phí đã có doanh thu
khổng lồ từ việc kinh doanh thị trường chứng khoán.
Như vậy dù phát không những vẫn sẽ có lợi nhuận thậm chí lợi nhuận cao nếu
nó thực sự thu hút độc giả. Vấn đề ở đây là tờ báo phải sinh động, thông tin phong
phú, hấp dẫn độc giả.
Người đứng đầu Hiệp hội báo chí thế giới (WAN) đặt tại Paris phát biểu: “Báo
chí đang tiếp tục tiến bước trong quá trình khai thác hàng loạt những kênh phân phối
mới bắt từ những tờ báo miễn phí hàng ngày. Chúng đang chứng tỏ sức bật không thể

42
tưởng tượng được để chống lại sự tấn công dữ dội của hàng loạt các cuộc cạnh tranh
về truyền thông”.
Cuộc cạnh tranh của các báo miễn phí
Tập đoàn Metro International của Thụy Điển có trụ sở đặt ở Anh là tập đoàn đi
đầu trong trào lưu báo miễn phí. Ngay sau khi ra đời Metro đã được độc giả hưởng
ứng nhiệt liệt và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường tại một số quốc gia thậm chí
những quốc gia có nền báo chí phát triển như Mỹ. Hiện nay con số các quốc gia mà
Metro có mặt là 25. Metro có mặt ở khắp mọi nơi với số độc giả mà khiến tất cả các
tờ báo khác phải mơ ước. Trong đó 40% số độc giả là dưới 30 tuổi. Những con số
thống kê này đã làm cho tất cả các tòa soạn phải giật mình. Và đến mùa thu 2002 đã
có khoảng chục tờ báo đọc nhanh miễn phí được phát hành.
Nơi đầu tiên có sự cạnh tranh quyết liệt giữa những tờ báo đọc nhanh miễn phí
là Chicago. Tờ Red Eye được tung ra ngày 30/10/2002 bởi tập đoàn Tsibune phát
hành từ thứ hai đến thứ sáu nhằm vào độc giả trẻ vốn đang chán báo khổ lớn Chicago
Tsibune mỗi tuần một lần (Có khoảng 500.000 thanh thiếu niên sử dụng internet để
nắm các tin tức mà không hề sử dụng báo). Chicago SunTimes cũng mau chóng tung
ra một tờ báo đọc nhanh tương tự có tên là Red Streak để cạnh tranh với đối thủ là
Tsibune. Mặc dù Red Streak xuất hiện muộn hơn một chút so với Red Eye (đều được
phát hành số đầu tiên trong cùng một tháng) nhưng phần nào cũng làm giảm sự chú ý
các công ty quảng cáo và độc giả đối với Red Eye.
Chỉ trong 6 tháng cuối năm, báo đọc nhanh miễn phí được các tập đoàn truyền
thông thi nhau phát hành. Ngày 4/8/2003 Express được tung ra bởi Washington Post.
Trong tháng 11/2003 ở Pallas diễn ra cuộc chiến báo đọc nhanh thứ hai: ngay sau khi
tờ Quick được phát hành vào ngày 10/11 do Pallas –Morning News, ngày 12/11 tòa
báo American Consoliadated Media đã phát hành miễn phí tờ AM Newspaper –
Express do 225 người bán báo phát với câu chuyện đăng trên trang nhất về vụ án một
tỷ phú New York giết người hàng xóm và chặt xác ra thành nhiều mảnh, cho dù AM

43
Newspaper - Express ra muộn hơn Quick 2 ngày nhưng cũng kịp làm cho đối thủ bị lu
mờ.
Tất cả các tờ báo đọc nhanh đều có phong cách như Metro International và đều
từ bỏ khổ rộng đặc trưng của báo trước đây để sử dụng khổ nhỏ với đặc trưng của loại
tạp chí giải trí.
1.4 Tương lai của báo in – báo in điện tử epaper
Nó không phải là những website thông tin mà
chúng ta hay gọi chung là báo điện tử, nó cũng
không phải là những newsletter dạng text hay dạng
HTML gửi đến hộp thư của chúng ta mỗi ngày. Hãy
tưởng tượng bạn đang cầm một tờ báo trên tay. Tờ
báo này hiện nguyên xi trên màn hình vi tính. Đó
chính là e-paper.
Báo chí eNewspaper viết tắt là E – paper là
loại hình báo chí được hiển thị trên một loại giấy
điện tử, có màu sắc tươi nét, sống động, gọn nhẹ.
Tại sao phải sinh ra ePaper làm gì, nó có lợi
gì? Chắc chắn đây là câu hỏi đang đặt ra với nhiều người.
Suốt nhiều thế kỷ, báo đã trở thành một thứ hàng hóa không thể thiếu mỗi ngày
đối với nhiều người. Và Internet xuất hiện, làm thay đổi đáng kể cách thức tiếp cận
thông tin. Ngoài các tờ báo in truyền thống, giờ đây người sử dụng có thể đọc tin qua
máy tính, thiết bị trợ giúp kỹ thuật số (PDA) và điện thoại di động.
Cung cấp tin tức qua Internet gần như là một chiến lược đương nhiên đối với
các báo và ngành xuất bản nói chung. Nhưng khi làm như vậy, các báo đứng trước
nguy cơ đánh mất bản sắc cũng như hình ảnh thương hiệu của mình, website của các
báo trở thành các "cổng Internet" trong khi thực chất không phải như vậy. Mặt khác,
nhiều độc giả đã quen thuộc với tờ báo mà họ thích, sẽ có cảm giác không thoải mái
với cách cung cấp thông tin này.

44
Hiện tại, hầu hết các báo đều có phiên bản online nhưng nội dung và thiết kế
trang (layout) thì không hoàn toàn giống với bản in. Ảnh thì nhỏ, nội dung thì theo
kiểu đổ chữ tự do từ đầu đến cuối, còn việc lật trang thì rõ ràng là hoàn toàn khác với
kiểu lật trang báo in. Một số công ty cung cấp bản tin cho khách hàng ở dạng file PDF
để đảm bảo "nguyên dạng" - và quả thật là trông rất hấp dẫn, nhưng cách thức này chỉ
hữu hiệu với các bản tin ít trang. Với các tờ báo lớn thì download rất lâu và khó tìm
kiếm, khó đọc và khó chuyển bài, lật trang. Thêm vào đó là yếu điểm không thể theo
dõi chính xác số lượng người thuê bao download các file PDF này.
Giải pháp eNewspaper, viết tắt là ePaper, đã ra đời vào khoảng năm 2003 và
chậm rãi tiến vào thị trường trước khi trở thành một xu hướng mới bắt đầu từ khoảng
giữa năm 2004.
Điều thú vị là các tờ báo nhỏ lại nhanh chân hơn các báo lớn trong lĩnh vực
này. Xét về quốc gia thì đi đầu về ePaper không phải là báo chí Mỹ hay châu Âu mà
lại là những tờ báo của Ôxtrâylia, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaixia và... Ôman. Thử xem
một số tờ như Hindustan Times của Ấn Độ, theSun và The Edge Financial Daily của
Malaixia và quả thực là thấy rất ấn tượng.
Với những màn hình phẳng chất lượng cao, nhìn những tờ báo trên mạng "như
thật" này đúng là cũng hấp dẫn, nhất là những người đã trở thành độc giả trung thành
của một tờ báo nào đó. Nó chẳng khác nào như việc cầm tờ báo trên tay, khi con
chuột di đến bài nào thì bài đó sẽ được "highlighted" và click vào thì hiện một cửa sổ
khác với đầy đủ nội dung. Vì đây là "đọc có trả tiền" chứ không phải báo miễn phí
nên độc giả sẽ không bị khó chịu bởi những hình quảng cáo trong bài.
Dễ dàng hiểu được vì sao các tòa soạn báo lại mặn mà với ý tưởng này đến vậy.
Báo in số, hay còn gọi là báo in điện tử, tận dụng ưu thế của hai xu hướng truyền
thông thịnh hành nhất hiện nay là tăng trưởng mạnh của quảng cáo trực tuyến và sự
phổ biến của những thiết bị cầm tay như iPod.

45
Gần như mọi tờ báo in có tiếng hiện nay đều chạy song song một website của
riêng mình, nhưng ít độc giả nào lại lôi laptop ra đọc báo trong khi chờ tàu hay mạo
hiểm tới mức đọc chúng trong... nhà vệ sinh.
Nhưng tình hình có thể đảo ngược 180 độ với báo in điện tử. Chưa kể nó còn
giúp các tòa soạn báo cắt giảm được tới 75% chi phí nhờ xóa bỏ được khoản phí phát
hành. Nhiều người lạc quan đã xem đây như một "cứu cánh", nhưng trên thực tế,
không ai dám nói chắc về nhu cầu dành cho "giấy điện tử".
Hãy thử lấy một ví dụ: Bạn thích đọc tờ Thanh Niên nhưng đang phải đi công
tác tận châu Âu. Không hề gì, chỉ cần mở máy tính và đọc ngay số ra buổi sáng (nhớ
tính đến đoạn lệch múi giờ), và nếu bận chạy đi họp thì chỉ cần ra một lệnh để in vào
khổ giấy lớn, vậy là có trong tay nguyên xi tờ báo để đọc trên tàu hoặc xe buýt. Xét ở
góc cạnh tòa soạn báo, dưới đây là một số ưu điểm chính của ePaper:
- Đảm bảo tính nhất quán về thương hiệu của tờ báo, đối với cả bản in và bản
điện tử;
- Có khách hàng đăng ký mua báo trên toàn cầu.
- Tăng doanh thu trực tuyến
- Tăng doanh thu quảng cáo trên mạng (có thể thay nhiều quảng cáo chứ không
bị ấn định như báo in).
- Tự động lưu trữ dạng kỹ thuật số tất cả các số báo.
Và đương nhiên, công nghệ mới cho phép sử dụng luôn cả video hay audio, rồi
còn cho phép tìm kiếm chữ, hình ảnh hay quảng cáo, cho phép đánh dấu trang
(bookmark), kết nối trực tiếp trên mạng. (Theo Vietnam Journalism)

2. Báo điện tử
Báo mạng hay báo chí internet tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời và
phát triển của hệ thống internet trên toàn cầu. Web (World Wide Web) được sinh ra
với mục đích tạo giao diện chung dễ sử dụng trong quá trình truy cập thông tin trên
internet. Vào cuối những năm cuối của thập kỷ 80 nó được Tim Berners Lee, một nhà

46
vật lý ở viện nghiên cứu hạt nhân châu Âu Cern đề xuất và tiến hành nghiên cứu cùng
với cộng sự của ông là Robert Caililau. Năm 1991, người dùng được nhận bản thử
nghiệm đầu tiên và từ đó một cuộc cách mạng trên internet đâ bùng nổ. Tháng
10/1993, Khoa báo chí Đại học Florida (Mỹ) tung ra cái mà họ tự tin là tờ báo Internet
đầu tiên. Năm 1994, phiên bản online của tạp chí Hotwired chạy những banner quảng
cáo đầu tiên và hàng loạt báo khác tại Mỹ ồ ạt mở website. “Cơn sốt vàng” của thời
thông tin trực tuyến bắt đầu. Một khảo sát lần đầu tiên về độc giả Internet của hãng
dịch vụ thống kê truy cập Nielsen/NetRatings công bố mới đây cho thấy 1/5 số người
lướt web thích đọc báo mạng hơn các phiên bản phi trực tuyến. Có lẽ đó cũng chính là
một động lực khiến các tờ báo giấy - vừa là để cạnh tranh vừa là không thể cưỡng lại
xu thế điện tử hóa - cũng đã phải lập tức triển khai phiên bản điện tử, trong đó phần
lớn phát hành lại các bài báo từ bản giấy và có cập nhật thêm thông tin riêng.
2.1 Ưu điểm và hạn chế của báo mạng
a. Những ưu thế của báo mạng so với các loại hình báo chí khác:
Sự ra đời của báo mạng đã làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin trước đây
của một bộ phận công chúng đọc giả. Nếu như trước đây công chúng phải chờ đến
một thời điểm nhất định trong ngày, thường là buổi sáng để cầm một tờ báo in trong
tay và đọc nó, hoặc phải chờ đến một giờ nhất định để xem một chương trình trên ti vi
hay trên đài phát thanh. Thì nay, với sự ra đời và phát triển vượt bậc của công nghệ
internet, báo mạng có thể đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng vào bất cứ thời
điểm nào trong ngày chỉ qua một cái kích chuột. Bạn chỉ cần trỏ vào các siêu liên kết
(Hyperlink), hay chỉ càn gõ tên địa chỉ (URl) vào máy là nhận được ngay thông tin
yêu cầu. Cùng với các ngôn ngữ lập trình được thiết kế riêng cho Web như HTML,
XML, Java... các trang web được hiện ra một cách sống động nhất. Thông tin không
chỉ hiện ra dưới dạng văn bản (text), các đối tượng đồ hoạ (graphics) mà còn là các
hoạt cảnh chuyển động (media clip) kèm theo âm thanh sống động...
Cùng với sự phát triển chóng mặt của các công nghệ kết nối, giúp đẩy nhanh
tốc độ truy tải, số lượng các tờ báo điện tử cũng nở rộ khắp nơi trên thế giới, truyền

47
tải thông tin dưới mọi hình thức mà các loại báo truyền thống cung cấp. Có thể coi
báo điện tử hiện nay là sự hội tụ của cả báo giấy (text), báo tiếng (audio) và báo hình
(video). Người lướt web không chỉ được cập nhật tin tức dưới dạng chữ viết mà còn
có thể nghe rất nhiều kênh phát thanh và xem truyền hình ngay trên các website báo
chí.
Một thế mạnh nữa của báo mạng là khả năng tương tác nhiều chiều. Đơn giản
nhất là khả năng tương tác hai chiều giữa công chúng và toà soạn: người đọc có thể
phát biểu ý kiến, bình phẩm thông tin và đưa lên mạng. Nhờ đó toà soạn có thể nắm
bắt nhanh tâm tư, chính kiến, nguyện vọng, thị hiếu của đọc giả để có những điều
chỉnh cần thiết. Với khả năng tương tác nhiều chiều toà soạn có thể tổ chức nhiều
cuộc giao lưu trực tuyến giữu đọc giả trong, ngoài nước với các vị lãnh đạo hoặc các
nhà hoạt động xã hội, văn hoá, khoa học... về những đề tài mà nhiều người quan tâm.
Đây là một lợi thế của báo mạng mà báo in không thể làm được và rất hạn chế đối với
truyền hình và phát thanh.
Báo mạng có sức chứa to lớn cả về không gian và thời gian, tức dung lượng
của thông tin gần như không hạn chế. Mỗi một tờ báo mạng là một cấu trúc rộng về
không gian với nhiều mảng khác nhau, mỗi mảng gần như một tờ báo riêng. Chẳng
hạn như về thời sự quốc tế, thời sự trong nước, giáo dục, khoa học, thể thao, văn hoá,
văn nghệ, âm nhạc, công nghệ thông tin, giải trí...
Với lợi thế nhanh và mạnh, sức chứa thông tin khổng lồ và khả năng tương tác
nhiều chiều giữa toà soạn và bạn đọc, báo điện tử đang “chiếm ngôi” của báo giấy.
Ghi chép của phóng viên VietNamNet từ chuyến đi khảo sát báo chí Pháp:
Hiện nay ở một số quốc gia có nền báo chí phát triển như Pháp, Mỹ, phần lớn các báo
giấy đều có xu hướng lên mạng. Một số báo lớn, có uy tín ở Pháp như Le Monde,
Liberation, L’Express đều có bản điện tử, trong đó, L’Express và Le Monde trên
mạng đã hoạt động được 10 năm.

48
Trong bối cảnh báo điện tử và báo miễn phí đang lấn sân báo giấy, việc đưa các
bài viết trên báo giấy cộng thêm tin tức, hình ảnh, video mới nhất lên Internet đang là
một trong những giải pháp nhằm giữ chân độc giả.
Lý giải nguyên nhân tại sao báo mạng lại thu hút được nhiều bạn đọc, bà
Dorothee Tromparent – Phóng viên, chuyên gia truyền thông đa phương tiện thuộc
trường Đại học báo chí Lille, Pháp cho biết: “có hai lý do chính. Thứ nhất, báo giấy
không còn sức lôi cuốn như trước kia nữa. Thứ hai, việc cập nhật thông tin nhanh,
hình ảnh minh hoạ đẹp cũng khiến độc giả bị báo mạng cuốn hút”. Theo bà
Tromparent, trong vòng 2-3 năm tới, báo điện tử sẽ phát triển mạnh ở nhiều quốc gia,
đặc biệt là Pháp, nơi 90% người dùng Internet thích xem báo mạng.
Xu hướng này không chỉ giới hạn ở báo viết hay tạp chí. Hiện nay ở Pháp,
nhiều đài phát thanh và hàng chục kênh truyền hình cũng lần lượt phát sóng các
chương trình qua Internet. Canal Web là một trong những công ty đầu tiên của Pháp,
cùng với nouvo.com tiên phong trong lĩnh vực truyền hình trên mạng.
Mạng Internet đã giảm thiểu rào cản giữa các phương tiện truyền thông. Các
bản tin trên mạng đang trở nên đa phương tiện, đa dịch vụ và đa hỗ trợ. Một bản tin
“đặc sắc”, đa phương tiện thực sự đã được tập đoàn Radio France cho ra mắt. Theo
đó, cùng một lúc nghe bình luận, người dùng Internet còn có thể tham khảo nguồn tin
mà phóng viên thu thập, xem hình ảnh được ghi lại từ hiện trường…
Ngoài ưu thế có gắn kèm các phương tiện nghe nhìn, báo mạng còn có khả
năng chứa thông tin tư liệu cực lớn. Khi truy cập một bài báo trên mạng, ngay lập tức
độc giả có thể vào xem các bài có liên quan với chỉ một cú nháy chuột vào đường link
gắn kèm. Đây là một khả năng mà báo giấy không thể có.
Báo điện tử lại có thể giúp giảm khoảng 75% chi phí sản xuất và phát hành cho
các tờ báo. Chi phí phát hành lên tới 55 tỉ USD của ngành công nghiệp báo chí Mỹ đã
giảm đi một cách đáng kể trong khoảng hai thập kỷ trở lại đây khi mà báo in phải
cạnh tranh mạnh mẽ với báo điện tử trên Internet về phương diện độc giả và quảng
cáo.

49
Trò chuyện với VietNamNet, ông Eric Mettout, tổng biên tập báo mạng
L’Express nói “với một hệ thống lưu trữ dữ liệu lớn, độc giả có thể tìm được những
bài viết của báo L’Express được đăng từ cách đây hơn một chục năm. Hiện nay, một
số bài viết của L’Express báo giấy đã xuất hiện trên mạng cùng với lúc báo in được
phát hành”.
Cùng lúc cuốn hút độc giả của báo giấy, báo điện tử còn lấy đi quảng cáo,
nguồn lợi nhuận quan trọng của báo giấy. Với Internet, khi mua hàng, người dùng có
thể so sánh cùng lúc sản phẩm của các hãng khác nhau với vài cú nháy chuột. Trong
khi đó, ít ai có đủ kiên trì để xem hàng chục các tờ rơi hay nhiều số báo để tìm ra một
nơi có giá cả hợp lý nhất.
Tóm lại, có thể mô tả diện mạo của một tờ báo điện tử hoàn chỉnh như một cấu
trúc mở rộng về không gian cho nhiều đối tượng bạn đọc, dày về thời gian với sự tích
luỹ nhiều tầng thông tin. Một cơ cấu giao diện hai chiều giữa toà soạn và bạn đọc,
một tổ hợp dịch vụ thông tin đa dạng đọc, nghe, nhìn phong phú. Tuy tuổi đời của báo
mạng mới chỉ dừng lại là con số trên một chục năm so với lịch sử hàng trăm năm của
báo chí. Nhưng không phải mới ra đời mà báo mạng chịu lép vế trước những loại hình
báo chí khác. Nhờ những ưu thế vượt trội của mình mà báo mạng ngày càng thu hút
công chúng đến với mình.
Theo một khảo sát mới đây, gần 70% người Mỹ cho rằng báo chí truyền thống
không phản ánh đầy đủ và gần một nửa đang chuyển sang Internet để lấy tin tức.
Cuộc khảo sát trên mạng của We Media/Zogby Interactive cho thấy trong khi hầu hết
mọi người nghĩ rằng báo chí có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng cuộc sống, có
đến 64% không hài lòng với chất lượng báo chí trong cộng đồng nơi họ ở. Gần 50%
trong số 1.979 người tham gia cuộc khảo sát nói nguồn tin tức và thông tin chủ yếu
của họ là Internet, tăng từ 40% cách đây 1 năm. Chưa đến một phần ba coi truyền
hình là nguồn cung cấp thông tin, trong khi 11% thường xuyên nghe đài và chỉ 10%
đọc báo. Hơn một nửa số người trong độ tuổi từ 18 đến 29 lướt mạng để đọc tin, và tỷ

50
lệ này ở những người từ 65 tuổi trở lên là 35%. Người già là nhóm duy nhất không
chọn Internet là nguồn tin quan trọng nhất, với 38% chọn truyền hình.
Một báo cáo khác của Hiệp hội các Nhật báo Mỹ, doanh số quảng cáo trên báo
in ở nước này trong năm 2007 giảm 7,9%, mức giảm tồi tệ thứ hai trong vòng hơn
nửa thế kỷ qua. Điều đáng nói là những con số này đã bao gồm mức tăng trưởng về
doanh số quảng cáo trên bản điện tử của các báo.
Khi nền kinh tế phát triển chậm lại, báo in đặc biệt bị ảnh hưởng mạnh trong
tháng 4 năm 2007 - thời gian đỉnh điểm cho hoạt động bán quảng cáo - với mức
doanh số giảm tới 10,3% so với cùng kỳ năm 2006. Nếu chỉ tính riêng quảng cáo trên
báo in thì mức giảm cho cả năm là 9,4%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1950, khi hiệp
hội bắt đầu thống kê. Doanh số bán quảng cáo trên bản điện tử của các báo in tăng
18,8%, ít hơn so với mức tăng trưởng hằng năm tới 30% trong 3 năm trước.
Doanh số quảng cáo trên Internet mới chỉ chiếm 7,5% tổng doanh số quảng cáo
trong năm 2007, vì thế vẫn còn phải mất nhiều năm nữa thì mức tăng trưởng quảng
cáo trên mạng mới vượt được báo in. (Theo New York Times)
Số lượng độc giả truy cập website của các tờ báo ở Mỹ lên tới mức kỷ lục vào
năm 2007 chứng tỏ website là một trong vài điểm sáng ít ỏi đối với ngành báo in đang
gặp nhiều khó khăn. Theo nghiên cứu của Hiệp hội Nhật báo Mỹ, số lượng người truy
cập (unique visitor) website của các nhật báo Mỹ trong năm 2007 đã tăng hơn 6% và
đạt mức trung bình hằng tháng là 60 triệu. Số lần ghé thăm hằng tháng trong quý IV
tăng tới 9% so với cùng kỳ năm 2006 với 39% những người thường xuyên truy cập
Internet ghé thăm trang web của các nhật báo và thời lượng trung bình là 44 phút mỗi
tháng.
Số liệu điều tra này được đưa ra vào lúc ngành báo in đang ngày càng trở nên
phụ thuộc vào doanh thu quảng cáo từ website. Các chủ báo hy vọng mức tăng trưởng
từ doanh số trên Internet sẽ bù lại được sự sụt giảm từ báo
in. (Reuters)

51
b. Những hạn chế và thách thức đối với báo mạng:
Bên cạnh vai trò tích cực và to lớn của loại hình truyền thông điện tử, chúng ta
cũng nên nhận diện sâu sắc mặt trái, mặt phức tạp của nó, những thách thức mà nó
mang lại để có những phương sách ứng xử thích hợp.
Sau phát thanh truyền hình, truyền thông điện tử cuốn mọi quốc gia vào thời
đại thông tin mở. Với sự tồn tại trôi nổi trên mạng vô số những website đủ màu sắc,
với sự mở rộng mạng lưới Internet đến từng trường học, đến các vùng nông thôn xa
xôi, vào tận các gia đình riêng, sự giao lưu thông tin hầu như đã và sẽ càng chọc
thủng biên giới ngăn cách giữa các quốc gia, giữa các nền văn hoá và giữa các xu
hướng chính trị. Chúng ta phải thừa nhận một điều rằng: Quyền lực của một tờ báo
chính là bạn đọc. Bạn đọc càng đông, tác động xã hội càng lớn. Từ khuynh hướng xã
hội của nó thì tác động ấy có thể tốt nhưng cũng có thể xấu. Bản thân độc giả nhiều
khi cũng là nạn nhân. Bởi đứng trước một khối lượng khổng lồ thông tin trên các tờ
báo mạng mang nhiều màu sắc chính trị khác nhau, nhiều khuynh hướng khác nhau
họ bị rơi vào một mê hồn trận thông tin không biết thật giả ở đâu mà lần.
Ngoài ra, báo mạng cũng phải đối diện với một vấn đề rất lớn đó là có thể bị
“biên tập” lại ngay khi đã được ban biên tập chỉnh sửa rồi. Với tình trạng “hỗn quân
hỗn quan” hiện nay của Internet, điều này khó có thể tránh khỏi. Các hacker có thể
tấn công bất cứ một site nào khi họ tìm được lỗi của hệ thống.
Một ưu thế của báo mạng như đã nói ở trên đó chính là khả năng tương tác
nhiều chiều của báo mạng. Tức là sau mỗi bài báo của các phóng viên được đẩy lên
thì chỉ vài phút sau đã có thông tin phản hồi, ý kiến của đọc giả. Thông tin phản hồi
này xuất hiện ngay dưới phần tin của phóng viên vừa đăng trong mục diễn đàn. Số
người truy nhập được thống kê đầy đủ bằng một cơ chế phiên làm việc và xuất hiện
công khai ngay trên trang báo. Chính điều này đã gây ra một sức ép lớn cho ban biên
tập và phóng viên. Vì họ không thể có các ý kiến cá nhân hay bình luận gì. Qua đó
gần như thấy rằng báo mạng có một hình thức riêng, rất đặc biệt để đánh giá “đẳng
cấp” các phóng viên dựa vào các webmaster lưu giữ thư của đọc giả.

52
Một mặt trái nữa của báo mạng, đó chính là việc có nhiều ý kiến cho rằng: tin
tức trên báo mạng đôi khi chỉ chuẩn ở khái niệm “đưa tin nhanh nhất chứ chưa chắc
đã đúng nhất, hoặc có văn phong hay nhất”. Các mẩu tin viết vội mang tính thời sự
cao được viết theo kiểu tin thư thì rõ ràng cái “thô” sẽ đầy rẫy. Các tin tức phá bỏ hầu
hết các niêm luật, không có trọng chứng hay nói xa hơn là chưa mang đầy đủ tính đạo
đức của báo chí truyền thống. Nhanh thì càng dễ ẩu. Với báo mạng phóng viên đôi khi
cũng chính là các biên tập viên.
2.2 Xu thế của báo mạng
a. Lấy tốc độ cập nhật thông tin làm trọng tâm
Đưa tin nhanh là một lợi thế và cũng là một tiêu chí hàng đầu của các báo điện
tử. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa các tờ báo điện tử, để có thể thu hút độc
giả các tờ báo mạng phải đẩy nhanh tốc độ cập nhật thông tin. Những sự kiện thời sự
nóng (breaking news) là trận địa nóng bỏng nhất. Họ thường huy động sức mạnh tổng
lực cho những sự kiện này. Để chạy đua đưa tin sớm nhất, trước hết, báo điện tử có
thể chỉ chạy một cái tít và một câu mở đầu tin để thông báo sự kiện mới xảy ra. Sau
đó họ mới bổ sung dần thông tin, ảnh, các dữ liệu khác.
Đối với những sự kiện lớn được công chúng quan tâm đặc biệt, họ còn có thể
tường thuật trực tiếp sự kiện bằng hình ảnh (web TV) và bằng chữ để độc giả có thể
theo dõi liên tục sự kiện đang diễn ra.
Nhưng vấn đề quan trọng đầu tiên là làm thế nào để có được thông tin sớm
nhất. Ngoài số lượng phóng viên có hạn của mình theo dõi từng lĩnh vực, các báo chỉ
có thể dựa vào mạng lưới đông đảo cộng tác viên và cộng đồng bạn đọc thân thiết gắn
bó với tờ báo. Tờ báo nào xây dựng được đội quân này đông đảo hùng mạnh thì càng
có nhiều cơ hội tiếp nhận được thông tin nhanh.
Một xu hướng mới của báo điện tử là công chúng tham gia ngày càng nhiều
vào nội dung tờ báo. Trong rất nhiều trường hợp, bạn đọc không chỉ thông báo sự
kiện cho báo mà họ còn ghi hình chụp ảnh và tường thuật sự kiện. Chẳng hạn như
trong thảm hoạ sóng thần ở châu Á tháng 12-2004, nhiều khách du lịch châu Âu đã

53
viết nhật ký trực tuyến (blog) tường thuật sự kiện và chụp ảnh, quay camera nhiều
hình ảnh đưa lên mạng internet, sau đó được nhiều báo sử dụng.
Trong khi đó, một số đài ở Việt Nam với số lượng phóng viên lên tới hàng
trăm, thậm chí hàng nghìn người nhưng số phóng viên này lại chưa được huy động để
giúp báo điện tử nâng cao sức cạnh tranh thông tin. Nguyên nhân của tình trạng này
trước hết là do chưa có cơ chế để mọi phóng viên trong cơ quan đều có trách nhiệm
săn tin.
Mặt khác, viết tin và làm các sản phẩm cho báo điện tử cũng có những yêu cầu
riêng và đòi hỏi sức ép về thời gian, kỹ năng sử dụng mạng internet cùng các thiết bị
ngày càng tinh xảo phức tạp như máy tính xách tay, máy ảnh, máy camera, xử lý ảnh
bằng kỹ thuật số, dựng hình... Đây là một thách đố lớn đối với nhiều nhà báo quen
viết cho báo in hàng ngày, nhất là những nhà báo lớn tuổi.
b. Kết hợp nhiều loại hình trên tờ báo điện tử
Giờ đây khi vào một trang báo điện tử, công chúng không chỉ được đọc bài viết
của phóng viên mà còn có thể theo dõi được cả bài viết đó dưới nhiều loại hình khác
như là phát thanh, clip. Để có thể hút công chúng và tận dụng tối đa ưu thế của công
nghệ, các tờ báo mạng ngày nay đã kết hợp nhiều loại hình truyền thông vào tờ báo
trực tuyến của mình. Từ cập nhật bài viết của báo in, xây dựng các chương trình phát
thanh, xem các clip… Điều đó đã tạo ra sự đa dạng cho tờ báo điện tử.
Cùng một sự kiện được đưa tin, bên cạnh bài viết về vấn đề đó còn có vài bức
ảnh để minh họa cho bài viết. Nếu như sự kiện đó có ảnh hưởng lớn thì tòa soạn có
thể phát triển ra thành các bài tin ảnh, một bài phát thanh và thậm chí sẽ thực hiện cả
một clip để kết hợp tạo ra hiệu quả thông tin tốt nhất. Với sự phát triển của cơ sở hạ
tầng kĩ thuật và tốc độ đường truyền internet nhanh chóng, không có khó khăn gì để
thực hiện những điều đó.
c. Web 2.0 – Xu hướng tất yếu của báo điện tử
Công nghệ Web 2.0 đang xuất hiện khắp nơi trong thế giới Internet và tác động
lớn đến thói quen duyệt web của người sử dụng. Tuy nhiên, chưa một khái niệm nào

54
về xu hướng này đủ bao quát và thỏa mãn tất cả mọi người. Thuật ngữ web 2.0 là một
khái niệm khá trừu tượng, mặc dù Web 2.0 được xem là tương lai của báo điện tử
toàn cầu nhưng ứng dụng của nó ra sao thì ngay cả tổng biên tập của nhiều tờ báo vẫn
còn nhận định rất mơ hồ về nó. Web 2.0 không phải là cái gì hoàn toàn mới mà nó là
sự phát triển của web hiện tại. Nó vẫn là web như chúng ta dùng từ trước tới nay chỉ
có điều chúng ta sẽ làm việc với nó theo một cách hoàn toàn khác
* Web 1.0: chủ yếu là phương tiện phát tin gồm các website "đóng" của các
hãng thông tấn hay các công ty nhằm mục đích tiếp cận độc giả hay khách hàng hiệu
quả hơn
* Web 2.0 là phương tiện chia sẻ thông tin. Ở đó, người tiêu dùng đang dần trở
thành người sản xuất ra những nội dung thông tin cho chính mình. Web 2.0 còn được
gọi là mạng xã hội hay tờ báo công dân.
Khái niệm Web 2.0 đầu tiên được Dale Dougherty - Phó chủ tịch của OReilly
Media - đưa ra tại hội thảo Web 2.0 lần thứ nhất do OReilly Media và MediaLive
International tổ chức vào tháng 10/2004.
Web 2.0 còn được gọi là mạng xã hội, thế hệ thứ hai của cộng đồng cư dân
mạng. Ở đó, thông tin do chính độc giả tạo ra. Web 2.0 cho phép mọi người có thể
đưa lên mạng bất cứ thông tin gì. Với số lượng người tham gia rất lớn, đến mức độ
nào đó, qua quá trình sàng lọc, thông tin sẽ trở nên vô cùng giá trị.
Một đặc điểm quan trọng của báo chí web 2.0 đó là sự tương tác giữa độc giả
vả tòa soạn. Trong mô hình này, độc giả chính là tác giả của bài báo. Trong cuộc sống
hằng ngày, khi muốn nêu ra quan điểm, ý kiến hay phản ánh về một sự việc nào đó,
độc giả gửi tin bài tới cho tòa soạn. Những tin bài của độc giả sẽ tạo ra một cái nhìn
đa chiều hơn. Danny Dagan – trưởng bản đại diện báo điện tử của News Group
Digital (Vương quốc Anh) – nhấn mạnh trong bài báo cáo của mình: “Hãy để độc giả
tạo ra cuộc đối thoại” – hay có thể hiểu độc giả chính là tác giả của bài báo. Theo ông,
những bài viết của độc giả thường có chất lượng cao vì họ không phải chịu những sức

55
ép của tòa soạn và được viết trong tâm trạng nhiều cảm hứng. “Nếu bạn coi thường ý
kiến của độc giả, bạn đã hoàn toàn sai lầm” – Danny khẳng định.
Những tập đoàn báo chí trên thế giới đang áp dụng web 2.0 như tờ The Sun
(Anh), News24.com (Nam Phi), The Asashi Shimbun (Nhật Bản), Sinchew-i.com
(Malaysia), Sanoma (Phần Lan), Los Angeles Times (Mỹ), Gatehouse Media (Mỹ)…
Như vậy với việc sử dụng Web 2.0 càng thấy được xu hướng phát triển ngày
càng chiếm vị trí quan trọng so với các loại hình báo chí khác của báo điện tử. Như
các chuyên gia nhận định: “chỉ trong vòng 5 năm tới, báo điện tử sẽ trở thành một
phương tiện thông tin đại chúng được nhiều người đọc nhất trên thế giới. Đó là khi
mạng Internet toàn cầu đã có mặt ở khắp mọi nơi và máy tính đã được phổ cập tới tất
cả mọi gia đình. Đặc biệt là khi nó đã được kết hợp với hàng loạt các chức năng giải
trí khác như xem phim, mua bán, kết bạn... qua Internet”.
3. Báo phát thanh
3.1 Phát thanh trong bối cảnh mới
Phát thanh hiện đang được coi là loại hình truyền thông hiện đại và có sức ảnh
hưởng lớn tới dư luận xã hội, có được một lượng thính giả rộng rãi. Phát thanh hiện
đang cạnh tranh mạnh mẽ cùng các loại hình truyền thông khác.
Tuy ra đời muộn hơn so với báo in song phát thanh có những bước phát triển
nhanh chóng đáng kinh ngạc. Từ việc xuất hiện manh mún ban đầu khi mà Alexandre
phát minh ra ăngten vô tuyến điện năm 1895. Trải qua những bước mày mò, tìm kiếm
ứng dụng thì đến năm 1913 phát thanh chính thức góp mặt trên thế gưói truyền thông
bằng sự kiện là những buổi phát ca nhạc của đài Lacken (Bỉ).
Sau đó trong chiến tranh thế giới lần thứ I, phát thanh được sử dụng rộng rãi
trong công tác truyền tin.
Rồi một loạt các đài phát thanh ra đời đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ phát
thanh trên toàn thế giới. Cho đến nay thì tất cả các quốc gia trên thế giới phát thanh
đều đã góp mặt.

56
Ngoài việc sử dụng các cách làm cũ thì phát thanh còn bắt đầu ứng dụng các
công nghệ cao vào trong phát thanh nhằm nâng cao chất lượng phục vụ công chúng.
Ở các quốc gia phương Tây, phát thanh rất phát triển, với ưu thế là gọn nhẹ chỉ
cần một thiết bị thu tín hiệu nhỏ là công chúng có thể theo dõi các chương trình phát
thanh, nên phát thanh đã trở nê quen thuộc trong cuộc sống bận rộn. Mỗi sáng, trên
đường đi làm, ở trong ô tô khán giả có thể bật đài để nghe tin tức, tình hình giao
thông… Các đài phát thanh ở phương tây cũng đang tích cực thay đổi để đáp ứng
công chúng. Trong xu thế cạnh tranh giữa các loại hình báo chí với nhau, phát thanh
cũng đang phải tìm lối đi cho mình.

3.2 Xu hướng của phát thanh hiện đại


a. Chuyển đổi sang phát thanh kĩ thuật số
Cũng như truyền hình, phát thanh cũng đang từng bước chuyển đổi hình thức
phát sóng từ dạng Analog sang hình thức kỹ thuật số.
Để phát triển rộng thì không thể thiếu yếu tố này, vì một đài phát thanh mạnh
không thể có diện phủ sóng hẹp, chất lượng âm thanh kém, sự chuyển tải thông tin
hay bị gián đoạn…
Phát thanh hiện đại sẽ ứng dụng kĩ thuật số vào tất cả các khâu, các công đoạn;
từ việc trang bị các phương tiện tác nghiệp cho phóng viên, đến việc xử lí, dựng các
tác phẩm hoàn chỉnh, hay truyền phát sóng…
Khi nguồn thu nhập thông tin tốt, khả năng xử lí thông tin, khả năng truyền dẫn
tốt thì chắc chắn sẽ tạo một chương trình phát thanh tốt. Hiện nay phát thanh kĩ thuật
số ra đời đang mở ra cho phát thanh một tương lai mới: đó là chất lượng âm thanh tốt
như CD. Không có nhiễu, giao thoa, hay sự cản trở bởi các yếu tố tự nhiên
Khi được sử dụng một cách đồng bộ sẽ tạo ta chất lượng phát sóng rất cao với
các loại hình khác như PT-TH; PT- Điện Tử.
b. Xây dựng các chương trình phát thanh mở

57
Mục đích là để thông tin nhanh, để thính giả có thể tham gia trực tiếp vào nội
dung chương trình, làm tăng tính đời thường của chương trình, tính gần gũi của phát
thanh, làm cho phát thanh giống như người bạn, một diễn đàn nơi mà mọi người có
thể chia sẻ quan niệm, ý kiến. Kinh nghiệm của các đài phát thanh lớn là khi thực hiện
được công việc này thì sẽ tạo ra sức hút rất lớn với công chúng.
Các chương trình mở có một đặc điểm đó là thông tin ở đó không chỉ do phóng
viên cung cấp mà do cả công chúng, những người tham gia vào chương trình qua trao
đổi cung cấp do vậy nguồn tin sẽ đa dạng. Hơn thế thông tin ở đây có tính chân thực,
khách quan và có khả năng thu hút thính giả theo dõi nhiều hơn.
Khi có sự góp mặt, đóng góp công sức của công chúng theo dõi vào chương
trình thì sẽ có nhiều thông tin mới, thông tin đắt giá được khai thác, và hơn thế trách
nhiệm về thông tin được chia đều cho cả phóng viên lẫn người trực tiếp cung cấp.
Khi các chương trình mở được thực hiện đòi hỏi phải có một êkíp thực hiện
chuyên nghiệp, có trình độ, có khả năng ứng biến cao và các phương tiện, trang thiết
bị hiện đại.
c. Thay đổi trong cách thức truyền thông tin
- Thông tin nhanh và chính xác
Nhanh chính là lợi thế của phát thanh so với các loại hình báo chí khác. Nếu
như báo in bị hổng thông tin 24 giờ thì từ số ra ngày hôm trước tới số ra ngày hôm
sau, các sự kiện, sự việc diễn ra trong thời gian giữa 2 số báo sẽ phải lưu lại cho tới số
sau. Truyền hinh thì cần yếu tố cần thiết cho việc ghi hình, việc truyền dẫn do các
công đoạn thực hiện phức tạp hơn, có nhiếu công đoạn xử lý và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố máy móc mới có thể đêm thông tin tới cho công chúng được.
Còn thông tin trên phát thanh thì có thể chảy liên tục trong suốt khoảng thời
gian phát sóng. Thông tin của phát thanh được cung cấp liên tục và có thể đưa ra cho
công chúng ở mọi lúc, mọi nơi. Từ việc cung cấp cho công chúng những thông tin
ngắn gọn ban đầu (tin) hay đưa ra những lời bình luận, đánh giá ban đầu. Phát thanh

58
còn có thể cung cấp thông tin bên ngoài thông qua trật tự tuyến tính về thời gian, theo
tiến trình phát triển của sự kiện, sự việc.
Muốn thông tin nhanh thì người làm phát thanh phải giỏi về nghiệp vụ và có hỗ
trợ đắc lực của các phương tiện kỹ thuật. Các công đoạn, thao tác thực hiện phải
chuyên nghiệp, nhanh nhẹn, chủ động đối phó và xử lí thông tin. Có hỗ trợ đắc lực
của các phương tiện kỹ thuật sẽ giúp cho công việc của phóng viên có thể diễn ra
nhanh và thuận lợi, tăng tính chuyên nghiệp và hiệu quả của tác phẩm báo chí trên
phát thanh.
Cách cung cấp thông tin nhanh nhất là phát thẳng tức là thông tin được truyền
tới thính giả đồng thời cùng lúc với sự kiện đang diễn ra… Phương thức phát thanh
trực tiếp hiện nay đang ngày càng phổ biến hơn trong phát thanh hiện đại.
Để chuyển từ phương thức sản xuất thông thường, truyền thống sang phát thanh
trực tiếp thì cần có sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ, phương tiện kỹ thuật. Do đó cần
được đầu tư đồng bộ, có một êkíp làm việc ăn ý, chuyên nghiệp.
Khi sản xuất chương trình mà phải in ra băng từ thì việc thực hiện một chương
trình phát thanh trực tiếp sẽ khó thực hiện do muốn lấy được một đầu băng đúng chỗ
phải quay đi quay lại nhiều lần.
Phát thanh hiện đại ngày nay đã khắc phục nhược điểm đó bằng cách sử dụng
vi tính. Thiết bị số cho phép tính thời gian chính xác đến từng % giây.
Thông tin nhanh nhưng cần phải chính xác bởi đó là yếu tố làm nên hình ảnh
đẹp cho phát thanh, tạo nên niềm tin cho công chúng vào phát thanh. Thông tin chính
xác chính là đáp ứng yêu cầu thông tin sự thật của công chúng, là sự tôn trọng của
phóng viên đối với công chúng của mình.
- Viết ngắn, nói ngắn, nói rõ
Thông tin trên phát thanh là thông tin chỉ trôi qua một lần, không thể đọc lại
như trên báo in. Cộng với việc theo dõi bằng thính giác có giới hạn về số lượng, tốc
độ âm thanh. Do vậy một người làm phát thanh chuyên nghiệp phải nắm rõ được đặc

59
điểm này để có thể tạo ra một chương trình phát thanh hấp dẫn. Khi nói trên phát
thanh cần coi đó như là một cuộc trò chuyện, là một cuộc trò chuyện với bạn tri kỉ.
Ngôn ngữ chuẩn cho phát thanh là ngôn ngữ có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nói
và ngôn ngữ viết. Nếu như trên báo in thì công chúng đọc bằng mắt, và văn bản được
soạn thảo để nói cho nhiều người nghe. Còn phát thanh là viết cho tai nghe, viết để
nói chứ không để đọc.
Văn bản viết cho phát thanh là văn bản viết dành riêng cho phát thanh chứ
không thể sao chép hay copy từ báo in sang. Văn bản phát thanh cần rõ ràng, tránh lối
nói vòng vèo, quanh co.
Khi trình bày văn bản cho phát thanh cần tuân theo quy tắc chung như: không
in lên 2 mặt, phải đánh dấu các ý quan trọng, căn lề, làm tròn số…
Các tin phát thanh hiện đại thường chỉ dài 1 phút: Phóng sự thu thanh thì từ 5 –
6 phút; phỏng vấn từ 3-4 phút; bình luận từ 2-3 phút là hợp lí…
Khi đã viết ngắn rồi thì nên nói ngắn tức là lời dẫn cần hợp lí, vừa đủ
Khi nói cần rõ ràng bởi giọng đọc là phương tiện chính để truyền tải nội dung
của tác phẩm phát thanh tới thính giả, do đó góp phần tạo nên sự hấp dẫn cho tác
phẩm đó.
Các phần mục, đoạn trong tác phẩm phát thanh không được phân cách bằng
cách ngắt hơi, dừng hơi của người đọc. Do vậy để đảm bảo tính chính xác của thông
tin nên đọc rõ.
- Khai thác, sử dụng triệt để đặc điểm của phát thanh
Việc khai thác để các yếu tố bổ trợ trong phát thanh giúp cho phát thanh tránh
tình trạng đài là nơi đọc báo cho công chúng nghe. Phải biến chương trình phát thanh
thành một chương trình sinh động, hấp dẫn chứ không phải là đọc dịch từ báo in mà
ra.
Các yếu tố bổ trợ đắc lực cho lời phát thanh là:
Tiếng động hiện trường:

60
Tiếng động hiện trường có hai dạng cơ bản: Tiếng động thực của hiện trường
và tiếng động được lưu giữ trong các băng dữ liệu.
Để có thể có được chất lượng âm thanh tốt thì phải luôn có kho dự trữ âm thanh
Phát thanh sử dụng tiếng động hiện trường nhằm tạo sự hấp dẫn cho nội dung,
tính chân thực, thuyết phục cho thông tin của mình, Khi tiếng động hiện trường được
sử dụng tốt sẽ tạo ra giao diện lớn đối với thính giả, tạo sự sinh động cho tác phẩm.
Nó giúp truyền tải ý đồ của tác giả và khả năng liên tưởng của độc giả được nâng cao
hơn. Do không được phụ trợ bởi hình ảnh nên có thể tạo ra khả năng hình dung, tưởng
tượng cho thính giả được coi là một thành công.
Âm nhạc:
Âm nhạc được sử dụng trong phát thanh nhằm tạo tính linh hoạt mềm mại cho
thông tin và giúp thông tin đến với công chúng dễ dàng hơn. Theo nhà nghiên cứu của
Úc thì trong một chương trình phát thanh thì âm nhạc chiếm tới 35 – 45% là phù hợp
nhất.
Âm nhạc có thể làm thành một chương trình riêng hoặc làm nền cho các
chương trình khác. Nhặc cắt, nhạc hiệu, nhạc nền… giúp cho các chương trình thêm
đa dạng, làm nên cái riêng, cái đặc trưng, là yếu tố hỗ trợ tạo khả năng thu hút cao
hơn cho các chương trình.
Trong chương trình phát thanh hiện đại do có các phương tiện kỹ thuật số do đó
âm nhạc được xử lí và cắt, ghép một cách trơn tru quá, đang làm giảm dần đi tính hấp
dẫn của những âm thanh mộc mạc.
- Kết hợp giữa thông tin đời thường, thông tin giải trí và thông tin chiến
đấu
Tức là cần chú trọng tới nội dung của chương trình. Đây là yếu tố quan trọng
hàng đầu quyết định tới việc thành bại của chương trình phát thanh.
Khi xây dựng kịch bản cho chương trình phát thanh thì nên chú ý kết hợp các
yếu tố sao cho thật phù hợp

61
Để phản ánh đa dạng cuộc sống, đáp ứng được yêu cầu thông tin của công
chúng thì phát thanh phải lựa chọn thông tin để phản ánh sao cho thật hiệu quả. Thông
tin ấy không chỉ thiên về một lĩnh vực mà phải phản ánh đa diện về cuộc sống, đáp
ứng nhu cầu thông tin. Do đó việc kết hợp các yếu tố trên là vô cùng quan trọng.
Nếu thông tin đời thường cung cấp cho công chúng thông tin về cuộc sống
xung quanh thì thông tin giải trí đáp ứng nhu cầu tinh thần và thông tin chiến đấu sẽ
định hướng cho dư luận về những vấn đề có tầm quan trọng…
Khi khai thác đầy đủ thông tin trên thì phát thanh đã làm được nhiệm vụ là trở
thành một người tri kỉ, một người dẫn đường, phù hợp với nhiều đối tượng thính giả,
thuộc mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp…
Việc dung hoà tính thời sự và giải trí sẽ giúp cho người nghe dễ tiếp thu và
không chịu áp lực khi theo dõi thông tin. Chỉ có xây dựng một kịch bản hay thì mới
thu hút được thính giả.
Trên đây là các xu hướng phát triển của báo Phát thanh hiện đại
Tuy nhiên đây chỉ là những xu hướng phát triển chung mà thôi, còn trong tuỳ
từng trường hợp, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể sẽ xuất hiện các xu hướng khác nhau.
Để phát thanh phát triển thì không nên áp dụng một cách khô cứng khuôn mẫu mà
phải biết chủ động, linh hoạt, sáng tạo.

4. Báo truyền hình


Truyền hình là một thể loại sử dụng hình ảnh và âm thanh để tạo nên thông tin
cung cấp cho khán giả. Từ khi ra đời và phát triển đến nay, truyền hình vẫn luôn tận
dụng được những lợi thế của mình để cung cấp hình ảnh của thế giới cho công chúng.
Các đài truyền hình trên thế giới vẫn đang nỗ lực để cải tiến chương trình của mình để
cạnh tranh với các loại hình truyền thông khác đồng thời cung cấp cho công chúng
những tin tức tốt nhất, nóng nhất của thế giới xung quanh.
Truyền hình khác với các loại hình khác ở chỗ nó đòi hỏi phải có hình ảnh và
âm thanh kết hợp, điều đó dẫn tới công nghệ đi theo nó cũng phải cao hơn, đầu tư tốn

62
kém hơn. Để thực hiện một tin tức truyền hình thì ít nhất cũng phải có 2 người cùng
hợp tác: một phóng viên và một quay phim.
Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, khán giả đã chán ngán những tin tức khô
khan, chậm chạp… do đó nhiều đài truyền hình ở Mỹ đã phát triển rất nhiều chương
trình truyền hình trực tiếp, những chương trình tin nóng phát trực tiếp từ hiện trường.
Rất thường gặp những chương trình đang phát dở thì bị cắt ngang bởi những “tin
nóng”… tại hiện trường một sự việc nào đó, ta sẽ thấy một phóng viên đang dẫn hiện
trường tường thuật trực tiếp những gì đang diễn ra xung quanh họ… khán giả trước
màn hình tivi sẽ cảm thấy tò mò và chăm chú theo dõi. Đó là một bước đi mới để
chinh phục khán giả.
4.1 Thách thức và giải pháp cho truyền hình
a. Thách thức của truyền hình ngày nay
Sự ra đời của internet kéo theo những biến đổi to lớn của lĩnh vực truyền thông
đại chúng. Rất nhiều dự đoán về tương lai của ngành truyền thông sẽ thuộc về loại
hình này, với ưu thế vượt trội của nó là đa phương tiện và tính tương tác. Theo khảo
sát của hãng nghiên cứu thông tin Nielsen (Mỹ) cho thấy: việc sử dụng internet và các
dịch vụ trên mạng trong các gia đình đã chen vào thời gian xem truyền hình của họ.
Các gia đình nối mạng internet trung bình giảm 13% thời gian theo dõi truyền hình
khoảng 1 tiếng mỗi ngày so với các gia đình khác. Đây là kết quả khảo sát 5000 gia
đình ở Mỹ trong năm 2000. Nhiều con số thống kê khác cho thấy: khán giả thường
xuyên của màn ảnh nhỏ cũng bắt đầu giảm dần, kể từ khi họ bị lôi cuốn bởi máy tính
và internet, đặc biệt là lớp trẻ. Ông Marshal Cohen, chuyên gia thẩm định thông tin
của hãng truyền hình AOL – Turner nhận định rằng: “Con người đang thay đổi, thoát
khỏi sự quyến rũ của các chương trình truyền hình. Họ thích tự nghiên cứu và tiếp cận
với thông tin hơn là bị chi phối bởi thông tin”.
Mặc dù mới chỉ là những nhận định như trên và tính dự đoán còn ở phía trước,
cũng như sự thay đổi chưa mang tính bước ngoặt nhưng người ta cũng bắt đầu lo ngại
trước sức mạnh của internet. Chính vì vậy, tương tự như lịch sử của việc kết hợp

63
nhiều loại hình báo chí trong vòng kiểm soát của một ông chủ hay một tập đoàn tư
bản trước đây, thì nay, các hãng truyền hình lớn cũng muốn xích lại gần các công ty
dịch vụ internet bằng hàng loạt những hợp đồng chuyển sở hữu hay sáp nhập. Mục
tiêu nhằm “lập chiến lược đúp để vươn tới khách hàng, cung cấp cả truyền hình và
sản phẩm tương tác (tức các dịch vụ internet) cho mọi đối tượng tiêu dùng, từ trẻ em
đến người lớn, mọi tầng lớp khán giả truyền hình” – theo như lời của Ringo Chan –
giám đốc chi nhánh của Turner Internationl tại Hồng Kông (Công ty mẹ của CNN)
khẳng định.
Mạng lưới truyền hình của Mỹ cũng đã tung ra đòn phản công phù đầu chống
lại các đối thủ đe dọa của mình. Qua một loạt giao dịch mua bán nhanh chóng, các
hãng truyền hình nước này đã thôn tính nhiều công ty internet nhằm tạo dựng một vị
trí tốt trong bối cảnh truyền thông mới, các website trên mạng. Những vụ mua bán
này đều phản ánh mong muốn kéo lại khán giả đang trôi về môi trường tương tác, đa
màu sắc trên web. Mặc dầu vậy, tất cả mới dừng lại ở mục đích tranh giành thị phần,
khán giả và quảng cáo.
Trên thực tế, hiện nay và tương lai, internet khó có thể gây nguy hại cho đời
sống báo chí nói chung và truyền hình nói riêng. Trong vòng 10 năm qua, kể từ khi
bùng nổ internet, số lượng phát hành, lợi nhuận từ quảng cáo trên báo in vẫn không
ngừng tăng lên, kể cả ở những nước có điều kiện phát triển internet như Mỹ, Châu
Âu. Với truyền hình, nhìn bề ngoài có vẻ bị suy yếu vì lượng khán giả ngày một giảm,
nhưng trên thực tế, các tập đoàn truyền hình lớn vẫn rất sung sức. Truyền hình vẫn là
phương tiện truyền thông phổ cập nhất, đặt dưới sự kiểm soát của các tư bản kếch xù
và lâu đời, trong khi nhiều công ty internet còn quá non trẻ và kinh doanh vẫn thua lỗ.
Mặt khác, theo tài liệu phân tích của tổ chức phát thanh – truyền hình châu Á –
Thái Bình Dương (ABU) thì chất lượng audio, video qua internet hiện nay vẫn còn là
vấn đề cần xem xét. Âm thanh trên internet mới chỉ dừng ở mức độ “nghe được”, còn
xa mới có thể đạt chất lượng cao. Hình ảnh qua internet thường có khuôn hình bằng
1/16 toàn bộ màn ảnh, chất lượng kém và chỉ truyền được 6 hình/giây. Nếu so sánh

64
với internet thì truyền hình chỉ thua kém ở mặt tương tác. Tuy nhiên trong tương lai,
khi truyền hình tương tác (interactive television) hoàn thiện hệ thống và phổ cập thì
gần như ranh giới giữa truyền hình và internet sẽ rất mờ nhạt, khi mà chúng trộn lẫn
vào nhau. Những tham vọng và toan tính kể trên của các hãng truyền hình lớn nhằm
thâu tóm các công ty internet cũng chính là để chuẩn bị cho tương lai đó.
b. Giải pháp cho truyền hình
Trước mắt, người ta tạm bằng lòng với những website trực tuyến mà tất cả các
hãng truyền hình được phát sóng và những thông tin bổ sung được truyền tải trên
mạng theo một cách thức khác, đã khiến cho truyền hình ngày càng phát huy sức
mạnh của nó. Người ta tìm đọc những thông tin về một sự kiện nào đó được đưa trên
mạng và nảy sinh nhu cầu xem hình ảnh về sự kiện đó trên truyền hình. Ngược lại khi
xem truyền hình, khán giả bị lôi cuốn và thôi thúc tìm hiểu về tin tức đó kĩ hơn bằng
cách truy cập vào internet. Và thật khéo là, không chỉ bổ sung cho nhau về mặt thông
tin, cách thức tiếp cận thông tin mà hai loại hình này luôn biết cách quảng cáo cho
nhau theo nghĩa đen của từ này, vì xét cho cùng, chúng đều thuộc về một hãng mà
thôi. Có thể kể tên hàng loạt các website của các hãng lớn như là CNN.com,
BBC.com, ABCnews.com, NBCi.com...
Danh mục các chương trình truyền hình luôn được chuyển tải trên mạng, thể
hiện đầy đủ trên thanh công cụ của các trang web. Khi truy cập vào đây người đọc sẽ
tiếp cận sâu hơn những vấn đề đã hoặc sẽ phát sóng. Phát huy ưu thế tương tác của
mạng trực tuyến, các website này luôn có diễn đàn để người truy cập tham gia bàn
luận sâu hơn về các sự kiện. Ví dụ như trong thời điểm xảy ra sự kiện 11/9/2001 tại
Mỹ, trang web ABC.news.com đã xây dựng hẳn một diễn đàn trao đổi ý kiến trực tiếp
với tên gọi: “Cầu Chúa phù hộ nước Mỹ, Tại sao? Tại sao?”. Chỉ sau 3 ngày, số lượng
thông tin trao đổi đã lên quá con số 3 triệu.
Tuy nhiên xu hướng hợp tác, hợp nhất giữa truyền hình và internet không dừng
lại ở đó, cũng không chỉ khởi nguồn theo ý đồ của các tập đoàn truyền hình lớn. Đó
còn là tham vọng của các công ty tin học khổng lồ mà tiêu biểu nhất là Microsoft. Bill

65
Gates, chủ nhân của tập đoàn này nhân thấy rằng: trong tương lai, nếu muốn giữ sự
phát triển thần kỳ của Microsoft thì nhất thiết phải nắm giữ lấy thị trường mà các nhà
sáng chế của ông gọi là không gian truyền hình (television space). Vấn đề là ở chỗ,
trong thị trường đó, ông sẽ chiếm một vị trí lớn đến mức nào.
Báo chí phương Tây ví sự hợp tác, hợp nhất giữa truyền hình và internet là một
cuộc hôn phối giữa hàng loạt các tập đoàn truyền thông – truyền hình nắm trong tay
quyền lực thông tin và các công ty tin học với ưu thế to lớn về công nghệ. Trong cuộc
cạnh tranh nhằm thâu tóm tương lai của ngành truyền thông, phần thắng có thể thuộc
về ông Bill Gates hay ông Ted Turner, đồng nghĩa với việc truyền hình lợi dụng
Internet để phát triển hoặc ngược lại. Song đây là xu hướng có tính tất yếu, nếu xét
trên phương diện khoa học công nghệ thuần túy. Bởi đó là sự kết hợp của một loại
hình truyền thông tương tác với một phương tiện báo chí nghe nghìn để thực sự trở
thành truyền thông đa phương tiện.
Người ta đã nhìn thấy: trong tương lai gần, chiếc máy thu hình thông thường
hiện nay sẽ trở thành lạc hậu, thay vào đó là các thiết bị đa phương tiện – multimedia,
tiện lợi và đa dụng hơn nhiều. Đó là một máy tính đa chức năng: tính toán, soạn thảo
văn bản, tra cứu thông tin, đánh cờ, chơi điện tử, viết và nhận email và xem hàng trăm
kênh truyền hình. Khi xem truyền hình nhiều kênh, khán giả chẳng cần bấm nút
chuyển kênh liên hồi vì bên tay phải của màn hình sẽ có hàng loạt màn hình mini,
hiển thị cho bạn biết kênh nào hiện đang chiếu gì, và lúc đó bạn sẽ dễ dàng lựa chọn.
Ví dụ như khi bạn đang xem bóng đã, bạn chỉ cần bám điều khiển từ xa để hiển thị
một khuôn hình nhỏ, giống như trên internet nằm hai bên lề màn hình, không chiếm
diện tích lớn và vẫn đủ để bạn theo dõi bóng đá. Tuy đồng thời làm các việc như trên,
người ta vẫn thao tác nhiều việc khác: khai thác thông tin về một cầu thủ nào đó từ
trang web hay xem lại một vài pha gay kết hay kết quả các trận đấu khác, trao đổi
cùng bạn bè hay xem một bản bình luận mới cập nhật.
Tuy nhiên sự hội nhập giữa truyền hình và internet không có nghĩa biến truyền
hình thành một thứ hình ảnh động được chuyển tải trên mạng và hòa tan và đó. Về

66
bản chất, mặc dù cả hai loại hình dều mang tính báo chí và giải trí. Song chiếc máy vi
tính là phương tiện để làm việc, trong khi máy thu hình còn là một sản phẩm văn hóa
của gia đình. Máy thu hình sẽ được nối mạng internet nhưng sẽ không làm nhiệm vụ
giống máy tính, việc sử dụng sẽ dễ dàng hơn và dịch vụ của nó đơn giản hơn. Như
vậy trong gia đình vẫn sẽ có cả hai loại máy kỹ thuật tương đối giống nhau. Khi đó,
máy thu truyền hình sẽ đảm bảo việc quản lý hàng trăm kênh truyền hình, những dịch
vụ như: mua hàng qua truyền hình, các trò chơi truyền hình, kiểm tra tài khoản ngân
hàng… Còn máy tính sẽ đảm nhiệm các chức năng phức tạp hơn như xử lý, quản lý
thu nhập gia đình, xử lý văn bản, hội thảo, hội nghị qua mạng, xử lý hình ảnh…
Cũng như tốc độ phát triển của internet, người ta dự đoán rằng chỉ trong vòng
một thập kỷ tới, một thế hệ truyền hình thông minh sẽ quen thuộc với nhiều gia đình.
Với công nghệ sản xuất các màn hình cực mỏng, bạn có thể treo trên tường mỗi
phòng một máy thu hình như một bức tranh treo tường. Bạn chỉ cần ngồi trên ghế, nói
lên bạn muốn gì, toàn bộ hệ thống này sẽ thực hiện ý muốn của bạn: tìm chương trình
bạn thích xem, ghi lại các chương trình chưa kịp xem, xem tin tức mới cập nhật…
4.2 Xu hướng phát triển của truyền hình
Với sự cạnh tranh khốc liệt từ các loại hình báo chí khác, đặc biệt là từ internet,
truyền hình cần phải tự thay đổi bản thân mình để đáp ứng được yêu cầu của công
chúng hiện đại cũng như tự cứu sống bản thân mình. Bên cạnh việc nâng cao chất
lượng tin bài, chất lượng phát sóng… thì một yêu cầu đặt ra cho truyền hình là phải
tạo ra được những chương trình mới hấp dẫn khán giả. Ta có thể thấy một vài thay đổi
của truyền hình trong tương lai:
• Truyền hình kỹ thuật số: Giữa năm 2008 và 2012, truyền hình công nghệ

tương tự (analogue TV) sẽ chấm dứt tại Anh để hoàn toàn chuyển sang dịch
vụ truyền hình kĩ thuật số với chất lượng tốt hơn. TV kĩ thuật số có thể thu
sóng từ dây anten, vệ tinh, cáp hoặc các đường dây điện thoại. Để chuyển
sang truyền hình công nghệ số, yêu cầu phải có bộ chuyển đổi để xem truyền
hình kĩ thuật số trên TV thông thường (set-top box) hoặc bộ giải mã cho TV.

67
• TV độ nét cao: TV với độ nét cao hay HDTV (High-definition television) là

định dạng mới cho phép người xem có được những hình ảnh sắc nét, rõ ràng,
màu sắc trung thực, độ tương phản cao và chất lượng âm thanh cũng tốt hơn
nhiều nhờ có thêm nhiều điểm ảnh hơn trên từng cm. Những chiếc TV được
coi là HDTV nếu màn hình có đủ điểm ảnh (pixel) để thể hiện được những
hình ảnh sắc nét với độ phân giải 720p (1280x720 pixel) hoặc 1080i
(1920x1080 pixel). Bạn cần phải có một chiếc HDTV và bộ chuyển đổi HD
hoặc bộ giải mã để xem được truyền hình kĩ thuật số.
• Máy ghi hình cá nhân PVR: Với PVR (Personal video recorder), người xem

có thể ghi lại nội dung truyền hình trực tiếp vào PC để xem lại sau đó. Trong
quá trình ghi lại các chương trình, chúng ta cũng có thể tạm dừng (pause),
xem lại (replay), tua hình (fast forward)… Hầu hết PVR đều được kết hợp với
các dịch vụ TV kĩ thuật số như: Sky, Freeview
• Xem video theo yêu cầu (on demand): “On demand” có nghĩa là người xem

có thể xem danh sách các chương trình để lựa chọn chương trình muốn xem
và không bị bó buộc về thời gian xem. Với dịch vụ theo yêu cầu, đài truyền
hình sẽ gửi tới khách hàng những show diễn hay những bộ phim được yêu
thích thông qua việc kết nối băng thông rộng nhờ bộ chuyển đổi cho TV.
• Sự kết hợp giữa TV và máy tính: Gìờ đây, việc kết nối TV với máy tính (PC)

hay một thiết bị có thể đảm nhận cả 2 chức năng này không còn là điều khó
tưởng tượng. Nó sẽ mở ra một thư viện khổng lồ các đoạn video từ mạng
internet và có thể xem trực tiếp chúng trên TV. Điều này cũng gần giống như
việc sử dụng bộ nhớ PC như một chiếc PVR. Người tiên phong trong lĩnh vực
này là Microsoft với Media Centre. Bên cạnh đó, chiếc iTV của Apple cũng
mang đến những tiện nghi tương tự. Còn phải kể tới Xbox 360 cho phép tải
các show để xem trực tiếp trên TV.
• Truyền hình di động: Hiện nay xem TV trên màn hình di động là điều khá

phổ biến. Nhờ kết nối mạng tốc độ cao 3G, việc tải về các gói dịch vụ để xem

68
trực tiếp trên di động đơn giản hơn bao giờ hết. Các công nghệ cạnh tranh
như: DAB-IP và DVB-H đang được các nhà sản xuất điện thoại đưa vào để
thu hút nhiều hơn nữa khách hàng. Cũng như điện thoại, việc xem show trên
iPod và máy nghe nhạc MP3 ngày càng phổ biến hơn.
(Hiện nay ở Việt Nam khái niệm truyền hình theo yêu cầu, truyền hình thực tế
và truyền hình tương tác vẫn còn có sự lẫn lộn với nhau, thực tế đó là 3 hình
thức hoàn toàn khác nhau.)
a. Truyền hình theo yêu cầu (on-demand)
Truyền hình theo yêu cầu là dịch vụ mà khán giả có thể tự mình lựa chọn
chương trình yêu thích để xem mà không phải phụ thuộc vào giờ phát của đài truyền
hình.
Từ năm 1991, Microsoft đã muốn đưa máy điện toán vượt xa các loại máy PC
thường và hướng đặc biệt về truyền hình tương tác mà họ rất thích khả năng thực hiện
việc xem video theo yêu cầu (video on demand). Hậu quả tức thì của việc này là làm
cho các cửa hàng thuê băng đĩa bị lỗi thời phải đóng cửa.
Microsoft tự nhận cho mình sứ mạng phải phát minh lại truyền hình, theo đó,
họ phải chuyển đổi một phương tiện báo chí mang tính giải trí, giáo dục chuyển tạo ra
một sự thụ động, uể oải, đờ đẫn ở người xem thành một phương tiện có khả năng kích
thích cac phản ứng của đông đảo khán giả.
Để thực hiện mục đích đó, Microsoft lao vào nghiên cứu truyền hình tương tác
nhưng không thành công. Trong khi đó, năm 1995, tập đoàn Time Warner của ông
Ted Turner đã đưa ra biểu diễn một mô hình thí nghiệm truyền hình tương tác có thể
vừa thu được các chương trình truyền hình, vừa có thể yêu cầu chiếu những bộ phim
khá giả yêu thích, vừa có thể đặt mua vé máy bay, đặt phòng khách sạn… Những việc
này thực hiện được nhờ có bộ phận thiết bị server (cho phép truy cập dữ liệu trực tiếp)
và nhờ hộp setto đặt trên máy thu hình. Trở ngại chính của nó còn quá cồng kềnh và
giá quá cao: 8000$ cho chiếc hộp setto. Bill Gates đã nhanh nhạy nhận ra rằng: chỉ có
mạng internet mới là chìa khóa giúp Microsoft bước vào lĩnh vực kinh doanh truyền

69
hình một cách vững chắc. Với 425 triệu USD, Bill Gates mua ngay công ty điện tử
WebTV Sun chuyên sản xuất các thiết bị điện tử hệ thống, biến nó thành một phòng
thí nghiệm tốt nhất của truyền hình tương tác. Mục tiêu của Microsoft là thiết kế chiếc
hộp webtv, cho phép truy cập các website từ máy thu hình bình thường với giá chỉ
khoảng 199 USD.
Nếu Microsoft thành công trong việc sản xuất loại máy thu hình kèm theo một
số thiết bị cho phép vừa xem được các chương trình truyền hình thông thường, vừa sử
dụng được như máy điện toán, vừa là máy truyền hình tương tác thì có nghĩa là công
ty này sẽ chiếm được vị trí mạnh trong lĩnh vực truyền hình, ảnh hưởng và lợi nhuận
sẽ tăng rất nhanh đồng thời thế lực của Bill Gates sẽ được nâng cao.
Nếu như không lâu trước đây, truyền thông đại chúng (mass media) là sự thống
trị của một tam đầu chế bao gồm Báo in, Truyền hình và Phát thanh thì hôm nay, với
sự ra đời và tương hỗ của Internet, đường truyền băng thông rộng và công nghệ không
dây, thế giới đang chứng kiến sự soán ngôi của một tam đầu chế mới trong truyền
thông, đó là Truyền hình, Internet và Mobile.
May mắn thay, với những đặc thù về việc truyền hình ảnh và khả năng thích
ứng cao cho tương tác. “Đế chế” truyền hình vẫn và sẽ luôn là một kênh thông tin
quan trọng bậc nhất trong bộ ba này. Hơn thế nữa, khác với giai đoạn phân mảnh
trước đây với báo in, với phát thanh, truyền hình ngày nay hoàn toàn có thể kết nối,
dùng chung tập khán giả và phân chia quyền lợi với hai hình thức nghe nhìn mới này,
từ đó tạo ra vô số giá trị gia tăng trên cả ba mô hình. Xu hướng và hiện trạng của thế
giới, đó là việc ba hình thức nghe nhìn thế hệ mới này đang kết nối để tụ về một điểm
chung. Vậy trong bối cảnh của Việt Nam, chúng ta đang có những gì trong tay?
Mobile  Truyền hình
Hình thức sử dụng SMS để tác động lên chương trình truyền hình trong thời
gian gần đây đang như nấm sau mưa với hàng loạt các công ty khai thác các dịch vụ
giá trị gia tăng trên các thiết bị di động. Có thể nói đây là hình thức phổ biến và hiệu
quả nhất trong việc khai thác truyền hình tương tác ở Việt Nam. Tuy nhiên, với cách

70
thức khai thác ồ ạt và na ná giống nhau dàn trải trên mọi chương trình truyền hình, sự
nhàm chán và thờ ơ của khán giả đối với loại hình dịch vụ này đã manh nha xuất hiện.
Truyền hình  Mobile
Với việc công nghệ WiMax sẽ triển khai sớm ở Việt Nam, cho phép các thiết bị
không dây có thể truy cập đường truyền tốc độ cao, việc xem những chương trình
truyền hình trực tiếp trên Mobile đang dần trở nên tực tế
Internet  Truyền hình
Máy tính PC với khả năng tương tác trực tiếp lên Internet cung cấp những công
cụ mới cho việc tương tác truyền hình một khi Internet và truyền hình đã kết nối.
Thay cho các hình thức tương tác cổ điển như thư phản hồi hay điện thoại cố định,
chúng ta hãy nghĩ đến tất những gì chúng ta tương tác được với Internet cũng sẽ chính
là những gì chúng ta tương tác được với truyền hình. Đó là khả năng phản hồi thông
điệp trực tiếp, trực tuyến, đó là khả năng gửi âm thanh và thậm chí cả hình ảnh trực
tiếp lên truyền hình.
Truyền hình  Internet.
IPTV cũng như Internet Television đã rậm rịch xuất hiện ở Việt Nam cùng với
các giao thức truyền video trực tiếp (streaming), các giao thức phân phối ngang hàng
(P2P sharing) đang hoàn thiện mở ra những hình thức mới trong việc xem truyền
hình. Khán giả đã có thể xem trực tiếp chương trình của VTV, VTC… được ngay trực
tiếp trên trang chủ cũng như download những chương trình truyền hình số thông qua
những mạng ngang hàng mà VNN-TV là một trong những ví dụ đầu tiên của những
nhà cung cấp dịch vụ Video theo yêu cầu (VOD - Video On Demand), hình thức xem
TV rất phổ biến tại Bắc Mỹ.
Ba hình thức truyền thông thế hệ mới đang kết nối để hội tụ, tạo ra nhiều dịch
vụ giá trị gia tăng cho khán giả nhưng cũng tạo ra không ít thách thức cho người làm
truyền hình. Rõ ràng 3 hình thức truyền thông thế hệ mới đang kết nối để hội tụ, tạo ra
vô vàn dịch vụ giá trị gia tăng trên bản thân mỗi loại hình,
Truyền hình theo yêu cầu iTV
71
IPTV (Internet Protocol Television) là dịch vụ truyền tải hình ảnh kỹ thuật số
tới người sử dụng qua giao thức Internet với kết nối băng thông rộng - ADSL. Nó
thường được cung cấp kết hợp với VoIP và truyền dữ liệu nên còn được gọi là công
nghệ tam giác (dữ liệu, âm thanh và hình ảnh).
Tính tương tác cao
Bên cạnh các kênh truyền hình như các loại truyền hình analog và truyền hình
cáp khác, IPTV cho phép cung cấp các dịch vụ kèm theo như Video theo yêu cầu
(VoD - Video on demand), Truyền hình theo yêu cầu (TVoD), Đọc báo trên TV
(iNews), Âm nhạc theo yêu cầu (iMusic), Phát thanh trực tuyến (iRadio), Lưu trữ
trực tuyến (iStorage), Gửi tin nhắn qua TV (iMessenger), Chia sẻ Video (Clip4U) và
bầu chọn (Voting)... mà các dạng truyền hình từ trước đến nay bao gồm analog, cáp
hay truyền hình kỹ thuật số không có được.
Truyền hình: Dễ dàng theo dõi lịch phát sóng
Từ công nghệ tương tác EPG của IPTV, người dùng có thể xem lịch phát ngày
hôm đó cũng như những ngày tiếp theo trên TV, đồng thời có thể dễ dàng xem hiển
thị tên chương trình đang phát cũng như ngày giờ bắt đầu của chương trình kế tiếp.
Chức năng đặt giờ cho phép đặt sẵn chương trình muốn xem và đến đúng giờ đó, TV
sẽ tự động chuyển sang kênh đã chọn.
VoD và TVoD – Phim và truyền hình theo yêu cầu
Đây là dịch vụ xem phim theo yêu cầu, với kho phim ảnh chương trình các loại
được lưu trữ trên máy chủ của nhà cung cấp. So với các bộ phim được phát sóng trên
truyền hình analog, truyền hình cáp hay truyền hình kỹ thuật số, dịch vụ này có những
ưu điểm vượt trội như khả năng cung cấp lượng phim ảnh không hạn chế, chọn lựa
phim muốn xem và tua tới, tua lui, dừng hình như khi xem DVD.
iMusic – Nghe nhạc theo yêu cầu: đáp ứng nhu cầu về Nghe – Nhìn, dịch vụ
này cho phép lưu các album âm nhạc trên máy chủ để người dùng tự do lựa chọn, tìm
kiếm và lên danh sách các bài hát riêng cho mình. Số lượng bài hát lưu trữ là không
hạn chế.

72
iNews – Đọc báo trên TV: Hữu ích và đơn giản khi kết hợp TV với báo điện tử.
Đây là một dịch vụ liên thông với báo điện tử và người dùng sẽ đọc báo trên TV tùy
thích mà không cần phải sử dụng máy vi tính rồi truy cập web báo điện tử để xem.
Sự vượt trội về công nghệ tương tác thế hệ mới này còn ở khả năng giao tiếp
giữa những người sử dụng hệ thống với nhau qua các dịch vụ iMessenger và Voting:
gửi và nhận tin nhắn, cùng tham gia các chương trình bình chọn qua TV bằng cách
bấm trực tiếp trên điều khiển từ xa.
iKaraoke, dịch vụ Karaoke gia đình tích hợp vào bộ giải mã cũng sẽ được phát
triển rộng rãi nhằm thỏa mãn thị hiếu của những khách hàng yêu ca hát trong tương
lai gần.
Với các tính năng nổi trội, trên thế giới IPTV đang chiếm thị phần ngày càng
lớn, nhất là ở các nước có hạ tầng ADSL phát triển. Theo các chuyên gia, trong 5 năm
tới IPTV sẽ đẩy lùi các loại dịch vụ truyền hình truyền thống, truyền hình cáp và dẫn
đầu trong lĩnh vực truyền thông truyền hình.
Ở Việt Nam, các ngả đường giữa 3 hình thức này cũng đã thông xe, như vậy
bài toán đặt ra cho người làm truyền hình chỉ còn là sử dụng loại xe gì, đi như thế nào
để khai thác tối đa hạ tầng mà thôi. Câu trả lời có lẽ nằm ở khả năng tương tác trong
nội dung. (Chongchongtv.com)
b. Truyền hình tương tác (Interactive Television – ITV)
Truyền hình tương tác là khả năng cung cấp
các chương trình có thể tác động trực tiếp đến
khán giả. Tức là người xem có thể can thiệp vào
nội dung của chương trình truyền hình.
Từ ngữ “truyền hình tương tác”, về thực
chất, được dùng để nói về thể loại “đàm luận
chuyên đề” (talk show). Trong đó những người

73
tham gia có thể là các vị khách mời hoặc là đơn thuần chỉ là những khán giả bình
thường của truyền hình.
Tất các các đài truyền hình ngày nay đều có tối thiểu vài ba chương trình tương
tác khác nhau, đó có thể là một chương trình bình luận về một sự kiện thời sự, một
gameshow trong đó có người chơi là khán giả… Ý kiến của khán giả sẽ đóng góp vào
thành công của chương trình. Điều đó là cần thiết đề tạo ra một xu hướng báo chí
khách quan.
Tại Việt Nam, nội dung các chương trình truyền hình như Khởi nghiệp, Làm
giàu không khó, Sức sống mới (VTV), Nói và làm, Chào buổi sáng, Tôi và chúng ta
(HTV), Talk 9 (VTC1), Talk Vietnam (VTV4)... gần đây không còn nằm trong phạm
vi “đóng” của một kịch bản khô cứng dựng sẵn mà đã “mở” ra cho khán giả cùng
tham gia chia sẻ, đóng góp ý kiến, thậm chí đưa ra những câu hỏi, vướng mắc mà
người xem bất bình, không đồng ý.
Ở chương trình bình luận thể thao trên VTV3, những tin nhắn góp ý, bình luận
nội dung các MC đang nói hay dự đoán của khán giả được hiển thị phía dưới màn
hình tivi ngay khi chương trình đang phát sóng trực tiếp. Chương trình Nói và làm
hằng tháng trên Đài Truyền hình TP.HCM thu hút nhiều người xem bởi chương trình
này như một phiên chất vấn thu nhỏ của đại biểu HĐND TP với lãnh đạo các quan
chức, ban ngành về các chuyện vừa sát với đời sống, vừa mang tính thời sự như đất
đai, giáo dục, nhà ở...
Giám đốc Đài Truyền hình TP.HCM Huỳnh Văn Nam cho rằng giờ đây việc
khán giả xem đài thụ động tiếp nhận một chiều không còn hợp thời. Người xem
truyền hình ngày càng đông, số lượng kênh truyền hình ngày càng nhiều thì xu hướng
“mở” - có tương tác, có giao lưu giữa chương trình với khán giả - là điều tất yếu.
“Như HTV4, kênh khoa giáo của chúng tôi khoảng vài tháng nữa thôi sẽ không còn
cách dạy một chiều như hiện nay, mà người xem có thể ngồi ở nhà gọi điện thoại đặt
câu hỏi, giao lưu với thầy giáo trực tiếp qua màn ảnh hoặc qua email” - ông Nam
nói.

74
Công nghệ Truyền hình tương tác bằng tin nhắn không còn là điều mới mẻ ở
VN nhưng có thể nói đây là chiêu hút khán giả nhất của các kênh truyền hình. Ngay
khi chương trình đang phát sóng hay khi vừa kết thúc sẽ có vài câu hỏi đặt ra như bạn
thích ca khúc nào nhất, ca sĩ nào trình bày ấn tượng... Hãy gửi tin nhắn đến số... Nếu
là tương tác trực tiếp, vài mươi giây sau tin và số điện thoại của bạn hiện trên màn
hình vô tuyến.
Ở Úc, một bộ phim truyền hình phát sóng kèm theo lời kêu gọi khán giả nhắn
tin bình phẩm, thêm thắt chi tiết nhân vật, muốn tập sau nhân vật đó như thế nào...
Cách này phim truyền hình Hàn Quốc cũng áp dụng để thăm dò khán giả. Các nhà đài
được lợi ba bên: vừa tìm hiểu phản ứng khán giả, vừa tăng lượng công chúng, vừa có
nguồn thu phí từ lượng tin gửi về.
Truyền hình tương tác tại VN chỉ mới xuất hiện đúng nghĩa ở một vài chương
trình như game show Vui cùng Hugo, Stinky và Stomper, Nhật ký Vàng Anh, chương
trình thể thao truyền hình trực tiếp Cuồng nhiệt với thể thao. Ngoài ra, tương tác gián
tiếp như V-Clip 45, Bài hát Việt, Ngôi sao THTH...
c. Truyền hình thực tế (reality show)
Truyền hình thực tế (reality show) là những show truyền hình mà người tham
gia là những người không chuyên,được quay cảnh đời sống thật và trong một mức độ
nào đó không có bàn tay của đạo diễn can thiệp.
Đây là loại hình rất phổ biến ở các quốc gia phát triển, đặc biệt là ở Mỹ. Để tạo
ra cảm xúc thật và mới lạ cho công chúng, các đài truyền hình tiến hành xây dựng các
chương trình trong đó người tham gia sẽ được thể hiện cảm xúc thật, hành động thật
như trong đời thường mà không chịu sự chi phối của đạo diễn. Có thể hiểu là người
tham gia sẽ quên đi sự hiện diện của máy quay và sống như cuộc sống thường ngày.
Những hình ảnh đó sẽ được máy ghi lại và truyền
tới cho công chúng.
Một ví dụ điển hình của chương trình truyền
hình thực tế đó là American Idol của FOX. Ra đời

75
ngày 11/6/2002 và từ đó đến nay nó trở thành một show ăn khách nhất trên truyền
hình.
Nguyên tắc của chương trình này đó là người chơi sẽ tham gia thi hát và trước
đó chưa từng tham gia cuộc thi nào. Phải là công dân Mỹ hoặc người làm việc tại Mỹ
ít nhất 3 mùa. Độ tuổi từ 16 – 24 và có thể nâng lên thành 28 khi bước vào mùa thứ 4.
Truyền hình thực tế vẫn còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Đầu năm 2005, VTV3
xuất hiện Khởi nghiệp và ngay lập tức thu hút người xem mỗi tuần. Đây có thể được
coi là show truyền hình thực tế tiên phong tại Việt Nam. Cũng trong năm này, Vượt
lên chính mình, Ngôi nhà mơ ước (HTV thực hiện) - một dạng truyền hình thực tế
khác - ra mắt.
Đến năm 2006, Phụ nữ thế kỷ 21 mới thật sự là chương trình truyền hình thực
tế đúng nghĩa đầu tiên tại VN. Ngay khi ra mắt bạn xem đài, chương trình đã tạo được
sự chú ý bởi tính tươi mới, chân thật và thẳng thắn. Tuy là một cuộc thi truyền hình
nhưng các thí sinh (TS) được thoải mái bộc lộ quan điểm và cá tính, những điểm
mạnh và cả điểm yếu của mình để từ đó phác họa nên những nét độc đáo của phụ nữ
thế kỷ ngày nay.
Sau Phụ nữ thế kỷ 21 có thể kể đến Ước mơ của tôi, Vui là chính, Thần tượng
âm nhạc - Vietnam Idol. Và tháng mười tới, HTV cũng sẽ phát sóng "Funny video
home" (bản quyền của Mỹ) với những tình huống hài xảy ra trong gia đình do khán
giả tự quay và gửi đến. Đây sẽ là chương trình "mồi" để các khán giả VN gửi những
video clip tương tự về gia đình mình cho đài biên tập và phát sóng.
Dẫu biết truyền hình thực tế từng tạo được nhiều thiện cảm và thành công ngoài
mong đợi ở nước ngoài, nhưng khi chọn một chương trình làm vừa lòng người Việt
thật không dễ. Như Vui là chính khi mới vào VN cũng bị phản đối kịch liệt vì một số
chương trình không phù hợp với thuần phong mỹ tục. Phụ nữ thế kỷ 21 năm ngoái bị
chê là cứng nhắc trong việc biến các TS thành những "nữ cường nhân" bất đắc dĩ.
Người Việt nhìn chung hiền hòa, chân tình nhưng không phải ai cũng đủ cởi
mở và tự tin để tham gia các show truyền hình thực tế. Các TS và cả khán giả VN

76
phần lớn vẫn chưa dạn ống kính, không quen bày tỏ bản thân, quan điểm trước bàn
dân thiên hạ.
Nhưng ngay cả khi những người trong cuộc dám thẳng thắn nói lên chính kiến
của mình thì công chúng cũng chưa hẳn đã chấp nhận. Dư luận rất hay khen - chê vu
vơ nhưng lại thờ ơ, ngần ngại trong việc tham gia "cuộc chơi" (nhắn tin bình chọn,
gửi ý kiến góp ý, tham gia diễn đàn trên trang web của chương trình… ) cũng chính là
rào cản cho việc phát triển truyền hình thực tế tại VN.
MC - cầu nối không thể thiếu của chương trình, đặc biệt là những chương trình
mới toanh, với khán giả - cũng là vấn đề gây đau đầu cho các nhà sản xuất. Hầu hết
những show THTT thành công ở nước ngoài đều mang đậm dấu ấn của MC.
Tại VN, thật không dễ để tìm kiếm ra một MC năng động, thông minh, dí dỏm,
nhạy cảm, giỏi ứng biến... (tiêu chuẩn để dẫn một show truyền hình thực tế). Vì vậy
hiện tại vẫn chưa có MC nào của các show THTT tại VN chiếm được nhiều cảm tình
của bạn xem đài, giúp người xem tiếp cận với thể loại mới mẻ này một cách "ngọt
ngào" nhất.
Sau vài chương trình đã ra mắt có thế thấy truyền hình thực tế không phải là
"món" dễ xơi đối với các nhà sản xuất hay công ty quảng cáo. Như Vui là chính, sau
khi tiếp thu ý kiến của khán giả, chương trình được biên tập cẩn thận hơn. Tháng chín
này, Vui là chính sẽ không còn là truyền hình thực tế nữa mà được dàn dựng với phần
biểu diễn của các nghệ sĩ. Còn những chương trình khác, kể cả mua bản quyền từ một
chương trình ăn khách nhất thế giới, dẫu được sự ủng hộ của người xem vẫn chưa thể
là "con gà đẻ trứng vàng".
Các nhà sản xuất chương trình "than" làm truyền hình thực tế tốn kém và vất vả
gấp 5 - 6 lần những show giải trí khác. Như show Phụ nữ thế kỷ 21 năm ngoái tiêu tốn
trên 500.000 USD (tiền bản quyền, thực hiện, quảng bá, giải thưởng...) nhưng không
thành công lắm về mặt thương mại: rating (lượng người xem) chưa cao như mong đợi
và số spot quảng cáo trong chương trình cùng lượt người nhắn tin bình chọn chỉ đạt
mức vừa phải.

77
Nhà tổ chức cho biết họ mất khoảng nửa năm để chuẩn bị và thực hiện chương
trình. Riêng phần dựng, hậu kỳ đã tốn đến hai tháng. Chương trình được quay tại
nhiều thành phố khác nhau như Quảng Ninh, Nha Trang, TP.HCM... Và có 3 - 4
nhóm quay cho một nội dung để bắt đủ mọi hình ảnh, góc độ, cảm xúc... của TS.
Còn với VN Idol, số spot quảng cáo giữa chương trình chỉ mới tăng từ vòng
Gala. Ba vòng trước đó (thử giọng, nhà hát, piano) kéo dài suốt hai tháng, cũng chỉ có
"người nhà” (các nhãn hàng thuộc Tập đoàn Unilever như Clear, Lipton, Close up... )
quảng cáo giữa chương trình.
Tuy chưa thống kê được con số đã chi nhưng VN Idol cũng tốn công, tốn của
và nhân lực đáng kể. Chương trình đã đi qua bốn thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng,
TP.HCM và Cần Thơ. Êkip thực hiện chính khoảng 100 người. Mỗi một tiết mục
cũng có 6-7 nhóm quay. Vòng nhà hát được coi là "vòng kinh hoàng" khi các TS và
êkip thực hiện phải làm việc từ 10g-2g, 3g sáng hôm sau trong ba ngày liên tục.
Tính đến thời điểm hiện tại, các chương trình truyền hình thực tế ở VN vẫn chỉ
ở mức quảng bá cho một nhãn hàng, một thương hiệu công ty chứ chưa đủ mạnh để
tạo nên một trào lưu hay cơn sốt giải trí như game show từng có được. Vì thế, THTT
vẫn chưa cho thấy sức ảnh hưởng và tài lộc thu được từ… thực tế. Tuy thế, đó vẫn là
"món" hấp dẫn và chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều vào thời gian tới.
“Theo tôi, thói quen chỉ xem hình cho vui mắt của công chúng là thói quen đã
qua... Ngày nay, công chúng chú ý xem truyền hình tương tác để mong giải quyết
được những vấn đề gì mà họ đang quan tâm. Các chuyên mục như “Đối thoại”,
“Chính sách - cuộc sống”, “Sự kiện - bình luận”, gần đây có “Người xây tổ ấm” trên
VTV (đi sâu vào “tế bào” gia đình với nhiều tình huống chạm trán thử thách trong
cuộc sống đời thường)... được người xem gọi điện thoại, gửi thư hoặc email rất
đông” - nhà báo Trường Phước (công tác tại ban chuyên đề của Đài truyền hình VN)
nhận xét.

78
CHƯƠNG III – XU HƯỚNG BÁO CHÍ VIỆT NAM
1. Ảnh hưởng của các xu hướng báo chí thế giới tới báo chí Việt Nam

Nền báo chí Việt Nam đang phát triển nhanh hòa nhịp với sự phát triển kinh tế.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, báo chí Việt Nam đã có nhiều thay đổi để đuổi kịp sự
thay đổi của thế giới. Bên cạnh các loại hình báo in, báo truyền hình, phát thanh đã
hình thành khá lâu… thì loại hình báo điện tử cũng đã được triển khai mạnh mẽ… và
đây đang hứa hẹn là một loại hình phát triển nhanh tại Việt Nam trong thời gian tới.
Nằm trong hệ thống báo chí thế giới, báo chí Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng ít
nhiều từ các xu hướng trong làng báo quốc tế.
Trên cơ sở tận dụng những thành tựu tiến bộ của nền báo chí thế giới, nền báo
chí Việt Nam đã tích cực đổi mới mình. Từ những trang báo nghèo nàn về mặt thiết
kế, đến nay những trang báo đã được ma – két đẹp hơn, không còn tình trạng cả trang
báo chỉ toàn chữ, các yếu tố đồ họa đã được chú trọng.
2. Một vài xu hướng nổi bật của báo chí Việt Nam
2.1 Xu hướng thương mại hóa báo chí biểu hiện rõ rệt

Cũng như tất cả các tờ báo trên thế giới, báo chí Việt Nam cũng đang phải vật
lộn với cuộc đấu tranh để duy trì nguồn thu nhập cho mình. Nguồn thu từ doanh thu
bán báo đã gần như không còn ý nghĩa. Các tờ báo đang phải cố gắng thu hút quảng
cáo để bù lại nhiều khoản chi phí: chi phí phát hành, nhuận bút, lương cho phóng
viên… Trong vài năm trở lại đây, ngành quảng cáo của Việt Nam đang phát triển
nhanh chóng, đó cũng là một cơ hội để báo chí tận dụng. Các tờ báo lớn ra hằng ngày
hiện nay đều có những trang quảng cáo riêng biệt, in thêm với các thông tin hằng
ngày…
Trong lĩnh vực truyền hình, những chương trình mang tính thương mại cũng
phát triển, dưới hình thức tài trợ cho các chương trình, quảng cáo đã len lỏi vào công
chúng. Đài truyền hình Việt Nam cũng thành lập một trung tâm quảng cáo riêng:
Tvad chuyên sản xuất các đoạn phim quảng cáo trên sóng truyền hình.

79
Trên các trang báo điện tử, một diện tích lớn của khuôn hình đã được nhường
chỗ cho các banner, các logo quảng cáo…
Quá trình thương mại hóa báo chí là một quá trình tất yếu để tồn tại, tuy nhiên
vấn đề đặt ra là phải thực hiện sao cho nội dung thông tin đem đến cho công chúng
phải chân thật và không được phép đăng tin chỉ vì tiền
2.2 Xu hướng hình thành tập đoàn báo chí

Tập đoàn báo chí là các tập đoàn đa thông tin, tham gia vào các lĩnh vực in ấn,
xuất bản, nghe nhìn (phát thanh, truyền hình, vô tuyến, hữu tuyến, viễn tin học...)
Thực chất của các tập đoàn báo chí cũng chính là các tập đoàn kinh tế, hay nói
cách khác là do quá trình vận động và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt, thì các tập đoàn nhỏ bao giờ cũng có xu hướng tích tụ lại trở thành các tập đoàn
lớn. Các tập đoàn lớn ấy lý do nó hình thành các tập đoàn lớn bởi vì chỉ có tập đoàn
lớn với quy mô hoạt động rộng, nguồn lực hoạt động mạnh mẽ nó mới có điều kiện
tồn tại, phát triển trong môi trường cạnh tranh hết sức khốc liệt ở các nến kinh tế của
các nước TBCN ở Phương Tây.
Trên thế giới cũng có một số tập đoàn báo chí nổi tiếng như tập đoàn Ga-net,
New York Time, Washington Post... (Mỹ), Sunday Time, Sun, News of the World...
(Anh)...
Với Việt Nam, tập đoàn báo chí là một mô hình mới, hiện nay, một số tờ báo
cũng bước đầu hoạt động với mô hình tập đoàn. Đó là điều tất yếu để tồn tại trong bối
cảnh cạnh tranh. Báo chí nước ta trong 5 năm trở lại đây phát triển năng động về số
lượng và chất lượng trên tất cả lĩnh vực báo chí – truyền thông. Mặc dù, theo nhận
định của thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn, “trong số 500 cơ quan
báo chí thì thực chất chỉ có khoảng 50 tờ báo là có thể tự chủ được về mặt tài chính,
còn lại là ngân sách cấp, và mỗi năm con số này lên đến hơn 40 tỷ đồng!”, nhưng tình
hình sẽ chuyển đổi theo hướng sắp xếp lại “những trường hợp chồng chéo về tôn chỉ
mục đích, đối tượng phục vụ và kiên quyết xử lý những tờ báo sai có nhiều sai phạm
và sai phạm liên tục, chất lượng kém, cơ quan chủ quản buông lỏng hoàn toàn cho cơ

80
quan báo chí muốn làm gì thì làm”, “giảm bớt số đầu mối cơ quan báo chí và tăng mô
hình một cơ quan báo chí trong đó có một vài ấn phẩm theo kiểu phát triển quy tụ”.
Đó là nỗ lực của cơ quan chức năng nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối giữa khả
năng quản lý và số lượng cơ quan báo chí.
Tiến sĩ Đào Duy Quát, tổng biên tập website Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó
Ban tư tưởng văn hoá trung ương đã đưa ra quan điểm “gắn kinh tế với báo chí để báo
chí phát triển” và “Phải hình thành những tập đoàn báo chí tự sống, tự phát triển
chứ không chờ bao cấp”.
Trong giới báo chí nhiều người bàn về vấn đề thành lập tập đoàn báo chí ở Việt
Nam, một số lãnh đạo các cơ quan báo chí cũng đã tuyên bố sẽ phát triển cơ quan báo
chí của mình thành “Tập đoàn Báo chí”. Một số tờ báo ở TP Hồ Chí Minh cũng đã
manh nha hoạt động theo mô hình tập đoàn như Saigon Times Group.
“Saigon Times Group” là một trong những tờ báo của TP. HCM manh nha
muốn trở thành Tập đoàn báo chí lớn mạnh trong cả nước. “Saigon Times Group” là
một cơ quan hoạt động trong lĩnh vực báo chí (có hai tờ tiếng Việt và hai tờ tiếng
Anh) với mục tiêu thông tin chủ trương, chính sách của nhà nước nhằm góp phần thúc
đẩy công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước, thông tin kinh tế đối ngoại, quảng
bá văn hóa, du lịch, góp phần phục vụ và xây dựng lực lượng doanh nhân Việt Nam.
“Saigon Times Group” thường xuyên tổ chức nhiều chương trình vận động xã hội
nhằm phục vụ cho định hướng hỗ trợ doanh nghiệp, xúc tiến đầu tư và làm công tác
xã hội. Saigon Times Group cũng hợp tác xuất bản sách kinh tế - kỹ thuật, và xuất bản
đĩa CD-ROM nhằm giúp độc giả có thể tìm lại tin tức, bài vở đã đăng trên các tờ báo
của “Saigon Times Group”.
Ngoài ra, tờ báo Sài Gòn giải phóng cũng là một tờ nhật báo lớn có tiếng trong
cả nước. Báo Sài Gòn Giải Phóng là nhật báo lớn của Việt Nam, trực thuộc Đảng bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, có số lượng phát hành mỗi ngày
lên tới trên 200.000 bản. Số lượng cán bộ phóng viên, công nhân viên trên 500 người.
Báo có một nhà in. Báo Sài Gòn Giải Phóng hiện có tất cả bảy ấn phẩm: Nhật báo Sài

81
Gòn Giải Phóng (phát hành hàng sáng) tiếng Việt, Nhật báo Sài Gòn Giải Phóng tiếng
Hoa (phát hành hàng sáng), Nhật báo Sài Gòn Giải Phóng 12 giờ (phát hành vào giờ
trưa), Nhật báo Sài Gòn Giải Phóng Thể Thao, Tuần san Sài Gòn Giải Phóng Thứ
Bảy, báo tiếng Anh Saigon Guide (phát hành thứ Hai và thứ Sáu), báo Đầu tư Tài
chính (phát hành thứ Hai và thứ Năm).
Theo PGS.TS Tạ Ngọc Tấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu báo chí và tuyên
truyền: “Việc xây dựng và phát triển các Tập đoàn báo chí ấy hầu như một con
đường tất yếu phải dẫn tới. Bởi vì đất nước chúng ta báo chí cũng áp dụng vào nền
kinh tế thị truờng, tất nhiên là có định hướng XHCN. Tuy nhiên là việc xây dựng các
Tập đoàn báo chí ở Việt Nam cũng cần xem xét ở tất cả mọi khía cạnh để vừa đảm
bảo chúng ta có tập đoàn báo chí truyền thông lớn mạnh, đảm bảo những tập đoàn
ấy có sức mạnh nhất định trong việc tác động vào đời sống nhất định trong lĩnh vực
truyền thông và cái quyền lực ấy góp phần vào việc thực hiện đường lối, chính sách
kinh tế - xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh của Đảng, nhà nước một cách thắng
lợi. Nhưng mặt khác các tập đoàn này cũng phải đảm bảo được nó phát triển để trở
thành những quyền lực về mặt kinh tế hay nó tạo nên quyền lực lớn về mặt kinh tế,
tức là nó vẫn là một tập đoàn kinh tế. Chính vì thế cần phải cân nhắc các khia cạnh
một cách bài bản, có nghiên cứu bước đi cẩn thận. Đặc biệt trong quá trình xây dựng
và phát triển các tập đoàn ấy thì nên tính toán thực hành một số bước thí nghiệm rồi
sau đó tiến hành ở mức độ rộng lớn hơn”.
Ngày 30/9/2005, Bộ Văn hoá – Thông tin họp báo về việc Chính phủ đã ban
hành Quyết định 219, phê duyệt chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, trong
đó có việc đồng ý thí điểm mô hình tập đoàn báo chí tại Việt Nam. Tuy một số tờ báo
ở TP.HCM đã manh nha hoạt động theo mô hình này, như Saigon Times Group, song
tính đến thời điểm đó, việc xây dựng đề án và định ra tiêu chí cụ thể cho mô hình tập
đoàn báo chí hầu như chưa có.
Liền ngay sau đó, thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin đã trả lời chi tiết trên tờ
VNExpress xoay xung quanh vấn đề thành lập các tập đoàn báo chí.

82
Về mặt thời điểm, ông Doãn khẳng định mô hình tập đoàn báo chí đang là xu
hướng phát triển ở nhiều nước trên thế giới, ngay cả ở châu Á, mặt khác, vào thời
điểm hiện nay, báo chí Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc và thực tế cũng đang
manh nha hình thành các tập đoàn báo chí.
Về mô hình, trước mắt, theo chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, sẽ
thử nghiệm xây dựng các tổ hợp xuất bản, tập đoàn báo chí có các hoạt động kinh
doanh, dịch vụ theo quy định pháp luật tạo nguồn thu cho hoạt động báo chí. Còn theo
phác thảo của ông Doãn, tập đoàn phải có hạt nhân là một cơ quan báo chí (báo in,
truyền hình, phát thanh, Internet), làm ra nhiều ấn phẩm báo chí, bên cạnh đó là
những hoạt động bổ trợ phục vụ phát triển báo chí, nhưng không phải là phép cộng cơ
học các toà báo. Phác thảo này được đưa ra sau khi Bộ Văn hoá – Thông tin đã có
tham khảo một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới như Thuỵ Điển, Nhật Bản,
Trung Quốc… Đưa ra phác thảo này, ông Doãn cho thấy “chưa có cơ quan báo chí
nào ở Việt Nam có đầy đủ thực lực và cơ cấu thích hợp để hình thành tập đoàn thực
sự”. Tuy nhiên, ngay cả hai điều cơ bản nhất là định nghĩa và tiêu chí thành lập tập
đoàn báo chí ở Việt Nam Bộ Văn hoá – Thông tin vẫn chưa thể đưa ra được. Ông
Doãn chỉ có thể đưa ra một nguyên tắc “không áp dụng rập khuôn” mô hình của bất kì
nước nào do các khác biệt về thể chế chính trị, điều kiện kinh tế xã hội, dân trí; và gợi
mở thêm một số vấn đề: ở Việt Nam, chủ tịch tập đoàn có quyền bổ nhiệm Tổng Biên
Tập hay không, các tổ chức trong tập đoàn sẽ hoạt động như thế nào, làm sao giải
được các “bài toán” về tính chuyên nghiệp trong quản lý của các toà soạn và trong tác
nghiệp của các nhà báo, về điều kiện cơ sở vật chất của các tờ báo, …
Về hoạt động tài chính, ông Doãn trưng ra mô hình của các tập đoàn báo chí
nước ngoài: tự chủ về mặt tài chính, tự trang trải kinh phí hoạt động, đóng góp rất lớn
cho ngân sách nhà nước (chỉ sau ngành viễn thông), và khẳng định chỉ các tờ báo
mạnh mới nên thành lập tập đoàn.
Về giải pháp thúc đẩy sự phát triển xu hướng hình thành tập đoàn báo chí,
điều đơn giản nhất và cũng hiện thực nhất mà Chính phủ nghĩ tới là thành lập một

83
trường báo chí quốc gia nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ hoạt
động báo chí. Tuy nhiên, điều cần trao đổi lại ở đây là: không nên chỉ đào tạo đội ngũ
viết báo (điều này các trường báo chí đã làm nhưng hiệu quả chưa cao), mà để phù
hợp với tình hình mới, quan trọng nhất là phải đào tạo đội ngũ người làm báo và đội
ngũ quản lý báo chí (quản lý phải theo kịp thực tiễn chứ không phải quản lý không
được thì cấm).
Với tất cả sự thận trọng, các câu hỏi xoay xung quanh “tập đoàn báo chí” lần
lượt được Bộ Văn hoá – Thông tin và những người có quan tâm đặt ra và chờ lời giải
đáp cụ thể từ phía các cơ quan báo chí lớn, đủ thế và lực trong nước .
Với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam hiện nay thì xu hướng thành
lập nên các tập đoàn báo chí sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong tương lai gần. Ở Việt
Nam hiện nay, tuy một số cơ quan báo chí nhận được sự khuyến khích từ phía nhà
nước, nhưng kinh nghiệm trên thế giới cho thấy tính hiệu quả của các tập đoàn báo
chí chỉ có thể đạt được nếu tờ báo có sự phát triển căn cơ về thế và lực, không nên chủ
quan, duy ý chí. Mặt khác, việc có thành lập được tập đoàn báo chí hay không còn
phụ thuộc vào khả năng đổi mới tư duy và tốc độ hoạch định chính sách của nhà
nước.
Năm 2010 không phải là một mốc quá gần cho sự ra đời của các tập đoàn báo
chí, nhưng là là một mốc quá gần cho sự lớn mạnh của các tập đoàn này. Tuy nhiên,
nhìn lại tốc độ phát triển của đời sống báo chí – truyền thông Việt Nam trong 5 năm
qua, có lẽ mục tiêu trở thành tập đoàn báo chí quy mô quốc gia không phải là quá khó
thực hiện.
2.3 Xã hội hóa báo chí ở Việt Nam

a. Sự phát triển của “nhà báo công dân”

Blog giờ đã quá quen thuộc với giới trẻ Việt Nam, phát triển và bắt đầu nở rộ
cách đây 2 năm, cho đến nay blog đã trở thành món ăn tinh thần của giới trẻ.
Với sự phát triển của blog mà báo chí cũng tìm thêm được một nguồn thông tin
mới cho mình. Rất nhiều nhà báo đã chịu khó tìm những đề tài từ các trang blog cá

84
nhân để có tin bài cho mình. Những người tham gia cộng đồng ảo đôi khi có những
bài viết sắc xảo mà không phải một phóng viên, một nhà báo nào cũng có thể thực
hiện được.
Cũng giống như các quốc gia khác, sự phát triển của công nghệ đã giúp cho
mọi người có thể hoàn thành một sản phẩm truyền thông một cách dễ dàng. Chỉ cần
một chiếc điện thoại có thể quay phim được, mỗi công dân đều trở thành nhà báo. Tại
Việt Nam đã có nhiều chương trình tiếp nhận các clip của khán giả để phát sóng. Ví
dụ như chương trình “blog giao thông” đã tận dụng hiệu quả những cảnh quay của
khán giả để làm mới thêm chương trình của mình. Hay như chương trình “Clip của
tôi” trên kênh VTV6 chuyên phát các clip do chính các bạn trẻ thực hiện.
Bên cạnh các trang blog, thì hệ thống chia sẻ video trực tuyến cũng đang phát
triển, nếu như trên thế giới có Youtube.com, metacafe.com… là những trang chia sẻ
clip hàng đầu thì tại Việt Nam, clip.vn đang chiếm ưu thế. Với ưu thế là không hạn
chế thể loại (trừ nội dung mà pháp luật cấm) nên mọi người có thể thỏa sức sáng tạo
và chia sẻ cho mọi người.
Mặc dù vẫn chưa được thừa nhận về vai trò của mình, nhưng các “nhà báo công
dân” cũng đã góp phần tạo nên một nguồn thông tin đa chiều về các sự kiện. Trong
tương lai xu hướng này sẽ vẫn còn tiếp tục phát triển,
b. Xã hội hóa truyền hình
Xã hội hóa (XHH) truyền hình (TH) manh nha tại Việt Nam từ gần chục năm
trước. Hai năm trở lại đây đã cho những kết quả đáng mừng và hiện đang trở thành
vấn đề thời sự nhất trong làng TH cả nước. Mặc dù vậy, cho đến nay XHH TH vẫn
chưa đạt được kết quả như mong đợi.
Khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, nước ta
thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Cũng từ đó, nhiều lĩnh vực không
còn bó hẹp trong sự hoạch định của Nhà nước mà được phát triển theo quy luật cung
– cầu. Càng ngày chúng ta càng thừa nhận tính đúng đắn của sự chuyển đổi ấy. Cùng

85
với quá trình này, khái niệm XHH không còn xa lạ. Nó đã được hiểu là “làm cho
mang tính xã hội” hay “huy động toàn xã hội tham gia”.
Cũng mang nghĩa này, XHH TH chính là "sự tham gia vào quá trình sản xuất
chương trình từ bên ngoài ngành TH". Điều đó có nghĩa là trong các khâu sản xuất,
hình thành tác phẩm của một chương trình TH, có sự tham gia của một hoặc nhiều
đơn vị, cơ quan không thuộc nhà Đài. Định nghĩa này đã được ông Trần Đăng Tuấn -
Phó Tổng giám đốc thường trực Đài TH Việt Nam khẳng định tại Liên hoan truyền
hình toàn quốc lần thứ 25 (Nha Trang – Khánh Hòa).
"Bản chất của xã hội hoá không phải là vì tiền, mà là việc lôi kéo nhiều đơn vị,
tổ chức tham gia vào quá trình sản xuất chương trình, nhằm giảm tải cho nhà Đài
cũng như tạo ra hiệu quả tốt nhất cho các chương trình truyền hình. Và nó sẽ thu hút
đựơc sự quan tâm và ủng hộ của công chúng". - Trần Đăng Tuấn (Phó TGĐ thường
trực VTV)
Mang nội hàm đó, khái niệm XHH TH đã hàm chứa trong nó cả mục tiêu xây
dựng một nền TH hiện đại nhờ phát huy tối đa các nguồn lực của xã hội. Đây cũng là
con đường để việc sản xuất các chương trình TH đi theo hướng chuyên môn hóa, chất
lượng và năng suất cao hơn.
Nhận định tính đúng đắn của hướng đi này, chủ trương xã hội hóa truyền hình
được Nhà nước ta hoàn toàn khuyến khích. Thậm chí, nhằm đẩy nhanh quá trình xã
hội hóa, Đài truyền hình Việt Nam đã được giao nhiệm vụ là đơn vị chủ chốt thực
hiện nhiệm vụ này.
Được quan tâm và tạo điều kiện đến thế, nhưng XHH TH đến nay vẫn chưa đạt
tiến độ như lẽ ra phải có được. Không phải bỗng dưng mà XHH TH trở thành chủ đề
được bàn đến tại hai liên hoan TH Toàn quốc liên tiếp (2006 và 2007). Những người
làm TH hẳn cũng đã ý thức được sự hấp dẫn của vấn đề khi quyết định tổ chức các
hội thảo mở rộng trong khuôn khổ của ngày hội TH lớn nhất cả nước. Điều này chứng
tỏ vấn đề XHH TH đang rất được quan tâm. Và thực tế thậm chí còn “nóng” hơn họ
tưởng.

86
Rất nhiều giám đốc các công ty truyền thông và cả những người đang có ý định
tham gia sản xuất chương trình TH đã bay từ Hà Nội vào TP. Hồ Chí Minh để tham
dự hội thảo. Không khí sôi động, sự quan tâm và số lượng các câu hỏi xung quanh
việc XHH TH đã khiến nhà báo Tạ Bích Loan (lúc đó là Phó trưởng ban Thể thao
Giải trí – Thông tin, Kinh tế - Đài THVN) phải ngạc nhiên: “Không ngờ không khí
sản xuất từ ngoài Đài lại sôi động đến thế!”.
Đón đầu xu hướng XHH, các công ty truyền thông ra đời ngày càng nhiều. Họ
mạnh dạn trong đầu tư, năng động trong cơ cấu và hoạt động, nên quan tâm đến XHH
TH là đương nhiên. Không chờ đợi một cách thụ động, nhiều đơn vị đến gõ cửa nhà
đài chào bán chương trình, đăng ký sản xuất, nhận mời tài trợ... Đáng tiếc là chính các
nhà Đài – những người giữ vai trò quản lý lại đang rơi vào thế bị động.
Không có nghĩa là không thể làm gì trước sự chủ động của các công ty sản xuất
tư nhân đang ngày càng chuyên nghiệp. Mà sự bị động của các nhà đài thể hiện ở chỗ,
trong vai trò người tổ chức thực hiện nhưng họ không đưa ra được những phương
thức hợp tác phù hợp để khuyến khích cả hai. Mỗi đài một kiểu, vẫn tiếp nhận sự
tham gia của các đơn vị bên ngoài, nhưng cách thức hợp tác của họ đang khiến các
đơn vị ngoài đài mệt mỏi.
Chủ trương của Nhà nước là tổ chức các đơn vị ngoài đài tham gia vào quá
trình sản xuất để chuyên môn hóa nền TH và giảm tải cho các đài trước sức ép tăng
thời lượng phát sóng, vì mục tiêu cuối cùng là phục vụ khán giả tốt hơn. Nhưng trên
thực tế, các nhà Đài chưa khai thác được sức mạnh của đội quân ngày càng đông đảo
và luôn trong tư thế sẵn sàng này. Ngược lại, sự chần chừ, bị động của họ đang làm
nảy sinh hàng loạt vấn đề trong công tác quản lý và quy hoạch TH, làm giảm hiệu qủa
của một chủ trương hoàn toàn tích cực.

87
CHƯƠNG IV – KẾT LUẬN
Báo chí là một kênh thông tin quan trọng, hằng ngày, hằng giờ cung cấp thông
tin cho công chúng. Là một người đóng vai trò đem đến cái mới cho công chúng, báo
chí luôn phải tự hoàn thiện mình để phát triển. Từ buổi đầu ra đời cho đến nay, báo
chí trải qua nhiều xu hướng khác nhau để phát triển. Một xu hướng cũ qua đi thì một
xu hướng khác, mới hơn, tiến bộ hơn lại hình thành. Trong giai đoạn toàn cầu hóa
thông tin ngày nay, vũ khí quan trọng nhất chính là thông tin, kiểm soát và tận dụng
hiệu quả của thông tin thì quốc gia đó sẽ tạo dựng được chỗ đứng cho mình trên
trường quốc tế.
Qúa trình thương mại hóa báo chí và hình thành các tập đoàn báo chí vẫn tiếp
tục phát triển. Báo chí ngày nay sống nhờ nguồn thu từ quảng cáo. Bên cạnh đó, các
cơ quan báo chí đá tự đổi mới và biến mình thành như một tập đoàn kinh tế, không
chỉ hoạt động trong lĩnh vực báo chí mà còn lấn sân sang các hình thức kinh doanh
khác. Xu hướng thương mại hóa báo chí còn đặt ra thách thức đối với người làm báo
đó là: làm thế nào để không bị đồng tiền chi phối tin tức… nhưng xem ra vấn đề này
rất nan giải.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các tờ báo đã biến cơ quan báo chí
của mình thành một tờ báo đa phương tiện. Một tờ báo in giờ không đơn thuẩn chỉ
khai thác mỗi mảng báo in nữa mà đã phát triển các website đi kèm. Trên đó không
chỉ đăng các bài báo đã in trên báo in mà còn cập nhật những tin mới, đăng tải clip
hay các chương trình phát thanh online. Thông tin dưới nhiều hình thức sẽ giúp cho
khán giả có nhiều lựa chọn cho mình.
Báo chí công dân phát triển vừa góp phần đa dạng thông tin vừa cạnh tranh với
báo chí chính thống. Cái nhìn khách quan của khán giả sẽ tạo ra được nhiều chi tiết
hay, không bị ép buộc và lệ thuộc vào sức ép nào. Tuy nhiên nó cũng đòi hỏi mỗi
người cần phải có con mắt tinh tường để không bị ảnh hưởng bởi những thông tin
thiếu chính xác, hoặc vì mưu đồ riêng.

88
Nền báo chí Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền báo chí thế giới. Mặc
dù còn nhiều yếu kém nhưng báo chí Việt Nam đã đạt được những bước đi đáng kể.
Với việc đang tìm ra những bước đi thích hợp để phát triển, trong tương lai báo chí
Việt Nam sẽ tạo lập được vị thế cho mình.

89
TÀI LIỆU THAM KHẢO

• Báo chí hiện đại nước ngoài: Những quy tắc và nghịch lý – X.A.Mikhailốp
• Nhà báo hiện đại – The Missouri Group – NXB Trẻ 2007
• Tạp chí Người làm báo
• Tạp chí Nghề báo
• Báo phát thanh – Học viện Báo chí tuyên truyền
• Bài giảng báo truyền hình – PGS.TS Dương Xuân Sơn
• Bài giảng thiết kế tạp chí – Th.s Vũ Trà My.
• Interactive television – Wikipedia.org
• Free daily Newspaper – Wikipedia.org
• Introduction of citizen media
• Media trends - sourcewatch.org
• The State of the news Media 2008 - Journalism.org
• http://www.vietnamjournalism.com/
• http://www.nghebao.com
• http://vietnamnet.vn/
• www.thecommunicationsgroup.com
• www.washingtonpost.com
• www.nytimes.com
• www.guardian.co.uk.
• Báo cáo nghiên cứu khoa học của sinh viên Lê Hương Trà 2006
• Ngoài ra còn tham khảo vài tờ báo mạng khác.

90
DANH SÁCH NHÓM 6 LỚP K50 BÁO CHÍ – ĐH KHXHNV

STT HỌ TÊN GHI CHÚ


1.
Lê Hương Trà

2.
Nguyễn Đình Minh Nhóm trưởng

3.
Nguyễn Hoài Thu

4.
Khổng Mai Lan

5.
Nguyễn Thị Huyền (28/7/1987)

6.
Nguyễn Thị Thu Hà

7.
Phạm Thị Lý

8.
Vũ Thị Huyền

9.
Nguyễn Phương Ngọc

10.
Đinh Văn Hiển

11.
Phạm Thị Thảo

12.
Chu Hồng Tuyết

13.
Trần Thu Hằng

14.
Nguyễn Thị Thùy Dương

15.
Phạm Thị Thu Hương

91
16.
Tạ Thị Thu Hương

92

You might also like