You are on page 1of 165

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


KHOA MÔI TRƢỜNG

ĐA DẠNG SINH HỌC

HÀ NỘI – 2008
LỜI NÓI ĐẦU

Sự sống trên trái đất phụ thuộc vào tính đa dạng sinh học để duy trì những
chức năng sinh thái để điều hoà nguồn nƣớc và chất lƣợng, khí hậu, sự màu mỡ của
đất đai, và những nguồn tài nguyên có thể canh tác. Chúng ta phụ thuộc vào các loài
tự nhiên để tìm ra những tố chất hoá học mới có thể dùng làm thuốc và kiểm soát
sâu bọ và cải thiện đƣợc mùa màng và chăn nuôi .Ở châu Á nhiệt đới, nhiều ngƣời
hầu nhƣ hoàn toàn phụ thuộc vào đa dạng sinh học, và vì vậy tài sản cho hiện tại và
tƣơng lai của khu vực phải đƣợc bảo vệ.
Đa dạng di truyền là tất cả các gene di truyền khác nhau của tất cả các cá thể
thực vật, động vật, nấm, và vi sinh vật. Đa dạng di truyền tồn tại trong một loài và
giữa các loài khác nhau . Đó là sự đa dạng về thành phần gene giữa các cá thể trong
cùng một loài và giữa các loài khác nhau; là sự đa dạng về gene có thể di truyền
đƣợc trong một quần thể hoặc giữa các quần thể. Bên cạnh đó nó còn biểu hiện sự
đa dạng của các biến dị có thể di truyền trong một loài, một quần xã hoặc giữa các
loài, các quần xã. Xét cho cùng, đa dạng di truyền chính là sự biến dị của sự tổ hợp
trình tự của bốn cặp bazơ cơ bản, thành phần của axit nucleic, tạo thành mã di
truyền.
Đa dạng loài là cơ sở của đa dạng sinh học. Hiện nay, đa dạng sinh học trên
thế giới đang suy giảm nghiêm trọng, sự biến mất của các loài chính là minh chứng
do nét nhất cho sự suy giảm đó. Theo một đánh giá về số loài đã tồn tại trên trái đất
thì có đến 99,9% số loài đa bị tuyệt chủng. Hay nói một cách khác, số các loài động
vật, thực vật, vi sinh vật hiện có chỉ chiếm 0,1% tổng số loài đã từng sống trên hành
tinh.
Khác với các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ, xảy ra chủ yếu do
các hiện tƣợng thiên nhiên, tuyệt chủng hiện nay chủ yếu do con ngƣời. Cứ 100 loài
bị tuyệt chủng thì có đến 99 loài là do con ngƣời. Ngoài ra, theo sau các cuộc tuyệt
chủng hàng loạt trong quá khứ là sự hình thành loài mới để bù đắp cho số loài bị
mất đi, còn sự tuyệt chủng hàng loạt giai đoạn hiện nay không kèm theo sự hình
thành loài mới (xem bảng 2).

1
Đa dạng sinh học

Theo hiểu biết hiện nay, trên thế giới có thể còn từ 5 - 100 triệu loài đang tồn
tại (con số chắc chắn là khoảng 12,5 triệu loài); trong đó, 1,7 triệu loài đã đƣợc mô
tả; số loài lớn nhất có lẽ là côn trùng (xem bảng 1). Thống kê số lƣợng các loài trên
trái đất theo nhiều nguồn khác nhau nên cũng khác nhau.
Cuộc sống của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào các hệ sinh thái (HST) để
tồn tại: từ nƣớc chúng ta uống đến lƣơng thực chúng ta ăn; từ biển cả cung cấp cho
chúng ta những sản phẩm phong phú đến đất để chúng ta xây dựng nhà cửa... Các
HST cho ta hàng hoá và dịch vụ mà cuộc sống chúng ta không thể thiếu. Các HST
lọc sạch không khí và nƣớc, duy trì đa dạng sinh học, phân huỷ và tái quay vòng các
chất dinh dƣỡng, cũng nhƣ đảm bảo vô số các chức năng quan trọng khác.
Tuy nhiên, các HST vẫn đang bị con ngƣời xâm phạm ngày càng nghiêm
trọng. Trên khắp thế giới, con ngƣời sử dụng quá mức và lạm dụng các HST quan
trọng, từ các rừng mƣa nhiệt đới cho tới các rạn san hô, đồng cỏ, thảo nguyên... gây
suy thoái và phá huỷ các HST. Điều đó đã làm ảnh hƣởng tới cuộc sống tự nhiên,
thể hiện ở con số các loài bị đe doạ hay bị tuyệt chủng, đồng thời gây hại đến các
lợi ích của con ngƣời qua việc làm cạn kiệt dòng tài nguyên mà chúng ta sống phụ
thuộc. Cuộc sống nghèo khổ đã buộc nhiều ngƣời phải huỷ hoại các HST mà họ
sống nhờ vào, ngay cả khi họ hiểu rằng, họ đang chặt cây hay bắt cá tới mức chúng
không thể phục hồi đƣợc. Lòng tham hay sự táo tợn, sự không hiểu biết hay vô ý
đều đẩy con ngƣời đến chỗ không đếm xỉa đến những giới hạn của tự nhiên để duy
trì các HST.
Khó khăn lớn nhất vẫn là con ngƣời ở mọi tầng lớp xã hội, từ những ngƣời
dân bình thƣờng đến các nhà hoạch định chính sách, không có khả năng tận dụng
nguồn tri thức hiện có hoặc thiếu các thông tin căn bản về điều kiện thực tế và xu
hƣớng phát triển trong tƣơng lai xa của các HST. Điều đó sẽ dẫn tới các HST có
nguy cơ bị phá huỷ gây ra những hậu quả nặng nề chƣa từng thấy đối với quá trình
phát triển kinh tế và cuộc sống của con ngƣời. Ngày nay, nhiều quốc gia đang trải
qua những tác động do suy thoái các HST gây ra dƣới rất nhiều hình thức: lũ lụt,
hạn hán, mất mùa, thiếu lƣơng thực thực phẩm, ô nhiễm môi trƣờng, biến đổi khí

2
Đa dạng sinh học

hậu,...Vấn đề là chúng ta lại biết quá ít về toàn bộ tình trạng các HST của Trái đất.
Chúng ta cần phải hiểu các HST của Trái đất tồn tại ra sao? Chúng ta có thể quản lý
nhƣ nào để các HST vẫn duy trì tình trạng tốt và có hiệu suất trƣớc những yêu cầu
ngày càng tăng của con ngƣời?
Việt Nam với tổng diện tích 330541 km2 trải dài từ vĩ độ 8o25‟ đến 23o24‟ vĩ
độ Bắc, giáp biển Đông. Sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng xích đạo đến giáp
vùng cận nhiệt đới cùng sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên
với khu hệ động thực vật vô cùng phong phú về thành phần loài. Theo các tài liệu
thống kê, Việt Nam là một trong số 25 nuớc có mức độ đa dạng sinh học lớn nhất
thế giới và xếp thứ 16 về mức độ sinh học (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới, xem
bảng 3).
Tuy nhiên, Việt Nam cũng chính là một trong những nƣớc mà đa dạng sinh
học chịu áp lực lớn nhất của các hoạt động phát triển của con ngƣời. Trải qua nhiều
năm chiến tranh, những năm nghèo đói và nhiều năm kinh tế phát triển mạnh mẽ
cộng với sự gia tăng dân số rất nhanh sau chiến tranh, môi trƣờng sinh thái nói
chung và đa dạng sinh học nói riêng ở Việt Nam bị tàn phá nặng nề. Điển hình là
diện tích rừng giảm mạnh, tỷ lệ che phủ giảm từ 45% trƣớc năm 1945 xuống còn
23% những năm 1980. Trong những năm gần đây, tỷ lệ che phủ rừng có đƣợc nâng
lên, công tác bảo vệ đa dạng sinh học có tiến bộ nhƣng những mất mát là khó có thể
bù đắp.

3
Đa dạng sinh học

PHẦN I: ĐA DẠNG DI TRUYỀN

CHƢƠNG 1: GENE VÀ ĐỘT BIẾN GENE


1. TỔNG QUAN VỀ GENE
1.1. Định nghĩa gene

Khái niệm về gene đã trải qua 4 giai đoạn phát triển chính:
Thời Mendel (1865), gene đƣợc hiểu nhƣ yếu tố bên trong, quyết định sự
hình thành và phát triển một tính trạng bên ngoài. Còn về cách vận động thì gene
vận động từ thế hệ này sang thế hệ kia theo quy luật vận động của nhiễm sắc thể
trong giảm phân, mặc dù khi đó ngƣời ta chƣa biết nhiễm sắc thể và giảm phân là
gì. Vì vậy, có thể nói mỗi gene Mendel là một nhiễm sắc thể.
Năm 1909, W. Johannsen đã đƣa ra khái niện về ”gene” nhƣ một đơn vị di
truyền tách biệt, đƣợc phát hiện trong thí nghiệm phân tích lai của G. Mendel. Theo
Johannsen thì: ”nhiều tính trạng của cơ thể đƣợc xác định bởi những mầm mống
đặc biệt, tách biệt và độc lập, nói ngắn gọn hơn là bởi những cái mà chúng ta gọi là
gene”. Quan niệm đó về gene tồn tại suốt cả giai đoạn phát triển của di truyền học
kinh điển.
Theo trƣờng phái Morgan (1926) cho rằng: không phải một gene mà nhiều
gene cùng nằm trên một nhiễm sắc thể và là các đơn vị không thể chia nhỏ hơn
đƣợc nữa. Các đơn vị đó là:
+ Đơn vị đột biến, nghĩa là gene bị biến đổi nhƣ một tổng thể hoàn chỉnh.
+ Đơn vị tái tổ hợp, nghĩa là trao đổi chéo không bao giờ diễn ra ở bên trong
gene, mà chỉ có thể diễn ra giữa các gene.
+ Đơn vị chức năng, nghĩa là tất cả các đột biến của một gene cùng làm biến
đổi một chức năng di truyền; điều này thể hiện ở chỗ, hai thể đột biến khác nhau
nếu đem lai với nhau thì không thể cho kiểu hình bình thƣờng mà cho kiểu đột biến.

4
Đa dạng sinh học

Theo giả thuyêt ”một gene – một enzim” của G.Beadle và E.Tatum (1940)
cho rằng mỗi gene quyết định sự tồn tại và hoạt tính của một enzim.
Với sự phát triển của khoa học ngày nay, gene đã đƣợc định nghĩa là đoạn
ADN có chiều dài đủ lớn (trung bình
khoảng 1000-2000 bazo) để có thể xác
định một chức năng. Chức năng sơ cấp
của gene đƣợc xác định bởi một sợi
polypeptid, không nhất thiết là cả một
enzim. Các gene nằm trên nhiễm sắc
thể ở trong nhân tế bào và xếp thành
hàng trên nhiễm sắc thể, gọi là locut.

Hình 1.1 . Một đoạn gene trong nhiễm sắc thể

1.2. Cấu trúc của Gene


1.2.1. Cấu trúc hóa học của gene
Sợi ADN đƣợc cấu thành từ các đơn phân, gọi là các nucleotit, có 4 loại
nucleotit: Adênin, Guanin, Cytosin, Thyamin. Trình tự sắp xếp của chúng trên gene
quyết định chức năng của gene.
Mỗi nucleotit (Nu) có khối lƣợng phân tử trung bình là 300 đvC, gồm 3 thành
phần: đƣờng Deoxiribo, axit photphoric và bazơ nitric. Nu có chứa các nguyên tố: C,
H, O, N, P.

Hình 1.2: Cấu trúc hóa học của gene

5
Đa dạng sinh học

Gene thể hiện hiệu quả của mình thông qua sản phẩm do chúng sinh ra. Sản
phẩm trực tiếp của gene là axit ribonucleic – ARN.
Thành phần hóa học của ARN gần giống ADN, chỉ khác ở chỗ trong ARN
thì Thyamin đƣợc thay thế bằng Uracil. Phân tử ARN của một số gene có thể tham
gia trực tiếp vào quá trình trao đổi chất của cơ thể. Tuy nhiên, phần lớn ARN đƣợc
dùng làm khuôn mẫu và vận chuyển axit amin trong quá trình tổng hợp protein.
Protein là các chuỗi bao gồm các đơn vị nhỏ là axit amin, và trình tự các
bazơ trong ARN quyết định trình tự các axit amin trong protein theo quy luật của
mã di truyền. Trình tự của các axit amin trong protein quyết định vai trò của protein
là tham gia vào thành phần cấu trúc của cơ thể hay trở thành ezim xúc tác cho một
phản ứng nào đó. Nhƣ vậy, những biến đổi trong ADN có thể dẫn tới những biến
đổi trong cấu trúc của cơ thể hoặc những biến đổi trong các phản ứng hóa học của
cơ thể.
1.2.2. Cấu trúc không gian của gene (Watson, Crick – 1953)
ADN là 1 chuỗi xoắn kép gồm 2 mạch PolyNu xoắn đều quanh 1 trục, từ trái
sang phải, nhƣ 1 cái thang dây xoắn. Trong đó, tay thang là sự liên kết giữa phần tử
đƣờng và axit photphoric xen kẽ nhau, còn bậc thang là 1 cặp bazơ nitric đứng đối
diện và liên kết với nhau bằng liên kết hydro theo nguyên tắc bổ sung, Adenin liên
kết với Thyamin bằng 2 cầu nối hydro, Guanin liên kết với Cytosin bằng 3 cầu nối
hydro.
Kích thƣớc ADN: Đƣờng kính vòng xoắn: 2 nm, chiều dài vòng xoắn (mỗi
vòng xoắn gồm 10 cặp Nu): 3,4 nm. Trong một số loài virus và thể ăn khuẩn, ADN
chỉ gồm 1 mạch PolyNu. Vi khuẩn của ti thể, lạp thể có ADN dạng vòng xoắn kép.
1.2.3. Liên kết của phân tử ADN và ý nghĩa
+ Các nucleotit trên một mạch đơn liên kết với nhau bằng liên kết cộng hóa
trị (liên kết photphodieste) rất bền vững bảo đảm thông tin di truyền trên trên mỗi
mạch đơn ổn định;
+ Giữa các nucleotit trên 2 mạch đơn liên kết với nhau bằng liên kết hydro
theo nguyên tắc bổ sung. Tuy là loại liên kết không bền nhƣng do số lƣợng trên

6
Đa dạng sinh học

ADN lớn cho nên vẫn đảm bảo cấu trúc không gian ADN ổn định và dể bị cắt đứt
khi tái bản

Hình 1.3: Cấu trúc không gian của gen

Hình 1.4. Liên kết của phân tử ADN

Hình 1.5. Cơ chế tự nhân đôi của ADN

7
Đa dạng sinh học

1.2.4. Cơ chế tự nhân đôi của ADN


Quá trình tự nhân đôi của ADN diễn ra chủ yếu trong nhân tế bào. Dƣới tác
dụng của enzym Polymeraza, chuỗi xoắn kép ADN duỗi ra, 2 mạch đơn tách nhau
dần. Mỗi nucleotit ở một mạch đơn sẽ kết hợp với một nucleotit tự do có trong nội
bào tạo thành mạch đơn mới. Nhƣ vậy sẽ tạo nên 2 phân tử ADN “con”, trong đó
mỗi phân tử ADN “con” có 1 mạch PolyNucleotit của ADN “mẹ”, mạch còn lại
mới đƣợc tổng hợp nên.
1.2.5. Cơ chế tổng hợp ARN
Dƣới tác dụng của enzym Polymeraza chuỗi xoắn kép ADN duỗi ra làm cho
2 mạch đơn tách nhau dần ra. Các nucleotit trên 1 mạch đơn (mạch mã gốc) sẽ kết
hợp với các ribonucleotit tự do lấy từ nội bào theo nguyên tắc bổ sung, Adenin liên
kết với Uracil bằng 2 cầu nối hydro, Guanin liên kết với Cytosin bằng 3 cầu nối
hydro.

1.3. Chức năng của Gene


Điều hoà thông tin di truyền: Các Nu liên kết với nhau theo nguyên tắc bổ
sung nên chiều rộng ADN ổn định, các vòng xoắn ADN dễ liên kết với protein dẫn
đến cấu trúc ADN ổn định, thông tin di truyền đƣợc điều hoà.
Bảo quản thông tin di truyền: Nhờ quá trình tự nhân đôi, thông tin di truyền
đƣợc truyền đạt nguyên vẹn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Truyền đạt thông tin di truyền: trình tự sắp xếp các Nu trong ADN (gene)
quy định trình tự sắp xếp axit amin trong protein, quy định tính trạng và đặc tính
của cơ thể.

8
Đa dạng sinh học

2. ĐỘT BIẾN GENE


2.1. Khái niệm đột biến và đột biến gene
Đột biến (hay biến dị di truyền) là những biến đổi bất thƣờng trong vật chất
di truyền (NST, ADN) dẫn đến sự biến đổi đột ngột của một hoặc một số tính trạng,
những biến đổi này có thể di truyền cho các đời sau.
Đột biến là một loại biến dị di truyền xảy ra do những biến đổi đột ngột về
cấu trúc và số lƣợng trong vật chất di truyền, đã đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong tiến hóa, thúc đẩy sự đa dạng sinh giới. Một trong những nhân tố quyết
định góp phần tạo nên thế giới sống đầy phong phú ngày nay, cho trái đất xanh,
trong đó có loài ngƣời. Và bất chấp mọi chủ đích của con ngƣời, muốn hay không
muốn, đột biến đã, vẫn đang và sẽ luôn xảy ra.
Đột biến gene là những biến đổi trong số lƣợng, thành phần, trật tự các cặp
nuclêôtit, xảy ra tại một điểm nào đó trên phân tử ADN. Những biến đổi đó dẫn đến
những biến đổi trong cấu trúc phân tử protein và biểu hiện thành một biến đổi đột
ngột về một tính trạng nào đó. Mỗi biến đổi ở một cặp nuclêôtít nào đó sẽ gây một
đột biến gene.

2.2.Các dạng đột biến gene thƣờng gặp


Có nhiều loại đột biến khác nhau, song ngƣời ta vẫn nói đến những dạng đột
biến thƣờng gặp nhƣ sau:
- Mất một cặp nuclêôtit
- Thêm một cặp nuclêôtít
- Thay thế một cặp nuclêôtít
- Đảo vị trí một cặp nuclêôtít.

9
Đa dạng sinh học

2.3.Nguyên nhân phát sinh đột biến gene


Đột biến gene diễn ra do những rối loạn trong quá trình tự sao chép của phân
tử ADN, hoặc làm đứt phân tử ADN, hoặc nối đoạn bị đứt vào ADN ở vị trí mới
dƣới ảnh hƣởng phức tạp của môi trƣờng trong và ngoài cơ thể.
Trong khoa học, nhằm các mục đích nghiên cứu và phát triển, các nhà khoa
học đã có khả năng gây ra các đột biến nhân tạo bằng tác nhân vật lý hoặc hoá học.
2.3.1. Gây đột biến nhân tạo bằng tác nhân vật lý
Cùng với sự phát triển của khoa học, ngày nay chúng ta có nhiều hiểu biết về
sinh học và có nhiều phƣơng tiện kỹ thuật để ứng dụng vào công nghệ sinh học.
Một trong những phƣơng pháp gây đột biến nhân tạo là sử dụng những tác nhân vật
lý đƣợc tạo ra bằng những phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại. Trong những tác nhân đó,
có các tia phóng xạ hay tử ngoại và các biện pháp kiểm soát nhiệt độ:
* Các tia phóng xạ: tia X, tia anpha, tia gamma, tia bêta, chùm nơtron,…gây
kích thích và ion hóa các nguyên tử khi chúng xuyên qua các mô sống.
* Tia tử ngoại: tia có bƣớc sóng từ 1000-4000Ao, đặc biệt là bƣớc sóng
2570Ao đƣợc ADN hấp thụ nhiều nhất.
* Sốc nhiệt: là sự tăng hoặc giảm nhiệt độ môi trƣờng một cách đột ngột gây
chấn thƣơng bộ máy di truyền.
Trong chọn giống thực vật ngƣời ta chiếu xạ với cƣờng độ và liều lƣợng
thích hợp vào hạt nảy mầm, đỉnh sinh trƣởng của thân và cành, hạt phấn, bầu nhụy.
Gần đây, ngƣời ta còn chiếu xạ vào mô thực vật nuôi cấy.
2.3.2. Gây đột biến nhân tạo bằng tác nhân hóa học
Một phƣơng pháp gây đột biến khác là sử dụng các tác nhân hóa học. Đây là
những hóa chất mà khi vào tế bào chúng tác động trực tiếp lên phân tử ADN gây ra
hiện tƣợng thay thế, mất hoặc thêm cặp nuclêôtit.
Ngày nay, ngƣời ta đã phát hiện đƣợc những hóa chất đƣợc gọi là “siêu tác
nhân đột biến” nhƣ: 5-brôm uraxin (5BU); EMS (êtylmêta sunfonat), đioxin,…

10
Đa dạng sinh học

Để gây đột biến ngƣời ta có thể ngâm hạt khô hay hạt nảy mầm ở thời điểm
nhất định trong dung dịch hóa chất có nồng độ thích hợp, tiêm dung dịch vào bầu
nhụy, quấn bông có tẩm hóa chất vào đỉnh sinh trƣởng của thân hoặc chồi. Đối với
vật nuôi, có thể cho hóa chất tác dụng lên tinh hoàn hoặc buồng trứng.

2.4. Hậu quả của đột biến gene


Biến đổi trong dãy nuclêôtit của gene cấu trúc sẽ dẫn tới sự biến đổi trong
cấu trúc của ARN thông tin và cuối cùng là sự biến đổi trong cấu trúc của prôtêin
tƣơng ứng.
Đột biến thay thế hay đảo vị trí một cặp nuclêôtit chỉ ảnh hƣởng tới một axit
amin trong chuỗi pôlipeptit. Đột biến mất hoặc thêm một cặp nuclêôtit sẽ làm thay
đổi các bộ ba mã hoá trên ADN từ điểm xảy ra đột biến cho đến cuối gene và do đó
làm thay đổi cấu tạo của chuỗi pôlipeptit từ điểm có nuclêôtit bị mất hoặc thêm.
Đột biến gene cấu trúc biểu hiện thành một biến đổi đột ngột gián đoạn về
một hoặc một số tính trạng nào đó, trên một hoặc một số ít cá thể nào đó.
Đột biến gene gây rối loạn trong quá trình sinh tổng hợp prôtêin, đặc biệt là
đột biến ở các gene quy định cấu trúc các enzim, cho nên đa số đột biến gene
thƣờng có hại cho cơ thể. Tuy nhiên, có những đột biến gene là trung tính (không có
hại, cũng không có lợi), một số ít trƣờng hợp là có lợi.

2.5. Sự biểu hiện của đột biến gene


Đột biến gene khi đã phát sinh sẽ đƣợc "tái bản" qua cơ chế tự nhân đôi của
ADN.
Nếu đột biến phát sinh trong giảm phân, nó sẽ xảy ra ở một tế bào sinh dục
nào đó (đột biến giao tử), qua thụ tinh đi vào hợp tử. Nếu đó là đột biến trội, nó sẽ
biểu hiện trên kiểu hình của cơ thể mang đột biến đó. Nếu đó là đột biến lặn, nó sẽ
đi vào hợp tử trong cặp gene dị hợp và bị gene trội tƣơng ứng át đi. Qua giao phối,

11
Đa dạng sinh học

đột biến lặn tiếp tục tồn tại trong quần thể ở trạng thái dị hợp và không biểu hiện.
Nếu gặp tổ hợp đồng hợp thì nó mới biểu hiện thành kiểu hình.
Khi đột biến xảy ra trong nguyên phân, nó sẽ phát sinh trong một tế bào sinh
dƣỡng (đột biến xôma) rồi đƣợc nhân lên trong một mô, có thể biểu hiện ở một
phần cơ thể, tạo nên thể khảm. Ví dụ trên một cây hoa giấy có những cành hoa trắng
xen với những cành hoa đỏ.
Đột biến xôma có thể đƣợc nhân lên bằng sinh sản sinh dƣỡng nhƣng không
thể di truyền qua sinh sản hữu tính.
Đột biến cấu trúc của gene đòi hỏi một số điều kiện mới biểu hiện trên kiểu
hình của cơ thể. Vì vậy cần phân biệt, đột biến là những biến đổi trong vật chất di
truyền, với thể đột biến là những cá thể mang đột biến đã biểu hiện ở kiểu hình.

2.6. Ý nghĩa của đột biến gene


2.6.1. Trong tiến hóa
Phần lớn các đột biến tự nhiên là có hại cho cơ thể vì chúng phá vỡ mối quan
hệ hài hòa trong kiểu gene, trong nội bộ cơ thể, giữa cơ thể và môi trƣờng.
Tuy đột biến thƣờng có hại nhƣng phần lớn gene đột biến là gene lặn. Chúng
chỉ biểu hiện ra kiểu hình khi ở thể đồng hợp và trong điều kiện môi trƣờng thích
hợp. Cũng có một số là đột biến trội, có ý nghĩa trong chọn giống và tiến hóa.
Đột biến tự nhiên đƣợc xem là nguồn nguyên liệu của quá trình tiến hóa bởi
so với đột biến NST thì chúng phổ biến hơn, ít ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức
sống và sự sinh sản của cơ thể.
2.6.2. Trong chọn giống
Trong chọn giống, đặc biệt là chọn giống cây trồng, ngƣời ta đã sử dụng các
đột biến tự nhiên nhƣng không nhiều vì những đột biến này chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ
từ 0,1- 0,2%.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, ngƣời ta đã gây đột biến nhân tạo bằng các
tác nhân vật lý và hóa học để tăng nguồn gene biến dị cho quá trình chọn lọc.

12
Đa dạng sinh học

Năm 2002, diện tích trồng cây chuyển gene trên thế giới đã đạt tới 58,7 triệu
ha. Trong số đó, cây đậu nành kháng thuốc diệt cỏ: 36,5 triệu ha; ngô kháng đƣợc
sâu gây hại:7,7 triệu ha (theo Clive James, 2002).
Đặc điểm nổi bật nhất của cây trồng biến đổi gene trong thời gian từ 1996-
2002 là tính kháng thuốc diệt cỏ, đứng thứ 2 là tính kháng sâu bệnh. Trong năm
2003, tổng diện tích trồng cây chuyển gene trên toàn cầu là 67,7 triệu ha.
Ngoài ra, ngƣời ta đã tạo thành công các virut tiêu diệt các tế bào ung thƣ
bằng chuyển gene. Các virut này tấn công và phá hủy các tế bào ung thƣ phổi và
ruột kết.

3. ỨNG DỤNG CỦA CÔNG NGHỆ GENE


Công nghệ gene là ngành kỹ thuật về quy trình ứng dụng kỹ thuật gene
Kỹ thuật gene là tập hợp những phƣơng pháp tác động định hƣớng lên ADN
cho phép chuyển gene từ một cá thể của một loài sang cá thể của loài khác.
Trong sản xuất, công nghệ gene đƣợc ứng dụng trong việc tạo ra các sản
phẩm sinh học, các chủng vi sinh vật mới, tạo ra các giống cây trồng và động vật
biến đổi gene.

3.1.Cách tiến hành kỹ thuật gene


Kỹ thuật gene đƣợc tiến hành thông qua các khâu sau:
+ Khâu 1: tách ADN của tế bào cho và tách phân tử ADN dùng làm thể
truyền từ vi khuẩn hoặc virus.
+ Khâu 2: tạo ADN tái tổ hợp (còn đƣợc gọi là ADN lai). ADN của tế bào
cho và phân tử ADN làm thể truyền đƣợc cắt ở vị trí xác định nhờ các enzim cắt
chuyên biệt, ngay lập tức, ghép đoạn ADN của tế bào cho vào ADN làm thể truyền
nhờ enzim nối.
+ Khâu 3: chuyển ADN tái tổ hợp vào tế bào nhận, tạo điều kiện cho gene đã
ghép đƣợc biểu hiện.

13
Đa dạng sinh học

3.2. Tạo ra các chủng vi sinh vật mới


Tạo ra các chủng vi sinh vật mới có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm
sinh học (axit amin, prôtêin, vitamin, enzim, hoocmôn, kháng sinh…) với số lƣợng
lớn và giá thành rẻ.
Ngày nay, ngƣời ta đã cấy gene tổng hợp kháng sinh của xạ khuẩn vào
những chủng vi khuẩn dễ nuôi và sinh sản nhanh nhƣ E.coli góp phần nâng cao hiệu
qủa sản xuất các chất kháng sinh.
Một thành tựu nổi bật trong thập niên 80 của thế kỷ XX là dùng chủng E.coli
đƣợc cấy gene mã hoá hoocmôn insulin ở ngƣời trong sản xuất, vì vậy giá thành
insulin để chữa bệnh đái tháo đƣờng đã rẻ hơn rất nhiều so với trƣớc đây.
3.2.1. Tạo ra các giống cây trồng biến đổi gene
Nhiều gene quy định nhiều đặc điểm quý nhƣ năng suất và hàm lƣợng dinh
dƣỡng cao, kháng sâu bệnh, thời gian sinh trƣởng ngắn,…đã đƣợc đƣa vào cây
trồng.
Ngƣời ta đã chuyển đƣợc gene quy định tổng hợp β-carôten (tiền vitamin)
vào tế bào cây lúa và tạo ra giống luá giàu vitamin A, góp phần cải thiện tình trạng
thiếu vitamin của hơn 100 triệu trẻ em trên thế giới; chuyển gene kháng virut gây
thối củ vào khoai tây…
Ở Việt Nam, trong điều kiện phòng thí nghiệm, đã chuyển đƣợc gene kháng
rầy nâu, kháng sâu, kháng bệnh bạc lá, gene tổng hợp vitamin A, gene kháng virut,
... vào một số cây trồng nhƣ lúa, ngô, khoai tây, cà chua, cải bắp, thuốc lá, đu đủ.
Ví dụ: Củ cải đƣờng tam bội có năng suất cao hơn dạng lƣợng bội 10-20%.
Dƣa chuột, dƣa hấu tam bội không hạt cho năng suất cao, quả to. Rau muống tứ bội
cho sản lƣợng gấp đôi dạng lƣợng bội. Gây đa bội còn làm tăng hàm lƣợng các chất
hữu cơ có giá trị ở vừng, vitamin A ở ngô...
Những thể đột biến có lợi đƣợc chọn lọc và trực tiếp nhân giống thành giống
mới hoặc dùng làm các dạng bố mẹ để lai tạo giống mới.

14
Đa dạng sinh học

Ví dụ: Dùng tia Gama xử lý giống lúa Mộc Tuyền đã tạo ra giống lúa MT1
chín sớm, cây thấp và cứng, chịu phèn, chịu chua, năng suất tăng 15-25 % so với
giống lúa gốc Mộc Tuyền.
3.2.2. Tạo động vật biến đổi gene
Trên thế giới, ngƣời ta đã chuyển thành công gene sinh trƣởng ở bò vào lợn,
giúp cho hiệu quả tiêu thụ thức ăn cao hơn, hàm lƣợng mỡ ít hơn lợn bình thƣờng.
Các nhà khoa học cũng đã chuyển đƣợc gene xác định mùi sữa ở ngƣời vào tế bào
phôi bò cái làm cho sữa bò có mùi sữa ngƣời và dễ tiêu hóa dùng để nuôi trẻ trong
vòng 6 tháng tuổi. một ví dụ thành công nữa là đã chuyển đƣợc gene tổng hợp
hoomôn sinh trƣởng và gene chịu lạnh từ cá Bắc Cực vào cá hồi và cá chép.
Đến nay, động vật biến đổi gene chủ yếu dùng trong nghiên cứu sự biểu hiện
của một số gene và sản xuất thử nghiệm một số prôtêin có giá trị cao.
3.2.3. Mặt trái của việc ứng dụng công nghệ gene để sản xuất các sinh vật
biến đổi gene GMO (Geneetically modified organism")
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự gia tăng dân số, đồng nghĩa với nhu
cầu của con ngƣời về lƣơng thực, thực phẩm, cả về lƣợng và chất, cũng ngày càng
lớn. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao đó, việc áp dụng khoa học kỹ thuật, điển
hình công nghệ gene vào trong sản xuất nông nghiệp đã trở nên phổ biến. Tuy
nhiên, các sản phẩm biến đổi gene này cũng có rất nhiều mặt hạn chế:
+ Sự biến mất của các loài địa phƣơng.
+ Nhiều thực phẩm biến đổi gene có thể gây di ứng đối với ngƣời sử dụng.
+ Trong quá trình thực hiện kỹ thuật di truyền, gene mới chuyển vào làm hƣ
hỏng hay đột biến một hoặc vài gene khác của thực vật, gây độc tố.
Chính vì những hạn chế này, các sản phẩm biến đổi gene chƣa thực sự đƣợc
chấp nhận trên thị trƣờng. Ủy ban Châu Âu (EU) đã yêu cầu các nhà sản xuất phải
ghi rõ nguồn gốc sản phẩm biến đổi gene trên bao bì sản phẩm của mình. Quy định
này mặc dù bị nhiều nhà sản xuất phàn nàn do gây ra nhiều phiền toái và sự phân
biệt đối xử đối với các sản phẩm của họ, nhƣng ngƣời tiêu dùng Châu Âu nhìn

15
Đa dạng sinh học

chung ủng hộ quy định này do khoa học chƣa hiểu hết những tác động của sản
phẩm biến đổi gene.
Mặc dù vậy, không thể phủ nhận công lao của các sản phẩm biến đổi gene
trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo ở các nƣớc thế giới thứ ba, nơi dân số đông và
trình độ sản xuất còn thấp.

3.3. Một số thành tựu chọn giống ở Việt Nam


3.3.1. Gây đột biến nhân tạo rồi chọn cá thể đột biến ưu tú để tạo giống mới
Đây là kỹ thuật phổ biến trong công nghệ gene hiện nay do các ƣu điểm về
giá thành và độ an toàn sinh học của nó.
+ Ở lúa: đã tạo ra các giống lúa có tiềm năng năng suất cao nhƣ giống lúa
DT10, nếp thơm TK106,…., các giống lúa tẻ cho gạo có mùi thơm nhƣ tám thơm
đột biến (năm 2002), gạo cho cơm dẻo và ngon nhƣ KML39, DT33, VLD95-19….
Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế đã chuyển thành công các gene quy định
tổng hợp vitamin A, gene BT quy định khả năng kháng sâu đục thân, gene quy định
hàm lƣợng nguyên tố vi lƣợng sắt, gene quy định hạt gạo có màu hồng vào 2 giống
lúa tẻ đặc sản Nam Bộ là Nàng hƣơng chợ Đào và Một bụi.
+ Ở đậu tương: giống đậu tƣơng DT55 (năm 2002) đƣợc tạo ra bằng xử lí
đột biến giống đậu tƣơng DT74 có thời gian sinh trƣởng rất ngắn (trong vụ xuân: 96
ngày, vụ hè: 87 ngày), chống đổ và chịu rét tốt, hạt to, màu vàng.
+ Ở lạc: giống lạc V79 đƣợc tạo ra bằng chiếu xạ tia X vào hạt giống lạc
bạch sa sinh trƣởng khoẻ, hạt to trung bình và đều, vỏ dễ bóc,…
+ Ở cà chua: giống cà chua hồng lan đƣợc tạo ra từ thể đột biến tự nhiên của
giống cà chua Ba Lan trắng.
3.3.2. Phối hợp giữa lai hữu tính và xử lý đột biến
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng phổ biến trong lai tạo giống lúa mới và đã
đạt đƣợc một số thành công bƣớc đầu. Một số giống mới đƣợc lai tạo gồm:

16
Đa dạng sinh học

Giống lúa A20 (năm 2002) đƣợc tạo ra bằng lai giữa 2 dòng đột biến
:H20xH30.
Giống lúa DT16 (năm 2002) đƣợc tạo ra bằng lai giữa giống DT10 với giống
lúa đột biến A20.
Giống lúa DT21 (năm 2002) đƣợc tạo ra bằng lai giữa giống lúa nếp 415 với
giống lúa đột biến ĐV2 (từ giống lúa Nếp cái hoa vàng).
3.3.3. Thành tựu trong chọn giống vật nuôi
Trong chọn giống vật nuôi, do qúa trình tạo giống mới đòi hỏi thời gian rất
dài và kinh phí rất lớn nên ngƣời ta thƣờng cải tiến giống địa phƣơng, nuôi thích
nghi hoặc tạo giống ƣu thế lai.
Tuy nhiên, với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và với nhu cầu của một
nền nông nghiệp đang phát triển theo hƣớng sản xuất lớn, nhu cầu giống vật nuôi
mới, đáp ứng đƣợc các đòi hỏi về năng suất, chất lƣợng cao cho sản xuất hàng hóa
ngày càng lớn. Nhu cầu này hiện đang đƣợc đáp ứng với sự ứng dụng của công
nghệ gene, một công nghệ đòi hỏi hàm lƣợng khoa học kỹ thuật và đầu tƣ cao.
Tại Việt Nam hiện nay, công nghệ gene đang đƣợc sử dụng trong việc tạo
giống bò sữa, đáp ứng nhu cầu của ngành chăn nuôi bò sữa đang phát triển.
Ngoài ra ngƣời ta còn dùng công nghệ gene để phát hiện sớm giới tính của
phôi (7 ngày sau khi thụ tinh), giúp cho ngƣời chăn nuôi bò sữa chỉ cấy các phôi
cái, cò ngƣời chăn nuôi bò thịt thì chỉ cấy toàn phôi đực.
Bên cạnh đó, ngƣời ta còn xác định đƣợc kiểu gene BB cho sản lƣợng sữa
cao nhất, tiếp đó là kiểu gene AB, thấp nhất là kiểu gene AA. Nhờ đó, đã chọn
nhanh và chính xác những con bò làm giống.

17
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG II: ĐA DẠNG GENE


1. ĐA DẠNG GENE
Đa dạng gene (hay đa dạng di truyền) là đòi hỏi của bất kỳ loài nào để đảm
bảo sự sinh sản, chịu đựng bệnh tật và khả năng thích nghi với các điều kiện môi
trƣờng luôn luôn thay đổi. Đa dạng di truyền trong một loài thƣờng đƣợc thể hiện
qua bản chất của sự sinh sản trong quần thể. Các cá thể trong quần thể thƣờng khác
nhau về di truyền với các quần thể khác. Điều này thể hiện qua những biến đổi di
truyền trong hay giữa các quần thể. Đó là các thành phần của axit nucleic, cấu tạo
của mã di truyền. Những biến đổi mới xuất hiện trong các cá thể do sự đột biến
gene hay thể nhiễm sắc và trong các cơ thể do sự sinh sản hữu tính có thể lan rộng
ra quần thể bởi sự tái tổ hợp. Một loại đa dạng di truyền khác đƣợc xác định ở tất cả
mức độ của cơ thể bao gồm số ADN trong tế bào trong cấu trúc và số thể nhiễm sắc.
Nguồn biến đổi di truyền này có mặt trong quần thể lai chéo đã tác động lên
quần thể đó bằng sự chọn lọc cách sống khác nhau nhờ sự biến đổi tần số gene
trong vốn gene đó và điều đó là tƣơng đƣơng với sự tiến hóa quần thể. Đặc điểm
biến đổi gene là rõ nét: có thể tạo ra sự biến đổi tiến hóa tự nhiên và chọn lọc nhân
tạo do quá trình nuôi trồng. Chỉ có một phần nhỏ (ít hơn 1%) nguyên liệu gene của
cơ thể bậc cao là vƣợt ra ngoài hình dạng và chức năng của cơ thể.
Tóm lại sự biến đổi di truyền xuất hiện do các cá thể có sự sai khác nhỏ về
các gene của nó. Những đơn vị của thể nhiễm sắc đƣợc mã hóa đối với những
protein đặc biệt. Sự sai khác nhỏ đó của gene đƣợc coi nhƣ những allen và các sự
khác nhau tăng lên do đột biến tức là sự thay đổi ADN. Những biến đổi của các
allen của một gene có thể tạo ra những dạng protein mà chúng khác về cấu trúc và
chức năng và đến lƣợt mình sự khác nhau đó sẽ đƣợc thể hiện qua tính chất phát
triển và sinh lý học của từng cá thể. Những biến đổi di truyền tăng lên khi con cháu
nhận sự tái tổ hợp gene và thể nhiễm sắc từ bố mẹ của chúng qua sự tái tổ hợp gene
qua sinh sản hữu tính. Các gene có sự trao đổi giữa các thể nhiễm sắc và đƣợc sắp
xếp lại trong khi lai chúng đƣợc thực hiện trong phân chia tế bào có tơ meiotic và sự

18
Đa dạng sinh học

tái tổ hợp mới đƣợc tạo ra khi các giao tử từ bố mẹ hợp nhất để tạo ra con cháu có
nét độc đáo trong di truyền.
Đột biến cung cấp những nguyên liệu cơ bản cho biến đổi về di truyền, khả
năng loài sinh sản hữu tính sắp xếp lại một cách lộn xộn các allen trong sự tổ hợp
làm tăng khả năng bất ngờ đối với sự biến đổi di truyền.
Toàn bộ sự sắp xếp của gene và allen trong quần thể tạo thành vốn gene cho
quần thể, trong khi đó tổ hợp allen của bất kỳ cá thể nào trong quần thể sẽ tạo ra các
kiểu nhân của nó. Trong các môi trƣờng đặc biệt các kiểu nhân cho ra các kiểu hình
riêng thể hiện qua các đặc tính hình thái, sinh lý, giải phẫu, sinh hóa,… Một số đặc
tính của con ngƣời nhƣ gầy béo, sâu răng… là do môi trƣờng, còn màu mắt, nhóm
máu,… là do kiểu gene. Sự biến đổi gene trong quần xã đƣợc đo bằng:
- Số lƣợng gene trong quần thể mà quần thể đó là đa hình
- Số lƣợng allen trong gene đa hình.
- Số lƣợng gene trong một số cá thể mà cá thể đó là đa hình.

1.1. Định nghĩa


Đa dạng di truyền là tất cả các gene di truyền khác nhau của tất cả các cá thể
thực vật, động vật, nấm, và vi sinh vật. Đa dạng di truyền tồn tại trong một loài và
giữa các loài khác nhau .
Đa dạng di truyền là sự đa dạng về thành phần gene giữa các cá thể trong
cùng một loài và giữa các loài khác nhau; là sự đa dạng về gene có thể di truyền
đƣợc trong một quần thể hoặc giữa các quần thể.
Đa dạng di truyền là biểu hiện sự đa dạng của các biến dị có thể di truyền
trong một loài, một quần xã hoặc giữa các loài, các quần xã. Xét cho cùng, đa dạng
di truyền chính là sự biến dị của sự tổ hợp trình tự của bốn cặp bazơ cơ bản, thành
phần của axit nucleic, tạo thành mã di truyền.
Tập hợp các biến dị gene trong một quần thể giao phối cùng loài có đƣợc
nhờ chọn lọc. Mức độ sống sót của các biến dị khác nhau dẫn đến tần suất khác

19
Đa dạng sinh học

nhau của các gene trong tập hợp gene. Điều này cũng tƣơng tự trong tiến hoá của
quần thể. Nhƣ vậy, tầm quan trọng của biến dị gene là rất rõ ràng: nó tạo ra sự thay
đổi tiến hoá tự nhiên cũng nhƣ chọn lọc nhân tạo .
Chỉ một phần nhỏ (thƣờng nhỏ hơn 1%) vật chất di truyền của các sinh vật
bậc cao là đƣợc biểu hiện ra ngoài thành các tính trạng kiểu hình hoặc chức năng
của sinh vật; vai trò của những ADN còn lại và tầm quan trọng của các biến dị gene
của nó vẫn chƣa đƣợc làm rõ.
Ƣớc tính cứ 109 gene khác nhau phân bố trên sinh giới thì có 1 gene không
có đóng góp đối với toàn bộ đa dạng di truyền. Đặc biệt, những gene kiểm soát quá
trình sinh hóa cơ bản, đƣợc duy trì bền vững ở các đơn vị phân loại khác nhau và
thƣờng ít có biến dị, mặc dù những biến dị này nếu có sẽ ảnh hƣởng nhiều đến tính
đa dạng của sinh vật. Đối với các gene duy trì sự tồn tại của các gene khác cũng
tƣơng tự nhƣ vậy. Hơn nữa, một số lớn các biến dị phân tử trong hệ thống miễn dịch
của động vật có vú đƣợc quy định bởi một số lƣợng nhỏ các gene di truyền.

1.2. Tính đa dạng ở mức độ của các nhóm sinh vật


1.2.1. Sự đa dạng gene ở động vật
Đối với các dữ liệu allozyme tức là trị số trung bình của dị hợp tử (Hs tỉ lệ
các locus mang 2 alen) ở loài động vật không xƣơng sống lớn hơn động vật có
xƣơng sống. Lí do chính là nhiều nhóm cá thể phức tạp sống có xu hƣớng chia nhỏ
quần thể hơn và những quần thể lớn hơn là một tổ hợp. Những quần thể lớn sự biến
đổi di truyền lớn hơn quần thể nhỏ.
Nhìn chung, nhƣ chim, bò sát có mức độ biến đổi di truyền là tƣơng tự, trái
lại các loài lƣỡng cƣ có mức độ cao hơn và các loài cá mức độ thấp hơn (Ward et al,
1992). Trong mỗi một nhóm cho dù mức độ đa dạng gene có khác nhau do các mô
hình lịch sử và đời sống đã tạo ra các dòng gene và độ lớn của quần thể khác nhau.
Tổng số dị hợp tử trong các loài bao gồm 2 thành phần: Sự khác nhau về
gene giữa các cá thể trong quần thể và sự khác nhau giữa các quần thể. Số đo thông
thƣờng đã sử dụng về sự khác nhau trong quần thể là Fst, tỉ số của dị hợp tử khác

20
Đa dạng sinh học

nhau giữa các quần thể. Giá trị trung bình của Fst là lớn nhất đối với một số động
vật thân mềm, lƣỡng cƣ, bò sát và động vật có vú; hầu hết các loài trong các nhóm
đó cho thấy con số đáng kể của những quần thể bị phân chia. Khoảng 25 – 30%
trung bình số loài thay đổi là do sự di truyền khác nhau trong quần thể. Cho dù trị
số Fst là khác nhau lớn, sự sắp xếp từ 0,0 (không có sự thay đổi trong quần thể) cho
gần đến 1,0. Mặt khác ở chim và côn trùng cho thấy sự thay đổi nhỏ trong quần thể,
có thể dự đoán mức độ cao ở dòng gene giữa chúng. Giá trị trung bình chỉ 1 – 10%
của tổng số biến đổi của lòai chim hoặc loài côn trùng là đặc tính gây ra sự khác nhau
trong quần thể. Do đó sự hiểu biết về sự phân bố địa lý của sự đa dạng gene là điều
cần thiết đối với các nhà quản lý phải đối mặt với những quyết định về phân quần thể
nào của các loài nguy cấp cần phải bảo vệ.
1.2.2. Sự đa dạng gene ở thực vật
Số lớn của hệ thống sống của chúng tạo ra sự khác nhau trong cấu trúc di
truyền của quần thể trong các loài thực vật nhiều hơn trong các loài động vật.
Chẳng hạn những loài thụ phấn nhờ gió có mức độ dị hợp tử cao (Hs=0,15 – 0,2).
Tỷ lệ cao hơn là trong quần thể thực vật thụ phấn nhờ động vật (Hs=0,09 – 0,12), cả
hai nhóm này có mức độ cao hơn thực vật tự thụ phấn (Hs=0,07). Ở thực vật tự thụ
phấn cho thấy mức độ khác nhau vể mặt di truyền trong quần thể cao hơn những
loài tạp giao trong sinh sản hoặc các loài cùng giao phối. Sự phân bố về địa lý của
các loài thực vật cũng là một thông số quan trọng điều khiển tính đa dạng gene
trong và giữa các quần thể. Các loài thực vật với khu phân bố nhỏ thì sự thay đổi di
truyền trong quần thể là trung bình và nhỏ hơn quần thể phân bố hẹp, quần thể mức
độ vùng hoặc quần thể phân bố rộng. Tầm quan trọng biến đổi của allozyme ảnh
hƣởng đến sự thích ứng chƣa biết nào đó. Những kinh nghiệm trong nghiên cứu đã
gợi ý rằng sự khác nhau lớn về gene trong quần thể nó thể hiện những dấu hiệu
thích ứng (Bradshaw, 1984).
Những loài nuôi trồng mà đƣợc lựa chọn để nhân giống thƣờng có sự giảm
mức độ biến đổi gene, điều này có thể gây ra sâu bệnh hoặc giảm sự sinh sản.
Chẳng hạn tính chống chịu của nấm mốc sƣơng trong hạt kê không xuất hiện trong

21
Đa dạng sinh học

trồng trọt nhƣng đã tìm thấy có liên quan với những chủng hoang dại ở Nigeria,
trung tâm giống gốc. Tƣơng tự, tính chống chịu virut của Khoai tây, Vi khuẩn, Nấm
và Giun tròn đã tìm thấy ở những loài Khoai tây hoang dại ở dãy núi Andơ thuộc
Nam Mỹ. Sự đa dạng gene ở những loài hoang dại đã liên quan đến thực vật bản xứ
phải duy trì có thể sử dụng và để cải tạo những đặc tính ở các loài thực vật bản xứ.

1.2.3. Sự đa dạng gene ở các cơ thể sống khác


Quy mô của đa dạng gene trong nhóm, những nghiên cứu về các loài thực
vật và động vật không thể ƣớc tính chính xác trong cùng một lúc mặc dù đã biết
chắc quy mô đa dạng ở nấm và vi sinh vật nói riêng là đáng kể. Thí dụ sự khác nhau
về mặt di truyền đã chứng minh trong những loài vi sinh vật đơn lẻ nhƣ
Chlamydomonas reinhardtii với ít nhất 159 dòng biến đổi, Neurospora crassa trên
3000 và trên 3500 kiểu huyết thanh của Salmonella (Board on Agriculture, 1994).
Quy mô lan rộng trong tự nhiên là không chắc chắn.

2. ĐA DẠNG GENE TRONG NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM


Theo đánh giá của Jucovki (1970), Việt Nam là một trong 12 trung tâm
nguồn gốc giống cây trồng của thế giới. Mức độ đa dạng sinh học của hệ thực vật
vây trồng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với dự đoán.

2.1. Nguồn gene giống cây trồng, vật nuôi.


Ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp 16 nhóm các
loài cây trồng khác nhau, với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng nghìn giống
khác nhau, có 3 nhóm cây trồng đang đƣợc nông dân sử dụng.
- Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay đang
chiếm vị trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong đó nhóm giống cây trồng
này có những giống đã đƣợc nông dân sử dụng và lƣu truyền hàng nghìn năm nay.

22
Đa dạng sinh học

- Các giống cây trồng mới: Là những giống cây trồng có khả năng cho năng
suất cao và có một số đặt tính tốt khác nhau nhƣ: phẩm chất nông sản tốt, khả năng
chống chịu sâu bệnh cao…đƣợc các nhà khoa học chọn lọc, lai tạo thành. Những
năm gần đây các giống cây trồng đƣợc các nhà khoa học chọn lọc và lai tạo mới
cũng nhƣ các loại giống cây trồng đƣợc nhập nội, trƣớc khi đƣa ra sản xuất rộng rãi,
đều phải đƣợc hội đồng khoa học Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
(MARD) xem xét công nhận.
- Các giống cây trồng đƣợc nông dân ở các tỉnh biên giới trao đổi với nhau
qua biên giới hoặc mua bán qua đƣờng tiểu ngạch. Hiện nay, Ngân hàng gene cây
trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115 loài cây trồng. Đây là tài sản quý
của đất nƣớc, phần lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Một bộ
phận quan trọng của số giống này là nguồn gene bản địa với nhiều đặc tính quý mà
duy nhất chỉ có nƣớc ta có.
- Về vật nuôi, hiện nay Việt Nam có 14 loài gia súc và gia cầm đang đƣợc
chăn nuôi chủ yếu bao gồm 20 giống lợn trong đó có 14 giống nội, 21 giống bò (5
giống nội), 27 giống gà (16 giống nội), 10 giống vịt (5 giống nội), 7 giống ngan, (3
giống nội), 5 giống ngỗng (2 giống nội), 5 giống dê (2 giống nội), 3 giống trâu (2
giống nội), 1 giống cừu, 4 giống thỏ (2 giống nội), 3 giống ngựa (2 giống nội), bồ
câu, hƣơu và nai (có khoảng 10 ngàn con hƣơu nai đƣợc nuôi trong toàn quốc).

2.2. Đặc trƣng đa dạng của nguồn gene


Các biểu hiện của kiểu gene (geneo-type) ở Việt Nam rất phong phú. Riêng
kiểu gene cây lúa (Oryza saltivaI) có đến hàng trăm kiểu hình (Phenotype) khác
nhau, thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau.
Các kiểu gene ở Việt Nam thƣờng có nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có
những biến dị xảy ra dƣới tác động của các yếu tố tự nhiên ( sấm, chớp, bức xạ…),
có những đột biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo. Đây là một trong những
nguồn tạo giống mới.DDSH gene ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu và
tính mềm dẻo sinh thái cao của các kiểu gene (geneotype).

23
Đa dạng sinh học

Bảng 1.1. Số giống cây trồng được công nhận chính thức (1977 – 2004)

STT Loài cây trồng Số giống STT Loài cây trồng Số giống

1 Lúa 156 19 ớt 1

2 Ngô 47 20 Xoài 5

3 Khoai lang 9 21 Sầu riêng 5


4 Khoai tây 8 22 Chôm chôm 2

5 Khoai sọ 1 23 Nhãn 5

6 Sắn 2 24 Cam quýt 2

7 Đậu tƣơng 22 25 Bƣởi 4

8 Lạc 14 26 Dứa 2

9 Đậu xanh 7 27 ổi 1

10 Vừng 1 28 Bông 9

11 Cà chua 14 29 Cao su 14

12 Cải bắp 3 30 Cà phê 14

13 Cải ăn lá 2 31 Chè 1

14 Cải củ 2 32 Dâu tằm 1

15 Dƣa hấu 3 33 Mía 2

16 Dƣa chuột 3 34 Hoa 2

17 Đậu côve leo 1 35 Cỏ ngọt 1

18 Đậu hà lan 2

Tổng số 35 358

[Nguồn: Khoa học công nghệ và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới, bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, 2005]

24
Đa dạng sinh học

3. TÌNH TRẠNG SUY THOÁI ĐA DẠNG GENE


Ngoài việc tạo ra các giống mới không phải là đảm bảo cho tính đa dạng của
gene khi chƣa biết trƣớc những sản phẩm đó có gây hại cho con ngƣời hay không
thì con ngƣời đã và đang tiêu diệt rất nhiều loài động vật và thực vật trên trái đất
này. Trong thế kỷ 20, loài ngƣời đã tiêu diệt khoảng 700 loài động thực vật. Nhiều
loài bị tuyệt chủng khi còn chƣa đƣợc con ngƣời biết đến.
Từ năm 1600 trƣớc công nguyên đến năm 1900: trung bình 4 năm mất 1 loài.
Từ năm 1900 đến 1980: 1 năm mất 1 loài.
Từ 1980 đến 2000 : 1 ngày mất 1 loài.
Dự báo từ 2001 đến 2010: 1 giờ mất 1 loài.
Cho đến cuối thế kỷ 20, loài ngƣời đã làm biến mất khoảng từ 20% đến 50%
số loài trên Trái Đất.
Suy thoái đa dạng sinh học làm cho loài ngƣời mất dần các nguồn tài nguyên
quý giá ( lƣơng thực, thực phẩm, dƣợc liệu, nguyên vật liệu, gene, tiện nghi môi
trƣờng….) đồng thời phải chống chịu với các tai biến sinh thái ngày càng tăng (dịch
bệnh gia súc, dịch hại cây trồng…) do mất cân bằng sinh thái.
Suy thoái sinh học ở Việt Nam đến nay là rất đáng ngại. trong vòng khoảng
10 năm cuối thế kỷ 20, trên 700 loài động, thực vật Việt Nam đã biến mất hoặc bị
đẩy vào tình trạng nguy hiểm, trong đó có hầu hết các giống loài có giá trị kinh tế
cao nhƣ:
- Động vật: Tê giác 1 sừng, voi, hổ, bò xám, bò tót, bò rừng, hƣơu xạ,
hƣơu cà toong, hƣơu vàng, cheo cheo napu, vƣợn đen tuyền, vƣợn Hải Nam, vƣợn
bạc má, vƣợn má hung, voọc đầu trắng, voọc mũi hếch, công, gà lôi lam, các cóc
Tam Đảo, cá sấu….
- Thực vật: sâm Ngọc Linh, bời lời, trắc, càte, trầm hƣơng.

25
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG III: BẢO TỒN GENE

Khi các loài sinh vật đang bị suy thoái và một số đang có nguy cơ tuyệt
chủng thì chúng ta phải có những hình thức để bảo tồn các nguồn gene quý giá để
lƣu giữ cho các thế hệ mai sau.
Bảo tồn sự đa dạng và di truyền là điều vô cùng quan trọng để giữ vững và
cải thiện năng suất, phẩm chất các sản phẩm của hầu hết các cây trồng trọt vật chăn
nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Theo báo cáo của tổ chức FAO và môi trƣờng cho
thấy: “Các đặc tính ƣu tú về di truyền của các giống cây trồng, cây làm thuốc, các
loài gia súc, gia cầm, các loài thủy sinh và các vi sinh vật kể cả ở dạng đã đƣợc
thuần chủng và dạng hoang dại vô cùng cần thiết đối với các chƣơng trình chọn
giống để tăng năng suất, cải thiện phẩm chất, tạo tính kháng sâu bệnh, tạo sự thích
nghi với các điều kiện môi trƣờng khác nhau và nhiều đặc tính tốt”.
Hiện nay, mọi ngƣời đều đồng ý rằng sự mất mát cây trồng diễn ra trong mấy
chục năm qua là thật khủng khiếp, quá trình xói mòn di truyền dƣờng nhƣ còn sẽ
tiếp tục diễn ra với tốc độ nhanh hơn trong tƣơng lai. Ví dụ nhƣ trong vòng 40 năm
qua 95% giống lúa mỳ Hy Lạp đã bị mất do xu hƣớng thƣơng mại. Do đó, việc thu
thập, bảo tồn và khai thác nguồn di truyền cây trồng hợp lý cần sự nỗ lực của toàn
thế giới.

1. CÁC PHƢƠNG THỨC BẢO TỒN NGUỒN GENE


Đa dạng sinh học cần đƣợc bảo tồn bằng một loạt các biện pháp nhằm đảm
bảo an toàn cho các loài và các kho dự trữ gene nhƣ xây dựng và duy trì những khu
vực bảo vệ, những chiến lƣợc tổng thể kết hợp đƣợc các hoạt động kinh tế với hoạt
động bảo vệ trên toàn khu vực. Các chính phủ thƣờng quy hoạch những vùng có
tầm quan trọng đặc biệt về tính đa dạng sinh học thành những Khu bảo tồn đa dạng
sinh học. Bảo tồn đa dạng sinh học ở tất cả các mức độ là duy trì một cách cơ bản
các quần thể của các loài có thể thực hiện đƣợc hoặc các quần thể xác định đƣợc.

26
Đa dạng sinh học

Nhƣ vậy có thể hoặc là bảo vệ nguyên vị hoặc bảo vệ chuyển vị. Một số chƣơng
trình quản lý kết hợp cả hai tiếp cận này.

1.1. Bảo tồn nguyên vị (In situ)


Bảo tồn In situ nguồn gene cây trồng là duy trì các loài cây trồng tại vùng
xuất xứ, hay nói cách khác là bảo vệ trong tự nhiên hoang dại của chúng.
Bảo tồn In situ là một hệ thống hoạt động vì nó cho phép các động lực tiến
hóa tác động lên vật liệu bảo quản. Bảo tồn In situ liên quan nhiều đến địa điểm hơn
là đến từng loài, cho nên đối tƣợng bảo tồn gồm cả các loài đã đƣợc xác định và
chƣa đƣợc xác định. Trong bảo tồn In situ chúng ta cần có các kiến thức về phạm vi
môi trƣờng sinh sống, về độ phong phú các loài và biến động quần thể.
Bảo tồn In situ cho phép chúng ta nghiên cứu về loài trong phạm vi môi
trƣờng tự nhiên của chúng. Nó cũng là nguồn dự trữ tự nhiên của nguồn tài nguyên
di truyền thực vật, trong đó rất nhiều loài chƣa đƣợc xác định nhƣng có thể có giá
trị sử dụng cao trong tƣơng lai.
Loại bảo tồn này là hoàn toàn thích hợp đối với nhiều loài cây dại, kể cả
những loài cây là họ hàng của những loài cây trồng.
Bảo tồn đa dạng sinh học nguyên vị đang chiếm một tỉ lệ lớn hiện nay trên
thế giới. Cách bảo vệ này hiệu quả hơn vì nó cho phép các quần thể tiếp tục thích
nghi trong các điều kiện có đƣợc bằng các quá trình tiến hoá tự nhiên.

1.2. Bảo tồn chuyển vị (Ex situ)


Bảo tồn Ex situ là phƣơng pháp duy trì các loài cây ngoài phạm vi xuất xứ
của chúng. Vƣờn thực vật, kho lạnh, ngân hàng gene, tập đoàn đồng ruộng… là
những phƣơng tiện phục vụ cho bảo tồn Ex situ.
Nhiều loài sinh vật có thể bảo tồn bằng cách nuôi trồng hay nuôi trong
chuồng. Cây cỏ cũng có thể bảo vệ trong ngân hàng hạt giống và các sƣu tập
germplasm. Đối với động vật cũng bằng kỹ thuật tƣơng tự (bảo quản phôi, trứng,

27
Đa dạng sinh học

tinh trùng), nhƣng phức tạp hơn. Điều rõ ràng là bảo vệ chuyển vị hiện nay chỉ có
thể thực hiện đƣợc với một tỉ lệ rất nhỏ vì rất tốn kém.

2. CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN NGUỒN GENE


2.1. Bảo tồn nguồn gene trong trang trại
Là hình thức bảo tồn ĐDSH, cây trồng, gia súc trong trang trại. Đây là
phƣơng pháp đƣợc tồn tại từ rất lâu đời, vai trò bảo tồn nguồn gene chủ yếu là do
nhân dân địa phƣơng bảo vệ và khai thác sử dụng.
Phƣơng pháp này có ƣu điểm là các giống địa phƣơng có tính ổn định cao, có
khả năng thích nghi với môi trƣờng tốt hơn giống cải tiến. Công tác lƣu giữ nguồn
gen gia cầm, gia súc bản địa cũng chủ yếu dựa vào dân. Ở Việt Nam đến nay, 26
giống vật nuôi và gia cầm địa phƣơng đƣợc xem xét, trong đó 21 giống từng bƣớc
đƣợc tiến hành công tác bảo tồn. Cụ thể, đối với giống lợn là lợn Ỉ, lợn Ba Xuyên,
lợn Cỏ, lợn Mán, lợn Táp Ná, lợn Vân Pa. Các loại gia cầm cần bảo tồn là: Các
giống gà (gà Hồ, gà Mía, gà Đông Tảo, gà Tè (lùn), gà Tre); các giống vịt (vịt Bầu
Bến, Bầu Quỳ, vịt Kỳ Lừa); các giống ngan (ngan Dé, ngan Trâu); và các giống
ngỗng (ngỗng Cỏ, ngỗng Sƣ Tử). Ngoài ra, giống bò Mèo (bò H'Mông), bò U đầu
rìu và ngựa Bạch cũng nằm trong danh sách nguồn gen vật nuôi quý hiếm của Việt
Nam cần bảo tồn.
Ở nƣớc ta có hàng nghìn giống cây trồng địa phƣơng, có đặc tính nông sinh
học quý đang tồn tại trong các trang trại của nông dân nhƣ: 400 giống lúa mùa địa
phƣơng ở các tỉnh phía nam, có khả năng chống chịu chua, phèn, nƣớc mặn, nƣớc
sâu và khô hạn, nổi tiếng nhƣ giống lúa Một Bụi; các giống lúa chịu mặn ở các tỉnh
phía Bắc: Cƣờm, Bầu, Chiêm Đá mà chƣa giống mới nào có thể thay thế đƣợc; Các
loại cây có giá trị: hồi, quế… đƣợc gây trồng từ hàng trăm năm nay tại địa phƣơng
và vẫn đƣợc bảo vệ nguyên vẹn và phát triển rộng rãi. Trong lâm nghiệp một số loài
cây có giá trị nhƣ Quế, hồi, dẻ Cao Bằng… đã đƣợc nhân dân địa phƣơng gây trồng
tại chỗ từ hàng trăm năm nay và nguồn tài nguyên di truyền không chỉ đƣợc bảo vệ
nguyên vẹn mà còn đƣợc phát triển rộng rãi ra các địa phƣơng khác.

28
Đa dạng sinh học

Các giống mới cải tiến vì cần đầu tƣ cao và đắt đỏ chỉ thích hợp cho các
vùng có điều kiện thâm canh hoặc giao lƣu hàng hóa tốt. Do nhiều nguyên nhân,
nhƣ điều kiện sinh thái, đất đai và phong tục tập quán nhiều giống thuộc nhiều loài
cây có giá trị kinh tế nhất là đối với nền kinh tế địa phƣơng khó có thể thay thế bằng
giống mới cải tiến. Ví dụ nhƣ các cây lƣơng thực phụ, các loài rau, cây ăn quả địa
phƣơng nhƣ vải thiều Thanh Hà, nhãn lồng Hƣng Yên, bƣởi Đon Hùng, quýt Bắc
Giang…Những loài cây này có thể đã là những cây đƣợc nhân dân gieo trồng,
nhƣng cũng có thể là những loài mọc tự nhiên nhƣng đƣợc cả cộng đồng bảo vệ,
khai thác sử dụng.

2.2. Ngân hàng gene hạt giống


Ngân hàng gene hạt giống là những bộ sƣu tập hạt giống thu lƣợm từ các cây
hoang dại và cây trồng. Hạt đƣợc lƣu giữ trong điều kiện lạnh và khô trong một thời
gian dài, sau đó lại cho nảy mầm. Hiện nay có hơn 50 ngân hàng hạt giống trên thế
giới. Tuy nhiên kiểu bảo tồn này nhiều lúc cũng gặp khó khăn nhất định nhƣ mất
điện, hỏng thiết bị…có thể xảy ra bất ngờ. Kể cả khi đƣợc giữ lạnh thì hạt cũng dần
dần mất khả năng nảy mầm do dự trữ năng lƣợng quá lâu và do tích tụ các biến đổi
nguy hại. Có thể thấy phƣơng pháp này có những điểm chính cần chú ý sau:
* Hình thức lưu giữ: Lƣu giữ ex-situ quỹ gene của các loài cây có hạt giống
dễ tính (hạt giống Othordox).
* Đối tượng: Cây có hạt giống Othordox. (dễ bảo quản).
* Đặc điểm của phương pháp: Hạt giống đƣợc làm khô ở điều kiện đặc biệt
và lƣu giữ trong kho lạnh bảo quản nguồn gene ở các chế độ:
+ Dài hạn: Nhiệt độ -100C, Ẩm độ 40%, lƣu giữ nguồn gene 50 năm
+ Trung hạn: Nhiệt độ 40C, Ẩm độ 45%, lƣu giữ nguồn gene 25 - 30 năm
+ Ngắn hạn: Nhiệt độ 150C, Ẩm độ 60 - 65%, lƣu giữ nguồn gene 3-5 năm.
Sau thời hạn đó phải nhân lại để đảm bảo chất lƣợng và trẻ hoá nguồn gene
đang lƣu giữ. Tuy nhiên trong điều kiện trang thiết bị hiện tại ở ngân hàng gene

29
Đa dạng sinh học

quốc gia, việc nhân lại nguồn gene đƣợc tiến hành sau khi lƣu giữ 7 - 10 năm (đối
với chế độ bảo quản dài hạn), 5-7 năm (đối với chế độ bảo quản trung hạn).
* Ưu điểm: Phƣơng pháp lƣu giữ này cho phép giữ nguyên trạng đặc tính di
truyền của nguồn gene, bảo tồn 1 lƣợng lớn nguồn gene, có tính an toàn cao và
thuận lợi cho việc quản lý và cung ứng.
* Nhược điểm: Nguồn gene không tiến hoá trong tự nhiên, chịu ảnh hƣởng
điều kiện thiết bị, điện, mất khả năng nảy mầm do dự trữ năng lƣợng quá lâu.
* Số lượng nguồn gene đang được lưu giữ: Đến đầu năm 2003 Ngân hàng
gene hạt giống đang lƣu giữ 10.300 giống của cây trồng có hạt.
Để khắc phục nhƣợc điểm của phƣơng pháp này ngƣời ta phải gieo trồng định
kỳ, chăm sóc và thu hoạch hạt giống mới để cất giữ. Cho đến nay hơn 2 triệu bộ sƣu
tập hạt giống đã có mặt trong các ngân hàng hạt giống nông nghiệp. Tuy nhiên những
cây trồng có ý nghĩa khác cho từng khu vực nhƣ cây dƣợc liệu, cây lấy sợi…vẫn chƣa
đƣợc lƣu giữ trong các ngân hàng này. Họ hàng hoang dại của các loại cây trồng vẫn
chƣa đƣợc tập hợp đầy đủ trong các ngân hàng hạt giống mặc dù các loài này vô cùng
hữu ích trong các chƣơng trình tạo giống cây trồng.
Tuy nhiên cũng phải tất cả các loài đều có thể bảo tồn bằng hạt giống.
Khoảng 15% số loài thực vật trên thế giới có hạt thuộc loại “bảo thủ”, tức là không
thể tồn tại hoặc không thể chịu đƣng đƣợc các điều kiện nhiệt độ thấp và kết quả là
không thể cất giữ trong các ngân hàng hạt giống. Các loại cây trồng này có loài rất
có giá trị nhƣ cao su, coca là không thể lƣu giữ lâu. Phƣơng pháp có thể lƣu giữ các
loài này chỉ bằng cách lƣu giữ phôi sau khi đã loại bỏ vỏ áo ngoài của hạt, nội nhũ
và các mô khác. Một số loài cũng đƣợc duy trì bằng phƣơng pháp nuôi cấy mô
trong những điều kiện có khống chế hoặc chúng đƣợc nhân giống bằng cắt chiết từ
cây mẹ.
Khoảng 60 – 70% các loài thực vật tái sinh và bảo tồn nòi giống của mình
bằng phƣơng thức tạo hạt hữu tính là có thể bảo quản hạt khô trong điều kiện lạnh –
nhóm cây có hạt “orthodox”. Khi đƣợc làm khô, độ ẩm 5 – 7% hạt có thể kéo dài sự
sống lâu trong kho lạnh. Theo lý thuyết thì có thể bảo toàn sức sống của hạt tùy theo

30
Đa dạng sinh học

loài cây trên hàng trăm năm. Các kho bảo quản hạt vì thế sớm đƣợc đầu tƣ thành lập
và là hình thức bảo quản exsitu quan trọng nhất.
Tùy theo nhu cầu bảo quản dài, trung hay ngắn hạn mà các kho hạt có những
trang thiết bị và kỹ thuật phù hợp. Tƣơng ứng, các tập đòan hạt đƣợc giữ trong các
điều kiện ngắn, trung và dài hạn còn đƣợc gọi là những tập đoàn công tác, họat
động và cơ bản.

2.3. Ngân hàng gene đồng ruộng


Đây là thuật ngữ chỉ các tập đoàn thực vật sống đƣợc duy trì ngoài khu cƣ trú
tự nhiên của chúng. Chúng có thể là các tập đoàn trồng trên đồng ruộng, trong các
công viên, các vƣờn thực vật… Pƣơng pháp này có những điểm chính cần chú ý
sau:
* Hình thức lưu giữ: Lƣu giữ nguồn gene trên đồng ruộng thí nghiệm, trong
chậu vại, nhà lƣới, ...
* Đối tượng: Những loài cây lâu năm nhƣ cây ăn quả, cây công nghiệp, cây
thuốc, cây lấy gỗ, các loài cây có hạt “recalcitrant” – loại hạt không thích nghi với
sấy khô và bảo quản lạnh, các loài cây có hạt “orthodox” và cây sinh sản vô tính khi
chƣa thiết lập đƣợc các ngân hàng hạt giống và in vitro thích hợp.
* Phương pháp:
Đối với cây hàng năm: Bảo tồn Ex-situ nếu ngân hàng gene đồng ruộng
không phải tại nơi xuất xứ của loài cây cần bảo tồn, In-situ nếu ngân hàng gene
đồng ruộng tại nơi xuất xứ của loài cây cần bảo tồn.
Đối với cây lưu niên: Tạo lập các vƣờn bảo tồn quỹ gene cây lƣu niên tại các
cơ quan nghiên cứu khoa học hoặc các địa phƣơng; Bảo tồn In situ tại vƣờn gia
đình.
* Đặc điểm của phương pháp:
+ Bảo tồn ex - situ:

31
Đa dạng sinh học

- Ƣu điểm: Bảo quản đƣợc lƣợng lớn các nguồn gene (Tập đoàn cơ bản), kết
hợp đánh giá mô tả, theo dõi khả năng chống chịu sâu bệnh hại và các điều kiện
sinh thái bất lợi đối với nguồn gene và các giai đoạn sinh trƣởng phát triển của cây
trồng; làm giảm nguy cơ xói mòn nguồn gene trong tự nhiên.
- Nhƣợc điểm: Chi phí tốn kém, hạn chế sự tiến hoá tự nhiên của nguồn
gene; nguy cơ xói mòn nguồn gene trong quá trình bảo quản do sâu bệnh và các
điều kiện sinh thái bất lợi.
+ Bảo tồn in - situ:
- Ƣu điểm: Bảo đảm đƣợc quá trình tiến hoá tự nhiên của nguồn gene; hiệu
quả khai thác sử dụng cao.
- Nhƣợc điểm: Chỉ bảo đảm áp dụng đƣợc đối với các nguồn gene đang có
lợi ích cộng đồng; đòi hỏi phải thƣờng xuyên nâng cao năng lực và ý thức của cộng
đồng.
* Số lượng nguồn gene đang được lưu giữ:
Đến đầu năm 2003 Ngân hàng gene đồng ruộng đang lƣu giữ 1.800 giống
(gồm Bạc Hà, củ Mỡ, củ Nâu, Dong Riềng, Dong Trắng, củ Từ, Địa Liền, Gừng,
Khoai Lang, Khoai Sọ, Sắn, Riềng, Nghệ…); Vƣờn tiêu bản quỹ gene cây lƣu niên
192 giống của 22 loài cây lƣu niên.

2.4. Ngân hàng gene invitro

Đây là tập đoàn các vật liệu di truyền đƣợc bảo quản trong môi trƣờng dinh
dƣỡng nhân tạo, trong điều kiện vô trùng.

* Hình thức lưu giữ: Lƣu giữ cây con, cơ quan, mô, phôi, tế bào, ADN ...
của các nguồn gene trong điều kiện duy trì sinh trƣởng tối thiểu hoặc ngừng sinh
trƣởng tạm thời.
* Đối tượng:
- Vật liệu sinh sản vô tính

32
Đa dạng sinh học

- Các loại cây có hạt


- Các nguồn gene dùng để nhân nhanh phục vụ các chƣơng trình chọn tạo và
nhân giống, hạt giống và ngân hàng ADN.
- Các loài cây khó bảo quản trong Ngân hàng gene hạt giống và Ngân hàng
gene đồng ruộng.
* Phương pháp:
- Lƣu giữ trong ống nghiệm các cơ quan, mô hoặc tế bào bằng kỹ thuật nuôi
cấy mô nhằm duy trì nguồn gene dƣới hình thức sinh trƣởng chậm (phƣơng pháp
này đang đƣợc áp dụng tại NHG cây trồng quốc gia).
- Bảo quản siêu lạnh trong Ni tơ lỏng (-196 oC) các đối tƣợng Callus,
Protoplast, bao phấn, mô phân sinh, phôi.
* Đặc điểm của phương pháp:
+ Ưu điểm:
- Đảm bảo độ an toàn và sạch bệnh cao, có khả năng tạo quần thể cây đồng
nhất với số lƣợng lớn.
- Với phƣơng pháp bảo quản siêu lạnh có thể bảo quản đƣợc lâu dài với số
lƣợng lớn và độ ổn định.
- Hạn chế khả năng mất nguồn gene, nhất là các nguồn gene có nguy cơ xói
mòn cao, các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng,
- Khả năng tái tạo, phục hồi các nguồn gene đã biến mất trong tự nhiên.
+ Nhược điểm:
- Chi phí bảo quản lớn, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao và trang thiết bị hiện đại.
- Có khả năng tạo ra biến dị Soma với tần số biến dị khác nhau và ít lặp lại.
* Số lượng giống cây trồng đang được lưu giữ: Hiện nay đang lƣu giữ khoai
Môn - Sọ.

Có 3 loại kho bảo quản in vitro – ngắn, trung và dài hạn. Tùy theo nhu cầu
bảo quản mà tốc độ sinh trƣởng của vật liệu đƣợc làm giảm với mức độ khác nhau.
Bảo quản ngắn hạn vật liệu là để cung cấp cho các nhu cầu chọn, tạo giống và

33
Đa dạng sinh học

nghiên cứu của mỗi cơ sở. Trong bảo quản bằng sinh trƣởng chậm (trung hạn) tốc
độ sinh trƣởng của vật liệu đƣợc làm giảm một cách đáng kể bằng cách để ở điều
kiện nhiệt độ và ánh sáng thấp hoặc làm giảm nồng độ oxy tiếp cận vật liệu. Bằng
phƣơng này có thể kéo dài thời gian cần cấy chuyển và nhƣ vậy làm giảm một cách
đáng kể các chi phí cần thiết và nguy cơ phát sinh biến dị sinh dƣỡng. Bảo quản
trong hoặc trên mặt nitơ lỏng (1560C) là phƣơng pháp bảo quản dài hạn. Ở nhiệt độ
đó các phản ứng sinh hóa của vật liệu bị làm ngƣng đọng hoàn toàn và vì thế loại
trừ đƣợc khả năng xảy ra biến dị sinh dƣỡng. Tuy nhiên trong bảo quản đông lạnh
sức sống và khả năng tái sinh của vật liệu lại là vấn đề cần quan tâm. Trong quá trình
tái sinh cũng có thể xảy ra những biến dị sinh dƣỡng nếu có qua quá trình phát triển
“không có tổ chức cơ quan”.
Mỗi giải pháp đã nêu đều có những hạn chế và thuận lợi nhất định, vì thế tùy
mỗi trƣờng hợp cụ thể mà lựa chọn giải pháp thích hợp nhất, có thể phải là kết hợp
của nhiều giải pháp.

3. BẢO TỒN GENE ĐỘNG VẬT HOANG DÃ Ở VIỆT NAM


Việt Nam hiện đã có 275 loài và phân loài thú, 1026 loài và phân loài chim,
500 loài cá nƣớc ngọt, khoảng 2000 loài cá biển... đƣợc nhận biết và còn nhiều loài
động thực vật khác chƣa đƣợc sƣu tập, chứng tỏ nƣớc ta là một trong những nƣớc
có tính đa dạng sinh học cao.Với 2 hình thức bảo tồn (nguyên vị và chuyển vi) và
các chƣơng trình bảo tồn các loại thú cụ thể chứng tỏ công tác bảo tồn nguồn gene
động vật hoang dã đã đƣợc chú trọng. Tuy nhiên để bảo vệ đƣợc nguồn gene động
vật hoang dã sự cần thiết phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa các nhà khoa học, quản
lý, dân cƣ địa phƣơng và ở chính vƣờn Quốc gia và Khu bảo tồn, nơi đang lƣu giữ
các nguồn gene quí hiếm này.
Chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến việc bảo vệ nguồn gene động vật
hoang dã, bảo vệ đa dạng sinh học. Năm 1962, Vƣờn Quốc gia đầu tiên đƣợc thành
lập. Đó là Vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng. Tháng 11/1997, Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn (NN&PTNT) đã có báo cáo Chính phủ xem xét và quyết định danh

34
Đa dạng sinh học

mục các khu rừng đặc dụng ở Việt Nam gồm 101 khu, với tổng diện tích là
2.297.500 ha. Hệ thống rừng đặc dụng này đƣợc xây dựng nhằm bảo vệ các hệ sinh
thái rừng, bảo vệ các nguồn gene động, thực vật, nhất là các loài động vật, thực vật
quí hiếm và các loài có nguy cơ bị tiêu diệt. Đến nay, khi xem xét lại danh mục các
khu rừng đặc dụng thì thấy còn một số hệ sinh thái điển hình còn nằm ngoài hệ
thống này. Một số khu có diện tích còn nhỏ chƣa đủ rộng để bảo vệ và bảo đảm sinh
sống cho một số loài thú, nhất là một số loài thú lớn cần có nơi kiếm ăn rộng hơn
nhƣ hổ, tê giác, bò xám, bò rừng,voi. Trong số những Khu bảo tồn có một số khu
đặc biệt nhƣ Vƣờn Quốc gia Chàm Chim ở tỉnh Đồng Tháp để bảo vệ loài sếu cổ
trụi và Khu bảo vệ Xuân Thủy ở cửa sông Hồng bảo vệ các loài chim nƣớc di cƣ.
Đây là khu bảo vệ Ramsar đầu tiên ở Việt Nam cũng nhƣ trong vùng Đông Nam Á.

Ảnh 1.6. Vườn quốc gia Cúc Phương

35
Đa dạng sinh học

PHẦN II: ĐA DẠNG LOÀI

CHƢƠNG I. LOÀI VÀ ĐA DẠNG LOÀI


1. ĐỊNH NGHĨA LOÀI VÀ ĐA DẠNG LOÀI

Có nhiều quan điểm khác nhau khi định nghĩa về loài. Ta có thể kể ra ba
quan điểm chính: loài duy danh, loài hình thái và loài sinh học.
Quan điểm duy danh có từ thế kỷ thứ 18 và tồn tại đến tận thế kỷ 20. Theo
quan điểm này thì chỉ có các cá thể là tồn tại, còn loài là trừu tƣợng và do con ngƣời
đặt ra.
Theo quan điểm hình thái, ta dựa vào định nghĩa cấu tạo, hình thái của loài
để xác định: Mỗi loài là một nhóm cá thể có đặc điểm hình thái, sinh lý, hoá sinh
đặc trƣng khác biệt với những nhóm cá thể khác. Tuy nhiên đối với những loài đồng
hình phải căn cứ vào sự khác biệt về ADN nhƣ các loài vi khuẩn.
Theo quan điểm sinh học, ta dựa vào định nghĩa sinh học của loài: Loài là
một nhóm cá thể có khả năng giao phối với nhau để sinh sản ra thế hệ con hữu thụ,
không giao phối sinh sản với nhóm khác.
Một cách chung nhất, ta có thể định nghĩa: loài là cơ sở của bậc phân loại, có
bộ mã di truyền ổn định, khó làm thay đổi bởi tác nhân của môi trƣờng tự nhiên
hoặc lai với loài khác.
Bậc loài là một trong các bậc taxon cơ bản trong các bậc phân loại . Ví dụ.
Bậc phân loại của giới thực vật gồm có 6 bậc taxon cơ bản là ngành, lớp, bộ, họ,
chi, loài. Ngoài 6 bậc cơ bản trên ngƣời ta còn dùng các bậc trung gian nhƣ tông,
nhánh, loạt, thứ, dạng.
Đa dạng loài là sự phong phú về các loài đƣợc tìm thấy trong các hệ sinh thái
tại một vùng lãnh thổ xác định thông qua việc điều tra, kiểm kê.
Sự đa dạng về loài của một khu vực bao gồm số loài sinh vật sống trong khu
vực đó. Tuy nhiên, số lƣợng các loài chỉ đơn thuần cho biết một phần về đa dạng

36
Đa dạng sinh học

sinh học, ẩn chứa trong thuật ngữ này là khái niệm về mức độ hoặc quy mô của sự
đa dạng; tức là những sinh vật có sự khác biệt rõ rệt về một số đặc điểm đặc thù sẽ
có vai trò quan trọng đối với đa dạng sinh học hơn nhiều so với những sinh vật
giống nhau. Để xác định mức độ đa dạng về loài của một khu vực nào đó phải xác
định thành phần loài sống trong khu vực đó.

2. ĐA DẠNG LOÀI TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM


Trên phạm vi toàn thế giới còn cần rất nhiều nổ lực để có thể hoàn thiện
đƣợc danh mục đầy đủ các loài. Mỗi năm các nhà phân loại trên thế giới mô tả đƣợc
khoảng 11.000 loài (chiếm từ 10 đến 30% các loài có trên thế giới), và nhƣ vậy, để
có thể mô tả hết các loài trên thế giới (ƣớc tính 10 đến 30 triệu loài) dự kiến phải
tốn từ 750 năm đến 2.570 năm, trong khi đó có nhiều loài đa bị tuyệt chủng trƣớc
khi chúng đƣợc mô tả và đặt tên.
Xét về đa dạng loài một cách cụ thể, ta có thể xem xét đa dạng loài theo các
nhóm sinh vật. Nhƣ vậy, ta sẽ có: đa dạng vi sinh vật, tảo, thực vật không mạch,
thực vật có mạch, côn trùng, động vật không xƣơng sống, động vật có xƣơng sống
(xem bảng 2.1).
Môi trƣờng giàu có nhất về số lƣợng loài có lẽ ở các rừng nhiệt đới, rạn san
hô, các hồ lớn ở vùng nhiệt đới và ở các biển sâu. Trong các rạn san hô, và các biển
sâu, sự đa dạng sinh học thuộc nhiều ngành và lớp khác nhau. Sự đa dạng trong các
biển sâu nhờ vào diện tích lớn, tính ổn định của môi trƣờng cũng nhƣ vào sự biệt
hoá của các loại nền đáy khác nhau.
Đa dạng loài lớn nhất là ở vùng rừng nhiệt đới. Mặc dù rừng nhiệt đới chỉ
chiếm 7% diện tích trái đất, chúng chứa hơn 1/2 loài trên thế giới. Khoảng 40% loài
thực vật có hoa trên thế giới (100.000 loài) ở vùng nhiệt đới, trong khi 30% loài
chim trên thế giới phụ thuộc vào những khu rừng nhiệt đới.
Rạn san hô tạo nên một nơi tập trung khác về loài. Các loài san hô bé nhỏ tạo
ra các hệ sinh thái san hô vĩ đại, là vùng biển tƣơng đƣơng với rừng nhiệt đới về sự
phong phú loài và độ phức tạp. Rạn san hô lớn nhất thế giới là rạn San Hô Lớn

37
Đa dạng sinh học

(Great Barrier Reffs) ở bờ biển phía đông nƣớc Úc, có diện tích là 349.000 km2.
Rạn san hô này có hơn 300 loài san hô, 1500 loài cá, 4000 loài thân mềm, 5 loài rùa
biển và là nơi sinh sản của khoảng 25 loài chim. Rạn san hô này chiếm 8% loài cá
trên thế giới mặc dù chúng chỉ chiếm 0,1% diện tích đại dƣơng. Bảng 5 dƣới đây
mô tả sự đa dạng về loài trên thế giới. Sự đa dạng về loài sẽ còn đƣợc đề cập ở phần
sau, về các yếu tố ảnh hƣởng đến đa dạng loài.

Bảng 2.1. Thành phần các loài

Loài Số lượng

Côn trùng 751000

Sinh vật đơn bào 30000

Thực vật 248500

Tảo 26900

Nấm 69000

Vi khuẩn 4800

Virus 1000

Động vật khác 281000

[Nguồn: Nguyễn Nghĩa Thìn ]


Việt Nam đƣợc xếp vào nhóm các nƣớc có đa dạng sinh học cao trên thế
giới. Đến nay đã ghi nhận có 15.986 loài thực vật ở Việt Nam, trong đó có 4528 loài
thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao, 10% trong số đó là các loài đặc
hữu. Về động vật, đã thống kê đƣợc 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký sinh ở
gia súc, 200 loài giun đất, 145 loài ve giáp, 113 loài bọ nhảy, 7750 loài côn trùng,
260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân loài thú. Đa dạng
loài ở Việt Nam có các đặc trƣng sau:

38
Đa dạng sinh học

- Số lượng loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Bình quân trên 1km2 lãnh thổ
Việt Nam có 4,5 loài thực vật và gần 7 loài động vật, một mật độ đậm đặc.
- Cấu trúc loài rất đa dạng. Nhiều loài có hàng chục dạng sống khác nhau.
Cấu tạo quần thể thƣờng rất phức tạp.
- Khả năng thích nghi của loài cao. Sinh vật Việt Nam nói chung có khả
năng chống chịu cao với mọi biến đổi của ngoại cảnh.

Bảng 2.2: Số lượng các loài sinh vật hiện đang sống trên Trái đất đã được
mô tả (theo Lê Vũ Khôi)

Nhóm sinh vật Số loài Nhóm sinh vật Số loài

Vi rút 1.000 Giun tròn 12.200

Vi khuẩn 1.000 Giun đốt 12.000

Thực vật đơn bào 4.760 Thân mềm 50.000

Nấm 70.000 Da gai 60.000

Tảo 26.900 Chân khớp 874.160

Địa y 18.000 Côn trùng 751.000

Rêu 22.000 Động vật có bao 1.250

Dƣơng xỉ 12.000 Động vật đầu sống 23

Thông đất 1.275 Cá không hàm 63

Thực vật hạt trần 750 Cá sụn 843

Thực vật hạt kín 250.000 Cá xƣơng 18.150

Động vật nguyên sinh 30.000 Lƣỡng cƣ 4.200

Thân lổ 5.000 Bà sát 6.300

Ruột khoang & Sứa lƣợc 9.000 Chim 9.600

39
Đa dạng sinh học

Bảng 2.3: Đánh giá số loài đã được mô tả (Lecointre and Guyader, 2001)

Bậc phân loại Tên thường gọi Số loài mô tả %số loài đã được mô tả

Bacteria Vi khuẩn 9.021 0,50

Archaea Vi khuẩn cổ 259 0,01

Bryophyta Rêu 15.000 0,90

Lycopodiophyta Thông đất 1.275 0,07

Filicophyta Dƣơng xỉ 9.500 0,50

Coniferophyta Ngành Thông 601 0,03

Magnoliophyta Thực vật hạt kín 233.885 13,40

Fungi Nấm 100.800 5,80

"Porifera" Bọt biển 10.000 0,60

Cnidaria Ruột khoang 9.000 0,50

Rotifera Trùng Bánh xe 1.800 0,10

Platyhelminthes Giun dẹp 13.780 0,80

Nematoda Giun tròn 20.000 1,10

Mollusca Thân mềm 117.495 6,70

Annelida Giun đốt 14.360 0,80

Crustacea Giáp xác 38.839 2,20

Arachnida Nhện 74.445 4,30

Insecta Côn trùng 827.875 47,40

Echinodermata Da gai 6.000 0,30

Chondrichthyes Cá sụn 846 0,05

Actinopterygii Cá xƣơng 23.712 1,40

40
Đa dạng sinh học

Bảng 2.3. (tiếp theo)

Bậc phân loại Tên thường gọi Số loài mô tả %số loài đã được mô tả

Amphibia Lƣỡng thê 4.975 0,30

Reptilia Bò sát 7.140 0,42

Aves Chim 9.672 0,60

Mammalia Thú 4.496 0,30

Bảng 2.4. Sự phong phú về thành phần loài sinh vật ở Việt Nam

Nhóm sinh vật Số loài đã xác Số loài có Tỷ lệ (%)


định được trên thế giới giữa VN/TG

1.Vi tảo

- Nƣớc ngọt 1438 15000 9.6%

- Biển 537 19000 2.8%

2.Rong-cỏ

- Nƣớc ngọt Khoang 20 2000 1%

- Biển 667 10000 6.7%

3.Thực vật bậc cao khoảng 11400 220000 5%

- Rêu 1030 22000 4.6%

- Nấm lớn 826 50000 1.6%

4.Động vật không xƣơng sống ở


nƣớc

- Nƣớc ngọt 794 80000 1%

- Biển Khoảng 7000 220000 3.2%

41
Đa dạng sinh học

Bảng 2.4. (tiếp theo)

Nhóm sinh vật Số loài đã xác Số loài có Tỷ lệ (%)


định được trên thế giới giữa VN/TG

5.Động vật không xƣơng sống ở Khoảng 1000 30000 3.3%


đất

6.Giun sán ký sinh ở gia súc 161 1600 10%

7.Côn trùng 7750 250000 3.1%

8.Cá

- Nƣớc ngọt Trên 700

- Biển 2458

9.Bò sát 296 6300 4.7%

Bò sát biển 21

10.Lƣỡng cƣ 162 4184 3.8%

11.Chim 840 9040 9.3%

12.Thú 310 4000 7.5%

Thú biển 25

(Nguồn: Cục bảo vệ môi trường, Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật, Cục
bảo vệ và phát triển Nguồn lợi Thuỷ sản, Phạm Bình Quyền, 2005)

3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐA DẠNG LOÀI


Các nhân tố ảnh hƣởng lớn nhất đến sự đa dạng sinh học nói chung và đa
dạng loài nói riêng có lẽ là các yếu tố môi trƣờng sống nhƣ vị trí địa lý, địa hình,
khí hậu, nhiệt độ, lƣợng mƣa, dƣỡng chất, độ muối.
Nhìn chung, ngƣời ta nhận thấy rằng, sự giàu loài càng tăng khi vĩ độ giảm.
Trên bình diện thế giới, các vùng dọc xích đạo có khí hậu gió ẩm mậu dịch thƣờng

42
Đa dạng sinh học

có số loài cao nhƣ ở Nam Mỹ, Châu Phi, Đông Nam Á. Đối với hầu hết các nhóm
sinh vật, sự đa dạng loài tăng về hƣớng nhiệt đới. Ví dụ nhƣ Kenia có 308 loài thú,
trong khi đó Pháp chỉ có 113 loài mặc dù hai nƣớc này có cùng diện tích. Sự tƣơng
phản này đặc biệt chặt chẽ đối với cây cỏ và thực vật có hoa: một hecta rừng
Amazon ở Peru hay vùng đất thấp ở Malaisia có thể có đến hơn 200 loài cây, trong
khi đó ở rừng Châu Âu hay nƣớc Mỹ thì chỉ có khoảng 30 loài trong cùng diện tích.
Kiểu đa dạng của các loài trên đất liền cũng giống nhƣ ở biển, nghĩa là cũng gia
tăng sự đa dạng loài về phía nhiệt đới. Ví dụ rạn San hô lớn ở Úc, phía Bắc có 50
giống trong khi phía Nam chỉ có 10 giống san hô.Norman Myers, nhà sinh thái học
Anh đƣa ra khái niệm điểm nóng đa dạng sinh học vào 1988. Theo định nghĩa, điểm
nóng là những nơi tập trung của đa dạng sinh học độc nhất. Chúng tao ra một sự đa
dạng về những loài và hệ sinh thái bị đe doạ và xứng đáng sự chú ý bảo tồn. 25
điểm nóng đa dạng sinh học chứa 44% tất cả các loài thực vật và 35% tất cả các loài
động vật có xƣơng sống trên cạn chỉ chiếm 1,4% diện tích hành tinh (xem bảng 6).
Trong những hệ sinh thái ở cạn, độ phong phú về loài thƣờng tập trung ở
những nơi có địa hình thấp. Nói cách khác, đa dạng giảm khi độ cao tăng. Trong
một số trƣờng hợp, địa hình đa dạng, phân cách mạnh cũng làm tăng đa dạng loài
trong khu vực.
Genetry đã chứng minh mối tƣơng quan mạnh giữa độ giàu loài cây và độ
mƣa tuyệt đối hàng năm. Đa dạng sinh vật tăng khi lƣợng mƣa tăng nhƣng lại giảm
ở những nơi có lƣợng mƣa lớn và ít tăng hay không tăng khi mƣa một lần lớn từ
1000 - 1500mm/năm. Môi trƣờng có độ khô càng cao thì càng kém đa dạng hơn
môi trƣờng có độ khô thấp.
Ngƣời ta chỉ ra rằng đa dạng sinh học cao nhất ở nơi chất dinh dƣỡng trung
bình và giảm khi chất dinh dƣỡng cao hơn.
Ở các hệ sinh thái ven biển, tính đa dạng tăng khi độ muối tăng. Ngƣợc lại, ở
các hệ sinh thái nƣớc ngọt, tính đa dạng lại giảm khi độ muối tăng (Brown, 1988).

43
Đa dạng sinh học

Bảng 2.5: Các “điểm nóng đa dạng sinh học” trên thế giới

Các điểm nóng Thực vật Động vật Thực vật Động vật % hệ
đặc hữu có xương đặc hữu có xương thực

đặc hữu /100 km2 đặc hữu vật còn

/100 km2 lại

Madagascar & các đảo 9.704 771 16,4 1,3 9,9


trên Ấn Độ Dƣơng

Philippines 5.832 518 64,7 5,7 3,0

Sundaland 15.000 701 12,0 0,6 7,8

Rừng Đại Tây Dƣơng 8.000 654 8,7 0,6 7,5

Caribbean 7.000 779 23,5 2,6 11,3

Indo- Miến Điện 7.000 528 7,0 0,5 4,9

Western Ghats & Sri 2.180 355 17,5 2,9 6,8


Lanka

Vùng núi cực Đông và 1.500 121 75,0 6,1 6,7


các khu rừng ven biển

[Nguồn: Myers. N., 2000].


Các yếu tố lịch sử cũng là nhân tố quan trọng trong xác định sự phân bố đa
dạng loài trên thế giới. Những khu vực cổ địa lý, số loài tồn tại nhiều hơn nhiều so
với những khu vực có tuổi địa lý trẻ hơn. Ví dụ biển Ấn Độ Dƣơng và Tây Thái
Bình Dƣơng có số loài phong phú hơn so với biển Đại Tây Dƣơng là biển trẻ hơn về
địa lý. Những khu vực có lịch sử phát triển địa lý lâu dài hơn có nhiều thời gian hơn
để các loài thích nghi phát tán từ nơi khác đến và thích nghi hoà nhập với điều kiện
sống mới.

44
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG II. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY SUY GIẢM ĐA DẠNG LOÀI
Hiện nay việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên nói chung, tài nguyên sinh học
nói riêng ở nhiều nƣớc trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam thƣờng là không bền
vững. Bởi lẽ các nƣớc có nguồn tài nguyên thiên nhiên trong đó có tài nguyên sinh
học phong phú bao gồm cả về các hệ sinh thái, về thành phần loài và nguồn gene thì
đều là những nƣớc nghèo, đang phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế.
Đa dạng sinh học giảm sút do số lƣợng các loài trong hệ sinh thái bị suy
giảm và số lƣợng các cá thể trong quần thể loài cũng bị suy giảm do 3 nguyên nhân
chính:
+ Mất hoặc giảm nguồn thức ăn (do các loài cạnh tranh nhau hoặc bị con
ngƣời khai thác mất).
+ Mất hoặc giảm nơi cƣ trú (do các loài cạnh tranh nơi sống hoặc bị con
ngƣời cƣớp mất).
+ Do môi trƣờng thay đổi làm cho các loài bản địa không còn thích nghi với
điều kiện môi trƣờng nữa, một phần trong số đó sẽ bị chết, một phần sẽ di chuyển
để tìm tới nơi thích hợp hơn, một phần sẽ thay đổi bản thân để thích nghi với sự
thay đổi của môi trƣờng. Sự thay đổi khí hậu và môi trƣờng sống đã buộc các sinh
vật hoặc phải thay đổi để thích nghi bằng cách thay đổi chu kỳ sinh trƣởng hoặc
phát triển đặc điểm thích nghi mới trên cơ thể. Điều này có thể làm diệt vong nhiều
loài nhƣng có thể cũng tạo ra loài mới do những loài có tính biến dị di truyền cao.
Có thể lấy ví dụ liên quan đến hiện tƣợng biến đôi khí hậu toàn cầu hiện nay:
Nhiệt độ nƣớc biển tăng gây hiện tƣợng tẩy trắng san hô và là nguyên nhân
gây chết trên diện rộng các dải san hô ngầm từ vùng biển Australia đến Caribbean.
Loài chim biển Common Murre thay đổi thời gian sinh sản từ 24 ngày/thập
kỷ thành 24 ngày/50 năm để thích ứng với hiện tƣợng nhiệt độ tăng lên.
Loài chim hoàng anh Baltimore đang di chuyển về hƣớng bắc và sẽ sớm biến
mất hoàn toàn khỏi khu vực Baltimore.

45
Đa dạng sinh học

Gấu Bắc cực đang đối mặt với nguy cơ khan hiếm thức ăn. Nhiều loài khác
sẽ phải đƣơng đầu với những thách thức bất thƣờng. Ví dụ, giới tính của rùa biển
mới sinh phụ thuộc vào nhiệt độ; khi nhiệt độ nóng lên số lƣợng rùa cái sinh ra sẽ
tăng so với số lƣợng rùa đực.
Ta có thể chia các nguyên nhân gây suy giảm đa dạng sinh học loài ra là 2
nguyên nhân chính: Nguyên nhân tự nhiên và nguyên nhân con ngƣời. Và hậu quả
của các nguyên nhân này thƣờng là làm suy giảm nguồn thức ăn, suy giảm nơi cƣ
trú của các loài động thực vật và làm thay đổi môi trƣờng. Ta có thể kể chi tiết nhƣ
sau:

1. NGUYÊN NHÂN TỰ NHIÊN


Nguyên nhân tự nhiên nhƣ cháy rừng, dộng đất, núi lửa, lũ lụt, hạn hán,
bão... là những nguyên nhân gây mất nơi cƣ trú, hủy hoại môi trƣờng sống, thức ăn
của nhiều lòai sinh vật hoặc tiêu diệt chúng dẫn đến việc suy giảm đa dạng sinh học
tại các vùng xảy ra thiên tai.

2. NGUYÊN NHÂN TỪ CON NGƢỜI


Thông qua việc chiếm lĩnh các hệ sinh thái trên trái đất, con ngƣời thông qua
các hoạt động của mình đã và đang trực tiếp và gián tiếp làm suy giảm nguồn tài
nguyên đa dạng sinh học các loài trên trái đất.

Bảng 2.6. Con người chiếm lĩnh các hệ sinh thái trên Trái đất

1. Sử dụng đất
Việc sử dụng đất và khai thác tài nguyên theo nhu cầu của con ngƣời đã
làm biến đổi ít nhất một nửa bề mặt vỏ Trái đất.

2. Chu kỳ tuần hoàn của Nitơ


Các hoạt động hàng ngày của con ngƣời nhƣ trồng các cây cố định đạm,

46
Đa dạng sinh học

sử dụng phân có chứa nitơ, việc đốt nhiên liệu hóa thạch đã thải vào hệ sinh thái
trên cạn một lƣợng ntơ nhiều hơn lƣợng nitơ xâm nhập các quá trình sinh học và
vật lý học trong tự nhiên

3. Các chu kỳ tuần hoàn của Cácbon


Vào giữa thế kỷ 21, việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch của con ngƣời sẽ
làm cho hàm lƣợng cacbon trong không khí tăng lên gấp hai lần

[Nguồn: Nguyễn Nghĩa Thìn]

2.1. Sử dụng không bền vững các nguồn tài nguyên sinh vật
Mở rộng đất nông nghiệp, lâm nghiêp xâm hại đến rừng và các hệ sinh thái
khác: Mở rộng đất canh tác nông nghiệp có liên quan đến quá trình hình thành và
phát triển của đất nƣớc, là quy luật tất yếu phải xảy ra khi dân số tăng nhanh và văn
hoá, kinh tế, xã hội ngày một phát triển. Ngày nay, phá rừng, xâm hại đến đất ngập
nƣớc để mở rộng đất canh tác không hợp lý là một trong những nguyên nhân quan
trọng làm suy thoái đa dạng sinh học vì làm mất nơi sống cùa nhiều loài thực vật,
động vật. Chỉ tính riêng hình thức du canh đã tàn phá khoảng 13 triệu ha rừng trƣớc
đây thành đất trống đồi núi trọc.
Khai thác gỗ làm cạn kiệt rừng, mất môi trƣờng sống: Gỗ là sản phẩm lâm
nghiệp rất quan trọng trong xây dựng. Tuy nhiên, khai thác gỗ quá mức làm kiệt quệ
rừng. Khai thác gỗ phục vụ cho các mục tiêu khác nhau: làm gỗ chống hầm lò trong
công nghiêp khai thác, khai thác gỗ làm đồ thủ công mỹ nghệ…Kết quả là rừng bị
cạn kiệt nhanh chóng cả về diện tích và chất lƣợng, nhiều loài thực vật, loài gỗ quý
và những động vật sống trong rừng suy giảm số lƣợng và nhiều loài có nguy cơ bị
tuyệt diệt
Hơn 50% những nơi cƣ trú là các rừng nguyên sinh bị phá hủy tại 47 nƣớc
trong tổng số 57 nƣớc nhiệt đới trên thế giới. Tại Châu Á nhiệt đới, 65% các nơi cƣ
trú là các cánh rừng tự nhiên đa bị mất.Tốc độ phá hủy đặc biệt lớn tại các nƣớc
Philippines, Bangladesh, Sri Lanka, Việt Nam, Ấn Độ, các nƣớc Châu Phi,... đa làm

47
Đa dạng sinh học

mất phần lớn các các nơi cƣ trú của các loài hoang dã, trầm trọng nhất là các nƣớc
Gambia, Ghana và Ruanda. Tốc độ phá rừng hiện nay khác nhau tại nhiều nơi trên
thế giới, tốc độ khá nhanh ở mức 1,5 đến 2% là các nƣớc nhƣ Việt Nam, Paraguay,
Mehico và Costa Rica. Tại vùng Địa Trung Hải, diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn
lại 10%.
Đối với các loài động vật hoang dã quan trọng, phần lớn những nơi cƣ trú
thích ứng của chúng đa bị phá huỷ, chỉ còn lại một số rất ít đƣợc bảo vệ. Ví dụ loài
đƣời ƣơi khổng lồ ở Sumatra và Borneo đa mất 63% nơi sinh sống và chỉ còn 2%
diện tích nơi sinh sống nguyên thuỷ của chúng đƣợc bảo tồn.
Việc phá hủy các rừng mƣa nhiệt đới là dấu hiệu đi kèm với việc mất các
loài. Rừng nhiệt đới ẩm chiếm 7% diện tích bề mặt trái đất, nhƣng ƣớc tính chúng
chứa hơn 50% tổng số loài trên trái đất. Diện tích ban đầu của rừng mƣa nhiệt đới
ƣớc tính khoảng 16 triệu km2. Kết hợp với việc khảo sát mặt đất, chụp ảnh không
gian và số liệu viễn thám từ vệ tinh ngƣời ta thấy rằng vào năm 1982 chỉ còn lại 9,5
triệu km2. Hằng năm có khoảng 180.000 km2 rừng mƣa bị mất, trong đó 80.000 km2
bị mất hoàn toàn và 100.000 km2 bị suy thoái đến mức cấu trúc loài và các diễn thế
của hệ sinh thái phần lớn bị thay đổi. Ngƣời ta còn dự báo thêm rằng với tốc độ mất
rừng nhƣ hiện nay thì đến năm 2040 sẽ còn lại một số rất ít rừng nhiệt đới nguyên
vẹn trừ một số khu nhỏ đƣợc đặt dƣới sự bảo tồn nghiêm ngặt.
Khai thác củi làm suy giảm đa dạng sinh học: Thƣờng xảy ra ở các nƣớc
chậm phát triển và đang phát triển nhƣ Việt Nam. Theo những số liệu thống kê,
trong phạm vi cả nƣớc, 90% năng lƣợng dùng trong các gia đình là lấy từ thực vật.
Hàng năm, khoảng 21 triệu tấn củi đƣợc khai thác từ rừng để phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt trong gia đình nhƣ: nấu cám lợn, chế biến các sản phẩm nông nghiêp nhƣ
chè, đƣờng…
Khai thác các sản phẩm ngoài gỗ: Khoảng 2300 loài thực vật, các sản phẩm
ngoài gỗ nhƣ song, mây, tre nứa, lá, cây, thuốc… đƣợc khai thác cho những mục
đích khác nhau: để dùng, để bán trên thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu. Đặc biệt
việc săn bắn, đuối bắt động vật hoang dã, khai thác cây dƣợc liệu quý là mối đe doạ

48
Đa dạng sinh học

lớn đối với động vật, đặc biệt là đối với các loài quý hiếm, các loài có giá trị kinh tế
cao, các loài có chức năng trong đấu tranh sinh học – cân bằng sinh thái trong quần
xã ngày càng mất nhiều.
Buôn bán động thực vật hoang dã: Hiện nay, tình trạng lùng sục, thu gom,
mua bán, vận chuyển trái phép động vật hoang dã sống và các sản phẩm từ động
thực vật, cả động thực vật quý hiếm ngày càng ra tăng. Vì vậy, buôn bán động thực
vật hoang dã là một nguyên nhân quan trọng làm suy giảm đa dạng sinh học, thậm
chí làm cho nhiều loài, đặc biệt là các loài quí hiếm, có giá trị kinh tế cao có nguy
cơ tuyệt chủng ở từng khu vực và trên toàn thế giới.

2.2. Sự du nhập các loài ngoại lai


Cùng với việc xuất khẩu động thực vật hoang dã, việc du nhập một số giống
mới cũng là nguyên nhân làm đa dạng sinh học trong các quốc gia khác nhau bị suy
giảm.
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài đƣợc giới hạn bởi các hàng rào do
chính các yếu tố môi trƣờng và khí hậu tạo ra ngăn cản sự phát tán. Các sa mạc, đại
dƣơng, đỉnh núi, và những dòng sông ngăn cản sự di chuyển của các loài. Con
ngƣời đã làm thay đổi cơ bản đặc tính này bằng việc vận chuyển phát tán các loài
trên toàn cầu. Tại thời kỳ trƣớc cách mạng công nghiệp, con ngƣời mang các cây
trồng và vật nuôi từ nơi này sang nơi khác khi họ tạo dựng những nơi định cƣ và
các thuộc địa mới. Ngày nay đã có một lƣợng lớn các loài do vô tình hay cố ý, đƣợc
đem đến những khu vực không phải là nơi cƣ trú gốc của chúng. Những loài đó đa
đƣợc du nhập do các nguyên nhân sau đây:
· Chế độ thuộc địa của các nước Châu Âu: những ngƣời Châu Âu mang đến
một vùng thuộc địa mới mang theo các hàng trăm giống chim, thú của Châu Âu để
làm cho phong cảnh ở đây trở nên thân quen với họ cũng nhƣ tạo ra thú vui săn bắn.
· Nghề trồng cây cảnh và làm nông nghiệp: nhiều loài cây đƣợc mang đến và
trồng tại những vùng đất mới nhƣ cây cảnh, cây nông nghiệp hoặc cây cho chăn

49
Đa dạng sinh học

nuôi gia súc. Rất nhiều loài trong số đó thoát vào tự nhiên và thâm nhập vào các
loài bản địa.
· Những sự vận chuyển không chủ đích: thƣờng xảy ra là các hạt cỏ vô tình bị
thu hoạch cùng các hạt ngũ cốc đƣợc đem bán và đƣợc gieo trên địa bàn mới. Chuột
và các loài côn trùng cƣ trú bất hợp pháp trên máy bay, tàu thủy, các vectơ truyền
bệnh, các động vật ký sinh đƣợc vận chuyển cùng với các động vật chủ của chúng.
Các tàu thuyền thƣờng mang theo các loài ngoại lai trong các khoang hầm. Các túi
đất để dằn tàu thƣờng mang theo các hạt cỏ và ấu trùng sống trong đất. Các túi nƣớc
để dằn tàu đổ ra ở cảng thƣờng đem theo các loại rêu tảo, động vật không xƣơng
sống và các loại cá nhỏ.
Phần lớn các loài du nhập không sống đƣợc tại những nơi mới đến do môi
trƣờng không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện sống của chúng. Dù vậy, vẫn
có một tỷ lệ nhất định các loài nhập cƣ thiết lập đƣợc cuộc sống trên vùng đất mới
và nhiều loài trong đó còn vƣợt trội, xâm lấn các loài bản địa. Các loài du nhập này
thậm chí còn cạnh tranh với các loài bản địa để có đƣợc nguồn thức ăn và nơi ở.
Các loài du nhập còn ăn thịt các loài bản địa cho đến khi chúng tuyệt chủng hoặc
làm chúng thay đổi nơi cƣ trú đến mức nhiều loài bản địa không thể nào tồn tại
đƣợc nữa.
Một trong những lý do quan trọng khiến các loài du nhập dễ dàng chiếm lĩnh
các nơi cƣ trú mới là ở nơi cƣ trú mới chƣa có các loài thiên địch của chúng nhƣ các
loài động vật là kẻ thù, các loài côn trùng và các loài ký sinh, gây bệnh. Các hoạt
động của con ngƣời tạo nên những điều kiện môi trƣờng không bình thƣờng, nhƣ sự
thay đổi các nguồn dinh dƣỡng, gây cháy rừng, tăng lƣợng ánh sáng,... tạo cơ hội
cho các loài du nhập thích ứng nhanh hơn và loại trừ đƣợc các loài bản địa.

2.3. Xây dựng cơ bản làm mất đa dạng sinh học


Cùng với sự gia tăng dân số là quá trình đô thị hoá diễn ra rất nhanh chóng
trong thời gian gần đây. Đô thị hoá không chỉ diễn ra ở các nƣớc công nghiệp phát
triển mà còn ở các nƣớc đang phát triển. Tuy nhiên, nếu nhƣ ở các nƣớc công

50
Đa dạng sinh học

nghiệp phát triển, quá trình này diễn ra một cáhc tƣơng đối có kiểm soát thì ở các
nƣớc đang phát triển, đô thị hoá hầu nhƣ là một quá trình tự phát. Đi kèm với quá
trình đô thị hoá là các con đƣờng, các khu đô thị, khu tập trung dân cƣ mới. Việc
xây dựng cơ bản nhƣ làm đƣờng giao thông, thuỷ lợi, khu công nghiệp, thuỷ điện,
khu dân cƣ mới… cũng là nguyên nhân trực tiếp làm mất môi trƣờng sống, làm suy
giảm đa dạng sinh học do diện tích các khu nông nghiệp, các cánh rừng, đồng cỏ,
thậm chí cả hồ ao, tức là các nơi sống của sinh vật, bị thu hẹp. Các hồ chứa đƣợc
xây dựng hàng năm ở Việt Nam đã làm mất đi khoảng 30.000 ha rừng ( Lê Vũ
Khôi).
Ngoài việc bị phá hủy trực tiếp, các nơi cƣ trú nguyên là những khu vực rộng
lớn của các loài thƣờng bị chia cắt thành nhiều phần nhỏ do việc làm đƣờng sá,
ruộng vƣờn, xây dựng thành phố và nhiều hoạt động khác của con ngƣời. Những
phần này thƣờng bị cách ly khỏi những phần khác và hình thái cấu trúc cảnh quan bị
thay đổi nhiều. Ngoài ra, việc phá hủy các nơi cƣ trú có thể hạn chế khả năng phát
tán và định cƣ của loài. Rất nhiều loài chim, thú và côn trùng sống trong địa phận
của rừng sẽ không vƣợt qua dù là một quảng ngắn khoảng diện tích trống vì có
nhiều nguy cơ bị đánh bắt. Tác hại của việc chia cắt nơi cƣ trú sẽ làm giảm khả
năng kiếm mồi của các loài thú. Ngoài ra nơi cƣ trú bị chia cắt cũng góp phần làm
suy giảm quần thể và dẫn đến sự tuyệt chủng do quần thể lớn lúc đầu bị chia ra hai
hay nhiều quần thể nhỏ. Các tiểu quần thể này rất dễ bị tổn thƣơng do bị ức chế sinh
sản và các vấn đề khác liên quan đến quần thể nhỏ.

2.4. Chiến tranh


Chiến tranh huỷ diệt con ngƣời, cơ sở kinh tế, huỷ diệt rừng và huỷ diệt hệ
động thực vật. Chiến tranh kèm theo nó là cháy rừng, phá huỷ rừng bằng các chất
độc hoá học cũng đồng nghĩa là các động thực vật sinh sống trong hệ sinh thái rừng
bị suy giảm và bị tiêu diệt. Trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1975, 13 triệu tấn
bom và 72 triệu lít chất độc hoá học rải xuống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đã
huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng ( Lê Vũ Khôi).

51
Đa dạng sinh học

Hậu quả của hoá chất độc do Mỹ rải ở miền nam Việt Nam trong chiến tranh
cho đến nay vẫn còn gây nên hậu quả nghiêm trọng cho ngƣời dân Việt Nam, tồn
dƣ trong đất, trong môi trƣờng sống và trong cơ thể động thực vật ở khu vực bị rải
chất độc hoá học làm cho môi trƣờng sống kém chất lƣợng, làm suy giảm đa dạng
sinh học.

2.5. Ô nhiễm môi trƣờng


Sự tác động của ô nhiễm môi trƣờng đến sự suy thoái đa dạng sinh học là rất
lớn. Ô nhiễm môi trƣờng kéo theo sự suy giảm, nghèo kiệt đa dạng sinh học ở các
hệ sinh thái bị ô nhiễm. Nạn ô nhiễm môi trƣờng gây ra bởi các nguồn thải, các loại
hóa chất sử dụng trong nông nghiệp nhƣ phân bón hoá học, thuốc trừ sâu…và chất
thải công nghiệp cũng nhƣ chất thải sinh hoạt, ngoài ra là ô nhiễm không khí, ô
nhiễm biển do tràn dầu…
2.5.1. Ô nhiễm do các hoạt động sản xuất nông nghiệp:
Sự nguy hại của thuốc trừ sâu đƣợc khuyến cáo từ những năm 1962. Nồng
độ của DDT và các loại thuốc trừ sâu khác tích luỹ trong cơ thể sinh vật, tăng lên
theo bậc cao dần của chuỗi thức ăn thông qua quá trình tích tụ sinh học
(bioaccumulation) và khuếch đại sinh học (magnification) (xem bảng 8).
Việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu để phòng trừ các loài côn trùng gây hại
cho cây trồng và phun vào nƣớc để diệt các ấu trùng muỗi đa làm hại tới những
quần thể khác sống trong thiên nhiên, đặc biệt đối với những loài chim ăn côn trùng,
cá và các loại động vật khác bị ảnh hƣởng bởi DDT hay các sản phẩm bán phân hủy
của chúng. Khi nồng độ thuốc trừ sâu có độ độc lớn tích luỹ đến mức cao trong các
tế bào cơ thể chim, nhƣ các loài diều hâu hay ó, thì chúng yếu đi và có xu hƣớng đẻ
ra những quả trứng có vỏ mỏng hơn bình thƣờng, vỏ này dễ vỡ trong quá trình ấp.
Do vậy, trứng không thể nở thành con non và quần thể loài chim suy giảm một cách
đáng kể. Tại các hồ và các cửa sông, dƣ lƣợng DDT và các loại thuốc trừ sâu khác
đƣợc tích luỹ lại trong cơ thể các loại cá lớn nhƣ cá heo và các động vật biển khác.

52
Đa dạng sinh học

Trên các khu vực canh tác nông nghiệp, các loài côn trùng có ích hay các loài có
nguy cơ bị tuyệt chủng cũng đều bị tiêu diệt cùng với các côn t rùng gây hại.

Bảng 2.7. Hàm lượng tích lũy DDT ở các bậc dinh dưỡng ở nước và trên cạn
(Nguồn : Lê Huy Bá. Độc học môi trường)

Số lần khuếch đại Sinh vật Hàm lượng DDT (ppm)

80.000 Chim nƣớc 1600,00

5.000 Cá 100,00

250 Tôm 5,00

1 Các loài tảo 0,02

75 Chim cổ đỏ 750,00

9 Giun đất 90,0

1 Đất 10,0

2.5.2. Hiện tượng phú dưỡng:


Các khoáng chất vi lƣợng tuy rất cần cho cuộc sống của động vật và thực vật
nhƣng chúng cũng có thể gây hại khi xuất hiện ở nồng độ cao. Các chất thải của
ngƣời, các loại phân bón hóa học, các chất tẩy rửa và các quá trình sản xuất trong
công nghiệp thƣờng xuyên thải ra một lƣợng lớn nitrat, photphat vào hệ sinh thái
thủy vực, dẫn đến hiện tƣợng phú dƣỡng nƣớc. nitrat và photphat với nồng độ cao
sẽ gây ra sự nở hoa của các loài tảo sống trên bề mặt nƣớc. Sự nở hoa của các loài
tảo này có thể rất dày đặc đến mức lấn chiếm cả các loài động, thực vật nổi và che
khuất những loài sống dƣới tầng đáy. Khi lớp tảo bề mặt quá dày, phần dƣới của
chúng sẽ bị chết và chìm xuống đáy. Số lƣợng vi khuẩn và nấm phân hủy lớp xác
tảo này sẽ tăng lên với cấp số nhân do nguồn dinh dƣỡng mới đƣợc cung cấp thêm,
hậu quả là chúng hấp thụ hầu hết lƣợng oxy hoà tan trong nƣớc. Thiếu oxy, hầu hết
các loài động vật sẽ chết. Kết quả quần xã bị suy giảm, chỉ còn sót lại những loài
thích nghi đƣợc với điều kiện nƣớc bị ô nhiễm hay nƣớc có lƣợng oxy hoà tan thấp.

53
Đa dạng sinh học

2.5.3.Ô nhiễm công nghiệp:


. * Mưa axít: nhiệt điện sử dụng nhiên liệu là than hay dầu đa thải ra một
lƣợng lớn các khí NOx, SOx vào không khí, các khí này khi gặp hơi nƣớc trong
không khí sẽ tạo ra axit nitric và axit sulfuric. Các axit này liên kết với những đám
mây và khi tạo thành mƣa làm giảm độ pH của nƣớc mƣa xuống rất thấp. Mƣa axit
sẽ làm giảm độ pH của đất và của nƣớc trong các hồ, ao, sông suối trên lục địa.
Mƣa axit đa tiêu diệt nhiều loài động và thực vật. Do độ axit của các hồ ao tăng lên,
nhiều cá con của nhiều loài cá và cả những con cá trƣởng thành cũng bị chết. Độ
axit tăng và nƣớc bị ô nhiễm là nguyên nhân chính làm suy giảm đáng kể các quần
thể động vật lƣỡng cƣ trên thế giới. Đối với phần lớn các loài động vật lƣỡng cƣ, ít
nhất một phần trong chu kỳ sống của chúng phụ thuộc vào môi trƣờng nƣớc, độ pH
của nƣớc giảm làm cho tỷ lệ trứng và ấu trùng bị chết tăng cao.
·* Sương mù quang hoá: Xe ô tô, các nhà máy điện và các hoạt động công
nghiệp thải ra các khí hydrocacbon, khí NO. Dƣới ánh sáng mặt trời, các chất này
tác dụng với khí quyển và tạo ra khí ozon và các chất phụ phẩm khác, tất cả khí này
đƣợc gọi chung là sƣơng mù quang hóa (photo-chemical smog). Nồng độ ozon cao
ở tầng khí quyển gần mặt đất sẽ giết chết các mô thực vật, làm cho cây dễ bị tổn
thƣơng, làm hại đến các quần xã sinh học, giảm năng suất nông nghiệp. Các quần
xã sinh học trên toàn cầu cũng có thể bị phá hủy hay bị thay đổi do các hợp chất
chứa nitơ trong không khí theo mƣa và bụi lắng đọng tự do và do đó có thể ảnh
hƣởng đến nguồn sản xuất lƣơng thực và thực phẩm.
·* Các kim loại độc hại: xăng có chứa chì, các hoạt động khai mỏ, luyện kim
và các hoạt động công nghiệp khác thải ra một lƣợng lớn chì, thiếc và nhiều loại
kim loại độc hại khác vào khí quyển. Các hợp chất này trực tiếp gây độc cho cuộc
sống của động và thực vật.
2.5.4. Sự thay đổi khí hậu toàn cầu:
Những nhà khí tƣợng học ngày càng đồng ý với quan điểm cho rằng ở thế kỷ
XXI khí hậu trái đất sẽ còn nóng lên từ khoảng 2-60C nữa vì sự gia tăng của khí
CO2 và các khí khác. Tác hại của sự thay đổi nhanh chóng này vào các quần thể

54
Đa dạng sinh học

sinh học là rất lớn. Ví dụ nhƣ các vùng khí hậu ở khu vực ôn đới miền Bắc và miền
Nam sẽ chuyển hoàn toàn về phía vùng cực. Các loài sống thích ứng với các khu
rừng rụng lá phía Bắc Mỹ sẽ phải di cƣ từ 55 -1000 km về phía Bắc trong suốt thế
kỷ XXI để thích ứng với điều kiện khí hậu thay đổi. Trong khi các loài có vùng
phân bố rộng và dễ phát tán có thể thay đổi để thích ứng với sự thay đổi, thì đối với
nhiều loài có vùng phân bố hẹp hoặc do khả năng phát tán kém nên việc tuyệt chủng
là khó tránh khỏi. Hiện tƣợng nhiệt độ tăng dần lên còn làm các khối băng ở vùng
cực tan ra. Do việc giải phóng một lƣợng nƣớc lớn nhƣ vậy, trong vòng 50 -100
năm tới mức nƣớc biển có thể tăng từ 0,2 -1,5 m. Mức nƣớc biển dâng cao có thể
làm ngập lụt những vùng đất thấp, những khu đất ngập nƣớc ven bờ biển và nhiều
thành phố lớn. Mực nƣớc tăng có khả năng gây hại đến nhiều loài san hô, nhất là
những loài chỉ tồn tại trong một độ sâu nhất định, nơi có ánh sáng và dòng chảy của
nƣớc phù hợp. Một số loài san hô không phát triển nhanh kịp với tốc độ nâng cao
mực nƣớc biển và dần dần chúng sẽ bị chết đuối. Sự hủy hoại còn lớn hơn nếu nhƣ
nhiệt độ nƣớc cũng tăng. Sự thay đổi khí hậu trái đất và nồng độ khí CO2 trong khí
quyển gia tăng có thể làm thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và sẽ
chỉ còn một số loài có khả năng phát triển thích ứng với điều kiện sống mới.

2.6. Tăng dân số


Tăng trƣởng dân số quá nhanh tạo ra áp lực rất lớn đối với đa dạng
sinh học. Trên thực tế, sự gia tăng dân số hiện nay là rất nhanh, với tốc độ khoảng
1,7%/năm. Với tốc độ này, đến năm 2025, dân số thế giới sẽ đạt đến 9,5 tỷ. Nếu thế
giới cần 200 năm từ những năm 1650 đến những năm 1850 để tăng gấp đôi dân số
từ 500 triệu lên 1 tỷ ngƣời thì lại chỉ cần 47 năm từ năm 1930 đến năm 1987 để tăng
gấp đôi dân số từ 2 tỷ lên 4 tỷ ngƣời và hiện đã đạt xấp xỉ 7 tỷ ngƣời. Trong khi dân
số gia tăng nhanh nhƣ vậy thì các tính toán về năng lƣợng sơ cấp cho thấy Trái Đất
chỉ có khả năng cung cấp năng lƣợng cho khoảng 13 - 15 tỷ ngƣời.
Sự gia tăng dân số đòi hỏi gia tăng nhu cầu sinh hoạt, lƣơng thực, thực phẩm,
vật liệu xây dựng và các nhu cầu cần thiết khác trong khi lƣợng tài nguyên thì hạn

55
Đa dạng sinh học

hẹp, nhất là đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn đến là phải mở rộng
đất nông nghiệp, đất định cƣ và đất xây dựng… vào đất rừng và làm cho đa dạng
sinh học giảm.
Ở vùng miền núi, tỷ lệ tăng dân số của các dân tộc ít ngƣời còn cao hơn. Khi
nguồn lợi cần thiết cho nhu cầu hàng ngày không đủ, ngƣời dân địa phƣơng ở miền
núi lại tiếp tục tập quán du canh, lấy đất trồng lúa nƣơng, hoa màu.. và cuộc sống
của họ dựa chủ yếu vào nguồn tài nguyên rừng vì thế nguồn tài nguyên đa dạng sinh
học ngày càng nghèo kiệt, tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái suy giảm
nghiêm trọng. Nhƣng ngƣời dân miền núi vẫn trong tình trạng nghèo khổ.

2.7. Di dân và tập quán du canh du cƣ


Sự di chuyển ngƣời nghèo tới các vùng khác là bình thƣờng, tuy nhiên cuộc
di chuyển dân này đã làm thay đổi sự cân bằng dân số ở miền núi. Sau khi đến nơi ở
mới, những ngƣời di dân dù là di dân theo kế hoạch hay di cƣ tự do lại khai thác
rừng lấy đất cày cấy làm nông nghiệp, chặt cây để xây dựng nhà ở…Sự di cƣ theo
kế hoạch hay di cƣ tự do đã là nguyên nhân quan trọng làm tăng dân số ở các địa
phƣơng và đã làm ảnh hƣởng rõ rệt đến đa dạng sinh học của vùng này.
Du canh là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu dài của nhiều dân tộc ít ngƣời
ở Việt Nam. Trong số 54 dân tộc thì có tới 50 dân tộc với khoảng 9 triệu dân có tập
quán du canh và do sức ép của sự gia tăng dân số, mà tốc độ của tăng dân số miền
núi là cao nhất, du canh trở thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái
hoá đất và kết quả là tạo nên cả một vùng đất trống đồi trọc rộng lớn nhƣ hiện nay.

2.8. Sự nghèo đói


Ở hầu hết các nƣớc chậm phát triển và đang phát triển trên thế giới. Việt
Nam với khoảng 70% dân số ở nông thôn, là một nƣớc phụ thuộc vào nông nghiệp
và tài nguyên thiên nhiên. Khu vực nông nghiệp còn nghèo hơn nhiều so với khu
vực công nghiệp, vùng nông thông nghèo hơn khu vực thành thị, mức chênh lệch
giữa nông thôn và thành thị còn rất xa. Mức nghèo đói thay đổi theo các vùng, trong

56
Đa dạng sinh học

đó nghèo nhất là vùng núi phía bắc và cao nguyên tây nguyên. Ngay trong các Khu
bảo tồn, 90% dân địa phƣơng sống trong vùng đệm của Khu bảo tồn. Họ kiếm sống
dựa vào nông nghiệp và khai thác tài nguyên sinh học trong hệ sinh thái rừng. Hầu
hết ngƣời dân thiếu đất trồng trọt. Đời sống của họ rất thấp, khoảng 50% gia đình
thuộc diện nghèo.
Nhƣ vậy, vì nghèo đói buộc ngƣời dân phải khai thác rừng, khai thác động
thực vật, bóc lột ruộng đất của mình, làm cho tài nguyên sinh vật ngày càng suy
thoái nhanh chóng hơn.

2.9. Mâu thuẫn trong các chính sách


Các chính sách đƣợc soạn thảo và ban hành không đồng bộ, một số chủ
trƣơng chính sách nhằm kiểm soát tài nguyên sinh vật mang tính ứng phó ứng phó
nhiều hơn là mang tính chủ động đã hoạch định sẵn. Các chủ trƣơng đề ra nhằm
ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học, nhƣng thiếu các giải pháp kiểm soát chặt chẽ
của các cấp quản lý. Đồng thời nhiều chính sách thiếu quan tâm đến mối quan hệ
hữu cơ giữa cộng đồng địa phƣơng với tài nguyên sinh vật, chƣa đảm bảo tính
thuyết phục nên tài nguyên sinh vật vẫn bị tác động và suy giảm. Chính sách quản
lý phát triển tài nguyên sinh vật phục vụ cho các mục đích khác chƣa đƣợc phối hợp
đồng bộ trên cơ sở mẫu hình sử dụng bền vững tài nguyên.

57
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG III. ĐE DOẠ LOÀI VÀ BẢO TỒN


1. SÁCH ĐỎ IUCN VÀ SỰ TUYỆT CHỦNG
1.1. Sách đỏ IUCN

Theo sách đỏ của IUCN (IUCN, 1994 và bản hƣớng dẫn áp dụng các chỉ tiêu
sách đỏ cuả IUCN ở cấp quốc gia và khu vực) các cấp độ bị đe dọa đƣợc phân ra
các cấp nhƣ sau:
Tuyệt chủng- Extinct (EX): Loài bị tuyệt chủng trên toàn cầu là loài không
còn cá thể nào sống sót tại bất kỳ nơi nào trên thế giới, các thông tin di truyền chứa
đựng AND vĩnh viễn mất đi, loài không bao giờ còn có cơ hội phục hồi.
Tuyệt chủng vùng-Region Extinct (RE): Một phân loại bị tuyệt chủng vùng
khi cá thể cuối cùng có khả năng sinh sản còn sống trong một vùng nào đó đã chết
hoặc biến mất khỏi vùng đó.
Tuyệt chủng trong đời sống hoang dã- Extinct in the Wild (EW): Loài không
còn sống sót trong toàn bộ vùng phân bố, kể cả trong một khu vực, nhƣng chúng
đƣợc tồn tại trong nuôi trồng, nuôi nhốt một quần thể hay nhiều quần thể đƣợc
thuần hóa.
Rất nguy cấp- Critically Endangered (CE) : Lòai còn lại một hoặc vài quần
thể nhỏ không còn khả năng phục hồi số lƣợng
Đang nguy cấp – Endangered (E,EN): Loài còn rất ít cá thể, có nhiều khả
năng bị tuyệt chủng trong tƣơng lai không xa. Trong số này kể cả những loài có số
lƣợng cá thể bị giảm xuống tới mức lòai khó có thể tiếp tục tồn tại nếu nhân tố đe
dọa vẫn tiếp diễn.
Sẽ nguy cấp- Vulnerable (V,VU): Loài có thể bị tuyệt chủng trong tƣơng lai
gần vì các quần thể của chúng đang bị thu hẹp kích thƣớc khắp mọi nơi thuộc vùng
phân bố của lòai; khả năng tồn tại của loài này lâu dài lầ không chắc chắn.
Hiếm- Race: là những loài có số lƣợng cá thể ít, thƣờng là do vùng phân bố
hẹp hoặc là do mật độ quần thể thấp. Mặc dù loài này chƣa phải đối mặt với những

58
Đa dạng sinh học

nguy hiểm tức thời song số lƣợng nhỏ khiến chúng rất dễ trở thành những loài có
nguy cơ bị tuyệt chủng.
Bị đe dọa tuyệt diệt- Threatened (T): Loài có thể thuộc một trong những cấp
bảo tồn nêu trên nhƣng do chƣa đƣợc hiểu biết đầy đủ nên chƣa đƣợc xếp vào cấp
độ nào.
Nguy cấp thấp- Lower risk (LR) Loài đã bị tác động, duy giảm số lƣợng, khu
cƣ trú bị thu hẹp có nguy cơ bị tuyệt diệt, đƣợc chia ra các mức nhỏ:
+ Nguy cấp thấp đã đƣợc bảo tồn – LR Conservation dependent (LRcd)
+ Nguy cấp thấp gần bị đe dọa – LR Near Threatened (LRnt)
+ Nguy cấp thấp ít lo ngại – LR Least Concern (LRnc)
Thiếu dẫn liệu- Data deficient (DD) Loài chƣa đủ dẫn liệu để xếp hạng.
Trong tiêu chí đánh giá của IUCN năm 1994 thì có 8 bậc. Bậc Ít nguy cấp
(Lower Risk, LR) bao gồm 3 nhóm nhỏ là Sắp bị đe doạ, Ít quan tâm, và Phụ thuộc
bảo tồn (Conservation Dependent, CD) (nay gộp vào nhóm Sắp bị đe dọa).
Khi nói đến các loài, hay phân loài đang bị đe doạ, hoặc có nguy cơ tuyệt
chủng thì có nghĩa là các loài thuộc bậc CE, EN, và VU.
Sách đỏ IUCN công bố văn bản mới nhất (Sách đỏ 2004) vào ngày 17 tháng
11, 2004. Văn bản này đã đánh giá tất cả 38.047 loài, cùng với 2.140 phân loài,
giống, chi và quần thể. Trong đó, 15.503 loài nằm trong tình trạng nguy cơ tuyệt
chủng gồm 7.180 loài động vật, 8.321 loài thực vật, và 2 loài nấm.
Danh sách cũng công bố 784 loài loài tuyệt chủng đƣợc ghi nhận từ năm
1500. Nhƣ vậy là đã có thêm 18 loài tuyệt chủng so với bản danh sách năm 2000.
Mỗi năm một số ít các loài tuyệt chủng lại đƣợc phát hiện và sắp xếp vào nhóm DD.
Ví dụ, trong năm 2002 danh sách tuyệt chủng đã giảm xuống 759 trƣớc khi tăng lên
nhƣ hiện nay.

59
Đa dạng sinh học

Bảng 2.8. Một số nhóm loài tuyệt chủng từ năm 1600 đến nay

Số loài tuyệt chủng Số loài % tuyệt

Bậc phân loại Đất Đảo Đại Tổng số chủng

liền Dương

Thú 30 51 4 85 4.000 2,10

Chim 21 92 0 113 9.000 1,30

Bò sát 1 20 0 21 6.300 0,30

Lƣỡng thê 2 0 0 2 4.200 0,05

Cá 22 48 0 23 19.100 0,10

Không xƣơng 49 48 1 98 1.000.000 0,01


sống

Thực vật có 245 139 0 384 250.000 0,20


hoa

[Nguồn: Reid và Miller 1989].

1.2. Sự tuyệt chủng (extinction)


Ở đây cần nói rõ về khái niệm tuyệt chủng. Khái niệm tuyệt chủng có rất
nhiều ý nghĩa và khác nhau tùy thuộc vào từng bối cảnh cụ thể. Một loài bị coi là
tuyệt chủng (extinct) khi không còn một cá thể nào của loài đó còn sống sót tại bất
kỳ nơi nào trên thế giới. Nếu nhƣ một số cá thể của loài còn sót lại chỉ nhờ vào sự
kiểm soát, chăm sóc, nuôi dƣỡng của con ngƣời, thì loài này đƣợc coi là đã bị tuyệt
chủng trong thiên nhiên hoang dã (extinct in the wild). Trong hai trƣờng hợp trên,
các loài có thể coi nhƣ bị tuyệt chủng trên phạm vi toàn cầu (globally extinct). Một
loài bị coi là tuyệt chủng cục bộ (locally extinct) nếu nhƣ chúng không còn sống sót
tại nơi chúng từng sinh sống, nhƣng ngƣời ta vẫn còn tìm thấy chúng tại những nơi
khác trong thiên nhiên. Một số nhà sinh học sử dụng cụm từ loài bị tuyệt chủng về

60
Đa dạng sinh học

phƣơng diện sinh thái học (ecologically extinct), điều đó có nghĩa là số lƣợng cá thể
loài còn lại ít đến nỗi tác dụng của nó không có chút ý nghĩa nào đến những loài
khác trong quần xã.
Tuyệt chủng là một quá trình tự nhiên. Lý thuyết tiến hóa nói rõ rằng một
loài có thể bị dồn vào tuyệt chủng do không cạnh tranh nổi với một loài khác hay do
bị ăn thịt. Một loài có thể tiến hóa từ một loài khác để đáp ứng với những thay đổi
của môi trƣờng hay là do sự thay đổi ngẫu nhiên của quỹ gene. Hiện tại chúng ta
cũng không biết đầy đủ những nhân tố xác định sự phồn thịnh hay suy thoái của
một loài, nhƣng ít nhất chúng ta có thể khẳng định rằng sự tuyệt chủng là một hiện
tƣợng nằm trong chu trình vận động của tự nhiên tƣơng tự nhƣ sự hình thành loài.
1.2.1. Sự tuyệt chủng hàng loạt (mass extinction)
Theo các nhà khoa học, tuyệt chủng hàng loạt là những sự kiện tuyệt chủng
đa tác động đến sinh vật trong các môi trƣờng khác nhau, gây ra những mất mát
nặng nề về số lƣợng trong các bậc phân loại.
* Tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của tuyệt chủng hàng
loạt bao gồm các nguyên nhân bên ngoài nhƣ tác động của các thiên thạch đến các
nguyên nhân bên trong nhƣ núi lửa, thời kỳ băng hà,.. đã tác động đến sự thay đổi
khí hậu toàn cầu là tác nhân chính gây ra tuyệt chủng hành loạt.
Trong lịch sử tiến hoá của trái đất, hầu hết các loài bị mất đi do các thời kỳ
tuyệt chủng, trong đó có 5 thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt nghiêm trọng kéo dài trong
thời gian 350 triệu năm. Năm thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt này đƣợc xác định qua
việc nghiên cứu các dẫn chứng của những thay đổi các hoá thạch động, thực vật.
Dựa vào các hoá thạch, các nhà khoa học đã chúng minh rằng có 5 đợt tuyệt
chủng hàng loạt đa xảy ra trong quá khứ:
+ Ordovic cuối (440 triệu năm trƣớc): Khoảng 50% số họ của động vật và
85% số loài đa bị tiêu diệt trong thời gian này chủ yếu là các loài ở biển.
+ Devon muộn (365 triệu năm trƣớc): có 30% họ của các loài động vật bị
tuyệt chủng chủ yếu tác động đến các loài ở biển. Thời kỳ này kéo dài từ 500 ngàn

61
Đa dạng sinh học

đến 15 triệu năm, nguyên nhân do lạnh toàn cầu và giảm oxy trong các tầng nƣớc
nông.
+ Permi cuối (251 triệu năm trƣớc): 50% các họ động vật bị tuyệt chủng,
khoảng 96% loài sinh vật biển bị tuyệt chủng trong thời kỳ này. Nguyên nhân do
biến động mức nƣớc biển, hoạt động của núi lửa và thay đổi khí hậu.
+ Trias cuối (205 triệu năm trƣớc): có 35 % họ các loài động vật và khoảng
76% loài, phần lớn là các loài ở biển, bị tuyệt chủng.
+ Creta cuối (65 triệu năm trƣớc): Trong số 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt
thì sự kiện đƣợc con ngƣời biết rõ nhất xảy ra ở kỷ phấn trắng và kỷ thứ ba
(Cretaceous và Tertiary), còn gọi là thời kỳ K/T, với khoảng 60 % các loài động vật
bị tuyệt chủng. Đây là thời kỳ các giống động vật biển bị mất trong diện rộng, tạo ra
những thay đổi cơ bản trong các hệ sinh thái trên cạn và sự biến mất của khủng
long. Trong thời kỳ tiến hoá đổi mới này, các loài linh trƣởng phát triển mạnh và
loài ngƣời (Homo sapiens) xuất hiện. Nguyên nhân là do tác động của các thiên
thạch làm thay đổi khí hậu.
Thời gian phục hồi cho các sự kiện tuyệt chủng trong quá khứ cũng rất dài.
Các nhà khoa học tính đƣợc rằng, để phục hồi sự đa dạng sinh học cho mỗi lần tuyệt
chủng trong quá khứ cần phải có thời gian phục hồi khoảng vài chục triệu năm (xem
bảng 2.9).

Bảng 2.9. Thời gian phục hồi từ các tuyệt chủng trong quá khứ

Thời kỳ tuyệt chủng Thời gian phục hồi (triệu năm)

Ordovician cuối 25

Devonian muộn 30

Permian và Triassic 100

Cretaceous cuối 20

[Nguồn: USAID, 2005].

62
Đa dạng sinh học

* Tuyệt chủng hàng loạt ngày nay


Tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay, hay còn gọi là tuyệt chủng
hàng loạt thứ 6, xảy ra vào kỷ Pleistocen từ hơn 1 triệu năm trƣớc. Đây là thời kỳ có
những biến động lớn về khí hậu toàn cầu, sự dâng cao và hạ thấp mức nƣớc biển cùng
với sự mở rộng vùng phân bố của loài ngƣời từ Châu Phi, Châu Âu, Á đến các vùng
khác trên thế giới. Đặc tính quan trọng nhất của sự tuyệt chủng trong giai đoạn này
liên quan với sự lan rộng của loài ngƣời trên khắp thế giới, trong đó các loài thú có
kích thƣớc lớn hơn 44 kg, bị tuyệt chủng đến 74 - 86%.
So với các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt xảy ra trong quá khứ thì tuyệt
chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay có nhiều sai khác. Sai khác nổi bật nhất là
trong tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay xảy ra với tốc độ rất nhanh.
Các nhà sinh thái đánh giá rằng chúng ta đã mất hàng trăm ngàn loài trong vòng 50
năm qua. Các chuyên gia cũng dự báo rằng nếu cứ tiếp tục theo xu hƣớng nhƣ hiện
nay, chúng ta có thể bị mất đi ½ loài sinh vật trong thế kỷ tới. Ngƣợc lại, tuyệt
chủng hàng loạt trong quá khứ xảy ra qua hàng trăm ngàn năm và trong một số
trƣờng hợp là hàng triệu năm. Ngay cả ở thời kỳ tuyệt chủng cuối cùng trong quá
khứ của khủng long, do tác động của các thiên thạch, thì ảnh hƣởng của nó cũng
kéo dài trong một thời gian tƣơng đối. Các chứng cứ hoá thạch đa chỉ ra rằng quần
thể của các loài khủng long đa bị kiệt quệ trong hàng ngàn năm.
Nhân tố sai khác tiếp theo của thời kỳ hiện nay đó là số lƣợng loài có nguy
cơ tuyệt chủng hiện nay lớn gấp nhiều lần số loài trong quá khứ. Lý do đơn giản là
vì hiện nay số loài sinh vật nhiều hơn so với quá khứ. Ví dụ nhƣ trƣớc khi xảy ra
đợt tuyệt chủng hàng loạt thứ 5 vào khoảng 65 triệu năm trƣớc, thì số loài thực vật
có hoa trên thế giới chỉ khoảng 100.000 loài, còn hiện nay con số đó đã gần 240.000
loài. Trong số các loài thú, côn trùng và các sinh vật khác cũng có một sự gia tăng
đáng kể về tổng số loài.
Khác với các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ, xảy ra chủ yếu do
các hiện tƣợng thiên nhiên, tuyệt chủng hiện nay chủ yếu do con ngƣời. Ngoài ra,
theo sau các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ là sự hình thành loài mới để

63
Đa dạng sinh học

bù đắp cho số loài bị mất đi, còn sự tuyệt chủng hàng loạt giai đoạn hiện nay không
kèm theo sự hình thành loài mới. Các nhà Cổ sinh vật học cho rằng sau khi khủng
long bị tuyệt chủng, ít nhất 5 triệu năm sau mới có sự cân bằng của sinh vật nhờ vào
tiến hoá. Đối với giai đoạn hiện nay sẽ là một thách thức lớn, bởi vì tuyệt chủng
ngày nay liên quan đến tất cả các thứ hạng chính của loài, trong khi đó ở 65 triệu
năm trƣớc, hầu hết các loài thú, chim, lƣỡng thê, và nhiều loài bò sát còn sống sót.
1.2.2. Các loài dễ bị tuyệt chủng
Các nhà sinh thái học đã nghiên cứu kiểm chứng và thấy rằng không phải tất
cả các loài đều có mức độ dễ tuyệt chủng nhƣ nhau; một số nhóm loài đặc biệt dễ bị
tuyệt chủng. Các loài này rất cần đƣợc theo dõi cẩn thận và phải đƣợc quản lý với
những nổ lực nhằm bảo tồn chúng. Các loài đặc biệt dễ tuyệt chủng thƣờng nằm
trong các nhóm loài sau đây:
1. Các loài có vùng phân bố địa lý hẹp
2. Các loài chỉ tồn tại với một hay vài quần thể
3. Các loài có kích thước quần thể nhỏ
4. Các loài có quần thể đang suy giảm về số lượng
5. Các loài có mật độ quần thể thấp.
6. Các loài cần một vùng cư trú rộng lớn
7. Các loài có kích thước cơ thể lớn
8. Các loài không có khả năng di chuyển tốt
9. Các loài di cư theo mùa
10. Các loài ít có tính biến dị di truyền
11. Các loài với nơi sống đặc trưng
12. Các loài đặc trưng tìm thấy ở môi trường ổn định
13. Các loài sống thành bầy đàn
14. Các loài là đối tượng săn bắn và hái lượm của con người
Các đặc điểm trên đây của các loài có xu hƣớng dễ bị tuyệt chủng không
phải là những đặc điểm riêng biệt, chúng thƣờng có xu hƣớng tạo thành từng nhóm

64
Đa dạng sinh học

đặc điểm. Ví dụ, các loài kích thƣớc cơ thể lớn thƣờng có mật độ quần thể thấp và
địa bàn rộng - nghĩa là có tất cả các đặc điểm của một loài có xu hƣớng dễ bị dẫn
đến tuyệt chủng. Bằng cách xác định các đặc điểm làm loài dễ bị dẫn đến tuyệt
chủng, các nhà sinh học bảo tồn có thể dự tính đƣợc những việc làm cần thiết nhằm
quản lý các loài dễ bị tuyệt chủng.

2. BẢO TỒN LOÀI


2.1. Vì sao phải bảo tồn loài?
2.1.1. Nguyên nhân về đạo đức
Mọi sinh vật sinh ra trên trái đất đều có quyền tồn tại nhƣ nhau, không một
sinh vật nào đƣợc lấy quyền của mình để quyết định sự sống còn của sinh vật khác,
ngay cả con ngƣời cũng vậy. Các sinh vật phải nƣơng tựa vào nhau để sống, sinh
vật này là chỗ dựa của sinh vật kia. Chúng tạo thành một chuỗi liên hoàn, tồn tại
trong thiên nhiên mà mỗi sinh vật chỉ là một mắt xích trong chuỗi liên hoàn đó.
2.1.2. Nguyên nhân của cân bằng sinh thái
Các sinh vật trên trái đất sống bình thƣờng là nhờ sự cân bằng sinh thái luôn
luôn đƣợc đảm bảo. Một loài sinh vật mặc dù là rất nhỏ bé nhƣng nó lại là một mắt
xích trong chuỗi thức ăn, nếu loài đó bị diệt vong thì có thể làm biến đối nghiêm
trọng số lƣợng cá thể của loài khác do bị thiếu nguồn thức ăn thƣờng xuyên hoặc
không còn yếu tố kìm hãm sự phát triển. Một ví dụ điển hình về vấn đề này là trƣớc
đây tại Trung Quốc ngƣời ta đã mở một chiến dịch tiêu diệt loài chim sẻ do chúng
phá hoai mùa màng, tuy nhiên sau vài năm khi số lƣợng chim sẻ giảm đáng kể thì
mùa màng lại bị mất mùa do các loài côn trùng phá hoại.
2.1.3. Nguyên nhân kinh tế
Sự giàu có các loài trong tự nhiên cũng đồng nghĩa với việc chúng ta có một
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và chúng ta phải tìm cách khai thác chúng
một cách bền vững. Từ thời nguyên thuỷ con ngƣời sinh ra đã nhờ vào rừng để sinh
tồn, đã biết khai thác củ, quả, hoa, lá về làm thức ăn. Hiện nay có ít nhất 75.000 loài
cây có thể ăn đƣợc nhƣng chỉ có 5 loài có giá trị lớn, 12000 loài đƣợc dùng làm

65
Đa dạng sinh học

thức ăn. Khoảng 30 loài cung cấp với chừng 90% chất dinh dƣỡng cho toàn thế
giới. Cây làm thuốc chiếm tới 35.000-70.000 loài thực vật bậc cao. Riêng ở Mỹ có
tới 25% các vị thuốc đều có mặt cây cỏ.
2.1.4. Đảm bảo giá trị tiềm năng
Hiện nay phần lớn đa dạng sinh học chƣa đƣợc khai thác, tức là tiềm năng
của nó chƣa đƣợc hiểu biết một cách đầy đủ. Cho đến nay mới chỉ có 5% tổng số
loài cây đƣợc nghiên cứu tìm kiếm phục vụ con ngƣời và có 2000 loài chiếm 2/5
tổng số loài đã đƣợc nghiên cứu về tiềm năng. Số còn lại đang ẩn chứa một tiềm
năng lớn về giá trị vì trình độ hiện nay chƣa cho phép con ngƣời có thể phát hiện tất
cả những bí mật của thiên nhiên. Tuy nhiên, cũng có thể có giá trị lớn cho loài
ngƣời nếu giá trị đó đƣợc phát hiện và khai thác.
2.1.5. Nguyên nhân thẩm mỹ
Giá trị của những cảnh đẹp thiên nhiên chính là do có sự đa dạng sinh học
nói chung cũng nhƣ đa dạng loài nói riêng, chính vì thế cần phải có nhữnh biện
pháp bảo tồn loài để giữ đƣợc những cảng đẹp của tạo hoá.

2.2. Các cấp độ bảo tồn loài


Nhằm nêu bật tình trạng đáng chú ý của một loài cho mục đích bảo tồn , tổ
chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) đã xây dựng 5 cấp độ bảo tồn:
* Đã tuyệt chủng: là những loài (hay những đơn vị phân loại khác nhƣ phân
loài hay chi) không còn thấy tồn tại trong tự nhiên nữa. Những cuộc tìm kiếm tại
những nơi trƣớc đây đƣợc coi là quê hƣơng sinh sống cũng nhƣ những nơi phân bố
khác đều không phát hiện đƣợc chúng
* Đang nguy cấp (đang có nguy cơ tuyệt chủng): là những loài có nhiều khả
năng bị tuyệt chủng trong tƣơng lai không xa. Trong số này có cả những loài có số
lƣợng cá thể bị giảm xuống tới mức loài khó có thể tiếp tục tồn tại nếu nhƣ các nhân
tố đe doạ cứ tiếp diễn.

66
Đa dạng sinh học

* Dễ bị tổn thương (có thể bị đe doạ tuyệt chủng): là những loài có thể bị
tuyệt chủng trong tƣơng lai gần vì các quần thể của chúng đang bị thu hẹp kích
thƣớc tại khắp mọi nơi thuộc vùng phân bố của loài. Khả năng tồn tại lâu dài của
những loài này là không chắc chắn.
* Hiếm: là những loài có số lƣợng cá thể ít, thƣờng là do có vùng phân bố
trong giới hẹp hoặc là do mật độ quần thể thấp. Mặc dù những loài này chƣa phải
đối mặt với những nguy hiểm tức thời song số lƣợng cá thể nhỏ khiến chúng dễ trở
thành những loài có nguy cơ tuyệt chủng.
* Loài chưa được hiểu biết đầy đủ: là những loài có thể thuộc một trong các
cấp độ bảo tồn nêu trên nhƣng do chƣa đƣợc hiểu biết đầy đủ nên chƣa xếp đƣợc
vào một cấp độ cụ thể nào.
Trong các cấp trên thì các loài thuộc từ cấp 2 đến cấp 4 đƣợc coi là những
loài đang bị đe doạ tuyệt chủng. Những cấp này có vai trò quan trọng ở cấp quốc
gia và quốc tế trong việc hƣớng sự chú ý vào những loài đang đƣợc quan tâm đặc
biệt và trong việc xác định những loài đang bị đe doạ tuyệt chủng cần đƣợc bảo vệ
thông qua các cam kết quốc tế nhƣ công ƣớc CITES chẳng hạn. Trung tâm quan
trắc và bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WCMC) đã sử dụng các cấp độ trên để đánh giá
và mô tả những mối đe doạ đối với khoảng 60.000 loài thực vật và 2.000 loài động
vật trong cuốn sách đỏ do trung tâm này xuất bản.

2.3. Công cụ bảo tồn loài


2.3.1. Bảo tồn loài bằng pháp chế.
* Các bộ luật quốc gia
Nhiều bộ luật quốc gia đã nhằm cụ thể vào việc bảo tồn loài. Ví dụ Luật về
các loài có nguy cơ tuyệt chủng do Quốc hội Mỹ thông qua năm 1973 nhằm “cung
cấp một phƣơng tiện mà nhờ đó các hệ sinh thái, nơi mà có các loài đang bị đe doạ
và đang có nguy cơ tuyệt chủng, sẽ đƣợc bảo tồn và cung cấp một chƣơng trình để
bảo tồn các loài đó”. Bộ luật này đã cung cấp một cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ
một số loài động vật quan trọng nhất tại nƣớc Mỹ nhƣ gấu xám Bắc Mỹ, đại bàng

67
Đa dạng sinh học

trắng, sếu và sói xám. Kết quả là năm 1994 loài đại bàng trắng Bắc Mỹ đã chuyển
từ cấp có nguy cơ tuyệt chủng sang cấp ít nguy hiểm hơn là “bị đe doạ” vì số lƣợng
cá thể của chúng tăng từ 400 đôi vào năm 1960 lên tới 4000 đôi nhƣ hiện nay.
* Các thoả thuận quốc tế
Việc bảo tồn đa dạng sinh học cần phải đƣợc giải quyết ở mọi cấp độ khác
nhau trong chính phủ của từng quốc gia và giữa các chính phủ. Trong khi các cơ
chế kiểm soát chính hiện có chủ yếu là dựa vào từng quốc gia riêng biệt thì các thoả
thuận quốc tế đang ngày càng đƣợc sử dụng nhiều trong bảo vệ các loài và nơi cƣ
trú. Hợp tác quốc tế là một điều kiện tiên quyết vì các lý do khac nhau:
- Các loài thƣờng di chuyển qua các biên giới. ví dụ các hoạt động boả tồn
chim di cƣ ở phía Bắc Châu Âu sẽ không thành công nếu nhƣ nơi cƣ trú qua mùa
đông của chim ở Châu Âu bị phá huỷ.
- Việc buôn bán quốc tế có thể gây nên hậu quả làm suy giảm đa dạng sinh
học do khai thác quá mức phục vụ cho thƣơng mại quốc tế.
- Lợi ich của đa dạng sinh học là có tầm quan trọng quốc tế.
- Các vấn đề có tính chất toàn cầu nhƣ ô nhiễm môi trƣờng,..
Hiệp ƣớc quan trọng nhất trong việc bảo vệ các loài ở qui mô quốc tế là Công
ƣớc về buôn bán các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng (CITES, Convention on
International Trade in Endangered Species) đƣợc ra đời năm 1973 cùng với sự ra đời
của Chƣơng trình Môi trƣờng Liên Hiệp Quốc (UNDP). Công ƣớc này hiện có 120
nƣớc tham gia. Công ƣớc CITES đƣa ra một danh sách các loài đƣợc kiểm soát trong
việc buôn bán quốc tế; các quốc gia thành viên đồng ý hạn chế buôn bán và khai thác
có tính hủy diệt các loài này. Phụ lục I của của Công ƣớc liệt kê 675 loài động vật và
thực vật bị cấm buôn bán hoàn toàn.
Một hiệp ƣớc quốc tế quan trọng khác là Công ƣớc về bảo vệ các loài động
vật di cƣ, ký năm 1979, mà trọng tâm là các loài chim di cƣ. Công ƣớc này là một
phần bổ sung quan trọng cho Công ƣớc CITES vì nó đa khuyến khích các nỗ lực
quốc tế bảo tồn các loài chim di cƣ xuyên biên giới cũng nhƣ đa nhấn mạnh các
cách tiếp cận trong việc nghiên cứu, quản lý và kiểm soát săn bắn.

68
Đa dạng sinh học

Còn có các thỏa thuận quốc tế khác nhằm bảo vệ các loài sinh vật, đó là:
+ Công ƣớc về Bảo tồn các loài sinh vật biển vùng Nam Cực
+ Công ƣớc Quốc tế về kiểm soát cá voi
+ Công ƣớc Quốc tế về bảo vệ các loài chim và Công ƣớc Benelux về việc
săn bắn và bảo vệ các loài chim
+ Công ƣớc về đánh bắt và bảo vệ sinh vật trong biển Bantic
+ Công ƣớc bảo tồn đa dạng sinh học
Nhƣợc điểm của các hiệp ƣớc quốc tế này là sự tham gia tự nguyện; các quốc
gia có thể rút lui khỏi công ƣớc để theo đuổi các lợi ích riêng của họ khi cảm thấy
các điều kiện phải tuân thủ là quá khó khăn.
2.3.2. Bảo tồn loài bằng công cụ kỹ thuật
Trong công tác bảo tồn loài có thể dùng các công cụ kỹ thuật nhƣ quy hoạch
môi trƣờng, GIS hoặc viễn thám. Đây là những công cụ đƣợc ứng dụng rộng rãi
trong công tác điều tra, quy hoạch môi trƣờng nói chung cũng nhƣ trong công tác
điều tra quy hoạch các vùng sinh thái nói riêng đƣợc xác định có tính đa dạng sinh
học cao. Ngoài ra, các biện pháp bảo tồn nhằm mục đích bảo vệ các giống loài quý
hiếm trên thực tế còn bao gồm việc thành lập các vƣờn thực vật, động vật và các
trạm cứu hộ động vật.
2.3.1.1. Các vườn thực vật
Vƣờn thực vật là nơi lƣu giữ các quần thể thực vật dễ dàng hơn so với động
vật. Thực vật đòi hỏi sự chăm sóc ít hơn là động vật; nhu cầu về nơi ở của chúng dễ
cung cấp; không cần thiết phải nhốt lại; các cá thể có thể dễ dàng nhân giống hơn;
hầu hết là lƣỡng tính, trong đó có khoảng một nửa thành phần loài cần phải đƣợc
lƣu giữ về đa dạng di truyền. Từ những lí do đó, các vƣờn thực vật là công cụ thật
sự quan trọng trong việc lƣu giữ đa dạng loài và di truyền.
Trên thế giới hiện nay có khoảng hơn 1500 vƣờn thực vật, đang lƣu giữ và
trồng trọt một lƣợng rất lớn các loài thực vật, ƣớc chừng khoảng 80.000 loài trong
điều kiện nhân tạo, mỗi vƣờn khoảng vài trăm đến hàng nghìn loài (Heywood,

69
Đa dạng sinh học

1992).Vƣờn thực vật lớn nhất thế giới Vƣờn Thực vật Hoàng gia Anh Quốc tại Kew
lƣu giữ khoảng 38.000 loài (khoảng 10% là những loài bị đe doạ). Vai trò quan
trọng của các vƣờn thực vật trong việc bảo tồn đa dạng sinh học đã đƣợc minh họa
bởi việc mở rộng mạng lƣới của 19 vƣờn thực vật ở Mỹ với Trung tâm bảo tồn thực
vật (CPC). CPC ƣớc tính có 3.000 taxon đặc hữu ở Mỹ bị đe dọa tuyệt chủng, trong
đó hơn 300 loài đang đƣợc nuôi cấy ở mạng lƣới các vƣờn.
Một trong những chức năng quan trọng của các vƣờn thực vật là tham gia
vào chƣơng trình hồi phục các loài thực vật nguy cấp và các HST bị suy thoái. Sự
đóng góp của các vƣờn thực vật đối với công tác bảo tồn loài mở rộng ra đối với các
loài đang bị đe dọa ngoài hoang dã. Các vƣờn thực vật cung cấp cây cho nghiên cứu
và nuôi trồng. Chúng cũng có vai trò quan trọng cho việc giáo dục. Mỗi năm ƣớc
tính có khoảng 150 triệu ngƣời đến thăm các vƣờn thực vật.
Ở Việt Nam, bƣớc đầu hình thành mạng lƣới các VTV, vƣờn sƣu tập, các
lâm phần bảo tồn nguồn gen cây rừng và dần đi vào hoạt động ổn định hơn. Các
VTV, lâm phần bảo tồn nguồn gen cây rừng, vƣờn cây thuốc đã sƣu tập đƣợc số
lƣợng loài và cá thể tƣơng đối lớn. Trong số đó, nhiều loài cây rừng bản địa đã đƣợc
nghiên cứu và đƣa vào gây trồng thành công. Đặc biệt là các vƣờn cây thuốc chuyên
đề hoặc các vƣờn cây thuốc trong các VTV đã đóng góp đáng kể trong công tác
nghiên cứu dƣợc liệu và gây trồng phát triển cây thuốc nam cung cấp nguyên liệu
cho ngành dƣợc.Một số vƣờn thực vật điển hình ở Việt Nam nhƣ: Vƣờn cây gỗ
Trảng Bom (huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai): có 155 loài, thuộc 55 họ và 17 loài
tre nứa; Thảo cầm viên Sài gòn với hơn 100 loài cây; vƣờn cây gỗ của Trạm thí
nghiệm Lâm sinh Lang Hanh (huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng); vƣờn cây gỗ
Mang Lin (thành phố Đà Lat); vƣờn Bách Thảo Hà Nội; Viện Dƣợc liệu có trạm
cây thuốc Sa Pa, sƣu tập đƣợc 63 loài đang bảo quản các cây thuốc ở độ cao 1.500
m; trạm cây thuốc Tam Đảo bảo quản 175 loài, ở độ cao 900m; trạm cây thuốc Văn
Điển (Hà Nội) - 294 loài; vƣờn trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội - 134 loài...
2.3.2.2. Các vườn động vật

70
Đa dạng sinh học

Vai trò của các vƣờn động vật cũng rất quan trọng. Đã có hơn 700.000 cá thể
động vật thuộc khoảng 3.000 loài thú, chim, bò sát và ếch nhái đƣợc nuôi trong hơn
800 vƣờn thú chuyên nghiệp trên thế giới (IUCN, 1993). Mục tiêu hiện nay của hầu
hết các vƣờn thú lớn là lập đƣợc quần thể nuôi của các loài động vật hiếm và có
nguy cơ tuyệt chủng. Chỉ khoảng 10% trong số 274 loài thú hiếm đƣợc nuôi giữ
trong các vƣờn thú khắp thế giới là có khả năng tự duy trì quần thể ở kích thƣớc đủ
để bảo tồn tính biến dị di truyền của chúng. Để khắc phục tình trạng này, các vƣờn
thú và những tổ chức bảo tồn có liên quan đã bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất và
triển khai các công nghệ cần thiết để tạo lập đƣợc các bầy đàn có khả năng sinh sản
của các loài quí hiếm và đang có nguy cơ tuyệt diệt, cũng nhƣ xây dựng chƣơng
trình và phƣơng pháp mới nhằm tái lập các loài ngoài tự nhiên.
Ngoài chức năng lƣu trữ nguồn gen động vật hoang dã, các vƣờn thú còn có
ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân lòng yêu thiên nhiên cũng
nhƣ ý thức bảo vệ động vật.
Ở Việt Nam, hai cơ sở có số lƣợng động vật nuôi nhốt lớn nhất cả nƣớc là
vƣờn thú ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đây là những nơi đang lƣu giữ và
nhân nuôi các loài động vật trong đó có nhiều loài động vật quý hiếm, đặc hữu của
Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Một số loài động vật quí hiếm đã đƣợc
nuôi đẻ thành công mở ra những triển vọng mới cho công tác bảo tồn.
2.3.2.3. Các trạm cứu hộ
Ngoài các vƣờn động vật nhiều nƣớc còn tổ chức các trạm cứu hộ. Các trạm
cứu hộ có chức năng thu nhận tất cả các loài động vật hoang dã bị tịch thu từ những
ngƣời săn bắt, buôn bán trái phép để chăm sóc, điều trị, hồi phục sức khoẻ trong
điều kiện nuôi nhốt hoặc nuôi bán tự nhiên sau đó thả chúng lại môi trƣờng tự nhiên
vốn là những nơi sinh cƣ của chúng.
Hiện nay ở Việt Nam có các trung tâm cứu hộ động vật nhƣ Trung tâm cứu
hộ linh trƣởng ở vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng hiện đang nuôi nuôi tới 12 loài khỉ quí
hiếm. Trong đó có loài Voọc quần đùi trắng, Voọc Hà Tĩnh, Voọc vá chân nâu,
Voọc vá chân đen, Vƣợn má hung... Trung tâm cứu hộ động vật Sóc Sơn (Hà Nội)

71
Đa dạng sinh học

mới bắt đầu hoạt động từ năm 1998 nhƣng đã có rất nhiều đợt trả và thả lại sau
những vụ vận chuyển trái phép động vật hoang dã bị bắt giữ. Hai trung tâm cứu hộ
khác: một ở Đà Nẵng, một ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đƣợc thành lập từ
năm 1999.

2.4. Bảo tồn loài ở Việt Nam


Theo danh sách đỏ của IUCN 2004, Việt Nam có 289 loài động vật và thực
vật bị đe dọa toàn cầu. Sách đỏ Việt Nam cũng đa liệt kê 1.056 động vật và thực vật
bị đe dọa ở mức quốc gia. So sánh với số liệu thống kê của lần biên soạn sách đỏ
Việt Nam lần đầu tiên (Phần Động vật 1992, phần thực vật 1994), vào thời điểm
hiện tại số lƣợng loài đƣợc các nhà khoa học đề xuất đƣa vào sách cần đƣợc bảo vệ
của Việt Nam tăng lên đáng kể: 1065 loài so với 721 loài. Điều này chứng tỏ một
thực tế là xu hƣớng quần thể của rất nhiều loài động thực vật tại Việt Nam đang suy
giảm, ngày càng có nhiều loài phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Rất nhiều loài
hiện chỉ còn tồn tại trong các quần thể có số lƣợng rất nhỏ và bị chia cắt.
Theo IUCN, số loài bị đe dọa toàn cầu ở Việt Nam không chỉ tăng về số
lƣợng từ 229 lên 289 loài, mà còn tăng về mức độ đe dọa. Nếu trong danh lục năm
1996 liệt kê 25 loài động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp (EN) thì đến năm 2004,
con số này đa lên đến 46 loài (Bảng 11).
Trong số những loài mới bị xếp hạng này có những loài nhƣ Bò rừng (Bos
javanicus), Sói đỏ (Cuon alpinus), Voọc vá chân nâu (Pygathrix nemaeus) và Voọc
vá chân đen (Pygathrix nigripes). Quần thể của hấu hết các loài bị đe dọa toàn cầu
tại Việt Nam đều bị đánh giá là đang có chiều hƣớng suy giảm.
Nhiều loài đƣợc đánh giá bị đe dọa không cao lắm trên quy mô toàn cầu
nhƣng lại bị đe dọa ở mức rất cao ở Việt Nam. Ví dụ nhƣ Hạc cổ trắng (Ciconia
episcopus) không có tên trong IUCN 2004, nhƣng lại là loài sẽ nguy cấp (VU) ở
Việt Nam do mất sinh cảnh và thức ăn bị ô nhiễm.

72
Đa dạng sinh học

Bảng 2.10. Số lượng các loài của Việt Nam bị đe dọa toàn cầu (chỉ tính các
loài CR, VU và EN) và cấp quốc gia

Loài Năm 1992, 1998 Năm 2004

IUCN, Sách đỏ IUCN Sách đỏ


1996, 1998 1992, 1996

Thú 38 78 41 94

Chim 47 83 41 76

Bò sát 12 43 24 39

Lƣỡng cƣ 1 11 15 14

Cá 3 75 23 89

Động vật không xƣơng sống 0 75 0 105

Thực vật bậc cao 125 337 145 605

Nấm 7 16

Tảo 12 18

Tổng 226 721 289 1.065

[Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam 2005, Phần Đa dạng sinh học].
Mặc dù đã tham gia vào nhiều công ƣớc quốc tế về đa dạng sinh học và đã có
nhiều bộ luật liên quan tới công tác bảo tồn nhƣ luật bảo vệ môi trƣờng, luật bảo vệ
rừng và mới đây là luật đa dạng sinh học; nhƣng hiện trạng bảo vệ đa dạng sinh học,
nhất là bảo tồn các loài sinh vật quý hiếm ở Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó
khăn, thách thức. Một số trung tâm cứu hộ động vật đã đƣợc xây dựng nhƣ ở Cúc
Phƣơng, một số Khu bảo tồn loài cũng đƣợc thiết lập nhƣ các công viên Thủ Lệ,
Bách Thảo ở Hà Nội và Thảo Cầm Viên ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nhƣng hoạt
động của các tổ chức này còn yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
về tài chính.

73
Đa dạng sinh học

PHẦN III. ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI

CHƢƠNG I : HỆ SINH THÁI


1. CÁC KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm hệ sinh thái

Thuật ngữ hệ sinh thái đƣợc A.G. Tansley đƣa ra và định nghĩa năm 1935
trong bài báo với tiêu đề: “The use and the abuse of Vegetational concepts and
terms”, đăng ở tạp chí Ecology số 16, trang 284-307. Từ đó đến nay, thuật ngữ này
đƣợc diễn giải và trình bày tuy có khác nhau, nhƣng nội dung căn bản vẫn giống
nhau. Cụ thể, khái niệm về hệ sinh thái là:
Hệ sinh thái (ecosystem) là tổ hợp của một quần xã sinh vật và môi trƣờng
vật lý mà quần xã đó tồn tại, trong đó các sinh vật tƣơng tác với nhau và với môi
trƣờng để tạo nên chu trình vật chất và sự chuyển hoá năng lƣợng. (Vũ Trung Tạng
– Cơ sở sinh thái học T136).
Nói cách khác, hệ sinh thái bao gồm các sinh vật sống và các điều kiện tự
nhiên (môi trƣờng vật lý) nhƣ ánh sáng, nƣớc, nhiệt độ, không khí,... Điều quan
trọng là tất cả các điều kiện hữu sinh (biotic component) và vô sinh (abiotic
component) tác động tƣơng hỗ với nhau và giữa chúng luôn xảy ra quá trình trao
đổi năng lƣợng, vật chất và thông tin.

1.2. Các khái niệm liên quan


Liên quan tới khái niệm hệ sinh thái, ta cần làm rõ các khái niệm sau
- Sinh cảnh (biotope): là một phần của môi trƣờng vật lý mà ở đó có sự thống
nhất của các yếu tố cao hơn so với môi trƣờng, tác động tới đời sống của sinh vật.
- Nơi sống (habitat) : là không gian cƣ trú của các sinh vật hoặc là không
gian mà ở đó thƣờng hay gặp sinh vật đó.

74
Đa dạng sinh học

- Ổ sinh thái: là một không gian sinh thái mà ở đấy những điều kiện môi
trƣờng quy định sự tồn tại và phát triển lâu dài không hạn định của cá thể, loài. Khái
niệm ổ sinh thái thành phần: là một không gian sinh thái trong đó các yếu tố thiết yếu
đảm bảo cho hoạt động của một chức năng nào đó của cơ thể sinh vật.
Theo Odum (1975), nơi sống và ổ sinh thái là 2 khái niệm hoàn toàn khác
nhau, ông ví nơi sống nhƣ một “địa chỉ”, còn ổ sinh thái chỉ ra “nghề nghiệp” của
sinh vật, cái thiết yếu đảm bảo cho sự sinh tồn của cá thể, loài. Sinh vật sống trong
ổ sinh thái nào thì thƣờng phản ánh đặc tính của ổ sinh thái đó thông qua những dấu
hiệu về hình thái (G.E. Hutchinson – 1965).

2. CẤU TRÖC CỦA HỆ SINH THÁI


2.1. Cấu trúc hệ sinh thái chia theo thành phần
Một hệ sinh thái hoàn chỉnh bao gồm các thành phần sau:
- Sinh vật sản xuất – producer
- Sinh vật tiêu thụ - consumer
- Sinh vật phân huỷ - reducer
- Các chất vô cơ : CO2, O2, H2O, …
- Các hợp chất hữu cơ : protein, lipit, gluxit, vitamin,…
- Các yếu tố khí hậu : nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lƣợng mƣa,…
2.1.1. Sinh vật sản xuất:
Đây là những sinh vật tự dƣỡng (autotrophy), gồm các loài thực vật có màu,
một số nấm, vi khuẩn có khả năng quang hợp hoặc hoá tổng hợp. Chúng là thành
phần không thể thiếu của bất kỳ hệ sinh thái nào. Nhờ quá trình quang hợp và hoá
tổng hợp của chúng mà nguồn thức ăn ban đầu của hệ sinh thái đƣợc tạo thành để
nuôi sống trƣớc tiên là chính sinh vật sản xuất, sau đó là cả thế giới sinh vật – trong
đó có cả con ngƣời.

75
Đa dạng sinh học

Hình 3.1 : Cấu trúc không gian của hệ sinh thái


2.1.2. Sinh vật tiêu thụ:
Đây là những sinh vật dị dƣỡng (heterotrophy) gồm tất cả các loài động vật
và những vi sinh vật không có khả năng quang hợp và hoá tổng hợp. Chúng tồn tại
đƣợc là nhờ nguồn thức ăn do sinh vật tự dƣỡng tạo ra.
2.1.3. Sinh vật phân huỷ:
Đây là tất cả các vi sinh vật dị dƣỡng, sống hoại sinh. Trong quá trình phân
huỷ các chất, chúng tiếp nhận nguồn năng lƣợng hoá học để tồn tại và phát triển,
đồng thời giải phóng các chất từ các hợp chất phức tạp ra môi trƣờng dƣới dạng
những khoáng chất đơn giản hoặc những nguyên tố hoá học ban đầu.

2.2. Cấu trúc hệ sinh thái chia theo chức năng


Ngoài cấu trúc theo thành phần, HST còn có kiểu cấu trúc theo chức năng.
Theo E.D.Odum (1983), cấu trúc của hệ gồm các phạm trù sau:
- Quá trình chuyển hoá năng lƣợng của hệ.
- Xích thức ăn trong hệ
- Các chu trình sinh địa hoá diễn ra trong hệ

76
Đa dạng sinh học

- Sự phân hoá trong không gian và theo thời gian.


- Các quá trình phát triển và tiến hoá của hệ.
- Các quá trình tự điều chỉnh.

Hình 3.2: Chu trình vận chuyển vật chất qua các bậc dinh dưỡng của hệ sinh thái
Một hệ sinh thái cân bằng là một hệ trong đó 4 quá trình đầu tiên đạt đƣợc
trạng thái cân bằng động tƣơng đối với nhau. Sự cân bằng tự nhiên, tức là mối quan
hệ của quần xã sinh vật với môi trƣờng vật lý mà quần xã đó tồn tại đƣợc xác lập và
ít thay đổi từ năm này đến năm khác chính là kết quả cân bằng của 4 phạm trù nêu
trên trong các hệ sinh thái lớn.

3. ĐẶC TRƢNG CỦA HỆ SINH THÁI


- Hệ sinh thái là một hệ thống, luôn vận động và biến đổi không ngừng, trạng
thái tĩnh chỉ là tƣơng đối và tạm thời.

77
Đa dạng sinh học

- Hệ sinh thái là một hệ thống cân bằng động và có khả năng tự điều chỉnh,
cơ chế điều chỉnh thông qua sự điều chỉnh về số lƣợng sinh vật trong quần xã và
điều chỉnh tốc độ của chu trình vật chất và dòng năng lƣợng.
- Hệ sinh thái có tính đa dạng càng cao thì tính bền vững càng lớn.

3.1. Tính cân bằng của hệ sinh thái – cân bằng sinh thái (ecological
stability)
Cân bằng sinh thái là trạng thái mà tại đó hệ sinh thái duy trì sự ổn định
tƣơng đối thông qua các mối quan hệ của các sinh vật trong quần xã sinh vật và sự
thích nghi với điều kiện môi trƣờng.
Hệ sinh thái có khả năng tự điều chỉnh để duy trì trạng thái cân bằng, nếu
một thành phần thay đổi thì các thành phần khác cũng thay đổi theo ở mức độ nào
đó để duy trì cân bằng. Nếu những tác động làm biến đổi hệ sinh thái quá nhiều,
vƣợt ra ngoài giới hạn chịu đựng của hệ thì cân bằng sinh thái sẽ bị phá vỡ.

3.2. Dòng năng lƣợng trong hệ sinh thái

Hình 3.3: Dòng năng lượng trong hệ sinh thái

78
Đa dạng sinh học

Dòng năng lƣợng trong hệ sinh thái là dòng hở (không khép kín), bởi qua
mỗi bậc dinh dƣỡng năng lƣợng bị mất đi do quá trình toả nhiệt và dạng năng lƣợng
không đồng hoá đƣợc.
Dựa vào nguồn năng lƣợng cung cấp cho hệ sinh thái, ngƣời ta chia hệ sinh
thái thành các loại:
- Hệ sinh thái nhận năng lƣợng từ ánh sang mặt trời nhƣ rừng, biển, đồng
cỏ,…
- Hệ sinh thái nhận năng lƣợng từ ánh sáng mặt trời và năng lƣợng do con
ngƣời bổ sung.
- Hệ sinh thái nhận năng lƣợng từ ánh sang mặt trời và các nguồn năng lƣợng
tự nhiên bổ sung khác.
- Hệ sinh thái nhận năng lƣợng từ nguồn năng lƣợng công nghiệp.
Các dạng năng lƣợng trong hệ sinh thái bao gồm
- Quang năng: năng lƣợng từ mặt trời, đây là nguồn năng lƣợng chủ yếu và
hết sức quan trọng.
- Hoá năng: năng lƣợng trong các hợp chất hoá học.
- Động năng: năng lƣợng làm cho hệ sinh thái vận động nhƣ gió, nhựa, dòng
chảy, di chuyển của động vật.
- Nhiệt năng.

3.3. Dòng vật chất của hệ sinh thái, chu trình sinh địa hoá
- Chu trình tuần hoàn vật chất: đây là một chu trìn khép kín:
Môi trƣờng  sinh vật sản xuất  sinh vật tiêu thụ  sinh vật phân huỷ 
Môi trƣờng
- Chuỗi thức ăn: là một dãy bao gồm nhiều loài sinh vật, mỗi loài sinh vật là
một mắt xích, trong đó mỗi mắt xích thức ăn tiêu thụ mắt xích trƣớc nó và bị mắt
xích phía sau tiêu thụ.

79
Đa dạng sinh học

- Lƣới thức ăn : là tập hợp các chuỗi thức ăn có chung mắt xích tức là có
chung các bậc dinh dƣỡng.
- Chu trình sinh địa hoá: sự vận chuyển và biến đổi của các hợp chất từ môi
trƣờng vào cơ thể và ngƣợc lại đƣợc gọi là chu trình sinh địa hoá.

4. CHỨC NĂNG CỦA HỆ SINH THÁI


4.1. Chức năng sinh thái và môi trƣờng
Các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất, trong đó có loài
ngƣời. Các hệ sinh thái đảm bảo sự chu chuyển của các chu trěnh địa hóa, thủy hóa
(thủy vực): ôxy vŕ các nguyên tố cơ bản khác nhƣ cacbon, nitơ, photpho. Chúng
duy trì sự ổn định và màu mỡ của đất, nƣớc ở hầu hết các vùng trên trái đất, làm
giảm nhẹ sự ô nhiễm, thiên tai. Gần đây, khái niệm các dịch vụ của hệ sinh thái
đƣợc đƣa ra tręn cơ sở các thuộc tính, chức năng của chúng đƣợc con ngƣời sử
dụng.
4.1.1. Bảo vệ tài nguyên nước
Thảm thực vật giúp duy trì vòng tuần hoàn của nƣớc trong tự nhiên, điều
chỉnh và ổn định dòng chảy, và có vai trò nhƣ là một tấm đệm giúp chống lại những
hiện tƣợng thời tiết khắc nghiệt nhƣ bão lũ, hạn hán. Chặt phá các thảm thực vật
gây ra sự lắng đọng và tích tụ bùn ở các dòng chảy, giảm trữ lƣợng và chất lƣợng
nƣớc, suy giảm hệ sinh thái thuỷ sinh,… Những vùng đất ngập nƣớc và các khu
rừng với tính đa dạng sinh học cao, là những hệ thống lọc và làm sạch nƣớc khổng
lồ. Ngoài ra, hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển còn giúp giữ phù sa đổ từ sông ra
và bảo vệ hệ sinh thái ven biển.
4.1.2. Hình thành và bảo vệ đất
Các sinh vật sống đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và
duy trì cấu trúc đất, giữ ẩm và chất dinh dƣỡng cho đất, nhất là nhóm sinh vật đất.
Những vùng đất có thảm thực vật che phủ thì có độ màu mỡ cao hơn. Khi đất không
còn đƣợc che phủ bởi các thảm thực vật sẽ dẫn tới sự mặn hoá, các chất dinh dƣỡng
bị rửa trôi, laterit hoá và xói mòn đất mặt, qua đó làm giảm năng suất của đất. Duy

80
Đa dạng sinh học

trì các hệ sinh thái sẽ giúp giảm sự xói mòn đất, ngăn chặn trƣợt lở đất đá, bảo vệ
các vùng đất ven bờ ( sông hay biển ).
Việc hủy hoại thảm thực vật rừng do khai thác gỗ, do khai hoang làm nông
nghiệp, ngƣ nghiệp cũng nhƣ các hoạt động khác của con ngƣời trong quá trình phát
triển kinh tế, là nguyên nhân khiến cho tốc độ xói mòn đất, sạt lở đất, hoang mạc
hóa đất đai tăng lên rất nhanh. Đất bị suy thoái khiến thảm thực vật khó có thể phục
hồi, là nguyên nhân chính làm tăng các thảm họa thiên nhiên nhƣ lũ lụt, hạn hán...
hoặc gây ô nhiễm môi trƣờng đất và nƣớc.
4.1.3. Điều hòa khí hậu
Quần xã thực vật có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu địa
phƣơng, khí hậu vùng và cả khí hậu toàn cầu: tạo bóng mát, khuyếch tán hơi nƣớc,
giảm nhiệt độ không khí khi thời tiết nóng nực, hạn chế sự mất nhiệt khi khí hậu
lạnh giá, điều hňa nguồn khí ôxy và cacbonic cho môi trƣờng trên cạn cũng nhƣ
dƣới nƣớc thông qua khả năng quang hợp....
4.1.4. Phân hủy các chất thải
Hệ sinh thái và các quá trình sinh thái đóng một vai trò quan trọng trong việc
phân huỷ và hấp thụ các chất ô nhiễm sinh ra từ các hoạt động của con ngƣời. Các
hợp phần của hệ sinh thái, từ những sinh vật nhỏ là vi khuẩn tới những nhóm sinh
vật bậc cao đều có thể tham gia vào quá trình phân huỷ và đồng hoá các chất độc.
Tuy nhiên, nếu hàm lƣợng chất độc hại quá cao vƣợt quá ngƣỡng chịu tải của hệ
sinh thái thì sẽ gây tổn hại tới hệ sinh thái. Một số hệ sinh thái, đặc biệt là các vùng
đất ngập nƣớc, có khả năng phân huỷ và hấp thu các chất độc hại rất tốt. Rất nhiều
các vùng đất ngập nƣớc tự nhiên hay nhân tạo đƣợc sử dụng để lọc và hấp thu các
kim loại nặng, chất rắn lơ lửng, làm giảm nhu cầu ôxi sinh hoá (BOD), phá huỷ các
vi sinh vật độc hại.
4.1.5. Bảo tồn các loài sinh vật
Duy trì hệ sinh thái góp phần bảo vệ các loài sinh vật khỏi sự tuyệt chủng,
qua đó bảo vệ nguồn gene đa dạng của chúng, bởi hệ sinh thái là môi trƣờng sống

81
Đa dạng sinh học

của mọi loài sinh vật. Đó là điều kiện tiên quyết để bảo tồn đa dạng loài và đa dạng
gene.
4.1.6. Phục hồi điều kiện môi trường sau những biến cố, sự cố
Duy trì một hệ sinh thái khoẻ mạnh và đa dạng góp phần phục hồi các điều
kiện môi trƣờng ban đầu sau những sự cố môi trƣờng hay thiên tai nhƣ lũ lụt, cháy,
bão …

4.2. Chức năng sản xuất – giá trị kinh tế


Từ xƣa con ngƣời đã thuần hoá và nuôi dƣỡng những loài sinh vật tự nhiên
để nhằm cung cấp thức ăn cho họ. Ngày nay, những vật nuôi và cây trồng này đƣợc
nuôi dƣỡng và trồng trọt tập trung, tạo thành những hệ sinh thái nhân tạo nhƣ các
đồng ruộng, trang trại, vƣờn cây, ao cá, đầm tôm,…. Đây là nguồn lƣơng thực -
thực phẩm quan trọng của con ngƣời.
Lƣơng thực - thực phẩm mà con ngƣời sử dụng hàng ngày đều có nguồn gốc
từ các hệ sinh thái xung quanh.
- Động vật: 1005 protêin cung cấp cho bữa ăn hàng ngày của con ngƣời là
nhóm động vật đƣợc con ngƣời thuần dƣỡng từ tự nhiên, trong đó có 9 loài chủ yếu
là : gia súc, lợn, cừu, dê, trâu, gà, vịt, ngan, ngỗng.
- Thực vật: Chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong tổng số các loài thực vật trên trái đất
đƣợc con ngƣời sử dụng làm thực phẩm. Có khoảng 10.000-50.000 loài thực vật có
thể ăn đƣơc, trong đó chỉ có khoảng 150 loài đƣợc con ngƣời sử dụng chủ yếu. Tuy
nhiên, do tính thƣơng mại toàn cầu, hiện nay con ngƣời chỉ tập trung khai thác 15
loài, trong đó lúa mì, lúa gạo và ngô cung cấp tới 2/3 tổng lƣợng lƣơng thực- thực
phẩm từ thực vật
Theo một số tài liệu, đa dạng sinh học trên toàn cầu có thể cung cấp cho con
ngƣời một giá trị tƣơng đƣơng 33.000 tỷ USD/năm. Trong Kế hoạch hành động đa
dạng sinh học của Việt Nam (công bố năm 1995) cũng ƣớc tính, hàng năm việc khai
thác tài nguyên nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam có giá trị tƣơng đƣơng
2 tỷ USD.

82
Đa dạng sinh học

Lấy số liệu thực của năm 2004, riêng hàng xuất khẩu của ngành thủy sản
Việt Nam đã có giá trị 2 tỷ USD. Ngành nông - lâm nghiệp hiện đang quản lý nguồn
tài nguyên rừng có giá trị vô cùng to lớn. Với giá khoảng 250 USD/m3 gỗ, thì hàng
năm chỉ riêng mặt hàng gỗ làm nguyên liệu giấy, đa dạng sinh học đã cho giá trị
khoảng 1,5 - 3,5 tỷ USD. Đó là chƣa kể hàng năm rừng đă cung cấp các mặt hàng
lâm sản ngoài gỗ đã có giá trị khoảng 1,5 tỷ USD cho xuất khẩu và cũng khoảng đó
cho tiêu dùng trong nƣớc.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2003 ngành nông nghiệp đóng góp một tỷ lệ
đáng kể trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): gần 21%, ngành lâm nghiệp chiếm
tỷ lệ gần 1,1% và, ngành thủy sản chiếm tỷ lệ hơn 4% GDP.
Theo số liệu thống kê năm 1995, nhu cầu cây thuốc cho công nghiệp dƣợc,
mỹ phẩm hƣơng liệu khoảng 20.000 tấn/năm. Hàng trăm doanh nghiệp xuất khẩu
thuốc khoảng 10.000 tấn/năm trị giá khoảng 15-20 triệu USD.
Giá trị kinh tế của đa dạng sinh học có thể nęu khái quát về các mặt sau đây:
- Giá trị đƣợc tính ra tiền do việc khai thác, sử dụng mua bán hợp lý các tài
nguyên đa dạng sinh học.
- Đa dạng sinh học đảm bảo cơ sở cho an ninh lƣơng thực và phát triển bền
vững của đất nƣớc, đảm bảo các nhu cầu về ăn, mặc của nhân dân, góp phần xóa đói
giảm nghèo.
- Đa dạng sinh học cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản:
mía đƣờng, bông vải, cây lấy dầu, cây lấy sợi, thuốc lá, cói, hạt điều...
- Đa dạng sinh học góp phần nâng cao độ phì nhiêu của đất, qua đó làm tăng
giá trị nông sản.

4.3. Chức năng xã hội và nhân văn


Trong các nền văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới, một số loài động vật
hoang dã đƣợc coi là biểu tƣợng trong tín ngƣỡng, thần thoại hoặc các tác phẩm hội
họa, điêu khắc. Sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên

83
Đa dạng sinh học

sinh vật đã hình thành các lễ hội của một số bộ tộc ít ngƣời nhƣ lễ hội săn bắn theo
mùa, hoặc hình thành sự quản lý tài nguyên theo tính chất cộng đồng nhƣ vai trò
của già làng, trƣởng bản trong việc phân định phạm vi, mức độ khai thác, sử dụng
tài nguyên đất và rừng.
Cuộc sống văn hóa của con ngƣời Việt Nam rất gần gũi thiên nhiên, các loài
động, thực vật nuôi trồng hay hoang dã và các sản phẩm của chúng đã quen thuộc
với mọi ngƣời dân, đặc biệt ngƣời dân sống ở vùng nông thôn và miền núi, nhƣ lễ
hội chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng), lễ hội đua thuyền... Nhiều loài cây, con vật đă
trở thành thiêng liêng hoặc vật thờ cúng đối với các cộng đồng ngƣời Việt nhƣ: gốc
đa thiêng, đền thờ cá Ông ở các tỉnh miền Nam Trung bộ. Các khu rừng thiêng,
rừng ma là những nét văn hóa độc đáo của nhiều dân tộc miền núi. Nghề nhuộm
chàm, dệt thổ cẩm, làm hƣơng, làm hàng mỹ nghệ từ gỗ, tre nứa hay song mây là
những sự gắn bó của đời sống văn hóa con ngƣời Việt Nam với đa dạng sinh học.
Rất nhiều loài động vật hoang dã đƣợc thuần dƣỡng với mục đích làm bầu
bạn với con ngƣời hoặc thuần hóa để chăn nuôi làm thực phẩm sử dụng hàng ngày.
Rất nhiều thú vui của con ngƣời đƣợc tạo nên thông qua việc tổ chức tham
quan, theo dõi tập tính của nhiều loài động vật hoang dã. Gần đây, ngành du lịch
sinh thái đă hình thành và đang phát triển rộng rãi trên cơ sở sự ham hiểu biết thiên
nhiên của con ngƣời đồng thời cũng là điều kiện để nâng cao nhận thức tầm quan
trọng của công tác bảo tồn thiên nhiên cũng nhƣ làm cho con ngƣời gần gũi hơn,
thân thiện hơn với thiên nhiên hoang dã.
Giá trị xã hội - nhân văn của đa dạng sinh học thể hiện tập trung ở các mặt
sau đây:
- Tạo nhận thức, đạo đức và văn hóa hƣởng thụ thẩm mỹ công bằng của
ngƣời dân. Qua các biểu hiện phong phú nhiều dáng vẻ, nhiều hình thù, nhiều màu
sắc, nhiều kết cấu, nhiều hƣơng vị của thế giới sinh vật con ngƣời trở nên hiền hòa,
yêu cái đẹp.
- Đa dạng sinh học góp phần đắc lực trong việc giáo dục con ngƣời, đặc biệt
là đối với thế hệ trẻ, lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hƣơng, đất nƣớc.

84
Đa dạng sinh học

- Đa dạng sinh học là yếu tố chống căng thẳng, tạo sự thoải mái cho con
ngƣời. Điều này đặc biệt có giá trị trong thời đại công nghiệp, trong cuộc sống hiện
tại căng thẳng và đầy sôi động.
- Đa dạng sinh học góp phần tạo ổn định xă hội thông qua việc bảo đảm an
toàn lƣơng thực, thực phẩm, thỏa mãn các nhu cầu của ngƣời dân về đầy đủ các chất
dinh dƣỡng, về ăn mặc, nhŕ ở, tham quan du lịch và thẩm mỹ.

4.4. Các chức năng khác


Từ các sinh vật của các hệ sinh thái tự nhiên hay nhân tạo có thể khai thác
đƣợc rất nhiều giá trị khác. Đó là:
4.4.1. Làm thuốc trừ sâu
Rất nhiều các hợp chất hoá học đƣợc những ngƣời dân bản địa chiết xuất từ
các loài thực vật trong tự nhiên đƣợc sử dụng làm thuốc trừ sâu. Những hợp chất
này do có nguồn gốc tự nhiên nên không gây hại tới môi trƣờng và con ngƣời chỉ có
tác dụng lên loài sâu gây hại.
4.4.2. Làm thuốc, dược phẩm
Rất nhiều các loài thực vật và một số loài động vật đƣợc sử dụng nhƣ những
loại thuốc chữa bệnh, ở các đất nƣớc Châu Á và các nƣớc khác, nhƣ Việt Nam,
Trung Quốc,…con ngƣời từ rất lâu đời đã biết sử dụng các loài thực vật để làm
thuốc chữa bệnh - đƣợc gọi là những dƣợc thảo. Ở những nƣớc này có hẳn một
ngành khoa học chuyên nghiên cứu và chữa bệnh bằng các loài dƣợc thảo, gọi là
đông y. Ngoài ra, ngành công nghiệp dƣợc phẩm hiện nay cũng chủ yếu dựa vào
các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên để chế biến các loại thuốc. ¼ trong tổng số các
loại dƣợc phẩm hiện nay đƣợc chiết xuất trực tiếp từ thực vật hoặc qua quá trình
tổng hợp hoá học.Và hơn ½ số thuốc cũng đƣợc sản xuất dựa theo những hợp chất
có trong tự nhiên. Đó mới chỉ là những nghiên cứu trên 1% tổng số loài thực vật của
rừng mƣa nhiệt đới.

85
Đa dạng sinh học

5. DIỄN THẾ SINH THÁI


5.1. Khái niệm diễn thế sinh thái
Diễn thế sinh thái là quá trình biến đổi tuần tự của quần xã qua các giai đoạn
khác nhau, từ dạng khởi đầu, đƣợc thay thế lần lƣợt bởi các dạng quần xã tiếp theo
và cuối cùng thƣờng dẫn tới một quần xã tƣơng đối ổn định.
Quá trình diễn thế:
Hệ sinh thái trẻ - Hệ sinh thái già  Hệ sinh thái đỉnh cực
Khái niệm hệ sinh thái đỉnh cực (climax): Là trạng thái mà hệ sinh thái thiết
lập đƣợc sự cân bằng – cân bằng sinh thái: cân bằng giữa sinh vật – môi trƣờng,
sinh vật – sinh vật. Cần lƣu ý rằng, hệ sinh thái đỉnh cực không phải luôn ổn định
theo thời gian mà vẫn có những biến đổi một cách tự nhiên, dần dần (quá trình biến
đổi là quá dài để có thế quan sát đƣợc) hay do tác động của con ngƣời. Do đó ngƣời
ta nói, cân bằng của hệ sinh thái là cân bằng động.

5.2. Nguyên nhân dẫn đến diễn thế sinh thái


- Sự tác động mạnh mẽ của ngoại cảnh lên quần xã
- Tác động của quần xã lên ngoại cảnh làm biến đổi mạnh mẽ ngoại cảnh đến
mức gây ra diễn thế.
- Tác động của con ngƣời

5.3. Các loại diễn thế


5.3.1. Phân loại theo động lực của quá trình
Phân loại theo động lực của quá trình thì diễn thế đƣợc chia thành 2 dạng:
nội diễn thế và ngoại diễn thế:
- Ngoại diễn thế: là diễn thế xảy ra do tác động hay sự kiểm soát của lực hay
yếu tố bên ngoài. Ví dụ: một cơn bão đổ bộ vào bờ, huỷ hoại một hệ sinh thái nào
đó. Sau đó, hệ sinh thái này sẽ dần phục hồi lại sau một khoảng thời gian. Ví dụ

86
Đa dạng sinh học

khác nhƣ sự cháy rừng hay đồng cỏ tự nhiên, sau đó, hệ sinh thái rừng và đồng cỏ
sẽ phục hồi dần thực hiện quá trình diễn thế.
- Nội diễn thế: là diễn thế xảy ra do động lực bên trong của hẹ sinh thái.
Trong quá trình diễn thế này loài ƣu thế của quần xã đóng vai trò quan trọng. Loài
này làm cho môi trƣờng vật lý biến đổi đến mức bất lợi cho mình nhƣng lại thuận
lợi cho một loài ƣu thế khác, có sức cạnh tranh cao hơn. Dần dần, loài này bị thay
thế bởi loài khác. Sự thay thế lien tiếp các loài ƣu thế trong quần xã cũng chính là
sự thay thế lien tiếp các quần xã này bằng các quần xã khác cho đến quần xã cuối
cùng, cân bằng với điều kiện môi trƣờng sống.

5.3.2. Phân loại dựa theo “giá thể” - quần xã sinh vật ban đầu
Đƣợc chia thành 3 dạng: diễn thế nguyên sinh (diễn thế sơ cấp) và diễn thế
thứ sinh (diễn thế thứ cấp).
- Diễn thế nguyên sinh: là diễn thế khởi đầu từ môi trƣờng trống trơn (đảo
mới hình thành trên tro tàn núi lửa, đất mới bồi ở lòng sông). Nhóm sinh vật đầu
tiên đƣợc phát tán đến đó hình thành nên quần xã tiên phong. Tiếp đó là một dãy
quần xã tuần tự thay thế nhau. Khi có cân bằng sinh thái giữa quần xã và ngoại cảnh
thì quần xã ổn định trong một thời gian tƣơng đối dài. Diễn thế nguyên sinh có thể
xảy ra trên cạn hoặc dƣới nƣớc.
Ví dụ: Sự diễn thế của cây rừng ngập mặn (mangrove) ở vùng cửa sông. Ở
cửa sông, các bãi bùn ban đầu còn chƣa có nhiều loài thực vật phát triển do điều
kiện môi trƣờng không thuận lợi, duy chỉ có bần trắng, mắm trắng,…là những cây
tiên phong – và là nhóm cây ƣu thế đầu tiên. Sự phát triển của nhóm này giúp cải
thiện môi trƣờng: đất đƣợc tôn cao, thoáng khí hơn,… Điều kiện môi trƣờng đƣợc
cải thiện giúp cho sự phát triển của các nhóm thực vật khác, lần lƣợt là: mắm lƣỡi
đòng, đƣớc, dà quánh, xu vổi, vẹt khang, dây mủ,…dần tạo nên một quần xã hỗn
hợp – có tính đa dạng cao hơn. Khi đó, các cây tiên phong không cạnh tranh nổi
phải tàn lụi và lại di chuyển ra ngoài gần mặt nƣớc. Khi đất ngày một cao, độ muối
giảm, điều kiện thay đổi làm nhóm rừng hỗn hợp trên cũng dần tàn lụi ngay trên

87
Đa dạng sinh học

mảnh đất xâm lƣợc sau một thời kỳ ổn định để rồi lại theo gót cây tiên phong chinh
phục vùng đất mới. Ở phía sau, điều kiện môi trƣờng lại thích hợpcho sự cƣ trú và
phát triển của các nhóm thực vật nhƣ chà là, giá, thiênlý biển. Và gần về phía lục
địa là nhóm thực vật nƣớc ngọt, đặc trung cho vùng đất chua phèn.
- Diễn thế thứ sinh: là diễn thế xuất hiện ở một môi trƣờng đã có một quần
xã sinh vật nhất định. Quần xã này vốn tƣơng đối ổn định nhƣng do thay đổi lớn về
ngoại cảnh làm thay đổi hẳn cấu trúc quần xã sinh vật.
Ví dụ nhƣ nƣơng rẫy bỏ hoang lâu ngày, trảng cỏ và cây bụi phát triển và lâu
dần là rừng cây gỗ xuất hiện.
- Diễn thế phân huỷ: là quá trình không dẫn tới một quần xã sinh vật ổn định,
mà theo hƣớng dần dần bị phân huỷ dƣới tác dụng của nhân tố sinh học.
Ví dụ, diễn thế của quần xã sinh vật trên xác một động vật hoặc trên một cây
đổ.
5.3.3. Dựa theo mối quan hệ giữa tổng hợp (P) và phân huỷ (R) các chất
hữu cơ của quần xã sinh vật
Diễn thế đƣợc chia thành 2 dạng: diễn thế tự dƣỡng và diễn thế tự dƣỡng.
- Diễn thế tự dưỡng: là quá trình phaấ triển đƣợc bắt đầu từ trạng thái với sức
sản xuất hay tổng hợp vƣợt quá quá trình phân huỷ các chất, tức là P/R >1, tức là ở
đây hệ sinh thái đang tích luỹ sinh khối và chất hữu cơ để dần phát triển. Khi đạt tới
trạng thái ổn định thì P/R dần tiến tới 1.
- Diễn thế dị dưỡng: ngƣợc lại với quá trình trên, diễn thế này đƣợc bắt đầu
với trạng thái P/R<1.

5.4. Tầm quan trọng thực tế của việc nghiên cứu diễn thế.
- Nghiên cứu diễn thế, ta có thể nắm đƣợc qui luật phát triển của quần xã
sinh vật, hình dung đƣợc những quần xã tồn tại trƣớc đó và dự đoán những dạng
quần xã sẽ thay thế trong những hoàn cảnh mới.

88
Đa dạng sinh học

- Sự hiểu biết về diễn thế cho phép ta chủ động điều khiển sự phát triển của
diễn thế theo hƣớng có lợi cho con ngƣời bằng những tác động lên điều kiện sống
nhƣ: cải tạo đất, đẩy mạnh biện pháp chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, tiến hành các
biện pháp thuỷ lợi, khai thác, bảo vệ hợp lý nguồn tài nguyên.

6. CÁC KIỂU HỆ SINH THÁI CHÍNH


Các hệ sinh thái trong sinh quyển tồn tại ở hai môi trƣờng có sự khác biệt cơ
bản về các đặc tính lý - hoá và sinh học. Đó là môi trƣờng trên cạn và môi trƣờng
nƣớc. Môi trƣờng nƣớc lại chia thành nƣớc ngọt và nƣớc mặn, do đó ngƣời ta chia
ra các hệ sinh thái trên cạn, các hệ sinh thái nƣớc mặn, các hệ sinh thái nƣớc ngọt và
các hệ sinh thái đất ngập nƣớc.

6.1. Các hệ sinh thái trên cạn


Đƣợc đặc trƣng bởi các quần hệ thực vật (Formation), chúng chiếm sinh
khối rất lớn và gắn liền với khí hậu địa phƣơng, do đó tên của quần xã cảnh quan
vùng địa lý gọi là khu sinh học (Biôme) thƣờng là tên của quần hệ thực vật ở đấy.
Biôme là một hệ sinh tháilớn, có giới hạn tƣơng đối và đặc trƣng bởi kiểu khí hậu
đặc thù, nó là quần xã lớn bao gồm cả các loài động vật sống trong quần hệ thực vật
và đặc tính chủ yếu cho phép phân chia và nhận dạng các biôm chính là các dạng
sống (cây cỏ, cây bụi, cây gỗ, các loài động vật,...).
Trên lục địa, nhiệt độ và lƣợng mƣa ảnh hƣởng rất lớn đến sự phân bố các
sinh vật. Ở mỗi kiểu khí hậu chính phát triển một kiểu quần hệ thực vật đặc thù. Ví
dụ, thực vật vùng sa mạc liên quan đến khí hậu khô hạn, cỏ với khí hậu bán khô hạn
và rừng với khí hậu ẩm ƣớt. Tƣơng tự nhƣ vậy là các loài động vật.
Độ cao địa hình cũng ảnh hƣởng mạnh đến các hệ sinh thái, những thay đổi
các quần hệ thực vật khi tăng độ cao cũng giống nhƣ sự thay đổi từ vùng khí hậu
nóng đến vùng khí hậu lạnh. Nhìn chung, trên lục địa đã hình thành các biôme
chính nhƣ (hình 23).
6.1.1. Đài nguyên hay đồng rêu đới lạnh (Tundra)

89
Đa dạng sinh học

Đồng rêu bao quanh Bắc Cực, và vành đai vòng phần Bắc của lục địa Âu -
Á, Bắc Mỹ. Đây là một vùng bằng phẳng không có cây cối, nhiều đầm lầy giá lạnh,
băng tuyết với nhiều đụn rêu nằm rải rác. Vùng này có mùa đông dài khắc nghiệt,
mùa hè rất ngắn. Mùa sinh trƣởng với nhiệt độ ấm hơn rất ngắn, dao động từ 50 -
160 ngày phụ thuộc vào từng khu vực. Ngày rất dài, ở nhiều nơi vào giữa mùa hè,
Mặt Trời không lặn liền trong một số ngày. Đất đai bị đông cứng, số lƣợng loài thực
vật rất ít, chủ yếu là rêu, địa y và cỏ bông lau, phong lùn và liễu miền cực cao
không quá 30 cm. Động vật đặc trƣng cho vùng là hƣơu tuần lộc (Rangifer
tarandus), hƣơu kéo xe (R. caribou), thỏ, chó sói Bắc cực, gấu trắng Bắc cực, chim
cánh cụt,... Chúng có thời gian ngủ đông dài, nhiều loài chim sống thành từng bầy
lớn, di cƣ xa xuống vùng vĩ độ thấp để tránh rét mùa đông.
6.1.2. Rừng lá kim (Rừng Taiga)
Rừng Taiga tạo thành một vành đai tiếp giáp với vùng đồng rêu ở phía
Nam, chiếm khoảng 11% lục địa kéo dài từ Bắc Mỹ sang Châu Âu. Mùa đông cực
kỳ lạnh và khắc nghiệt nhƣng không bằng khu sinh học đồng rêu. Lƣợng mƣa thấp
khoảng 300 - 500 mm/năm, đất chua và có tầng thảm mục cây lá kim bán phân huỷ
dày. Vùng này có nhiều ao hồ và địa hình trũng. Thảm thực vật chủ yếu là những
loài cây lá nhọn: Thông (Pinus), ở những nơi có nƣớc là dƣơng liễu, bạch dƣơng,
phong; linh sam (Abies); vân sam (Epicea); thông rụng lá (Larix). Những loài thú
lớn có hƣơu Canada (Cervus canadesis); nai sừng tám (Alces machlis); thú ăn thịt
nhƣ gấu, chó sói, cáo. Chim đinh cƣ không nhiều. Điều kiện môi trƣờng có ảnh
hƣởng rõ rệt đối với sự biến động của quần thể. Quần thể ở đây có tập tính di cƣ, sự
ngủ đông hoặc dự trữ thức ăn.
6.1.3. Rừng lá rộng rụng theo mùa của vùng ôn đới
Loại rừng này bao phủ phía đông Bắc Mỹ, Tây Âu và phía Đông Châu Á.
Lƣợng mƣa vừa phải (700 - 1200 mm/năm) thời tiết ấm vào mùa Hè, nhƣng mùa
Đông vẫn khắc nghiệt. Lá khô rụng nhiều tạo thành lớp thảm mục dày đặc, đất giàu
chất hữu cơ, tầng đất dày và giàu sét ở lớp dƣới.

90
Đa dạng sinh học

Thành phần các loài cây tƣơng đối đa dạng về giống và phân thành nhiều
tiểu vùng. Ở Bắc Mỹ với những loài đặc trƣng là thông trắng, thông đỏ (Taxaceae
G), sến đỏ. Các tiểu vùng khác có nhiều loài gỗ cứng nhƣ sồi; hồ đào, giẻ gai. Thú
có nhiều nhƣ hƣơu, lợn lòi, chó sói, cáo, gấu, gặm nhấm. Những loài động vật sống
trên cây cũng rất đa dạng nhƣ sóc, chuột sóc, nhiều loài chim leo trèo (gõ kiến),
nhiều loài sâu bọ ăn gỗ. Chu kỳ biến động theo mùa rõ rệt. Nhiều loài có tập tính di
cƣ xa, nhiều loài ngủ đông, đặc biệt những số loài hoạt động ban ngày nhiều hơn
hẳn số loài hoạt động vào ban đêm.
6.1.4. Hoang mạc
Là những khu sinh học có ở vùng nhiệt đới và khí hậu ôn hoà. Độ ẩm
không khí ở hoang mạc thấp dẫn đến biên độ nhiệt độ rộng vào ban ngày. Hoang
mạc khác nhau nhiều phụ thuộc vào lƣợng mƣa, khoảng dƣới 250 mm/năm. Một số
hoang mạc khô đến nỗi không có một thực vật nào sống đƣợc. Ví dụ, hoang mạc
Namib ở Châu Phi; hoang mạc Atacama - Sechura ở Chilê và Pêru. Kết quả là đất
rất nghèo chất hữu cơ, nhƣng hàm lƣợng khoáng lại rất cao. Ở một số vùng hàm
lƣợng khoáng cao đã đạt đến mức gây độc hại. Thực vật rất nghèo, chỉ có số ít
những cây thấp nhỏ, sơ xác, thỉnh thoảng có những bụi gai hay đám cỏ thấp có bộ rễ
ăn sâu để hút nƣớc, song thân cây lại thấp (khoảng 20 cm). Lá cây rất nhỏ và gần
nhƣ biến thành gai nhọn, song có những cây mọng nƣớc. Số loài động vật ít, động
vật có xƣơng sống cỡ lớn nhƣ lạc đà một bƣớu, linh dƣơng, báo, sƣ tử, song các loài
gặm nhấm trong đất lại rất phong phú. Hầu hết các loài chim là chim chạy. Trong số
sâu bọ cánh cứng họ Tenebrionidae chiếm ƣu thế những loài đặc trƣng của sa mạc.
Sự thích nghi của động vật với đời sống hoang mạc rất rõ rệt biều hiện ở những đặc
điểm chống khô, nóng. Ngoài ra có hiện tƣợng di cƣ theo mùa, ngủ đông và thƣờng
ngủ hè hay có dự trữ thức ăn, sinh sản đồng loạt vào những thời kỳ có độ ẩm cao.
6.1.5. Savan
Sự chuyển từ hoang mạc sang savan có sự chuyển tiếp gọi là bán hoang
mạc. Đó là vùng có thảm thực vật thƣa thớt. Savan chia ra:
- Thảo nguyên vùng ôn đới, phân bố ở phía Bắc vùng hoang mạc

91
Đa dạng sinh học

Ở đây mùa hè nóng và dài, mùa đông ít lạnh, ít tuyết. Lƣợng mƣa dao động
từ 350 - 500 mm nên mùa hè thƣờng bị hạn. Những thảo nguyên rộng lớn tập trung
ở nội địa Âu - Á; Bắc và Nam Mỹ và Châu Đại Dƣơng. Thảm thực vật thảo nguyên
chủ yếu là cỏ thấp, ƣa khô chiếm ƣu thế. Đất thảo nguyên rất tốt, màu đen hoặc nâu,
giàu mùn và muối khoáng. Ở đây có nhiều loài động vật ăn thực vật chạy nhanh nhƣ
bò bisông; ngựa hoang (Equus caballus); lừa, sóc (Ratufa spp.), chó sói đồng cỏ
(Canis latrans), chó đồng cỏ (Cynomys), chuột (Microtus), chuột nhảy (Dipodonys).
Tính chất sống theo đàn, vận chuyển nhanh, bay giỏi, ngủ đông, ngủ hè, dự trữ thức
ăn là những đặc điểm của động vật thảo nguyên.
- Thảo nguyên và sa van nhiệt đới
Sa van đới nóng có đặc điểm là mƣa ít, mùa mƣa rất ngắn, còn mùa khô thì
dài. Về mùa khô hầu hết cây cối đều rụng lá do thiếu nƣớc, cỏ cũng bị khô cằn.
Biom này phân bố thành những vùng rộng lớn ở Trung và Đông Phi, vùng Nam Mỹ
và Châu Đại Dƣơng. Ở sa van Châu Phi có một loài cây đặc biệt, cây Bao báp
(Adansonia) có thân rất to (chu vi rộng tới 45cm, cao khoảng 18 - 25m, đƣờng kính
từ 8 - 10m), ngoài ra còn có những cây keo (Acacia) tán phẳng, có gai, những cây
thuộc họ Đậu. Trên sa van rộng lớn có nhiều loài động vật ăn thực vật sống theo
đàn nhƣ Sơn dƣơng (Capricornis sumatraensis), Ngựa vằn, Hƣơi cao cổ, Tê giác
(Rhinocerotidae),... Chúng thích nghi với sự vận chuyển trên đồng cỏ hoang vu. Có
những loài thú ăn thịt thích nghi với sự chạy nhanh để săn bắt thú ăn cỏ nhƣ Sƣ tử,
Báo (Panthera pardus),... Có những loài chim chạy nhƣ Đà điều. Sâu bọ chiếm ƣu
thế là Kiến mồi, Cào cào, Châu chấu.
Ở Việt Nam, san van rải rác khắp nơi, đôi khi ở giữa khu rừng rậm. Miền
Đông Nam Bộ có nhiều rừng cỏ cao mọc, các tỉnh miền núi phía Bắc có nhiều rừng
cỏ cao và chiếm ƣu thế là cỏ tranh. Sa van khô có nhiều ở tỉnh Ninh Thuận và Bình
Thuận.
6.1.6. Rừng mưa nhiệt đới
Khí hậu vùng nhiệt đới nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình năm cao (24 -
300C) và gần nhƣ ổn định quanh năm, lƣợng mƣa lớn (1800 - 2200 mm/năm). Vì

92
Đa dạng sinh học

thế, rừng nhiệt đới quanh năm xanh tốt, rậm rạp và tạo thành nhiều tầng, nhƣng
thƣờng là 3 tầng, tầng trên cùng gồm các tán cây cao, đôi khi tới 80m; Tầng giữa
đạt độ cao khoảng 50m hình thành tán lá dày và tầng dƣới gồm những cây nhỏ ƣa
bóng và cây leo (Dƣơng xỉ, Quyển bá). Những giải rừng nhiệt đới xích đạo tập
trung nhiều ở lƣu vực sông Amazon (Braxin); Công Gô và khu vực Ấn Độ -
Malaixia với số loài giàu nhất Thế giới. Thảm phủ rừng xanh quanh năm nên hệ
động vật rất phong phú: Có nhiều loài sống trên cây ít khi xuống dƣới đất nhƣ Khỉ,
Vƣợn, Sóc bay, Gấu chó. Chim thƣờng có màu sắc rực rỡ (chim tu căng, công
vẹt,...) và nhiều loài chim ăn quả. Trên mặt đất có nhiều loài thú cỡ lớn nhƣ voi, tê
giác, trâu rừng, bò tót, linh dƣơng, lợn lòi, chuột thỏ,... Ngoài ra, còn có rất nhiều
các loài động vật không xƣơng sống khác nhau. Vì khí hậu tƣơng đối ổn định nên
khả năng vận chuyển của động vật hạn chế, ít có sự di trú theo mùa.
Rừng mƣa nhiệt đới đƣợc mệnh danh là "lá phổi của hành tinh", nhƣng hiện
nay diện tích của rừng này đang bị suy giảm do sự khai thác quá mức và tập quán
du canh du cƣ, đốt nƣơng làm rẫy.

6.2. Các hệ sinh thái dƣới nƣớc


6.2.1. Hệ sinh thái nước mặn
Biển và đại dƣơng là những hệ sinh thái khổng lồ, chiếm khoảng 3/4 bề mặt
Trái Đất. Đặc điểm chính của đại dƣơng là trong thành phần của nƣớc có chứa nồng
độ muối khá cao (>30‰) và có độ sâu đạt tới 1000m. Sinh vật nƣớc mặn thích nghi
với nồng độ muối từ 30 - 38‰.
Biển và đại dƣơng không hoàn toàn đồng nhất về cấu trúc, về mối tƣơng tác
lục địa - biển - khí quyển và về sự phân bố của sự sống. Do đó, biển và đại dƣơng
đƣợc chia thành những vùng khác nhau (hình 25).
Nhìn chung, hệ thực vật nƣớc rất nghèo so với khu sinh học ở cạn, chủ yếu
là các loài vi sinh vật và tảo sống trôi nổi trên mặt nƣớc. Ngƣợc lại, hệ động vật lại
rất phong phú và đƣợc chia thành 3 loại:

93
Đa dạng sinh học

- Sinh vật nền đáy (Benthos): Thực vật nền đáy có tảo nâu, tảo đỏ, tảo lục,
cỏ biển. Động vật có bọt biển, hải quỳ, cầu gai, cua, cá, ốc, sò bơi trên nền đáy.
- Sinh vật nổi (Plankton): Vi khuẩn sống nổi, thực vật nổi gồm các loài tảo
đơn bào; động vật nổi gồm trùng lỗ, sứa ống, sứa dù, giáp xác nhỏ nhƣ chân kiến,...
- Sinh vật tự bơi (Necton): Gồm bò sát biển, thú, chân đầu, giáp xác cao.
Theo đánh giá của Vinograđôv (1984), sản lƣợng sơ cấp của biển và đại
dƣơng thuộc các vùng nhƣ sau:
- Vùng quá giàu dinh dƣỡng (0,7 triệu km2) là 1,5 tỷ tấn C.năm.
- Vùng giàu dinh dƣỡng (50 triệu km2) là 21,9 tỷ tấn C.năm
- Vùng dinh dƣỡng trung bình (182 triệu km2) là 36,9 tỷ tấn C.năm.
- Vùng nghèo dinh dƣỡng (128 triệu km2) là 4,7 tỷ tấn C.năm.
Toàn đại dƣơng (361 triệu km2) là 65 tỷ tấn C.năm.
Ngoài ra, theo chiều ngang hải dƣơng đƣợc chia thành 2 vùng lớn:
- Vùng ven bờ (ứng với vùng triều và dƣới triều): Ở đây nƣớc không sâu,
có ánh sáng, chịu ảnh hƣởng của thuỷ triều và sóng nƣớc và vùng khơi.
- Đặc điểm quần xã ven bờ: Quần xã vùng ven bờ thay đổi phụ thuộc vào
vùng hải dƣơng. Nhìn chung, ở vùng ven biển ôn đới tảo chiếm ƣu thế, còn vùng
ven biển nhiệt đới có rừng ngập mặn với rất nhiều loài nhƣ họ đƣớc
(Rhizophoraceae) chiếm ƣu thế. Ở vùng này, đặc biệt ở các vùng cửa sông ven biển
thì nhiệt độ và độ mặn biến đổi rất lớn nên sinh vật sống ở đây phải là những sinh
vật có khả năng chống chịu cao với điều kiện môi trƣờng luôn thay đổi nhƣ ngập
nƣớc, triều mặn, đất bùn lỏng thiếu ôxi,...
Sinh vật vùng triều là những sinh vật có đời sống cố định nhƣ bám chặt
xuống đáy nƣớc hoặc bơi giỏi đề khắc phục sóng nƣớc. Các quần xã ven bờ thƣờng
có tính đa dạng cao hơn hẳn các quần xã ngoài khơi (hình 26).
- Đặc điểm quần xã vùng khơi: Vùng khơi bắt đầu từ sƣờn dốc lục địa và chỉ
có tầng nƣớc trên mới đƣợc chiếu sáng. Hệ thực vật chủ yếu là thực vật nổi có số
lƣợng ít hơn vùng ven bờ vì độ mặn cao hơn. Chúng di chuyển hàng ngày theo

94
Đa dạng sinh học

phƣơng thẳng đứng xuống tầng nƣớc dƣới. Động vật nổi sử dụng thực vật nổi làm
thức ăn nên số lƣợng cũng giảm. Càng xuống sâu, số loài động vật càng giảm: Tôm,
cua chỉ có ở độ sâu 8000m; cá: 6000m; mực: 9000 - 10.000m; chỉ có một số loài
đặc trƣng.
6.2.2. Hệ sinh thái nước ngọt
Khác với sinh vật nƣớc mặn, sinh vật nƣớc ngọt thích hợp với nồng độ muối
thấp (0,05%o) và kém đa dạng hơn nhiều. Ở hệ sinh thái nƣớc ngọt, động vật màng
nƣớc (Neiston) nhƣ con cất vó (Gerrit), bọ vẽ (Girinidae), cà niễng
(Hydrophilynea), ấu trùng muỗi có số lƣợng phong phú. Nhiều loài sâu bọ nƣớc
ngọt đẻ trứng trong nƣớc, ấu trùng phát triển thành cá thể trƣởng thành ở trên cạn. Ở
nƣớc ngọt thực vật cỡ lớn có hoa nhiều hơn ở nƣớc mặn. Tảo lam và tảo lục phát
triển mạnh ở nƣớc ngọt. Các hệ sinh thái nƣớc ngọt có thể chia thành các hệ sinh
thái nƣớc đứng (đầm lầy, ruộng, ao hồ) và các hệ sinh thái nƣớc chảy (sông, suối).
- Hệ sinh thái nước đứng
Các vực nƣớc đứng có kích thƣớc nhỏ bao nhiêu thì càng ít ổn định bầy
nhiêu. Nguồn gốc sự phân bố và những đặc điểm hình thái... quyết định đến điều
kiện môi trƣờng kéo theo chúng là sự phân bố, đặc tính của quần xã sinh vật và
năng suất của thuỷ vực. Trên Thế giới có 2 hồ lớn với độ sâu 400m. Nhiều hồ lớn
nhƣ Baical (Xibêria, Nga) chứa tới 20% lƣợng nƣớc ngọt của hành tinh. Các hệ
thống hồ lớn nổi tiếng nhƣ Great lakes ở Bắc Mỹ; Tanganyia; Victoria (Châu Phi).
Nhìn chung, nhiệt độ nƣớc thay đổi phụ thuộc vào nhiệt độ không khí. Tuy nhiên, ở
các hồ sâu, khối lƣợng nƣớc bị phân tầng và hình thành 3 vùng khác nhau về nhiệt
độ:
- Tầng trên (Epilimnion): Ấm, nƣớc đƣợc xáo trộn tốt.
- Tầng giữa (Metanlimnion): Gradien nhiệt độ thay đổi nhanh theo độ sâu
giữa nƣớc tầng mặt và nƣớc ở đáy.
- Tầng đáy (Hypolimnion): Nhiệt độ nƣớc thấp và ổn định.
Những ao hồ nhỏ khi trời nắng nóng, nƣớc có thể bị khô cạn, độ mặn tăng.
Còn khi mƣa rào thì có thể bị ngập nƣớc. Trong nhiều trƣờng hợp, sự phân huỷ lớp

95
Đa dạng sinh học

xác hữu cơ mục ở tầng đáy tạo ra nhiệt độ cao làm cho nƣớc có màu sẫm. Ngoài ra,
dựa vào sức sản xuất ngƣời ta cũng chia hồ thành các dạng giàu dinh dƣỡng
(Eutrophic) nghèo dinh dƣỡng (Oligotrophic) và mất dinh dƣỡng (Distrophic) do
các tác động nhân sinh.
Hệ sinh thái đầm khác với ao ở chỗ, ao nông hơn đầm nên dễ bị khô hết
nƣớc vào mùa khô, sinh vật thƣờng có khả năng chịu đựng cao đối với khô hạn nếu
không chúng phải di cƣ sang thuỷ vực khác hoặc sống tiềm sinh. Tuy nhiên, ánh
sáng Mặt Trời đều có thể xâm nhập tới đáy ao và đầm. Do đó, gần bờ thƣờng phát
triển thực vật thuỷ sinh có rễ ăn sâu xuống đáy và ở khu vực nƣớc sâu là những thực
vật sống trôi nổi nhƣ bèo các loại. Những thực vật này đều là nguồn thức ăn của
động vật. Trong các tầng nƣớc, nhiệt độ và độ muối khoáng đƣợc phân bố đồng đều
do tác dụng của gió. Hệ động vật bao gồm: Động vật đáy và những động vật tự bơi.
- Các hệ sinh thái nước chảy (sông, suối)
Đặc điểm quan trọng của sông là chế độ nƣớc chảy, do đó mà chế độ nhiệt,
muối khoáng nói chung đồng đều nhƣng thay đổi theo mùa. Đặc biệt khi sông đổ
vào các biển có thuỷ triều thƣờng tạo nên các hệ cửa sông (Estuaries) rất giàu tiềm
năng. Những hệ thống sông lớn là những sông Mississipi ở Bắc Mỹ; Amazon ở
Nam Mỹ; sông Lin và Công Gô ở Châu Phi; sông Vôn Ga ở Châu Âu; sông Hoàng
Hà, Dƣơng Tử, Cửu Long ở Châu Á. Các quần xã thuỷ sinh vật ở sông có thành
phần không đồng nhất thay đổi theo các vùng thƣợng lƣu, trung lƣu và hạ lƣu sông.
Đa dạng sinh họcvà thành phần loài còn mang tính pha trộn do nhiều loài ngoại lai
từ các thuỷ vực khác di nhập vào. Thành phần loài ngoài rong còn có rêu, tảo, vi
khuẩn, tảo silíc, vi khuẩn lam, luân trùng, giáp xác nhỏ,...
Ở thƣợng nguồn sông suối do có dòng chảy mạnh, nồng độ ôxi cao nên
động vật và thực vật không nhiều, ngƣợc lại ở hạ lƣu, dòng nƣớc chảy chậm hơn, hệ
thực vật phát triển phong phú với nhiều loài thực vật có hoa; động vật nổi xuất hiện
nhiều giống nhƣ quần xã ao hồ; ở đáy bùn cửa sông có trai, giun ít tơ. Những loài cá
bơi giỏi đƣợc thay bằng những loài cá có nhu cầu ô xi thấp. Hệ thống sông suối còn
là nơi duy trì nguồn gene của các loài thuỷ sinh vật cho các vực nƣớc tĩnh thuộc lƣu

96
Đa dạng sinh học

vực của chúng (Vũ Trung Tạng, 1991), đồng thời là nơi cung cấp nhiều giá trị cho
cuộc sống của con ngƣời (thuỷ sản, giao thông, năng lƣợng, nƣớc tƣới cho nông
nghiệp, cảnh quan du lịch,...). Tuy nhiên, nhiều dòng sông đang bị khai thác quá
mức, bị đổi dòng và bị ô nhiễm.

6.3. Hệ sinh thái đất ngập nƣớc


Công ƣớc Ramsar định nghĩa: “ Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than
bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có
nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước nợ hay nước biển kể cả những vùng
nước biển có độ sâu không quá 6m khi triều thấp”.
Các vùng đất ngập nƣớc là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao, bên cạnh
thành phần thuỷ sinh vật, đất ngập nƣớc còn là nơi hỗ trợ cho cuộc sống của nhiều
quần thể chim nƣớc, động vật có vú, bò sát, lƣỡng cƣ. Các vùng đất ngập nƣớc là
nơi có năng suất sinh học cao nhất, tạo ra hàng loạt các lợi ích cho con ngƣời.
Việt Nam có các loại hình đất ngập nƣớc rất đa dạng và phong phú về loại
hình, chức năng và giá trị. Hiện đã xác định đƣợc 39 kiểu đất ngập nƣớc ở Việt
Nam. Theo thống kê Việt Nam có 60 vùng đất ngập nƣớc có tầm quan trọng quốc
gia và quốc tế và đã đƣơc ghi nhận chính thức là những vùng đất ngập nƣớc có giá
trị về môi trƣờng và đa dạng sinh học.
Đất ngập nƣớc Việt Nam đa dạng về loại hình và hệ sinh thái thuộc ba nhóm:
- Đất ngập nƣớc nội địa
- Đất ngập nƣớc ven biển
- Đất ngập nƣớc nhân tạo

97
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG II : ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI


1. TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI
1.1. Đa dạng hệ sinh thái

Đa dạng hệ sinh thái là tất cả mọi sinh cảnh, quần xã sinh vật và mọi quá
trình sinh thái khác nhau cũng nhƣ sự biến đổi trong từng hệ sinh thái.
Đa dạng hệ sinh thái bao gồm sự khác nhau giữa các loại hệ sinh thái, sự đa
dạng về môi trƣờng sống và các quá trình sinh thái của mỗi hệ sinh thái. Các hệ sinh
thái không chỉ khác nhau về thành phần các loài sinh vật trong hệ mà còn khác nhau
về cấu trúc vật lý của hệ và hoạt động của các quần thể sinh vật trong đó.

1.2. Nguyên tắc đánh giá đa dạng hệ sinh thái


Để đánh giá tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái còn gặp rất nhiều khó
khăn. Trong khi có thể định nghĩa về nguyên tắc thế nào là đa dạng di truyền và đa
dạng loài, từ đó xây dựng các phƣơng pháp đánh giá khác nhau về tính đa dạng di
truyền và đa dạng loài, thì không có một định nghĩa và phân loại thống nhất về đa
dạng hệ sinh thái ở mức độ toàn cầu, và trên thực tế, khó đánh giá đƣợc đa dạng hệ
sinh tháiở các cấp độ khác ngoài cấp độ khu vực và vùng, và thƣờng cũng chỉ xem
xét đối với thảm thực vật. Bởi vì một hệ sinh thái không chỉ bao gồm các sinh vật
mà chúng còn có các thành phần vô sinh nhƣ các yếu tố khí hậu, các hợp chất vô cơ
và hữu cơ.
Đa dạng hệ sinh thái thƣờng đƣơc đánh giá qua tính đa dạng các loài thành
viên - tức là tính đa dạng của quần xã sinh vật. Yếu tố để đánh giá ở đây là: số
lƣợng loài và kiểu dạng của loài. cụ thể:
- Đánh giá theo số lƣợng loài: số lƣợng loài của quần xã càng nhiều thì độ
phong phú hay tính đa dạng càng cao.
- Đánh giá theo kiểu dạng của loài: tức là đánh giá về số lƣợng loài trong các
lớp kích thƣớc khác nhau, tại các dải dinh dƣỡng khác nhau hoặc trong các nhóm

98
Đa dạng sinh học

phân loại khác nhau. Tức là 2 vùng có cùng số lƣợng loài, một vùng chỉ có các loài
thực vật còn vùng kia tuy có cùng số loài nhƣng có cả động vật ăn cỏ và động vật ăn
thịt thì vùng thứ hai đƣợc coi là có tính đa dạng cao hơn.
Tuy nhiên, việc đánh giá này chỉ mang tính tƣơng đối và hiện nay chƣa có
một tiêu chuẩn thống nhất trên thế giới để đánh giá mức độ đa dạng của một hệ
sinh thái.

2. CHỈ SỐ ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI


Công thức

S 1
d Trong đó :
lo g N
d- chỉ số đa dạng loài của quần xã
S: số lƣợng loài trong quần xã
N: số lƣợng cá thể trong quần xã
Khi đó d càng lớn có nghĩa là hệ sinh tháicó tính đa dạng càng cao.

2.1. Tổng chỉ số đa dạng (Công thức Shannon)

H ( n1 / N ) log( n1 / N )

Trong đó
H - chỉ số tổng đa dạng
n – giá trị vai trò của mỗi loài (số lƣợng sinh khối)
N - Tổng giá trị vai trò của các loài
Ƣu điểm của công thức: vừa chỉ ra tính đa dạng về số lƣợng loài, vừa chỉ ra
mức độ vai trò của loài trong quần xã.

99
Đa dạng sinh học

2.2. Chỉ số bình quân


H
E
lo g S
2
Trong đó
H - chỉ số đa dạng Shannon
E - chỉ số bình quân (có giá trị từ 0-1)
S - tổng số loài trong quần xã
E = 0 thì quần xã có 1 loài
E = 1 thì quần xã có nhiều loài nhƣng tất cả các loài có số lƣợng bằng nhau.

2.3. Các chỉ số khác


- Chỉ số đa dạng alpha α: mô tả số lƣợng loài trong một quần xã hay hệ
sinh thái.
- Chỉ số đa dạng bêta β: mô tả mức độ dao động trong thành phần loài khi
điều kiện môi trƣờng thay đổi.
- Chỉ số đa dạng gamma γ: áp dụng với những vùng địa lý rộng lớn gồm
nhiều sinh cảnh, đƣợc định nghĩa là “một tỷ lệ mà các loài mới thêm vào đƣợc bắt
gặp là những sự thay thế địa lý trong một dạng nơi ở thuộc các vùng khác nhau”.

3. ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI VÀ CÁC QUÁ TRÌNH SINH THÁI HỌC


Không có một mối quan hệ đơn giản nào tồn tại giữa tính đa dạng của một hệ
sinh tháivới các quá trình sinh thái học, chẳng hạn nhƣ năng suất sinh học, tính ổn
định của hệ sinh thái, cũng nhƣ những quá trình khác. Ví dụ, đa dạng loài không có
tƣơng quan rõ ràng với năng suất sinh học. Các rừng mƣa nhiệt đới phong phú về
loài có năng suất sinh học rất cao, nhƣng các vùng đất ngập nƣớc ven biển, nơi có
đa dạng loài tƣơng đối thấp vẫn có năng suất sinh học cao . Đa dạng loài cũng
không có tƣơng quan gần gũi với tính ổn định của hệ sinh thái, tức là khả năng
chống chịu đối với những xáo động và tốc độ hồi phục của hệ sinh thái. Ví dụ, các

100
Đa dạng sinh học

bãi lầy ngập mặn ven biển và vùng lãnh nguyên bắc cực chỉ có rất ít loài thống trị,
và trong một số trƣờng hợp khác, chẳng hạn các bãi lầy ngập mặn Spartina, một
loài cung cấp hầu nhƣ tất cả năng suất sơ cấp của hệ sinh thái, không có chứng cứ
rằng những hệ sinh thái này sẽ đặc biệt bị đe doạ do sự tuyệt diệt của loài hoặc do
những biến động mở rộng quần thể trƣớc những xáo trộn.
Trong một hệ sinh thái xác định, cũng không có mối quan hệ đơn giản nào
giữa một biến đổi về đa dạng sinh học và biến đổi về các quá trình sinh thái học mà
nó gây ra. Thực ra, những biến đổi này tuỳ thuộc vào các loài và các hệ sinh
tháikhác. Ví dụ, việc biến mất của một loài sinh vật tại một vùng xác định (đƣợc
biết nhƣ sự tuyệt diệt hoặc tuyệt chủng cục bộ) có thể có một chút hoặc không có
ảnh hƣởng đến năng suất sơ cấp tinh nếu có đối tƣợng cạnh tranh thay thế chúng
trong quần xã. Chẳng hạn ở miền đông nƣớc Mỹ, cây độc cần miền đông (Tsuga
canadensis) nhanh chóng thay thế cho cây hạt dẻ Mỹ (Castanea dentata) bị chết
nhƣ một trong hai loài ƣu thế của rừng.
Tuy nhiên, trong các trƣờng hợp khác, sự biến mất khỏi một hệ sinh tháicủa
một loài xác định có thể làm giảm căn bản năng suất sơ cấp. Nếu nấm khuẩn căn
mất hẳn, tốc độ sinh trƣởng của các loài thực vật mà chúng giúp hấp thụ nƣớc và
chất dinh dƣỡng sẽ giảm đột ngột. Cũng tƣơng tự, nếu chẳng hạn một loài động vật
ăn cỏ nhƣ ngựa vằn (Equus burchelli) và wildebeest (Connochaetes taurinus) bị đƣa
đi khỏi thảo nguyên châu Phi, năng suất sơ cấp tinh của hệ sinh thái sẽ giảm. Trong
một số trƣờng hợp, sự biến mất của một loài có thể lại làm năng suất của hệ sinh
tháităng lên, nếu đó là loài ăn thực vật phàm ăn trên thảm thực vật của hệ sinh thái.
Ví dụ, nhím biển, sao biển, và một số loài vùng triều khác bị diệt trừ, năng suất của
tảo trong vùng triều và vùng dƣới triều đôi khi sẽ tăng đáng kể.
Thay đổi đa dạng loài của một hệ sinh tháicó ảnh hƣởng tuỳ từng trƣờng hợp
cụ thể đối với các quá trình của hệ sinh tháinhƣ chu trình nƣớc và chu trình dinh
dƣỡng. Ví dụ, khi một hệ sinh tháirừng bị phá huỷ, một khối lƣợng lớn nƣớc sẽ bị
mất đi trong các trận lũ.

101
Đa dạng sinh học

Mặc dù mối quan hệ giữa đa dạng loài và các quá trình sinh thái học không
tuân theo các quy luật thông thƣờng, các nhà sinh thái học vẫn có thể xác định đƣợc
một số các mối quan hệ cho phép đánh giá đƣợc những thay đổi của môi trƣờng sẽ
ảnh hƣởng thế nào đến đa dạng loài và ngƣợc lại những thay đổi trong đa dạng loài
sẽ ảnh hƣởng đến các quá trình sinh thái học nhƣ thế nào . Một số tiến bộ gần đây
của sinh thái học đã làm rõ các mối quan hệ này, cung cấp cho các nhà hoạch định
chính sách một bƣớc tranh vô giá về cách thức và nhịp độ thay đổi trong hệ sinh
thái và quan trọng hơn nữa là cung cấp cho các nhà quản lý các thông tin cần thiết
cho việc quản lý hiệu quả đa dạng sinh học
- Thứ nhất, cho dù các loài cân bằng nhƣ thế nào, tập hợp các loài tạo nên
quần xã và hệ sinh tháivẫn thay đổi liên tục.
- Thứ hai, đa dạng loài tăng khi tính không đồng nhất của môi trƣờng - hoặc
tính không đồng nhất của nơi cƣ trú - tăng, nhƣng dù độ phong phú loài có thể tăng
do việc tăng tính đa dạng nơi cƣ trú trong một hệ sinh tháithì sự can thiệp này có thể
là con dao 2 lƣỡi.
- Thứ ba, tính không đồng nhất của nơi cƣ trú không chỉ ảnh hƣởng đến
thành phần loài của một hệ sinh thái, mà còn có ảnh hƣởng tới mối quan hệ qua lại
giữa các loài.
- Thứ tƣ, sự xáo trộn theo chu kỳ có vai trò quan trong trong việc tăng tính
không đồng nhất của môi trƣờng và duy trì độ phong phú loài cao .
- Thứ năm, cả kích cỡ và mức độ cô lập của các phần của nơi cƣ trú cũng có
thể ảnh hƣởng đến độ phong phú loài, và độ rộng của các vùng chuyển tiếp giữa các
vùng cƣ trú cũng có tác động tƣơng tự.
- Thứ sáu, các loài khác nhau có ảnh hƣởng khác nhau đối với các đặc tính
của một hệ sinh thái.
Cùng với những kiến thức ngày càng nhiều về các vai trò đặc thù của loài
trong các quần xã và ảnh hƣởng quan trọng của sự xáo trộn cũng nhƣ tính không
đồng nhất của môi trƣờng đối với độ phong phú loài, ngày càng có thể sử dụng và

102
Đa dạng sinh học

quản lý đất mà vẫn duy trì các loài trong vùng đó và cung cấp các dịch vụ sinh thái
có giá trị cho con ngƣời .
Việc nhận thức đƣợc các mối quan hệ vốn có trong các giai đoạn khác nhau
của tính đa dạng đặc thù của một hệ sinh thái- kiểu phân bố và phong phú của các
quần thể, loài và nơi cƣ trú - là cần thiết để đạt đƣợc sự phát triển bền vững trên
toàn thế giới . Tính đa dạng đặc thù có thể tăng do việc bổ sung các loài ngoại lai
hoặc tạo ra những xáo trộn vừa phải . Ngƣợc lại, tính đa dạng này có thể giảm thông
qua các thay đổi nhƣ sự suy giảm loài hoặc ngăn cản các mô hình tự nhiên của sự
xáo trộn và sự xâm lấn. Tính đa dạng đặc thù của một hệ sinh thái có thể bị biến đổi
để thay đổi các mục đích sử dụng mà hệ sinh thái cung cấp. Tuy vậy khi muốn tăng
cƣờng một mục đích sử dụng, các mục đích sinh thái quan trọng khác thƣờng cũng
bị thay đổi theo . Việc xây dựng các khu đất trồng cây lấy gỗ có thể tăng sản lƣợng
gỗ, nhƣng giảm đa dạng loài, đồng thời có thể tăng tần suất lũ và xói mòn đất hoặc
giảm dòng nƣớc trong mùa khô, và rõ ràng không có lợi đối với những loài bị loại
bỏ (do đó giảm bớt đa dạng gene của hệ sinh thái)
Khi thay đổi hệ sinh thái để nâng cao năng suất trƣớc mắt sẽ gây ra những
biến đổi phức tạp trong các quá trình sinh thái khác, và sau cùng những biến đổi này
có thể làm giảm năng suất về lâu dài, trọng tâm của các chính sách quản lý không
thể bị giới hạn với chỉ một số lƣợng nhỏ những ảnh hƣởng này.

4. ĐẶC TRƢNG CÁC HỆ SINH THÁI Ở VIỆT NAM


- Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích
không rộng, nhƣng trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau.
Ở từng vùng địa lý không lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái.
- Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã
trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trƣng này
làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nƣớc
khác trên thế giới.

103
Đa dạng sinh học

- Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố
sinh học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong
cùng một loài sinh vật. Mạng lƣới dinh dƣỡng, các chuỗi dinh dƣỡng với nhiều
khâu nối tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ
năng lƣợng đƣợc thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú,
nhiều tầng, bậc thông qua các nhóm sinh vật: tự dƣỡng (sinh vật sản xuất), dị dƣỡng
(sinh vật tiêu thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở Việt Nam
là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nƣớc khác trên thế giới không có đƣợc.
- Các hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trƣng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể
hiện ở sức chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn; khả năng trung hňa và hạn chế các
tác động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn thƣơng; khả năng tiếp nhận,
chuyển hóa, đồng hóa các tác động từ bên ngoài.
- Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính
mềm dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong
trạng thái hoạt động mạnh, vì vậy, thƣờng rất nhạy cảm với các tác động từ bên
ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng nhƣ những tác động của con ngƣời.

4.1. Hệ sinh thái trên cạn


Trong các kiểu hệ sinh thái trên cạn thì rừng có sự đa dạng về thành phần
loài cao nhất, đồng thời đây cũng là nơi cƣ trú của nhiều loài động, thực vật hoang
dã và vi sinh vật có giá trị kinh tế và khoa học. Các kiểu hệ sinh thái tự nhiên khác
có thành phần loài nghèo hơn. Kiểu hệ sinh thái nông nghiệp và khu đô thị là những
kiểu hệ sinh thái nhân tạo, thành phần loài sinh vật nghèo nàn.
Xét theo tính chất cơ bản là thảm thực vật bao phủ đặc trƣng cho rừng mƣa
nhiệt đới ở Việt Nam, có thể thấy các kiểu rừng tiêu biểu: rừng kín vùng thấp, rừng
thƣa, trảng truông, rừng kín vùng cao, quần hệ lạnh vùng cao. Trong đó, các kiểu và
kiểu phụ thảm thực vật sau đây có tính đa dạng sinh học cao hơn và đáng chú ý hơn
cả: kiểu rừng kín thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới; kiểu rừng thƣa cây lá rộng hơi khô

104
Đa dạng sinh học

nhiệt đới; kiểu rừng kín cây lá rộng, ẩm á nhiệt đới núi thấp; kiểu phụ rừng trên núi
đá vôi.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà đa dạng sinh học, các hệ
sinh thái, nhất là hệ sinh thái rừng - hệ sinh thái có đa dạng sinh họccao nhất bị suy
thoái trầm trọng trong thời gian qua.
Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Rừng
ngập mặn ven biển cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển
đổi thành các ao - đầm nuôi trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch. Gần đây, diện tích
rừng tuy có tăng lên 37 % (năm 2005), nhƣng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở
mức khoảng 8 % so với 50 % của các nƣớc trong khu vực.
Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí
hậu, trong các hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ƣớc đa dạng sinh
họcnhằm tăng cƣờng hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh tháirừng trong
giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nƣớc, giảm phát thải CO2.
Một trong những thành tựu quan trọng mà Việt Nam đạt đƣợc là thành lập
đƣợc 126 Khu bảo tồn bao gồm nhiều các sinh cảnh quan trọng có ý nghĩa quốc tế.
Nhƣng nếu theo kịch bản về biến đổi khí hậu của Ngân hàng thế giới (WB) nƣớc
biển dâng cao 1m sẽ có 78 sinh cảnh tự nhiên quan trọng (27%), 46 Khu bảo tồn
(33%), 9 khu vực có đa dạng sinh học quan trọng (23%), 23 khu có đa dạng quan
trọng khác (21%) bị tác động nghiêm trọng.

4.2. Hệ sinh thái đất ngập nƣớc


Đất ngập nƣớc (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái,
thuộc 2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính
đa dạng sinh học cao:
4.2.1. Rừng ngập mặn ven biển:
Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị nhƣ cung cấp các sản phẩm gỗ,
củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và ƣơng các loài cá, tôm, cua
và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập

105
Đa dạng sinh học

triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là
nơi cƣ trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cƣ (chim, thú, lƣỡng
cƣ, bò sát).
4.2.2. Đầm lầy than bùn:
Đầm lầy than bùn là một dạng hệ sinh thái đặc trƣng cho vùng Đông Nam Á.
U Minh thƣợng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm
lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
4.2.3. Đầm phá:
Đầm phá thƣờng thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha
trộn giữa khối nƣớc ngọt và nƣớc mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong
phú bao gồm các loài nƣớc ngọt, nƣớc lợ và nƣớc mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật
đầm phá thay đổi theo mùa một cách rõ rệt.
Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng
sông Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long:
- ĐNN ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây
là nơi tập trung các hệ sinh tháivới thành phần các loài thực vật, động vật vùng rừng
ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cƣ trú của nhiều loài chim nƣớc.
- ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nƣớc 4.939.684 ha.
Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cƣ từ phía thƣợng nguồn sông
Mê Kông. Những khu rừng ngập nƣớc và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có
tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu
Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập
nƣớc nội địa và hệ sinh thái cửa sông.
Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trƣng của měnh. Tuy
nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng
vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên.

106
Đa dạng sinh học

4.3. Hệ sinh thái biển


Việt Nam có đƣờng bờ biển dài 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng
trên 1 triệu km2 với nguồn tài nguyên sinh vật biển khá phong phú. Trong vùng biển
nƣớc ta đã phát hiện đƣợc chừng 11.000 loài sinh vật cƣ trú trong hơn 20 kiểu hệ
sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau.
Qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát, ngƣời ta đã phát hiện hơn 20 kiểu hệ sinh
thái biển tại Việt Nam. Một số hệ sinh thái Biển điển hình ở Việt Nam nhƣ: hệ sinh
thái Rạn San Hô: Việt Nam hiện nay có khoảng 200 điểm rạn san hô, với trên 400
loài san hô khác nhau, gồm 80 giống, 17 họ; hệ sinh thái Cỏ Biển: toàn thế giới đến
nay đã biết 58 loài, Việt Nam đă xác định đƣợc 14 loài; hệ sinh thái Bãi đá; hệ sinh
thái Bãi triều lầy; hệ sinh thái Cửa Sông ven Biển; hệ sinh thái Rừng ngập mặn; hệ
sinh thái Vùng triều bãi cát; hệ sinh thái Đầm phá; hệ sinh thái Đầm nuôi…..
4.3.1.Rạn san hô
Rạn san hô đặc trƣng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong
phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn.
Trong vùng biển Việt Nam có khoảng trên 1 ngàn km2 rạn san hô với khoảng
trên 300 loài san hô đá, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam nhƣng hiện nay chỉ còn
khoảng 20% loài thuộc mức tốt và rất tốt. Sống quanh quẩn trong các vùng rạn san
hô có trên 2.000 loài sinh vật đáy và cá. Đây là vùng có tiềm năng bảo tồn đa dạng
sinh học, du lịch sinh thái, nguồn lợi sinh vật biển và nguồn giống hải sản tự nhiên.
4.3.2. Cỏ biển
Thảm cỏ biển thƣờng là nơi cƣ trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú
biển Dugon. Các thảm cỏ biển ở độ sâu từ 0 đến 20 m, tập trung nhiều ở ven biển
đảo Phú Quốc, Trƣờng Sa, Côn Đảo và một số cửa sông miền Trung. Đây cũng là
hệ sinh thái có năng suất sinh học cao, là nguồn cung cấp thức ăn cho các loài hải
sản, đặc biệt là rùa biển, thú biển và cá biển. Số loài cƣ trú trong vùng thảm cỏ biển
thƣờng cao hơn vùng biển bên ngoài từ 2 đến 8 lần.

107
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG III. SUY GIẢM ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI VÀ BẢO TỒN

Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên đều bị tác động trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Các hệ sinh thái tự nhiên với tính đa dạng sinh học bị thu hẹp diện
tích hoặc chuyển sang các dạng hệ sinh thái thứ sinh khác. Nguyên nhân của sự suy
giảm đa dạng sinh học là một phức hệ đặc trƣng cho từng địa phƣơng hay từng khu
vực và bao gồm hai nhóm nguyên nhân: Một là, do thiên nhiên nhƣ bão, lụt, sự thay
đổi khí hậu, hạn hán,v.v...Hai là, do hoạt động của con ngƣời đã trực tiếp tác động
vào môi trƣờng tự nhiên.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây lũ lụt diễn ra liên tục ở các tỉnh miền
núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long... Đặc biệt ở các
tỉnh miền núi trong những năm gần đây mực nƣớc ngầm vào mùa khô thấp hơn so
với mức trung bình khá nhiều. Nguyên nhân do sự khai thác, chặt phá rừng quá mức
dẫn đến chu kỳ xuất hiện lũ ngắn dần và cƣờng độ lũ lớn hơn.
Rừng Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hƣởng nặng nề của các chất độc hoá học
do quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh trƣớc đây. Vùng bị rải chất độc nhiều
nhất là khu vực Trung Bộ và Đông Nam Bộ với tỷ lệ diện tích bị rải lên tới 42,2%.
Các chất độc này đang gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng về môi trƣờng
đối với thiên nhiên và con ngƣời Việt Nam. Cho đến nay, thảm thực vật rừng tại các
vùng này vẫn chƣa thể khôi phục để có thể bảo vệ đất dẫn đến quá trình thoái hoá
đất, tăng diện tích đất bạc màu. Bên cạnh đó, các chất độc hoá học này còn thẩm
thấu xuống các mạnh nƣớc ngầm làm cho các thảm thực vật trên mặt đất phát triển
chậm...
Hầu nhƣ bất kỳ dạng hoạt động nào của con ngƣời cũng gây biến đổi môi
trƣờng tự nhiên. Sự biến đổi này sẽ tác động đến sự phong phú tƣơng đối của loài
và trong nhiều trƣờng hợp đặc biệt sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt. Những nguyên nhân
chính đe dọa tới hệ sinh thái do một loạt các ảnh hƣởng và tác động của con ngƣời
có thể chia thành 2 loại chính: trực tiếp (mất và phá huỷ nơi cƣ trú, sự thay đổi
trong thành phần hệ sinh thái, sự nhập nội các loài ngoại lai, khai thác quá mức, ô

108
Đa dạng sinh học

nhiễm, biến đổi khí hậu, các hoạt động công, nông, lâm nghiệp nhằm phát triển kinh
tế - xã hội); và gián tiếp (tăng dân số, sự di dân, sự nghèo đói, các chính sách phát
triển kinh tế chƣa hài hòa với chiến lƣợc bảo tồn đa dạng sinh học).

1. NGUYÊN NHÂN TRỰC TIẾP


1.1. Mất và phá huỷ nơi cƣ trú
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm loài, quần thể và hệ sinh
thái. Cuộc sống của các loài sinh vật luôn gắn liền với nơi cƣ trú. Nơi cƣ trú bị phá
hủy sẽ dẫn đến Đa dạng sinh học bị suy thoái. Tại Châu Á nhiệt đới, 65% nơi cƣ trú
đã bị mất là các cánh rừng tự nhiên. Tốc độ phá rừng đặc biệt lớn tại các nƣớc nhƣ:
Philipin, Bangladet, Sri Lanka, Việt Nam, Ấn Độ, vùng tiểu Sahara, các nƣớc Châu
Phi…đã làm mất nơi cƣ trú của các loài động thực vật hoang dã.
Rừng mƣa nhiệt đới chiếm khoảng 7% diện tích bề mặt trái đất, nhƣng ƣớc
tính ở đó sinh sống trên 50% tổng số loài sinh vật của trái đất. Theo số liệu phân
tích vào năm 1982 diện tích rừng mƣa nhiệt đới vào khoảng 9,5 triệu km2. Đến năm
1985 còn lại 8,5 triệu km2. Hiện nay cứ mỗi năm chúng ta lại mất đi khoảng
180.000km2, trong đó 80.000km2 bị mất hoàn toàn và 100.000km2 bị suy thoái trầm
trọng.
Với tố độ nhƣ hiện nay theo dự báo của các nhà khoa học thì tới năm 2040
chỉ còn lại một phần rất nhỏ của rừng mƣa nhiệt đới nguyên vẹn. Rừng tự nhiên của
Việt Nam phần lớn là rừng lá rộng thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới, là nơi ở lý tƣởng
của nhiều loài động vật cũng đã bị suy thoái trầm trọng.
Theo đánh giá của Viện Điều tra quy hoạch rừng, nƣớc ta chỉ còn 4% rừng
nguyên sinh tập trung ở vùng Bắc Trƣờng Sơn và Tây Nguyên. Có thể nói, đây là nơi
cƣ trú cuối cùng của các loài sinh vật đặc hữu và quý hiếm ở Việt Nam.
Phá rừng không chỉ gây tổn thất đến sản xuất mà còn dẫn đến mất cân bằng
sinh thái và mất tính đa dạng sinh học. Điều lo lắng nhất là các khu rừng nhiệt đới
đang mất dần với tốc độ đe dọa khoảng 2% mỗi năm. Việc khai thác gỗ, khai hoang
để phát triển trồng trọt và chăn nuôi không phải là cách sử dụng có lợi nhất về kinh

109
Đa dạng sinh học

tế ở các khu rừng nhiệt đới. Nguyên nhân của sự phá rừng nhiệt đới không chỉ do sự
tăng trƣởng dân số nhanh và sự nghèo khổ mà quan trọng là còn do thị trƣờng và
chính quyền địa phƣơng có khuynh hƣớng chỉ đơn thuần thừa nhận giá trị kinh tế
của rừng mà chƣa biết đến giá trị quan trọng bảo vệ cân bằng sinh thái của rừng.

Bảng 3.1. Diễn biến diện tích rừng Việt Nam và hậu quả

TT Loại rừng chủ yếu Diễn biến diện tích Hậu quả

1980 1990 1998

1 Rừng lá rộng thƣờng 617,2 834,2 221,4 Diện tích giảm nhanh,
xanh, mƣa ẩm nhiệt đới cấu trúc hệ sinh thái bị
trữ lƣợng giàu phá vỡ, nơi ở của các
loài động vật bị xáo
trộn

2 Rừng lá rộng thƣờng 1.715 1.382,4 1.647,2


xanh mƣa ẩm nhiệt đới
trữ lƣợng nghèo

3 Rừng lá kim 81,3 66,5 36,8

4 Rừng rụng lá 1.202 935 632,8

5 Rừng ngập mặn ven biển 34,2 9,8 2,3

[Nguồn: Chương trình kiểm kê đánh giá rừng theo định kỳ Viện Điều tra quy
hoạch rừng, 1998].

1.2. Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái


Chẳng hạn nhƣ mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm
đa dạng sinh học. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California dẫn
đến viêck giảm sút các quần thể chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ
giảm sút, quần thể con mồi của chúng, gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn

110
Đa dạng sinh học

trứng chim, nên khi số lƣợng chó sói ít hơn thì số lƣợng gấu trúc ăn trứng chim lại
nhiều lên, kết quả là số lƣợng chim hót sẽ ít đi .

1.3. Sự nhập nội các loài ngoại lai


Sự nhập nội của các loài ngoại lai, đặc biệt là các loài ngoại lai xâm lấn có
thể phá vỡ toàn bộ hệ sinh tháivà ảnh hƣởng đến các quần thể động vật hoặc thực
vật bản địa . Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh hƣởng bất lợi cho các loài bản địa
do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn, làm nhiễm độc chúng, cạnh tranh
với chúng hoặc giao phối với chúng.
Do động vật có khả năng phát tán (bị động, chủ động) và sự hình thành và
biến mất của các chƣớng ngại đã dẫn tới sự thay đổi vùng phân bố của loài. Khi
những cá thể phát tán đến lãnh thổ mới phải có khả năng sống đƣợc ở đấy thì ranh
giới vùng phân bố mới đƣợc thay đổi.
Ví dụ loài ngƣời đã mang 44 loài thú từ Châu Âu sang Tân Tây Lan và 4 loài
khác mang đến ngẫu nhiên thì chỉ có 22 loài sinh tồn đƣợc.
Khi một loài động vật nào đến vùng phân bố mới, nếu khả năng sinh thái
cao, cao hơn các loài địa phƣơng thì loài động vật mới đến sẽ sinh sản nhanh và có
khả năng xâm chiếm lấy lãnh thổ mới này. Do đó dồn các loài địa phƣơng lại, làm
cho quan hệ giữa các sinh vật trong vùng phân bố mới thay đổi, làm thay đổi thành
phần loài, hình thành động vật giới mới. Vì vậy trong động vật giới của bất cứ khu
vực nào cũng có thể chia ra hai loại động vật:
- Động vật bản địa (autochtones) là những động vật sinh ra và sống ở địa
phƣơng đó.
- Động vật ngoại lai (imigrate) là những động vật từ những nơi khác chuyển
đến và sinh sống ở đó.
Vì vậy khi nghiên cứu địa động vật của vùng nào cũng cần phải tìm ra những
loài điển hình cho động vật giới nơi đó và những loài trộn lẫn nhau của các vùng
động vật giới lân cận và để xác định sự du nhập của các loài ngoại lai.

111
Đa dạng sinh học

Con ngƣời đã làm thay đổi cơ bản đặc tính phân bố của động vật bằng việc di
chuyển và phát tán các loài trên phạm vi toàn cầu. Những loài thích nghi với điều
kiện mới có khả năng phát triển mạnh và lấn át những loài bản địa đƣợc gọi là
những loài xâm lấn.
Hiện nay những loài sinh vật lạ xâm lấn là mối đe doạ nghiêm trọng đối với
các loài sinh vật bản địa: cạnh tranh lấn chiếm nơi cƣ trú, thức ăn và lây lan bệnh
dịch, phá hoại mùa màng và gây ô nhiễm sinh học. Ở Việt nam hiện nay có một số
loài xâm lấn gây tác hại trầm trọng cho môi trƣờng cũng nhƣ cho con ngƣời nhƣ:
ốc bƣơu vàng, ốc sên, cây trinh nữ đầm lầy (cây Mai Dƣơng), bèo Nhật Bản v.v..
Các loài đó đƣợc du nhập theo ba nguyên nhân chính sau đây:
- Chế độ thuộc địa của các nƣớc châu Âu. Khi những ngƣời châu Âu đến một
vùng thuộc địa mới họ thƣờng mang theo những loài động vật từ các nơi khác nhau
tới nhằm để làm thức ăn, làm cảnh và tạo ra thú vui săn bắn.
-Nghề trồng cây cảnh và làm nông nghiệp: Những cây trồng đƣợc mang tới
nơi ở mới cũng nhằm mục đích để làm thức ăn, cây cảnh hay chăn nuôi gia súc.
Sau khi thoát vào tự nhiên với điều kiện thuận lợi chúng phát triển nhanh và lấn át
những loài cây bản địa.
- Vận chuyển không chủ đích: Đây là nguyên nhân thƣờng xảy ra nhất nhƣng
khó kiểm soát nhât. Những hạt cỏ cây lẫn với những hạt ngũ cốc rất dễ phát tán trên
các cánh đồng. Các loài chuột, côn trùng, ký sinh theo các phƣơng tiện vận chuyển
đi các nơi. Các loài tảo hay các loài động vật không xƣơng sống khác trong các
vùng biển hay nƣớc ngọt bám theo các con tàu, thuyền rồi phát tán đi các nơi và bắt
đầu cuộc sống du nhập mới.

1.4. Khai thác quá mức


Săn bắn quá mức, đánh cá quá mức, hoặc thu hoạch quá mức một loài hoặc
một quần thể có thể dẫn tới sự suy giảm của loài hoặc quần thể đó, suy giảm sự đa
dạng của hệ sinh thái.

112
Đa dạng sinh học

Săn bắn quá mức là một trong những nguyên nhân trực tiếp rõ ràng nhất gây
nên sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật, và ảnh hƣởng đến một số loài thú lớn,
nổi tiếng. Tuy nhiên, trong toàn bộ sự suy giảm đa dạng sinh học, chắc chắn nguyên
nhân này không quan trọng bằng các nguyên nhân gián tiếp nhƣ phá huỷ và biến đổi
nơi cƣ trú. Săn bắn chỉ ảnh hƣởng chọn lọc đối với các loài đã hoặc đang là những
nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế, có thể thu hoạch đƣợc, điều này rất quan trọng
đối với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Do săn bắt, buôn bán động vật hoang dã trái phép: Để chứng minh tốc độ săn
bắt, buôn bán động vật hoang dã, chúng ta có thể nhận thấy rằng giai đoạn trƣớc
năm 1990 việc săn bắt, buôn bán động vật hoang dã chỉ mới sử dụng trong phạm vi
miền núi, chƣa thực sự trở thành kinh tế hàng hóa mang tính quốc gia và quốc tế.
Khoảng từ 1990 đến nay, xu hƣớng tiêu dùng xã hội đã khiến việc sử dụng động vật
hoang dã trở thành phổ biến trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, hầu hết các loài động
vật hoang dã bị khai thác săn bắt với tốc độ cao làm đẩy nhanh sự suy giảm các loài.
Hiện có khoảng hơn 200 loài động vật hoang dã, trong đó có 20 loài đặc biệt quý
hiếm đã đƣợc kinh doanh sử dụng trên thị trƣờng Việt Nam.Phần lớn các loài có
nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng. Các loài bị khai thác bất hợp pháp chủ yếu là: Rắn,
Kỳ Đà, Tê Tê, Rùa các loại, thú rừng, Mèo, Lợn rừng, Hƣơu nai, Khỉ các loại, Cầy
các loại, Gấu, Sơn Dƣơng, Chim. Nhiều nhất vẫn là các loài: rùa, rắn.Tỷ lệ các loài
đƣợc khai thác ở Việt Nam là:thú rừng chiếm 20%, rắn 45%, rùa các loại 30%,
chim 3%, còn lại là các loài khác.

1.5. Ô nhiễm
Ô nhiễm do con ngƣời gây ra có thể ảnh hƣởng đến mọi cấp độ của đa dạng
sinh học. Ô nhiễm môi trƣờng đất, nƣớc, không khí từ các hoạt động phát triển kinh
tế xã hội tác động trực tiếp đến các sinh vật trong hệ sinh thái, biến đổi chất lƣợng
sống của chúng theo hƣớng tiêu cực.

113
Đa dạng sinh học

1.6. Suy giảm chất lƣợng nguồn nƣớc


Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có lƣợng mƣa phong
phú và mạng lƣới sông ngòi dày đặc với một hệ thống 2.345 con sông có chiều dài
10km trở lên, nên tài nguyên nƣớc ngọt khá dồi dào. Biển và thềm lục địa Việt Nam
rộng lớn, với 3.260 km bờ biển với phong cảnh kỳ thú, tài nguyên sinh vật biển rất
phong phú ở cả tầng nổi và tầng đáy. Có hàng trăm loài cá chất lƣợng cao, nhiều bãi
cá trữ lƣợng lớn, có thể khai thác trên 1 triệu tấn cá và 40-50 nghìn tấn tôm một
năm. Nhƣng vùng biển Việt Nam đã bắt đầu bị ô nhiễm do nƣớc thải công nghiệp,
nông nghiệp và các hoạt động sống của con ngƣời từ các lƣu vực sông và vùng ven
biển. Đáng lo ngại là phần lớn chất thải có chứa các hoá chất độc, kim loại nặng,
các hợp chất hữu cơ, hoá chất dùng trong nông nghiệp... chƣa đƣợc xử lý, thải trực
tiếp ra nguồn nƣớc gây ô nhiễm và làm suy thoái hệ sinh tháibiển.
Bên cạnh đó,các hoạt động nông nghiệp mà quan trọng nhất là mở rộng đất
canh tác vào đất rừng, đất ngập nƣớc, gây ô nhiễm do hóa chất nông nghiệp, thay
thế các giống cây con địa phƣơng bằng các giống mới cao sản, khai thác quá mức
tài nguyên thiên nhiên nhƣ khai thác gỗ, các sản phẩm ngoài gỗ, săn bắn, sự tàn phá
trực tiếp của chiến tranh, ô nhiễm môi trƣờng, xây dựng cơ sở hạ tầng, đƣờng giao
thông,v.v..

1.7. Biến đổi khí hậu


Biến đổi khí hậu đang diễn ra nhanh hơn và không có vùng nào trên thế giới
lại không bị ảnh hƣởng bởi biến đổi khí hậu. Theo ủy ban liên chính phủ của Liên
hợp quốcvề biến đổi khí hậu, một trong những khu vực bị ảnh hƣởng nặng nề nhất
chính la những vùng đồng bằng đông dân cƣ và ven biển ở Châu Á. Những tác động
của biến đổi khí hậu lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên và năng suất lao động
dƣờng nhƣ sẽ giảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế, và gia tăng đói nghèo. Theo một tài
liệu mới đây của Ngân hàng thế giới, Việt Nam đc xác định là một trong những
quốc gia bị ảnh hƣởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu với khoảng 1/6 diện tích
đất đai và 1/3 dân số bị ảnh hƣởng.

114
Đa dạng sinh học

Biến đổi khí hậu đồng thời cũng là một trong những mối đe dọa chính đối
với đa dạng sinh học của hành tinh, vì khoảng 20-30% số loài đang phải đối mặt với
nguy cơ tuyệt chủng cao. Chỉ tình riêng ở Việt Nam, khoảng 700 loài đang bị đe
dọa và con số này tiếp tục tăng khi mà các rạn san hô biển đang thu hẹp, những
vùng đầm và các cánh rừng ngập mặn bị giảm dần và diện tích rừng nhiệt đới ẩm
đang bị xuống cấp. Biến đổi khí hậu và sự suy giảm đa dạng sinh họccũng đồng thời
có ảnh hƣởng tiêu cực tới sinh kế của hàng trăm triệu ngƣời dân trên toàn thế giới
và cản trở tới việc hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.( xóa đói
giảm nghèo tận gốc vào năm 2015).

2. NGUYÊN NHÂN GIÁN TIẾP


Nhƣng đằng sau các nguyên nhân này là những nguyên nhân sâu xa về kinh
tế - xã hội và chính sách nhƣ sự đói nghèo, tăng dân số.... Hơn thế nữa, các nguyên
nhân này có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại với nhau qua các hệ
thống thang bậc phức tạp nhất định (địa lý, thời gian, chế độ chính trị,...).

2.1. Sự tăng dân số


Dân số, môi trƣờng và tài nguyên là một thể liên kết khăng khít. Số dân tăng
lên thì nhu cầu cơ bản cho cuộc sống con ngƣời lấy từ môi trƣờng cũng tăng lên, đi
cùng với nó là quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng lên. Nếu
không có sự sử dụng một cách tiết kiệm và khôn khéo, không có sự bảo tồn và tái
tạo, sẽ dẫn đến hệ quả không thể tránh đƣợc là môi trƣờng tự nhiên bị suy thoái, các
nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt.
* Nạn di dân tự do là mối đe dọa đối với sự tồn tại của các khu rừng và Khu
bảo tồn thiên nhiên, đòi hỏi đất sản xuất, xâm lấn đất rừng, trồng lúa, cà phê, cao
su...
* Sự nghèo đói : 90% cộng đồng địa phƣơng sống dựa vào nông nghiệp, phụ
thuộc vào tài nguyên rừng.

115
Đa dạng sinh học

2.2. Chính sách phát triển kinh tế


Tại nhiều nƣớc đang phát triển, các chính sách phát triển kinh tế đƣợc ƣu
tiên, đôi khi chúng mâu thuẫn sâu sắc, chƣa kết hợp hài hòa với chiến lƣợc bảo tồn
đa dạng sinh học. Đây là mâu thuẫn thƣờng thấy giữa hai yêu cầu phát triển kinh tế
và bảo vệ môi trƣờng. Giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi một chiến lƣợc kết hợp
khéo léo giữa phát triển kinh tế, xóa đói nghèo với bảo vệ môi trƣờng. Đây luôn là
một thách thức với các chính phủ.

3. BẢO TỒN HỆ SINH THÁI


Hệ sinh thái bao gồm quần xã sinh vật và môi trƣờng vật lý bao quanh quần xã
sinh vật đó, do đó để bảo tồn các hệ sinh thái hay bảo tồn tính đa dạng sinh học của
hệ sinh thái ta phải quan tâm tới cả hai thành phần đó của hệ sinh thái.
Theo đánh giá của nhiều nhà sinh thái học, bảo tồn hệ sinh thái là cách bảo
tồn có hiệu quả nhất nhằm duy trì tính đa dạng sinh học. Có ba cách bảo tồn hệ sinh
thái, đó là :
- Thành lập các Khu bảo tồn.
- Thực hiện các biện pháp ngoài Khu bảo tồn.
- Phục hồi các quần xã sinh vật tại nơi cƣ trú bị suy thoái.
-
3.1. Xây dựng các Khu bảo tồn
Có nhiều cách để thành lập khác Khu bảo tồn, song có 2 phƣơng thức đƣợc
sử dụng phổ biến nhất đó là : 1- thông quan Nhà nƣớc (thƣờng ở cấp trung ƣơng,
hoặc ở cấp khu vực hay địa phƣơng), 2- thông qua các tổ chức bảo tồn hay cá nhân.
Ngoài ra, các Khu bảo tồn còn đƣợc hình thành bởi các cộng đồng truyền thống bởi
họ muốn giữ gìn lối sống của họ.
Phân hạng hiện thời của IUCN về các Khu bảo tồn và mục tiêu quản lý nhƣ
sau
- I . Khu bảo vệ nghiêm ngặt (Strict protection)

116
Đa dạng sinh học

+ Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt (Strict Nature Reserve)
+ Khu hoang dã
- II. Bảo tồn các hệ sinh tháivà giải trí
- III. Bảo tồn các đặc điểm tự nhiên
- IV. Bảo tồn qua quản lý chủ động
- V. Bảo tồn cảnh quan trên đất liền, biển và giải trí.
- VI. Sử dụng bền vững các hệ sinh thái tự nhiên.
3.1.1. Các Khu bảo tồn hiện có
Khu bảo tồn đầu tiên đƣợc chính thức hình thành vào ngày 1 tháng 3 năm
1872 khi tổng thống Mỹ khi đó là Ulysses Grant chỉ định 80.000ha ở vùng đông bắc
Wyoming làm Vƣờn Quốc gia Yellowstone.
Kể từ đó tới nay, rất nhiều các Khu bảo tồn thiên nhiên, cả về động vật
hoang dã và toàn bộ cảnh quan đƣợc thành lập trên khắp các nƣớc trên thế giới.
Theo danh sách của Liên hợp quốcvề các Khu bảo tồn (UNEP, WCMC –
2003), hiện nay trên toàn thế giới có 102.102 khu bảo vệ, với diện tích trên 18,8
triệu km2, chiếm 12,65% diện tích bề mặt trái đất. Trong số 191 quốc gia có Khu
bảo tồn, thì có 36 quốc gia có Khu bảo tồn chiếm 10-20% diện tích đất đai và 24
nƣớc có trên 20% diện tích là cho các Khu bảo tồn.
3.1.2. Hiện trạng các Khu bảo tồn và các mối đe doạ tới các Khu bảo tồn
Hiệu quả mang lại từ các Khu bảo tồn là không thể phủ nhận, tuy nhiên các
Khu bảo tồn trên thế giới vẫn còn nhiều hạn chế sau:
- Hầu hết các Khu bảo tồn có kích thƣớc nhỏ, khó để duy trì sự sống cho các
loài động vật có xƣơng sống có kích thƣớc lớn. Giải pháp đƣa ra là thành lập hành
lang giữa các Khu bảo tồn nhƣng thực tế là có rất ít các Khu bảo tồn có hành lang
liên kết với các Khu bảo tồn khác.
- Các Khu bảo tồn chƣa có tính đại diện cao cho các thảm thực vật đặc trƣng
hay các loài đặc trƣng.

117
Đa dạng sinh học

- Thực tế nhiều Khu bảo tồn có hoạt động rất ít hoặc hầu nhƣ không hoạt
động.
- Mạng lƣới các Khu bảo tồn trên thế giới còn mỏng (theo tiêu chuẩn của
IUCN, mỗi quốc gia phải có 10% diện tích tự nhiên đƣợc bảo tồn, nhƣng số quốc
gia có Khu bảo tồn còn ít). Thêm vào đó, diện tích dành cho các Khu bảo tồn biển
còn rất thấp (0,5% diện tích đại dƣơng).
- Mạng lƣới Khu bảo tồn còn mang tính chất “tĩnh”, không đáp ứng đƣợc
với những sự thay đổi về vùng phân bố của các loài do sự thay đổi khí hậu toàn cầu.
Do sự quản lý các Khu bảo tồn còn chƣa hiệu quả, nên thực tế cho thấy các
Khu bảo tồn trên thế giới đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng. Theo
những nghiên cứu khảo sát của IUCN, thì những mối đe doạ với các Khu bảo tồn ở
Nam Mỹ là lớn nhất, ở Châu Âu là ít nhất. Vấn đề về các loài thực vật ngoại lai xâm
lấn nghiêm trọng nhất ở Châu Úc ( gồm Autralia, New Zealand ) và các đảo ở Thái
Bình Dƣơng. Trong khi việc khai thác bất hợp lý các loài hoang dại, cháy rừng và
canh tác nông nghiệp là những mối đe doạ nghiêm trọng nhất đối với các nƣớc châu
Phi, châu Á và Nam Mỹ. Những vấn đề lớn nhất đối với các Khu bảo tồn ở các
quốc gia phát triển chủ yếu liên quan tới các hoạt động khai thác tài nguyên, các dự
án thủy lợi.
3.1.3. Các ưu tiên cho việc thành lập khu bảo vệ
Do nguồn kinh phí hạn hẹp nên cần thiết phải thiết lập các ƣu tiên cho việc
bảo vệ. Có thể dung 3 tiêu chí sau để lập ra các ƣu tiên cho bảo tồn loài:
- Tính đặc biệt: Một quần xã đƣợc ƣu tiên bảo vệ cao hơn nếu ở đó là nơi
sinh sống chủ yếu của nhiều loài đặc hữu quý hiếm so với các quần xã chỉ gồm các
loài phổ biến. Một loài thƣờng có giá trị bảo tồn nhiều hơn nếu loài đó có tính độc
nhất về phân loại học, tức là loài duy nhất của giống hay họ, so với loài là thành
viên của một giống (họ) có nhiều loài.
- Tính nguy cấp: một loài có nguy cơ tuyệt chủng sẽ đƣợc quan tâm nhiều
hơn so với loài không bị đe doạ tuyệt chủng. Những quần xã sinh vật đang có nguy
cơ bị tiêu diệt cũng cần đƣợc ƣu tiên bảo vệ.

118
Đa dạng sinh học

- Tính hữu dụng: loài có giá trị kinh tế hoặc tiềm năng đối với con ngƣời sẽ
đƣợc ƣu tiên bảo vệ nhiều hơn.
Từ những ƣu tiên trên, có thể có những cách tiếp cận khác nhau để xây dựng
khu bảo vệ.
- Cách tiếp cận về loài: Có thể thành lập các Khu bảo tồn để bảo vệ những
loài độc nhất vô nhị, loài đặc hữu của một nƣớc. Nhiều khu Vƣờn Quốc gia đƣợc
thành lập với mục đích là bảo vệ môi trƣờng sống của một loài duy nhất, loài này
thƣờng là những loài có thứ bậc cao theo xếp hạng ƣu tiên trên.
Uỷ ban về sự sinh tồn của các loài thuộc IUCN tập hợp trên 2000 nhà khoa
học thuộc 80 nhóm chuyên gia khác nhau, đã đánh giá và khuyến nghị bảo tồn cho
các loài thú, chim, động vật không xƣơng, các loài bò sát, cá và thực vật dựa trên
các tiêu chí trên.
- Cách tiếp cận về quần xã hay hệ sinh thái: Một số nhà sinh thái học cho
rằng nên tập trung cho bảo tồn quần xã hay hệ sinh tháihơn là tập trung bảo vệ loài.
Họ cho rằng, bảo tồn các quần xã hay hệ sinh tháicó thể bảo tồn đƣợc nhiều loài
hơn.
Việc thành lập các Khu bảo tồn mới cần đảm bảo đƣợc là có càng nhiều đại
diện của các loại quần xã sinh vật càng tốt. Định ra đƣợc những khu vực nào trên
thế giới đã đƣợc bảo tồn một cách thoả đáng và những khu vực nào cần khẩn trƣơng
bảo tồn là một công việc cấp bách hiện nay.

3.2. Bảo tồn bên ngoài các Khu bảo tồn


Khoảng 90% diện tích bề mặt trái đất không thuộc các Khu bảo tồn, trong
phần diện tích này, vẫn có một phần tƣơng đối lớn diện tích mà con ngƣời chƣa sử
dụng tới hoặc có tác động rất ít và còn là nơi sinh sống nguyên thuỷ của nhiều loài.
Việc xây dựng và thiết lập các Khu bảo tồn dẫn đến tâm lý là chỉ bảo tồn
những loài trong Khu bảo tồn còn những loài bên ngoài thì không đƣợc xem xét tới
và vẫn bị khai thác tự do. Do đó vẫn có nhiều loài đã bị tuyệt chủng hoặc có nguy
cơ tuyệt chủng. Chính vì vậy, việc bảo tồn bên ngoài các Khu bảo tồn có ý nghĩa

119
Đa dạng sinh học

quan trọng. Tuy nhiên, thực tế thì việc bảo tồn bên ngoài các Khu bảo tồn gặp rất
nhiều khó khăn.
Một cách hiểu khác về việc bảo tồn bên ngoài Khu bảo tồn đó là bảo vệ các
khu vực xung quanh Khu bảo tồn, hay là bảo vệ vùng đệm. Việc bảo vệ vùng đệm
có ý nghĩa quan trọng để bảo vệ các loài sinh vật và các hệ sinh tháicủa Khu bảo
tồn, bởi khi tính đa dạng sinh họcở vùng đệm bị suy giảm thì tính đa dạng của Khu
bảo tồn cũng giảm theo.
Để bảo tồn đa dạng sinh học một cách có hiệu quả, không những chỉ thực
hiện bên trong các khu bảo tồn mà phải bảo tồn cả ngoài khu bảo tồn. Mối nguy
hiểm là các loài hay quần xã nằm trong các khu bảo tồn thì đƣợc bảo vệ nghiêm
ngặt trong khi chúng lại bị khai thác tự do phía ngoài khu bảo tồn. Điều rõ ràng là
nếu khu vực nằm xung quanh khu bảo tồn bị suy thoái thì ĐDSH bên trong cũng sẽ
bị suy giảm, nhất là đối với các khu bảo tồn có diện tích nhỏ. Sự suy giảm này xảy
ra vì nhiều loài cần phải di chuyển ra khỏi ranh giới các khu bảo tồn để tìm kiếm
thức ăn và các vật chất khác mà trong vƣờn không có. Đồng thời, kích thƣớc chủng
quần của một loài trong phạm vi ranh giới của khu bảo tồn có thể sẽ thấp hơn chủng
quần tối thiểu của loài đó có thể tồn tại đƣợc. Nhƣ Western (1989) đã nêu: ”Nếu
chúng ta không thể bảo vệ thiên nhiên bên ngoài các khu bảo tồn thì thiên nhiên
cũng chẳng tồn tại bao nhiêu bên trong các khu đó”.

3.3. Phục hồi nơi cƣ trú của sinh vật


Một trong những nhiệm vụ của bảo tồn là phải khôi phục lại môi trƣờng sống
đã bị huỷ hoại hay bị suy thoái của các quần xã sinh vật. Quá trình này đƣợc gọi là
sinh thái học phục hồi, tức là một quá trình biến đổi có chủ định tại một địa điểm để
xây dựng một hệ sinh thái có tính lịch sử (tồn tại trong thời gian lâu dài) và tính bản
địa (phù hợp với các điều kiện tự nhiên của khu vực). Mục đích của quá trình là xây
dựng nên một hệ sinh thái nhân tạo “bắt chƣớc” cấu trúc, chức năng và các đặc
trƣng của một hệ sinh thái tự nhiên.

120
Đa dạng sinh học

Các hệ sinh thái có thể bị huỷ hoại bởi các hiện tƣợng tự nhiên hoặc do hoạt
động của con ngƣời. Với những hệ sinh thái bị phá huỷ hay bị suy thoái do các yếu
tố tự nhiên thì có thể có khả năng phục hồi cao, có thể thiết lập đƣợc một quần xã
ổn định sau một quá trình diễn thế. Với những hệ sinh thái bị tác động bởi con
ngƣời một cách quá mức thì khả năng phục hồi là rất nhỏ bởi các tác động của con
ngƣời đã làm mất đi hoàn toàn nguồn sinh vật để tái lập lại một hệ sinh thái.
Có 4 cách tiếp cận để đi tới phục hồi các quần xã sinh vật và hệ sinh thái:
- Không hành động vì sự phục hồi quá tốn kém, hoặc những nỗ lực phục hồi
trƣớc đây đã thất bại, hay kinh nghiệm cho thấy hệ sinh thái có thể tự phục hồi.
- Khôi phục lại thành phần loài và cấu trúc nguyên thủy của khu vực bằng
biện pháp tái nhập loài một cách tích cực, ví dụ nhƣ gieo trồng các loại cây nguyên
thủy.
- Cải tạo và phục hồi một số chức năng và một số loài cây nguyên thủy của
hệ sinh thái.
- Thay thế hệ sinh thái đã bị phá huỷ bằng một hệ sinh thái khác cho năng
suất cao hơn.
3.3.1. Hồi phục các loài và chủng quần
Về cơ bản có ba cách nhƣ sau:
Chƣơng trình đƣa trả lại: là đem một chủng quần loài đã đƣợc nhân nuôi
nhân tạo hay là bắt một phần chủng quần loài đó tại một địa phƣơng mà loài đó còn
phong phú đến nơi mà loài đó đã lâu không còn trong thiên nhiên nữa.
Chƣơng trình đƣa thêm: là thả thêm một số cá thể vào một chủng quần hiện
có để tăng them kích thƣớc của tính đa dạng của chủng quần, nhƣng chỉ nên áp
dụng trong trƣờng hợp tính đa dạng di truyền của chủng quần đã bị suy thoái vì việc
đƣa them có thể mang cả mầm bệnh.
Chƣơng trình tạo chủng quần mới: là tạo chủng quần động vật hay thực vật
mới mà trƣớc kia tại chỗ đó chƣa có. Chƣơng trình này có thể thành công nếu nhƣ
điều kiện sinh cảnh phù hợp.

121
Đa dạng sinh học

3.3.2. Hồi phục hệ sinh thái và cảnh quan


Khôi phục hệ sinh thái bị suy thoái thƣờng bao gồm hai hợp phần chính:
Thứ nhất, các nguyên nhân gây nên sự suy thoái cần đƣợc loại trừ.
Hai là, các hợp phần của hệ sinh thái đã bị biến mất cần đƣợc hồi phục lại.
Hợp phần thứ nhất rất quan trọng cho việc thành công của sự khôi phục. Ở
đây việc cần làm là loại bỏ nguyên nhân mà không phải xử lý triệu chứng. Ví dụ:
trƣớc khi đƣa động vật trở lại cần loại bỏ các loài dã thú, những loài có hại đối với
loài dự định đƣa đến, hay phải quản lý đƣợc các loài cỏ dại xâm lấn… nếu nhƣ đó là
nguyên nhân chính đã làm cho loài đó bị suy thoái. Việc hồi phục các hợp phần của
hệ sinh thái bị biến mất khá phức tạp, trƣớc tiên là phải hồi phục lại các thành phần
chủ yếu của hệ sinh thái kể cả việc hồi phục một số loài hay toàn bộ quần xã, để hồi
phục thành công hệ sinh thái nhiều khi còn phải hồi phục lại cấu trúc thổ nhƣỡng,
quản lý các loài cây cỏ ngoại lai xâm lấn.
Việc hồi phục lại các hệ sinh thái thƣờng đƣợc thực hiện ở những vùng bị
suy thoái nặng nề. Ví dụ: vùng khai khoáng, vùng bị rải chất độc hoá học thời chiến
tranh. Việc phục hồi lại những vùng nhƣ thế là rất khó khăn và tốn kém.

3.4. Biện pháp về giáo dục


3.4.1. Xây dựng nguồn nhân lực
Thành công của việc thực hiện chiến lƣợc, chƣơng trình, dự án bảo tồn đa
dạng sinh học tuỳ thuộc vào khả năng của đội ngũ cán bộ có liên quan. Cho nên cần
thiết phải đào tạo đội ngũ cán bộ về nhiều lĩnh vực để thực hiện chƣơng trình quản
lý đa dạng sinh học. Có đội ngũ cán bộ có năng lực thì mới có thể đề xuất và thực
hiện các chƣơng trình quản lý. Đồng thời cũng cần phải đầu tƣ cơ sở vật chất và
nguồn tài chính phù hợp để hỗ trợ cho mọi công việc đƣợc tiến hành một cách thuận
lợi.
Công việc đào tạo về khoa học cơ bản, và nguồn nhân lực vè quản lý đa dạng
sinh học phải dựa vào các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu và các trƣờng cao

122
Đa dạng sinh học

đẳng. Cũng có thể đào tạo nguồn nhân lực bằng các chƣơng trình đặc biệt tổ chức
tại cộng đồng. Thiết kế kế hoạch và phƣơng pháp đào tạo nhân lực về quản lý bảo
tồn đa dạng sinh học còn tuỳ thuộc vào nền văn hoá. Sự khôn khéo vào tinh xảo về
quản lý có phổ khá rộng, từ cấp làng xã cho đến cấp bộ, ngành, vì thế cần động viên
nhiều ngƣời tham gia, sƣu tầm, tìm hiểu để phổ biến cho nhiều ngƣời cùng biết để
thực hiện. Một số biện pháp thƣờng đƣợc sử dụng là:
- Lớp ngắn hạn về khoa học chuyên ngành, về kỹ thuật quản lý, hay về vấn
đề hành chính.
- Lớp đại học hay sau đại học về chuyên ngành trong nƣớc hay ngoài nƣớc.
- Hội thảo, tập huấn về vấn đề riêng.
- Trao đổi khoa học, kinh nghiệm giữa các nƣớc hay các cơ quan khoa học,
viện nghiên cứu.
- Tập huấn ngắn ngày cho cán bộ thực địa.
- Chƣơng trình soạn thảo tài liệu chuyên môn và phân phát tài liệu.
- Tổ chức xây dựng chiến lƣợc, kế hoạch quốc gia, địa phƣơng có sự tham
gia của các cơ quan chính phủ, các cộng đồng địa phƣơng, các tổ chức kinh doanh,
các nhóm dân tộc và những có liên quan.
Ở Việt Nam, đã có một mạng lƣới các trƣờng thực hiện nhiệm vụ đào tạo cán
bộ đa dạng sinh học nhƣ Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội;
Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trƣờng - Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại
học Thái Nguyên; Đại học Cần Thơ; Đại học An Giang, Đại học Huế;... Đại bộ
phận chỉ đào tạo bậc kỹ sƣ và cử nhân. Chƣơng trình đào tạo bậc cử nhân hay kỹ sƣ
cho chuyên ngành đa dạng sinh học ở Việt Nam ở mức tƣơng đƣơng với các nƣớc
trong khu vực, tuy nhiên có nhiều điểm khác so với các nƣớc công nghiệp tiên tiến
vì các nƣớc này có cơ sở vật chất rất đầy đủ, phòng thí nghiệm hiện đại.
3.4.2. Mở rộng các hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức về đa
dạng sinh học

123
Đa dạng sinh học

Truyền thông và nâng cao nhận thức trong bảo tồn và phát triển bền vững đa
dạng sinh học là một công cụ chính nhằm thúc đẩy những thái độ tích cực đối với
đa dạng sinh học, đồng thời cung cấp những kỹ năng giúp phân tích và đƣa ra
những quyết định sáng suốt về cách ứng xử đối với đa dạng sinh học. Chính vì thế
cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức của cộng
đồng nhằm chia sẻ thông tin và chủ động tham gia của ngƣời dân vào việc bảo vệ đa
dạng sinh học:
- Giáo dục trong nhà trƣờng: Cần chính thức đƣa vấn đề bảo tồn đa dạng sinh
học vào nội dung giáo dục chính quy trong tất cả các trƣờng học, từ lớp mầm non
đến các trƣờng tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nội dung giáo dục
môi trƣờng, trong đó có đa dạng sinh học nhất thiết phải đƣợc đƣa vào chƣơng trình
đào tạo ở các trƣờng dạy nghề, các trƣờng trung học chuyên nghiệp và các trƣờng
đại học, đặc biệt là các trƣờng sƣ phạm các cấp, các trƣờng nội trú ở miền núi. Do
tính chất liên ngành mà nội dung đa dạng sinh học có thể lồng ghép vào nội dung
của nhiều môn học khác nhƣ Sinh học, Địa lý, Văn học, Hoá học, Giáo dục công
dân, sinh hoạt ngoại khoá.
- Giáo dục ngoài nhà trƣờng: Nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học nhất
thiết phải đƣợc đẩy mạnh thực hiện ngoài phạm vi nhà trƣờng mà đối tƣợng là đông
đảo quần chúng, cộng đồng dân cƣ, nhất là những ngƣời sống chủ yếu dựa vào khai
thác nguồn tài nguyên sinh học. Công việc này cũng cần đƣợc thực hiện ở những
nơi có đông đảo nhân dân đến thăm nhƣ các bảo tàng, vƣờn thú, vƣờn thực vật,
vƣờn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,...
- Thành lập bộ phận chuyên trách về giáo dục, nâng cao nhận thức về Đa
dạng sinh học, đảm nhận công tác giáo dục đa dạng sinh học nhƣ:
+ Xây dựng chƣơng trình giáo dục, nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học.
+ Nghiên cứu và xây dựng các hình thức giáo dục về nâng cao nhận thức đa
dạng sinh học phù hợp với từng đối tƣợng, từng lứa tuổi.
+ Tổ chức tờ tin về giáo dục và truyền thông đa dạng sinh học.

124
Đa dạng sinh học

+ Xây dựng mạng lƣới giáo dục, liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan, tổ chức thực hiện công tác giáo dục, nâng cao nhận thức đa dạng sinh học.
Hiện nay, Việt Nam có chƣơng trình Nâng cao nhận thức về đa dạng sinh
học giai đoạn 2001-2010, đƣợc phê duyệt theo quyết định 26/2002/QĐ-BKHCNMT
ngày 8 tháng 5 năm 2002 của Bộ Khoa học Công nghê và Môi trƣờng (trƣớc đây).
Chƣơng trình này nhằm cụ thể hoá các hoạt động về nâng cao nhận thức về đa dạng
sinh học đƣợc xác định trong Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam.
Chƣơng trình này đặc biệt nhấn mạnh vai trò của nâng cao nhận thức, kiến thức
toàn xã hội về trách nhiệm đối với tất cả dạng sống, nhằm khai thác sử dụng và phát
triển hợp lý, không làm xói mòn nguồn gen, làm tổn hại các loài và hệ sinh thái của
các thế hệ mai sau.
Việt Nam cũng triển khai dự án Giáo dục môi trƣờng VIE/98/108 do Bộ
Giáo dục và Đào tạo thực hiện thông qua Chƣơng trình Giáo dục môi trƣờng ở các
bậc phổ thông. Các tổ chức đoàn thể (Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Trung ƣơng Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam... ) cũng có
những dự án giáo dục nâng cao nhận thức môi trƣờng. Các dự án đó đã góp phần
tích cực vào việc nâng cao nhận thức đa dạng sinh học cho mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội

3.5. Biện pháp về quản lý


3.5.1. Quản lý vùng đệm
Đã từ lâu vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học, vấn đề chất lƣợng của các hệ sinh
thái và các cảnh quan, hệ động vật và hệ thực vật giàu có của nhiều Khu bảo tồn bị
suy thoái do sức ép của nhân dân sinh sống phía ngoài các Khu bảo tồn đã đƣợc
nhiều ngƣời quan tâm và việc xây dựng các vùng đệm, tạo thành vành đai bảo vệ bổ
sung cho các Khu bảo tồn để loại trừ ảnh hƣởng từ phía ngoài đƣợc đặt ra ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Cách tổ chức và quản lý vùng đệm của mỗi nƣớc cũng khác
nhau, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nƣớc.

125
Đa dạng sinh học

Vùng đệm là những vùng đƣợc xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc không có
rừng, nằm ngoài ranh giới của Khu bảo tồn và đƣợc quản lý để nâng cao việc bảo
tồn của Khu bảo tồn và của chính vùng đệm, đồng thời mang lại lợi ích cho nhân
dân sống quanh Khu bảo tồn. Điều này có thể thực hiện bằng cách áp dụng các hoạt
động phát triển cụ thể, đặc biệt góp phần vào việc nâng cao đời sống kinh tế - xã hội
của cƣ dân sống trong vùng đệm (D.A Gilmour và Nguyễn Văn Sản,1999).
Để có thể bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và các Khu bảo tồn nói riêng
cần phải dành ƣu tiên cho các dự án hỗ trợ dân chúng các vùng đệm, áp dụng các
thành tựu công nghệ tiên tiến, nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống xã hội
nhằm mục đích đảm bảo thu nhập ổn định cho nhân dân, nhờ đó ngăn chặn việc tiếp
tục xâm lấn vào các Khu bảo tồn. Các cấp chính quyền địa phƣơng và các đơn vị
kinh tế khác trong vùng đệm phối hợp trong việc quy hoạch, quản lý theo cách hỗ
trợ (và không đi ngƣợc lại) các mục tiêu bảo tồn đã đƣợc đề ra cho Khu bảo tồn và
vùng đệm.
3.5.2. Bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng
Đây là một trong những biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học trên quan điểm
sinh thái nhân văn mang tính chất xã hội hoá cao. Thực tế ở các quốc gia trên thế
giới và Việt Nam đã chứng minh, quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng
đồng dân cƣ địa phƣơng có thể đạt đƣợc hiệu quả cao về nhiều mặt:
- Giải quyết đƣợc các mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên bao gồm cả
đa dạng sinh học.
- Quản lý và sử dụng ổn định bền vững tài nguyên thiên nhiên.
- Hạn chế các mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế xã hội và bảo tồn thiên
nhiên.
- Giảm thiểu đƣợc các tác động tới đa dạng sinh học và môi trƣờng sống tự
nhiên.
- Giảm thiểu mức đầu tƣ ngân sách nhà nƣớc đối với công tác bảo tồn thiên
nhiên;….

126
Đa dạng sinh học

Ở nƣớc ta, bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng là khái niệm tƣơng
đối mới và chỉ du nhập vào Việt Nam từ những năm 1990. Tuy nhiên, trong thực tế
các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng ở các mức độ khác nhau
đã đƣợc thực hiện từ rất lâu. Tại các vùng miền núi, cộng đồng quản lý tài nguyên
rừng đã đƣợc hình thành có truyền thống từ lâu đời (hay còn gọi là quản lý rừng
truyền thống) với nhiều hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng địa
phƣơng. Rừng cộng đồng truyền thống phổ biến nhất là các loại rừng thiêng, rừng
ma, rừng đầu nguồn nƣớc, rừng của thôn bản hay rừng của dòng họ,...
Từ năm 1995 đến nay, Chính phủ cũng nhƣ các tổ chức quốc tế đã quan tâm
đến quản lý và phát triển rừng cồng đồng. Trong đó phải kể đến Chƣơng trình 327
và 661 với chủ trƣơng giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp kết hợp với các chƣơng trình trồng
rừng và phục hồi rừng. Dự án Phát triển Nông thôn Miền núi Cao Bằng - Bắc Kạn
và Dự án Nông thôn miền núi Sơn La - Lai Châu (2000-2005) cũng đã tiến hành
giao đất cho cộng đồng và hộ gia đình, đồng thời kết hợp các hoạt động quản lý và
phát triển tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng.
3.5.3. Giảm sức ép về dân số
Mối đe doạ đa dạng sinh học xảy ra trƣớc tiên là do áp lực gia tăng dân số và
tiếp theo là gia tăng khai thác, sử dụng tài nguyên. Cho đến tận mấy trăm năm trƣớc
đây, tốc độ gia tăng dân số còn rất thấp, tỷ lệ sinh chỉ hơn tỷ lệ chết đôi chút. Việc
phá huỷ các quần xã sinh học xảy ra nhiều nhất trong vòng 150 năm trở lại đây,
trong thời gian này dân số loài ngƣời tăng từ 1 tỷ ngƣời (1850) đến 2 tỷ ngƣời
(1930) và 5,9 tỷ ngƣời (1995), dự kiến dân số sẽ lên đến 6,5 tỷ ngƣời (2010). Dân
số tăng nhanh đòi hỏi tăng nhu cầu sinh hoạt: lƣơng thực, thực phẩm, các nhu cầu
thiết yếu khác trong khi tài nguyên thì hạn hẹp. Hệ quả tất yếu dẫn tới phải mở rộng
đất nông nghiệp vào đất rừng và suy thoái đa dạng sinh học.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của sự gia tăng dân số, nhiều quốc gia đã
phát triển Chƣơng trình Kế hoạch hoá gia đình, mức tăng trƣởng dân số toàn cầu đã
giảm từ 2% mỗi năm vào những năm trƣớc 80 xuống còn 1,7% và xu hƣớng ngày

127
Đa dạng sinh học

càng thấp hơn. Theo dự tính, sau năm 2100, dân số thế giới sẽ ngừng tăng và ổn
định ở mức 10,529 tỷ. Một số biện pháp giảm sự gia tăng dân số cụ thể nhƣ sau:
- Có những chính sách, giải pháp mạnh mẽ, đƣợc thể chế hoá thành các văn
bản pháp quy.
- Bảo đảm kinh phí cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình. Thực hiện
phƣơng thức quản lý các nguồn kinh phí theo chƣơng trình mục tiêu, bảo đảm phân
bổ và sử dụng có hiệu quả.
- Kiện toàn Uỷ ban dân số và kế hoạch hoá gia đình các cấp từ Trung ƣơng
đến cơ sở.
- Tăng cƣờng công tác thông tin về dân số, tuyên truyền rộng rãi các chủ
trƣơng và biện pháp kế hoạch hoá gia đình, thực hiện giáo dục dân số với nội dung
thích hợp, hình thức đa dạng, có sự tham gia của toàn xã hội.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời dụng cụ, phƣơng tiện theo yêu cầu của ngƣời sử
dụng. Từng bƣớc đa dạng hoá các biện pháp trành thai, bảo đảm chất lƣợng, hiệu
quả, an toàn và thuận tiện.
- Có chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với những cặp vợ
chồng tích cực thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Công tác phục hồi sẽ đóng một vai trò ngày một quan trọng trong việc bảo
tồn các quần xã sinh vật trong quá trình phát triển hiện nay của loài ngƣời, bởi do
quá trình khai thác và tác động của con ngƣời đã làm huỷ hoại rất nhiều các hệ sinh
tháivà các quần xã sinh vật. Thêm vào đó, những hệ sinh thái bị suy thoái mà con
ngƣời vẫn đang khai thác ngày cho năng suất ngày một ít đi và mất dần giá trị kinh
tế. Con ngƣời và các chính phủ cũng mong muốn phục hồi lại các hệ sinh tháiban
đầu cho năng suất cao hơn. Do đó, tầm quan trọng của công tác phục hồi trong quá
trình bảo tồn các hệ sinh thái ngày càng đƣợc thể hiện rõ.

128
Đa dạng sinh học

PHẦN IV. KHU BẢO TỒN

CHƢƠNG I. KHÁI NIỆM VỀ KHU BẢO TỒN


1. KHÁI NIỆM VỀ KHU BẢO TỒN

Theo Công ƣớc Quốc tế về đa dạng sinh học: Khu bảo tồn là một vùng địa lý
đƣợc chọn và đƣợc quản lý nhằm mục đích đạt đƣợc một số mục tiêu về bảo tồn”.
Tại Đại hội lần thứ tƣ về Vƣờn Quốc gia và Khu bảo tồn, tổ chức tại
Caracas, Vênêduêla năm 1992 (IUCN 1994): Khu bảo tồn là vùng đất và/hay biển
đƣợc sử dụng đặc biệt cho bảo vệ, lƣu giữ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên
nhiên và văn hoá, và đƣợc quản lý bằng pháp luật và các biện pháp hữu hiệu khác.
- Theo chiến lƣợc toàn cầu về Đa dạng sinh học (WRI/IUCN/UNEP 1992):
Khu bảo tồn là một vùng đất hay nƣớc đƣợc thành lập một cách hợp pháp thuộc nhà
nƣớc hay tƣ nhân, đƣợc điều chỉnh và quản lý nhằm bảo tồn các mục tiêu nhất định.

2. VAI TRÕ CÁC KHU BẢO TỒN


- Là nơi duy trì lâu dài những mẫu điển hình thiên nhiên có diện tích đủ rộng
lớn và đó là hệ sinh thái đang hoạt động.
- Là nơi duy trì tính đa dạng sinh học, có tác dụng điều chỉnh môi trƣờng nhờ
các quần xã sinh vật có khả năng phân giải các chất ô nhiễm
- Nơi duy trì các vốn gene di truyền, là nơi cung cấp nguyên liệu cho công
tác tuyển chọn vật nuôi cây trồng hiện nay và sau này kể cả cho các mục đích khác.
- Đóng vai trò duy trì cân bằng sinh thái cho từng vùng nhất định, điều hoà
khí hậu, mực nƣớc, bảo vệ các tài nguyên sinh vật để chúng phát triển bình thƣờng,
hạn chế xói mòn, lũ lụt, hạn hán.
- Bảo vệ đƣợc phong cảnh, nơi giải trí và du lịch cho nhân dân, bảo vệ đƣợc
các di sản văn hoá, khảo cổ, lịch sử dân tộc.

129
Đa dạng sinh học

- Nơi nghiên cứu khoa học, học tập, giáo dục và đào tạo. Nhiều sách giáo
khoa đƣợc biên soạn, nhiều chƣơng trình vô tuyến, phim ảnh đƣợc xây dựng về chủ
đề Khu bảo tồn thiên nhiên với mục đích giáo dục và giải trí.
- Tăng thu nhập do thu tiền khách du lịch trong và ngoài nƣớc, tạo công ăn
việc làm cho ngƣời dân trong vùng.

3. BẢO TỒN TRÊN THẾ GIỚI


3.1. Thực trạng
Theo tƣ liệu của Liên hợp quốcxây dựng vào năm 1993 và đã đƣợc Hội đồng
các Vƣờn Quốc gia và Khu bảo tồn thuộc IUCN công nhận vào năm 1994, thì hệ
thống Khu bảo tồn đã có mặt ở tất cả các vùng địa lý trên thế giới. Tƣ liệu này cho
biết diện tích Khu bảo tồn, tỷ lệ phần trăm so với diện tích tự nhiên của từng vùng.
Tuy nhiên diện tích Khu bảo tồn ở mỗi vùng cũng khác nhau: Bắc Mỹ và Châu Öc
chiếm hơn 12% diện tích tự nhiên, Trung Mỹ 9%, Nam Mỹ, Nam và Đông Nam Á
hơn 6%, Bắc Âu-Á 3,1%, Châu Âu ít nhất chỉ có 0,9%. Trung bình của cả thế giới
là 6% trong đó có khoảng 6900 Khu bảo tồn hợp pháp ở 103 nƣớc, tính cả các khu
thiên thiên khác thì thế giới sẽ có số lƣợng Khu bảo tồn là 30000 chiếm 10% diện
tích bề mặt hành tinh.
Danh sách các Khu bảo tồn của Liên hợp quốcchỉ là đại diện một phần
37000 Khu bảo tồn mà Cơ quan theo dõi bảo tồn thế giới WCMC (World
Conservation Monitoring Centre) ghi nhận. Vào năm 1994, chỉ có 9832 Khu bảo
tồn đƣợc công nhận có đủ các tiêu chí nói trên để đƣa vào danh sách của Liên hợp
quốcvà đến năm 1997 danh sách Khu bảo tồn của Liên hợp quốcđã tăng lên đến
12754 khu.
Khu bảo tồn nằm trong danh sách của Liên hợp quốclà do WCMC thu thập
qua các cơ quan quản lý, phối hợp với IUCN. Ba loại Khu bảo tồn: khu dự trữ rừng,
các khu dự trữ thiên nhiên tƣ nhân và các loại Khu bảo tồn khác không đƣợc đƣa
vào danh sách của Liên hợp quốc, một phần do không đạt các tiêu chí đề ra hoặc

130
Đa dạng sinh học

chƣa có đủ tƣ liệu để xem xét. Dù sao các Khu bảo tồn này cũng đã góp phần đáng
kể vào công tác bảo tồn và phát triển bền vững.
Sự phát triển hệ thống các Khu bảo tồn cũng khác nhau tuy theo từng vùng,
hoặc từng nƣớc. Ví dụ: các Khu bảo tồn ở khu vực Bắc Phi chỉ chiếm 2,8% diện
tích tự nhiên, trong lúc đó ở Bắc Hoa Kỳ chiếm 12,6%, Đức 24,6%, Áo gần 25,3%,
Anh 18,9% diện tích là Khu bảo tồn, song tại một số nƣớc có rất ít Khu bảo tồn nhƣ
Hy Lạp chỉ có 2%, Nga 1,2%, Thổ Nhĩ Kỳ 0,3%.
Số liệu về Khu bảo tồn của từng quốc gia và châu lục cũng chỉ là tƣơng đối
bởi vì đôi khi trên thực tế các đạo luật về bảo vệ các Vƣờn Quốc gia và Khu bảo tồn
động vật hoang dã không đƣợc thực thi, trong khi nhiều khu vực thuộc khu dự trữ
tài nguyên và các khu vực quản lý cho việc sử dụng đa mục đích trong thực tế lại
đƣợc bảo vệ nghiêm ngặt.
Về diện tích các Khu bảo tồn cũng rất khác nhau. Nói chung có rất ít các
Khu bảo tồn có diện tích rộng, số lƣợng các Khu bảo tồn hẹp lại rất nhiều. Chỉ có 4
Khu bảo tồn có diện tích lớn hơn 100000 km2 nhƣng lại chiếm khoảng 1,7 triệu km2
(chiếm 17% diện tích các Khu bảo tồn trên thế giới). Khu bảo tồn lớn nhất trên thế
giới là Vƣờn Quốc gia Greenland rộng 972000 km2, chiếm 10% diện tích các Khu
bảo tồn. Các Khu bảo tồn nhỏ hẹp có số lƣợng rất lớn, mà phần lớn đƣợc xác định
rất cẩn thận để bảo vệ một số sinh cảnh đặc biệt, một số loài một số HST cần thiết
phải bảo tồn. Nhiều nƣớc, ví dụ ở khu vực Thái Bình Dƣơng và Caribê, không có
đủ diện tích để thành lập các Khu bảo tồn đủ rộng trên đất liền với diện tích rộng
hơn 10km2, cho nên các Khu bảo tồn ở đây không đƣợc đƣa vào danh lục.
Nói chung, ở nhiều nƣớc các Khu bảo tồn sẽ khó vƣợt tỷ lệ 7% đến 10% diện
tích mặt đất bởi vì nhu cầu của con ngƣời đối với tài nguyên thiên nhiên và đất đai
rất lớn.

3.2. Tiêu chí xác định


Các Khu bảo tồn đƣợc xác định theo các tiêu chí: kích cỡ, mục tiêu quản lý
và quyền lực của cơ quan quản lý nhƣ sau:

131
Đa dạng sinh học

- Kích cỡ: Với tính chất thực tiễn chỉ những Khu bảo tồn có diện tích trên
10km2 mới đƣợc công nhận, trừ các đảo đại dƣơng có diện tích 1km 2 trở lên đƣợc
bảo vệ toàn bộ.
- Mục tiêu quản lý: Các mục tiêu quản lý đƣợc Hội đồng các Vƣờn Quốc gia
và Khu bảo tồn, IUCN/CNPPA đƣa ra vào năm 1978, đƣợc sửa chữa vào năm 1993
và công bố vào năm 1994. Cách quản lý của IUCN có thể không trùng khớp với tên
gọi các Khu bảo tồn của các quốc gia.
- Quyền lực của cơ quan quản lý: Trƣớc kia chỉ có những Khu bảo tồn do
các cơ quan có quyền lực cao nhất (Chính phủ) mới đƣợc đƣa vào danh sách của
Liên hợp quốc. Trong danh sách trên đây các Khu bảo tồn do cấp vùng hay tỉnh
quản lý cũng đƣợc kể đến.

3.3. Phân loại các Khu bảo tồn trên Thế giới
- IUCN đã đề ra việc phân chia các loại hình Khu bảo tồn vào năm 1978,
gồm có 10 loại theo mức độ và mục tiêu bảo vệ khác nhau:
+ Khu bảo tồn cho nghiên cứu khoa học (hay Khu bảo tồn thiên nhiên
nghiêm ngặt)
+ Vƣờn Quốc gia
+ Công trình thiên nhiên (hay Thắng cảnh thiên nhiên)
+ Khu dự trữ thiên nhiên (hay Khu bảo tồn động vật hoang dã)
+ Khu bảo tồn cảnh quan
+ Khu dự trữ tài nguyên
+ Khu bảo tồn nhân chủng học (hay Khu lịch sử)
+ Khu quản lý đa dạng
+ Khu bảo tồn sinh quyển
+ Khu di sản thế giới
- Sau hội nghị tại Caracas, Vênêzuela của Hội đồng Vƣờn Quốc gia và Khu
bảo tồn thiên nhiên, IUCN đã rút lại còn 6 loại Khu bảo tồn thiên nhiên:

132
Đa dạng sinh học

+ Loại I: Khu bảo tồn nghiêm ngặt/ Khu bảo tồn hoang dã: Bảo vệ và giữ
gìn các quá trình tự nhiên không có sự tác động của con ngƣời để có đƣợc những
mẫu môi trƣờng thiên nhiên nguyên vẹn, nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, quan
trắc môi trƣờng, giáo dục vào bảo tồn các nguồn tài nguyên di truyền trong tình
trạng biến động và tiến hoá tự nhiên. Có hai loại phụ:
Loại 1a gồm những Khu bảo tồn đƣợc quản lý chủ yếu cho nghiên cứu khoa
học và quan trắc
Loại 1b gồm các Khu bảo tồn đƣợc quản lý chủ yếu để bảo tồn những vùng
hoang dã còn nguyên vẹn.
+ Loại II: Vƣờn Quốc gia: Bảo vệ các vùng thiên nhiên phong phú, đẹp có ý
nghĩa quốc gia và quốc tế về khoa học, giáo dục và giải trí. Các Khu bảo tồn này
thƣờng có diện tích rộng, ít chịu sự tác động của các hoạt động của con ngƣời và ở
đó không cho phép khai thác các tài nguyên.
+ Loại III: Công trình thiên nhiên quốc gia/các thắng cảnh tự nhiên: Chủ
yếu bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên đặc biệt của quốc gia. Các Khu bảo tồn này
thƣờng có diện tích không lớn.
+ Loại IV: Khu bảo tồn các sinh cảnh/Khu quản lý các loài: Chủ yếu bảo tồn
các điều kiện thiên nhiên cần thiết để bảo vệ một số loài có ý nghĩa quốc gia, một
nhóm loài, các quần xã sinh vật hay các đặc trƣng vật lý của môi trƣờng mà ở đấy
các đặc trƣng này cần đƣợc bảo vệ một cách đặc biệt để tồn tại đƣợc lâu dài
+ Loại V: Khu bảo tồn cảnh quan đất liền hay cảnh quan biển: Chủ yếu bảo
tồn các cảnh quan thiên nhiên đẹp có ý nghĩa quốc gia, đặc trƣng cho sự tác động
một cách nhịp nhàng của các hoạt động của con ngƣời và thiên nhiên, có thể sử
dụng cho giải trí và du lịch. Đây là những cảnh vật văn hoá/thiên nhiên đẹp đẽ có
giá trị cao và là nơi mà việc sử dụng đất đai theo truyền thống còn đƣợc lƣu giữ.
+ Loại VI: Khu bảo tồn quản lý tài nguyên thiên nhiên: Đây là loại Khu bảo
tồn mới đƣợc đề xuất, bao gồm những vùng đƣợc quản lý với mục tiêu bảo tồn lâu
dài Đa dạng sinh học đồng thời sử dụng một cách bền vững các HST và tài nguyên
thiên nhiên nhằm đảm bảo nhu cầu của các cộng đồng dân cƣ. Các Khu bảo tồn này

133
Đa dạng sinh học

thƣờng có diện tích tƣơng đối rộng và các HST còn ít bị biến đổi, và ở đây việc sử
dụng tài nguyên theo cách truyền thống và bền vững đƣợc khuyến khích.
Số loại Khu bảo tồn cũng không đồng đều ở các nƣớc. Loại V đƣợc dùng
rộng rãi ở Châu Âu, còn ở Nam Hoa Kỳ nửa số Khu bảo tồn lại thuộc loại II. Ở
Châu Öc loại I và II chiếm đến 4% diện tích tự nhiên, nhƣng vẫn còn nhiều HST
điển hình của vùng này vẫn chƣa đƣợc đƣa vào hệ thống các Khu bảo tồn.
Tuy IUCN đã phân ra 6 loại Khu bảo tồn nhƣ trên, nhƣng không phải tất cả
các nƣớc đã theo cách phân loại trên để xây dựng hệ thống Khu bảo tồn của nƣớc
mình. Một số nƣớc có cách phân loại riêng, có thể nhiều loại hơn hay ít loại hơn.
Tên gọi các Khu bảo tồn trên thế giới cũng rất khác nhau và đến nay đã có đến 1388
thuật ngữ khác nhau đƣợc sử dụng để chỉ những Khu bảo tồn.

3.4. Giới thiệu về Vƣờn Quốc gia Granpadiso – Italia


3.4.1. Đặc điểm
Hình 4.1. Vị trí Vườn Quốc gia Granpadiso

Địa điểm:Ý
Gần thành phố:Turin
Tọa độ: 45°30′10″B, 7°18′36″Đ
Diện tích:703 km²
Thành lập:1922

134
Đa dạng sinh học

Vƣờn Quốc gia Gran Paradiso nằm trong khu rặng núi Alpes grees, thung
lũng Aosta, vùng Piedmont, tây bắc Ý. Vƣờn rộng 703 km2, 10% diện tích của
vƣòn là rừng, 16.5% là đất canh tác và đồng cỏ, 24% bỏ hoang, và 40% xếp loại cằn
cỗi. 57 sông băng chiếm 9.5% diện tích của vƣờn. Các núi và thung lũng của vƣờn
do các sông băng và các dòng nƣớc khắc chạm nên.
Độ cao của vƣờn là từ 800 tới 4.061 m, mức trung bình là 2.000 m. Các đáy
thung lũng trong vƣờn là rừng cây. Có các đồng cỏ ở độ cao, cùng khối đá và sông
băng ở độ cao hơn các đồng cỏ. Ngọn Gran Paradiso là ngọn núi duy nhất nằm hoàn
toàn trên đất Ý có độ cao trên 4.000 m. Từ đỉnh núi này, có thể nhìn thấy núi Mont
Blanc và núi Mattehorn.
3.4.2. Giá trị đa dạng sinh học
- Hệ thực vật: Có khoảng 1.500 loài cây sống trong khu vƣờn này. Các rừng
của vƣờn rất quan trọng vì chúng là nơi nƣơng náu cho vô số động vật, cũng nhƣ
giữ cho đất không bị lở và bị ngập nƣớc. Hai loại cây rừng chính trong vƣờn là cây
thông rừng và thông rụng lá. Rừng thông rụng lá thƣờng ở phía Piedmont của vƣờn,
chứ không có ở phía thung lũng khô ráo Valle d'Aosta. Các rừng này dầy và rậm lá,
ánh sáng mùa hè ít lọt qua. Các cây thông rụng lá thƣờng mọc lẫn với các cây vân
sam và hiếm khi chung với cây linh sam.
Cũng có các rừng cây thích (Maple) và cây đoạn (Tilia platyphyllos). Các
rừng này ở những khu cách biệt và có nguy cơ bị diệt vong. Cây sồi có nhiều ở khu
thung lũng Valle d'Aosta hơn ở khu Piedmont, vì nhiệt độ cao hơn và lƣợng mƣa ít
hơn. Cây hạt dẻ ở vƣờn là do ngƣời trồng, hiếm khi chúng sống ở độ cao trên 1.000
m. Rừng tùng bách, thông rừng, vân sam thƣờng có lẫn cả lãnh sam. Lãnh sam và
thông rừng thƣờng mọc ở độ cao 2.200 - 2.300 m.
Ở độ cao hơn, cây cối thƣa dần và có các bãi cỏ, cùng nhiều cây hoa nở
muộn trong mùa xuân. Các cây hoa dại trong đồng cỏ ở độ cao có hoa păngxê
hoang, cây long đởm, hoa huệ tây, đỗ quyên. Các cây hoa này thu hút nhiều loại
bƣớm. Các cây nhỏ sống trên độ cao đã thích ứng với nơi sống bằng cách nhận
những đặc tính nhƣ lùn, có lông hoa màu sáng lợt và rễ phát triển nhiều.

135
Đa dạng sinh học

- Hệ động vật: Loài động vật phổ biến nhất là dê núi. Dê núi gặm cỏ ở các
bãi cỏ trên độ cao trong mùa hè, mùa đông chúng xuống nơi thấp hơn. Vƣờn Quốc
gia Gran Paradiso sánh cặp với vƣờn Quốc gia Vanoise cung cấp sự che chở cho
loài dê núi này. Cùng với dê núi, vƣờn cũng có các loài động vật khác nhƣ chồn,
chồn ermine, thỏ rừng, con lửng (badger), sơn dƣơng, marmot.
Có trên 100 loài chim sống trong vƣờn, trong đó có chim cú đại bàng, gà gô
trắng, chim chích núi, quạ chân đỏ, chim gõ kiến, chim bổ hạt (nutcracker) vv...
Các chim đại bàng làm tổ trên gờ vách đá, đôi khi ở trên cây.

4. PHÂN BIỆT GIỮA VƢỜN QUỐC GIA, KHU BẢO TỒN THIÊN
NHIÊN VÀ KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN
4.1. Vƣờn quốc gia
4.1.1. Khái niệm
Vƣờn Quốc gia là vùng đất tự nhiên đƣợc thành lập để bảo vệ lâu dài một
hay nhiều hệ sinh thái, bảo đảm các yêu cầu sau:
- Phải bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản (còn nguyên vẹn hoặc
ít bị tác động); các nét đặc trƣng về sinh cảnh của các loài động, thực vật ; các khu
địa mạo có giá trị về mặt khoa học, giáo dục và du lịch;
- Phải đủ rộng để chứa đựng đƣợc một hay nhiều hệ sinh thái không bị thay
đổi bởi những tác động xấu của con ngƣời; tỷ lệ diện tích hệ sinh thái tự nhiên phải
đạt từ 70% trở lên;
- Có điều kiện về giao thông tƣơng đối thuận lợi.
4.1.2. Vai trò của các Vườn Quốc gia
- Duy trì lâu dài những mẫu điển hình thiên nhiên có diện tích đủ rộng lớn và
đó là hệ sinh thái đang hoạt động
- Duy trì tính đa dạng sinh học, có tác dụng điều chỉnh môi trƣờng nhờ các
quần xã sinh vật có khả năng phân giải các chất ô nhiễm nhƣ kim loại năng, thuốc

136
Đa dạng sinh học

trừ sâu và các chất thải sinh hoạt khác đang ngày càng tăng do các hoạt động của
con ngƣời, giúp phần phục hồi các tài nguyên tái sinh.
- Duy trì các vốn gene di truyền, là nơi cung cấp nguyên liệu cho công tác
tuyển chọn vật nuôi cây trồng hiện nay và sau này kể cả cho các mục đích khác.
- Duy trì cân bằng sinh thái cho từng vùng nhất định, điều hoà khí hậu, mực
nƣớc, bảo vệ các tài nguyên sinh vật để chúng phát triển bình thƣờng, hạn chế xói
mòn, lũ lụt, hạn hán. Quần xã thực vật có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều
hoà khí hậu địa phƣơng, khí hậu vùng và ngay cả khí hậu toàn cầu.
- Bảo vệ đƣợc phong cảnh, nơi giải trí và du lịch cho nhân dân, bảo vệ đƣợc
các di sản văn hoá, khảo cổ, lịch sử dân tộc.
- Nơi nghiên cứu khoa học, học tập, giáo dục, đào tạo.
- Tăng thu nhập do hoạt động du lịch, tạo công ăn việc làm cho ngƣời dân
trong vùng.
4.1.3. Phân khu chức năng của Vườn Quốc gia
* Vùng lõi:
+ Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: là khu vực đƣợc bảo toàn nguyên
vẹn, đƣợc quản lý bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên; nghiêm cấm mọi
hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng;
+ Phân khu phục hồi sinh thái: Là khu vực đƣợc quản lý, bảo vệ chật chẽ để
rừng phục hồi, tái sinh tự nhiên; nghiêm cấm việc du nhập những loài động vật,
thực vật không có nguồn gốc tại khu rừng.
+ Khu hành chính - dịch vụ
- Khu du lịch
- Khu hành chính
- Khu dân cƣ
* Vùng đệm:
Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nƣớc nằm sát ranh
giới với các Vƣờn Quốc gia; có tác động ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm phạm

137
Đa dạng sinh học

Khu bảo tồn. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ cho công
tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ Khu bảo tồn; hạn chế di dân từ bên ngoài vào vùng
đệm; cấm săn bắn, bẫy bắt các loài động vật và chặt phá các loài thực vật hoang dã
là đối tƣợng bảo vệ.
Diện tích của vùng đệm không tính vào diện tích của Vƣờn Quốc gia; Dự án
đầu tƣ xây dựng và phát triển vùng đệm đƣợc phê duyệt cùng với dự án đầu tƣ của
Vƣờn Quốc gia.
Vùng đệm đƣợc chia thành
- Hành lang rừng chiến lƣợc
+ Khu bảo vệ nghiêm ngặt
+ Khu phục hồi sinh thái
- Khu dân cƣ
4.1.4. Các đặc trưng của Vườn Quốc gia
Các Vƣờn Quốc gia thông thƣờng nằm tại các khu vực chủ yếu là chƣa phát
triển thƣờng là những khu vực với động – thực vật bản địa quý hiếm và các hệ sinh
thái đặc biệt ( chẳng hạn cụ thể là các loài đang nguy cấp), sự đa dạng sinh học, hay
các đặc trƣng địa chất đặc biệt. Đôi khi, các Vƣờn Quốc gia cũng đƣợc thành lập tại
các khu vực đã phát triển với mục tiêu làm cho khu vực đó trở lại gần giống nhƣ
tình trạng ban đầu của nó, càng gần càng tốt.

138
Đa dạng sinh học

Hình 4.3: Các Vườn Quốc gia của Việt Nam

139
Đa dạng sinh học

4.2. Khu dự trữ sinh quyển


4.2.1. Định nghĩa
Theo quan niệm trƣớc đây, các Khu bảo tồn thiên nhiên thƣờng đƣợc xem
nhƣ một khu vực tách biệt với thế giới loài ngƣời. Quan niệm này đã dẫn đến những
sai lầm trong việc quản lý các Khu bảo tồn thiên nhiên. Kết quả là thiên nhiên vẫn
liên tục bị con ngƣời tác động theo hƣớng tiêu cực: tàn phá mà nguyên nhân là do
những áp lực xã hội và sinh thái cả trong và ngoài Khu bảo tồn. Theo Chƣơng trình
Con ngƣời và Sinh quyển (Man and Biosphere Program; viết tắt là: MAB thuộc
UNESCO) thực tế cho thấy các Khu bảo tồn vẫn cần có một số khu vực không có
hoặc chịu rất ít tác động của con ngƣời với những quy định kiểm soát chặt chẽ,
đƣợc gọi là “vùng lõi”. Bên cạnh đó cần thúc đẩy phát triển kinh tế thân thiện với
môi trƣờng, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở các
vùng xung quanh đƣợc gọi là các “vùng đệm” và chuyển tiếp trong đó, ngƣời dân
địa phƣơng đóng vai trò chủ chốt. Có nhƣ vậy công tác bảo tồn mới đạt đƣợc hiệu
quả lâu dài và bền vững.
Khái niệm Khu dự trữ sinh quyển lần đầu tiên đƣợc MAB đƣa ra tại hội nghị
khoa học „Sử dụng hợp lý và bảo tồn tài nguyên của Sinh quyển‟ tổ chức tại Paris
vào tháng 9/1968 với sự tham gia của 236 đại biểu đến từ 63 nƣớc và 88 đại diện
của các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ của nhiều ngành khoa học khác
nhau cùng các nhà quản lý và ngoại giao. Sau này đƣợc gọi là “Hội nghị Sinh
quyển” do UNESCO tổ chức với sự ủng hộ tích cực của Tổ chức Lƣơng thực, Tổ
chức Y tế thế giới, các tổ chức bảo tồn và chƣơng trình sinh học quốc tế thuộc Hội
đồng Khoa học Quốc tế (IBP/ICSU).
Theo quy định của Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hợp
quốc(UNESCO), Khu dự trữ sinh quyểnTG là hệ thống những vùng có hệ sinh thái
trên cạn, hệ sinh thái ven biển hoặc những hệ sinh thái kết hợp những thành phần
đó, được quốc tế công nhận trong phạm vi chương trình của UNESCO về con người
và sinh quyển (MAB).

140
Đa dạng sinh học

Một khái niệm khác: Khu dự trữ sinh quyển là vùng lãnh thổ bao gồm các
HST đại diện cho vùng địa lý sinh học chính, bao gồm cả các tác động can thiệp
của con người, có ý nghĩa trong bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời có khả năng
cho thấy những cơ hội để khai thác và trình diễn sự tiếp cận phát triển bền vững
trong phạm vi của vùng. (UNESCO, 1974).
4.2.2. Các tiêu chí
Là một thảm đại diện các hệ sinh thái của các vùng địa lý sinh vật chính, bao
gồm cả sự thay đổi việc can thiệp của con ngƣời.
- Có ý nghĩa về bảo tồn đa dạng sinh học.
- Cung cấp cơ hội để có thể tiến hành và trình diễn các phƣơng hƣớng phát
triển bền vững trong quy mô khu vực.
- Có diện tích đủ lớn để thực hiện ba chức năng của khu DTSQ (bảo tồn,
phát triển và hỗ trợ).
- Đƣợc phân vùng cụ thể (vùng lõi, vùng đệm, vùng chuyển tiếp) nhằm thực
hiện ba chức năng trên.
4.2.3. Vai trò của Khu dự trữ sinh quyển
Việc thiết lập những Khu dự trữ sinh quyển nhằm thúc đẩy và làm rõ sự cân
bằng mối quan hệ giữa con ngƣời và sinh quyển. Mỗi khu DTSQ có ba chức năng
chính, chúng đều bổ sung và hỗ trợ cho nhau.
- Chức năng bảo tồn: thực hiện chức năng bảo tồn hệ sinh thái, đóng góp
một cách tích cực nhất vào việc bảo tồn đa dạng di truyền, loài, hệ sinh thái và
cảnh quan.
- Chức năng phát triển: phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững về
sinh thái cũng nhƣ các giá trị văn hoá truyền thống.
- Chức năng hỗ trợ: trợ giúp nghiên cứu, giám sát, giáo dục, trao đổi thông
tin giữa các địa phƣơng, quốc gia, quốc tế về bảo tồn và phát triển bền vững.

141
Đa dạng sinh học

Hình 4.4: Ba chức năng của Khu dự trữ sinh quyển

4.2.4. Cấu trúc của Khu dự trữ sinh quyển


KQTSQ chia thành 3 khu vực chính:
- Vùng lõi (Core area) là vùng không có tác động của con ngƣời, trừ một số
hoạt động nghiên cứu giám sát mang tính khoa học, có thể duy trì một số hoạt động
truyền thống phù hợp của ngƣời dân địa phƣơng nhƣng không ảnh hƣởng đến môi
trƣờng sinh thái.
- Vùng đệm (Buffer Zone) là vùng có chức năng phát triển điều hòa, tôn
trọng hiện trạng, phù hợp với các tiêu chí nhằm phục vụ công tác bảo tồn vùng lõi.
- Vùng chuyển tiếp (Transition Zone) ở ngoài cùng. Các hoạt động kinh tế ở
đây vẫn duy trì bình thƣờng, trong đó nhân dân địa phƣơng cùng các nhà khoa học
công ty tƣ nhân, các tổ chức xã hội...phối hợp cùng khai thác, quản lý và phát triển
bền vững nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên mà Khu dự trữ sinh quyển đem lại.

142
Đa dạng sinh học

Hình 4.5: Phân vùng Khu dự trữ sinh quyển

4.2.5. Hệ thống các Khu dự trữ sinh quyển trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có khoảng 550 Khu dự trữ sinh quyển thuộc 105 quốc gia
trên thế giới.

Hình 4.6: Bản đồ các Khu dự trữ sinh quyển trên thế giới
Trong đó màu đỏ thể hiện các nước có trên 35 Khu dự trữ sinh quyển, màu
da cam từ 20- 34 khu, màu vàng từ 15-19 khu, màu xanh lá cây từ 10- 14 khu, màu
xanh từ 5-9 khu, màu tím từ 1- 4 khu.

143
Đa dạng sinh học

Việt Nam hiện có 6 Khu dự trữ sinh quyển:


1. Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ: là khu rừng ngập mặn cửa sông nằm trên
địa bàn huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh, công nhận năm 2000.
2. Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên: là khu rừng trên cạn nằm trên địa bàn các
huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu (Đồng Nai), Cát Tiên, Bảo Lộc (Lâm Đồng) và Bù Đăng
(Bình Phƣớc), công nhận năm 2001.
3. Khu dự trữ sinh quyển Đồng Bằng sông Hồng: là vùng đất ngập nƣớc ven
biển nằm trên phần đất phía Nam vùng đồng bằng sông Hồng, bao gồm vƣờn Quốc
gia Ramsar Xuân Thủy, Nam Định; khu vực bãi ngang Kim Sơn, Ninh Bình; Khu
bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Tiền Hải, Thái Bình. Công nhận năm 2004 .
4. Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà: nằm trên địa phận quần đảo Cát Bà, thuộc
địa phận huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, bao gồm Vịnh Hạ Long, đó là hệ
thống rừng mƣa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm rong, hệ
thống hang động. Công nhận năm 2004.
5. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang: nằm tại vùng ven biển Kiên Giang,
gồm 3 vùng lõi là Vƣờn Quốc gia Phú Quốc, Vƣờn Quốc gia U Minh Thƣợng và
rừng phòng hộ ven biển Kiên Lƣơng, công nhận năm 2006.
6. Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An: bao gồm Vƣờn Quốc gia Pù Mát và
hai Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt có diện tích hơn một triệu ha trải
dài trên chín huyện miền núi của tỉnh Nghệ An, công nhận năm 2007.

144
Đa dạng sinh học

Hình 4.7: San hô trong vùng biển Phú Quốc, thuộc KDTSQ Kiên Giang

Hình 4.8: Voọc đầu


trắng, loài đặc hữu chỉ có ở
Cát Bà, và là động vật cực kỳ
quý hiếm, cần bảo vệ nghiêm
ngặt trên quy mô thế giới-
KDTSQ Cát Bà

145
Đa dạng sinh học

Hình
4.3.4.9:
KhuVườn
bảoQuốc gia Pù
tồn thiên Mát- KDTSQ Tây Nghệ An
nhiên
Khái niệm: Khu bảo tồn thiên nhiên là vùng đất tự nhiên đƣợc thành lập
nhằm đảm bảo diễn thế tự nhiên và chia thành hai loại sau:
4.3.1. Khu dự trữ thiên nhiên là vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên
nhiên và tính đa dạng sinh học cao, đƣợc quản lý bảo vệ nhằm bảo đảm diễn thế tự
nhiên, phục vụ cho bảo tồn, nghiên cứu khoa học và là vùng đất thoả mãn các điều
kiện sau:
+ Có hệ sinh thái tự nhiên tiêu biểu, còn giữ đƣợc các đặc trƣng cơ bản của
tự nhiên, ít có tác động có hại của con ngƣời ; có hệ động, thực vật phong phú ;
+ Có các đặc tính địa sinh học, địa chất học và sinh thái học quan trọng hay
các đặc tính khác có giá trị khoa học, giáo dục, cảnh quan và du lịch;
+ Có các loài động thực vật đặc hữu đang sinh sống hoặc các loài đang có
nguy cơ bị tiêu diệt;

146
Đa dạng sinh học

+ Phải đủ rộng nhằm đảm bảo sự nguyên vẹn của hệ sinh thái; tỷ lệ diện tích
hệ sinh thái tự nhiên cần bảo tồn đạt từ 70% trở lên;
+ Đảm bảo tránh đƣợc sự tác động trực tiếp có hại của con ngƣời.
4.3.2. Khu bảo tồn loài / sinh cảnh là vùng đất tự nhiên đƣợc quản lý, bảo
vệ nhằm đảm bảo sinh cảnh (vùng sống) cho một hoặc nhiều loài động, thực vật
đặc hữu hoặc loài quí hiếm và phải thoả mãn các điều kiện sau đây:
+ Có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn thiên nhiên, duy trì cuộc sống và
phát triển của các loài, là vùng sinh sản, nơi kiếm ăn, vùng hoạt động hoặc nơi nghỉ,
ẩn náu của động vật;
+ Có các loài thực vật quí hiếm, hay là nơi cƣ trú hoặc di trú của các loài
động vật hoang dã quý hiếm;
+ Có khả năng bảo tồn những sinh cảnh và các loài dựa vào sự bảo vệ của
con ngƣời, khi cần thiết thì thông qua sự tác động của con ngƣời vào sinh cảnh;
+ Có diện tích tuỳ thuộc vào nhu cầu về sinh cảnh của các loài cần bảo vệ.

147
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG II: BẢO TỒN TẠI VIỆT NAM


1. THỰC TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ BẢO TỒN TẠI VIỆT NAM

1.1. Các khu bảo tồn tại Việt Nam


Theo thống kê của Cục Kiểm lâm, đến tháng 12 năm 2005, Việt Nam đã có
130 khu BTTN với diện tích 2.409.288 ha đƣợc phân bố trên các vùng sinh thái
trong cả nƣớc bao gồm:
+ 31 Vƣờn Quốc gia
+ 48 khu Dự trữ thiên nhiên
+ 12 khu BTL/SC
+ 39 khu Bảo vệ cảnh quan

Bảng 4.1: Số lượng và diện tích các khu BTTN (theo số liệu của Cục Kiểm
Lâm năm 2005)

TT Phân hạng Số lƣợng Diện tích (ha)

1 Vƣờn Quốc gia 31 1.050.242

2 Khu dự trữ thiên nhiên 48 1.100.892

Khu bảo tồn loài/ sinh 12 83.480


cảnh

3 Khu bảo vệ cảnh quan 39 174.614

Tổng cộng 130 2.409.228

(Nguồn: Phòng BTTN-Cục Kiểm Lâm, 2005)


Nhiều khu Rừng đặc dụng (RĐD) đã đƣợc công nhận là các khu BTTN Thế
giới với các hình thức sau:
- 06 Khu bảo tồn sinh quyển thế giới: Cần giờ (Tp. Hồ Chí Minh), Cát Tiên
(Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phƣớc), Cát Bà (Tp. Hải Phòng) và khu ven biển

148
Đa dạng sinh học

Đồng bằng sông Hồng (Ninh Bình, Nam Định và Thái Bình); Tây Nghệ An và Kiên
Giang
- 02 khu di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và Vƣờn
Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)
`- 02 Khu Ramsar (khu bảo tồn đất ngập nƣớc): Xuân Thủy (Nam Định),
Vân Long (Gia Viễn – Ninh Bình).

1.2. Tiêu chí xác định các Khu bảo tồn ở Việt Nam
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đƣa ra 6 tiêu chí để xác định các
Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia:
1. Có các loài động thực vật hoặc các loài sống ở rặng san hô, có cảnh quan
địa lý giá trị về mặt khoa học, giáo dục, tinh thần, phục hồi sức khoẻ.
2. Có ít nhất một loài động vật đặc hữu trong năm loài đƣợc ghi trong sách
đỏ Việt Nam (ngoại trừ các Khu bảo tồn biển vì sách đỏ không liệt kê các loài sống
ở rạn san hô).
3. Có điều kiện phát triển giáo dục môi trƣờng và du lịch sinh thái mà không
ảnh hƣởng đến các mục tiêu bảo tồn.
4. Diện tích tối thiểu từ 5.000 ha trở lên đối với các Khu bảo tồn trên đất liền,
từ 3.000 ha trở lên đối với các Khu bảo tồn trên biển, từ 1.000 ha trở lên đối với các
vùng đất ngập nƣớc.
5. Diện tích các hệ sinh thái tự nhiên có đa dạng sinh học phải chiếm ít nhất
70% trong các Khu bảo tồn.
6.Tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp và đất thổ cƣ so với diện tích các Khu bảo
tồn thiên nhiên phải nhỏ hơn 5% các Khu bảo tồn thiên nhiên do Chính phủ, Bộ liên
quan hoặc UBND các tỉnh, thành phố quyết định thành lập.

149
Đa dạng sinh học

2. VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CÁC KHU BẢO TỒN


2.1. Một số nguyên lý áp dụng ở các Khu bảo tồn và dân địa phƣơng.
- Nguyên lý 1. Dân địa phƣơng có những mối liên kết lâu đời với thiên nhiên
và có sự hiểu biết sâu rộng về thiên nhiên.
- Nguyên lý 2. Những thoả thuận giữa các tổ chức bảo tồn (gồm các cơ quan
quản lý khu bảo vệ và dân bản địa truyền thống) đối với việc thành lập và quản lý khu
bảo vệ sẽ dựa vào việc tôn trọng đầy đủ đối với quyền lợi của ngƣời dân.
- Nguyên lý 3. Các nguyên tắc của sự phân quyền, sự tham gia, sự minh bạch
và trách nhiệm giải trình sẽ đƣợc đề cập đến trong tất cả các nội dung.
- Nguyên lý 4. Dân bản địa truyền thống đƣợc phân chia đầy đủ và công
bằng các lợi ích với Khu bảo tồn.
- Nguyên lý 5. Quyền hạn của dân bản địa truyền thống trong mối liên hệ với
khu bảo vệ thƣờng chịu trách nhiệm quốc tế do nhiều vùng đất, lãnh thổ, nguồn
nƣớc, vùng ven biển và các tài nguyên khác mà họ sở hữu hay sử dụng vƣợt qua
biên giới nhiều quốc gia.
Tháng 9 năm 2003, Thủ tƣớng Chính Phủ đã phê duyệt Chiến lƣợc Quản lý
Hệ thống Khu bảo tồn Thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010 (MASPAS). Mục đích
của Chiến lƣợc là thiết lập, tổ chức và quản lý có hiệu quả hệ thống Khu bảo tồn
thiên nhiên một cách thống nhất, bao gồm các HST rừng, đất ngập nƣớc và biển.
Chiến lƣợc đã xác định 5 lĩnh vực cần có những hành động cấp thiết để bảo
vệ và phát triển hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên VN:
- Quản lý cảnh quan;
- Sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng;
- Phát triển hợp lý kết cấu hạ tầng;
- Đổi mới tài chính;
- Cải cách thể chế.

150
Đa dạng sinh học

2.2. Các vấn đề cần đổi mới trong quản lý cảnh quan:
- Xây dựng các thỏa thuận về bảo tồn trong vùng đệm làm cơ sở cho các hoạt
động phối hợp và đầu tƣ
- Tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống qui hoạch đa dạng sinh học
- Các Bộ cần xây dựng kế hoạch hành động đa dạng sinh học
- Xác định và lập bản đồ các vùng đa dạng sinh học, hỗ trợ quá trình xây
dựng quy hoạch đa dạng sinh học cấp vùng và cấp tỉnh.
2.2.1. Vấn đề đối với cộng đồng
- Có chính sách đối với những cộng đồng sống trong các Khu bảo tồn, các
chƣơng trình tạo sinh kế thay thế và hỗ trợ ngƣời dân tái định cƣ.
- Xác định rõ mục đích của việc cộng đồng tham gia quản lý, đặt ra những
tiêu chuẩn tối thiểu và đề xuất biệnpháp thực hiện.
2.2.2. Phát triển hợp lý kết cấu hạ tầng
- Trong Khu bảo tồn, chỉ phát triển những kết cấu hạ tầng tạo điều kiện thúc
đẩy, tăng cƣờng công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
- Có các biện pháp mạnh và khả thi để xử lý nạn săn bắn và xâm lấn bất hợp
pháp vào Khu bảo tồn.
- Áp dụng có hiệu quả hệ thống giám sát và báo cáo quốc gia về hiện trạng
đa dạng sinh học và những tác động.
- Tăng cƣờng kiểm soát các loài sinh vật ngoại lai xâm hại bên trong và xung
quanh các Khu bảo tồn.
2.2.3. Vấn đề tài chính
- Mở rộng và cải thiện các khoản phí và lệ phí hiện hành đối với các sản
phẩm và dịch vụ của các Khu bảo tồn
- Có các chính sách về tài chính để khuyến khích các ban quản lý Khu bảo
tồn tìm kiếm và sử dụng nguồn kinh phí bổ sung
2.2.4. Cải cách thể chế

151
Đa dạng sinh học

- Thành lập cơ quan đầu mối về Khu bảo tồn trong Bộ NN và Phát triển
Nôngthôn
- Xây dựng Nghị định Chính phủ về Khu bảo tồn
- Xây dựng hƣớng dẫn về lập kế hoạch quản lý Khu bảo tồn
- Rà soát lại chế độ chính sách đối với các cán bộ tại các Khu bảo tồn

3. CÁC KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC KHU BẢO
TỒN TẠI VIỆT NAM
- Chính sách chƣa cụ thể, chƣa có pháp luật rõ ràng (chƣa có quy định chung
trong việc quản lý các Vƣờn Quốc gia).
- Chƣa có sự thống nhất từ TW đến địa phƣơng trong việc quản lý (một số
chịu sự quản lý của Bộ NN&PTNT nhƣ Vƣờn Quốc gia Cát Bà, Vƣờn Quốc gia Ba
Vì, Vƣờn Quốc gia Tam Đảo…; trong khi một số Vƣờn Quốc gia lại chịu sự quản
lý của UBND tỉnh nhƣ Vƣờn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng do UBND tỉnh Quảng
Bình quản lý, Vƣờn Quốc gia U Minh Thƣợng do UBND tỉnh Kiên Giang quản
lý…)
- Điều kiện xã hội tại các khu vực xung quanh các Khu bảo tồn đang gây
nhiều khó khăn cho việc quản lý các Vƣờn Quốc gia tại từng địa phƣơng.
- Nhiều Khu bảo tồn chƣa xác định rõ ranh giới trên thực địa nên khó có thể
xây dựng kế hoạch quản lý cho phù hợp.
- Nguồn vốn chƣa đủ để tổ chức quản lý cũng nhƣ phát triển du lịch tại các
Khu bảo tồn.
- Nguồn nhân lực yếu về chất lƣợng và thiếu về số lƣợng, vai trò của các ban
ngành chƣa rõ ràng và còn chồng chéo
- Trên thế giới chƣa có chuẩn về quản lý, mỗi nƣớc có cách quản lý riêng,
trong lúc đó kinh nghiệm quản lý của chúng ta còn thiếu.

152
Đa dạng sinh học

- Điều quan trọng nữa là, ở xung quanh và cả trong ranh giới của hầu hết các
Khu bảo tồn có nhiều nhân dân sinh sống, thậm chí cả ở vùng trung tâm (vùng lõi),
nơi cần bảo vệ nghiêm ngặt.
- Thói quen và ý thức của ngƣời dân chƣa cao trong việc bảo vệ nguồn động
thực vật hoang dã.

4. MỘT SỐ VƢỜN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM


4.1. Vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng
- Vị trí địa lý: Thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình, Thanh Hoá và Hoà Bình.
- Quyết định thành lập: Quyết định 72/TTg ngày 7/7/1962 về việc thành lập
một khu rừng cấm với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu tiên
của Việt Nam; Quyết định số 18/QĐ-LN ngày 8/1/1966 chuyển hạng lâm trƣờng
Cúc Phƣơng thành Vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng và thành lập một Ban quản lý;
Quyết định 333/QĐ-LN ngày 23 tháng 5 năm 1966 quy định chức năng và trách
nhiệm của Ban quản lý.
- Quy mô diện tích: 22.200 ha, (bao gồm 11.350 ha thuộc Ninh Bình; 5.850
ha thuộc Thanh Hoá; 5.000 ha thuộc Hoà Bình).
- Mục tiêu, nhiệm vụ: Mục tiêu của Vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng là bảo vệ
các hệ sinh thái rừng nguyên sinh, rừng mƣa nhiệt đới thƣờng xanh trên núi đá vôi.
Bảo tồn nguồn gene đông, thực vật rừng quý hiếm, trung tâm cứu hộ các loài động
thực vật hoang dã nguy cấp. Cúc phƣơng là khu rừng cấm quốc gia đầu tiên nhằm
làm nơi nghiên cƣ khoa học, học tập và phát triển du lịch sinh thái.

153
Đa dạng sinh học

Hình 4.10: Vườn quốc gia Cúc Phương

Hình 4.11: Vooc quần đùi trắng

154
Đa dạng sinh học

4.2. Vƣờn Quốc gia Cát Bà


- Vị trí địa lý: Vƣờn Quốc gia Cát Bà nằm trên đảo Cát Bà, huyện Cát Hải -
Thành phố Hải Phòng (cách TT thành phố 60 km).
- Quyết định thành lập: theo quyết định số 237-CT ngày 01/08/1991 của
Chủ tịch hội đồng bộ trƣởng phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật Vƣờn Quốc gia
Cát Bà Thành phố Hải Phòng với diện tích 15.200 ha
- Mục tiêu, nhiệm vụ:
+ Bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên còn tƣơng đối nguyên vẹn.
+ Bảo tồn các nguồn gene động, thực vật quý hiếm, các loài đặc hữu của
vƣờn (Kim giao, voọc đầu trắng, tu hài, cá heo, chim caocát...).
+ Bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích khảo cổ và văn hoá lịch sử.
+ Phục hồi hệ sinh thái rừng tại những điểm đã bị tác động, phục hồi các loài
động thực vật bản địa.
+ Thực hiện các dịch vụ nghiên cứu khoa học, tuyên truyền giáo dục kết hợp
với dịch vụ du lịch sinh thái.
- Các giá trị đa dạng sinh học:
+ Theo điều tra bƣớc đầu, nơi đây có 620 loài thực vật bậc cao phân bố thuộc
438 chi và 123 họ. Với nhiều kiểu phụ rừng nhƣ: Rừng trên sƣờn núi đá vôi, rừng
trên đỉnh, rừng kim giao, rừng ngập nƣớc trên núi và rừng ngập mặn.
+ Trên đảo Cát Bà có 32 loài thú, 69 loài chim và 20 loài bò sát, lƣỡng cƣ.
Nhiều loài quý hiếm Voọc đầu trắng (loài đặc hữu ở Cát Bà), sơn dƣơng, rái cá,...
- Dân số trong vùng: Tổng số dân là 10.673 ngƣời (70% sống tại Thị trấn).
Đảo Cát Bà chủ yếu là dân di cƣ từ đất liền đến. Đời sống dân cƣ dựa chủ yếu về
đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản và kinh doanh dịch vụ.

155
Đa dạng sinh học

Hình 4.12: Vườn quốc gia Cát Bà

4.3. Vƣờn quốc gia Ba Bể


Vị trí địa lý: Thuộc huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Được thành lập theo quyết
định thành lập: Số 83/ TTg ngày 10/11/1992.
Mục tiêu, nhiệm vụ:
- Bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên,
- Bảo tồn nguồn gene động, thực vật quý hiếm trên cạn, dƣới nƣớc và cảnh
quan thiên nhiên.
-Phục hồi hệ sinh thái rừng tự nhiên. Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học, tham quan du lịch và giáo dục bảo tồn.
Các giá trị đa dạng sinh học:
Ba Bể đƣợc chia thành 2 loại rừng: Rừng trên núi đá vôi và rừng thƣờng
xanh trên đất thấp với loài thực vật ƣu thế là nghiến, Mày tẹo.
Đã ghi nhận được tổng số 603 loài thực vật bậc cao có mạch, 10 loài có tên
trong sách đỏ Việt Nam.
Hệ động vật phong phú và đa dạng, đặc biệt là khu hệ bƣớm với 332 loài
bƣớm. Lớp thú có 38 loài, trong đó vƣờn quốc gia có ý nghĩa quan trọng với loài

156
Đa dạng sinh học

Voọc đen má trắng và cầy vằn bắc, 24 loài bò sát và lƣỡng cƣ và với 54 loài cá
nƣớc ngọt.
Dân số trong vùng: Hiện có khoảng gần 3.000 ngƣời thuộc các dân tộc Tày,
Dao, H'Mông và Kinh sinh sống trong phạm vi VQG.

Hình 4.13: Hồ Ba Bể

Hình 4.14: Cảnh vật vườn quốc gia Ba Bể

157
Đa dạng sinh học

4.4. Vƣờn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng


Vị trí địa lý: VQG Phong Nha - Kẻ Bàng thuộc địa giới hành chính
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Quyết định thành lập: Đƣợc thành lập theo quyết định số
189/2001/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc chuyển hạng Khu
BTTN Phong Nha - Kẻ Bàng thành VQG.
Mục tiêu, nhiệm vụ:
Bảo vệ các giá trị khoa học đối với khu hệ động, thực vật điển hình của miền
Trung Việt Nam, đặc biệt các loài linh trưởng và các loài thú mới phát hiện.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho việc nghiên cưu, bảo tồn hệ động
vật, thực vật. Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu trong và ngoài nước, phục vụ đào tạo,
tham quan học tập.
Khai thác cảnh quan thiên nhiên để phát triển du lịch sinh thái, cải thiện việc
làm, nâng cao đời sống cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường và kinh tế - xã hội.
Các giá trị đa dạng sinh học: VQG Phong Nha - Kẻ Bàng là rừng nguyên
sinh trên núi đá vôi điển hình.
Thực vật có mạch 152 họ, 511 kiểu gene, 876 loài thực vật có mạch, trong dó
có 38 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 25 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 13
loài đặc hữu Việt Nam
Hệ động vật: Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 113 loài thú lớn,
302 loài chim, trong đó có 35 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm
trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát lưỡng cư (có 1 loài thằn lằn mới phát hiện ở
đây) (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới).

158
Đa dạng sinh học

Hình 4.15: Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng

159
Đa dạng sinh học

KẾT LUẬN

Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn. Vấn đề giá trị của đa dạng
sinh vật đối với con ngƣời, một mặt xem xét nó trị giá bao nhiêu tiền, hoặc đáng giá
bao nhiêu tiền. Do đó, khi đề cập đến giá trị của đa dạng sinh vật, ngƣời ta đều tính
mọi cái ra giá trị tiền. Mặt khác, ngoài giá trị tiền ra, đa dạng sinh vật có những giá
trị vô cùng to lớn mà không thể đánh giá bằng tiền, và đúng hơn, giá trị của nó là vô
giá. Bởi vì không có sự đa dạng sinh vật trên Trái Đất của chúng ta thì sẽ không bao
giờ có sự sống.
Khi đề cập tới vấn đề này, McNeely et al (1990) đã chia thành hai loại giá trị:
giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. Giá trị trực tiếp bao hàm hai phạm vi tiêu thụ
mang tính thƣơng nghiệp trên phạm vi quốc tế và tiêu thụ trong phạm vi địa
phƣơng. Còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con ngƣời không thể bán,
những lợi ích đó bao gồm số lƣợng và chất lƣợng nƣớc, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục,
nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phƣơng tiện cho tƣơng
lai của xã hội loài ngƣời.
Các loài thực vật và động vật qua hàng trăm triệu năm tiến hóa, đã làm cho
trái đất có sự sống nhƣ chúng ra thấy ngày nay. Chúng đã góp phần duy trì sự cân
bằng hóa học trên trái đất và làm ổn định khí hậu. Chúng bảo vệ các lƣu vực sông
và tái tạo đất màu. Chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu đƣợc vai trò quan trọng của chúng
và hiện nay chỉ mới biết rất ít về mối liên hệ thiết yếu giữa các hệ sinh thái khác
nhau và giữa các loài hợp thành. Tất cả mọi lĩnh vực xã hội, cả nông thôn lẫn thành
thị, cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, vẫn liên tục cần đến một phạm vi rộng lớn
các hệ sinh thái, các loài và các dạng gen khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu
luôn luôn đi lên của mình. Tính đa dạng của thiên nhiên là một nguồn vô tận về vẻ
đẹp, về niềm cảm hứng, về kiến thức và sự khôn ngoan, là cơ sở những sáng tạo của
loài ngƣời và đề tài của sự nghiên cứu. Nó là nguồn gốc của mọi sự thịnh vƣợng
sinh học cung cấp cho chúng ta toàn bộ thức ăn, phần lớn nguyên vật liệu, một loạt
hàng hóa và dịch vu, cung cấp vật liệu di truyền cần thiết cho ngành nông nghiệp,
dƣợc học và các ngành công nghệ có giá trị nhiều tỷ đô la hàng năm.

160
Đa dạng sinh học

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Tài Nguyên và Môi trƣờng, Ngân hàng thế giới. Báo cáo diễn biến
Môi trƣờng Việt Nam 2005, Đa dạng sinh học. Hà Nội, 2005.
2. Lê Trọng Cúc. Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2002.
3. Nguyễn Đình Hòe. Môi trƣờng và phát triển bền vững. NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
4. Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trƣờng Việt Nam. Việt Nam Môi trƣờng
và Cuộc sống. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
5. Lê Văn Khoa. Khoa học môi trƣờng. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001.
6. Lê Vũ Khôi. Đa dạng sinh học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
7. Richard B. Primack (Võ Quý, Phạm Bình Quyền, Hoàng Văn Thắng dịch).
Cơ sở sinh học Bảo tồn. NXB KH&KT Hà Nội, 1999.
8. Phạm Bình Quyền, Nguyễn Nghĩa Thìn. Đa dạng sinh học. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2002.
9. Vũ Trung Tạng. Cơ sở sinh thái học. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
10. Nguyễn Nghĩa Thìn. Đa dạng sinh học và tài nguyên thực vật. NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
11. Trung tâm tài nguyên và môi trƣờng, trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên
Hà Nội (dịch và giới thiệu). Hãy cứu lấy trái đất. NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội, 1993.

161
Đa dạng sinh học

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................... 1

PHẦN I: ĐA DẠNG DI TRUYỀN ....................................................... 4


CHƢƠNG 1: GENE VÀ ĐỘT BIẾN GENE .............................................................. 4

1. TỔNG QUAN VỀ GENE .......................................................................................... 4

2. ĐỘT BIẾN GENE ..................................................................................................... 9

3. ỨNG DỤNG CỦA CÔNG NGHỆ GENE .............................................................. 13

CHƢƠNG II: ĐA DẠNG GENE ............................................................................... 18

1. ĐA DẠNG GENE ................................................................................................... 18

2. ĐA DẠNG GENE TRONG NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ................................ 22

3. TÌNH TRẠNG SUY THOÁI ĐA DẠNG GENE .................................................... 25

CHƢƠNG III: BẢO TỒN GENE ............................................................................. 26

1. CÁC PHƢƠNG THỨC BẢO TỒN NGUỒN GENE ............................................. 26

2. CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN NGUỒN GENE ...................................................... 28

3. BẢO TỒN GENE ĐỘNG VẬT HOANG DÃ Ở VIỆT NAM ................................ 34

PHẦN II: ĐA DẠNG LOÀI ............................................................... 36


CHƢƠNG I. LOÀI VÀ ĐA DẠNG LOÀI ................................................................ 36

1. ĐỊNH NGHĨA LOÀI VÀ ĐA DẠNG LOÀI .......................................................... 36

2. ĐA DẠNG LOÀI TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM ........................................ 37

3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐA DẠNG LOÀI ......................................... 42

CHƢƠNG II. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY SUY GIẢM ĐA DẠNG LOÀI ........ 45

1. NGUYÊN NHÂN TỰ NHIÊN ................................................................................ 46

2. NGUYÊN NHÂN TỪ CON NGƢỜI ...................................................................... 46

162
Đa dạng sinh học

CHƢƠNG III. ĐE DOẠ LOÀI VÀ BẢO TỒN ........................................................ 58

1. SÁCH ĐỎ IUCN VÀ SỰ TUYỆT CHỦNG ........................................................... 58

2. BẢO TỒN LOÀI ..................................................................................................... 65

PHẦN III. ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI ............................................. 74


CHƢƠNG I : HỆ SINH THÁI ................................................................................... 74

1. CÁC KHÁI NIỆM ................................................................................................... 74

2. CẤU TRÖC CỦA HỆ SINH THÁI ......................................................................... 75

3. ĐẶC TRƢNG CỦA HỆ SINH THÁI ..................................................................... 77

4. CHỨC NĂNG CỦA HỆ SINH THÁI ..................................................................... 80

5. DIỄN THẾ SINH THÁI .......................................................................................... 86

6. CÁC KIỂU HỆ SINH THÁI CHÍNH ...................................................................... 89

CHƢƠNG II : ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI .............................................................. 98

1. TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI ..................................................... 98

2. CHỈ SỐ ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI ...................................................................... 99

3. ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI VÀ CÁC QUÁ TRÌNH SINH THÁI HỌC ............. 100

4. ĐẶC TRƢNG CÁC HỆ SINH THÁI Ở VIỆT NAM ........................................... 103

CHƢƠNG III. SUY GIẢM ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI VÀ BẢO TỒN ............ 108

1. NGUYÊN NHÂN TRỰC TIẾP ............................................................................. 109

2. NGUYÊN NHÂN GIÁN TIẾP.............................................................................. 115

3. BẢO TỒN HỆ SINH THÁI................................................................................... 116

PHẦN IV. KHU BẢO TỒN.............................................................. 129


CHƢƠNG I. KHÁI NIỆM VỀ KHU BẢO TỒN ................................................... 129

1. KHÁI NIỆM VỀ KHU BẢO TỒN........................................................................ 129

2. VAI TRÕ CÁC KHU BẢO TỒN .......................................................................... 129

163
Đa dạng sinh học

3. BẢO TỒN TRÊN THẾ GIỚI ................................................................................ 130

4. PHÂN BIỆT GIỮA VƢỜN QUỐC GIA, KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ
KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN ................................................................................. 136

CHƢƠNG II: BẢO TỒN TẠI VIỆT NAM ............................................................ 148

1. THỰC TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ BẢO TỒN TẠI VIỆT NAM ......... 148

2. VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CÁC KHU BẢO TỒN ........................................................ 150

3. CÁC KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC KHU BẢO TỒN TẠI
VIỆT NAM ................................................................................................................ 152

4. MỘT SỐ VƢỜN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM ....................................................... 153

KẾT LUẬN ....................................................................................... 160

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 161

MỤC LỤC ......................................................................................... 162

164

You might also like