You are on page 1of 12

Đoạn sông ngắn với những vụ án oan “động trời”… (Phần 1)

Ghi chép của Đỗ Lãng Quân


Vietimes.com.vn

Sông Đuống kỳ tích và kỳ ảo cả đôi bờ, cả trong trận mạc xưa lẫn trong
ngun ngút thơ văn. Nếu thi sỹ Hoàng Cầm tiếp tục “anh đưa em về Sông
Đuống”, con sông nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ ấy,
thì bây giờ vẫn cứ gặp ở ven sông cả cái Bốt Hồ xám ngoét, sừng sững, tang thương tội ác quân
thù, kiểu “lưỡi dài lê sắc máu”.

Thuyền bè tấp nập, làng mạc tre pheo, nương dâu mướt mát, đúng là con sông đang
chảy nghiêng. Nó chảy nghiêng bởi sức nặng của bao nhiêu oan khiên trong sử cũ đã
oằn mình trải dọc đôi bờ! Tôi đã nhiều lần lang thang dọc các triền dâu ở miền đất mỗi
bước chân mỗi huyền thoại Kinh Bắc, nơi kỳ lạ, chỉ một khúc ngắn độ chục cây số của
sông Đuống, ta đã vấp phải tới 3 vụ án oan động trời trong sử cũ.

Đây là vụ Trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam, Thái sư Lê Văn Thịnh bị lưu đày mãn
kiếp vì cái “án oan” giết vua; đây vị Sao Khuê vằng vặc Nguyễn Trãi và người đẹp Thị
Lộ cùng kinh thiên động địa nỗi oan khiên mang tên “Lệ Chi Viên”; và đây nữa vụ án
Cao Lỗ Vương giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa rồi bị Vua nghe lời xấu của gã
rể gián điệp Trọng Thủy mà hắt hủi một bề tôi trượng nghĩa; đây nữa... và đây nữa.

Người mải chuyện sách sử thường gọi khúc sông Đuống đẹp mà buồn này là “đoạn
sông của những án oan”. Có phải chỉ là ngẫu nhiên? Có phải đọc lại các án oan diễn ra
nhiều thế kỷ trước chỉ như mở lại một trang sách ố mọt? Tôi nghĩ là không phải thế.
Hệ thống di tích độc đáo, những câu chuyện truyền khẩu thấu triệt lẽ đời, sự minh
định lịch sử đầy tâm huyết của các bậc trí giả nhiều đời qua và cả hôm nay sẽ dẫn
chúng ta đến một cái nhìn xúc cảm hơn, đầy đủ hơn, mới mẻ hơn và khách quan hơn
về những án oan kia. Vả lại, trải nghiệm với thực địa ở “khúc sông oan khiên”, ngẫm
lại từng tình tiết của các án oan mà nạn nhân bao giờ cũng các anh hùng cái thế, mỹ
nhân “thiên cổ sầu” lững lẫy trong lịch sử kia, thường thì nó sẽ đem cho chúng ta
nhiều điều bổ ích, thấm thía hơn là những trang sử không sóng gió.

Câu chuyện của chúng tôi, xin bắt đầu bằng pho tượng đã độc nhất vô nhị. Một pho
tượng rợn người, rợn lên cái niềm cay đắng “tài mệnh tương đố” của trạng nguyên đầu
tiên của Việt Nam, bậc Thái sư với bao chiến công hiển hách: Lê Văn Thịnh.

Bài 1: Cụ rồng kỳ lạ: “miệng cắn thân, chân xé mình” !

Đi dọc sông Đuống mãi, lần nào tôi cũng đọc nhẩm thơ “Bên kia sông Đuống” với
“Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ”; “Sông Đuống trôi đi/ Một dòng lấp lánh” (thơ Hoàng
Cầm, được in trong sách giáo khoa, đã và đang giảng dạy trong nhà trường), giờ ngồi
lại với các cụ già, mới giật mình, sông Đuống là một con sông đào. Mà nó chỉ dài có
khoảng hơn 60km, chạy từ ngã ba Dâu của huyện Đông Anh (Hà Nội), chảy tuột sang
mấy cái huyện bé xíu của tỉnh Bắc Ninh, rồi nhập vào sông Thái Bình, kết thúc đời
sông ở ngã ba Mỹ Lộc (huyện Lương Tài, Bắc Ninh). Con sông ngắn ngủi thế, chỉ nối
sông Hồng với sông Thái Bình tí ti thôi, mà nó đã phải cõng lịch sử Thăng Long văn vật
và Kinh Bắc hào hoa, với mật độ di tích văn hóa lịch sử dày đặc vào hàng quán quân
trong cả nước, với địa linh và rất nhiều nhân kiệt…
Bức tượng đá cao cả 1m, rồng dữ cắn phập vào thân mình, tay chân xé cơ thể mình, thật rợn
người. Ảnh: Lãng Quân

Kể từ hơn 900 năm qua, có thể nói không ngoa, là Trạng nguyên Lê Văn Thịnh là thần
tượng về sự học của giới chữ nghĩa mọi thời đại. Một cái đầu kinh bang tế thế. Căn
nhà nơi ông từng sống và vượt vũ môn hiển đạt, sau khi cụ mất thì “hóa gia vi tự”, nơi
ở thành nơi thờ tự. Nếu tính từ thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) mở khoa thi minh
kinh bác học (cuộc thi Nho học) đầu tiên của nước ta (cũng là khoa thi đầu tiên từ khi
Văn Miếu Quốc Tử Giám được lập ở Thăng Long!), khi mà “khóa sinh” Lê Văn Thịnh đỗ
đầu (năm 1075), đến nay cũng đã hơn 900 năm trôi qua! Khởi đầu, Lê Văn Thịnh được
vào dạy học cho vua, sau ông được giữ chức thị lang bộ binh rồi thăng dần lên đến
chức Thái sư của triều đình, có nhiều công trạng hiển hách trong việc xây dựng quốc
thái dân an, mở mang và bảo vệ bờ cõi.

Người ta gọi ông Lê Văn Thịnh là trạng nguyên khai khoa của cả mênh mông lịch sử
dân tộc. Bằng chứng là nhân vật khổng lồ Lê Văn Thịnh và những câu chuyện về ông,
đã được "Đại Việt sử ký toàn thư" và cả "Kiến văn tiểu lục" của Lê Quý Đôn rồi đến
"Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú, "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng
Kim ghi chép rành rành. Trạng nguyên đầu tiên của nước ta đã xuất hiện mùa xuân
năm Ất Mão (1075), là người xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Đến năm 1096, Thái sư, Trạng nguyên Lê Văn Thịnh uy danh lừng lẫy thiên hạ, bỗng
dưng bị vướng vào một “nghi án” khó tin như một giấc mộng và bị khép tội thí nghịch
giết vua, xét công trạng và tài năng quá lớn của Lê Văn Thịnh, vua ân giảm xuống
kiếp lưu đày.

Có sách viết ông bị biếm lên vùng ma thiêng nước độc Sông Thao, tỉnh Phú Thọ ngày
nay. Có sách viết ông bị đưa đến với sơn lam chướng khí độc địa (xưa kia) của xứ
Thanh Hóa ngày nay. Gần 10 thế kỷ qua, nghi án Lê Văn Thịnh cứ treo đó, thách thức
bao nhiêu triều đại, bao nhiêu bậc quốc sỹ liên tài. Đã có nhiều tác phẩm viết về nghi
án này (cũng như nghi án Lệ Chi Viên với các nạn nhân Nguyễn Trãi, Thị Lộ, sẽ được
viết ở phần sau). Thậm chí, ngay cả đại kịch gia Tào Mạt, cũng từng viết một vở kịch
về quốc sư Lê Văn Thịnh mang tên “Lý Nhân Tông kế nghiệp”, dẫu được hưởng ứng ở
nhiều nơi, nhưng nó khiến người ở cái làng đã sinh ra Lê Văn Thịnh phẫn uất đến tận
bây giờ. Họ không bao giờ tin và cho phép ai tin rằng Lê Văn Thịnh đã giết chú hề già,
đã làm gián điệp đưa quân Tống vào bán rẻ đất nước (như Tào Mạt viết kịch). Lý do:
chưa bao giờ, suốt gần một thiên niên kỷ qua, Trạng nguyên Lê Văn Thịnh không là
niềm tự hào của người dân xã Đông Cứu và bà con vùng Kinh Bắc. Với bà con ở nơi
thôn ổ (người của muôn đời), Lê Văn Thịnh là một vị thánh được trời đất hun đúc sinh
ra, để an dân giúp nước. Ông đã bị sự hẹp hòi, ti tiện hãm hại. Cái chết oan khiên của
ông, chỉ càng làm sáng lên cái khí thiêng của vùng địa linh nhân kiệt miền Kinh Bắc.
Mà sự thật là, án oan Lê Văn Thịnh nó huyền hoặc, ma quỷ, phù phép đến mức chả ai
tin được, như chuyện Lê Văn Thịnh hóa thành hổ để giết hại vua trên hồ Dâm Đàm
(Hồ Tây). Tuy nhiên, vua đã định khép tội, thì dĩ nhiên Lê Văn Thịnh phải chịu và phải
gánh trọn mọi oan khiên.

Khi mọi chuyện vẫn tỏ mờ trong cái vòng của nghìn năm không biết đâu mà lần, thì
thiết tưởng, người nghệ sỹ như Tào Mạt, khi cầm bút viết về nhân cách của một vĩ
nhân khả kính như thế, ông phải cấn cá lắm. Phải biết rằng, có những người ở thôn
Đình Tổ phẫn uất, ném dém guốc lên tivi để phản đối việc vu cho Lê Văn Thịnh bán
nước hại dân chứ?

Tại xã Đông Cứu hiện nay có hai địa điểm từ nhiều năm qua vẫn thờ ông Nghè Lê Văn
Thịnh. Hiện nay, khách hành hương có thể chiêm bái cả tượng thờ, cả các di tích cổ
kính, với tòa ngang dãy dọc, đồ thờ uy nghiêm liên quan đến Lê Văn Thịnh. Đó là Đền
thờ Trạng nguyên Khai khoa Lê Văn Thịnh và di tích quốc gia Nghè Chi Nhị. Những
công trình bề thế, khang trang, được sắc phong từ rất sớm (sớm nhất là năm 1853),
được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích Quốc gia từ năm 2004. Hằng
năm, dân làng vẫn rước tế ông Nghè - Thái sư Lê Văn Thịnh với cương vị một vị thành
hoàng. Đặc biệt, bất kỳ ai có mặt ở cái nền nhà mà cậu học trò Lê Văn Thịnh từng dùi
mài kinh sử (cùng cha mẹ), giờ là đền thờ ông, thì đều sửng sốt, ngỡ ngàng, riêng
người viết bài này thì rùng mình tái mặt, lạnh sống lưng, khi bắt gặp một bức tượng
đá trần gian có một! Tượng tạc một ngài rắn (rồng) lớn. Dữ tợn, quái đản, kỳ lạ, tạc
bằng đá nguyên khối, chỉ nhìn lướt qua, có thể bạn sẽ phải ngồi thụp xuống vì sợ. Vì
một ngọn gió oan khiên u tối nào đó tràn qua. Kiểu có một tiếng gầm lộng lộn “thiên
nan vấn” (khó hỏi trời) nào đó của một người đã chết mà không thể nhắm mắt. Không
thể siêu thoát. Nhất định, đó là bức tượng của sự oan khiên. Một công trình nghệ
thuật chưa ai biết tác giả, một huyết thư ai cũng biết là do kẻ hàm oan nào đó đã viết,
song chưa biết kẻ đó là ai. Là những ai đi nữa, thì trong số đó, phải có Lê Văn Thịnh
và ông vua đã từng là học trò của Thái sư Lê Văn Thịnh. Nỗi oan chất chồng như núi,
thấu mãi lên cao xanh, thấu đến muôn đời. Nỗi phẫn uất, tủi hờn, sự nhảy lầu, đâm
đầu xuống giếng.

Dù một phần thân thể đã bị chặt thành khúc, răng và nanh vuốt sắc như dao kiếm ẫn tiếp tục cấu
xé để tự vẫn bằng mọi giá. Đó là xúc cảm tận cùng của sự oan khiên?
Ảnh Lãng Quân

Đã từ lâu, người vùng Đông Cứu được cha anh truyền lại một lời nguyền. Rằng nếu vô
tình mà có bới thấy vật gì ở khu vực “hóa gia vi tự” của Thái sư Lê Văn Thịnh thì phải
đem đất đá mà chôn rấp xuống. Chứ nếu mà bới lên, thì kiểu gì cũng bị tai họa, người
và súc vật, cỏ cây của cả làng cả tổng sẽ cằn lụi, chết chóc. Vài lần, bới được những
mảnh vỡ của một kiến trúc nào đó, người dân đã thấy lời nguyền này ứng nghiệm
(chắc bà con ‘tự kỷ ám thị” mà ra), họ sợ lắm. Đền thờ cổ kính, cổng vào xanh rêu,
những cây cổ thụ trùm xòa bóng mát, đường lên đền dốc dác lắm. Đền nằm dưới chân
núi Thiên Thai nổi tiếng (Nhìn lên trên núi Thiên thai/ Thấy đôi loan phượng ăn xoài bể
đông - ca dao). Đỉnh gò, chỗ đường dẫn lên đền Trạng nguyên khai khoa có một bụi
tre lớn.

Một hôm, một người già trong làng làm thủ nhang ở đền mới xới cỏ đường vào, lưỡi
cuốc oằn lên, bởi vấp phải một cái gì cứng lắm. Càng bới, ông càng thấy lộ ra những
khoang đá vân vi, đá đẽo hình từng cái vảy như vảy… tê tê. Ông già sợ hãi báo cho
dân thôn, bà con kéo đến rất đông, họ tổng động viên cùng bới, vừa bới vừa xin cụ
Nghè tha thứ, chúng con tự hào và hết lòng bao đời nay vì người, chứ có phá phách gì
đâu. Cụ Nguyễn Đức Đam, hiện là thủ nhang của Đền thờ Lê Văn Thịnh cho biết: bấy
giờ là vào năm 1993. Khi dùng đủ các tráng đinh trong xã, khi thuê cả kích, bẩy để
khiêng được pho tượng đá nặng hơn 3 tấn lên mặt đất, ngó qua, từ trong mênh mông,
bức tượng toát lên một nỗi rợn người khiến cả làng quỳ xuống lạy vì sợ. Một cụ rồng
kỳ lạ.

15 năm qua, bao nhiêu nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đến thắp nhang, cũng
chưa ai dám khẳng định họ đã từng gặp một pho tượng rồng nào tương tự. Nhà nghiên
cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng đặc biệt chú ý và tâm đắc với các giá trị “độc bản”
của bức tượng “cụ rồng đá” này. Nhiều cuộc hội thảo lớn đã được tổ chức về chuyên
đề pho tượng rồng kỳ lạ ở đền thờ Lê Văn Thịnh, nhưng cũng chưa một ai tỏ ra không
ngạc nhiên vì pho tượng. Ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, người
dày công nghiên cứu về pho tượng, thảng thốt: bức tượng rồng đá lớn và kỳ lạ nhất
Đông Nam Á. Còn nhiều người đã từng chu du địa cầu nghiên cứu, thì nhất định: thế
giới chưa bao giờ có pho tượng như vậy.
Tay phải xé từng khúc thân thể, tay trái cũng xé nửa còn lại của thân thể, rồi vật cả cái đuôi của
mình như muốn xé toang, muốn dứt ra vứt bỏ. Bứctượng như nỗi dày vò của Thái sư Lê Văn Thịnh
và vua Lý Nhân Tông sau nghi án Lê Văn Thịnh hóa hổ giết vua trên hồ Dâm Đàm?! Ảnh Lãng
Quân

Tượng đá, tạc hình một cụ rồng (rắn) dữ tợn. Với chiều cao 0,8m; mỗi chiều dài rộng
áng chừng khoảng hơn 1m, bức tượng đập vào mắt người xem rờ rỡ, lồ lộ, rất sinh
động một nỗi oan khiên bất tận. Hàm răng cụ rồng to như lưỡi bừa. “Bộ nhá” sắc
nhọn, tàn độc, phẫn uất của cụ rồng cắn phập vào chính thân cụ! Một sự điên dại, một
sự trả thù đời, một sự hoang mang, hoảng loạn, mất niềm tin tột độ?! Răng cắn phập
vào từng khúc thân để tàn sát thân mình; “tay chân” cụ rồng còn độc địa hơn, “chúng”
cũng lởm chởm nanh vuốt, “chúng” vận công lực bẻ quặt cái đuôi mình lên phía trước
để cào xé, muốn cắn đứt cái phần thân, phần đuôi đem vứt bỏ. Một tay thì bấu lấy
khúc thân bên đối diện, vuốt sắc cắm phập, cảm tưởng cụ như một con gấu hung dữ
đang vả vào một cây chuối hột sắp giật toang cho hả giận sau khi trúng đạn của thợ
săn (xem chùm ảnh). Dân gian gọi rất hình tượng: bức tượng ông rồng “miệng cắn
thân, chân xé mình”. Chỉ một nhát là tan xác để cụ rồng tự ăn thịt mình, tự đưa mình
về cõi chết. Tư thế kéo xé thân mình, mắt trợn ngược, đầu gục ủ rũ, tai thông tai điếc,
miệng há hoác, răng lởm chởm kinh sợ, “tay chân” đều 5 ngón sắc như dao kiếm, một
phần thân đã biến mất đi đâu (giống như cụ rồng đang bị truy sát, đã trọng thương)…
của cụ rồng, khi nhìn vào còn thấy kinh sợ hơn cả cái chết. Đó là một bức tượng cổ
cực kỳ thành công ở góc độ nghệ thuật.

Anh Nguyễn Công Hảo, trưởng thôn Bảo Tháp, nơi có đền thờ Lê Văn Thịnh cho biết:
bà con trong thôn cũng đã từng đào được một phần của bức tượng rồng đá kiểu như
bức tượng “cụ rồng” đang thờ cúng, trưng bày mà bài viết này đề cập; nếu khai quật
kỹ, nhất định sẽ tìm thấy. Dù thế nào, hai bức tượng sẽ là những di sản vô giá. Và, rõ
ràng, bức tượng đã nói về nỗi oan khiên của Lê Văn Thịnh. Nhưng con người lỗi lạc bị
trời đánh già ngứa ghẻ hờn ghen Lê Văn Thịnh đã nghĩ ra một ý tưởng bày tỏ sự oan
khiên của mình với hậu thế thông qua bức tượng (ông cho tạc trước khi tạ thế)? Hay là
người dân nơi đây, từ thượng cổ đã làm như vậy để bày tỏ nỗi buồn “vận khứ anh
hùng ẩm hận đa” (thời vận qua, anh hùng nuốt hận) giúp Thái sư Thịnh? Hay chính
vua Lý Nhân Tông đã tạc bức tượng để gửi gắm vào đó tâm sự của ông, rằng ông đã
trở nên mù lòa nên mới giết chết một người tài, một người nặng lòng báo quốc an dân,
một vị trạng nguyên, thái sư, chính là thầy dạy học của mình? Nhiều người đã tin vào
giả thiết này, khi xem kỹ bức tượng (xem ảnh) rồng: một bên tai thông, một bên tai
rồng đã mít đặc (điếc) vì nghe lời đường mật xiểm nịnh của kẻ bề tôi xấu nào đó mà
giết Trạng nguyên khai khoa.

Tai điếc Tai thông

… Bức tượng đầy ẩn ý, đầy tâm sự, đầy ai oán. Rõ ràng lời nguyền không được khơi
đào những gì ở dưới nền nhà thờ Lê Văn Thịnh đã cho chúng ta thấy một điều: đã có
sự đề phòng của người nào đó trước đây biết rõ về sự tồn tại mang tính “tố cáo” oan
khiên của bức tượng. Rõ ràng có ai đó đã đem chôn bức tượng, sau khi sự hiện diện
của nó làm nên những rầy rà, thậm chí cả tru di tam tộc (tỉ dụ thế).

(Còn nữa)

Ghi chép của Đỗ Lãng Quân

Nguồn: Vietimes.com.vn

Thứ sáu, 31/10/08, 10:50:36 GMT+7

Đoạn sông ngắn với những vụ án oan “động trời”… (Phần 2)

Ghi chép của Đỗ Lãng Quân


Vietimes.com.vn

Bài 2: Giải ảo nghi án “quan Thái sư hóa hổ, giết vua”!

Người ta bảo, các nhà khảo cổ, các nhà địa chất và mấy bác làm sử là
những người tiêu thời gian hoang phí nhất, sai số hằng ngày của họ (thậm chí) là cả thế kỷ, món
ưa thích của họ là những kỷ nguyên xa xôi như… không có thật với toàn những triệu triệu tỷ tỷ
năm mà ở đó con người bé hơn cả những hạt cát trong hệ thiên hà.

Chuyện giải oan hay kết tội “ba mặt một nhời”, “bắt tận tay day tận trán” cho cái tích
Thái sư Lê Văn Thịnh hóa hổ giết vua, nếu có, thì là công việc của những người quen
tiêu sài những kỷ nguyên, những tỷ triệu năm đã hóa thạch. Một gã thích chữ nghĩa
quèn 30 tuổi muốn giải ảo nghi án “Lê Văn Thịnh hóa hổ giết vua” diễn ra từ gần 1000
năm trước, thật quá hoang đường.

Phần mộ Trạng nguyên khai khoa, Thái sư Lê Văn Thịnh xây hình cánh hoa sen trắng trong
khuôn viên thanh bạch giữa hồ sen bát ngát được bà con ở Thuận Thành kính cẩn chăm sóc nhiều
đời nay. Ảnh: Lãng Quân

Tuy nhiên, sở dĩ tôi mạnh dạn ra nhời, là vì chẳng cần phải có Bao Thanh Thiên đâu! –
trẻ lên ba cũng hóa giải được ngay cái nghi án “hóa hổ” làm “việc thí nghịch” giết vua
của Lê Văn Thịnh.

Vì sao như thế? Dễ thế sao nghìn năm qua lịch sử dân tộc vẫn chưa thể minh định
được?

Xin được mở đầu “sự tích” hóa hổ như sau:

Sách “Đại Việt Sử ký toàn thư”, vẫn được xem là thứ đáng tin cậy và được trích dẫn đủ
thứ chuyện của chính sử Việt Nam suốt bao nhiêu năm qua (?), chép rõ: Năm Giáp Tý
(1084) Lê Văn Thịnh đã giúp cho nhà Lý thu về 6 huyện và ba động từ tay nhà Tống
trong việc bàn về phân chia cương thổ. Một năm sau, ông được phong làm Thái sư.
Tuy nhiên, 11 năm sau, vị thái sư này mắc tội giết vua tày đình và dính kiếp lưu đày.

Chuyện xảy ra vào tháng 3, năm Bính Tý (1096) nhân dịp ngày xuân, vua Lý Nhân
Tông ngự hồ Dâm Đàm (tức là cái hồ đầy sương mù, đó chính là Hồ Tây của Hà Nội
hiện nay) trên một chiếc thuyền nhỏ để xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong
đám mây mù có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo khua nước rào rào như các đạo
thủy chiến, vua lấy giáo ném bừa. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ,
mọi người sợ tái mặt đi. Người đánh cá tên là Mục Thận, quăng cái lưới trùm lên trên
con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh (Mục Thận sau này vì thế mà được ban thưởng
rất trọng, được dùng cả vùng Hồ Tây để làm thái ấp và thụ lộc). Vua nghĩ Lê Văn
Thịnh là đại thần có công giúp nước, uy tín lẫy lừng cả trong nước và ở các nước lân
bang, không nỡ giết, đày lên trại đầu ở sông Thao…

Đồn rằng, trước đây Văn Thịnh có gia nô nước Đại Lý (Vân Nam) có phép thuật kỳ dị
cho nên làm ra như thế để cướp ngôi, giết vua. Sách “Việt điệu u linh” giải thích thêm:
Quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi được một tên gia nô người Đại Lý, có thuật lạ, đọc
thần chú xong biến thành hổ báo. Văn Thịnh cố dỗ để người gia nô dạy mình thuật ấy.
Học được thuật rồi, liền lập mưu giết tên gia nô và dùng thuật hại vua để cướp ngôi.
Có “tài liệu” còn cố gắng lấy bằng chứng về việc Lê Văn Thịnh có khả năng lắc mình
biến thành hổ dữ, rằng: hồi còn bần hàn dùi mài kinh sách ở quê, có lần khóa sinh
Thịnh đã bất ngờ hóa thành một con hổ trắng ngồi giữa phom màn đang mắc ngay ở
tệ xá, khiến mẫu thân của ngài phải bạt vía kinh hồn.

Chuyện diễn ra gần 10 thế kỷ, làm gì có bằng chứng mà… cãi “trắng án” hay kiểu
khép tội cho quan Thái sư? Sách cũ viết ba thực bảy hư, các nhà làm sử phong kiến
viết sử về vua của mình thì làm sao mà… khách quan được (điều “sai lệch” này, ở
nhiều cuốn sách mà bài này đang “dẫn” đã được cố GS Trần Quốc Vượng phân tích
nhiều lần)? Một con toán đơn giản: cả thế giới này, suốt dọc dài lịch sử sinh ra và văn
minh từng bước của giống người, đã có ai biết lắc mình biến thành hổ trắng chưa?
Không có (chứ đừng nói là chưa có). Lê Văn Thịnh không thể hóa thành hổ được. Cái
việc ông bị vu hóa hổ hòng giết vua, chỉ là một âm mưu đớn hèn hòng loại cái người
tài năng, uy danh lừng lẫy thiên hạ đó ra khỏi cuộc chiến quyền lực của ai đó. Không
ngoại trừ người đó chính là nhà vua Lý, với nỗi sợ bị lấn uy quyền do ông ta tưởng
tượng ra!

Mà nghĩ cho cùng, cái hồ như Hồ Tây, đã được gọi thành tên là hồ Dâm Đàm, hồ đầy
rẫy sương mù, thì ảo ảnh của hổ dữ có thể hiện về bất cứ lúc nào. Sương mù vón cục
kéo đến, nhà vua hoảng sợ, quan Thái sư vẫy vùng giúp vua bớt hoang mang, lúc trời
trong gió mát, thấy Thái sư ngồi ở thuyền bên cạnh, vua suy luận là hổ trắng hóa
thành Trạng nguyên hay Trạng nguyên biến thành hổ để hãm hại “trẫm”- cũng là lẽ có
thể hình dung ra được. Đấy là chưa kể, truyền thuyết về việc học được pháp thuật hóa
hổ của tên gia nô người Đại Lý rồi văn võ toàn tài của Trạng nguyên khai khoa có
dáng đi dũng mãnh như hổ - Lê Văn Thịnh - đã có từ lâu. Ông Thịnh là người có dáng
hổ, đi lại, đánh quyền, ăn nói đều oai dũng… như hổ. Phân tích như thế để thấy, dẫu
là huyền sử lắc lơ, thì vẫn có quá nhiều dấu hỏi oan khuất để chúng ta cùng bào chữa
cho nghi án lạ đời “cái ách giữa đàng” nó “quàng vào cổ” quan Thái sư khả kính Lê
Văn Thịnh.

Còn nhiều vấn đề nữa, chịu tư duy một tý, tự dưng Lê Văn Thịnh sẽ được chúng ta
cùng minh oan đôi phần. Thái sư Lê Văn Thịnh ngất trời danh vọng thế, tiếm ngôi vua
để làm gì? Nếu Lê Văn Thịnh thực sự muốn đoạt vương quyền lên làm vua, với quyền
lực của mình, với trí tuệ mẫn tiệp của mình, dĩ nhiên là ông không bao giờ chọn cách
hóa hổ trên hồ Dâm Đàm giết chết học trò của mình là nhà vua đương thời - bởi giả dụ
giết “thành công” ông vua ấy, thì ông Thịnh có đạt được mục đích gì đâu? Giết vua
phải kèm theo binh quyền, hay những thủ đoạn tày trời khác nữa chứ; trước sau,
không thấy mảy may sử cũ nói dòng nào về bất cứ “dự định” lên làm vua của nghè
Thịnh.

Tuyệt nhiên không thấy chép gì về việc ông thù oán gì nhà Lý, ông cũng không theo
phe phái, không “cánh hẩu” với ai, ông cũng chưa bao giờ có ý định làm vua. Chỉ thấy
chép ông hết lòng phò tá nhà Lý, ông dùng ba tấc lưỡi, liều mình đi sứ nhà Tống đòi
được vùng đất Lạng Sơn, Cao Bằng (hiện nay) về cho Đại Việt hẳn hoi. Mà việc ông
hóa hổ, đã được các sách chép rất hàm hồ, dưới ánh sáng khoa học duy lý hiện nay, ai
cũng biết, đó là điều hoang tưởng. Vả lại, biết hóa hổ, sao Lê Văn Thịnh bao năm bị
lưu đày, phần mộ giờ ở quê, không thấy ông tiếp tục… hóa hổ? Mà có phép thuật sao
ông lại để cái kết oan khuất của mình cứ thảm thương như vậy, ông sẽ phải biết tự
minh oan hoặc quay về trừng trị những kẻ đốn mạt kia chứ? Ông có minh oan hay
chống lại các thế lực “giết chết” sự nghiệp của mình không? Nếu Lê Văn Thịnh không
bị oan, tại sao có bức tượng rồng (dạng rắn) oan khiên thấu trời xanh như thế đặt ở
đền thờ ông? Dù ông Thịnh cho bí mật tạc lúc sinh thời (“về vườn” ở quê), hay ai đó
đời sau cho tạc, thì cũng là để gửi gắm nỗi oan khiên động trời của ông Thịnh (theo
nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng, bức tượng “ông rồng đá” kỳ lạ có thể đã
được ra đời vào thời Hậu Lê). Vả, nữa: nếu thật sự ông Thịnh có ý định giết vua, thì dù
công trạng của ông cao đến thế nào, ông cũng không bao giờ được tha chết - nhà Lý
có các đạo luật tàn độc dành cho tội phản nghịch, gọi là “Thập ác” (nhất là khi những
kẻ có pháp thuật hô phong hoán vũ, có thể quay lại giết cả ba họ nhà vua bất cứ lúc
nào như cách mà người ta “hiểu” về Lê Văn Thịnh); việc Lê Văn Thịnh làm việc thí
nghịch mà được tha chết, chỉ bị lưu đày, có thể hiểu: ông đã bị người ta “xử” để cho bị
vô hiệu hóa. Vì uy tín của ông ở Đại Việt và ở các lân bang quá lớn, người ta không
muốn oai của “tớ” át quyền “chủ”! Nỗi đau của Nghè Thịnh, là nỗi đau của “chữ tài liền
với chữ tai một vần”.

Về những cống hiến cho triều Lý của Lê Văn Thịnh. Ví như việc Lý Thường Kiệt và Tông
Đản đem quân đánh thẳng sang các châu Ung, Liêm, Khâm của nhà Tống để “phủ đầu
mưu đồ xâm lược” của giặc phương Bắc. Khi quân Tống đem quân của 9 tướng với
“binh hùng tướng mạnh” nhiều như cỏ, kết hợp với quân Chiêm Thành, Chân Lạp hè
nhau xâm lấn Đại Việt nhằm trả thù việc “táo gan” của Lý Thường Kiệt và Tông Đản.
Tuy cuộc xâm lăng này của giặc Tống bị đánh bại bởi phòng tuyến sông Như Nguyệt
của Lý Thường Kiệt, nhưng trước khi rút về, quân Tống vẫn chiếm mất châu Quảng
Nguyên (gồm các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn ngày nay) của Đại Việt (lý do nhà Tống
chiếm được 6 huyện 3 động kia là do “thổ hào” địa phương đã đớn hèn dâng đất của
triều đình Đại Việt cho giặc để cầu vinh). Trong cái cuộc uốn ba tấc lưỡi của Trạng
nguyên Lê Văn Thịnh nhằm lấy lại 6 huyện 3 động cho Đại Việt kia, sử sách còn lưu
truyền câu nói bất hủ của Nghè Thịnh với đại diện nhà Tống: “Đất thì có chủ, các viên
quan giữ đất ấy đem nộp cho người khác và trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của
chủ. Sự chủ giao cho mà lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay "tàng trữ"
thì luật pháp cũng không cho phép, huống chi nay lại mang đất lấy trộm dâng để làm
dơ bẩn sổ sách nhà vua”. Lý lẽ xác đáng, cứng cỏi, đủ “dương đông kích tây” của Lê
Văn Thịnh đã khiến nhà Tống phải trả toàn bộ đất đai cho Đại Việt. Sau phi vụ này,
ông Thịnh được phong Thái sư. Xin nhắc lại và nhấn mạnh: Quan Thái sư, lại là thầy
dạy học của vua, cớ gì ông Thịnh định hóa hổ giết vua? Mà giết được vua trên cái hồ
sương khói ấy, chắc gì đã cướp được binh quyền, chắc chắc gì đã lập được một vương
triều mới? Đây cũng là ý kiến tâm huyết, nhiều trăn trở của nhà thơ Dương Kiều Minh,
Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Hà Tây (cũ) - thông qua một bài viết công phu - khi
ông về viếng Thái sư Lê Văn Thịnh ở Bắc Ninh. Đúng! Người đã trên thông thiên văn
dưới tường địa lý như Lê Văn Thịnh, nếu muốn soán ngôi của vua Lý, ông sẽ chẳng
bao giờ bắt đầu bằng cách theo vua ra hồ Dâm Đàm để hóa hổ, ăn thịt vua (!?).
Đền thờ "hóa gia vi tự" và bức tượng Thái sư Lê Văn Thịnh (trong đền) ở xã Đông Cứu, huyện Gia
Bình, Bắc Ninh. Nghè Thịnh là thành hoàng của làng, là bậc Thánh, là biểu tượng tài năng và đức
độ. Ảnh: Lãng Quân.

Sự việc kỳ ảo, đau đớn kỳ lạ mang tên Lê Văn Thịnh hóa hổ này đã được nhiều đời,
suốt hơn 900 năm qua, thi nhau bàn luận. Tôi nhớ lời của ông Lê Khắc Thuần, sau khi
trích dẫn “tích” Lê Văn Thịnh hóa hổ đã ‘bình” như sau: “Tháng 3 ở Hồ Tây, sương mù
bỗng chốc xuất hiện cũng là điều dễ hiểu. Nay hiện tượng này vẫn có (ở Hồ Tây)
huống chi là ngót ngàn năm trước, quanh hồ cây cối còn hoang vu. Giữa đám mây mù,
vua quan nhìn gà hoá cuốc, Văn Thịnh bởi thế mà mang tội trong chỗ không ngờ
chăng? (…) Không thấy sử chép là ông đã nói gì khi bị bắt, nhưng chắc là khó nói, bởi
ý vua đã quyết, có nói cũng bằng thừa thôi”. (Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn
Khắc Thuần - NXB Giáo Dục). Lời bình đau đớn, chua xót, đích đáng, thống thiết như
ngậm sẵn nước mắt của người đời sau với án oan Trạng Thịnh.

Tôi tâm đắc với việc nhiều nhà nghiên cứu đã đặt vấn đề: Lê Văn Thịnh bị hãm hại, là
bởi vì tư tưởng cải cách của ông. Nếu so ngang sang lịch sử Trung Quốc, thời ông
Thịnh cùng với triều đại của Vương An Thạch. Vương An Thạch đã hăng hái cải cách,
đụng chạm đến quyền lợi sát sườn bẩn thỉu của quan lại trong triều, và bị nhà Tống
đẩy về hưu trí. Lê Văn Thịnh cũng năng nổ “trai thời trung hiếu làm đầu” với những cải
cách lớn, và ông đã bị hãm hại. Thêm nữa, những ông chủ (vua) thì chỉ có thể chung
sống lúc khó khăn, chứ khi no đủ rồi là họ sẽ không cần các trung thần. Hết thỏ thì
làm thịt chó săn, con chim bay cao đã hết thì cung tốt phải được cất giấu đi, nước đã
bình định xong thì mưu thần phải mất (ý ở Thái Công Binh pháp, Khương Tử Nha)…

Dù ai nói ngược nói xuôi, dù các loại sử sách có viết khá tọc mạch, vua Tự Đức có cả
bài thơ “kết tội” Thái sư Lê Văn Thịnh hóa hổ giết vua (Văn học đô vi tiến thủ tư/ Man
nô tư súc nhật căng kỳ/ Thần qua nhất kích hôn phần tán/ Yêu hổ nguyên lai thệ Thái
sư), dù Tào Mạt có dựng kịch về Lê Văn Thịnh là kẻ bán nước hại dân, thì trong lòng
đông đảo bà con Đại Việt, đặc biệt là quê hương Kinh Bắc, ông Nghè Thịnh vẫn là một
con người kiệt xuất, tâm đức sáng như sao trời, một vị Thánh sống! Càng về gần đây,
các bậc trí giả càng có nhiều công trình minh oan cho Lê Văn Thịnh. GS sử học Phan
Huy Lê đã chính thức lên tiếng phản đối sự “vu oan giá họa” cho nghè Thịnh, nhiều
cuộc hội thảo và các công trình công phu của các nhà làm sử đã thể hiện điều đó. Mới
đây nhất, nhà văn Hoàng Giá, người con của quê hương Thuận Thành cũng đã đi điền
dã và nghiên cứu cực kỳ công phu, cho ra đời tiểu thuyết lịch sử “Sương khói Dâm
Đàm” (NXB Công an Nhân dân, năm 2006) viết về cuộc đời và án oan Lê Văn Thịnh,
qua đó khẳng định vị Trạng khai khoa nước Việt ta là một con người kiệt xuất, chưa
bao giờ mảy may nghĩ đến những điều “thí nghịch”. Bằng chứng là phần mộ ông vẫn
được gìn giữ cẩn thận (xem ảnh), rất nhiều di tích ở nhiều vùng vẫn thờ ông như
Thành Hoàng, như một vị Thánh bất tử (hàng chục địa điểm thờ tự)… Mà, nghĩ cho
cùng, công đức của một con người giúp dân giúp nước như Lê Văn Thịnh, việc ông
sống trong lòng dân mới là quan trọng, mới là cái lẽ sống… bất hủ nhất của một bậc
trượng nghĩa.

Về những điều kỳ lạ của bức tượng rồng (rắn) đá như kỳ 1 loạt bài “án oan động trời”
mà Vietimes đang đề cập, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, giảng
viên Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội), người đã có một thời
gian dài tìm hiểu về nhân vật Thái sư Lê Văn Thịnh đã từng nói với báo chí như sau,
xin phép được trích lại nguyên văn: "Ông Rồng" thực sự là một pho tượng độc đáo và
ở Việt Nam ông chưa từng thấy có một hiện vật tương tự nào. Tuy vậy tôi từng thấy
(qua ảnh) một chiếc ấn đồng thời Tây Hạ có hình ảnh con rắn tự cắn vào mình tương
tự như vậy trên "xà nữu" tức là cái núm cầm của ấn. Hình ảnh con rắn trên chiếc ấn
đồng và hình ảnh "Ông Rồng" (ở đền thờ Lê Văn Thịnh, Bảo Tháp, Bắc Ninh) tương đối
giống nhau, đặc biệt về phong cách, sự dữ dằn... Điều đáng chú ý là Tây Hạ, vương
triều tồn tại từ năm 1032 đến 1227 tại địa bàn các tỉnh phía tây bắc Trung Quốc hiện
nay, về mặt thời gian cũng tương đương với nhà Lý ở Việt Nam và nhà Tống ở Trung
Quốc. Chính vì thế để có đánh giá chính xác về nguồn gốc pho tượng này thì cần phải
liên hệ đến văn hóa trong khu vực chứ không chỉ riêng bức tượng đó".

GS Phan Huy Lê:

Những vở kịch xây dựng hình tượng Lê Văn Thịnh hóa hổ, giết vua là… sai
lầm!

Hơn một lần, chính GS sử học Phan Huy Lê trả lời báo chí về vụ án oan Lê Văn Thịnh
hóa hổ làm việc “thí nghịch” giết vua như sau:

- Lê Văn Thịnh là người khai khoa trong lịch sử VN, ông đỗ đầu khoa thi đầu tiên của
nước ta vào năm 1075. Sau đó có một sự kiện mà sử chép không rõ ràng, đưa đến
việc ông bị kết tội là người có âm mưu hãm hại vua Lý. Nhưng sự thật hoàn toàn
không phải như vậy. Về việc này, Hội sử học đã tổ chức các hội thảo để xác minh lại.
Nhưng rất tiếc, ngay cả hiện nay, trên sách báo và trong nhiều phát ngôn, người ta
vẫn lên án Lê Văn Thịnh và đó là điều không thoả đáng.

Cho nên sắp tới đây chúng tôi sẽ phối hợp với các tỉnh tiếp tục tổ chức hội thảo để
"minh oan" cho ông. Trong lịch sử có nhiều người bị oan. Có những người bị oan tày
trời như Nguyễn Trãi nhưng may mắn được xác minh sớm, nhưng chẳng hạn vợ ông,
bà Nguyễn Thị Lộ, thì gần đây mới được nhìn nhận lại. Cho nên cần rất khách quan
mới có thể trả lại cho lịch sử các nhân vật, các sự kiện với bộ mặt thật.

Tôi khẳng định, những vở kịch xây dựng hình tượng Thái sư Lê Văn Thịnh hoá hổ, giết
vua; hay Đinh Điền (thời Đinh Tiên Hoàng) phản bội... là sai lầm. Sau rất nhiều hội
thảo do Hội KHLS VN tổ chức, Bộ VHTT đã có văn bản chính thức về việc này và yêu
cầu các kịch bản phải đính chính. Chúng ta không thể "đổ oan" cho tổ tiên như vậy
được!

(Còn nữa)

Bài & Ảnh: Đỗ Lãng Quân

Nguồn: Vietimes.com.vn

You might also like