You are on page 1of 10

ĐỀ TÀI:

TƯ DUY ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VỀ KTTT QUA CÁC KỲ


ĐẠI HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI. SO SÁNH ĐIỂM GIỐNG VÀ
KHÁC NHAU GIỮA KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN CỦA
VIỆT NAM VÀ KTTT CỦA TBCN

I) TƯ DUY ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VỀ KTTT QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI THỜI KỲ
ĐỔI MỚI

1) KHÁI NIỆM VỀ KTTT:

− Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường
− KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam: là một nền kinh tế là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2) NGUYÊN NHÂN CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH TẾ

− Cơ chế kinh tế nước ta trước thời kỳ đổi mới là cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp thể hiện ở các đặc điểm chủ yếu:

+ Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới
+ Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp.
+ Thứ ba, quan hệ hàng hóa-tiền tệ bị coi nhẹ
+ Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan
liêu.

− Chế độ bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp
phát vốn…
− Những cơ chế này đã làm nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng. Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế-xã hội, Đại hội VI đã khẳng định: “…Cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu
kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn
trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”.
Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và
cấp bách

1
3) TƯ DUY ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VỀ KTTT QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI: So với thời
kỳ trước đổi mới, nhận thức về KTTT trong giai đoạn này có sự thay đổi căn bản và sâu
sắc:

Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế
thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về
toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán
nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định:
“thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển
thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước”.

Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản,
không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành
cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế
đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận
đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa
tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường,
kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác
nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản.
Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở
trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn
bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính là chủ
nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập
với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định
kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của chủ nghĩa xã hội hay
không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại hội VIII
(1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định
hướng, xã hội chủ nghĩa”.

Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng
và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền
với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.

2
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành
phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trương toàn cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của Đảng chủ
trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh
tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và
quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành
mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh.

Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”,
Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất
nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm thực
hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.

II) ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN CỦA
VIỆT NAM VÀ KTTT CỦA TBCN

1) Điểm giống:

Những vấn đề cơ bản của nền kinh tế do thị trường quyết định. Nói cách khác đó là nền
kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường.

2) Điểm khác: Kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa là hai phương thức
kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý,
chế độ phân phối và mục đích phát triển:

Kinh tế thị trừơng định hướng XHCN Kinh tế thị trường của TBCN

1.Chế độ sở hữu:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
thành phần kinh tế (bao gồm cả kinh tế nhà nghĩa, không chỉ chịu tác động của quy luật
nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu giá trị mà còn chịu tác động của quy luật
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản giá trị thặng dư, là quy luật kinh tế cơ bản
nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước và tồn tại trong hệ thống các quy luật kinh
ngoài ) trong đó kinh tế nhà nước giữ vai tế khác của chủ nghĩa tư bản.
trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh - Xem quyền tư hữu đối với phương tiện
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng sản xuất là thiêng liêng được xã hội và
vững chắc. pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở
hữu phải thông qua giao dịch dân sự được

3
pháp luật và xã hội quy định.Trong hình
thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân
dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh doanh
bằng hình thức các công ty tư nhân để thu
lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các
điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân
chia của cải đều thông qua quá trình mua
bán của các thành phần tham gia vào quá
trình kinh tế.
- Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò
năng động, lực đẩy quyết định tính hiệu
quả của nền kinh tế tư bản, còn thành phần
kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các
vấn đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm
cho lực lượng lao động tránh gây xáo trộn
lớn trong xã hội và để kinh doanh trong các
ngành cần thiết nhưng khó sinh lời. Nhưng
cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, càng ngày mâu thuẫn trong bản chất
chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, chạy
theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc
liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá
đáng dan đen Nhà nước tư bản chủ nghĩa
không thể làm tốt công tác điều tiết xã hội
do nó luôn có xu hướng bảo vệ giai cấp tư
sản, bóc lột các tầng lớp lao động làm cho
mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc hơn.
Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa
hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém
phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị
bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại
vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự
thống trị của một số ít nước lớn hay một số
tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các
nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa
các nước giàu và các nước nghèo.
2. Chế độ quản lý:
Có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ Được điều hành bởi cá nhân và các doanh
nghiệp tư nhân định hướng đến quyền lợi
nghĩa:
cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng bản chủ nghĩa về cơ bản là tự định hướng,
sản có vai trò rất quan trọng. Nhà nước tự điều hành, tự phát theo quy luật của thị
định hướng nền kinh tế thị trường bằng trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó
những chính sách kinh tế vĩ mô và luật là nền kinh tế thị trường.
pháp, thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội trên cơ sở vận dụng quy
luật giá trị và quy luật phát triển có kế

4
hoạch cân đối toàn bộ nền kinh tế quốc
dân; đưa những tiến bộ khoa học - kỹ thuật
hiện đại vào sản xuất, không ngừng nâng
cao năng suất lao động, làm ra nhiều sản
phẩm chất lượng cao, giá rẻ, có sức cạnh
tranh trên thị trường quốc tế trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
3. Về phân phối thu nhập
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ - Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu, thành
nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do,
quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định
phân phối theo mức đóng góp vốn và các hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân
và thông qua phúc lợi xã hội. phối của cải là các khái niệm gắn liền với
+ Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển (phân phối hợp lý tư
liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo
điều kiện cho mọi người có cơ hội phát
triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
Không ngăn cấm mọi sự làm giàu mà trái
lại khuyến khích mọi người làm giàu chính
đáng theo đúng pháp luật, đồng thời thực
hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực
quá đáng hai đầu).
+ Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con
người, xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực của đất nước.
- Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ - Nhà nước TBCN tuy đã có ý thức tự điều
đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo chỉnh, dung hoà lợi ích của các giai cấp,
đảm an sinh và công bằng xã hội. tầng lớp xã hội khác nhau để giảm bớt mâu
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì
kết hợp hài hoà ba vấn đề sau : Một là, kết mục tiêu phát triển kinh tế. Song, do nhiều
hợp vấn đề lợi nhuận và vấn đề xã hội, đảm nguyên nhân khác nhau, nhất là do sự chi
bảo cho các chủ thể kinh tế có được lợi phối điểu tiết của các qui luật kinh tế của
nhuận cao, tạo điều kiện kinh tế chính trị - CNTB, của lợi ích giai cấp nên sự điều tiết
xã hội bình thường cho sự phát triển kinh của vẫn còn nhiều bất cập.
tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân
phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc
kinh tế hàng hoá: phân phối theo lao động,
theo vốn, theo tài năng … trong đó nguyên
tắc phân phối theo lao động là chính. Ba là,
điều tiết phân phối thu nhập : nhà nước cần
có chính sách giảm khoảng cách chênh lệch

5
giữa lớp giàu và lớp nghèo. Mặt khác, có
biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng của
toàn xã hội.
4. Cơ chế thị trừơng:
Cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa là việc Cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa là việc
tổ chức guồng máy kinh tế sao cho sự vận tổ chức guồng máy kinh tế sao cho sự vận
hành của nó phù hợp với quy luật kinh tế hành của nó phù hợp với các quy luật kinh
cơ bản và các quy luật kinh tế khác của chủ tế của chủ nghĩa tư bản, trong đó quy luật
nghĩa xã hội. sản xuất ra giá trị thặng dư giữ vai trò quyết
- kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tuy định, nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng
vẫn chịu tác động của quy luật giá trị (quy nhiều cho các nhà tư bản, các tập đoàn, các
luật chung của kinh tế thị trường), nhưng công ty xuyên quốc gia.
đồng thời cũng chịu tác động của quy luật
kinh tế cơ bản (quy luật quy định mục đích
khách quan của nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa là không ngừng phát triển sản xuất và
nâng cao đời sống của mọi thành viên trong
xã hội), và các quy luật kinh tế khác của xã
hội xã hội chủ nghĩa
5. Mục đích của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến; thúc
đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao
động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của
cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân, nhằm phục vụ tốt
nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự
phát triển bền vững của đất nước , phát
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân.

III) THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

a) Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai

− Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp: bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ
sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, thì trong nhiều ngành
kinh tế, máy móc, công nghệ rất lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suet, chất lượng, hiệu quả sản xuất
thấp: so với khu vực và thế giới thì nước ta sản xuất nhỏ, phân tán là phổ biến.
− Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên
lạc… còn lạc hậu, kém phát triển, do đó làm cho tiềm năng của các địa phương

6
không được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để
phát huy thế mạnh.
− Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát
triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, các
ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.
− Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như
thị trường nước ngoài còn rất yếu. Khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng
hoá còn nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả cao.

b) Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa
đồng bộ

− Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong
nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất
− Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện
tượng tiêu cực.
− Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc
làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng tiêu cực.
Sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều trong khi đố cung về sức
lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu.
− Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc
trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng
không vay được, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền
gửi ma không thể cho vay nên vốn bị ứ đọng, dư nợ kéo dài đến mức báo động.
Thị trường chứng khoán ra đời nhưng ‘hàng hoá’ nghèo nàn, rất ít doanh nghiệp
đủ điều kiện tham gia thị trường này.

c) Quá trình hội nhập thị trường nước ta vào thị trường khu vực và thế giới, trong
hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết
các nước khác

− Toàn cầu hàng hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra cho các nước nói chung
cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế
tất yếu khách quan. Do trình độ phát triển còn thấp kém của nền kinh tế nước ta.
Vì vậy, phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực
hoá và toàn cầu hoá, tìm ra “cái mạnh tương đối” của nước ta, thực hiện đa
phương hoá, đa dạng hốa kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực dể phát huy nội
lực, nhằm thúc đẩy CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên CNXH.

d) Quản lý Nhà Nước về kinh tế - xã hội còn yếu

− Thực trạng này biểu hiện rõ trong nhận định của Đảng ta ở Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII: “Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng
bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm”
− Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý
đất đai còn nhiều yếu kém: thủ tục hành chính… chậm đổi mới. Thương nghiệp
Nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo
trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường
hợp gây tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. Bội

7
chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa
vững chắc

2. Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam.

Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp chủ yếu sau:

2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần

− Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản
xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu
quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh.
− Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực
phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền
kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ
thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước phảI
thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất,
kinh doanh.
− Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là
nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương
án sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp
tác xã theo Luật hợp tác xã.
− Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu thủ phát triển ở các ngành nghề sản xuất, kinh
doanh mà luật pháp không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình
thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Tạo điều kiện
để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm
xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút cong nghệ hiện
đại.

2.2. Đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển phân công lao động xã hội

− Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hang hoá. Vì
vậy, để phát triển kinh tế hàng hoá, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội do trình độ của lực lượng sản
xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước để xây dựng cơ sở vật chật- kỹ thuật của nền sản xuất lớn
hiện đại.
− Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế trong quá trình CNH, HĐH, phảI tiến hành phân công lại lao động
và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cung như ỏ từng vùng, từng địa
phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn
lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ
nền kinh tế.

8
2.3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường

− Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị
trường mà được phân bố vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối
ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
chúng ta cũng phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trong
thời gian tới chúng ta cần phải:
− Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Hình thành thị trường sức lao động có
tổ chức để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
− Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
− Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Xây dựng và phát triển thị
trường thông tin, thị trường Khoa học và công nghệ. Hoàn thiện các loại thị
trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp luật và thể chế, tăng cường sự kiểm
tra, giám sát của Nhà nước, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có
trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch,
hạn chế vàg kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có biện pháp hữu hiệu chống buôn
lậu và gian lận thương mại.

2.4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

− Trong đIều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và
thế giới, mới thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm
năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế.
− Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình
thức kinh tế đối ngoại.
− Cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng đIểm của kinh tế đối ngoại. Giảm
dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng thu hút
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm
có công nghệ tiên tiến, có tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có
hiệu quả để trả được nợ, cải thiện cán cân thanh toán. Chủ động tham gia Tổ chức
thương mai thế giới (WTO), các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một
cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.

2.5. Giữ vững ổn địng chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật

− Sự ổn định chính trị là điều kiện để các nhà sản xuất, kinh doanh trong và ngoài
nước yên tâm đầu tư. Muốn vậy, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
− Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động kinh
doanh. Thông qua đó Nhà nươc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế.

2.6. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế của Nhà nước, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước

− Muốn vậy, cần nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia. Đồng thời, tiếp tục đổi mới và

9
hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tiền lương và giá cả

THE END

===============================================================

Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định
hướng XHCN trong phát triển KTTT ở nước ta , thể hiện ở 4 tiêu chí là:

Về mục đích phát triển: nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lương sản xuất và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.

Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong
mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ
yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải dựa trên nền tảng của
sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu. (Ví dụ: hệ thống giao thông, đèn chiếu
sáng…)

Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
vói phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của KTTT.

Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần: Đại hội X
khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều
hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng
XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là
một trong những động lực của nền kinh tế.

10

You might also like