You are on page 1of 193

Cố Vấn Dạy Bảo Và Dẫn Dắt

Tác giả: William Farrand

Giới thiệu khóa học


ĐƠN VỊ MỘT :
ĐỨC THÁNH LINH: NGƯỜI BẠN RIÊNG TƯ
Bài học
1. Một Thân Vị Trọn Vẹn
2. Một Thân Vị Thần thượng
3. Đấng Giúp Đỡ
ĐƠN VỊ HAI :
ĐỨC THÁNH LINH: MỘT NGƯỜI BẠN QUYỀN NĂNG
4. Đức Thánh Linh trong Công cuộc sáng tạo
5. Đức Thánh Linh : Đấng truyền đạt
6. Đức Thánh Linh : Đấng tái tạo
7. Đức Thánh Linh : Đấng ban quyền năng
ĐƠN VỊ BA :
ĐỨC THÁNH LINH: MỘT NGƯỜI BẠN THỰC TIỄN
8. Thờ phượng trong Thánh Linh
9. Những ân tứ thuộc linh
10. Trái Thánh Linh
Thư mục
Chú giải từ mới
Trả lời những bài tự trắc nghiệm
Giới Thiệu Khoá Học
Đức Thánh Linh, Người Bạn
Gần cuối chặng đường chức vụ trên đất, Đức Chúa Giê-xu bảo cùng các
môn đệ của mình rằng giờ hầu đến, Ngài sẽ không còn ở với họ nữa. Rồi
Ngài phán:
Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-ủi khác, để
ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ-thật, mà thế gian không thề nhận lãnh
được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài
vẫn ở vơí các ngươi và sẽ ở trong các ngươi (GiGa 14:16, 17).

Chúa Giê-xu đang nói về Đức Thánh Linh, Ngôi-vị thứ ba trong Ba ngôi
Đức Chúa Trời. Đức Chúa Cha sai Con Ngài là Chúa Giê-xu đến thế gian để
dạy cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Giê-xu trở về cùng
Cha, Ngài ban Đức Thánh Linh xuống để ở trong lòng các tín hữu. Đức
Thánh Linh giải bày Đấng Christ cho chúng ta. Mặc dầu chúng ta không
thấy Ngài, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện và sự hướng dẫn
của Ngài trong đời sống chúng ta khi chúng ta đặt mình vào trong sự kiểm
soát của Ngài.

Kinh thánh đã dùng một số biểu tượng để chỉ về Đức Thánh Linh như: gió
(Cong Cv 2:2) chim bò câu (Mat Mt 3:16, 17) lửa (Mat Mt 3:11) và nước
(GiGa 7:37-39). Những biểu tượng này bày tỏ các khía cạnh khác nhau của
Đức Thánh Linh trong chức vụ của Ngài đối với chúng ta. Ngài là chim bồ
câu hiền từ , sẵn sàng giúp đỡ và bước đi bên cạnh chúng ta. Ngài là nước
sống tuôn tràn từ trong chúng ta. Ngài là lửa thánh khiết để tôi luyện đời
sống thuộc linh của chúng ta, để cáo trách những tội chống nghịch với đời
sống mới trong Đấng Christ. Ngài là gió quyền năng, được bày tỏ qua các tín
hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh bởi những dấu kỳ phép lạ.

Qua những bài học nầy chúng tôi sẽ giới thiệu bạn với Đức Thánh Linh,
Người Bạn của bạn. Ngài là Người Bạn riêng tư, có khả năng suy luận, cảm
nhận quyết định. Ngài là Người Bạn thiên thượng, có đầy đủ các đặc tính
của Đức Chúa Trời. Ngài là Người Bạn sẵn sàng giúp đỡ, luôn đứng bên
cạnh bạn trong mọi hoàn cảnh.

Đức Thánh Linh là Người Bạn quyền năng, Đấng dự phần trong công cuộc
sáng tạo, trong việc truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con người,
trong việc tái tạo lại những linh hồn hư mất. Ngài cũng là Người Bạn rất
thực tiễn, giúp đỡ chúng ta trong sự thờ phượng, trong chức vụ của chúng ta
đối với nhau, và tạo dựng hình ảnh của Đấng Christ trong chúng ta.

Chúng tôi cầu nguyện để những bài học nầy sẽ thúc đẩy bạn trở nên thân
thiết với Đức Thánh Linh, Người Bạn thiên thượng của bạn, để bạn đạt được
sự tăng trưởng thuộc linh mỗi ngày, và cũng để bạn kinh nghiệm được
những món quà vô giá của một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh!
Mô tả khóa học
Cố vấn, giáo sư, và người hướng dẫn : Một sự nghiên cứu về Đức Thánh
Linh là một khóa học giới thiệu về các thuộc tính của Đức Thánh Linh và
công tác của Ngài trong thế gian từ khi sáng thế cho đến hiện tại. Ngài được
xem như một Người Bạn riêng tư, quyền năng và thực tiễn, là Đấng đang ở
trong mỗi tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh và qua họbày tỏ Đức Chúa Giê-
xu Christ cho thế gian. Cùng với kinh nghiệm lễ ngũ tuần của phép Báp têm
trong Đức Thánh Linh, các tín hữu được ban cho quyền năng để làm chứng,
phục vụ và sống đời sống thánh khiết. Khóa học là một sự hướng dẫn thực
tiễn cho những sinh viên ao ước một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Các mục tiêu của khóa học
Khi hoàn tất khóa học, bạn sẽ có thể:
Liệt kê được những thuộc tính cá nhân và những thuộc tính thiên thượng của
Đức Thánh Linh.
Mô tả được công tác của Đức Thánh Linh trong công cuộc sáng tạo, trong sự
truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con người và trong sự tái tạo.
Hiểu rỏ ý nghĩa của sự thờ phượng thuộc linh, phép Báp-têm trong Đức
Thánh Linh, các ân tứ thuộc linh, và các trái Thánh linh.
Nhận diện được giá trị của một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh và mong
ước rằng Đức Thánh Linh sẽ bày tỏ Đức Chúa Giê-xu Christ qua đời sống
của bạn.
Sách giáo khoa
Bạn sẽ xử dụng cuốn Cố vấn, Giáo sư và Người hướng dẫn được biên soạn
bởi William Farrand để làm sách giáo khoa và cũng là sách hướng dẫn học
tập cho khóa học nầy. Ngoài ra, chỉ Kinh thánh là sách giáo khoa duy nhất
được đòi hỏi. Các đoạn Kinh thánh được trích dẫn trong bản NIV, xuất bản
năm 1978, ngoại trừ các phần khác được chú giải.
Thời gian học
Thời gian cần thiết để học mỗi bài tùy thuộc vào kiến thức của bạn trong
môn học và sức học của bạn trước khi bắt đầu khóa học. Thời gian cũng tùy
thuộc vào mức độ bạn theo dõi phần hướng dẫn và phát huy khả năng tự học
của bạn. Hãy lập thời khóa biểu học tập của bạn để bạn dành đủ thời gian
hoàn thành các mục tiêu của tác giả khóa học đề ra cũng như các mục tiêu
của chính bạn.
Cơ cấu bài học và cách học
Mỗi bài học bao gồm: 1) tựa đề, 2) nhập đề, 3) dàn bài, 4) các mục tiêu bài
học, 5) các sinh hoạt học tập, 6) các từ then chốt, 7) khai triển bài học gồm
cả các câu hỏi nghiên cứu, 8) bài tự trắc nghiệm, và 9) phần trả lời các câu
hỏi nghiên cứu.
Dàn bài và các mục tiêu sẽ giúp bạn có cái nhìn khái quát về chủ đề, giúp
bạn tập trung sự chú ý vào những điểm quan trọng nhất khi bạn nghiên cứu
và giúp bạn biết cần phải học điều gì.

Hầu hết các câu hỏi nghiên cứu trong phần khai triển bài học đều có thể
được trả lời ngay vào các khoảng trống trong bài, nhưng các câu trả lời dài
cần phải ghi vào vở, và bạn cần ghi rỏ số thứ tự của câu hỏi và tựa bài học.
Điều nầy sẽ giúp bạn khi ôn tập để làm các bản đánh giá tiến trình học tập
theo từng đơn vị.

Đừng bao giờ xem trước câu trả lời cho đến khi bạn đã trả lời xong câu hỏi.
Nếu bạn tự trả lời, bạn sẽ nhớ bài học tốt hơn. Sau khi trả lời các câu hỏi
nghiên cứu, hãy kiểm tra câu trả lời của bạn với phần giải đáp ở cuối mỗi bài
học. Sau đó, hãy sửa những câu bạn đã trả lời sai. Những câu trả lời được
sắp xếp không theo thứ tự thông thường để bạn không tình cờ thấy trước các
câu trả lời.

Các câu hỏi nầy rất quan trọng. Chúng sẽ giúp bạn nhớ được những ý chính
của bài học và áp dụng được các nguyên tắc bạn đã học.
Cách trả lời các câu hỏi
Có nhiều dạng câu hỏi nghiên cứu và câu hỏi tự trắc nghiệm khác nhau trong
phần hướng dẫn nghiên cứu nầy. Dưới đây là một vài dạng mẫu và cách trả
lời. Những chỉ dẫn đặc biệt sẽ được trình bày cho những dạng câu hỏi khác
khi cần thiết.

Câu hỏi CHỌN LỰA hay mục yêu cầu bạn phải lựa chọn một trong những
câu trả lời được cho sẵn.
Ví dụ :
1. Một tuần gồm có
a) 10 ngày.
b) 7 ngày.
c) 5 ngày.
Câu trả lời đúng là b) 7 ngày . Trong phần hướng dẫn nghiên cứu của bạn,
hãy khoanh tròn b) như sau:
1. Một tuần gồm có
a) 10 ngày.
b) 7 ngày.
c) 5 ngày.
(Trong một số mục chọn lựa, có hơn một câu trả lời đúng. Nếu vậy, bạn hãy
khoanh tròn các ký tự trước mỗi câu trả lời đúng).
Câu hỏi ĐÚNG-SAI hay mục yêu cầu bạn chọn những câu ĐÚNG.
Ví dụ :
2. Những câu nào là câu đúng dưới đây?
a) Kinh thánh có 120 sách.
b) Kinh thánh là sứ điệp cho các tín hữu ngày hôm nay.
c) Tất cả các trước giả Kinh thánh đều viết bằng ngôn ngữ Hê-bơ-rơ.
d) Đức Thánh Linh hà hơi trên các trước giả của Kinh thánh.
Câu b và d đúng. Bạn sẽ khoanh tròn hai ký tự nầy để chỉ ra câu trả lời của
bạn như đã thấy ở trên.
Câu hỏi SẮP XẾP hoặc mục yêu cầu bạn sắp xếp các sự việc đi chung với
nhau, chẳng hạn như tên và sự mô tả, hoặc các sách Kinh thanh với các
trước giả.
Ví dụ :
..1...a Nhận lãnh Luật pháp trên núi Si-nai. 1) Môi-se
..2...b Hướng dẫn dân Y-sơ-ra-ên vượt sông Giô-đanh 2)Giô-suê
..2...c Đi vòng quanh thành Giê-ri-cô
..1...d Sống trong cung điện của Pha-ra-ôn
Các cụm từ a và d chỉ về Môi-se, b và c chỉ về Giô-suê. Bạn sẽ viết 1 bên
cạnh a và d, và 2 bên cạnh b và c, như bạn thấy ở trên.
Phương pháp học tập
Nếu bạn tự học khóa ICI nầy, thì tất cả các bài làm của bạn phải được gởi đi
bằng thư. Mặc dù khóa học nầy trong chương trình ICI là để bạn tự học, bạn
cũng có thể học chung trong một nhóm hoặc một lớp. Nếu vậy, người hướng
dẫn sẽ trao cho bạn những chỉ dẫn cần thiết khác và bạn hãy làm theo những
chỉ dẫn đó.

Có thể bạn muốn xử dụng khóa học nầy trong một nhóm học Kinh thánh tại
nhà, trong một lớp học tại Hội thánh, hoặc trong một trường Kinh thánh.
Bạn sẽ nhận thấy rằng cả nội dung của chủ đề và các phương pháp học tập
đều thích hợp cho những mục đích nầy cách đặc biệt.
Bản đánh giá tiến trình học tập theo từng đơn vị

Nếu bạn đang tự học chương trình ICI, với một nhóm hoặc trong một
lớp,bạn sẽ nhận được những bản đánh giá tiến trình học tập theo từng đơn vị
của bạn trong khóahọc. Những bản đánh sẽ được trả lời dựa trên những chỉ
dẫn bao gồm trong khóa học và trong bản đánh giá tiến trình học tập theo
từng đơn vị. Bạn phải làm bài và gởi câu trả lời cho người hướng dẫn của
bạn để dựa trên bài làm của bạn, người hướng dẫn sẽ sửa sai và gợi ý cho
bạn.
Chứng chỉ

Dựa trên sự hoàn thành khóa học và điểm cuối khóa của những bản đánh giá
tiến trình học tập theo từng đơn vị được chấm bởi các hướng dẫn ICI của
bạn, bạn sẽ được nhận Chứng chỉ Danh dự của bạn.
Tác giả của khóa học nầy
Tiến sĩ William F. Farrand viết soạn tài liệu học nầy dựa trên kinh nghiệm
sâu rộng là một mục sư, một giáo sĩ, một giảng viên trường Kinh thánh, và
một nhà quản trị. Ông được phong chức mục sư năm 1951. Ông đã hầu việc
Chúa trong cương vị của một giáo sĩ tại Ceylon và Philippines hơn 26 năm.
Ông làm giáo sư của Viện Kinh Thánh Ceylon trong 3 năm, tại Viện Kinh
Thánh Bethel ở Manila hơn 10 năm. Hiện nay ông đang làm giáo sư tại
Trường Kinh Thánh Cao Đẳng Immanuel ở Cebu, thuộc nước Cộng hòa
Philippines. Ông cũng từng giữ những chức vụ như giám đốc kinh doanh,
khoa trưởng trường đại học, và hiệu trưởng của các trường nầy.

Tiến sĩ Farrand có bằng cấp của Trường Kinh Thánh Đông Phương ở bang
Pennysylvania, và nhận bằng cao học Kinh thánh và Thần học của Trường
Cao Đẳng Kinh Thánh tại Springfield, bang Missouri. Ông cũng đã học ở
Trường Đại học Philippines, Trường Cao Đẳng Kinh Thánh Trung Ương,
Viện Thần Học Châu Á, Viện Thần Học Phúc Âm Toàn Vẹn.
Người hướng dẫn ICI của bạn
Người hướng dẫn ICI của bạn rất sẵn lòng giúp đỡ bạn. Hãy hỏi người
hướng dẫn bất cứ thắc mắc nào về việc bạn thu xếp kỳ thi cuối khóa. Nếu có
nhiều người muốn học chung, hãy yêu cầu người hướng dẫn của bạn thu xếp
cho một nhóm học tập.
Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho bạn khi bạn bắt đầu nghiên cứu Cố
Vấn, Giáo Sư và Người Hướng Dẫn . Mong chủ đề này sẽ làm phong phú
cho đời sống và chức vụ của bạn và giúp bạn làm trọn bổn phận của bạn
trong thân thể Đấng Christ cách hiệu quả hơn.
MỘT THÂN VỊ TRỌN VẸN
Khi tôi cùng gia đình chuyển đến Philippines, nơi tôi sẽ đảm nhận việc giảng
dạy trong Trường Cao Đẳng Kinh Thánh Immanuel, ban giảng huấn và toàn
thể sinh viên đã tổ chức buổi chào đón chúng tôi thật nồng nhiệt. Thức ăn rất
ngon, những trò chơi giải trí rất thú vị. Tôi nghe một sinh viên nói
rằng:”Mình thật sự thích buổi tiếp tân nầy”. Đó là một ngày đáng nhớ.

Tôi đang thắc mắc phải chăng họ đã quên mục đích của buổi lễ, nhưng họ đã
không quên. Một người đứng lên và nói rằng: “Chúng ta đã thưởng thức các
món ăn và những trò chơi, tuy nhiên đó không phải là lý do chính mà chúng
ta họp nhau lại đây. Chúng ta đến để chào mừng vị chủ tịch mới của chúng
ta, người sẽ ở với chúng ta trong suốt khóa học đến.”

Sau nầy khi nghĩ lại tôi được nhắc nhở về những buổi lễ tiếp đón muôn phần
quan trọng hơn - tiếp nhận phép Báp-têm của Đức Thánh Linh. Nhiều người
nói về những phước hạnh họ đã kinh nghiệm khi họ được Báp-têm trong
Thánh Linh, nhưng họ đã không kể đến một Thân Vị thần thượng có liên
quan đến.
Đức Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn . Bởi vì Đức Thánh Linh là một
Thân Vị trọn vẹn, nên chúng ta có thể có mối tương giao Người-với-người
với Ngài, là điều hoàn toàn thỏa mãn và đáp ứng được những nhu cầu sâu
kín nhất của chúng ta, và chuẩn bị cho chúng ta một chổ trong vương quốc
của Đức

Chúa Trời. Trong bài học nầy chúng ta sẽ khám phá những bằng chứng
trong Kinh thánh nói về nhân tính của Đức Thánh Linh và các sự dạy dỗ cho
chúng ta qua những bằng chứng nầy.

Dàn ý bài học


Những Đức tính của Đức Thánh Linh
Những Chức vụ của Đức Thánh Linh
Những Danh xưng của Đức Thánh Linh
Mối Tương giao Cá nhân của Chúng ta

Những mục tiêu bài học


Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Chứng minh được rằng “Đức Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn” bằng
cách thảo luận về chức vụ, đức tính và danh xưng của Ngài.
Mô tả được mối tương giao Người-với-người mà chúng ta có thể có được
với Đức Thánh Linh bởi vì Ngài là một Thân vị.
Các Hoạt Động Học Tập
Đọc kỹ phần giới thiệu khóa học ở đầu sách hướng dẫn nầy. Điều nầy sẽ
giúp bạn hiểu rõ mục đích của khóa học và cách đáp ứng với những bài tập
nghiên cứu trong mỗi bài học.
Hãy nghiên cứu dàn ý và các mục tiêu bài học của Bài 1. Các hoạt động nầy
sẽ giúp bạn xác định được những điều bạn cần phải cố gắng học khi nghiên
cứu bài.
Đọc kỹ bài học và làm các bài tập trong phần triển khai bài học. Hãy viết
những câu trả lời vào các khoảng trống cho sẵn. Những câu trả lời dài hãy
viết ra vở. Hãy kiểm tra lại câu trả lời của bạn với phần giải đáp ở cuối bài
học.
Nắm vững những từ ngữ then chốt là điều cần thiết để bạn hiểu rõ nội dung
bài học. Nghiên cứu phần định nghĩa các từ then chốt trong phần từ vựng ở
cuối tập tài liệu hướng dẫn nầy để hiểu được những từ bạn chưa biết.
Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối mỗi bài học và kiểm tra lại câu trả lời của bạn
cách cẩn thận. Hãy ôn lại những phần bạn đã trả lời sai. Phần đáp án nằm
cuối sách hướng dẫn học tập.
Các từ then chốt
quản trị
trưởng lão
ban quyền
phạm thượng, (sự )
biểu lộ
cố vấn
cảm xúc
làm buồn
lỗi lầm cố ý
chiến đấu
soi sáng
trung tín
làm hại
can thiệp
hướng về
chỉ định, (sự)
thân mật
nhạy bén
Triển Khai Bài Học
NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA ĐỨC THÁNH LINH
Mục tiêu 1. Chọn những phát biểu đúng mô tả Đức Thánh linh là một thân vị
.
Dẫn nhập
Khi nói về một thân vị , bạn sẽ nghĩ ngay đến một con người giống bạn, có
khả năng suy nghĩ, cảm xúc và quyết định. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta
khả năng để hiểu biết, cảm xúc và chọn lựa, chúng ta được dựng nên trong
ảnh tượng của Ngài. Ngài là khuôn mẫu lý tưởng của một con người trọn
vẹn, và chúng ta chỉ là những bản sao không hoàn chỉnh. Vì vậy chúng ta
không thể nói rằng Đức Thánh Linh là một Thân vị bởi vì Ngài giống chúng
ta . Hơn nữa, nhân tánh của chúng ta được tạo dựng theo một kiểu mẫu thiên
thượng; vì thế, chúng ta có cùng những đức tính thiết yếu về nhân tánh: khả
năng suy nghĩ, cảm xúc và quyết định.

Tất cả những đức tính bày tỏ nhân tánh đều được tìm thấy trong Đức Thánh
Linh. Ngài là một hữu thể sống. Nói đúng hơn, như chúng ta sẽ thấy, Ngài là
Nguồn và Đấng ban sự sống, và một trong những danh hiệu của Ngài là
“Thánh Linh sự sống” (RoRm 8:2).

Bởi vì chúng ta thường nghĩ rằng thân vị là một hữu thể với một thân thể vật
lý có thể thấy được, chúng ta đã lạc mất ý nghĩa của từ ngữ thân vị ,từ ngữ
liên hệ đến những đức tính ban đầu của nhân tánh: khả năng để hiểu biết, để
cảm xúc và để chọn lựa. Chúng ta có nghĩ rằng nhân tánh của Đức Thánh
Linh sẽ có ý nghĩa hơn trong đời sống hằng ngày của chúng ta, hơn là nếu
Ngài chỉ là một sức mạnh không thuộc và không có cảm xúc của con người?
Bởi vì Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn, là Đấng có thể suy nghĩ, cảm
xúc và lựa chọn, nên Ngài là con đường truyền đạt những ước muốn của bạn
với Đức Chúa Trời và ý muốn của Đức Chúa Trời đối với bạn!
1. Dựa trên phần đã thảo luận, phần hoàn chỉnh nào là đúng nhất? Khi tôi
nói rằng Đức Thánh Linh là một Thân Vị, điều đó có nghĩa:
a) Ngài giống tôi.
b) Ngài có những đức tính thiết yếu của nhân tánh.
c) Ngài vừa là một hữu thể siêu nhiên vừa là một hữu thể vật lý.
d) Ngài là một hữu thể siêu nhiên.
Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu từng đức tính trong nhân tánh của Đức
Thánh Linh , và suy nghĩ về ý nghĩa của chúng đối với chúng ta.
Khả năng hiểu biết
Mục tiêu 2. Phân tích những câu Kinh thánh liên quan để xác định những
điều bày tỏ về khả năng hiểu biết của Đức Thánh Linh .
Một trong những đức tính đầu tiên của nhân tánh là khả năng hiểu biết.
Chúng ta thường liên tưởng khả năng này với tâm trí. Lời của Đức Chúa
Trời bày tỏ rằng Đức Thánh Linh hành động trong sự thông minh và khôn
ngoan:
Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng (tâm trí) củaThánh Linh là thể
nào,vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy
(RoRm 8:27).
Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời
nữa. Vả, nếu không phải là thần linh trong lòng người, thì ai biết được sự
trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là Thánh Linh của Đức
Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự trong Đức Chúa Trời (ICo1Cr 2:10-11).
Trong đoạn Kinh thánh thứ hai, sứ đồ Phao-lô so sánh khả năng hiểu biết
của con người với cùng một đức tính riêng của Đức Thánh Linh trong lãnh
vực thuộc linh. Hãy lưu ý rằng đức tính nầy liên hệ đến linh của con người,
là điều sẽ còn lại, chứ không phải thân thể, là điều sẽ hư mất.
Nói cách khác, sự hiểu biết của Đức Thánh Linh về ý muốn của Đức Chúa
Trời và những nhu cầu của con người làm cho Ngài có thể phục vụ như một
người Cố vấn đắc lực của chúng ta. Sự kiện nầy được minh họa cách rõ ràng
trong sách Công vụ các sứ đồ khi Hội thánh đầu tiên nhóm nhau tại Giê-ru-
sa-lem để tìm ra những giải pháp cho những nan đề khác nhau. Khi đối diện
với cuộc khủng hoảng có thể phá vỡ sự hiệp một trong Hội thánh, các sứ đồ
và các trưởng lão đã tìm được nguồn an ủi và sự hướng dẫn trong Đức
Thánh Linh (xem chương 15). Sự hiện diện của Đức Thánh Linh đã mang lại
sự dàn xếp cần thiết, các sứ đồ đã có thể viết rằng “ấy là Đức Thánh Linh và
chúng ta đã ưng rằng” (Cong Cv 15:28). Ở đây, sự khôn ngoan và sự hiểu
biết thần thượng của Đức Thánh Linh đã đem lại một giải pháp cho Hội
thánh, một giải pháp làm thỏa mãn người Giu-đa, khích lệ người ngoại bang,
khiến cho Tin lành được truyền bá khắp nơi.

Vậy thì, một thân vị là một hữu thể có khả năng hiểu biết và được hiểu biết.
Như chúng ta đã thấy, Đức Thánh Linh có cả hai đức tính nầy. Ngài biết bạn
và tôi rõ hơn người nào khác có thể, và chúng ta cũng có thể hiểu biết Ngài.
Mức độ bạn hiểu biết Ngài sẽ tùy thuộc vào mức độ bạn học về Ngài trong
mối tương giao hằng ngày của bạn. Ngài có thể là một người bạn xa lạ, hoặc
là một người bạn thân thiết. Nhiều người nói cách chân thật rằng: “Tôi biết
Ngài”, nhưng họ chỉ biết như một người bạn xa lạ. Rất ít người kinh nghiệm
được Ngài như một người bạn thân thiết. Bạn có muốn hiểu biết Ngài nhiều
hơn không? Nếu bạn càng ở với Ngài nhiều bao nhiêu, bạn càng hiểu biết về
Ngài nhiều bấy nhiêu.
2. Hoàn chỉnh câu sau: Khả năng hiểu biết là một đặc tính .................... của
Đức Thánh Linh .
3. Dựa trên RoRm 8:27 và ICo1Cr 2:10-11, hãy chọn phần trả lời hoàn chỉnh
nhất cho câu sau: Đức Thánh Linh có thể đáp ứng những nhu cầu của chúng
ta theo ý muốn của Đức Chúa Trời bởi vì Ngài biết
a) nhu cầu của dân sự của Đức Chúa Trời.
b) ý muốn của Đức Chúa Trời cho dân sự của Ngài.
c) những điều con người cần.
d) tất cả những câu trên: a), b) và c).
e) những điều được nêu trong câu a) và b).
4 Câu Kinh thánh sau đây bày tỏ điều gì về một đặc tính của Đức Thánh
Linh: “Thánh Linh và chúng ta đã ưng rằng”?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Khả năng cảm xúc
Mục tiêu 3: Nêu lên được những gì Kinh thánh bày tỏ về khả năng cảm xúc
của Đức Thánh Linh .
Đức tính thứ hai trong nhân tánh của Đức Thánh Linh là đức tính thuộc về
tình cảm , hay khả năng cảm xúc . Cảm xúc bao gồm khả năng yêu và khả
năng chịu đựng sự đau buồn, đau đớn và thương tổn (bao hàm cả sự giận
dữ ). Kinh thánh sẽ cho chúng ta thấy rằng Đức Thánh Linh có thể cảm xúc
được tất cả những điều trên khi Ngài hành động giữa chúng ta.
Tình yêu, cũng giống như sự hiểu biết, được biểu lộ trong mối tương giao
người-với-người. Nó cần có đối tượng. Bạn có thể bày tỏ tình yêu, nhưng sự
bày tỏ tình yêu của bạn sẽ trở nên vô nghĩa nếu nó không hướng về một
người khác.

Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong
lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh”(RoRm 5:5). Trong một chỗ khác ông
nói về “Sự yêu thương sanh bởi Đức Thánh Linh”(15:30).

Đức Thánh Linh là một Thân Vị có thể được yêu thương, là Đấng có thể yêu
thương chúng ta và yêu thương những người khác qua chúng ta.

Khi còn ở đại học, tôi đã lạm dụng từ ngữ yêu thương . Tôi thường nói yêu
những cuốn sách hay, yêu những món ăn ngon, và yêu âm nhạc. Thế nhưng
cô giáo dạy anh ngữ của tôi không đồng ý. Cứ mỗi khi tôi nói tôi yêu điều gì
đó, cô lại nhắc nhở tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rỏ giọng của cô:
“Nầy em, em không thể nói rằng em yêu những điều nầy được. Em chỉ có
thể yêu một con người mà thôi. Tình yêu chỉ có thể được biểu lộ cho người
có thể đáp lại nó.” Theo cô, tình yêu là sự truyền đạt cảm xúc của một con
người. Và để cho đầy đủ ý nghĩa, thì sự truyền đạt nầy phải được tiếp nhận
bởi một con người mà người đó có thể hiểu và tôn trọng mục đích của bức
thông điệp cũng như đáp ứng lại bức thông điệp đó.

Bởi vì Đức Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn, nên Ngài có thể bày tỏ tình
yêu của Đức Chúa Trời. Tình yêu của Đức Thánh Linh là bằng chứng của
việc Ngài có mối liên hệ từ ban đầu với gia đình nhân loại. Trong thời đại
Nô-ê, sự gian ác lan tràn đến nỗi Đức Thánh Linh phải “buồn rầu” và đau
đớn. Và kết quả là Đức Chúa Trời đã định rằng: “Thần Ta sẽ chẳng hằng ở
trong loài người luôn” (SaSt 6:3). Đức Thánh Linh có thể bị buồn rầu bởi tội
lỗi và sự chống nghịch của con người vì Ngài có khả năng cảm xúc. Trong
trường hợp nầy, tình yêu của Ngài bị chống đối.

Nhiều người đã không đáp lại tình yêu của Đức Thánh Linh, như chúng ta sẽ
thấy, sự trả lời của Ngài đối với thái độ của họ là một biểu hiện khác của
những khả năng thuộc cảm xúc cá nhân của Ngài. Ngài có thể là một đối
tượng của sự ngược đãi cá nhân. Phao-lô đối chiếu những hành động của
những người không tin với những người đã biết Đấng Christ. Những người
không tin không ở trong sự kiểm soát của Đức Thánh Linh; họ bị bản chất
tội lỗi của họ kiểm soát. Ngược lại, tín hữu là những người đang được thay
đổi, và Đức Thánh Linh đang kiểm soát đời sống họ. Mức độ của một tín
hữu đặt mình trong sự kiểm soát của Đức Thánh Linh cho thấy sự tăng
trưởng của người ấy trong việc mặc lấy bản chất mới và trở nên giống như
Đấng Christ (so sánh Rô-ma 8:5-15; và Ê-phê-sô 4:17-32;). Tuy nhiên, nếu
sau một thời gian người tân tín hữu không đáp lại sự kiểm soát của Đức
Thánh Linh và cứ tiếp tục có những hành động của bản chất củ,thì Đức
Thánh Linh sẽ bị buồn rầu (Eph Ep 4:30).

Bạn có nhớ bạn đã cảm thấy như thế nào khi mà người bạn yêu thương gây
cho bạn buồn rầu hoặc đau đớn? Đó cũng là cách mà Đức Thánh Linh cảm
nhận khi chúng ta làm Ngài buồn.
5. Hãy tìm những câu Kinh thánh sau rồi liệt kê những tội ngược đãi Đức
Thánh Linh được nói đến trong mỗi câu. Đức Thánh Linh có thể bị:
a Cong Cv 5:3 ................................................................................
b 7:51 .............................................................................
c HeDt 10:29 ...........................................................................
d LuLc 12:10 ................................................................................
e Mat Mt 12:31-32 ......................................................................
6. Đọc Eph Ep 4:25-32 và 5:1-7. Hãy tự hỏi chính bạn: “Tôi có đang phạm
tội làm buồn Đức Thánh Linh bởi vì đã phạm những tội nầy hay đã không
đáp lại sự kiểm soát của Ngài cách xứng đáng?” Hãy viết ra vở những lãnh
vực mà bạn cần thay đổi trong thái độ và hành động của bạn.
Khả năng chọn lựa
Mục tiêu 4: Từ những đoạn Kinh thánh cho trước, lựa chọn những phương
cách Đức Thánh Linh thi hành ý muốn tối cao của Ngài thay cho chúng ta .
Một đức tính quan trọng khác của nhân tánh là khả năng quyết định. Con
người, một hữu thể được dựng nên theo hình ảnh của Đấng Tạo hóa, là tạo
vật duy nhất có khả năng có những quyết định thuộc về luân lý - những
quyết định ảnh hưởng đến số phận đời đời của họ. Con người có quyền thực
hiện ý chí tự do của mình. Như chúng ta sẽ học trong Bài 2, một trong
những đặc tính thiên thượng của Đức Thánh Linh là quyền tối cao độc lập
của Ngài, hay khả năng thi hành ý chí hoặc quyền lực tối thượng của Ngài.
Sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho chúng ta thấy ý muốn của Đức Thánh Linh
được bày tỏ qua hành động.

Vòng truyền giáo của Banaba và Phao-lô là một ví dụ điển hình về cách Đức
Thánh Linh hành động trong Thân vị với khả năng chọn lựa. Hãy đọc Cong
Cv 13:1-4. Banaba và Phao-lô đã không thể nghi ngờ gì về Thân vị của Đức
Thánh Linh - Ngài dã kêu gọi họ và rồi công khai biệt riêng họ ra cho công
việc mà Ngài chọn họ làm. Chính sứ điệp cá nhân của Ngài cho họ bày tỏ
rằng Ngài không chỉ là một quyền năng thần thượng được ban xuống để xức
dầu cho họ thi hành công tác mà Đức Chúa Trời muốn họ làm. Đức Thánh
Linh đã và đang là một Thân Vị thiên thượng, Đấng có quyền chọn lựa bất
cứ ai theo ý muốn tối cao của chính Ngài.
7. Hãy đọc RoRm 8:1-39 và hoàn chỉnh các câu sau để chỉ ra phương cách
mà Đức Thánh Linh thi hành ý muốn tối cao của Ngài.
a 8:5 dạy chúng ta rằng Đức Thánh Linh có .....................
b 8:9 bày tỏ rằng Đức Thánh Linh thi hành ......................
trên đời sống của chúng ta.
c 8:26 chứng tỏ rằng Đức Thánh Linh ................chúng ta.
Đây không phải là một lẽ thật mới mẽ đối với bạn nếu bạn quen thuộc với
các ân tứ của Đức Thánh Linh. Phao-lô dạy rằng Đức Thánh Linh ban phát
các ân tứ của Ngài cho các thành viên trong Hội thánh theo như Ngài muốn
(ICo1Cr 12:7-11). Nói cách khác, Đức Thánh Linh chọn lựa những cá nhân
mà qua họ các ân tứ của Ngài được thi hành. Sự chọn lựa nầy là một hành
động theo chủ tâm của Đức Thánh Linh. Mỗi khi một ân tứ của Đức Thánh
Linh được biểu hiện, thì đó là một sự bày tỏ nhân tánh của Ngài.

NGÀI CHỌN LỰA CHÚNG TA VÂNG PHỤC


8. Các câu sau liên quan đến những bằng chứng nói về nhân tánh của Đức
Thánh Linh. Hãy khoanh tròn các ký tự trước mỗi câu ĐÚNG.
a. Đức Thánh Linh là một hữu thể sống với những đức tính của nhân tánh.
b. Những đức tính thiết yếu của nhân tánh, như được trình bày trong bài học,
là khả năng hiểu biết, cảm xúc và quyết định.
c. Việc Đức Thánh Linh không có một thân thể vật lý khiến Ngài không thể
là một Thân Vị trọn vẹn.
d. Đức Thánh Linh bày tỏ những đặc tính thuộc cảm xúc của nhân tánh.
e. Khả năng cảm xúc của Đức Thánh Linh được biểu lộ cả trong những cảm
xúc của Ngài đối với chúng ta và sự đáp ứng của Ngài đối với những cảm
xúc của chúng ta về Ngài.
f. Mối quan hệ của chúng ta với Đức Thánh Linh là mối quan hệ Người-với-
người.
g. Đức Thánh Linh ban phát các ân tứ của Ngài trong Hội thánh tùy theo sự
chọn lựa của những người nhận lãnh.
h. 2:10-11 nói rằng khả năng hiểu biết là một đức tính cá nhân của Thánh
Linh Đức Chúa Trời cũng như của linh con người.
Những Chức Vụ Của Đức Thánh Linh
Mục tiêu 5: Nhận diện những phương cách Đức Thánh Linh đóng vai trò là
Giáo Sư, Người Hướng Dẫn và Đấng An ủi .
Bạn có nghĩ rằng có bao giờ một chức vụ được lập ra mà không cần phải có
một con người để giữ chức vụ đó không? Những chức vụ luôn luôn được
nắm giữ bởi những con người. Bởi vì Đức Thánh Linh là một Thân Vị, nên
Ngài có thể đóng vai trò của một Giáo Sư, một Người Hướng Dẫn, và một
Đấng An-ủi.
Chức vụ Giáo Sư
Chúa Giê-xu đã muốn dạy dỗ các môn đồ của Ngài rất nhiều điều, nhưng họ
chưa được chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận. Vì vậy, Ngài hứa ban cho họ một
Giáo Sư khác.
Các sinh viên nghiên cứu Kinh thánh học biết rằng Kinh thánh sẽ không có
những tác động thuộc linh đúng đắn nếu như nó không được đặt trong chức
vụ giảng dạy của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh soi dẫn những lẽ thật
của Kinh thánh và dạy chúng ta áp dụng những bài học nầy vào cuộc sống
hằng ngày.
Trong sự dạy dỗ liên quan đến chức vụ hầu đến của Đức Thánh Linh, Chúa
Giê-xu bảo rằng: “Đấng Yên-ủi ... sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho
các ngươi nhớ mọi điều ta đã phán cùng các ngươi”(GiGa 14:26). Hơn nữa,
Ngài lại nói về Đức Thánh Linh rằng: “Chính Ngài sẽ làm chứng về
ta”(15:26). Cuối cùng, Chúa Giê-xu kết thúc sứ điệp của Ngài bằng cách nêu
lên những công việc của Đức Thánh Linh trong 16:13-15:
Ngài sẽ dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật ... và bày tỏ cho các ngươi mọi điều sẽ
đến. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà
rao bảo cho các ngươi.
Chúng ta có thể cầu xin Đức Thánh Linh soi dẫn Lời của Đức Chúa Trời,
đem những sự dạy dỗ của lời của Đấng Christ áp dụng vào đời sống hằng
ngày của chúng ta. Ngài sẽ làm cho chúng ta nhớ lại những lời khích lệ của
Đấng Christ trong những lúc khó khăn (Mac Mc 13:11). Ngoài ra, Ngài sẽ
đem chúng ta đến sự trưởng thành thuộc linh, bằng cách dẫn dắt chúng ta
vào mọi lẽ thật. Cuối cùng, Ngài bày tỏ những việc hầu đến cho chúng ta và
giúp chúng ta sống cách vinh hiển Danh Đấng Christ (Tit Tt 2:11-14).
Đôi khi mối quan hệ giữa người giáo sư và sinh viên trở nên gần gũi như
những thành viên trong gia đình. Tôi thường được các sinh viên giới thiệu
tôi với cha mẹ hay bạn bè của họ. Khi họ nói: “Đây là thầy giáo của con”,
họ luôn diễn đạt cách hết sức thân mật. Điều này càng đúng hơn trong mối
quan hệ Một-dạy-một với Đức Thánh Linh. Vị Giáo Sư của tôi, Đức Thánh
Linh, là một Thân Vị trọn vẹn, là Đấng có mối tương giao cá nhân với tôi .
9. Khi Kinh thánh nói rằng Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ chúng ta mọi sự, điều
nầy có nghĩa rằng:
a) Chúng ta không cần sự dạy dỗ nào cả ngoại trừ những điều chúng ta nhận
từ Đức Thánh Linh.
b) Khi chúng ta tiếp nhận Đức Thánh Linh, chúng ta hiểu biết mọi sự.
c) Đức Thánh Linh dạy dỗ chúng ta khi chúng ta nghiên cứu Lời của Đức
Chúa Trời và giải bày những lẽ thật của Lời đó cho chúng ta.
Chức vụ Người Quản Trị
Mặc dù sách Công vụ được gọi là sách Công Vụ của Các Sứ Đồ , thì tựa đề
chính xác hơn phải là Công Vụ của Đức Thánh Linh . Khi Đức Thánh Linh
giáng lâm trong ngày lễ Ngũ tuần, Ngài trở thành Người Quản Trị hay
Người Lãnh Đạo của Hội thánh. Sách Công Vụ giới thiệu Đức Thánh Linh
như là một quan chức chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động của Hội thánh
đầu tiên. Vậy thì những công tác quản trị của Đức Thánh Linh là gì?

Đức Thánh Linh hướng dẫn Phi-líp tiếp xúc với vị hoạn quan Ê-thi-ô-bi
đang đi ngang qua sa mạc. Ngài ra lịnh cho Phi-líp phải lại gần và theo kịp
xe của vị hoạn quan và làm chứng cho ông (Cong Cv 8:26-40).
10. Kết quả của lời chứng của Phi-líp cho vị hoạn quan là gì?
.......................................................................................................
Đức Thánh Linh sai Phi-e-rơ đi giảng đạo cho một người đội trưởng ngoại
bang, mặc dù điều này trái với ý muốn của ông (10:19-48).
11. Kết quả tức thì của lời giảng của Phi-e-rơ đối với người đội trưởng và
những người nghe sứ điệp trong nhà ông là gì?
.......................................................................................................
Đức Thánh Linh biệt riêng Ba-na-ba và Phao-lô tại Hội thánh An-ti-ốt để
chuẩn bị họ cho chức vụ truyền giáo (13:1-3). Ngài cũng đem lại sự hiệp
một trong hội đồng tại Giê-ru-sa-lem để phúc âm được rao truyền cho cả
người Giu-đa và người ngoại bang (15:1-41), kêu gọi sự truyền giảng phúc
âm cho toàn thế giới.
Khi Phao-lô đang tìm cách để đi giảng tin lành cho Châu Á, thì Đức Thánh
Linh không cho phép ông đi (16:6-7). Nếu bạn đọc tiếp, bạn sẽ thấy rằng
Đức Thánh Linh có một chương trình khác cho Phao-lô vào thời điểm đặc
biệt đó.
Phao-lô công khai thừa nhận sự quản trị của Đức Thánh Linh khi ông nhắc
nhở các trưởng lão Ê-phê-sô rằng chính Đức Thánh Linh là Đấng đã lập họ
và đặt Hội thánh dưới sự chăm sóc của họ (20:28). Tất cả những chức năng
điều hành nầy của Đức Thánh Linh xác định rằng Ngài là một Thân Vị trọn
vẹn được Đấng Christ sai đến để hướng dẫn các công việc của Hội thánh
Ngài.
12. Dựa trên phần vừa thảo luận, hãy chọn câu trả lời tốt nhất cho câu hỏi
sau. Điều gì khiến Phi-líp, Phao-lô và Phi-e-rơ vâng theo sự hướng dẫn của
Đức Thánh Linh trong những trường hợp trên?
a) Họ có mối tương giao Người-với-người với Đức Thánh Linh, và họ tin
cậy Ngài.
b) Họ bị bắt buộc phải vâng theo Ngài.
c) Họ biết trước kết quả.
Chức vụ Đấng An-ủi
Khi Đức Chúa Giê-xu sắp lìa thế gian để về trời, các môn đệ của Ngài hết
sức buồn rầu. Không có Ngài họ chẳng còn nơi nương tựa, vì vậy Ngài hứa
rằng: “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-ủi
khác, để ở với các ngươi đời đời”(GiGa 14:16). Danh hiệu nầy xuất phát từ
tiếng Hy-lạp là Paraclete và thường được dịch sang tiếng Anh là người an ủi,
người giúp đỡ hay người cố vấn . Những nhà học giả Hy-lạp nói rằng từ ngữ
được dịch là khác có nghĩa là “một cái khác trong cùng một bản tánh”. Đức
Thánh Linh là một Thân Vị hoàn toàn khác với Đấng Christ, nhưng Ngài
“có cùng một bản tánh” với Đấng Christ, một Thân vị trọn vẹn.
Đấng Christ hứa ban một Thân Vị! Ngài không chỉ hứa ban sự an-ủi, sự giúp
đỡ hay sự cố vấn - Ngài hứa ban một Đấng Anủi, một Đấng Giúp Đỡ và một
Người Cố Vấn !
13. Hãy đọc GiGa 14:15-18, 26; 15:26; 16:12-15 và hoàn chỉnh các câu sau:
a. Chúa Giê-xu hứa với các môn đệ của Ngài rằng Ngài sẽ không để cho
họ ................................, đó là: không được giúp đỡ và bảo vệ, cô đơn và bất
hạnh.
b. Chúa Giê-xu hứa rằng Cha sẽ ban một Đấng ............................
.................................. để thay thế Ngài đời đời.
c. chức vụ của Đức Thánh Linh sẽ là ............................................
d. Chúa Giê-xu nói rằng khi Đấng An-ủi khác nầy đến, Ngài sẽ dẫn họ
vào ................ .và tôn vinh.................................................
14. Hãy sắp xếp những ví dụ với chức năng của Đức Thánh Linh mà chúng
mô tả.
. . . a. Nhắc nhở chúng ta những lời, của Chúa Giê-xu hướng dẫn chúng ta
vào mọi lẽ thật, giải bày Kinh thánh cho chúng ta.
. . . b. Thay thế cho Đấng Giúp Đỡ, Người Cố Vấn và Người Bạn thiết hữu
của chúng ta.
. . . c. Lãnh đạo và hướng dẫn các công tác của Hội thánh.
1) Giáo Sư
2) Người Điều Hành
3) Đấng An-ủi
Các Danh Xưng của Đức Thánh Linh
Mục tiêu 6: Nêu những ví dụ về các danh xưng của Đức Thánh Linh .
Ngoài những đức tính và những chức vụ giải bày bản tánh của Đức Thánh
Linh, Kinh thánh còn dùng những nhân danh xưng và đại từ nhân xưng để
chỉ về Ngài.

Danh xưng Đức Thánh Linh xuất hiện hơn 90 lần trong Kinh thánh. Đây là
nhân danh xưng của Ngài và nó công bố tính cách của chính Ngài.
Bây giờ chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Giê-xu bày tỏ nhân tánh của Đức Thánh
Linh. Chúng ta cũng sẽ thấy chính Đức Thánh Linh tự nhận Ngài là một
Thân Vị.
Được bày tỏ bởi Đức Chúa Giê-xu
Bây giờ chúng ta hãy xem kỹ lời hứa ban Đức Thánh Linh của Đức Chúa
Giê-xu (14:1-15:27; 16:1-33). Chúa Giê-xu đã bày tỏ nhân tánh của Đức
Thánh Linh cách rỏ ràng qua ý nghĩa của một danh nhân xưng và những đại
từ nhân xưng Ngài đã dùng.
“Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để
ở với các ngươi đời đời”(14:16). “Khi nào Đấng Yên ủi sẽ đến . . . Ngài sẽ
làm chứng về ta”(15:26). “Lúc nào (Ngài ,) Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài
dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng (Ngài ) nói
mọi điều mình đã nghe, và(Ngài ) tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ
đến”(16:13).
Thật rõ ràng trong những câu Kinh thánh này Chúa Giê-xu muốn các môn
đệ của Ngài biết rằng Ngài sẽ ban một Thân Vị để thay thế Ngài. Ba lần
Ngài đã xử dụng nhân danh xưng Đấng Yên ủi . Rồi bảy lần trong một câu
Kinh thánh ngắn Ngài đã dùng đại từ nhân xưng giống đực Ngài để chỉ về
Đức Thánh Linh. Chúa Giê-xu có thể dễ dàng bỏ bớt một số đại từ nầy hoặc
xử dụng danh xưng trung tính linh , tuy nhiên, Ngài đã lặp đi lặp lại nhân
danh xưng nầy. Tôi tin rằng điều mà Chúa Giê-xu muốn nhấn mạnh ấy là
Đức Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn.
Được bày tỏ bởi chính Đức Thánh Linh
Có bao giờ bạn nghĩ rằng tất cả những câu Kinh thánh nầy đều được Đức
Thánh Linh hà hơi (IIPhi 2Pr 1:20-21)? Điều nầy có nghĩa rằng, sau những
gì đã được nói đến, thì Đức Thánh Linh, Tác nhân của sự khải thị, bày tỏ
rằng chính Ngài là một Thân Vị trọn vẹn. Hơn nữa, Đức Thánh Linh đưa ra
những bằng cớ về nhân tánh của Ngài khi Ngài liên hệ đến những công tác
cá nhân của mình.
Một câu Kinh thánh chúng ta đã học cho chúng ta thấy rõ điều nầy. Đó là
câu của chính Đức Thánh Linh “ . . . Hãy để dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ
cho Ta , để làm công việc Ta ấn định”(Cong Cv 13:2 Bản Diễn Ý).
Được Sứ Đồ Phao-lô bày tỏ
Trong phần Nếp Sống Mới trong Thánh Linh được ghi lại trong Kinh thánh
từ câu 1 đến câu 27, Phao-lô đã dùng đại từ nhân xưng giống đực (xem câu
16,26) để chỉ về Đức Thánh Linh. Ông đã không xử dụng danh xưng trung
tính, nhưng đã dùng danh xưng bày tỏ Đấng có quyền xác nhận Quyền làm
con của chúng ta và cầu thay cho chúng ta là một Thân Vị . Vị Sứ đồ muốn
chúng ta hiểu rằng Đấng đang kiểm soát tâm trí chúng ta, dựng nên cuộc
sống mới trong chúng ta, xác thực mối liên hệ của chúng ta với Đấng Christ
và giúp đỡ chúng ta trong sự cầu nguyện có những đặc tính của nhân tánh là
điều khiến chúng ta có thể có mối tương giao cá nhân với Ngài.
15. Sắp xếp mỗi câu (bên trái) phù hợp với ngôi vị nó mô tả (bên phải)
. . .a. Nói về sự ban xuống của Đấng An ủi và 1) Chúa Giê-xu
bảy lần dùng đại từ nhân xưng Ngài để 2) Đức Thánh Linh
chỉ về Đấng đó.
. . .b. Phán rằng: “ Hãy để riêng Ba-na-ba và
Sau-lơ đặng làm công việc ta đã gọi làm”.
. . .c. Phán rằng: “Khi nào Đấng Yên-ủi sẽ đến,
. . .chính Ngài sẽ làm chứng về ta.”
16. Hãy liệt kê những nhân danh xưng của Đức Thánh Linh - chỉ những
nhân danh xưng được ban cho một thân vị - đã được thảo luận.
.......................................................................................................
MỐI TƯƠNG GIAO CÁ NHÂN CỦA CHÚNG TA
Mục tiêu 7: Lựa chọn được lời giải thích đúng về mối quan hệ của chúng ta
với Đức Thánh Linh khi chúng ta nhận biết Ngài là một Thân Vị .
Có rất nhiều lý do rất quan trọng khiến chúng ta phải nhận biết Đức Thánh
Linh là một Thân Vị trọn vẹn. Một trong những lý do đó là sự nhận biết nầy
làm sâu đậm thêm mối quan hệ của chúng ta với Đức Thánh Linh.
Nhiều nan đề liên quan đến các ân tứ của Đức Thánh Linh đã không xảy ra
như chúng ta tìm kiếm sự nhận biết Thân Vị Đức Thánh Linh trước khi
chúng ta ao ước, tiếp nhận và thực hành các ân tứ của Ngài. Sự nhận biết về
Thân Vị Đức Thánh Linh sẽ mang lại sự khát khao làm đẹp lòng Ngài và
được Ngài xử dụng. Sự nhận biết nầy sẽ chẳng khi nào giới hạn sự vận hành
của những ân tứ thuộc linh.
Một Mối Tương Giao Đúng Đắng
Bạn đã ôn lại những bằng chứng cho thấy Đức Thánh Linh là một Thân vị
hiểu biết . Sự nhận biết này sẽ đem lại cho bạn một nền tảng căn bản trong
việc bạn chia xẻ những nan đề của bạn với Ngài và để Ngài hướng dẫn bạn
cách giải quyết chúng.
Bạn cũng đã nghiên cứu về bằng chứng rằng Đức Thánh Linh là một Thân
Vị có cảm xúc . Bằng chứng nầy đem đến cho bạn cái nhìn sâu sắc về những
điều Ngài mong muốn. Bạn sẽ không còn nghĩ đến việc xử dụng Ngài để
thỏa mãn những mong ước của bạn, nhưng để Ngài xử dụng bạn hoàn thành
các mong muốn của Ngài. Bây giờ bạn sẽ thấy Ngài là một Đấng nhạy cảm,
yêu thương, Đấng có thể bị đau buồn vì những hành động sai trái của bạn.
Và rồi việc làm vừa lòng bạn sẽ không còn quan trọng như việc làm vừa
lòng Ngài.
Cuối cùng, bạn đã lượng giá được những chứng cớ bày tỏ Ngài có khả năng
chọn lựa và quyết định. Sự hiểu biết của Ngài vô hạn, Ngài biết điều gì là tốt
nhất cho bạn. Hơn nữa, Ngài đã chọn bạn và ban quyền năng để bạn trở
thành chứng nhân cho Ngài. Tôi tin rằng bạn sẽ đánh giá cao những ân tứ
củaNgài. Nhưng hơn thế nữa, tôi mong ước bạn sẽ tôn vinh và quý mến
Đấng ban những ân tứ đó.
Một Mối Tương Giao Có Ý Nghĩa.
Một giá trị khác vô cùng quan trọng trong việc nhận biết Đức Thánh Linh là
một Thân Vị ấy là đối với người tín hữu, mối tương giao có ý nghĩa hơn là
kinh nghiệm . Nhận biết quyền năng của Đức Thánh Linh sẽ mang lại những
kinh nghiệm quý báu, nhưng một người chỉ bước vào mối tương giao có ý
nghĩa thật sự với Ngài khi người ấy nhận biết Ngài là một Thân Vị. Đây là
mối tương giao của sự trưởng thành. Nó không chỉ đem lại sự hiểu biết về
các quyền lợi thuộc linh của một người, nhưng còn đem đến sự hiểu biết về
các trách nhiệm của người ấy. Phao-lô đã đề cập đến bản chất trưởng thành
của mối tương giao nầy trong IICo 2Cr 3:18: “Tất cả chúng ta đều để mặt
trần, phản chiếu vinh quang của Chúa như tấm gương và được biến hóa
giống như hình ảnh vinh quang của Ngài”.

NGƯỜI VỚI NGƯỜI


Cách của một người nhìn về phép Báp-têm trong Đức Thánh Linh (Cong Cv
2:4) là một hình ảnh minh họa cho điều nầy. Nếu người ấy quan tâm đến
từng trải , người ấy sẽ xem tự thân phép Báp-têm là một mục tiêu. Và khi
người ấy nhận được rồi, người ấy cảm thấy rằng mình đã đạt được mục tiêu.
Nhưng nếu một người nhận thức được rằng phép Báp-têm trong Đức Thánh
Linh có liên quan đến Thân Vị Đức Thánh Linh, người ấy sẽ nhận thấy rằng
mỗi ngày mình được ban thêm linh lực để phát triển mối tương giao nầy.
Đây là mối tương giao có thể được phát triển cách liên tục chừng nào người
ấy còn sống và còn mong ước được đầy dẫy Đức Thánh Linh (Eph Ep 5:18).
Hãy nhớ rằng Chúa Giê-xu hứa ban Đức Thánh Linh để ở với chúng ta đời
đời (GiGa 14:16).
Nếu bạn là người quan tâm đến từng trải , thì đây là một cơ hội để bạn nhận
ra mối tương giao Người-với-người với Đức Thánh Linh. Ngài muốn bạn
được tràn ngập bởi sự hiện diện của Ngài cho đến nỗi ước muốn lớn nhất
của bạn là làm đẹp lòng Ngài và thực thi ý muốn của Ngài.
17. Hãy kiểm tra lại mối tương giao của bạn với Đức Thánh Linh bằngcách
nghhiên cứu những ví dụ sau. Viết 1) trước những câu chỉ về sự quan tâm
đến mối tương giao và 2) trước những câu chỉ về sự hướng về kinh nghiệm .
. . . a. “Khi tôi nhận phép Báp-têm trong Đức Thánh Linh, tôi cảm thấy mình
đã vươn đến được giới hạn của sự trưởng thành thuộc linh.”
. . . b. “Từ khi tôi nhận phép Báp-têm trong Đức Thánh Linh, mỗi ngày tôi
càng có mối thông công thắm thiết và ngọt ngào hơn với Chúa.”
. . . c. “Tôi khó có thể chờ đợi buổi nhóm cho sự phấn hưng tuần đến bởi vì
tôi đang cần có phước hạnh. Trong khi tôi đang ngã lòng giữa những buổi
nhóm đặc biệt và bắt đầu nhường bước cho con người củ, khi Đức Thánh
Linh hành động, tôi quên hết mọi sự, chỉ nhớ đến những ân phước của tôi.”
. . . d. “Sự hiện của Đức Thánh Linh là nguồn sức mạnh của đời sống tôi. Từ
khi Ngài ngự vào lòng tôi qua sự đầy trọn của lễ Báp-têm, tôi đã trưởng
thành về mặt thuộc linh. Bây giờ mục đích của đời sống tôi là làm đẹp lòng
ngài.”
18. Dựa trên phần đã thảo luận, đâu là câu giải thích tốt nhất cho mối tương
giao của chúng ta với Đức Thánh Linh khi chúng ta nhận biết Ngài là một
Thân Vị? Nếu chúng ta nhận biết Ngài là một Thân Vị, Đấng kiểm soát đời
sống của chúng ta, chúng ta sẽ
a) quan tâm hơn đến các ân tứ thuộc linh chúng ta có được và đến cách
chúng ta cảm nhận về chúng.
b) quan tâm về việc làm đẹp lòng Ngài và về việc để Đức Thánh Linh kiểm
soát đời sống chúng ta ngày càng nhiều hơn.
c) nhận biết sự hiện diện của Ngài là nguồn của sự giúp đỡ và sức mạnh của
chúng ta.
d) trưởng thành hơn trong sự lựa chọn những ân tứ thuộc linh mà chúng ta
muốn có.

Bài tự trắc nghiệm


Sau khi bạn đã ôn lại bài học, hãy làm bài tự trắc nghiệm nầy. Sau đó kiểm
tra lại câu trả lời của bạn với phần giải đáp ở cuối sách hướng dẫn. Hãy ôn
lại những phần bạn đã trả lời sai.
ĐÚNG - SAI. Viết chữ Đ trước những câu đúng vàS trước những câu sai.
. . . 1. Đức Thánh Linh được xem là có nhân tánh bởi vì Ngài có quyền năng
và sự tác động.
. . . 2. Ba đức tính của nhân tánh của Đức Thánh Linh là khả năng hiểu biết,
cảm xúc và chọn lựa.
. . . 3. Đức Thánh Linh có thể bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời.
. . . 4. Khả năng chọn lựa là sự biểu hiện của một phần bản tánh và được gọi
là ý muốn.
. . . 5. Đức Thánh Linh giữ vai trò chủ yếu là chức vụ phán xét.
. . . 6. Ba chức vụ quan trọng của Đức Thánh Linh là Giáo Sư, Người Quản
Trị và Đấng An-ủi.
. . . 7. Một vật nếu có một danh xưng thì được xem là có nhân tánh.
. . . 8. Kinh thánh đề cập đến Đức Thánh Linh bằng những phi nhân danh
xưng.
. . . 9. Đức Chúa Giê-xu xưng Đức Thánh Linh là một Thân Vị. Ngài dùng
những nhân danh xưng và đại từ nhân xưng để phán về Đức Thánh Linh .
. . . 10. Sứ đồ Phao-lô xử dụng những đại từ nhân xưng giống đực để chỉ về
Đức Thánh Linh trong các sách thư tín của ông.
HOÀN CHỈNH. Hãy điền một trong các từ sau đây vào những khoảng trống
để hoàn chỉnh những câu sau: trọn vẹn, mối tương giao, kinh nghiệm, những
ước muốn, sự trưởng thành, những nan đề

11. Nếu bạn nhìn nhận Đức Thánh Linh là một Thân Vị, bạn sẽ có thể chia
xẻ ...........................................của bạn với Ngài và để Ngài chỉ cho bạn cách
giải quyết chúng.
12. Khi bạn phát hiện ra rằng Đức Thánh Linh là một hữu thể có cảm xúc,
bạn sẽ hiểu rằng Ngài cũng có ................................., và bạn sẽ tìm cách làm
đẹp lòng Ngài, không phải làm đẹp lòng bạn.
13. Những người hướng về ...............................................thường xem tự thân
phép Báp-têm trong Đức Thánh Linh là một mục tiêu.
14. Những ai nhận thức được rằng phép Báp-têm trong Đức Thánh Linh liên
quan đến Thân Vị Đức Thánh Linh là những người hướng
về..................................................
15. Nếu một người thật sự lượng giá được năng lực của phép Báp-têm trong
Đức Thánh Linh, người ấy sẽ bắt đầu một mối tương giao mà nó sẽ đem
lại ......................................... của Cơ Đốc Nhân.
16. Khi chúng ta nói rằng Đức Thánh Linh là một Thân
Vị ......................................... chúng ta muốn nói rằng Ngài có tất cả những
đức tính để qua đó chúng ta có thể có mối tương giao cá nhân với Ngài.
CÂU TRẢ LỜI NGẮN. Trả lời các câu hỏi sau cách ngắn nhất.
17. Hãy kể ra ba đức tính cá nhân của Đức Thánh Linh chúng ta đã học
trong bài nầy.
..................................................................................................
18. Hãy giải thích phương cách mối tương giao yêu thương với Đức Thánh
Linh hành động.
..................................................................................................
19. Hãy kể tên ba cách mà Đức Thánh Linh có thể bị xúc phạm là điều
chứng tỏ Ngài cũng có cảm xúc.
..................................................................................................

Trả lời câu hỏi


Các câu trả lời không được xếp theo thứ tự với mục đích để bạn tránh không
nhìn vào câu trả lời kế tiếp trước khi tự trả lời. Hãy tìm số câu trả lời bạn cần
và đừng xem trước các câu trả lời khác.
1. b) Ngài có các phẩm chất căn bản của một thân vị.
2. Về thân vị
3. e) Những điều được nói đến trong a) và b) ở trên
4. Điều nầy cho thấy rằng Ngài có sự thông sáng để đưa ra cách giải quyết
và Ngài có thể truyền đạt sự thông sáng đó cho các sứ đồ
5. Đức Thánh linh có thể bị :
a. Nói dối
b. Ngăn trở
c. Xúc phạm
d. Phạm thượng
e. Chống đối và làm buồn lòng
6. Câu trả lời của bạn
7. a. Muốn hay ước ao
b. Sự kiểm soát
c. Cầu thay
8. a. Đúng
b. Đúng
c. Sai
d. Đúng
e. Đúng
f. Đúng
g. Sai
9. c) Đức Thánh Linh hướng dẫn chúng ta khi chúng ta học lời Chúa và giúp
chúng ta hiểu được lẽ thật của Lời Chúa.
10. Viên hoạn quan nhận lãnh sứ điệp, chịu báp têm và tiếp tục lên đường
cách vui mừng.
11. Họ tiếp nhận Tin lành, được đầy dẫy Thánh linh và chịu lễ báp têm.
12. a) Họ có mối tương giao thân thiết và tin cậy Ngài.
13. a. Mồ côi
b. Người cố vấn, Đấng yêu ủi hay người giúp đỡ
c. Dạy dỗ và nhắc lại những điều Chúa Jêsus đã phán
d. Mọi lẽ thật, Chúa Jêsus
14. a. 1) Giáo sư
b. 3) Đấng yên ủi
c. 2) Người quản trị
15. a. 1) Jêsus
b. 2) Đức thánh linh
c. 1) Jêsus
16. Đức thánh linh, Đấng yên ủi, Ngài, Ta.
17. a. 2) Quan tâm đến từng trải
b. 1) Quan tâm đến mối tương giao
c. 2) Quan tâm đến từng trải
d. 1) Quan tâm đến mối tương giao
Đúng
18. b) Quan tâm đến việc làm vui lòng Ngài
c) Ý thức hơn về sự hiện diện của Ngài

Phần giải đáp các câu hỏi nghiên cứu


Những câu trả lời cho phần bài tập nghiên cứu của bạn không được xắp xếp
theo thứ tự thông thường để bạn sẽ không thấy trước những câu trả lời tiếp
theo. Hãy tra những số bạn muốn tìm và cố gắng đừng xem trước.
1. b) Ngài có những đức tính thiết yếu của nhân tánh.
2. cá nhân
3 e) những điều kể trong câu a) và b) ở trên.
4 Câu Kinh thánh nầy bày tỏ rằng Đức Thánh Linh có đầy đủ sự hiểu biết để
đưa ra một giải pháp, và Ngài có thể truyền đạt sự hiểu biết nầy cho các sứ
đồ.
5 Đức Thánh Linh có thể bị
a nói dối
b chống nghịch
c sỉ nhục
d nói phạm thượng (đây là tội nặng nhất)
e xúc phạm
6 Câu trả của bạn.
7. a. những ước muốn.
b. kiểm soát
c. cầu thay
8 a Đúng.
b Đúng.
c Sai.
d Đúng.
e Đúng.
f Đúng.
g Sai.
h Đúng.
9 c) Đức Thánh Linh hướng dẫn chúng ta khi chúng ta nghiên cứu Lời của
Đức Chúa Trời và giải bày lẽ thật của Lời ấy cho chúng ta.
10. Vị hoạn quan tiếp nhận sứ điệp, chịu Báp-têm, và trở về cách vui mừng.
11. Họ tiếp nhận sứ điệp, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, và chịu phép Báp-
têm.
12. a) Họ có mối tương giao Người-với-người với Ngài, và họ tin cậy Ngài.
13. a. mồ côi (không được an ủi).
b. Người Cố Vấn, Đấng An-ủi hay Đấng Giúp Đỡ.
c. dạy và nhắc lại những điều Chúa Giê-xu đã phán.
d. mọi lẽ thật, Chúa Giê-xu.
14. a. 1) Giáo sư
b. 2) Đấng An-ủi
c. 3) Người Điều Hành
15. a. 1) Chúa Giê-xu
b. 2) Đức Thánh Linh
c. 3) Chúa Giê-xu
16. Đức Thánh Linh (nhân danh xưng), Đấng An-ủi, Ngài, Ta.
17. a. 2) Hướngvề kinh nghiệm.
b. 1) Hướng vềmối tương giao.
c. 2) Hướng về kinh nghiệm.
d. 1) Hướng về mối tương giao.
18. b) quan tâm đến việc làm đẹp lòng Ngài.
c) càng nhận biết sự hiện diện của Ngài.

MỘT THÂN VỊ THẦN THƯỢNG


Đức Thánh Linh là một Ngôi vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, ngang bằng
với Đức Chúa Cha và Đức Chúa con. Trong suốt Kinh thánh, bắt đầu với sự
Sáng thế và cứ tiếp tục cho đến chương cuối của sách Khải huyền, chúng ta
thấy Đức Thánh Linh cùng hành động với những Ngôi vị khác trong Ba
Ngôi Đức Chúa Trời trong dòng lịch sử nhân loại. Tuy nhiên công tác của
Đức Thánh Linh bắt đầu một giai đoạn mới sau khi Đấng Christ thăng thiên
và ngồi bên hữu Đức Chúa Cha (Cong Cv 1:1-9).
Sự hiểu biết của chúng ta rất hạn hẹp không thể hiểu hết lẽ đạo Ba Ngôi -
một Đức Chúa Trời nhưng có ba Ngôi vị riêng biệt, cùng hành động trong sự
phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ. Trong thời Cựu ước, Đức Chúa Cha bởi Đức
Thánh Linh phán với một số người được chọn lựa. Chúa Giê-xu, Đức Chúa
Con, là Hiện thân của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời thành nhục thể, bày
tỏ Đức Chúa Cha cho chúng ta trong khi thi hành chức vụ trên đất. Đức
Thánh Linh, Đấng được Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con sai đến để làm
việc trong thân thể của Đấng Christ là Hội thánh.
Trong bài học nầy, chúng ta sẽ thấy được rằng Đức Thánh Linh là một Ngôi
vị thần thượng , đáng để chúng ta tôn kính và vâng phục. Ngài là một Ngôi
vị thần thượng, Đấng luôn mong mỏi cai trị cuộc đời chúng ta, biến cải
chúng ta trở nên giống như hình ảnh của Đức Chúa Con và đưa chúng ta vào
sự phục vụ Ngài. Đức Thánh Linh không bao giờ hướng sự chú ý của chúng
ta về phía Ngài; Ngài luôn hướng chúng ta về Cứu Chúa của chúng ta, Đức
Chúa Giê-xu Christ. Bạn đã để Ngôi Vị thần thượng nầy cư trú trong bạn
chưa? Ngài có phải là Đấng An-ủi, Người Bạn đồng hành và Người Hướng
Dẫn của bạn không? Hãy để Ngài phán với lòng bạn khi bạn học bài nầy.
Dàn Ý Bài Học
Sự Hiệp Nhất Thần Thượng
Những Thuộc Tính Thần Thượng
Sự Xác Nhận Thần Thượng
Sự Quan Phòng Thần Thượng
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Đưa ra những bằng chứng trong Kinh thánh nói về Bản tánh thần thượng của
Đức Thánh Linh bằng cách dựa trên sự hiệp nhất thần thượng, những thuộc
tính thần thượng và sự xác nhận thần thượng.
Áp dụng những sự dạy dỗ cho đời sống bạn qua những ẩn dụ trong bản tánh
thần thượng của Đức Thánh Linh được bày tỏ bởi sự quan phòng cho những
nhu cầu của con người.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học như cách đã hướng dẫn trong phần những hoạt động học
tập của bài 1. Đọc phần nội dung bài học, tìmvà đọc những đoạn Kinh thánh
trưng dẫn và trả lời những câu hỏi nghiên cứu.
Hãy tra cứu định nghĩa của những từ then chốt mà bạn không biết trong
phần từ vựng. Nếu có những từ khác mà bạn không hiểu, hãy tra cứu trong
tự điển của bạn.
Làm bài tự trắc nghiệm rồi kiểm tra câu trả lời của bạn với phần giải đáp ở
cuối sách hướng dẫn.
Những Từ Ngữ Then Chốt
Xác nhận, (sư) Nuôi nấng, Quyền tể trị
Thuộc tính, Vô sở bất năng, Đầy trọn, (sư)
Lời chúc phước, Vô sở bất tại, Biến đổi
Thượng đế, Vô sở bất tri, Ba Ngôi
Thành nhục thể, sự Thánh khiết, Đức Chúa Trời Tam Nhất
Biểu hiện, (sự)
Triển Khai Bài Học
SỰ HIỆP NHẤT THẦN THƯỢNG
Mục tiêu 1: Chọn một định nghĩa về Đức Thánh Linh phản chiếu được sự
kết hợp của Ngài với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con dựa trên những đoạn
Kinh thánh trưng dẫn .
Bất cứ một lý do nào khiến chúng ta tin vào Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con đều phải được cùng áp dụng cho Đức Thánh Linh. Sứ đồ Phierơ tuyên
bố cách quả quyết rằng tội chống nghịch với Đức Thánh Linh cũng là tội
chống nghịch với Đức Chúa Trời (Cong Cv 5:3-4). Khúc Kinh thánh này
xác định tính thần thượng của Đức Thánh Linh. Mặc dù là một Ngôi vị riêng
biệt, sự kết hợp của Ngài với những thành viên còn lại của Ba Ngôi thật chặt
chẽ đến nỗi Ngài được gọi là “Thánh Linh của Cha”(Mat Mt 10:20) và
“Thánh Linh của Đấng Christ”(RoRm 8:9).
Kinh thánh cũng đưa ra một bằng chứng quan trọng khác bày tỏ cho chúng
ta thấy rằng Đức Thánh Linh kết hiệp với những Ngôi khác của Đức Chúa
Trời như là một Ngôi vị thần thượng, riêng biệt, cùng bình đẳng, bình quyền
với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con trong sự hiệp nhất trọn vẹn. Chúng ta
hãy nghiên cứu bằng chứng này.
Chính Chúa Giê-xu cũng công nhận sự bình đẳng của Đức Thánh Linh khi
Ngài ban mạng lịnh cho các môn đồ rằng:
Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Đức Cha, Đức Con và Đức
Thánh Linh mà làm phép báp têm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà
ta đã truyền cho các ngươi (Mat Mt 28:19-20).

Kể từ lúc đó, nhiều tín hữu đã theo thể thức nầy và chịu Báp-têm trong Danh
của Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh - là Đức Chúa Trời Tam nhất.
Hãy lưu ý rằng trong mạng lịnh này Chúa Giê-xu không dùng “ những
danh .” Đây cũng là một bằng chứng cho thấy sự hiệp nhất của Ba Ngôi Đức
Chúa Trời.
Sự hiệp nhất này được thấy cách rõ nét trong sự Giăng Báp-tít làm phép
Báp-têm cho Chúa Giê-xu.
1. Đọc GiGa 1:25-34 và LuLc 3:15-16, 21-22 và trả lời những câu hỏi sau:
a. Hãy nêu lên hai cách mà Đức Thánh Linh cùng kết hiệp trong lễ Báp-têm
của Chúa Giê-xu ?
...........................................................................................................................
....................
b. Câu Kinh thánh nào bày tỏ rằng Đức Chúa Cha cùng kết hiệp trong lễ
Báp-têm của Chúa Giê-xu ?
.......................................................................................................
Sự Chúc Phước Của Các Sứ Đồ
Một trong những lời chúc phước đầy tình yêu thương, được xử dụng thường
xuyên nhất trong Hội thánh là một bằng chứng khác của Kinh thánh về thần
tánh của Đức Thánh Linh. Trong IICo 2Cr 13:13, sứ đồ Phao-lô kết thúc thư
tín thứ hai gởi cho các tín hữu tại Hội thánh Côrinhtô với những lời như thế
nầy:
Nguyền xin ơn của Đức Chúa Giê-xu Christ, sự yêu thương của Đức Chúa
Trời, và sự giao thông của Đức Thánh Linh ở với anh em hết thảy!

Câu Kinh thánh nầy không chỉ liên kết Đức Thánh Linh với Đức Chúa Cha
và Đức Chúa Con trong danh xưng, mà còn trong cả chức vụ. Ba thuộc tính
được kể trên liên hệ đến chức vụ của Ba Ngôi trong Đức Chúa Trời Tam
Nhất cho chúng ta thấy phương cách hữu hiệu nhất mà mỗi Ngôi Vị hành
động trong đời sống chúng ta: Tình yêu bất diệt của Đức Chúa Cha, Đấng
yêu chúng ta đến nỗi ban chính Con độc sanh của Ngài; ân điển không hề
cùng của Cứu Chúa Giê-xu Christ chúng ta, Đấng chết vì cớ tội lỗi của mỗi
chúng ta; và mối thông công bền vững của Người Bạn thiên thượng của
chúng ta là Đức Thánh Linh. Khi chúng ta tiếp nhận tình yêu, ân điển và sự
thông công của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, chúng ta có đầy đủ mọi điều cần
thiết để tiếp tục tiến bước trên linh trình và duy trì một mối tương giao thân
mật với Đức Chúa Trời.
Những Đoạn Kinh thánh Khác
2. Đọc SaSt 1:1-2, 26. Qua những câu Kinh thánh nầy, hãy nêu lên những
cách mà Đức Thánh Linh cùng dự phần trong công cuộc Sáng tạo? Đại từ số
nhiều chúng ta trong câu 26 nói lên điều gì?
...........................................................................................................................
...................................................................................
3. Đọc Mat Mt 1:18-19. Đức Thánh Linh cùng dự phần trong sự giáng sinh
của Đấng Christ như thế nào?
.......................................................................................................
4. Đọc EsIs 61:1-2 và LuLc 4:14-21. Đức Thánh Linh cùng kết hiệp trong
chức vụ trên đất của Đấng Christ như thế nào?
....................................................................................................
Nếu bạn có một cuốn Kinh thánh Phù dẫn, bạn có thể làm phong phú bài học
bằng cách tra cứu những câu Kinh thánh bày tỏ sự hiệp nhất của Đức Thánh
Linh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Hãy liệt kê những câu Kinh
thánh bạn tìm được và ý nghĩa của mỗi câu.
5 Dựa trên những bằng chứng Kinh thánh chúng ta đã nghiên cứu, hãy chọn
phần hoàn chỉnh nhất cho câu sau: Thể thức Báp-têm, sự chúc phước của các
sứ đồ, công cuộc sáng tạo và sự giáng sanh của Chúa Giê-xu là những phần
Kinh thánh quan trọng bày tỏ rằng Đức Thánh Linh là
a) Đức Chúa Trời, với quyền năng cao hơn Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con.
b) là một Ngôi Vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, ngang bằng và hiệp nhất
cách trọn vẹn với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
c) Đức Chúa Trời, với quyền năng thấp hơn Đức Chúa Cha và Đức Chúa
con.
d) không phải là Đức Chúa Trời, nhưng là một sức mạnh siêu nhiên được
Đức Chúa Trời sử dụng để thực hiện ý muốn của Ngài.
NhỬng ThuỘc Tính ThẦn ThưỢng
Mục tiêu 2: Nghiên cứu những bằng chứng Kinh thánh về thần tánh của Đức
Thánh Linh qua những thuộc tính của Đức Chúa Trời .
Một bằng chứng khác về thần tánh của Đức Thánh Linh ấy là Ngài có những
thuộc tính chỉ có trong Đức Chúa Trời. Trong Bài 1 chúng tôi đã đề cập đến
một số đức tính thần thượng mà Đức Thánh Linh sở hữu. Bên cạnh những
đặc tính riêng của Đức Chúa Trời đã nói ở trên, Kinh thánh còn dạy chúng ta
rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời là Nguồn và Đấng ban sự sống (Cong Cv
17:24-25).
Thật thú vị là một số đoạn Kinh thánh xem những đặc tính ban sự sống nầy
cũng là của Đức Thánh Linh. Sự thật, một trong những danh hiệu của Đức
Thánh Linh là “Thánh Linh sự sống”. Sứ đồ Phao-lô nói cách rỏ ràng rằng
Đức Thánh Linh làm cho Chúa Giê-xu sống lại từ trong kẻ chết (RoRm
8:11), và Chúa Giê-xu cũng xác định điều tương tự khi bày tỏ rằng chính
Đức Thánh Linh là Đấng ban sự sống (GiGa 6:63) Trong thư tín thứ hai gởi
cho Hội thánh Côrinhtô, sứ đồ Phao-lô viết “Thánh Linh ban sự sống”. Sứ
đồ Phierơ cũng tuyên bố rằng Chúa Giê-xu “về phần xác thì Ngài đã chịu
chết, nhưng đã được làm cho sống bởi Đức Thánh Linh”(IPhi 1Pr 3:18 bản
Kinh thánh NIV).
6. Đọc những câu Kinh thánh (bên phải) rồi sắp xếp cho phù hợp với những
thuộc tính của Đức Chúa Trời (bên trái).
. . . a. Nhân tánh
. . . b. Đời đời
. . . c. Ba Ngôi Hiệp Nhất
. . . d. Thần
. . . e. Bất biến
. . . f. Một Đức Chúa Trời
1) GiGa 4:24
2) ICo1Cr 8:26
3) SaSt 2:18; EsIs 1:14; 55:8
4) GiGa 14:23-26
5) Thi Tv 90:1-2
6) 33:11; 102:25-27; MaMl 3:6.
Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu một số thuộc tính của Đức Chúa Trời được
Kinh thánh bày tỏ mà cả Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh
cùng có.
Ngài là Đấng Thánh Khiết
Danh xưng của Ngôi ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời thường xuất hiện
trong Kinh thánh là Đức Thánh Linh . Bởi vì chỉ một mình Đức Chúa Trời
có được phẩm chất thánh khiết trọn vẹn, nên danh xưng của Ngài bày tỏ thần
tánh của Ngài. Sứ đồ Phao-lô nhấn mạnh đến thuộc tính thánh khiết trọn vẹn
của Đức Thánh Linh khi ông xưng Ngài là “Thần Linh của Thánh
đức”(RoRm 1:4). Một số học giả Kinh thánh cho rằng từ ngữ “Thánh thay,
Thánh thay, Thánh thay” trong EsIs 6:3 và KhKh 4:8 là sự xác nhận bản
tánh của Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
Ngài là Đấng Đời Đời
Trong thơ HeDt 9:14, Đức Thánh Linh được xưng là Đức Thánh Linh đời
đời . Từ ngữ đời đời trong câu Kinh thánh nầy cũng được dùng để mô tả bản
tánh đời đời của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con trong những đoạn Kinh
thánh khác. Khác với Đức Thánh Linh, Thánh Phao-lô dạy rằng muôn vật,
dầu thấy được, dầu không thấy được (bao hàm luôn cả những thần linh khác)
đều được dựng nên theo kỳ đã định (CoCl 1:15, 16). Tuy nhiên, Đức Thánh
Linh là Đấng đời đời. Ngài không có khởi đầu và cũng không có kết thúc.
Ngài là Đấng đã có, hiện có và sẽ còn đến. Bản tánh đời đời của Ngài khởi
nguyên của thần tánh của Ngài.
Ngài là Đấng Tể Trị
Trong Bài 1 chúng ta học được rằng một trong những đặc tính của nhân tánh
của Đức Thánh Linh là ý muốn của Ngài. Ý muốn đó, ý muốn trọn vẹn, là
một biểu hiện của thần tánh Ngài.
Chúa Giê-xu so sánh Đức Thánh Linh như là gió “muốn thổi đi đâu thì
thổi”(GiGa 3:8). Bởi vì chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có thể làm điều
Ngài muốn, nên chúng ta sẽ thấy những bằng chứng xa hơn về thần tánh của
Đức Thánh Linh. Trong 1Côrinhtô 12, Phao-lô liên hệ đến quyền tể trị của
Đức Thánh Linh trong sự phân phát các ân tứ thuộc linh. Ông lưu ý chúng ta
rằng Đức Thánh Linh ban các ân tứ của Ngài theo ý Ngài: cho người nầy ân
tứ nầy, người khác ân tứ khác. Ngài thi hành quyền tể trị thần thượng của
Ngài, ấy là “theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người”
(ICo1Cr 12:11).
Từ ngữ tể trị có nghĩa là “sở hữu uy quyền tối thượng”. Không một uy
quyền nào cao hơn uy quyền của Đức Chúa Trời. Quyền tể trị của Đức
Thánh Linh là uy quyền tối thượng mà chỉ một mình Đức Chúa Trời sở hữu.
Việc Ngài đã tạo dựng chúng ta với một ý chí và khả năng chọn lựa chứng tỏ
Ngài chọn điều Ngài muốn làm. Ngài muốn chúng ta s ử dụng ý chí của
chúng ta trong việc chọn lựa sự hầu việc Ngài hơn là ép buộc chúng ta hầu
việc Ngài. Và ý muốn của chúng ta có thể thực hiện đầy đủ vai trò của nó là
bởi uy quyền tể trị của Ngài.
7. Đọc Cong Cv 13:2 và ICo1Cr 2:4; rồi hoàn chỉnh các câu sau:
a. Trong Cong Cv 13:2, uy quyền tể trị của Đức Thánh Linh được bày tỏ qua
................................... của Ngài cho các tiên tri và các giáo sư tại An-ti-ốt và
qua sự ................................... Banaba và Phao-lô.
b. Trong ICo1Cr 2:4, quyền tể trị của Đức Thánh Linh qua đời sống Phao-lô
cao hơn ............................................................................
Ngài là Đấng Vô Sở Bất Tại
Từ ngữ vô sở bất tại có nghĩa là “hiện diện khắp mọi nơi”. Đa-vít đã thốt lên
rằng “Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? . . . Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, Ví tôi
nằm dưới âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó.” (Thi Tv 139:7-8). Không một
nơi nào có thể ẩn núp được khỏi Đức Thánh Linh. Ngài hiện diện khắp mọi
nơi và trong mọi lúc.
Không một linh nào khác sở hữu được năng lực này. Ngay cả Sa-tan cũng
chỉ là loài thọ tạo, là kẻ bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nó phải nhờ
cậy vào những thiên sứ sa ngã khác để thực hiện công việc gian ác của mình.
Thánh Linh của Đức Chúa Trời không phải nhờ cậy vào một đội quân thần
linh kém uy quyền hơn để thực hiện chương trình cứu rỗi của Đức Chúa
Trời. Ngài hiện trong mỗi cá nhân để cáo trách mọi tội nhân (GiGa 16:7-11),
an ủi các thánh đồ (16:13; 14:16, 17). Ngài được Đức Chúa Cha và Đức
Chúa Con sai đến để cư trú trong lòng của mỗi tín hữu và đổ đầy quyền năng
thần thượng của Ngài trong họ (Cong Cv 1:8). Ngày hôm nay chúng ta đang
sống trong thời kỳ “những ngày cuối cùng” mà tiên tri Giô-ên đã nói đến, và
Đức Thánh Linh đã được “đổ xuống” trên mỗi tín hữu là những người tiếp
nhận Ngài. (Xem 2:16-18) Bạn đã kinh nghiệm được sự hiện diện thần
thượng của Đức Thánh Linh hành động trong đời sống bạn chưa?
Ngài là Đấng Vô Sở Bất Tri
Không một điều gì có thể che dấu khỏi Đức Thánh Linh - Ngài là Đấng vô
sở bất tri (biết tất cả mọi sự). Đức Thánh Linh biết trước từng chi tiết những
việc đã, đang và sẽ xảy ra. Sứ đồ Phao-lô bày tỏ sự toàn tri của Đức Thánh
Linh qua thư tín của ông gởi cho người Côrinhtô:
Song le, như có chép rằng: Ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng
người chưa nghĩ đến, nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn những điều ấy cho
những người yêu mến Ngài. Đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh để bày
tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sự
sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa. Vả, nếu không phải thần linh trong lòng
người, thì ai biết sự trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là
Thánh Linh của Đức Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự ở trong Đức Chúa Trời.
(ICo1Cr 2:9-11).
Ngài là Đấng Vô Sở Bất Năng
Đức Thánh Linh là Đấng “Toàn năng”. Ngài được xưng là “Quyền phép của
Đấng Rất Cao” (LuLc 1:35). Nói cách khác, quyền phép của Đức Thánh
Linh là quyền phép của Đức Chúa Trời. Quyền phép đó không có giới hạn -
“vì Đức Chúa Trời làm mọi sự được cả”(Mac Mc 10:27).
Đức Chúa Trời ban quyền phép của Đức Thánh Linh cho tôi tớ được Ngài
chọn lựa trãi suốt Kinh thánh như Đa-vít (ISa1Sm 16:13), Mi-chê (MiMk
3:8), các môn đồ (GiGa 20:19-23); và trên tất cả những người sẽ nhận lãnh
(Cong Cv 1:8).
Trong XaDr 4:6, lời của Đức Giê-Hô-Va phán cùng Xô-rô-ba-bên rằng: “Ấy
chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi
Thần Ta, Đức Giê-Hô-Va vạn quân phán vậy”. Câu Kinh thánh nầy cũng có
thể diễn đạt là “Ấy chẳng phải bởi quyền thế con người, cũng chẳng phải bởi
năng lực con người, bèn là bởi quyền phép Đức Thánh Linh của Ta, Đức
Giê-Hô-Va vạn quân phán vậy”. Stanley M. Horton nhấn mạnh rằng “ ‘bởi
Thần Ta’ là nguyên tắc cơ bản mà tất cả những ai đồng công với Đức Giê-
Hô-Va phải ghi khắc trong tâm trí”(Horton 1976, trang 74,75). Đây là đoạn
Kinh thánh xác định sự toàn năng của Đức Thánh Linh.
8. Hãy sắp xếp các thuộc tính và sự mô tả. Viết số bạn chọn lựa trước mỗi
khoảng trống.
1) Đấng Tể Trị
2) Vô sở bất tri
3) Thánh khiết
4) Vô sở bất năng
5) Đời đời
6) Vô sở bất tại
. . . a. Sự thanh sạch tuyệt đối
. . . b. Không có sự bắt đầu và kết thúc. Còn đến đời đời.
. . . c. Sở hữu quyền phép cao nhất có khả năng làm điều Ngài muốn.
. . . d. Biết tất cả mọi sự
. . . e. Hiện diện khắp mọi nơi
. . . f. Toàn năng
9. Đọc những đoạn Kinh thánh bày tỏ thần tánh của Đức Chúa Trời qua Đức
Chúa Cha và Đức Chúa Con trong biểu đồ dưới đây. Sau đó hãy hoàn chỉnh
biểu đồ bằng cách đưa ra những đoạn Kinh Thánh bày tỏ thần tánh của Đức
Thánh Linh qua những thuộc tính thần thượng của Ngài.
- Những thuộc tính của Đức Chúa Trời
a. Thánh khiết
b. Đời đời
c. Đấng Tể trị
d. Vô sở bất tại
e. Vô sở bất tri
f. Vô sở bất năng
- Đức Chúa Cha Thi Tv 22:3 XuXh 19:12-25 Thi Tv 90:2 102:27 Giop G
42:2
Thi Tv 139:7-12 Thi Tv 139:1-6 Thi Tv 139:13-19 Mat Mt 19:26
- Đức Chúa Con Cong Cv 3:14 MiMk 5:2 GiGa 1:1 Mat Mt 28:18 IPhi 1Pr
3:22 Mat Mt 18:20 Eph Ep 1:22-23 GiGa 2:24-25 CoCl 2:2-3 LuLc 7:11-17
- Đức Thánh Linh

SỰ XÁC NHẬN THẦN THƯỢNG


Mục tiêu 3: Dựa trên IIPhi 2Pr 1:20-21, giải thích tại sao chúng ta có thể
chấp nhận những lời xác nhận thần tánh của Đức Thánh Linh của những cá
nhân được ghi lại trong Kinh thánh .
Thần tánh của Đức Thánh Linh cũng được xác nhận qua của những cá nhân
trong Kinh thánh là những người xưng Ngài là Đức Chúa Trời. Si-mê-ôn,
Phierơ và sứ đồ Phao-lô là những gương điển hình của những người đưa ra
sự xác nhận đó.
Sự Xác Nhận của Si-mê-ôn
Trong sách Phúc âm theo Thánh Lu-ca chúng ta được dạy rằng Si-mê-ôn là
một người công bình và đạo đức sống tại Giê-ru-sa-lem. Là một người Giu-
đa, ông đang trông đợi sự xuất hiện của Đấng Mê-si. Kinh thánh dạy rằng
ông nhận được sự xác nhận của Đức Thánh Linh về sự kiện nầy:
Vả, trong thành Giê-ru-sa-lem có một người công bình đạo đức, tên là Si-
mê-ôn, trông đợi sự yên ủi dân Y-sơ-ra-ên, và Đức Thánh Linh ngự trên
người. Đức Thánh Linh đã bảo trước cho người biết mình sẽ không chết
trước khi thấy Đấng Christ của Chúa. Vậy, người cảm bởi Đức Thánh Linh
vào đền thờ, lúc đó cha mẹ đem con trẻ là Giê-xu đến . . . Người bồng ẳm
con trẻ mà ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa cho
tôi tớ Chúa được qua đời bình an, theo như lời Ngài; Vì con mắt tôi đã thấy
sự cứu vớt của Ngài”(LuLc 2:25-30).
Trong đoạn Kinh thánh trên sư toàn tri của Đức Thánh Linh được thể hiện
qua sự mặc khải những ý tưởng của Đức Chúa Trời của Ngài mà đối với Si-
mê-ôn ông không hiểu và không thể nào hiểu được. Theo thánh Phierơ, thì
lời tiên tri nầy xuất phát từ Đức Chúa Trời, và được truyền đạt bởi Đức
Thánh Linh toàn năng (IIPhi 2Pr 1:20-21). Bởi vì có một sự hiệp nhất trong
Đức Chúa Trời, nên điều gì có trong Ngôi vị nầy thì đều có trong những
Ngôi vị kia. Một lần nữa, thần tánh của Đức Thánh Linh được xác nhận.
Sự Xác Nhận của Phierơ
Một số tín hữu trong Hội thánh đầu tiên bán tài sản của họ và mang tiền đến
đặt dưới chân các sứ đồ để đóng góp vào nhu cầu chung (Cong Cv 4:32-36).
A-na-nia và Sa-phi-ra là hai vợ chồng trong số những tín hữu nầy. Họ cũng
bán tài sản và giữ lại một phần, nhưng nói dối rằng họ đã dâng tất cả cho
Hội thánh. Đức Thánh Linh đã tỏ cho sứ đồ Phierơ việc làm của họ.
10. Đọc 5:1-4 và hoàn chỉnh những câu sau :
a. “Hỡi A-na-nia, sao quỉ Sa-tan đã đầy dẫy lòng ngươi, đến nỗi ngươi nói
dối ..............................................................................”
b. “Ấy chẳng phải ngươi nói dối cùng loài người, bèn là .............”
Trong đoạn Kinh thánh nầy, Phierơ bày tỏ rằng nói dối cùng Đức Thánh
Linh là nói dối cùng Đức Chúa Trời.
Sự Xác Nhận của Phao-lô
Trong cả hai thư tín gởi cho Hội thánh Côrinhtô, sứ đồ Phao-lô đưa ra những
sự xác nhận, là những bằng cớ xa hơn về thần tánh của Đức Thánh Linh. Sự
xác nhận đầu tiên trong ICo1Cr 2:4-5: “Lời nói và sự giảng của tôi chẳng
phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra
Thánh Linh và quyền phép; hầu cho chớ lập đức tin mình trên sự khôn
ngoan của loài người, bèn là trên quyền phép của Đức Chúa Trời.” Ở đây,
Phao-lô xưng nhận thần tánh của Đức Thánh Linh, bởi vì ông đã xem quyền
phép của Đức Thánh Linh ngang bằng với quyền phép của Đức Chúa Trời.
Ông cũng đưa thêm một chứng cứ liên quan đến vấn đề nầy trong 3:16 :
“Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh
của Đức Chúa Trời ở trong anh em sao?” Điều nầy có nghĩa rằng tín hữu là
đền thờ của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời ngự vào qua Đức Thánh
Linh.
Lại nữa, trong thư tín thứ hai gởi cho Hội thánh Côrinhtô, Phao-lô dạy họ
rằng bức màn ngăn cản người Giu-đa hiểu biết Kinh thánh có thể được cất
bỏ nếu họ trở lại cùng Chúa. Rồi ông nói rằng:

Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng
ở đó. Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như
trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh
hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh (IICo 2Cr 3:16-17).
11. Đọc IIPhi 2Pr 1:20-21 rồi dựa trên đoạn Kinh thánh nầy giải thích tại sao
những sự xác nhận của Si-mê-ôn, Phierơ và Phao-lô có thể được xem là
những bằng cớ minh chứng thần tánh của Đức Thánh Linh.
...........................................................................................................................
...................................................................................

SỰ QUAN PHÒNG THẦN THƯỢNG


Mục tiêu 4: Chọn lựa những từ ngữ cho trước để giải thích phương cách mà
Đức Thánh Linh có thể quan phòng cho những nhu cầu của chúng ta .
Khi chúng ta trưởng thành trong sự hiểu biết thuộc linh, sự nghiên cứu
những bằng chứng trong Kinh thánh bày tỏ thần tánh của Đức Thánh Linh,
cũng như những thuộc tính thần thượng và vị trí của Ngài trong Ba Ngôi
Đức Chúa Trời là điều rất quan trọng. Không có sự hiểu biết nầy, chúng ta
không thể đạt đến sự đầy trọn của chức vụ Ngài cho chúng ta mỗi ngày,
cũng như không thể dành cho Ngài vị trí vinh hiển và tôn quí xứng đáng với
Ngài. Chúng ta thường bỏ sót nhiều điều quan trọng trong cuộc đời khi
chúng ta thiếu sự hiểu biết. Đức Chúa Trời phán qua tiên tri Ô-sê rằng: “Dân
ta bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết” (OsHs 4:6). “Bởi trong đất nầy . . . chẳng
có sự nhìn biết Đức Chúa Trời” (4:1). Cho đến chừng nào chúng ta chưa
hiểu được Đức Thánh Linh là ai và Ngài có thể làm điều gì cho chúng ta , và
cho cả nhân loại, thì chúng ta không thể đạt đến sự đầy trọn của sự quan
phòng thần thượng của Ngài.
Nhiều điều chúng ta đã học được về thần tánh của Đức Thánh Linh có sự
ứng dụng thực tế trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Ngài không hề
thiếu sự ao ước hay quyền năng để đáp ứng những nhu cầu của chúng ta. Là
thần, nên Đức Thánh Linh có đủ năng lực để đáp ứng mọi nhu cầu của
chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy nhìn qua những phương cách mà Ngài muốn
hành động qua cuộc đời của chúng ta. Chúng tôi sẽ tóm tắt cách ngắn gọn ở
đây, tuy nhiên chúng sẽ được khai triển đầy đủ hơn trong những bài học sau.
Mục đích của chúng tôi trong bài học nầy là chứng minh rằng bởi vì Đức
Thánh Linh là một trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, nên Ngài có đầy đủ khả
năng để cung cấp mọi điều chúng ta cần.
Ngài Đem Đến Sự Sống Tâm Linh
Khi Ni-cô-đem đến với Chúa Giê-xu, ông mong ước được học với Ngài như
một giáo sư từ Đức Chúa Trời sai đến. Ông vô cùng ngạc nhiên khi nghe
Chúa Giê-xu bảo rằng ông phải được sanh lại. Rồi Chúa Giê-xu tiếp tục
phán rằng: “Nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì
không được vào nước Đức Chúa Trời. Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ
chi sanh bởi Thánh Linh là thần.”
Sanh bởi Thánh Linh là tiếp nhận sự sống của Đức Chúa Trời. Không có sự
sống tâm linh, chúng ta không thể làm điều đẹp ý Đức Chúa Trời.
Trong thư Rô-ma, sứ đồ Phao-lô kể lại cuộc chiến đấu vô vọng của ông
trước khi ông để “Thánh Linh sự sống” buông tha ông khỏi luật của sự tội và
sự chết. Sự xưng nhận của ông cũng như của tất cả chúng ta, vì kinh nghiệm
của ông cũng là kinh nghiệm của chúng ta:
Bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn; vì tôi
không làm điều lành mình nuốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn
(RoRm 7:18-19).
12. Giải pháp cho nan đề nầy được tìm thấy trong 8:5-9. Hãy đọc và dựa trên
đoạn Kinh thánh nầy để xét những câu sau là ĐÚNG hay SAI. Khoanh tròn
các ký tự trước những câu ĐÚNG.
a. Nếu chúng ta để Đức Thánh Linh ban cho chúng ta sự sống tâm linh,
chúng ta sẽ mong muốn những điều Ngài mong muốn.
b. Nếu chúng ta sống theo bản ngã của mình, không cần sự giúp đỡ-ban-sự-
sống của Đức Thánh Linh, chúng ta cũng sẽ có thể chế ngự những ác dục
của mình.
c. Khi Đức Thánh Linh ban cho chúng ta sự sống thuộc linh và kiểm soát
tâm trí chúng ta, Ngài cũng sẽ ban cho chúng ta sự bình an của tâm trí.
d. Không có sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh thì không thể làm đẹp lòng
Đức Chúa Trời.
e. Khi Đức Thánh Linh ban sự sống tâm linh cho chúng ta, Ngài thật sự đang
sống trong chúng ta và kiểm soát đời sống chúng ta, buông tha chúng ta khỏi
những trách nhiệm của sự sống thuộc linh.
13. Đây là danh mục những đoạn Kinh thánh chúng ta đã học trong bài học
nầy: Cong Cv 17:24-25; RoRm 8:11; GiGa 6:63; IICo 2Cr 3:6; IPhi 1Pr
3:18. Sự quan trọng của những câu Kinh thánh nầy là gì khi bạn áp dụng
chúng vào những nhu cầu của chính bạn?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Ngài Nuôi Dưỡng Sự Thánh Khiết
Kinh thánh chép: “Không nên thánh thì chẳng ai được thấy Đức Chúa
Trời”(HeDt 12:14). Qua RoRm 8:5-9, chúng ta thấy rằng khi chúng ta đầu
phục sự kiểm soát của Đức Thánh Linh, chúng ta có thể duy trì sự sống
thuộc linh và sống công bình trước mặt Đức Chúa Trời. Bởi quyền năng của
Đức Thánh Linh đang sống trong chúng ta, chúng ta có thể vâng theo sự
khuyên dạy của Kinh thánh ấy là “Anh em phải thánh trong mọi cách ăn ở
mình”( IPhi 1Pr 1:14-15). Trong RoRm 6:22, Phao-lô nêu lên tránh nhiệm
của những người tân tín hữu. Được buông tha khỏi tội, người ấy trở nên tôi
tớ của Đức Chúa Trời. Một lợi điểm của sự làm tôi tớ nầy là sự thánh khiết.
Sứ đồ Phao-lô chỉ ra rằng phần của chúng ta là cọng tác với Đức Thánh
Linh, để Ngài thanh tẩy những điều có thể làm ô-uế đời sống thuộc linh của
chúng ta (so sánh 8:5-11 với ICo1Cr 7:1 và Eph Ep 4:22-24). Khi chúng ta
thất bại trong bổn phận thuộc linh của mình (RoRm 8:12-14), ấy là cùng
bước với Đức Thánh Linh (GaGl 5:25), chúng ta bị sửa phạt chỉ vì một mục
đích chính yếu là: “. . . để khiến chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết
Ngài(Đức Chúa Trời)” (HeDt 12:10). Cùng với sự kiểm soát của Đức Thánh
Linh, chúng ta sẽ tăng trưởng trong sự thánh khiết.
14. Đọc lại RoRm 8:5-17. Đoạn Kinh thánh nầy nêu lên cho chúng ta chìa
khóa của một nếp sống Cơ đốc tăng trưởng. Chìa khóa nầy là gì?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Ngài Ban Quyền Năng
Khi bạn đầu phục Đức Thánh Linh, để Ngài kiểm soát cuộc đời bạn, Ngài sẽ
ban cho bạn quyền năng:
Để làm chứng (Cong Cv 1:8)
Để chiến thắng (IGi1Ga 5:4-5)
Để phục vụ (ICo1Cr 12:4-11)
Để thử các thần và thắng hơn chúng (IGi1Ga 4:1-4)
Để vượt qua sự sợ hãi, lo lắng và những thử thách (IITi 2Tm 1:7; IICo 2Cr
6:4-10)
Bởi quyền năng của Đức Thánh Linh, bạn không cần phải sống một cuộc đời
làm tôi mọi cho sự sợ hãi. Ngài ban cho bạn sự can đảm thánh khiết để bạn
đối diện với trận chiến cuộc sống, và Ngài cũng ban cho bạn quyền năng để
chiến thắng ma quỉ. Sự nhận biết rằng Đấng ở với bạn là “Quyền Phép của
Đấng rất cao” sẽ ban cho bạn ý chí chống lại kẻ thù và đức tin để tin vào sự
chiến thắng những cuộc tấn công của chúng (Gia Gc 4:7; IGi1Ga 4:4). Bạn
có thể có được sự bình an và sự an ninh trong bất cứ tình huống nào bạn
phải đương đầu, bởi vì bạn biết rằng Đức Thánh Linh mà Chúa Giê-xu đã
ban xuống là Đấng bảo vệ và Đấng giúp đỡ bạn (GiGa 14:25-27).
15. (Chọn câu trả lời tốt nhất.) Theo như những đoạn Kinh thánh đã học,
chúng ta kết luận rằng có thể đạt đến một nếp sống Cơ đốc đắc thắng mà
không cần phải sợ hãi bởi vì
a) Tất cả các Cơ-đốc-nhân đều được hứa sẽ không bị những sự tấn công của
các thần gian ác.
b) Tín hữu nhận biết rằng những thần gian ác không có quyền phép.
c) Quyền phép của Đức Thánh Linh là vô hạn, qua đức tin vào quyền phép
của Ngài, Cơ-đốc-nhân có thể chiến thắng sự sợ hãi và sống đắc thắng.
Ngài Mang Lại Sự Thông Công
Khi Chúa Giê-xu đến trần gian trong thân thể con người, các môn đệ của
Ngài được đặc ân có mối thông công gần gủi với Ngài. Nhưng đây chỉ là
một mối thông công tạm thời. Nó sẽ chấm dứt 1) khi các môn đệ đã học bài
học khiến những người khác trở thành môn đệ và được chuẩn bị để tiếp nối
chức vụ của Ngài, và 2) khi sứ mạng cứu chuộc của Ngài hoàn thành. Khi
Chúa Giê-xu ở cuối chặng đường chức vụ, Ngài biết các môn đệ đang phải
nương dựa vào sự hiện diện của Ngài. Ngài biết họ sẽ giống như những kẻ
mồ côi khi không có Ngài. Để chuẩn bị họ khi Ngài sẽ về trời, ấy là thay thế
chỗ trống của Ngài, Chúa Giê-xu đã cầu xin Cha ban Đức Thánh Linh để thế
chỗ của Ngài:
Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-ủi khác, để
ở với các ngươi đời đời (GiGa 14:16). Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi:
Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu ta không đi, Đấng Yên-ủi sẽ không đến
cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài đến (GiGa 16:7).
Bởi vì Đức Chúa Trời đã ban Đức Thánh Linh để ở với chúng ta, làm người
Cố vấn và người Hướng dẫn của chúng ta, chúng ta không cần phải cảm
thấy đơn độc. Đức Thánh Linh, Đấng toàn tại, có thể cùng lúc ngự trong mỗi
tín hữu trên khắp thế giới. Đức tính nầy của Đức Chúa Trời cho phép Ngài
vừa ở cùng tôi khi tôi soạn bài nầy cũng như ở cùng bạn khi bạn học bài nầy.
Ngài luôn hiện diện để dạy dỗ, khích lệ chúng ta, để trở thành bạn hữu của
chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Trong khi Chúa Giê-xu chỉ có thể một nơi
trong cùng một lúc, thì Đức Thánh Linh hiện diện khắp mọi nơi. Phải chăng
đây là điều mà Chúa Giê-xu bảo rằng Ngài đi là ích lợi cho các môn đệ của
Ngài? Khi Ngài đi, Đấng Yên-ủi sẽ sống trong mỗi chúng ta để ban cho
chúng ta mối thông công mật thiết (ICo1Cr 3:16).
16. Hoàn chỉnh những câu sau với các từ ngữ sau:
vô sở bất năng vô sở bất tri sự sống
vô sở bất tại sự công bình
a. Đức Thánh Linh có thể ban cho tôi sự sống thuộc linh bởi vì Ngài là
Thánh Linh ......................................................................
b. Tôi có thể sống thánh khiết khi Đức Thánh Linh kiểm soát đời sống tôi và
ban cho tôi .......................................................của Đức Chúa Trời.
c. Tôi có thể nhận được quyền năng thuộc linh cho đời sống Cơ-đốc-nhân và
làm chứng bởi vì Đức Thánh Linh là ........................
d. Bởi vì Ngài là ................................................................., nên Đức Thánh
Linh là người bạn thiết hữu đời đời của tôi.
Bây giờ khi bạn đã thảo luận về thần tánh của Đức Thánh Linh và nhận ra
rằng Ngài mong muốn trở thành Bạn hữu và Người Hướng dẫn của bạn, bạn
hãy tự hỏi những câu hỏi sau: Tôi đã để Thánh Linh của Đức Chúa Trời ban
cho tôi sự sống thuộc linh qua đức tin vào sự hi sinh của Đấng Christ thế cho
tôi chưa? Ngài có đang hành động trong đời sống tôi để làm trọn sự thánh
khiết trong tôi, khiến tôi trở nên ảnh tượng của Đấng Christ không? Quyền
năng của Đức Thánh Linh có đang bày tỏ qua đời sống hằng ngày của tôi
không? Ngài có hiện diện trong cuộc đời tôi để ban cho tôi sự an ủi, sự khôn
ngoan và năng lực thiên thượng không? Tôi hi vọng bạn sẽ trả lời co cho tất
cả những câu hỏi nầy. Hãy đón nhận Ngài vào cuộc đời bạn để Ngài xử
dụng bạn qua quyền phép thiên thượng của Ngài!

Bài Tự Trắc Nghiệm


ĐÚNG - SAI. Nếu là câu ĐÚNG, hãy viết Đ ở khoảng trống. Nếu là câu
SAI, hãy viết S.
. . . 1. Chúng ta gọi Đức Thánh Linh là Ngôi Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa
Trời bởi vì Ngài được xếp thấp hơn Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
. . . 2. Từ ngữ Đức Chúa Trời Ba Ngôi nói lên ba Thân vị cùng là Đức Chúa
Trời với sự hiệp nhất trọn vẹn và cùng bình đẳng với nhau.
. . . 3. Một cách để chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh là Đấng thần thượng
ấy là Ngài sở hữu những thuộc tính của thần tánh.
. . . 4. Vô sở bất tri có nghĩa là Đức Thánh Linh có quyền năng làm được
mọi sự.
. . . 5. Ngày nay quyền năng của Đức Thánh Linh chỉ được đổ xuống trên
một số ít người được chọn trong một thời gian ngắn ngủi.
. . . 6. Chính Đức Chúa Giê-xu được Đức Thánh Linh ban quyền năng để thi
hành chức vụ của Ngài trên đất.
. . . 7. Rất nhiều chỗ trong Kinh thánh liên kết Đức Thánh Linh với Đức
Chúa Cha và Đức Chúa Con.
. . . 8. Đức Thánh Linh được ban xuống cho con người ngay sau khi Đấng
Christ phục sanh.
. . . 9. Phép Báp-têm của Chúa Giê-xu là một ví dụ của sự hiệp nhất trọn vẹn
của Ba Ngôi.
. . . 10. Việc Đức Thánh Linh ban sự sống tâm linh là một bằng chứng về
thần tánh của Ngài.
. . . 11. Đức Thánh Linh bị giới hạn ở một nơi trong cùng một thời gian.
. . . 12. Danh xưng của Đức Thánh Linh bày tỏ một trong những thuộc tính
của Ngài.
13. CHỌN LỰA. Khoanh tròn các ký tự trước những thuật ngữ có thể áp
dụng cho Đức Thánh Linh .
a) Đời đời
b) Nhục thể
c) Đấng tể trị
d) Giới hạn
e) Bất biến
f) Thánh khiết
g) Toàn năng
h) Toàn tại
I) Toàn tri
j) Như thiên sứ
k) Đấng ban sự sống
CÂU TRẢ LỜI NGẮN. Trả lời những câu hỏi sau cách ngắn gọn.
14. Bằng cách nào mà thể thức Báp-têm và sự chúc phước của các sứ đồ đưa
ra những bằng chứng về thần tánh của Đức Thánh Linh ?
...........................................................................................................................
...................................................................................
15. Bạn có thể đạt được điều gì từ sự nhận biết rằng Đức Thánh Linh là một
Ngôi Vị thần thượng?
...........................................................................................................................
................................................................................
Giải Đáp Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. a. Giăng Báp-tít nói cùng dân chúng rằng “Về phần ta, ta làm phép Báp-
têm cho các ngươi bằng nước”, nhưng ông nói rằng Chúa Giê-xu sẽ làm
phép Báp-têm “bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa”. Thứ hai, câu 32 nêu lên
rằng Đức Thánh Linh giáng trên Chúa Giê-xu trong hình chim bồ câu.
b. LuLc 3:22: Có tiếng của Đức Chúa Cha từ trên trời phán rằng: “Nầy là
Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng.”
2. Ngài đã sẵn sàng để bắt đầu công cuộc sáng tạo. Câu 26 cho thấy trạng
thái số nhiều trong Đức Chúa Trời. Sự dạy dỗ ấy là Đức Thánh Linh đã tham
gia trực tiếp trong công cuộc sáng tạo.
3. Trinh nữ Ma-ri thọ thai Chúa Giê-xu bởi quyền phép của Đức Thánh
Linh.
4. Như Ê-sai đã nói tiên tri, Đức Thánh Linh giáng trên Chúa Giê-xu để xức
dầu và ban quyền năng cho Chúa Giê-xu để Ngài làm trọn chức vụ mà Cha
giao phó.
5. b) một Ngôi vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, ngang bằng và hiệp nhất
cách trọn vẹn với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
6. a 3) SaSt 2:18; EsIs 1:14; 55:8. (Hãy nhớ các đức tính của nhân tánh được
đưa ra trong Bài 1).
b 5) Thi Tv 90:1-2.
c 4) GiGa 14:23-26.
d 1) 4:24.
e 6) Thi Tv 33:11; 102:25-27; MaMl 3:6.
f 2) ICo1Cr 8:6.
7. a Mạng lịnh, sự kêu gọi.
b Sự khôn ngoan của con người.
8. a 3) Thánh khiết.
b 5) Đời đời.
c 1) Đấng tể trị.
d 2) Vô sở bất tri.
e 6) Vô sở bất tại.
f 4) Vô sở bất năng.
9. Câu trả lời của bạn. Hoặc trong những câu sau:
a RoRm 1:4.
b HeDt 9:14.
c GiGa 3:8; ICo1Cr 2:4; Cong Cv 10:38.
d Thi Tv 139:7-8; GiGa 16:7-13; 14:16-17.
e ICo1Cr 2:9-11.
f LuLc 1:35; Cong Cv 1:8; XaDr 4:6.
10. a Đức Thánh Linh
b Đức Chúa Trời
11. IIPhi 2Pr 1:20-21 nói lên rằng những lời xác nhận nầy được Đức Chúa
Trời hà hơi và chúng không phải là kết quả của trí hiểu con người. Khúc
Kinh thánh nầy cũng cho thấy sự bình đẳng giữa Đức Chúa Trời và Đức
Thánh Linh trong sự khải thị lời tiên tri. Và thần tánh của Đức Thánh Linh
được nhắc đến một lần nữa.
12. a Đúng.
b Sai.
c Đúng.
d Đúng.
e Sai.
13. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ trả lời rằng: Bởi quyền năng thiên thượng của
Thánh Linh Đức Chúa Trời mà tôi có thể có được sự sống đời đời và được
giải phóng khỏi quyền lực của tội lỗi.
14. Chìa khóa được tìm thấy trong câu 13: Nhờ Đức Thánh Linh chúng ta
phải làm chết các việc của thân thể. Rồi thì chúng ta sẽ được ban cho sự
sống thuộc linh.
15. c) Quyền phép của Đức Thánh Linh là vô hạn.
16. a sự sống.
b sự công bình.
c vô sở bất năng
d vô sở bất tại.
ĐẤNG GIÚP ĐỠ
Thành phố quê hương tôi là một trung tâm sản xuất xe hơi, vì vậy sau khi tốt
nghiệp trung học, tôi vào làm việc trong một cơ xưởng xe hơi. Công việc
của tôi là đẩy những khung xe đến những dây chuyền kế tiếp. Công việc này
đòi hỏi hai người, nhưng người đốc công muốn giảm bớt chi phí nên bảo
rằng tôi sẽ phải làm việc một mình.
Một số khung xe rất to nên một người đẩy hết sức khó khăn, và đến cuối
ngày thì tôi đã sẵn sàng để nghỉ việc. Tôi đã quyết định rằng ngày mai sẽ là
ngày cuối cùng tôi làm việc, nhưng sáng hôm sau thì người đốc công cùng
đến với một người đàn ông vạm vỡ và nói rằng: “Bạn hãy làm quen với
người giúp đỡ mới nầy.” Và tất cả những khó khăn của tôi đều tan biến.
Khi Chúa Giê-xu sắp sửa chấm dứt chức vụ của Ngài trên đất, những môn
đệ đầy lo âu của Ngài phải đối diện với nhiệm vụ nặng nề mà họ phải thực
hiện nhưng không có sự giúp đỡ của Ngài. Mọi hi vọng của họ dường như
cũng bị đóng đinh với Chúa Giê-xu. Họ thất vọng và trở lại với nghề đánh
cá. Sau khi sống lại, Chúa Giê-xu hiện ra với các môn đồ và nhắc lại lời hứa
ban một Đấng Giúp đỡ khác.
Cuối cùng thì ngày Đức Thánh Linh giáng lâm để trở thành Đấng Giúp đỡ
của họ đã đến, các môn đồ hết sức vui mừng. Ngài là tất cả những gì họ cần,
sẵn sàng giúp đỡ họ làm trọn sứ mạng của Đấng Christ.

Chúng ta đã học được rằng Đức Thánh Linh là Đấng thần thượng và trọn
vẹn. Trong bài học nầy chúng ta sẽ học về những phương cách mà Đức
Thánh Linh giúp đỡ chúng ta qua sự tự cáo trách, sự tái sanh, sự dạy dỗ và
sự hướng dẫn. Bạn có cần sự giúp đỡ của Ngài cho điều gì trong những lãnh
vực nầy chăng? Hãy mở lòng bạn khi bạn học bài này, và để Đức Thánh
Linh làm Đấng Giúp đỡ riêng tư của bạn!
Dàn Ý Bài Học
Ngài Bắt Phục
Ngài Tái Sanh
Ngài Dạy dỗ
Ngài Hướng dẫn
Các Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học này bạn sẽ có thể:
Giải thích ý nghĩa của công tác bắt phục của Đức Thánh Linh dựa trên GiGa
16:7-11.
Thảo luận công tác của Đức Thánh Linh trong sự tái sanh.
Mô tả những khía cạnh khác nhau trong công tác dạy dỗ và hướng dẫn của
Đức Thánh Linh.
Chuẩn bị chính bạn cho chức vụ giúp đỡ của Đức Thánh Linh.
Những Họat Động Học Tập
Giống như những hoạt động học tập của Bài 1, khi bạn học bài này, hãy đọc
nội dung bài học, tìm và đọc những đoạn Kinh thánh trưng dẫn, và trả lời
các câu hỏi nghiên cứu.
Tìm định nghĩa những từ ngữ bạn không biết trong phần từ vựng ở cuối
sách.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra lại những câu trả lời của bạn.
Ôn lại Bài 1-3, sau đó trả lời những câu hỏi trong phần Đánh giá Tiến trình
Học tập theo Đơn vị 1.
Những Từ Then Chốt
xức dầu
người cầu thay
ăn năn
kinh sách
người diễn giải
khải thị, sự
cáo trách, sự
người hòa giải
công bình, sự
mở trí
an ủi
ấn chứng
cơ nghiệp
cứu chuộc, sự
xướng ngôn viên
hà hơi
tái sanh, sự
lời phát biểu
Khai Triển Bài Học
NGÀI BẮT PHỤC
Mục tiêu 1: Nhận diện những câu đúng liên quan đến chức vụ của Đức
Thánh Linh trong việc cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự
phán xét .
Công tác đầu tiên của Đức Thánh Linh trong con người được Chúa Giê-xu
giải thích khi Ngài hứa ban cho các môn đệ một Đấng Giúp đỡ. Đây là
những lời của Ngài:
Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu ta
không đi, Đấng Yên-ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì
ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự
công bình và về sự phán xét. Về tội lỗi, vì họ không tin ta; về sự công bình,
vì ta đi đến cùng Cha, và các ngươi chẳng thấy ta nữa; về sự phán xét, vì vua
Chúa thế gian này đã bị đoán xét. (GiGa 16:7-11).
Thế gian đã tự lập lên cho mình những tiêu chuẩn về tội lỗi và sự công bình ,
và điều nầy dường như họ chối bỏ sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời về sự
phán xét . Chỉ bởi tình yêu vĩ đại của Đức Chúa Trời đối với con người mà
Ngài ban Đức Thánh Linh để cáo trách tội nhân về những việc làm tội lỗi
của họ. Đức Thánh Linh làm việc trong lòng người không tin để khiến họ
quay về cùng Chúa, nhưng Ngài sử dụng những tín hữu để làm chứng cho
những người chưa tin về Chúa Giê-xu và sống một cuộc đời thánh khiết
trước mặt họ. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng qua tín hữu Đức Thánh Linh
lên án thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét. Ngài là Đấng
giúp đỡ chúng ta trong việc đem những tội nhân về với Đấng Christ.
Về Tội Lỗi
Khi tôi kêu gọi trong một buổi truyền giáo, một bé gái nhỏ 8 tuổi rất xinh
đẹp đã đáp lời. Em quì xuống với đôi dòng nước mắt tuôn trào và cầu
nguyện rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con là một tội nhân ghê tởm!”
Tôi không biết cô bé có phạm tội gì mà thế gian gọi là “ghê tởm” hay không,
tuy nhiên Đức Thánh Linh đã chỉ cho cô thấy vẻ đẹp của Chúa Giê-xu, và cô
đã thốt lên nhu cầu cần được cứu của mình. Thế gian thường không xem sự
không tin vào Đức Chúa Trờilà một tội thật sự và chối bỏ món quà vô giá
của Con Ngài, và đó là tội lớn hơn hết thảy. Chính Đức Thánh Linh bày tỏ
cho cô gái nhỏ thấy được tình trạng tội lỗi của mình. Chỉ có Đức Thánh Linh
mới có thể đem con người đối diện với thực trạng của mình và sự chối bỏ
Đấng Christ làm Cứu Chúa. Và cũng chỉ có Đức Thánh Linh mới có thể cáo
trách tội nhân để họ chạy đến với Đấng Christ, ăn năn và tìm sự tha thứ cho
tội lỗi của họ. Nhiều khi Đức Thánh Linh cáo trách tội nhân khi họ lắng
nghe sứ điệp Phúc âm (Cong Cv 2:14-41). Hoặc trong những lần khác, sự
cáo trách đến khi một tội nhân nghe lời chứng của một tín hữu được Thánh
Linh xức dầu, là người đã tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình.
1 Đức Thánh Linh khiến thế gian tự cáo về tội lỗi bằng cách:
a) ban cho những người chưa tin sự hướng dẫn trong những vấn đề thuộc
linh.
b) giới thiệu Chúa Giê-xu như là tấm gương của một đời sống làm đẹp lòng
Đức Chúa Trời (như Ngài đòi hỏi).
c) khiến tội nhân nhận thức sự không xứng đáng của họ khi nhận sự thương
xót của Đức Chúa Trời.
Về Sự Công Bình
Chúa Giê-xu phán rằng Đức Thánh Linh sẽ cáo trách (hay bắt phục) thế gian
về sự công bình vì Ngài sẽ đi về cùng Cha.
Việc Chúa Giê-xu đi về cùng Cha là bằng chứng cho thấy rằng những gì
Ngài đã nói về chính Ngài là thật. Nếu Ngài không phải là Đấng Công bình,
thì Ngài chết cho tội lỗi của chính Ngài chứ không phải của chúng ta. Thân
thể Ngài sẽ phải nằm trong phần mộ và bị tan rã như bao tội nhân khác.
Nhưng Ngài là Đấng Công bình, Ngài đã trả giá thay cho tội lỗi của chúng
ta, Ngài sống lại từ trong kẻ chết, và Ngài đi về cùng Cha. Đây là lý do
Phierơ giới thiệu những lẽ thật nầy cách mạnh mẽ trong ngày Lễ Ngũ Tuần
(Cong Cv 2:14-41).
Sứ đồ Phao-lô dạy trong RoRm 1:4 rằng Chúa Giê-xu “theo Thần linh của
thánh đức, thì bởi sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết, được tỏ ra là Con
Đức Chúa Trời có quyền phép”. Chính Thần linh của thánh đức làm chứng
cho sự công bình của Chúa Giê-xu Christ. Ngài tôn vinh Đấng Christ bằng
cách giải bày những sự thuộc về Đấng Christ cho thế gian (GiGa 16:14).

2 Theo sách công vụ, hai câu nào trong những câu sau là bằng chứng về sự
công bình của Đức Chúa Giê-xu Christ?
a) Sự dạy dỗ của Ngài
b) Sự chết của Ngài trên thập tự giá
c) Sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết
d) Sự trở về cùng Cha của Ngài
e) Chức vụ của Ngài giữa con người
Về Sự Phán Xét
Sự phán xét mà Đức Thánh Linh dùng để cáo trách con người rằng họ chắc
chắn sẽ bị phán xét ấy là sự phán xét Sa-tan. Chúa Giê-xu đã đánh bại Sa-
tan, chiến thắng địa ngục và mộ phần, là tất cả những gì cần thiết để chứng
minh rằng sự phán xét sau cùng là điều chắc chắn.
Nếu sự rao giảng về sự phán xét không bày tỏ tình yêu và sự quan tâm của
Đức Thánh Linh, không nhấn mạnh đến sự chiến thắng của Đấng Christ, thì
nó chỉ làm cho con người càng cách xa Đức Chúa Trời mà thôi. Chúa Giê-
xu đã rất đau đớn khi Ngài cảnh cáo thành Giê-ru-sa-lem về sự phán xét sẽ
đến, Ngài chẳng bao giờ lấy làm vui khi những kẻ chống đối Ngài chịu hình
phạt (Mat Mt 23:37-38).
Trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chúng ta có thể tìm thấy những cách mà
Đức Thánh Linh xử dụng các sứ đồ để cáo trách con người về tội lỗi, về sự
công bình và về sự phán xét. Sứ đồ Phierơ trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã rao
giảng về điều này cho dân chúng (Horton, 1976, tr 127). Đây là những gì đã
xảy ra:
Có sự cáo trách tội bởi vì những gì họ đã làm cho Chúa Giê-xu do lòng vô
tín của họ (Cong Cv 2:22-23).
Có sự cáo trách về sự công bình khi dân chúng nhận biết rằng Đức Chúa
Trời không để cho Đấng Thánh của Ngài thấy sự hư nát, nhưng khiến Ngài
sống lại và ngồi bên hữu ngai của Ngài (2:27, 30-33, 36).
Có sự cáo trách về sự phán xét: “Phierơ lại lấy nhiều lời giảng nữa mà giục
lòng và khuyên lơn chúng rằng: Các ngươi khá cứu mình thoát khỏi giữa
dòng dõi gian tà này !”(2:40).
Kết quả là trước tiên dân chúng bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng. Rồi thì họ ăn
năn và tin nhận sứ điệp của Phierơ. Có khoảng 3000 người được cứu thêm
vào Hội thánh.
Những thí dụ khác được tìm thấy trong 3:14-21; 4:10-12; 10:39-42 và 13:27-
41.
Ngày hôm nay Đức Thánh Linh vẫn là Đấng Giúp Đỡ chúng ta đem sứ điệp
cứu rỗi đến cho thế gian. Ngài sẽ xử dụng chúng ta để cáo trách con người
về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét.
3. Khoanh tròn các ký tự trước những câu ĐÚNG mô tả công tác của Đức
Thánh Linh trong việc cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự
phán xét dựa trên phần đã thảo luận.
a. Tội đem lại sự phán xét sau cùng là tội vô tín.
b. Sự phán xét mà Đức Thánh Linh cáo trách chúng ta là sự phán xét tội
nhân.
c. Sự phục sinh của Đấng Christ là bằng chứng cho sự công bình của Ngài.
d. Công tác của Đức Thánh Linh đối với thế gian chủ yếu là do những tín
hữu làm chứng bởi đời sống và lời chứng của họ.
e. Việc Chúa Giê-xu nhấn mạnh sự phán xét có nghĩa là tội nhân đáng bị
phán xét.
NGÀI TÁI SANH
Mục tiêu 2: Kể ra ba điều mà Đức Linh làm cho chúng ta khi chúng ta tiếp
nhận sự cứu rỗi .
Trong bài học sau chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn về công tác tái sinh của Đức
Thánh Linh. Tuy nhiên nó được nói đến trong bài học nầy để cho thấy phần
xa hơn trong chức vụ của Đức Thánh Linh khi Ngài là Người Bạn giúp đỡ
của chúng ta qua sự cáo trách về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét
bởi vì Ngài là Bạn Hữu, là Giáo Sư và là Người Hướng Dẫn của chúng ta.
Trước khi chúng ta kinh nghiệm được sự giúp đỡ của Đấng An-ủi trong đời
sống hằng ngày của chúng ta, chúng ta phải kinh nghiệm được sự tái sanh.
Nói đến sự tái sanh chúng ta có ý nói đến “sự sanh lại”. Đây là điều sẽ xảy
ra khi chúng ta từ bỏ tội lỗi và tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu Christ làm Chúa
và Cứu Chúa. Chính Đức Thánh Linh hành động thay cho Cha và Con, ban
sự sống thuộc linh cho tội nhân ăn năn (GiGa 3:3-8; 6:63; Tit Tt 3:4-5).
Trong giây phút được tái sanh, Đức Thánh Linh ngự trong chúng ta; ấy là,
Ngài sống trong chúng ta và luôn hiện diện để giúp đỡ chúng ta (GiGa
14:16-17).
4. Đọc RoRm 8:9, 11; ICo1Cr 3:16; 6:19 và giải thích lẽ thật của những
đoạn Kinh thánh nầy bằng cách hoàn chỉnh câu sau:
Trong giây phút chúng ta tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình,
Đức Thánh Linh ..........................................................
Sau khi đem chúng ta vào sự sống tâm linh, Đức Thánh Linh cư trú trong
mỗi tín hữu. Khi Ngài ngự trong chúng ta, Ngài là ấn chứng của Đức Chúa
Trời - là của cầm bảo đảm cho cơ nghiệp thuộc linh trong tương lai của
chúng ta:
Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi đã nghe đạo chơn thật, là đạo tin
lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn
chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về
cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để
khen ngợi sự vinh hiển Ngài (Eph Ep 1:13-14).
5. Dựa trên nền tảng trong GiGa 14:1-3; Eph Ep 1:12-13 và IICo 2Cr 1:22,
Đức Thánh Linh được gọi là của cầm của chúng ta bởi vì:
...........................................................................................................................
...................................................................................
Ấn chứng của Đức Thánh Linh tượng trưng cho sự an ninh mà chúng ta có
trong Ngài khi Ngài kiểm soát cuộc đời chúng ta. Nó cũng xác chứng cho
quyền làm con của chúng ta, nghĩa là chúng ta sẽ được hưởng cơ nghiệp của
Cha trên trời (RoRm 8:15-17; GaGl 4:6).
Vì vậy Đức Thánh Linh bắt đầu sự sống thuộc linh trong chúng ta trong kinh
nghiệm tái sinh. Khi Ngài ở trong chúng ta, Ngài là Đấng kiểm soát cuộc đời
chúng ta. Sự hiện diện của Ngài mang lại cho chúng ta lòng can đảm. Ngài
làm cho quyền làm con của chúng ta có ý nghĩa bởi 1) xác chứng cho tính
chân thật của nó (RoRm 8:16), 2) đặt để trong chúng ta niềm hy vọng khi
chúng ta nhìn về cơ nghiệp tương lai được dành sẵn cho chúng ta, 3) cầu
nguyện và cầu thay cho chúng ta để chúng ta có thể cầu nguyện theo ý muốn
của Đức Chúa Trời (RoRm 8:16-17), và 4) nhắc nhở chúng ta rằng công tác
của Ngài trong đời sống chúng ta là ấn chứng của sự hiện diện của Đức
Chúa Trời là điều mang lại sự giúp đỡ để chúng ta duy trì một đời sống
thuộc linh đẹp lòng Đức Chúa Trời.
6. Kể tên ba điều chúng ta đã thảo luận trong phần này mà Đức Thánh Linh
làm cho chúng ta trong giây phút chúng ta được tái sinh.
.......................................................................................................
NGÀI DẠY DỖ
Mục tiêu 3: Xác định điều mà Chúa Giê-xu muốn nói khi Ngài bảo rằng Đức
Thánh Linh sẽ dạy chúng ta “mọi sự ”.
Truyền đạt lẽ thật cho tín hữu là một trong những phương cách quan trọng
mà Đức Thánh Linh dùng để giúp đỡ con người. Đây là lý do Chúa Giê-xu
gọi Thánh Linh là Thần lẽ thật trong cùng một câu với danh hiệu Người Cố
Vấn hay Đấng An-ủi (GiGa 14:16-17). Dạy dỗ và hướng dẫn gắn liền với
chức vụ của Đức Thánh Linh. Hãy nhớ rằng đây là chức vụ đối với tín hữu .
Người Hướng Dẫn
Như Chúa Giê-xu đến để giải bày bản tánh và ý muốn của Đức Chúa Cha,
Đức Thánh Linh cũng đến để giải bày bản tánh và ý muốn của Chúa Giê-xu
(GiGa 14:20-21, 23-26). Một cách Ngài thực hiện điều này thời xưa là hàn
hơi trên các môn đệ của Chúa Giê-xu để họ chép lại cuộc đời và chức vụ của
Chủ mình. Đó là những sách Phúc âm: Mathiơ, Mác, Lu-ca và Giăng.
Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ bằng cách nào? Trước hết, Ngài tôn vinh Đấng
Christ . Ngài không dạy một khối lượng kiến thức hoàn toàn mới mẽ; nhưng
chiếu rọi ánh sáng trên những gì Đấng Christ đã dạy dỗ, làm cho người nghe
thông hiểu lẽ thật. Khi tín hữu càng trưởng thành về mặt thuộc linh, họ sẽ có
thể gánh vác những trách nhiệm nặng nề hơn. Họ sẽ thay sữa bằng thức ăn
cứng (ICo1Cr 3:2; Hêbơrơ 5:11-14;). Trong khi chế độ ăn thuôc linh thay
đổi, thì Đấng Christ là chủ thể, vẫn cứ y nguyên.
Đấng An-ủi không bỏ xót điều gì quan trọng để bạn hiểu biết về Đấng
Christ. Chúa Giê-xu hứa rằng: “Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự” (GiGa
14:26). Bạn sẽ boăn khoăn tự hỏi rằng: “Vậy thì có quan tâm đến công việc,
gia đình cũng như hoàn cảnh sống của tôi không?” Vâng, Đức Chúa Trời có
quan tâm! Tuy nhiên Chúa Giê-xu dạy chúng ta phải họcbiết được sự ưu
tiên: “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình
của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều (những nhu cầu về vật
chất, thân thể, xã hội và nghỉ ngơi) ấy nữa”(Mat Mt 6:33). Đức Thánh Linh
dạy chúng ta biết cách xắp xếp cuộc đời chúng ta xứng hợp trong lãnh vực
thuộc linh, và rồi cùng với sự kiểm soát của Ngài trên đời sống chúng ta,
Ngài hướng dẫn chúng ta trong những lãnh vực khác của cuộc sống. Chính
Đức Thánh Linh bày tỏ cho chúng ta những điều sâu nhiệm của Đức Chúa
Trời và giúp đỡ chúng ta hiểu được những điều thuộc linh (ICo1Cr 2:10-15).
Trong tất cả những điều này, mục đích của Ngài là tôn vinh Đấng Christ.
Stanley M. Horton nói rằng: “Đức Thánh Linh luôn luôn giải bày Chúa Giê-
xu như tất cả những gì Kinh thánh nói về Ngài” (1976,tr 121).

Thứ hai, Đức Thánh Linh sẽ dạy chúng ta hiểu biết về những việc trong
tương lai . Chúa Giê-xu phán: “Ngài ... sẽ tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ
đến” (GiGa 16:13). Lời hứa nầy trở nên rõ rằng hơn khi sứ đồ Giăng được
linh cảm trong Ngày của Chúa và được ban cho sự mặc khải của Đức Chúa
Giê-xu Christ (KhKh 1:10). Giăng được bảo rằng những điều này sẽ được
ứng nghiệm . Sự khải thị bao gồm những việc sẽ xảy ra từ thế kỷ thứ nhất
sau Chúa cho đến thời kỳ Trời Mới và Đất Mới (KhKh 21:1-20). Phao-lô,
cùng được linh cảm như vậy, đã nói tiên tri về sự hiện đến của
Chúa(1Têsalônica 4: 13-18), những sự kiện chung quanh sự hiện đến của
Ngài (ITe1Tx 5:1-11), sự phán xét của Đức Chúa Trời trên những kẻ không
tin (2Tês 1:5-12;), và sự xuất hiện của kẻ vô luật pháp (IITe 2Tx 2:1-12).
Phierơ cũng nói về ngày hiện đến của Chúa (IIPhi 2Pr 3:1-13). Điểm chung
mà chúng ta thấy trong tất cả những sự kiện nầy là sự Khải thị về sự vinh
hiển của Đức Chúa Giê-xu Christ.
7 Chủ đề trong suốt sách Khải thị là gì?
a) Sự phán xét tội nhân
b) Vinh hiển của Đức Chúa Giê-xu Christ
c) Những chiến thắng cuối cùng của Sa-tan
8 Dựa trên phần đã thảo luận, khi Chúa Giê-xu bảo rằng Đức Thánh Linh sẽ
dạy chúng ta “mọi điều”, Ngài muốn nói đến điều gì? Khoanh tròn ký tự
trước những câu trả lời bạn chọn.
a) Tất cả những gì Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết về Ngài
b) Tất cả những gì chúng ta cần biết về công tác của chúng ta
c) Những sự kiện khoa học về cuộc sống trong tương lai của chúng ta trên
đất
d) Tất cả những gì Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết về Chúa Giê-xu
e) Những điều thuộc về Đức Thánh Linh giúp chúng ta tôn vinh Đấng Christ
f) Những sự kiện trong tương lai liên hệ đến sự sống thuộc linh của chúng ta
g) Làm thế nào để thành công về mặt tài chánh
h) Làm thế nào để cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự
phán xét
Đấng Dạy Dỗ
Mục tiêu 4: Mô tả vai trò liên quan đến Kinh thánh của Đức Thánh Linh .
Khi các sách Tin lành được viết ra, Đức Thánh Linh bắt đầu chức vụ dạy dỗ
của Ngài. Sứ đồ Phao-lô là người được chọn để cắt nghĩa các sách Phúc âm
cho Hội thánh. Chức vụ sứ đồ của ông là một phần quan trọng của Thánh
Kinh Tân ước tiếp theo các sách Phúc Âm và sách Công Vụ Các Sứ Đồ.
Những sứ đồ khác và những người tin Kinh thánh Tân ước đều được Đức
Thánh Linh hà hơi và lấy điều thuộc về Đấng Christ mà rao bảo (GiGa
16:14). Vậy thì đều này xảy ra như thế nào?
Thơ Phierơ thứ hai chương 1 câu 20-21 và IITi 2Tm 3:16 bày tỏ cơ cấu của
sự khải thị Kinh thánh. Những sự nghiên cứu Kinh thánh cho thấy rằng Đức
Thánh Linh hà hơi trên những người ghi lại Lời của Đức Chúa Trời được
ban cho họ. Không phải những trước giả Kinh thánh đã khởi xướng việc ghi
chép, mà họ nói và viết lại Lời của Đức Chúa Trời cách chân thật theo như
điều Đức Thánh Linh thúc đẩy họ. Những sinh viên nghiên cứu Lời của Đức
Chúa Trời cách nghiêm túc sẽ nhận thấy rằng trong khi Kinh thánh là Lời
của Đức Chúa Trời, nó được ghi lại theo phong cách và từ ngữ riêng của
mỗi tác giả, và trong một số trường hợp, kinh nghiệm của tác giả được biểu
lộ qua Kinh thánh. Các tác giả không phải là những người máy; họ rất nhạy
bén với Thánh Linh của Đức Chúa Trời và ghi chép cách chính xác lại sứ
điệp của Đức Chúa Trời, cống hiến tài năng của họ vào trong tiến trình này.
Mặc dù sự ghi chép Kinh thánh đã chấm dứt, và tất cả những gì Đức Chúa
Trời muốn bày tỏ điều đã được ghi lại, Đức Thánh Linh vẫn tiếp tục chức vụ
dạy dỗ của Ngài. Ngài lấy những điều đã được ghi chép trong Kinh thánh và
soi sáng chúng (làm cho chúng trở nên rõ ràng hơn) cho tấm lòng và tâm trí
của mỗi tín hữu.
Cách tốt nhất để hiểu một quyển sách là hỏi chính tác giả của cuốn sách ấy ý
nghĩa của những gì ông đã viết ra. Vấn đề là, những tác giả bên cạnh chúng
ta thì không có nhiều, nhưng Đức Thánh Linh thì có. Tất cả những tác giả
Kinh thánh đều đã chết nhiều thế kỷ trước đây. Tuy nhiên thật được an ủi
biết bao khi biết rằng Vị Tác giả thiên thượng ở với chúng ta đời đời! Mỗi
khi bạn mở Kinh thánh ra, Đấng Giúp Đỡ cá nhân của bạn ở cạnh bạn để
giúp đỡ bạn hiểu biết Kinh thánh.
9 Dựa trên những đoạn Kinh thánh đã học, câu nào là câu mô tả đúng nhất
về vai trò của Đức Thánh Linh trong việc ghi chép Kinh thánh?
a) Đức Thánh Linh khiến con người viết ra những gì Ngài mặc khải trong
cùng một văn phong, từ ngữ và hình thức trình bày để mỗi phần trong Kinh
thánh đều giống như các phần khác.
b) Khi Đức Thánh Linh giáng trên những người thánh của Đức Chúa Trời,
họ rơi vào trạng thái xuất thần. Trong vô thức, họ chỉ ghi chép lại những gì
được đọc cho. Trong chiều hướng này, Đức Thánh Linh không xử dụng văn
phong, từ ngữ hoặc hình thức trình bày của tác giả.
c) Đức Thánh Linh thúc đẩy những người được chọn của Đức Chúa Trời để
nói tiên tri. Khi Đức Thánh Linh giáng trên họ, họ trung tín ghi chép lại sứ
điệp của Đức Chúa Trời. Trong tiến trình truyền đạt sứ điêp đó, Đức Thánh
Linh xử dụng văn phong, từ ngữ và kinh nghiệm của mỗi tác giả.

Người Phát Ngôn


Mục tiêu 5: Liên kết từ ngữ người phát ngôn với chức vụ của Chúa Giê-xu,
Đức Thánh Linh và tín hữu .
Sau khi Chúa Giê-xu trở về cùng Cha, Đấng An-ủi sẽ là người phát ngôn của
Đức Chúa Trời. Người phát ngôn là người nói thay cho một người khác.
Chúa Giê-xu đã là một chứng nhân và một người phát ngôn trọn vẹn của
Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã chấm dứt công tác mà Cha giao phó. Chúa
Giê-xu phán cùng các môn đệ của Ngài rằng khi Thần lẽ thật đến, Ngài sẽ
nói (GiGa 16:13).
Chúa Giê-xu, là người phát ngôn của Đức Chúa Trời, phán rằng: “Đạo lý
của ta chẳng phải bởi ta, nhưng bởi Đấng đã sai ta đến”(7:16). Và điều này
cũng đúng với Đấng An-ủi: “Ngài nói mọi điều mình đã nghe”(16:13).
Sự khác nhau ấy là, trong khi Chúa Giê-xu nói qua thân thể vật lý của Ngài,
thì Đức Thánh Linh nói qua các tín hữu. Khi chúng ta nói cho Đức Thánh
Linh, thường thì đó là sứ điệp mà Ngài đã ban cho chúng ta khi chúng ta học
Lời của Đức Chúa Trời. Ngài khích lệ và xức dầu khi chúng ta nghiên cứu,
và chúng ta trở nên người phát ngôn cho Đức Chúa Trời. Bằng cách nầy,
Đức Chúa Trời có thể có những người phát ngôn trên khắp cả trái đất trong
cùng một thời gian, vì Đấng Giúp Đỡ của chúng ta là Đấng vô sở bất tại.
Ngài có thể nói qua mỗi chúng ta khi chúng ta lắng nghe Ngài và để Ngài
nói qua chúng ta.
Sau nầy khi chúng ta tiếp tục học,chúng ta sẽ thấy có những lúc Đức Thánh
Linh nói trực tiếp qua chúng ta bởi những ân tứ thuộc linh. Thật sự thì chúng
ta đang nói, nhưng Ngài ban lời nói cho chúng ta vào thời điểm ân tứ đang
vận hành. Bất cứ tín hữu nào cũng có thể nói cho Đức Chúa Trời, nhưng chỉ
khi người ấy nhận được sứ điệp từ Đức Thánh Linh (ICo1Cr 12:1-10).
10. Đọc GiGa 14:7, 26, trả lời những câu hỏi sau:
a. Người phát ngôn nào bày tỏ về Đức Chúa Trời cho chúng ta?
b. Người phát ngôn nào bày tỏ về Đức Chúa Giê-xu cho chúng
ta?.............................
c. Khi Đức Thánh Linh phán qua chúng ta, Ngài sẽ nhắc nhở cho chúng ta
điều gì?.......................................................................
d. Là một người phát ngôn có nghĩa là:..........................................
.......................................................................................................
NGÀI HƯỚNG DẪN
Mục tiêu 6: Sắp xếp các khía cạnh khác nhau trong chức vụ của Đức Thánh
Linh với các định nghĩa của chúng .
Trong Bài học 1 chúng ta đã học về một từ ngữ Hy lạp là Paraclete được
chép trong GiGa 14:16, và được dịch ra trong các bản Kinh thánh khác nhau
là Đấng An ủi Đấng Giúp Đỡ hay Đấng Hướng Dẫn . Từ ngữ này có nghĩa
là “đấng ở bên cạnh để giúp đỡ.” Khi suy nghĩ về Đức Thánh Linh như là
một người bạn, ý nghĩ của chúng ta sẽ hướng về một người cầu thay, hướng
dẫn và an ủi chúng ta. Tất cả những khía cạnh này trong chức vụ của Đức
Thánh Linh đối với chúng ta hài hòa trong ý nghĩa về đấng ở bên cạnh để
giúp đỡ. làm thế nào để chúng ta áp dụng những chức vụ này trong đời sống
cá nhân của chúng ta.
Đấng Cầu Thay
Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta
chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính
Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho
chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể
nào, vì ấy là theo ý muốn Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ
vậy (RoRm 8:26-27).
Ở đây, sứ đồ Phao-lô liên hệ Đức Thánh Linh như là một Đấng Cầu Thay
cho chúng ta (người cầu nguyện thay cho một người khác). Trong những khi
chúng ta yếu đuối, chúng ta không biết mình phải cầu nguyện điều gì và cầu
nguyện như thế nào. Những khi bối rối, chúng ta thường không hiểu mình
thật sự cần điều gì làm thế nào để tìm ra những giải pháp thích hợp. Có thể
chúng ta muốn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và thực hiện ý muốn của Ngài
hơn bất cứ điều gì khác, tuy nhiên chúng ta không biết làm thế nào để dung
hòa những khó khăn hiện tại với mục đích to lớn của Đức Chúa Trời đem
chúng ta đến sự trưởng thành thuộc linh. Vào những lúc như vậy, Đức
Thánh Linh đến để giúp đỡ và cầu thay cho chúng ta bằng những lời thở
than không thể nói ra được. Đức Chúa Cha biết điều gì trong tâm trí chúng
ta và điều gì trong tâm trí Đức Thánh Linh. Bởi vì sự thông đạt giữa Đức
Chúa Cha và Đức Thánh Linh là trọn vẹn, nên không cần phải nói ra bằng
lời . Và bởi vì Đức Thánh Linh biết ý muốn và ý tưởng của Đức Chúa Cha,
nên chúng ta có thể tin chắc rằng Ngài cầu thay theo ý muốn của Đức Chúa
Trời. sự nhận thức này sẽ giúp chúng ta tin rằng lời cầu nguyện của chúng ta
sẽ được trả lời theo cách và thời điểm của Đức Chúa Trời.
Tôi đã từng kinh nghiiệm có những khi nan đề quá nặng nề đến nỗi tôi
không biết phải trình bày với Đức Chúa Trời như thế nào. Và tôi thật sự cảm
biết sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong tôi, trình lên cho Đức Chúa Trời
lời cầu nguyện của tôi mà tôi không thể diễn tả bằng lời được. Quí báu thay
khi biết rằng chúng ta có một Người bạn giúp đỡ chúng ta trình dâng lời cầu
nguyện của mình lên cho Đức Chúa Trời mỗi khi chúng ta không biết phải
cầu nguyện như thế nào!
Một người bạn giáo sĩ bị bệnh rất nặng ở Châu Phi và được đưa đến bịnh
viện để giải phẩu vì sắp phải sanh non. Ngay thời đểm nguy kịch của cô, cha
của một người bạn thân ở Mỹ bị đánh thức trong khi ông đang ngủ với gánh
nặng phải cầu nguyện cho Mari. Ông cầu nguyện suốt đêm, và qua ngày
hôm sau vẫn tiếp tục cầu nguyện, không ăn uống hay nghỉ ngơi. Đêm thứ hai
ông vẫn cầu nguyện. Vào buổi sáng của ngày thứ hai, ông chổi dậy và nói
rằng: “Đức Chúa Trời đã trả lời cầu nguyện của ta!” Ngày hôm sau con gái
của ông nhận được một bức điện tín của người bạn giáo sĩ tại Châu Phi nói
rằng: “Con tôi được sanh ngày hôm qua, Mari và đứa bé đều khỏe.” Chính
Đức Thánh Linh , Đấng Cầu Thay của chúng ta, đã thúc giục người đàn ông
tin kính này cầu thay cho một người bạn ở cách xa hàng ngàn dặm.
Đức Thánh Linh cũng giúp đỡ chúng ta trong sự cầu thay bằng cách nhắc
nhở chúng ta những điều thuộc về chúng ta trong Đấng Christ và bảo đảm
điều mà Đức Chúa Trời muốn làm cho chúng ta (ICo1Cr 2:12). Ngoài sự
giúp đỡ của Ngài, lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là sáo rỗng.
11 Qua phần bài học Đức Thánh Linh là Đấng Cầu Thay, hãy chỉ ra hai cách
mà Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta cầu nguyện?
...........................................................................................................................
...................................................................................
12 Điều nào minh họa chức vụ cầu thay của Đức Thánh Linh? Hãy khoanh
tròn mẫu tự trước những câu bạn chọn.
a) “Tôi lập một danh sách những nhu cầu của tôi và trình lên cho Đức Chúa
Trời khi tôi cầu nguyện.”
b) “Tôi biết rằng một anh chị em tôi đang có một nhu cầu thuộc linh sâu xa,
nhưng tôi không biết cầu nguyện như thế nào. Tất cả những gì tôi có thể làm
là đầu phục Đức Thánh Linh khi Ngài cầu thay cho bạn tôi.”
c) “Gia đình tôi đã hết thức ăn. Trong khi chúng ta đang cầu nguyện thì có
tiếng gõ cửa. Một người bạn trong Hội thánh mang đến một giỏ thức ăn.
Đức Chúa Trời đã trả lời trước khi chúng ta cầu nguyện.”
d) Bởi vì Đức Chúa Trời biết rỏ những nhu cầu của tôi hơn tôi, thật không
cần thiết để tôi mất nhiều thời gian cầu nguyện.”
Đấng Hướng Dẫn
Tôi sẽ chọn nghề nghiệp gì? Tôi sẽ thành hôn với ai? Tôi sẽ sống ở đâu?
Mỗi ngày bạn phải đối diện với những quyết định quan trọng, và bạn cần
một người hướng đáng tin cậy. Sự thành công của bạn tùy thuộc vào sự
hướng dẫng mà bạn noi theo.
Có rất nhiều người đưa ra những lời chỉ dẫn, và cũng tự nhận lời khuyên của
mình là tốt nhất. Tuy nhiên, chỉ có một Đấng Cố Vấn mà chúng ta có thể
nghe theo lời khuyên dạy của Ngài với sự bình an trọn vẹn. Ngài là Đấng Cố
Vấn mà Chúa Giê-xu hứa ban xuống. Khi bạn phải quyết định giữa lẽ thật và
sự giả dối, thì Ngài sẽ dẫn bạn vào con đường của lẽ thật, vì Ngài là Thần Lẽ
thật. Ngài luôn hướng dẫn chúng ta đến sự thành công thiện mỹ (IGi1Ga
4:6).
“Sống với Thánh Linh” nghĩa là bước đi với Ngài và được Ngài hướng dẫn
(GaGl 5:16-18). “Nếu chúng ta nhờ Thánh Linh mà sống, thì cũng hãy bước
theo Thánh Linh vậy”(GaGl 5:25). Để giữ bước chân của chúng ta với Ngài,
chúng ta phải sẵn sàng để Ngài hướng dẫn chúng ta. Ngài sẽ chỉ dạy chúng
ta khi chúng ta sống theo Ngài và ao ước những điều Ngài ao ước (RoRm
8:5). Khi chúng ta thừa nhận quyền lãnh đạo chủ tể của Ngài, Ngài sẽ dẫn
chúng ta vào mọi lẽ thật (GiGa 16:13). Ngài cũng sẽ hướng dẫn chúng ta khi
đối xử với những người khác như Ngài đã làm với tín hữu của Hội thánh đầu
tiên. Và chắc chắn rằng Ngài sẽ quan phòng cho chúng ta về mặt kinh tế,
nghề nghiệp và thuộc linh như Ngài đã làm cho họ (Cong Cv 2:42-47).
Bên cạnh vai trò của Đức Thánh Linh là hướng dẫn chúng ta vào lẽ thật và
chỉ dạy chúng ta trong những quyết định hằng ngày, Đức Thánh Linh cũng
chỉ ra bản chất của những việc làm sai trái của chúng ta - những hành vi của
bản chất củ, chưa được tái sanh (so sánh Eph Ep 4:20-32 và RoRm 8:12-14).
Hơn nữa, ngoài sự tỏ bày cho tín hữu thấy được những nguy hiểm khi họ có
khuynh hướng phục dưới con người củ của mình, Đức Thánh Linh còn giúp
đỡ họ làm cho chết bất cứ hành vi nào chống nghịch với bản chất mới. Hoặc
là, Đức Thánh Linh có thể ngăn cản chúng ta không làm những việc mà
đơng giản chúng chưa đến thời điểm của ý muốn Đức Chúa Trời. Phao-lô và
các bạn ông mong muốn đi truyền giảng trong cõi A-si thì đó không phải là
tội, nhưng đó chỉ là chưa đúng vào thời điểm của Đức Chúa Trời (Cong Cv
16:6-10). Sau này, sự ngăn cản đó được phá bỏ và Phao-lô có một chức vụ
to lớn tại vùng này (19:10). Vai trò hướng dẫn của Đức Thánh Linh đối với
chúng ta rất quan trọng cho sự tăng trưởng thuộc linh của chúng ta.
13 Đọc những câu Kinh thánh (bên phải) và sắp xếp với các sự hướng dẫn
mà chúng mô tả (bên trái). Viết số bạn chọn trước mỗi khoảng trống.
. . . a Đưa ra quyết định
. . . b Ngăn chặn
. . . c Sự bổ nhiệm
. . . d Sự hướng dẫn
1) 8:29
2) 13:2
3) 15:28
4) 16:6
Chúng ta thấy rằng Đức Thánh Linh không chỉ ban cho chúng ta những sự
hướng dẫn mà chúng ta nên làm (đưa ra quyết định, sự bổ nhiệm, và sự
hướng dẫn), nhưng Ngài cũng hướng dẫn chúng ta trong những điều chúng
ta không nên làm, ngăn cấm chúng ta không được làm trước khi Ngài cho
phép hoặc hành động trong cách trái với vị trí là con cái Đức Chúa Trời của
chúng ta (so sánh RoRm 8:12-16 với IGi1Ga 3:2-3). Vì vậy, chúng ta phải
tìm cầu sự hướng dẫn của Ngài và vâng theo tiếng Ngài.
Đấng An-ủi
Như chúng ta đã thấy, từ ngữ paraclete đôi khi được dịch là Đấng An ủi .
Đức Thánh Linh là Đấng An-ủi của chúng ta, là Đấng “luôn ở bên cạnh để
giúp đỡ.” Sự an ủi của Đức Thánh Linh không phải là sự tiếc nối thuộc linh.
Ngài biết những sự sầu khổ của cuộc đời và Ngài cũng có sự thương xót, tuy
nhiên, sự an ủi của Ngài không chỉ là một sự thông cảm.
Cùng với những đức tính mà Ngài ban cho chúng ta trong cuộc sống, Đức
Thánh Linh còn đem đến sự bình an (GaGl 5:22). Sự bình an của Ngài là kết
quả của đời sống đầu phục sự kiểm soát của Ngài (RoRm 8:6). Khi chúng ta
càng trưởng thành trong sự nhận thức sự kiểm soát của Đức Thánh Linh trên
đời sống của chúng ta bao nhiêu, chúng ta càng trưởng thành trong sự nhận
thức quyền làm con thuộc linh của chúng ta bấy nhiêu - rằng chúng ta thuộc
về Đức Chúa Trời. Điều này đem lại cho chúng ta sự bình an và sự an ninh
thật.
Sự an ủi của Ngài cũng bao gồm cả sự hy vọng . Dù cho đêm tối bao nhiêu,
thì Đức Thánh Linh, Đấng biết rõ tương lai, cho bạn biết rằng sẽ có một buổi
sáng, và lời hứa của Chúa Giê-xu rằng “Ta sẽ trở lại cùng các ngươi” sẽ
được ứng nghiệm (GiGa 14:28).
14. Hãy sắp xếp những khía cạnh trong chức vụ cố vấn của Đức Thánh Linh
với các định nghĩa của chúng. Viết số bạn chọn trước mỗi khoảng trống.
1) Đấng Cầu Thay
2) Đấng Hướng Dẫn
3) Đấng An-ủi
. . . a Đức Thánh Linh hướng dẫn chúng
ta qua sự kỷ luật, sự ngăn chặn,
sự bổ nhiệm sự hướng dẫn
và sự lập quyết định.
... . b Đức Thánh Linh ban sư bình an
và sự vọng cho chúng ta dù trong những
hoàn cảnh khó khăn nhất.
. . . c Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta khi
chúng ta cầu nguyện bằng cách nhắc nhở
những nhu cầu của chúng ta và cầu nguyện thay
cho chúng ta khi chúng ta không thể diễn đạt
những nhu cầu sâu kín nhất của mình.
15. Bạn đã từng kinh nghiệm được sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh ở một
lãnh vực nào trong những lãnh vực này chưa? Nếu có, hãy viết những từ
Đấng Cầu Thay, Đấng Hướng Dẫn và Đấng An ủi trong vở của bạn, bên
cạnh hãy ghi ra những kinh nghiệm cá nhân với chức vụ của Người Bạn
Giúp Đỡ của bạn. Hãy cảm tạ Ngài đã ở cùng bạn và chăm sóc những nhu
cầu thuộc linh cũng như nhu cầu thuộc thể của bạn.
Bây giờ bạn đã học xong Đơn vị 1: Một Người Bạn Riêng Tư . Bạn đã được
dạy rằng Đức Thánh Linh là một Con Người trọn vẹn , một Ngôi Vị thiên
thượng và một Đấng Giúp Đỡ . Ngài muốn ngự trong bạn để dạy dỗ và
hướng dẫn bạn.
Trong đơn vị học kế tiếp, bạn sẽ khám phá ra rằng Đức Thánh Linh cũng là
một Người Bạn quyền năng . Nguyện Đức Chúa Trời chúc phước cho bạn
khi bạn tiếp tục học bài nầy.
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Chọn câu trả lời đúng nhất cho mỗi câu hỏi.
Khoanh tròn những ký tự trước câu trả lời bạn chọn.
1. Từ nào trong những từ ngữ sau KHÔNG phải là từ được dịch từ tiếng Hy
lạp Paraclete ?
a) Đấng An-ủi
b) Đấng Cố Vấn
c) Đấng Tạo Hóa
d) Đấng Giúp Đỡ
2 Ý nghĩa của từ Paraclete là:
a) Đấng cáo trách
b) Đấng phán xét
c) Đấng thương xót
d) Đấng ở bên cạnh để giúp đỡ
3 Từ ngữ nào KHÔNG phải là một phần trong chức vụ cáo trách của Đức
Thánh Linh?
a) Sự phán xét
b) Sự tái sanh
c) Sự công bình
d) Tội lỗi
4 Trong chức vụ của Đức Thánh Linh, từ ngữ tái sanh mô tả
a) Sự sanh thuộc linh
b) Sự sanh thuộc thể
c) Sự chết và sự sống lại của Đấng Christ
d) Cố gắng sống một đời sống tốt đẹp hơn
5 Sự phán xét mà Đức Thánh Linh cáo trách thế gian là sự phán xét
a) Tín hữu
b) Những người không phải tín hữu
c) Satan
6 Theo bài học của chúng ta, điều nào KHÔNG phải là công tác của Đức
Thánh Linh trong thời điểm chúng ta được cứu?
a) Ngài sửa phạt chúng ta
b) Ngài ấn chứng chúng ta
c) Ngài tái sanh chúng ta
d) Ngài ngự trong chúng ta
7 Từ ngữ nào không phù hợp với công tác của Đức Thánh Linh khi Ngài
đóng ấn của Ngài trên chúng ta ?
a) Quyền sở hữu
b) Sự an ninh
c) Sự bảo đảm
d) Sự trọn vẹn
8 Đức Thánh Linh nhắc nhở chúng ta những nhu cầu khi chúng ta cầu
nguyện, và Ngài trình dâng những nhu cầu đó cho Đức Chúa Trời bằng
những lời thở than không thể nói ra được. Chức vụ nầy của Ngài đối với
chúng ta là
a) Giáo sư
b) Đấng An-ủi
c) Đấng Cầu thay
d) Đấng Hướng dẫn
9 Đưa ra quyết định, ngăn chặn, bổ nhiệm và hướng dẫn liên hệ mật thiết
đến vai trò của Đức Thánh Linh đối với chúng ta như là
a) Đấng Hướng dẫn
b) Đấng An-ủi
c) Đấng Hòa giải
d) Đấng Cáo trách
CÂU TRẢ LỜI NGẮN. Trả lời những câu hỏi sau cách ngắn gọn.
10 Hãy kể ra hai điều mà Đức Chúa Giê-xu nói rằng Đức Thánh Linh sẽ
thực hiện trong chức vụ giảng dạy của Ngài đối với chúng ta ?
...........................................................................................................................
...................................................................................
11 Liệt kê thứ tự thích hợp của những người phát ngôn truyền đạt sự khải thị
của Đức Chúa Trời cho con người.
Từ Đức Chúa Trời, qua ............................................... , ...............
............................................................................... đến con người.

Trả Lời Câu Hỏi Nghiên Cứu


1. b) giới thiệu Chúa Giê-xu như là một đời sống gương mẫu làm đẹp lòng
Đức Chúa Trời (như Ngài đòi hỏi).
2. c) Sự phục sanh từ trong kẻ chết của Ngài.
d) Sự trở về cùng Cha của Ngài.
3. a. Đúng
b. Sai
c. Đúng
d. Đúng
e. Sai
4. (bằng lời của chính bạn.) Ngự trong chúng ta; đến để sống trong chúng ta.
5. Ngài là ấn chứng hay sự đảm bảo rằng Chúa Giê-xu sẽ trở lại như điều
Ngài đã hứa. Đức Thánh Linh là sự bảo đảm hay của cầm cho cơ nghiệp đời
sau của chúng ta.
6. Ngài tái sanh chúng ta, Ngài ngự trong chúng ta, và Ngài đóng ấn trên
chúng ta.
7. b) Sự vinh hiển của Đức Chúa Giê-xu Christ.
8. Tôi sẽ khoanh tròn các câu a), d), e), f) và h). Câu trả lời b), c) và g)
không phải là những điều đặc biệt mà Đức Thánh Linh muốn dạy dỗ chúng
ta, mặc dù Ngài ban cho chúng ta sự khôn ngoan để ứng xử với những điều
thuộc linh cũng như những điều thuộc thể.
9. c) Đức Thánh Linh thúc giục những người được chọn của Đức Chúa Trời.
10. a. Chúa Giê-xu
b. Đức Thánh Linh
c. Mọi điều Chúa Giê-xu dạy dỗ
d. Nói thay cho người khác
11. Đôi khi Ngài đem những nhu cầu đến trong tâm trí chúng ta để chúng ta
có thể cầu nguyện cho những nhu cầu đó. Những khi khác Ngài trình dâng
những nhu cầu đó lên cho Đức Chúa Trời khi chúng ta không thể diễn tả
thành lời được.
12. Câu trả lời b) và c) minh họa chức vụ cầu thay của Đức Thánh Linh .
13. a. 3) Cong Cv 15:28
b. 4) 16:6.
c. 2) 13:2.
d. 1) 8:29.
14. a. 2) Đấng Hướng Dẫn
b. 3) Đấng An-ủi
c. 1) Đấng Cầu Thay
15. Câu trả lời của bạn.
ĐỨC THÁNH LINH TRONG CÔNG CUỘC SÁNG TẠO
Một nhà thiên văn là một Cơ đốc nhân trên đường đi diễn thuyết ở một tỉnh
xa bằng xe lửa. Ông mang theo một mô hình hệ mặt trời chạy bằng pin mà
ông đã chế tạo và dùng để diễn thuyết. Ngồi bên cạnh ông trên xe lửa là một
người vô thần. Trong câu chuyện, người vô thần bắt đầu chế nhạo thuyết về
sự sáng tạo.
Nhà thiên văn yên lặng lắng nghe. Sau đó ông mời người vô thần kia cùng
đến toa hành lý. Tại đó, ông dỡ tấm đậy mô hình của ông rồi ấn vào một cái
nút. Khi nhìn thấy những hành tinh nhỏ bé xoay chuyển chung quanh mặt
trời cách nhịp nhàng,, người vô thần vô cùng ngạc nhiên cách thích thú.
“Thật kỳ diệu”, ông ta nói, “ Ai đã chế tạo ra vật nầy vậy?” Nhà thiên văn
mỉm cười và trả lời rằng: “Không ai chế tạo nó cả. Nó được tạo ra do sự tình
cờ của thiên nhiên”.
Người vô thần im lặng. Đây chính là những lời ông dùng để giải thích cho ý
kiến của ông về sự khởi đầu của hệ mặt trời mà bởi đó nhà thiên văn đã chế
tạo ra mô hình của ông. Nếu mô hình còn cần phải có một người chế tạo, thì
vật nguyên bản còn cần hơn biết là dường nào!
Trái đất, bầu trời và tất cả các vật trong đó đều là công việc của tay Đấng
Tạo Hóa thiên thượng. Chính quyền năng của Đức Thánh Linh làm cho lời
phán của Đức Chúa Trời hành động. Trong bài học nầy chúng ta sẽ nghiên
cứu về công tác của Đức Thánh Linh trong Công cuộc Sáng tạo. Người bạn
riêng tư, thiên thượng của chúng ta đã hiện diện khi thế giới được hình
thành, và ngày hôm nay Ngài vẫn còn đang chủ động trong cuộc đời chúng
ta bởi quyền năng sáng tạo của Ngài.
Dàn Ý Bài Học
Kết hợp trong Sự Sáng Tạo
Tạo dựng thế giới
Tạo Dựng Con Người
Bảo Tồn Muôn Vật
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi bạn kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Thảo luận điều mà Kinh thánh bày tỏ về sự liên hệ của Cha, Con và Thánh
Linh trong Công Cuộc Sáng Tạo.
Giải thính sự khác nhau trong phương cách tạo dựng con người và những tạo
vật khác.
Nhận diện quyền năng của Đức Thánh Linh trong Công Cuộc Sáng Tạo và
bảo tồn Sự Sáng Tạo của Ngài.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học theo như cách đã chỉ dẫn trong phần những hoạt động
học tập của Bài 1. Đọc nội dung bài học, tìm và đọc những đoạn Kinh thánh
trưng dẫn và trả lời những câu hỏi nghiên cứu.
Để làm nền tảng cho bài học nầy, hãy đọc Sáng Thế Ký chương 1 và 2, và
Giăng chương 1.
Tìm định nghĩa trong phần từ vựng ở cuối sách cho những từ ngữ then chốt
mà bạn không biết.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra lại câu trả lời của bạn.
Những Từ Ngữ Then Chốt
Nhà thiên văn học
vận hành
bảo tồn
ban tứ
vũ trụ
hiện hữu từ trước
vô cùng
hạn chế
hệ mặt trời
Thiên văn học
thiên thể
thực vật
Triển Khai Bài Học
KẾT HỢP TRONG SỰ SÁNG TẠO
Đấng Lập Kế Hoạch Trước Sự Sáng Tạo

Mục tiêu 1: Giải thích tại sao trong Công Cuộc Sáng Tạo trong Sáng Thế Ký
không đưa ra những chi tiết đặc biệt hơn về sự liên quan của Đức Chúa Con
và Đức Thánh Linh trong Sự Sáng Tạo .
“Ban đầu Đức Chúa Trời . . .”(SaSt 1:1). Những từ ngữ mở đầu Kinh thánh
trong ngôn ngữ Hê-bơ-rơ sử dụng một danh xưng số nhiều để chỉ về Đức
Chúa Trời. Mặc dù Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh không được nhắc đến
cách đặc biệt, Ba Ngôi Đức Chúa Trời vẫn được nhắc đến cách tổng quát.
Giáo lý Ba Ngôi là một phần trong sự mặc khải của Đức Chúa Trời về chính
Ngài mà giáo lý này không được giải thích kỷ cho đến khi Kinh thánh Tân
ước được viết ra.Vào thời gian Môi-se viết Ngũ kinh (năm sách đầu của
Kinh thánh Cựu ước), rất nhiều người tin vào thuyết đa thần. Sự mặc khải về
Ba Ngôi Đức Chúa Trời vào thời điểm đó sẽ chỉ đem đến sự lầm lẫn mà
thôi. Đức Chúa Trời biết rằng con người chưa sẵn sàng nhận lấy lẽ thật nầy,
vì vậy Ngài không bày tỏ lẽ thật ấy. Tuy nhiên sự tự mặc khải của Ngài cứ
tiếp tục tăng lên bởi vì Ngài biết chính xác phải bày tỏ vào lúc nào. Vì vậy
Công Cuộc Sáng Tạo trong sách Sáng Thế Ký không đề cập từng chi tiết về
công tác tạo dựng của Đức Chúa Trời. Những đoạn Kinh thánh khác giúp
chúng ta hiểu được vai trò của từng Ngôi vị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời
trong kế hoạch sáng tạo cũng như trong kế hoạch cứu rỗi.
Sách Sáng Thế Ký ghi lại rất nhiều sự khởi đầu: về sự sáng tạo, về con
người, về tội lỗi, về sự phán xét, và về sự cứu rỗi. Tuy nhiên chỉ hai chương
đầu nói đến Sự Sáng Tạo. Công Cuộc Sáng Tạo được ghi lại cách ngắn gọn
để làm nền tảng cho những sự kiện ban đầu trong lịch sử con người mà
chúng dẫn đến nhu cầu cần được cứu rỗi của họ.
Ngay cả trước Sự Sáng Tạo thì Đức Chúa Trời đã biết điều gì sẽ xảy ra với
sự tạo dựng của Ngài. Ngài biết trước rằng con người sẽ phạm tội, và Ngài
đã chuẩn bị một chương trình cứu rỗi cho con người. Một vài đoạn Kinh
thánh cho chúng ta thấy điều này:
1. KhKh 13:8 nói đến sách sự sống của Chiên Con (Chúa Giê-xu) đã chịu
chết trong buổi sáng thế.
2. Eph Ep 1:4 cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời chọn chúng ta trong
Đấng Christ trước khi tạo dựng trời đất.
3. Mat Mt 25:34 nói đến một vương quốc được chuẩn bị cho những kẻ trung
tín từ khi sáng tạo thế giới.
Một vài đoạn Kinh thánh khác xác định sự hiện hữu đời đời của Đức Chúa
Trời Tam Nhất. Do đó, chúng ta biết rằng Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và
Đức Thánh Linh, Đấng luôn hành động trong sự hiệp nhất trọn vẹn, đã cùng
đưa ra kế hoạch và cùng thực hiện Công Cuộc Sáng Tạo. Hãy cùng xem một
số đoạn Kinh thánh nầy:
1. Tác giả Thi Tv 90:2 nói rằng: “Trước khi núi non chưa sanh ra, đất và thế
gian chưa dựng nên; Từ trước vô cùng cho đến đời đời, Chúa là Đức Chúa
Trời”. Đây là đoạn Kinh thánh nói lên sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức
Chúa Cha .
2. Sứ đồ Giăng tuyên bố sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Chúa Con
trong GiGa 1:1 “Ban đầu có Ngôi-Lời, Ngôi-Lời ở cùng Đức Chúa Trời,
Ngôi-Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời.” Rồi
Giăng tiếp tục nói rằng: “Ngôi-Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy
ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh
hiển của Con Một đến từ nơi Cha” (GiGa 1:14). Đức Chúa Con đã cùng hiện
diện với Đức Chúa Cha trong Công Cuộc Sáng Tạo.
3. HeDt 9:14 ám chỉ về sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong Công Cuộc
Sáng Tạo. Ngài được gọi là Đức Thánh Linh đời đời . Ngài không có khởi
đầu cũng không có kết thúc, và Ngài đã hiện diện với Cha và Con trong
Công Cuộc Sáng Tạo. Sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Thánh Linh
được câu Kinh thánh nầy xác nhận qua bản tính đời đời của Ngài.
Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh đã cùng hiện hữu từ ban đầu. Đức
Chúa Trời Tam Nhất, Đấng bảo tồn muôn vật, là “khởi nguyên của khởi
nguyên” - nghĩa là, Ngài đã luôn luôn hiện hữu và sẽ luôn luôn hiện hữu.
Tâm trí hạn hẹp của chúng ta không thể hiểu đầy đủ về lẽ thật này, bởi vì
chúng ta bị chi phối bởi thời gian. Tuy nhiên Đức Chúa Trời là Đấng vượt
lên trên thời gian. Trước buổi ban đầu được nói đến trong SaSt 1:1, Đức
Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh bởi sự hiệp nhất trọn vẹn đã
đưa ra kế hoạch Sáng thế cũng như kế hoạch Cứu rỗi.
1. Dựa trên bài học, hãy nêu lên lý do tại sao sách Sáng Thế Ký không đề
cập chi tiết về Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
...........................................................................................................................
...................................................................................
2. Đọc Sáng Thế Ký chương 1 và trả lời những câu hỏi sau:
a. Đức Chúa Trời được nhắc đến bao nhiêu lần trong chương
nầy? ..................... Đức Thánh Linh ? ...................... Đức Chúa Con?
b. Chúng ta tin rằng câu 1 ám chỉ về Ba Ngôi Đức Chúa Trời bởi vì danh
xưng số nhiều được xử dụng ở đây. Ngoài ra, câu Kinh thánh nào khác chỉ
về Ba Ngôi? ...................................................
Những Đấng Đồng-Tạo Hóa
Mục tiêu 2: Mô tả những phương cách mà qua đó Đức Chúa Cha, Đức Chúa
Con và Đức Thánh Linh dự phần trong Công Cuộc Sáng Tạo .
Kinh thánh mô tả cách rõ ràng rằng Công Cuộc Sáng Tạo được cả Ba Ngôi
Đức Chúa Trời cùng tham gia.
1. Các tín hữu tại Hội thánh đầu tiên đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời
rằng: “Lạy Chúa là Đấng dựng nên trời, đất , biển cùng muôn vật trong
đó”(Cong Cv 4:24). Hiển nhiên, đây là lời cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha
của họ.
2. Trong phần mở đầu của sách Phúc âm Giăng, tác giả đã nói về Đức Chúa
Con như vầy: “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà
không bởi Ngài” (GiGa 1:3). Rõ rằng rằng Đức Chúa Giê-xu cũng dự phần
trong Công Cuộc Sáng Tạo.
3. Trong một bài ca của Thi thiên, Sự Sáng Tạo được mô tả như là một công
tác của Đức Thánh Linh. Tác giả Thi Tv 104:30 nói rằng: “Chúa sai Thần
Chúa ra, chúng nó được dựng nên; Chúa làm cho mặt đất ra mới.” Tại đây,
chúng ta không chỉ thấy Đức Thánh Linh dự phần trong sự tạo dựng trời đất,
mà Ngài còn bảo tồn chúng nữa.
TỪ ĐỨC CHÚA CHA QUA ĐỨC CHÚA CON BỞI ĐỨC THÁNH LINH
Công Cuộc Sáng Tạo là kết quả của một sự kết hợp trọn vẹn giữa Đức Chúa
Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh. Chúng ta không thể hiểu hết điều
nầy xảy ra như thế nào. Stanley Horton nói rằng: “Đức Chúa Cha là Đấng
Tạo Hóa. Ngài tạo dựng mọi vật qua Đức Chúa Con và bởi Đức Thánh Linh.
Sự huyền nhiệm này không được Kinh thánh giải bày cách chi tiết. Điều
quan trọng ấy là Ngài là Đấng Tạo Hóa và chúng ta là những tạo vật của
Ngài”(Horton, Đức Thánh Linh , tr.52).
Chúng ta sẽ thấy rằng Đức Thánh Linh giữ một vai trò chủ động trong Công
Cuộc Sáng Tạo. Ngài được đề cập cách đặc biệt đó là vận hành bởi quyền
năng sáng tạo của Ngài, là đặc tính tể trị trong số các hoạt động của Ngài.
(Xem Giop G 33:4; Thi Tv 104:30; GiGa 6:63 và cũng trong RoRm 8:11
liên hệ quyền năng ban sự sống của Đức Thánh Linh .)
3. Mặc dù Công Cuộc Sáng Tạo trong sách Sáng Thế Ký không nhấn mạnh
về việc cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần trong Công Cuộc Sáng Tạo,
làm sao chúng ta biết được rằng cả Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức
Thánh Linh đều đồng công trong Sự Sáng Tạo?
...........................................................................................................................
...................................................................................
TẠO DỰNG THẾ GIỚI
Mục tiêu 3: Phân biệt những quan điểm đúng và sai lầm dựa trên những sự
kiện trong Công Cuộc Sáng Tạo .
Trong số các học giả Kinh thánh, nhiều người đã đưa ra những thuyết giải
thích sự trống không và sự mờ tối bao phủ trên đất trước khi Sự Sáng Tạo
bắt đầu. Bởi vì Lời của Đức Chúa Trời không bày tỏ nguyên nhân cho chúng
ta, vì vậy, chúng ta chỉ có thể phỏng định điều gì đã xảy ra mà thôi, do đó,
chúng ta sẽ không cố gắng bàn luận đến điều này. Qua Kinh thánh chúng ta
biết rằng đã có sự trống không mà chỉ có Thánh Linh của Đức Chúa Trời
mới có thể biến đổi thành sự đầy trọn và đẹp đẽ sau này.
Vận Hành Trên Mặt Nước

Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần của Đức
Chúa Trời vận hành trên mặt nước (SaSt 1:2).
Câu Kinh thánh trên mô tả Thánh Linh đang bay lượn trong vũ trụ trước khi
sáng thế. PhuDnl 32:11 cũng xử dụng từ ngữ này để mô tả một con chim mẹ
vỗ cánh bay lượn cách mạnh mẽ trên những con nhỏ của mình để bảo vệ
chúng. Năng lực siêu nhiên của của Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa
Trời được bày tỏ ở đây như là đã sẵn sàng để thực hiện Công Cuộc Sáng Tạo
của Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã thực thi những mạng lịnh sáng tạo và
Ngài được xem như là một tác nhân của Sự Sáng Tạo.
Mạng lịnh thứ nhất là: “Phải có sự sáng” (SaSt 1:3). Lập tức có sự sáng, và
điều đó là tốt lành.
Mạng lịnh thứ hai là: “Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân rẽ
nước cách với nước”(1:6). Những màng sương mù bay lên tạo thành những
đám mây trên mặt nước do sự tác động của Đức Thánh Linh. Một bản dịch
Kinh thánh đã dịch Giop G 26:13 như vầy: “Bởi hơi thở của Ngài(Đức
Thánh Linh) mà các từng trời được điểm tô.”
Và mạng lịnh thứ ba được ban ra: “Những nước ở dưới trời phải tụ lại một
nơi, và phải có chổ khô cạn bày ra”(SaSt 1:9). Các đại dương dồn lại dứi
năng lực toàn năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời tác động trên chúng.
Những đại lục xuất hiện và trở nên khô ráo.
4. Từ ngữ nào mô tả đúng nhất về sự đồng công của Đức Thánh Linh trong
việc phân rẽ nước?
a) Nghỉ ngơi
b) Chờ đợi
c) Ra lịnh
d) Quyền năng
Vận Hành Trên Đất
Những mạng lịnh tiếp theo (1:11-13, 20-25) liên quan đến mặt đất mô tả
Đức Thánh Linh như là Thần Linh của Sự Sống. Trong bài học trước, chúng
ta thấy rằng đây là một trong những danh hiệu của Ngài.
Ngài vận hành trên những địa lục của trái đất, và chúng bắt đầu sinh sản ra
những loại hoa cỏ, thảo mộc thích ứng với từng điều kiện khí hậu (1:12).
Ngài vận hành trên các đại dương, sông hồ, làm cho chúng đầy dẫy những
sinh vật. Những loài chim xinh đẹp bay lượn trên bầu trời (câu 20-22). Ngài
lại vận hành trên mặt đất, ban hơi thở sự sống cho muôn loài (câu 24-25).
Tác giả Thi thiên 104 ca ngợi Đức Chúa Trời vì điều này, ông nói: “Chúa sai
Thần Chúa ra, chúng nó được dựng nên.” Hiển nhiên trong đoạn văn, từ
chúng no chỉ về những sinh vật trên đất và dưới nước (xem Thi Tv 104:24-
25).
Vẻ đẹp và sự đa dạng của những loài thảo mộc, chim chóc, muôn thú và các
loài cá dưới nước làm cho chúng ta càng kính sợ quyền năng của Đấng Tạo
Hóa. Trong viện bảo tàng Châu Phi tại thành phố Brussels, nước Belgium,
vô số những loài thảo mộc và muôn thú từ lục địa Châu Phi được trưng bày.
Một trong những vật được trưng bày thú vị nhất là hàng trăm loài côn trùng
nhiều màu sắc, đa dạng và xinh xắn. Một số loài trông giống như những viên
ngọc lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần nhỏ
trong Công Cuộc Sáng Tạo của Đức Chúa Trời. Chính Đức Thánh Linh đã
thực thi kế hoạch của Đức Chúa Trời bởi quyền năng sáng tạo của Ngài.
5. Đọc SaSt 1:11-12, 20-25. Những câu Kinh thánh này bày tỏ rằng Đức
Chúa Trời tạo dựng
a) mọi loài thảo mộc, sinh vật dưới biển, chim chóc và muôn thú.
b) một số loài tiêu biểu và từ đó chúng tiến hóa và trở nên đa dạng.
c) một số lượng nhỏ trong mỗi loài và chúng tự sản sinh ra nhng loài khác.
Vận Hành Trên Các Từng Trời
Các từng trời được làm nên bởi Lời Đức Giê Hô Va, cả cơ binh trời bởi hơi
thở của miệng Ngài mà có (Thi Tv 33:6).
Trong câu Kinh thánh nầy tác giả đã ghi lại sự tạo dựng các từng trời là bởi
Đức Thánh Linh (hơi thở) của Đức Chúa Trời. Công Cuộc Sáng Tạo tập
trung trên đất và sự sắp đặt các thiên thể trên bầu trời (SaSt 1:14-18).
Không có sự nghiên cứu nào có thể cho thấy được quyền năng đáng kinh sợ
của Đức Chúa Trời như là ngành thiên văn học (ngành khoa học về các thiên
thể, ví dụ như các vì sao). Vũ trụ của chúng ta rộng lớn vô biên, nó vượt quá
khả năng tưởng tượng của chúng ta. Con người chúng ta chỉ như những hạt
bụi khi so với vũ trụ.
Khoảng cách trong vũ trụ vô cùng vĩ đại, những phương tiện đo lường trên
đất của chúng ta chẳng so sánh được. Ví dụ như để đo lường chiều sâu của
không gian, chúng ta phải dùng tốc độ của ánh sáng, nó đi nhanh đến
299.270 Km/giây. Nhưng khoảng cách trong không gian không được tính
bằng giây hay phút, thậm chí cũng không phải giờ hay ngày. Chúng được
tính bằng năm ánh sáng !
Vì sao ngoài hệ mặt trời gần chúng ta nhất cũng cách chúng ta bốn năm rưỡi
ánh sáng. Nói cách khác, ánh sáng của nó với tốc độ 299.270 Km/giây phải
mất bốn năm rưỡi mới có thể đến đuợc trái đất. Hiện tại, các nhà thiên văn
có thể quan sát những vì sao ở cách xa trái đất ba tỉ năm ánh sáng!
Để bạn biết con số của những ngôi sao được dựng nên bởi hơi thở (Thánh
Linh) của Đức Chúa Trời, có 100 tỉ ngôi sao trong thiên hà của chúng ta
(thiên hà là một trong những hệ thống ngôi sao). Các thiên văn gia đếm được
trên một tỉ thiên hà.
Giêrêmi khi nói về nhân loại đã nói rằng: “Người ta không thể đếm được cơ
binh trên trời, và lường cát dưới biển.” (Gie Gr 33:22). Đa-vít, đứng trước sự
diệu kỳ của sự sáng tạo, đã thốt lên rằng: “Các từng trời rao truyền sự vinh
hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi Tv
19:1). Chúng ta đang phục vụ một Đức Chúa Trời quyền năng biết bao! Đức
Thánh Linh Đấng thực thi mạng lịnh của Đức Chúa Cha như một tác nhân
của Sự Sáng Tạo đang hành động trong đời sống chúng ta ngày hôm nay;
quyền năng của Ngài vẫn còn có để chúng ta thực hiện ý muốn của Đức
Chúa Cha trong thế giới mà Ngài đã tạo dựng cách diệu kỳ.
6. Khoanh tròn các ký tự trước những câu ĐÚNG liên quan đến những sự
kiện trong Sự Sáng Tạo.
a. Mỗi Ngôi Vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm cho một
phần khác nhau của Công Cuộc Sáng Tạo.
b. Sự vận hành của Đức Thánh Linh trên mặt nước trước Sự Sáng Tạo nói
lên năng lực năng động của Ngài sẵn sàng để thực thi những mạng lịnh sáng
tạo của Đức Chúa Trời.
c. Mặc dù vũ trụ rộng bao la, vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, chúng
chuyển động cách hài hòa với nhau.
d. Đức Chúa Trời tạo dựng nên trái, cây cối, thú vật, chim muôn và những
sinh vật dưới nước từ chổ không có gì cả.
e. Công Cuộc Sáng Tạo trong sách Sáng Thế Ký tập trung vào các từng trời
và cách chúng được tạo dựng.
f. Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao là những thiên thể được Đức Chúa
Trời tạo dựng.
g. Một trong những điều Đức Thánh Linh đã làm trong Công Cuộc Sáng Tạo
là ban hơi sống cho các sinh vật.
TẠO DỰNG CON NGƯỜI
Mục tiêu 4: Xác định Đấng ban sự sống con người và sự sống này khác với
những sinh vật khác trong Sự Sáng Tạo như thế nào .
Được Đức Chúa Trời Định Kiểu Mẫu
“Đức Chúa Trời phán rằng: ‘Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta
(chúng ta) và theo tượng ta(chúng ta)’” (SaSt 1:26). Ở đây, chúng ta lại thấy
danh xưng số nhiều của Đức Chúa Trời và được đi theo bởi đại từ số nhiều.
Ba Ngôi Đức Chúa Trời đang lập kế hoạch cho một biểu hiện đặc biệt của
tình yêu thiên thượng.
Chúng ta đã xem con người như là một hạt bụi khi so với kích thước của vũ
trụ. Nhưng đối với Đức Chúa Trời thì con người là một “hạt bụi” rất đặc
biệt. Con người là sự sáng chói nhất và là đối tượng đặc biệt trong Công
Cuộc Sáng Tạo của Đức Chúa Trời.
KhKh 13:8 bày tỏ rằng sự cứu chuộc con người đã được hoạch định từ trước
buổi sáng thế. Quyết định thần thượng này (SaSt 1:26) có thể đã được quyết
định trước Công Cuộc Sáng Tạo. Chúng ta hãy thử tưởng tượng điều gì đã
xảy ra giữa Ba Ngôi Đức Chúa Trời. “Chúng ta hãy làm một sinh vật giống
như chúng ta,” Đức Chúa Cha nói, “một sinh mà nó có thể suy nghĩ, cảm
xúc và quyết định - một sinh vật thuộc linh mà chúng ta có thể tương giao -
một sinh vật mà chúng ta có thể có một mối tương giao mật thiết với chúng.”
Để thực hiện kế hoạch nầy, Đức Chúa Trời quyết định ban cho con người sự
tự do thật mà qua đó, con người có thể tiếp nhận hay chống đối lại với tình
yêu của Đấng tạo dựng mình. Bởi sự toàn tri, Đức Chúa Trời biết rằng con
người sẽ sa ngã và việc dự phòng một phương cách để con người nối lại mối
thông công với Ngài là điều cần thiết. Đức Chúa Con sẽ phải hy sinh để làm
một sinh tế tối cao, và Ngài đã sẵn sàng từ bỏ chính mình. Đức Thánh Linh
sẽ là Đấng thực hiện kế hoạch nầy. Đức Chúa Trời biết rằng sẽ có một số
người tự ý chọn lựa để theo Ngài. Những người tín hữu nầy sẽ cùng dự phần
trong bổn tánh Ngài. Trước khi sáng thế, Đức Chúa Trời đã hoạch định
chương trình cứu rỗi của Ngài.
Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài
người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người
nữ (1:27).
7 Tại sao Đức Chúa Trời hoạch định chương trình cứu rỗi ngay cả trước khi
Ngài tạo dựng con người?
...........................................................................................................................
..................................................................................
Được Đức Chúa Trời Nắn Nên
“Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn lên hình người”(2:7).
Những loài khác xuất hiện khi Đức Chúa Trời phán ra lời và Đức Thánh
Linh vận hành trên mặt đất.
Con người lại khác. Chính Đức Chúa Trời nắn đúc lên thân thể con người từ
bụi đất. Sự tạo dựng con người hoàn toàn khác với những loài khác. Sáng
Thế Ký chương 2 cho chúng ta những chi tiết đầy đủ hơn về Công Cuộc
Sáng Tạo trong chương 1. Trong 2:21-22 chúng ta thấy rằng sự tạo dựng con
người chấm dứt khi Đức Chúa Trời lấy một trong những xương sườn của
người nam để làm nên một người nữ.
Được Đức Chúa Trời Làm Cho Hoạt Động
Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời ... hà sanh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một
loài sanh linh (2:7). Thần của Đức Chúa Trời đã sáng tạo tôi, hơi thở của
Đấng Toàn Năng ban cho tôi sự sống (Giop G 33:4).
Làm cho hoạt động có nghĩa là làm cho sống. Trước tiên Đức Chúa Trời nắn
nên thân thể. Rồi thì Đức Thánh Linh hà hơi vào, đem đến sự sống cho con
người thuộc linh ở trong thân thể. Sự sống xuất phát từ hơi thở của Đức
Chúa Trời dường như tỏ bày Đức Thánh Linh hơn là sự tạo dựng nên nó.
Những thành tố của sự tạo dựng vẫn có, tuy nhiên sự sống chỉ đến từ hơi thở
của Đấng Toàn Năng.
Trong khi chúng ta biết rằng những sự kiện trong Sự Sáng Tạo và quyền
năng của Đức Chúa Trời vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, chúng ta vẫn có
thể an tâm mà nói rằng sự tạo dựng con người làm cho con người có một vị
trí gần gũi với Đức Chúa Trời mà chẳng có một tạo vật nào khác có được.
8. Con người nhận được sự sống vào thời điểm nào trong sự tạo dựng?
.......................................................................................................
9. Sự tạo dựng con người khác với những loài khác như thế nào?
...........................................................................................................................
...................................................................................
10. Sự khác biệt nầy cho thấy rằng, trong tất cả những tạo vật của Đức Chúa
Trời, con người làm một
a) hữu thể vật lý.
b) hữu thể linh.
c) hữu thể mà dưới con mắt của Đức Chúa Trời không quan trọng hơn
những tạo vật khác.
BẢO TỒN MUÔN VẬT
Mục tiêu 5: Xác định những đoạn Kinh thánh bày tỏ những hoạt động Đức
Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh trong việc bảo tồn Sự Sáng
Tạo .
Cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần trong Công Cuộc Sáng Tạo, vì vậy,
cả Ba Ngôi cũng đều dự phần bảo tồn Sự Sáng Tạo. Có rất nhiều đoạn Kinh
thánh cho thấy Đức Chúa Trời gìn giữ dân Ngài (xem PhuDnl 6:24; Thi Tv
31:23; ChCn 2:8; ITi1Tm 4:18). Thi Tv 121:1-8 tuyên bố rằng:
Tôi ngước mắt lên trên núi: Sự tiếp trợ tôi đến từ đâu? Sự tiếp trợ tôi đến từ
Đức Giê-Hô-Va, là Đấng đã dựng nên trời và đất. Ngài không để cho chơn
ngươi xiêu tó, Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ. Đấng gìn giữ Y-sơ-
ra-ên không hề nhắm mắt cũng không hề buồn ngủ.
Đức Giê-Hô-Va là Đấng gìn giữ ngươi; Đức Giê-Hô-Va là bóng che ở bên
hữu ngươi. Mặt trời sẽ không giọi ngươi lúc ban ngày, mặt trăng cũng không
hại ngươi trong ban đêm.
Đức Giê-Hô-Va sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi tai họa; Ngài sẽ gìn giữ linh hồn
ngươi. Đức Giê-Hô-Va sẽ gìn giữ ngươi khi ra khi vào, từ nay cho đến đời
đời.
Bạn sẽ nhớ lại rằng, Chúa Giê-xu đã nói rằng Ngài sẽ cầu xin Cha ban cho
chúng ta Đấng An-ủi để ở với chúng ta đời đời (GiGa 14:16). Chính Ngài là
Đấng canh giữ chúng ta ngày đêm, và chúng ta được an ninh trong bóng
cánh Ngài. Sự chăm sóc gìn giữ của Ngài không chỉ cho chúng ta mà cho cả
toàn bộ sự tạo dựng của Ngài.
11. Đọc Giop G 12:7-10. Trái đất, chim chóc, muôn thú, và các loài cá dưới
nước dạy chúng ta điều gì?
.......................................................................................................
12. Đọc EsIs 40:7, 13. Hãy dùng lời củabạn để phát biểu ý nghĩa của những
câu Kinh thánh nầy đối với bạn.
...........................................................................................................................
...................................................................................
13. Đọc những phần Kinh thánh được liệt kê (bên phải) và sắp xếp với
những sự việc mà chúng mô tả (bên trái).
. . . .a. Chúa Giê-xu bảo tồn muôn vật bởi Lời của Ngài.
. . . .b. Chúng ta không cần phải sợ hãi vì Đức Chúa Trời sẽ ban năng lực và
gìn giữ chúng ta.
. . . .c Đức Thánh Linh Đấng tạo dựng muôn vật cũng sẽ đổi mới muôn vật.
1) Thi Tv 104:30
2) HeDt 1:1-3
3) EsIs 41:10
14. Những phần Kinh thánh nầy bày tỏ rằng cả Sự Sáng Tạo và sự bảo tồn
(chăm sóc) tất cả những tạo vật là
a) hầu hết là công tác của Đức Thánh Linh.
b) chủ yếu là công việc của Đức Chúa Cha.
c) được thực hiện bởi Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh .
Khi chúng ta chiêm ngưỡng sự vĩ đại của Sự Sáng Tạo của Đức Chúa Trời,
chúng ta sẽ ngạc nhiên kinh sợ bởi những kỳ quan mà Ngài đã thực hiện.
Quả thật Ngài đáng để chúng ta ca ngợi và tôn thờ. Khi Ngài chấm dứt các
công tác vào ngày thứ sáu và nhìn xem tất cả những gì Ngài đã tạo dựng,
Ngài phán rằng mọi sự đều tốt lành.
Đức Chúa Trời tạo dựng muôn vật vì sự vinh hiển của Ngài. “Các từng trời
rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay
Ngài làm”(Thi Tv 19:1). Sự sáng tạo của Ngài phô bày sự vinh hiển Ngài.
Ngài tạo dựng chúng ta để chúng ta có thể tôn vinh Ngài. Rất nhiều đoạn
Kinh thánh khích lệ chúng ta tôn vinh Đức Chúa Trời (xem ISu1Sb 16:29;
Thi Tv 29:1; RoRm 15:6, 9). Bạn đã tôn vinh Đức Chúa Trời là Đấng Tạo
Hóa của bạn chưa? Bạn có tôn vinh Chúa Giê-xu là Đức Chúa Con và Đức
Thánh Linh là Đấng đã đến để ngự trong bạn không?
Không có lời kết nào tốt hơn cho bài học nầy là những lời của hai mươi bốn
trưởng lão khi họ sấp mặt trước Đấng Tạo Hóa và quăng mão triều thiên
mình trước ngôi Ngài (KhKh 4:11):
Lạy Đức Chúa Trời là Chúa chúng tôi,Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và
quyền lực; vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý muốn Chúa mà
muôn vật mới có và đã được dựng nên.
Bài Tự Trắc Nghiệm

CÂU HỎI CHỌN LỰA. Khoanh tròn các ký tự trước những câu trả lời
đúng.
1. Đâu là phần hoàn chỉnh đúng liên quan đến sự khải thị qua Công Cuộc
Sáng Tạo về sự đồng công của Ba Ngôi Đức Chúa Trời trong Sự Sáng Tạo?
Công Cuộc Sáng Tạo bày tỏ
a) rằng cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần, và được bày tỏ cách rất chi
tiết.
b) rất ít về sự dự phần của mỗi Ngôi, nhưng nhấn mạnh trên cả Ba Ngôi của
một Đức Chúa Trời đời đời và rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa của muôn vật.
c) rằng Đức Thánh Linh dự phần nhiều nhất trong Sự Sáng Tạo.
2. Sách Sáng Thế Ký nhấn mạnh điều gì nhất trong những câu sau?
a) Sự tạo dựng vũ trụ
b) Sự bắt đầu của tội lỗi và sự phán xét
c) Nhu cầu được cứu rỗi của con người
d) Sự tạo dựng con người
3. Kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời được quyết định
a) trước buổi sáng thế.
b) sau khi con người phạm tội.
c) khi Chúa Giê-xu giáng sinh.
d) vào thời điểm của Sự Sáng Tạo.
4. Thi Tv 90:2, GiGa 1:1 và HeDt 9:14 xác nhận bản tánh đời đời của Đức
Chúa Trời bằng cách liên hệ đến
a) sự hiện diện và dự phần của Ba Ngôi Đức Chúa Trời trong Công Cuộc
Sáng Tạo.
b) sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Chúa Trời Tam Nhất so với thời
điểm của Sự Sáng Tạo.
c) sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Chúa Cha, cùng với Đức Chúa Con
và Đức Thánh Linh xuất hiện vào thời điểm sau nầy.
d) sự trống không và sự mờ tối vào thời điểm của Sự Sáng Tạo.
5. Sự Sáng Tạo là một sự hoạt động kết hợp giữa
a) Đức Chúa Con, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.
b) Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh.
c) Đức Chúa Trời và con người.
6. Công tác của Đức Thánh Linh trong Sự Sáng Tạo là
a) phán ra Lời.
b) quyết định điều gì sẽ được thực hiện.
c) vận hành trong quyền năng để thực hiện những mạng lịnh thiên thượng.
7. Trong sự tạo dựng con người, sự đồng công của Đức Thánh Linh là gì?
a) Nắn lên con người từ bụi đất.
b) Tạo dựng người nữ từ xương sườn của người nam.
c) Ban hơi thở sự sống khiến con người trở nên một loài sanh linh.
d) Vận hành trên con người trong quyền năng sáng tạo.
8. Theo Sự Sáng Tạo, sự dự phần của Đức Thánh Linh với thứ tự sáng tạo
có thể được mô tả cách chính xác nhất là
a) bảo tồn muôn vật đã được dựng nên.
b) quan tâm đến những người vâng phục Đức Chúa Trời.
c) dần dần làm đầy dẫy khắp đất với những loài sinh vật mới.
9. Đức Chúa Trời tạo dựng con người và thế giới bởi vì Ngài muốn
a) trở nên trọn vẹn.
b) bày tỏ sự vinh hiển của Ngài và để nhận sự vinh hiển.
c) kiểm soát một điều gì đó.
10. Cách tốt nhất mà chúng ta có thể tôn vinh Đức Chúa Trời vì những việc
Ngài đã làm là gì?
a) Thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.
b) Thờ phượng và vâng phục Ngài.
c) Bày tỏ lòng tốt với tất cả những tạo vật của Ngài.
d) Kiểm soát những sinh vật khác càng nhiều càng tốt.
11. Sự tạo dựng con người khác với những sự tạo dựng khác trong Sự Sáng
Tạo như thế nào?
a) Con người là sinh vật duy nhất được tạo dựng là một người trưởng thành.
b) Con người được Đức Chúa Trời nắn lên từ bụi đất, và rồi được Đức Chúa
Trời hà hơi sự sống vào; trong khi những sinh vật khác được dựng nên bởi
lời phán ra.
c) Con người được ban cho quyền năng để bảo tồn tất cả những sinh vật
khác.
12. Tại sao sự mặc khải của Đức Chúa Trời về chính Ngài phải được phát
triển từ từ hơn là được hoàn chỉnh vào thời điểm Môi-se viết Ngũ kinh?
a) Bởi vì bản tánh thần thượng của Ngài chưa phát triển trọn vẹn vào thời
điểm đó.
b) Bởi vì con người chưa chuẩn bị để tiếp nhận sự mặc khải của một Đức
Chúa Trời Tam Nhất.
c) Môi-se chưa hiểu đủ sự mặc khải về Ba Ngôi Đức Chúa Trời để ông có
thể trình bày sự mặc khải nầy cách rõ ràng, dễ hiểu.
Trả Lời Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. Con người chưa sẵn sàng để tiếp nhận sự mặc khải trọn vẹn của Đức Chúa
Trời Tam Nhất vào thời điểm đó - nó sẽ làm cho họ bối rối.
2. a. Ít nhất 30 lần; một lần; không lần nào cả.
b. Câu 26 ( đại từ số nhiều ta -chúng ta-).
3. Những phần Kinh thánh khác trong cả Kinh thánh cho thấy rằng cả Ba
Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần trong Sự Sáng Tạo.
4. d) Quyền năng.
5. a) mọi loài thảo mộc, sinh vật dưới nước, chim chóc và muôn thú.
6. a. Sai
b. Đúng
c. Đúng
d. Đúng
e. Sai
f. Đúng
g. Đúng
7. Ngài biết rằng con người sẽ không giữ mối tương giao với Ngài và rằng
một sự dự phòng sẽ phải được thực hiện để phục hồi mối tương giao đó.
8. Khi Đức Chúa Trời hà hơi (Thánh Linh) sự sống vào lỗ mũi con người.
9. Tất cả những vật được tạo dựng bởi lời phán ra của Đức Chúa Trời khi
Thánh Linh Ngài vận hành trên đất. Đức Chúa Trời nắn đúc con người từ
bụi đất và ban cho con người sự sống của chính Ngài.
10. b) Hữu thể linh.
11. Sự sống và hơi thở đều ở trong tay Đức Giê-Hô-Va.
12. Câu trả lời của bạn. Tôi tin rằng chúng bày tỏ rằng Thánh Linh Đức
Chúa Trời ban cho chúng ta sự sống, và Ngài kiểm soát sự bắt đầu cũng như
sự kết thúc của cuộc đời chúng ta.
b. 3) EsIs 41:10
c. 1) Thi Tv 104:30.
13. a. 2) HeDt 1:1-3
14. c) thực hiện bởi Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.

ĐỨC THÁNH LINH ĐẤNG TRUYỀN ĐẠT


Từ khi sáng thế, Đức Chúa Trời trò chuyện với con người bằng những
phương cách khác nhau. Trong Cựu ước, qua Đức Thánh Linh, Ngài phán
với các đấng tiên tri là người chuyển giao sứ điệp của Đức Chúa Trời cho
con người. Một số các tiên tri và những người khác được Đức Chúa Trời
chọn để ghi lại sứ điệp của Ngài ngỏ hầu chúng có thể được truyền lại cho
những thế hệ kế tiếp.
Chúa Giê-xu là Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời, được xức dầu bằng Đức
Thánh Linh. Ngài đến để dạy cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời. Các sách
Phúc âm ghi lại sự dạy dỗ của Ngài và cuộc đời chức vụ của Ngài trên đất.
Bản văn được những người cùng sống và trò chuyện với Ngài viết lại cùng
với sự hà hơi của Đức Thánh Linh.
Sau khi Chúa Giê-xu thăng thiên, các sứ đồ tiếp tục truyền đạt sứ điệp của
Đức Chúa Trời. Một số trong họ được Đức Thánh Linh soi dẫn để ghi lại sứ
điệp, để lại cho chúng ta Kinh thánh ngày hôm nay. Trong tất cả sự truyền
đạt nầy, Đức Chúa Trời bởi Đức Thánh Linh ban lời của Ngài cho những
người nam và người nữ để họ biết và vâng phục Ngài.
Trong bài học nầy chúng ta sẽ thấy công tác của Đức Thánh Linh trong việc
đem Lời được chép ra cho chúng ta, trong việc xức dầu cho Lời Hằng Sống,
và trong việc khiến chúng ta trở thành những Bức thư sống. Ngày hôm nay
Đức Thánh Linh truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời cho bạn và tôi, và
chúng ta có trách nhiệm chuyển giao sứ điệp đó cho những người khác.
Dàn Ý Bài Học
Lời Được Chép
Lời Hằng Sống
Những BứcThư Sống
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học này bạn sẽ có thể:
Định nghĩa những thuật ngữ sự mặc khải , sự soi dẫn , và sự soi sáng khi
chúng được áp dụng cho công tác của Đức Thánh Linh.
Giải thích những phương cách mà chúng ta có thể biết rằng Kinh thánh là
Lời được Thánh Linh hà hơi của Đức Chúa Trời.
Mô tả vai trò của Đức Thánh Linh trong đời sống và chức vụ của Chúa Giê-
xu.
Minh chứng một sự hiểu biết về tầm quan trọng khi trở thành một Bức Thư
Sống bằng cách để Đức Thánh Linh làm việc qua bạn.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học như phần những hoạt động học tập mô tả trong Bài 1.
Đọc nội dung bài học, tìm và đọc những phần Kinh thánh trưng dẫn, và trả
lời các câu hỏi nghiên cứu.
Tra cứu định nghĩa trong phần từ vựng ở cuối sách hướng dẫn cho những từ
then chốt mà bạn không biết.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra lại những câu trả lời của bạn.
Những Từ Then Chốt
xức dầu,
sự soi dẫn,
sự giáng xuống
thử thách,
sự soi sáng,
sự hoàn mỹ
vô ngộ
Khai Triển Bài Học
LỜI ĐƯỢC VIẾT RA
Nhu Cần Về Lời Kinh Thánh
Mục tiêu 1: Phân biệt được sự khải thị, sự soi dẫn và sự soi sáng .
Sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con người liên quan đến sự sống và sự chết.
Đa-vít nói rằng: “Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, để tôi không phạm tội
cùng Chúa”(Thi Tv 119:11).
Các tác giả Cựu-ước cho thấy rằng Đức Chúa Trời ao ước truyền đạt sứ điệp
của Ngài cho con người. Từ ngữ “Đức Giê-Hô-Va phán” hoặc những từ
tương tự được chép hơn 3800 lần. Chính sự nghe và vâng theo Lời của Đức
Chúa Trời làm cho chúng ta được cứu khỏi sự chết đời đời.
Mười Điều Răn Đức Chúa Trời ban cho Môi-se lần đầu được chính Ngài
viết ra:
Đoạn, Môi-se ở trên núi trở xuống, tay cầm hai bảng chứng; hai bảng chứng
có viết hai bên, mặt nầy và mặt kia. Hai bảng đó là việc của Đức Chúa Trời
làm ra; chữ cũng là chữ của Đức Chúa Trời khắc trên bảng (XuXh 32:15,
16).
Môi-se đã đập vỡ hai bảng đá đó khi ông thấy dân sự phạm tội. Lần thứ hai
Đức Chúa Trời lại ban Mười Điều Răn cho Môi-se với lời dặn rằng: “Hãy
chép các lời nầy; vì theo các lời nầy mà ta lập giao ước cùng ngươi và cùng
Y-sơ-ra-ên”(34:27). Câu 28 cho biết rằng: “Môi-se chép trên hai bảng đá các
lời giao ước - tức là Mười Điều Răn.”(bản NIV).
Tại sao sự truyền đạt bằng lời viết ra tốt hơn là lời nói? Ấy là do sứ điệp
bằng lời nói thường bị thay đổi mỗi khi nó được truyền từ người nầy sang
người khác.
Một trò chơi có tên gọi là ngồi lê đôi mách minh họa cho điều nầy. Những
người tham gia ngồi thành hình tròn. Người thứ nhất giữ một mảnh giấy ở
trong có viết một điều gì đó. Và rồi nó được nói thầm từ tai người nầy đến
tai người kia. Khi người cuối cùng lặp lại điều đó cho người đầu tiên, nó
khác xa với điều đã được viết ra trên giấy.
Tuy nhiên, nếu mảnh giấy trên được chuyền quanh vòng tròn, thì mỗi người
tham gia trò chơi đều sẽ nhận được cùng một sứ điệp, người cuối cũng như
người đầu.
Sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con người phải được tiếp nhận cách chính
xác như điều Ngài đem đến. Không ai được phép thay đổi sứ điệp ấy dù là
một thay đổi nhỏ. Đây là lý do tại sao việc Đức Thánh Linh ban Lời trọn
vẹn, vô ngộ của Đức Chúa Trời trong thể văn viết là điều hết sức cần thiết.
Vô ngộ có nghĩa là “không hề sai trật”. Sứ điệp của Đức Chúa Trời phải
được viết ra để nó không bị thay đổi khi được người nầy nói cho người khác.
Sứ điệp đó phải là một sứ điệp trọn vẹn để không một ai có thể thêm hoặc
bớt điều gì theo ý thích của người ấy. Tuy Kinh thánh không bàn đến mọi
chi tiết về cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta, Đức Chúa Trời đã
bày tỏ những gì Ngài muốn chúng ta biết về sự cứu rỗi, sự duy trì một đời
sống thuộc linh, trách nhiệm của chúng ta đối với Ngài và đối với anh em
mình, và về đời sau của tội nhân và thánh đồ. Kinh thánh có thể được xem
như mực thước toàn vẹn cho đức tin và hành vi của chúng ta, là sự khải thị
đầy đủ mà Đức Chúa Trời muốn truyền đạt cho chúng ta, xứng đáng để
chúng ta hoàn toàn đặt lòng tin cậy.
Đức Chúa Trời truyền đạt Lời của Ngài cho dân sự qua tác nhân Đức Thánh
Linh. Có ba cách để Đức Thánh Linh chuyển giao cho con người: bằng sự
mặc khải, sự soi dẫn và sự soi sáng .
1. Sự mặc khải là sự bày tỏ, làm cho biết đến một điều gì đó trước đây chưa
được biết. Khi Đức Thánh Linh trực tiếp phán bảo cho một người nào về
một điều gì mà người đó không thể biết đến bằng cách nào khác, đó là một
sự mặc khải .
2. Sự soi dẫn là sự vận hành của Đức Thánh Linh trên sự khôn ngoan hay
cảm xúc của một người để người ấy bày tỏ tâm trí của Đức Chúa Trời. Khi
Đức Thánh Linh xử dụng các tác giả Kinh thánh để ghi lại lẽ thật mà không
hề phạm một sai lầm nào, đó là sự soi dẫn . Lẽ thật nầy có thể là những điều
họ đã biết, hoặc có thể là điều được Đức Thánh Linh mặc khải (IITi 2Tm
3:16).
Các nhà lãnh đạo Cơ đốc và các học giả thường liên hệ đến sự soi dẫn toàn
diện của Kinh thánh. Chữ toàn diện nói lên một sự đầy đủ. Vì vậy, sự soi
dẫn toàn diện có nghĩa là Kinh thánh được Đức Thánh Linh soi dẫn trong
mức độ đầy đủ nhất.
Sự soi dẫn từng lời từng chữ của Kinh thánh cũng thường được nói đến.
Kinh thánh dạy rằng những sự thiêng liêng được giải bày bằng những lời
thiêng liêng (ICo1Cr 2:13). Sự soi dẫn từng lời từng chữ có nghĩa là không
chỉ những ý tưởng nhưng cả đến những lời trong Kinh thánh đều được Đức
Thánh Linh soi dẫn.
3. Soi sáng là làm sáng tỏ về một điều gì. Sự soi sáng xảy ra khi Đức Thánh
Linh giúp đỡ hoặc là người viết hoặc là người đọc hiểu rõ những điều được
viết ra.
Tất cả những hình thức truyền đạt nầy được Đức Thánh Linh sử dụng để ban
sứ điệp của Đức Chúa Trời cho chúng ta và khiến cho sứ điệp ấy sống động
trong lòng chúng ta. Kinh thánh, Lời được viết ra của Đức Chúa Trời, được
ban cho chúng ta bởi sự soi dẫn của Đức Thánh Linh, và đây là nhu cần về
Lời Kinh thánh.
1. Đọc EsIs 9:6-7. Trong khúc Kinh thánh nầy, Ê-sai báo trước về sự giáng
sanh của Chúa Giê-xu. Đây là sự
a) soi sáng.
b) mặc khải.
c) soi dẫn.
2 Nếu trong khi bạn đọc Mathiơ 8 về việc Chúa Giê-xu chữa lành người đau
bại và những bịnh tật khác, bạn nhận thức được rằng Chúa Giê-xu cũng có
thể chữa lành cho bạn, ấy là Đức Thánh Linh đã ban cho bạn
a) sự mặc khải.
b) sự soi dẫn từng lời từng chữ.
c) sự soi sáng.
3. Điền vào chỗ trống với những từ đúng.
a) Thư IITi 2Tm 3:16 nêu lên sự soi dẫn ................................ của Kinh
thánh; ấy là, Kinh thánh được Đức Thánh Linh soi dẫn với một mức độ đầy
đủ nhất.
b) ICo1Cr 2:13 nêu lên điều mà chúng ta gọi là sự soi dẫn của Kinh thánh ;
nghĩa là những từ ngữ trong Kinh thánh được chính Đức Thánh Linh soi
dẫn.
c) Khi chúng ta nói rằng Lời của Đức Chúa Trời là .......................................,
chúng ta có ý nói rằng trong đó chẳng có một sai trật nào cả.
4. Hãy dùng lời của chính bạn cho biết rằng một bản ghi chép lại sự mặc
khải của Đức Chúa Trời cho con người là điều cần thiết.
...........................................................................................................................
...................................................................................
Sự Bảo Vệ Bản Văn
Mục tiêu 2: Giải thích nguyên nhân khiến cho Lời được viết ra của Đức
Chúa Trời được giữ khỏi những sai trật qua suốt chiều dài thời gian .
Sứ đồ Phao-lô dạy Timôthê rằng: “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời
soi dẫn ...”(IITi 2Tm 3:16). Điều này có nghĩa là Đức Thánh Linh kiểm soát
bản văn Kinh thánh. Sứ đồ Phierơ giải thích thêm trong thư IIPhi 2Pr 1:20-
21:
Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh thánh lấy ý
riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào
mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi
Đức Chúa Trời.
Nói cách khác, các tiên tri và các sứ đồ là những người viết Kinh thánh được
Đức Thánh Linh canh giữ và soi dẫn để những lời họ viết ra là những gì Đức
Chúa Trời muốn họ viết - không sai trật và có thể được gọi là Kinh Thánh.
Có khoảng 40 tác giả cùng đóng góp nên một quyển sách kỳ diệu mà chúng
ta gọi là Kinh thánh. Họ sống ở những nơi khác nhau và vào những thời
điểm khác nhau trong suốt 1600 năm. Trong khi các bản văn của họ khác
nhau về văn phong và cách diễn đạt, thì các sứ điệp của họ hợp nhất cách
siêu nhiên bởi vì Đức Thánh Linh là Đấng giúp đỡ họ.
Sự hợp nhất của Kinh thánh là một sự kỳ diệu khi xét đến số người mà Đức
Chúa Trời chọn để viết Kinh thánh và thời gian mà họ đã viết. Một học giả
Kinh thánh cho biết rằng chỉ có một giáo lý, một tiêu chuẩn đạo đức, một kế
hoạch cứu rỗi, một chương trình cho các thời đại, và một quan điểm về thế
giới trong Kinh thánh (Thiessen 1979 ,tr 67). Điều này chỉ có thể xảy ra dưới
sự soi dẫn của Đức Thánh Linh trên những người làm công tác ghi chép.
Quyền tác giả thiên thượng của Kinh thánh được chính các tác giả Kinh
thánh công nhận. Trong IISa 2Sm 23:2, Đa-vít nói rằng: “Thần của Đức Giê-
Hô-Va đã cậy miệng ta mà phán, và lời của Ngài ở nơi lưỡi miệng ta.” Chúa
Giê-xu đã xác nhận việc Đa-vít được Đức Thánh Linh soi dẫn như điều được
chép trong Samuên rằng: “Chính Đa-vít đã cảm Đức Thánh Linh mà nói
rằng ...”(Mac Mc 12:36). Tác giả thư tín Hêbơrơ khi trích dẫn Thi thiên 95
đã giới thiệu rằng: “Cho nên, như Đức Thánh Linh phán rằng ...” (HeDt
3:7). Những ví dụ này chứng tỏ rằng các tác giả Kinh thánh thừa nhận quyền
tác giả thiên thượng của Kinh thánh. Lời chứng của Chúa Giê-xu cũng nhấn
mạnh cho sự kiện này.
Lời được viết ra của Đức Chúa Trời cũng được bảo vệ cách cẩn thận qua
việc sao chép và truyền lại cho các thế hệ kế tiếp. Đây cũng là công tác của
Đức Thánh Linh. Dĩ nhiên Ngài sẽ không canh giữ bản văn chính cách cẩn
thận và rồi để chúng trở thành những bản văn không đáng tin cậy khi chúng
được sao chép và truyền lại cho chúng ta.
Chúng ta tin rằng Đức Thánh Linh đã canh giữ sự truyền đạt của Ngài cách
hết sức cẩn thận để Kinh thánh của chúng ta ngày nay có thể được gọi là Lời
của Đức Chúa Trời. Nhiều người đã cố gắng tìm cách chứng minh Kinh
thánh là sai lầm hoặc cố xác định rằng Kinh thánh có nhiều chỗ sai trật,
nhưng những cố gắng của họ chỉ là vô ích. Ngày hôm nay Lời của Đức Chúa
Trời vẫn là chân thật như khi Lời ấy được viết ra lần đầu tiên!
5. Bằng lời của bạn, hãy giải thích lý do khiến Lời của Đức Chúa Trời được
giữ khỏi những sai trật qua suốt chiều dài thời gian.
...........................................................................................................................
...................................................................................
ĐƯỢC ĐỨC THÁNH LINH BẢO VỆ
Sự Thừa Nhận Bản Văn
Mục tiêu 3: Đưa ra những bằng chứng trong Kinh thánh chứng minh Kinh
thánh được công nhận là công tác của Đức Thánh Linh và quyền tác giả của
Ngài cho đến ngày hôm nay .
Thánh kinh cựu-ước mà chúng ta có ngày hôm nay được Đấng Christ và các
Sứ đồ thừa nhận khi trích dẫn trong sự giảng dạy. Chúa Giê-xu và các sứ đồ
cũng xem đây là công tác của Đức Thánh Linh.
6. Sắp xếp những đoạn Kinh thánh Tân-ước (bên phải) với những đoạn Kinh
thánh Cựu-ước liên quan (bên trái). Viết số mà bạn chọn trước những
khoảng trống.
. . . . a Mat Mt 22:43-44
. . . . b LuLc 4:18-19
. . . . c Cong Cv 2:17-21
. . . . d RoRm 12:20
. . . . e GaGl 3:11
. . . . f HeDt 10:15-16
1) ChCn 25:21-22
2) Gie Gr 31:33
3) EsIs 61:1-2
4) Thi Tv 110:1
5) HaKb 2:4
6) Gio Ge 2:28-32
Tác động của Đức Thánh Linh cũng có thể được thấy trong việc kết hợp
những bản văn Kinh thánh Tân-ước và việc những nhà lãnh đạo Hội thánh
đầu tiên nhìn nhận những bản văn đó.
Vào thế kỷ thứ 4 sau Chúa, Hội thánh phát triển thành đông giáo hội và tây
giáo hội do ảnh hưởng của nền văn hóa Hy lạp và La mã. Tác động của Đức
Thánh Linh thể hiện qua việc mỗi giáo hội đều thừa nhận 27 sách trong Kinh
thánh Tân ước. Mỗi giáo hội đều có quyết định độc lập, và cả hai quyết định
được đưa ra chỉ trong vòng ba mươi năm.
Hơn 16 thế kỷ tiếp theo, Kinh thánh được in lại hàng ngàn lần và được dịch
ra hầu hết các ngôn ngữ được biết đến. Bất cứ nơi đâu Kinh thánh được rao
giảng, các tín hữu đều thừa nhận rằng đó là Lời của Đức Chúa Trời, và
những cuộc đời được thay đổi khi Đức Thánh Linh soi sáng những lẽ thật
của Kinh thánh cho con người trong tất cả mọi quốc gia.
Vào năm 1778, Voltaire, một nhà văn Pháp, dự kiến rằng trong 100 năm nữa
thì Kinh thánh sẽ không còn được xuất bản, nhưng thay vào đó là những tác
phẩm của ông sẽ được lưu hành cách rộng rãi. Thế nhưng ngày nay Kinh
thánh vẫn là Quyển Sách được in ấn nhiều nhất trên thế giới, đuợc dịch ra
nhiều ngôn ngữ hơn bất cứ sách nào khác, và sứ điệp của Kinh thánh được
rao giảng khắp mọi nơi. Trái lại, so với Kinh thánh, những tác phẩm của
Voltaire chỉ được một số người ít ỏi đọc và biết đến.
Nơi đâu Lời của Đức Chúa Trời được rao giảng, Đức Thánh Linh hiện diện
để soi sáng Lời ấy và làm cho sống động trong lòng của những người nam
và người nữ, đem họ đến sự ăn năn và tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu Christ
làm Cứu Chúa của cá nhân họ. Chúng ta thừa nhận Kinh thánh là Lời của
Đức Chúa Trời, được Đức Thánh Linh soi dẫn, bởi vì Kinh thánh thay đổi
cuộc đời của những người nghe và tiếp nhận, theo như lời Kinh thánh chép.
7. Tìm những khúc Kinh thánh sau, hoàn chỉnh biểu đồ sau bằng cách viết
câu Kinh thánh bên cạnh những điều Kinh thánh tự bày tỏ về mình.
PhuDnl 8:3 GiGa 15:3 EsIs 40:8 IPhi 1Pr 1:22 Thi Tv 119:89 RoRm 15:4
IPhi 1Pr 2:2 GiGa 17:17 IPhi 1Pr 1:25 Thi Tv 126:6 Mat Mt 5:18 Thi Tv
119:9
Mac Mc 16:15-20 IGi1Ga 5:13 Thi Tv 119:103 Mac Mc 4:14-20 IVua 1V
8:56 Eph Ep 5:25-26
LỜI ĐƯỢC ĐỨC THÁNH LINH SOI DẪN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI CHO
CHÚNG TA BIẾT RẰNG KINH THÁNH
a. sẽ còn lại
b. là thức ăn cho linh hồn chúng ta
c. tẩy sạch chúng ta
d. ban cho chúng ta hy vọng
e. kết quả
f. đáng tin cậy

LỜI HẰNG SỐNG


Sự Chuẩn Bị Ngôi Lời
Mục tiêu 4: Mô tả những phương cách Đức Thánh Linh liên quan đến sự
chuẩn bị cho Chúa Giê-xu cho chức vụ trên đất của Ngài .
“Ngôi Lời đã trở nên xác thịt ...”(GiGa 1:14) là một trong những câu Kinh
thánh đầy ý nghĩa nhất. Nó mô tả Đức Chúa Con trở thành một con người để
Ba Ngôi Đức Chúa Trời có thể giao thông với nhân loại trong mức độ của
nhân loại. Trước khi Ngôi Lời trở nên xác thịt, Đức Chúa Trời phán với con
người rất nhiều lần và bằng những cách khác nhau qua các tiên tri, nhưng
bây giờ Ngài giao thông với con người cách trực tiếp qua Con Ngài.
Đức Thánh Linh vận hành trên Ma-ri với quyền năng sáng tạo như Ngài đã
từng là tác nhân của Đức Chúa Trời trong Công Cuộc Sáng Tạo. Lu-ca cho
chúng ta biết về cuộc viếng thăm Ma-ri của thiên sứ Gáp-ri-ên, báo trước sự
giáng sanh của Chúa Giê-xu. Thiên sứ phán cùng bà rằng:
“Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép của Đấng Rất Cao sẽ
che phủ ngươi dưới bóng cánh mình, cho nên con Thánh sanh ra phải xưng
là con Đức Chúa Trời” (LuLc 1:35).
Sau nầy, Lu-ca cho chúng ta biết rằng Ma-ri đi thăm Ê-li-sa-bét là người bà
con của mình, khi bà chào Ê-li-sa-bét: “Ê-li-sa-bét được đầy Đức Thánh
Linh , bèn cất tiếng kêu rằng: ‘Ngươi có phước trong đám đờn bà, thai trong
lòng ngươi cũng được phước!’”
Sách Tin lành Mathiơ cho chúng ta biết thêm về vai trò của Đức Thánh Linh
trong sự hóa thân làm người của Chúa Giê-xu: “Người (Mari) đã chịu thai
bởi Đức Thánh Linh” (Mat Mt 1:18). Vì vậy, Đấng “vốn có hình Đức Chúa
Trời” đã “lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người” (Phi Pl 2:6-7). Là
Đức Chúa Trời và là con người - Chúa Giê-xu đã trở thành nhục thể bởi
quyền năng siêu việt của Đức Thánh Linh và đã sống giữa vòng chúng ta
(GiGa 1:14). Sau nầy chúng ta đọc thấy trong lời của Chúa Giê-xu lliên quan
đến sự chuẩn bị nầy rằng: “Chúa chẳng muốn hi sinh, cũng chẳng muốn lễ
vật, nhưng Chúa đã sắm sửa một thân thể cho tôi” (HeDt 10:5).
Đức Thánh Linh tiếp tục đóng vai trò tích cực trong sự chuẩn bị Chúa Giê-
xu cho chức vụ trên đất của Ngài. Trong khi Kinh thánh không chép rõ sự
dự phần tích cực của Đức Thánh Linh trong sự phát triển thân thể của Chúa
Giê-xu, thì những gì chúng ta đã học cho thấy rằng Đức Thánh Linh đã giúp
sức cho Chúa Giê-xu sau khi Ngài giáng sinh. Lu-ca nói rằng: “Đức Chúa
Giê-xu khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức
Chúa Trời và người ta” (LuLc 2:52).
Giăng Báp-tít bày tỏ sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong cuộc đời của
Chúa Giê-xu khi ông làm phép báp têm cho Ngài: “Ta đã thấy Thánh Linh
từ trời giáng xuống như chim bò câu, đậu trên mình Ngài” (GiGa 1:32).
Giăng còn làm chứng thêm rằng Đức Chúa Trời cho ông biết hễ ai mà ông
thấy Đức Thánh Linh giáng xuống và ngự ở trên là Con của Đức Chúa Trời
(câu 33,34). Sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong đời sống của Chúa Giê-
xu cho thấy rằng Ngài ngự xuống để xức dầu Chúa Giê-xu cho chức vụ, như
chúng ta sẽ thấy.
Sự giáng xuống của Đức Thánh Linh trong hình dạng chim bồ câu là một
dấu hiệu mà mọi người có thể xem thấy. Ngay sau đó, có tiếng của Đức
Chúa Trời từ trời phán rằng: “Ngươi là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi
đường” (LuLc 3:22).
Stanley Horton cho chúng ta biết rằng “Đối với người Do thái, chim bồ câu
không chỉ là biểu tượng của sự dịu dàng và hòa bình. Nó cũng còn là của lễ
chuộc tội mà những người nghèo thay thế cho con chiên (LeLv 5:7). Chúa
Giê-xu là Chiên Con của chính Đức Chúa Trời sắm sẵn như là một sự thay
thế cho những người nghèo, những người cùng khốn và những tội nhân của
thế giới nầy, và luôn cả chúng ta (RoRm 3:23)”(Horton, 1976, trang 90).
Chương 4 của sách Lu-ca nhấn mạnh sự hiện diện của Đức Thánh Linh
trong sự chuẩn bị Chúa Giê-xu cho chức vụ trên đất của Ngài.
8. Câu 1 cho chúng ta biết điều gì về hành động của Đức Thánh Linh ?
...........................................................................................................................
...................................................................................

Chúa Giê-xu chịu ma-quỉ cám dỗ trong 40 ngày. Sự cám dỗ Chúa Giê-xu
xảy ra khi Ngài đang được Đức Thánh Linh hướng dẫn. Mỗi giai đoạn trong
sự huấn luyện và sự phát triển của Chúa Giê-xu đều ở dưới sự canh giữ của
Đức Thánh Linh! Chương 4 cũng cho chúng ta biết rằng sau khi ma-quỉ
chấm dứt sự cám dỗ của nó (và đã thất bại), Chúa Giê-xu trở về Galilê trong
quyền năng của Đức Thánh Linh .
9. Hãy kể ra ba điều được nhắc đến trong đoạn văn cho thấy sự chuẩn bị
Chúa Giê-xu cho chức vụ của Ngài khi Đức Thánh Linh hiện diện và dư
phần cách tích cực.
.......................................................................................................
Sự Xức Dầu Ngôi Lời
Mục tiêu 5: Đưa ra những ví dụ về những phương cách mà Đức Thánh Linh
xức dầu trên chức vụ của Chúa Giê-xu .
Chỉ một thời gian ngắn sau khi quay về Galilê, Chúa Giê-xu về lại thành phố
quê hương Na-za-rét và vào thăm nhà hội. Vào dịp nầy, người ta trao sách
tiên tri Ê-sai cho Ngài. Ngài chọn chương thứ 61 và đọc những lời tiên tri
mô tả về chức vụ của chính Ngài:
“Thần của Chúa ngự trên ta; vì Ngài đã xức dầu cho ta đặng truyền tin lành
cho kẻ nghèo; Ngài đã sai ta để rao cho kẻ bị cầm được tha, kẻ mù được
sáng, kẻ bị hà hiếp được tự do; và để đồn ra năm lành của Chúa”(Luca 4: 18-
19).
10. Chúa Giê-xu đã nói gì sau khi Ngài ngừng đọc đoạn Kinh thánh nầy?
(câu 21)
.......................................................................................................
Chức vụ của Ngài xác nhận lời tuyên bố về sự xức dầu của Đức Thánh Linh
cho Ngài. Ngài đuổi quỉ bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời (Mat Mt 12:28).
Theo sứ đồ Phierơ, chức vụ đuổi quỉ và chữa bịnh của Chúa Giê-xu xuất
phát từ sự xức dầu của Đức Thánh Linh trên đời sống của Ngài (Cong Cv
10:38). Mọi điều Chúa Giê-xu đã phán thì Ngài sẽ làm dưới sự xức dầu của
Đức Thánh Linh, và Ngài đã làm như vậy!
Bạn sẽ phát hiện ra rằng thật thú vị và ích lợi khi đọc bốn sách Tin lành và
liệt kê những lần Chúa Giê-xu chữa bịnh, kẻ mù được sáng, sự hóa bánh ra
nhiều cách kỳ diệu, kẻ điếc được chữa lành, kẻ chết sống lại, và những kẻ bị
quỉ ám được giải thoát khỏi sự gông cùm của ma quỉ và được tự do. Tất cả
những điều nầy là công tác của Đức Thánh Linh trong chức vụ của Chúa
Giê-xu.
11. Đọc Lu-ca chương 8 và 9 rồi liệt kê những công tác của Chúa Giê-xu
được mô tả trong hai chương Kinh thánh nầy. Bạn có thấy được rằng đây là
sự ứng nghiệm của lời tiên tri của Ê-sai?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Trong Mat Mt 12:34 Chúa Giê-xu phán rằng: “Bởi vì do sự đầy dẫy trong
lòng mà miệng nói ra.” Những gì trong lòng bạn sẽ được bày tỏ qua môi
miệng bạn. Bạn có muốn hiểu biết điều ở trong lòng Đức Chúa Trời không?
Đức Thánh Linh sẽ trao tặng Chúa Giê-xu như là Lời của Đức Chúa Trời.
Hãy học những lời và những công việc của Chúa Giê-xu. Ngài là một sự
diễn đạt trọn vẹn của lòng của Đức Chúa Trời.
Ban Sự Vinh Hiển Cho Ngôi Lời
Mục tiêu 6: Nhận diện phương cách mà Đức Thánh Linh ban sự vinh hiển
cho Chúa Giê-xu và khiến cho con người có thể phục hồi mối tương giao với
Đức Chúa Trời .
Sứ điệp về tình yêu của Đức Chúa Trời quan trọng hơn cả sự giảng dạy,
chữa lành kẻ bịnh, hay đuổi quỉ. Sứ điệp nầy cũng có ý nói đến sự chết của
Chiên Con của Đức Chúa Trời vì tội lỗi của thế gian.
Thập tự giá là một sự thử thách kinh khiếp, tuy nhiên Chúa Giê-xu đã tự
nguyện chấp nhận, cùng với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh. Đấng chẳng
biết tội lỗi đã gánh tội lỗi của tất cả nhân loại trên thân thể của chính Ngài và
phó sự sống mình để làm một sinh tế trọn vẹn cho Đức Chúa Trời. Tác giả
thư Hêbơrơ cho chúng ta biết phương cách mà Chúa Giê-xu đã thực hiện
điều nầy: “... Đấng Christ, là Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời, dâng chính
mình không tì tích cho Đức Chúa Trời” (HeDt 9:14). Khi nói về sự chết và
sự sống lại của Đấng Christ, Phierơ đã làm chứng cho người Giu-đa rằng:
“Còn chúng ta đây là kẻ làm chứng về mọi việc đó, cũng như Đức Thánh
Linh ...” (Cong Cv 5:32).
Đức Thánh Linh hiện diện trong quyền năng sáng tạo khi Chúa Giê-xu thành
nhục thể; Ngài hiện diện trong quyền năng xức dầu trên chức vụ của Đấng
Christ; Ngài hiện diện trong quyền năng ban sức lực trong giờ phút trọng đại
của sự cần yếu của Đấng Christ trên thập tự giá; và Ngài hiện diện trong
quyền năng phục sinh để ban sự chiến thắng sự chết. Ngài là Đức Thánh
Linh, Đấng khiến Chúa Giê-xu sống lại từ trong kẻ chết (RoRm 8:11).
Ngay trước khi trở về cùng Cha, Chúa Giê-xu dạy rằng hễ ai tin Ngài sẽ
được phục hồi mối tương giao với Đức Chúa Trời. Ngài hà hơi trên các môn
đồ và phán rằng: “Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh” (GiGa 20:22).
Từ buổi ban đầu, hơi thở của Đức Chúa Trời khiến con người trở thành một
loài có linh hồn bất diệt. Bây giờ, trong buổi gặp mặt ngắn với các môn đồ
trước khi Ngài về trời, Đức Chúa Con một lần nữa hà hơi trên con người,
ngụ ý rằng bởi quyền năng của Đức Thánh Linh, sự sống thuộc linh được
phục hồi trọn vẹn cho những ai tin cậy Chúa Giê-xu và tin cậy Lời của Ngài.
Đây là công tác vinh hiển trong chức vụ của Chúa Giê-xu. Bởi sự phục sinh,
là điều bày tỏ sự chiến thắng của Đấng Christ trên tội lỗi và sự chết, con
người có thể được phục hòa với Đức Chúa Trời. Sự chết thuộc linh bị bẻ tan
khi tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ.
12. Điều gì khiến Chúa Giê-xu có thể chấp nhận thập tự giá và phó sự sống
của Ngài vì chúng ta?
.......................................................................................................
13. Đức Thánh Linh đã dùng cách nào trong những phương cách sau để tôn
vinh chức vụ của Chúa Giê-xu và khiến con người có thể phục hồi trọn vẹn
mối tương giao của mình với Đức Chúa Trời? Qua
a) quyền năng sáng tạo của Ngài.
b) quyền năng xức dầu của Ngài.
c) quyền năng ban sức lực của Ngài.
d) quyền năng phục sinh của Ngài.
NHỮNG BỨC THƯ SỐNG
Mục tiêu 7: Tìm ra những khuôn mẫu trong những đoạn Kinh thánh cho
trước nói lên trách nhiệm của chúng ta khi trở thành những bức thư sống,
được Đức Thánh Linh dạy dỗ, ban quyền năng và cai trị .
Được Đức Thánh Linh Dạy Dỗ
Chúa Giê-xu biết rỏ sự yếu đuối và năng lực của các môn đồ của Ngài.
Nhiều lần Ngài đã quở trách lòng vô tín và thái độ sai lầm của họ, tuy nhiên,
kế hoạch của Ngài vẫn luôn là sau khi Ngài về trời họ sẽ rao truyền phúc âm
của Ngài. Tương lai của công tác Ngài trên đất phụ thuộc vào họ. Họ phải tỏ
bày Ngài ra. Làm sao Ngài có thể giao phó cho các môn đệ của mình những
trọng trách như vậy khi Ngài không còn ở với để hướng dẫn họ?
Câu trả lời rất đơn giản. Nó tập trung vào Ngôi Vị thần thượng là Đấng sẽ
đến để thay thế Ngài như là Đấng giúp đỡ họ. Chính Thánh Linh đã giáng
xuống trên Ngài cũng sẽ giáng xuống trên họ. Sau khi Chúa Giê-xu chấm
dứt công tác của Ngài và được vinh hiển, các môn đồ sẽ nhận lãnh Đức
Thánh Linh, và Ngài sẽ là Đấng hướng dẫn và ban quyền năng để họ trở
thành những chứng nhân trung tín của Ngài.
Trong vai trò là Người Cố Vấn, Chúa Giê-xu phán rằng Đức Thánh Linh sẽ
dạy dỗ các môn đệ của Ngài. Đấng Cố Vấn sẽ ban cho họ khả năng nhớ lại
những điều dạy dỗ của Thầy. Chúng ta có thể chắc chắn rằng Đấng Cố Vấn
không chỉ nhắc lại những lời Chúa Giê-xu đã phán, mà còn cả đến vô số
những ví dụ trong việc đáp ứng những nhu cầu khác nhau của dân chúng
(GiGa 14:26; 15:26). Hơn nữa, trong khi dạy dỗ các môn đồ, Chúa Giê-xu
phán rằng Đấng Cố Vấn sẽ dẫn họ vào mọi lẽ thật. Điều này hàm ý rằng
Thần lẽ thật sẽ ban cho họ khả năng phân biệt giữa lẽ thật của Ngài và thần
sai lầm (so sánh GiGa 16:13 và IGi1Ga 4:1-6). Ngài cũng sẽ ban cho họ sự
nhận biết sâu sắc về tương lai, với một sự nhận biết sự tương xướng giữa
trách nhiệm hiện tại và phần thưởng trong tương lai.
Sự dạy dỗ mà các môn đồ của Đấng Christ đã tiếp nhận và truyền đạt cho
những người khác không phải chỉ là những lời được viết trên bản đá như
Môi-se đã nhận lãnh trên núi Si-nai. Đây không phải đơn thuần là “sự nhận
biết của cái đầu” mà nó chỉ liên quan đến đời sống thực tế rất ít, cũng không
phải là điều được viết ra với mực và viết, như những bức thư của sứ đồ
Phao-lô. Sự dạy dỗ mà họ nhận lãnh đã được “tiếp thu”, nghĩa là sự dạy dỗ
nầy trở thành một phần của họ, bởi vì nó được Đức Thánh Linh viết lên tấm
lòng bằng thịt của họ, như Phao-lô viết trong Côrinhtô rằng:
Vả, rõ thật rằng anh em là bức thư của Đấng Christ, bởi chức vụ chúng tôi
viết ra, chẳng phải viết bằng mực, nhưng bằng Thánh Linh của Đức Chúa
Trời hằng sống, chẳng phải viết trên bảng đá, nhưng trên bảng thịt, tức là
trên lòng anh em (IICo 2Cr 3:3).
Thông điệp trở thành một phần của người rao truyền thông điệp khi thông
điệp ấy được Đức Thánh Linh viết lên tấm lòng của họ. Họ thật sự trở nên
những bức thư sống .

NHỮNG BỨC THƯ SỐNG


ĐƯỢC ĐỨC THÁNH LINH DẠY DỖ, BAN QUYỀN NĂNG,CAI TRỊ
Bạn có phải là một bức thư sống không? Sứ điệp của Đức Chúa Trời có
được Đức Thánh Linh viết trên lòng của bạn không? Bạn có trung tín trao
chuyển sứ điệp của Ngài cho những người khác không?
14. Sắp xếp những đoạn Kinh thánh trưng dẫn với những sự mô tả thích hợp
về chức vụ dạy dỗ của Đức Thánh Linh được nói ra cách rỏ ràng hoặc ngụ ý.
1) ICo1Cr 2:13
2) Cong Cv 1:8
3) GiGa 14:26
4) ICo1Cr 2:12
5) 2:14
6) RoRm 8:13
. . . a người được đức thánh linh dạy dỗ thì được tăng trưởng trong sự phân
biệt thuộc linh
. . . b Những gì người tín hữu nói ra đều ở trên một mức độ thuộc linh nào
đó, bởi vì người ấy được Đức Thánh Linh dạy dỗ để diễn đạt lẽ thật thuộc
linh bằng những từ ngữ thuộc linh.
. . . c Vai trò của Đức Thánh Linh là dạy và nhắc lại mọi điều thuộc về Đấng
Christ.
. . . d Khả năng để hiểu biết những kiến thức và kinh nghiệm thuộc linh đén
từ Đức Thánh Linh
. . . e Đức Thánh Linh chỉ cho chúng ta biết sự yếu đuối và những hành vi
sai trái của chúng ta, và Ngài giúp đỡ chúng ta chiến thắng chúng.
. . . f Đức Thánh Linh soi sáng chúng ta trong những trách nhiệm của chúng
ta để ban cho chúng ta kinh nghiệm thuộc linh.
Được Đức Thánh Linh Ban Quyền Năng
Để trở thành một bức thư sống có hiệu quả, chúng ta phải có quyền năng của
Đức Thánh Linh. Chúa Giê-xu biết rỏ điều này khi Ngài phán rằng: “Sự
sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc
lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời”(Mat Mt 5:16).
Chúa Giê-xu cũng biết rõ tầm quan trọng của quyền năng của Đức Thánh
Linh khi Ngài phán truyền các môn đồ Ngài đi rao giảng tin lành cho khắp
thế giới. Vì vậy, Ngài căn dặn họ “hãy đợi trong thành cho đến khi được
mặc lấy quyền phép từ trên cao” (LuLc 24:49), đó là ân tứ của Đức Thánh
Linh mà bởi đó họ đã được báp-têm (Cong Cv 1:4-5). Phao-lô đã nhìn thấy
được mối liên hệ giữa đời sống Cơ đốc gương mẫu và sự ban quyền năng
của Đức Thánh Linh. Vì vậy trong Rôma chương 8 ông khuyên bảo các tín
hữu tại Hội thánh Rôma hãy để cho Đấng giúp đỡ quyền năng kiểm soát đời
sống họ (c.6) và chiến thắng các công việc hay chết của họ (c.13). Với sự
giúp đỡ của Đức Thánh Linh chúng ta có thể tin chắc vào quyền làm con và
cơ nghiệp đời đời của chúng ta (c.15-17). Sự nhận biết nầy làm cho chúng ta
đối diện với những giây phút tăm tối nhất của cuộc sống với sự bình an, bởi
vì sự sợ hãi đã được thay thế bằng sự an ninh (c.15). Chúng ta có thể bình
tịnh trong những lúc sóng gió của cuộc sống bủa vây bởi sự giúp đỡ của Đức
Thánh Linh; và chúng ta sẽ phản chiếu sự bình an và tình yêu của Ngài.
15. Đọc IPhi 1Pr 3:8-16. Theo sứ đồ Phierơ, khi trở thành bức thư sống sẽ
ảnh hưởng như thế nào trên những kẻ gièm chê các việc lành của bạn?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Được Đức Thánh Linh Cai Trị
Phao-lô nói rằng, là một bức thư sống, bạn được “mọi người đều biết và đều
đọc” (IICo 2Cr 3:2). Điều quan trọng là Đức Thánh Linh, Đấng đã viết sứ
điệp trong lòng bạn, sẽ kiểm soát những động cơ và thái độ của cuộc đời
bạn. Bạn phải truyền đạt Đức Chúa Trời cho thế gian. Chắc chắn rằng thế
gian sẽ nhìn xem bạn cũng như lắng nghe điều bạn nói. Và hành động của
bạn sẽ nói lớn hơn là những lời của bạn.
GaGl 5:13-26 cho chúng ta thấy rõ một đời sống mẫu mực trong Đức Thánh
Linh là thể nào. Khi chúng ta được Đức Thánh Linh hướng dẫn, chúng ta sẽ
không còn làm điều đẹp ý chúng ta. Sự tự do mà Đấng Christ ban cho chúng
ta không phải là sự tự do để chiều theo những thú vui tội lỗi, nhưng là
phương tiện để rao truyền tình yêu của Đấng Christ cho thế gian tội lỗi.
Đoạn Kinh thánh nầy cho chúng ta hai sự liệt kê hoàn toàn tương phản nhau.
Một bản liệt kê mô tả công việc của bản chất tội lỗi. Bản kia mô tả công việc
của những ai được Đức Thánh Linh cai trị. Công việc của bản chất tội lỗi là
ích kỷ, không quan tâm đến người khác; còn công việc của người được Đức
Thánh Linh cai trị là những biểu hiện của tình yêu đối với người khác.
Phương cách duy nhất mà chúng ta có thể truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa
Trời cho người khác cách hiệu quả là ở dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của
Đức Thánh Linh.
16. hoàn chỉnh biểu đồ sau bằng cách liệt kê công việc của bản chất tội lỗi
và thái độ của một người được Đức Thánh Linh cai trị.
5:19-23
- Công việc của bản chất tội lỗi
- Thái độ khi được Thánh Linh cai trị
17. Đọc RoRm 8:1-8 và trả lời các câu hỏi sau.
a. Mô tả tình trạng của chúng ta khi chúng ta bị bản chất tội lỗi cai trị.
.......................................................................................................
b. Tình trạng nầy được thay đổi như thế nào khi chúng ta được Đức Thánh
Linh cai trị?
.......................................................................................................
Để kết thúc bài học nầy, hãy đọc lại LuLc 4:18-19. Trong phần Kinh thánh
nầy, Chúa Giê-xu, là Lời hằng sống, tuyên bố những điều Ngài đã đến để
thực hiện dưới sự xức dầu của Đức Thánh Linh. Ngài chứng minh sự vâng
phục của mình bằng chính đời sống và hành động của Ngài. Sứ đồ Giăng
nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta thật sự yêu mến Đức Chúa Trời và thừa
nhận quyền chủ trị của Chúa Giê-xu, đức tin chúng ta sẽ cho phép chúng ta
chiến thắng thế gian. Hành động của chúng ta dưới sự kiểm soát của Đức
Thánh Linh sẽ được Đức Chúa Trời chấp nhận. Giăng cũng nói rằng nếu
chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ vâng theo các điều răn Ngài.
Chúng ta sẽ bày tỏ tình yêu của chúng ta bằng những hành động cụ thể.
Nguyên mỗi chúng ta đuợc Đức Thánh Linh ban ơn để “sống” như Đức
Chúa Trời muốn chúng ta sống và “làm” những gì Ngài muốn chúng ta làm.
Và rồi chúng ta sẽ đem vinh hiển về cho Danh Ngài.
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Dựa trên phần đã thảo luận, hãy chọn câu trả lời tốt
nhất cho mỗi câu hỏi. Khoanh tròn các mẫu tự trước những câu trả lời của
bạn.
1. Chúng ta được cứu khỏi sự chết đời đời bởi sự nghe Lời của Đức Chúa
Trời và
a) nói cho người khác những gì chúng ta đã nghe.
b) ghi nhớ những gì chúng ta đã nghe.
c) làm theo những gì chúng ta đã nghe.
2. Đức Chúa Trời muốn Lời của Ngài được viết ra bởi vì Ngài biết rằng một
sứ điệp được nói ra bằng miệng
a) có thể được nhiều người nghe.
b) bị thay đổi khi sứ điệp ấy được truyền lại.
c) sẽ luôn luôn y nguyên.
d) đáng tin tưởng hơn.
3. Khi chúng ta nói rằng Lời được viết ra của Đức Chúa Trời là vô ngộ,
chúng ta có ý nói rằng Lời ấy
a) từng phần được Đức Thánh Linh soi dẫn.
b) được viết ra bởi những con người kính sợ Đức Chúa Trời.
c) được kết hợp bởi nhiều sách khác nhau trong một thời gian rất dài.
d) không sai trật.
4. Việc làm cho một điều kín giấu được biết đến được gọi là
a) sự soi dẫn.
b) sự khải thị.
c) sự soi sáng.
d) sự truyền đạt.
5. Nếu chúng ta tin sự soi dẫn trọn vẹn có nghĩa là chúng ta tin rằng
a) Kinh thánh được Đức Thánh Linh soi dẫn trong mức độ đầy đủ nhất.
b) những người viết Kinh thánh không thật sự hiểu những điều họ viết.
c) Đức Thánh Linh ban sứ điệp của Đức Chúa Trời cho những người viết lại
sứ điệp ấy tùy theo sự hiểu biết của họ.
d) hầu hết các sách trong Kinh thánh được Đức Thánh Linh soi dẫn.
6. Bởi sự soi sáng của Thánh Linh mà tín hữu có thể
a) biết những đoạn Kinh thánh nào được soi dẫn.
b) bày tỏ cảm xúc của họ với Đức Chúa Trời.
c) hiểu ý nghĩa của Kinh thánh.
7. Trong cái nhìn về số người viết Kinh thánh và khoảng thời gian Kinh
thánh được viết, điều đáng lưu ý nhất là
a) Sự Hiệp nhất của Kinh thánh.
b) Sự giống nhau về văn phong.
c) Sự thay đổi những phong tục mà Kinh thánh mô tả.
d) Tác động của Đức Thánh Linh trong việc viết Kinh thánh.
8. Yếu tố giữ Lời được viết ra của Đức Chúa Trời không mắc phải những sai
trật khi được truyền lại cùng với thời gian là
a) sự kiểm soát của Hội thánh.
b) sự xác nhận của Chúa Giê-xu rằng Kinh thánh là Lời của Đức Chúa Trời.
c) sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh.
9. Một chứng cớ quan trọng chứng minh Kinh thánh là công việc của Đức
Thánh Linh ấy là Kinh thánh
a) được dịch ra nhiều ngôn ngữ.
b) được những người không tin thừa nhận rằng đó là Lời của Đức Chúa
Trời.
c) vẫn còn tác động đến đời sống của con người ngày hôm nay.
10. Biểu hiện đầu tiên của Đức Thánh Linh trên Đức Chúa Giê-xu là trong
a) sự giáng sinh của Ngài.
b) sự chịu phép báp têm của Ngài.
c) sự chịu cám dỗ của Ngài.
d) sự sống lại của Ngài.
11. Sự xức dầu của Đức Thánh Linh trên Chúa Giê-xu được thể hiện qua
a) chức vụ của Chúa Giê-xu.
b) sự chết của Chúa Giê-xu.
c) sự phục sanh của Chúa Giê-xu.
d) tất cả những câu trả lời trên.
e) câu trả lời a) và c).
12. Cách duy nhất để chúng ta trở thành những bức thư sống phải là
a) được Đức Thánh Linh cai trị.
b) được linh của chúng ta cai trị.
c) mục sư hoặc giáo sĩ.

Trả Lời Câu Hỏi Nghiên Cứu


1. b) Sự khải thị. (Nếu bạn trả lời là Sự soi dẫn , bạn cũng có thể đúng.
Những sự kiện liên quan đến tương lai được bày tỏ qua sự khải thị; trong khi
đó, bằng sự soi dẫn, các tiên tri được cho phép ghi chép lại chính xác sứ điệp
họ nhận lãnh từ Đức Chúa Trời.)
2. c) sự soi sáng.
3. a. toàn diện
b. từng lời từng chữ
c. vô ngộ
4. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ trả lời rằng điều đó là cần thiết bởi vì một sứ
điệp được viết ra đáng tin cậy hơn là một sứ điệp chuyển giao bằng miệng
( nghĩa là sứ điệp ấy vẫn cứ y nguyên). Cũng vậy, một sứ điệp được viết ra
làm cho tất cả Lời của Đức Chúa Trời luôn sẵn sàng cho mọi người, hoàn
chỉnh và không thay đổi.
5. Đức Thánh Linh , Đấng kiểm soát sự ghi chép Kinh thánh cũng đã bảo vệ
Kinh thánh trong việc sao chép lại cho những thế hệ kế tiếp.
6. a 4) Thi Tv 110:1.
b 3) EsIs 61:1-2.
c 6) Gio Ge 2:28-32.
d 1) ChCn 25:21-22
e 5) HaKb 2:4.
f 2) Gie Gr 31:33.
7. a Thi Tv 119:89; EsIs 40:8; Mat Mt 5:18; IPhi 1Pr 1:25.
b PhuDnl 8:3; Thi Tv 119:103; IPhi 1Pr 2:2.
c Thi Tv 119:9; GiGa 15:13; 17:17; IPhi 1Pr 1:22; Eph Ep 5:25-26.
d RoRm 15:4; IGi1Ga 5:13.
e Thi Tv 126:6. Mac Mc 4:14-20; 16:15-20.
f IVua 1V 8:56 (cũng xem Mat Mt 5:18).
8. Chúa Giê-xu được đầy dẫy Đức Thánh Linh và được Đức Thánh Linh dẫn
vào đồng vắng.
9. Trong sự giáng sinh, phép báp têm và sự chịu ma quỉ cám dỗ của Ngài.
10. “Hôm nay đã được ứng nghiệm lời Kinh thánh mà các ngươi mới vừa
nghe đó”
11. Ngụ ngôn và sự dạy dỗ; dẹp yên cơn bão; chữa lành người bị quỉ ám;
cứu sống con gái Giai-ru từ kẻ chết; sai mười hai môn đồ đi giảng đạo và
chữa bịnh; hóa bánh cho năm ngàn người ăn; sự hóa hình; chữa lành đứa bé
bị quỉ ám.
12. Quyền năng ban năng lực của Đức Thánh Linh
13. d) quyền năng phục sinh
14. a. 5) ICo1Cr 2:14.
b. 1) 2:13.
c. 3) GiGa 14:26
d. 4) ICo1Cr 2:12.
e. 6) RoRm 8:13.
f. 2) Cong Cv 1:8.
15. Phierơ nói rằng những kẻ gièm chê sẽ hổ thẹn. Hành động của những Cơ
đốc nhân như vậy sẽ chứng tỏ cách quyền năng rằng phúc âm có thể thay đổi
cuộc đời của những tội nhân.
16. Cột A:
Gian dâm, ô-uế, luông tuồng, thờ hình tượng, phù phép, thù oán, tranh đấu,
ganh ghét, buồn giận, bất bình, bè đảng, ganh gỗ, say sưa, mê ăn uống, cùng
các sự khác giống như vậy.
Cột B:
Lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung
tín, mềm mại, tiết độ.
17. a. Tâm trí chúng ta xu hướng chiều theo bản chất tội lỗi.
b. Tâm trí chúng ta xu hướng về việc làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.

ĐỨC THÁNH LINH ĐẤNG TÁI TẠO


Bạn đã bao giờ nhìn một đứa bé mới được sinh ra và lấy làm ngạc nhiên về
sự kỳ diệu của Tạo Hóa. Sinh vật bé nhỏ bắt đầu bằng hai bào tử không thể
thấy được bằng mắt thường bây giờ có đủ mọi điều cần thiết để lớn lên và
trở thành một con người có trưởng thành, thông minh và có trách nhiệm.
Càng kỳ diệu hơn, hai bào tử bé nhỏ kết hợp với nhau ấy cho ra một sự sống
mới có đầy đủ mọi thành tố trong đứa bé như mái tóc nâu của người mẹ,
thân hình của người cha, tính tình của ông ngoại hàm răng của bà nội, hay vẻ
mặt vui nhộn của chú năm. Tuy nhiên, đứa bé sẽ trở thành một cá nhân với
những đặc tính đặc thù của nó, không giống bất cứ một ai, và chịu trách
nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời cho những chọn lựa của nó.
Sự dự phòng không chỉ được sắm sẵn cho sự phát triển thân thể vật lý của
chúng ta, nhưng cũng sẵn sàng cho sự tái sanh thuộc linh của chúng ta nữa.
Sự dự phòng nầy được thực hiện qua công tác của Đức Thánh Linh trong đời
sống chúng ta, lên án tội lỗi, đem đến sự ăn năn, ngự vào lòng chúng ta, và
tiếp nhận chúng ta vào trong gia đình của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta đồng
công với Đức Thánh Linh, chúng ta được ban cho đời sống mới trong Đấng
Christ, và trở thành kẻ đồng kế tự với Ngài cơ nghiệp trên trời mà Đức Chúa
Cha đã dành sẵn cho chúng ta. Sự sanh ra thuộc linh đem đến khả năng để
chúng ta phát huy đặc tính của Ngài và trở nên giống như Ngài.

Trong bài học nầy chúng ta sẽ thấy rằng chính Đức Thánh Linh là Đấng tái
tạo chúng ta, và bởi Ngài chúng ta có quyền năng để sống như cách Đức
Chúa Trời muốn chúng ta sống. Ngài là Thánh Linh Sự Sống, là Đấng ban
cho chúng ta sự sống đời đời và khiến chúng ta đồng hưởng cơ nghiệp với
Cứu Chúa Giê-xu Christ.
Dàn Ý Bài Học
Đức Thánh Linh bắt phục
Đức Thánh Linh Sự Sống
Đức Thánh Linh của Sự Nhận Làm Con
Các Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Mô tả công tác của Đức Thánh Linh trong việc cáo trách tội lỗi và đem đến
sự ăn năn.
Giải thích kết quả khi Đức Thánh Linh ban sự sống cho một tội nhân ăn năn
và ngự vào lòng người ấy.
Định nghĩa thuật ngữ sự nên thánh bởi Đức Thánh Linh và sự nhận làm con
bởi Đức Thánh Linh
Nhận diện những đặc quyền và trách nhiệm của những người được tiếp nhận
vào gia đình của Đức Chúa Trời bởi quyền năng tái tạo của Đức Thánh
Linh.
Các Hoạt Động Học Tập
Để chuẩn bị cho bài học nầy, hãy đọc lại hai phần đầu của Bài 3: Ngài Bắt
Phục và Ngài Tái Sanh .
Nghiên cứu bài học như đã chỉ dẫn trong phần những hoạt động học tập
trong Bài học 1. Hãy đọc tất cả những đoạn Kinh thánh trưng dẫn và trả lời
những câu hỏi nghiên cứu.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Những Từ Ngữ Then Chốt
A-ba
chống đối
phù hợp
thánh hóa,(sư)
tôn vinh
thánh hóa
kẻ kế tự
nói tiên tri
kẻ dự phần
hư mất
ăn năn, sự vi phạm, (sự)
Khai Triển Bài Học
ĐỨC THÁNH LINH BẮT PHỤC
Đem đến Sự Cáo Trách
Mục tiêu 1: Từ những đoạn Kinh thánh trưng dẫn, chỉ ra những kết quả của
quyền năng cáo trách của Đức Thánh Linh .

Trong Bài học 3 chúng ta thấy rằng Đức Thánh Linh được sai đến thế gian
để cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình, và về sự phán xét. Bây giờ
chúng ta hãy quay lại bài 3 và đọc lại hai phần đầu: Ngài Bắt Phục và Ngài
Tái sanh để làm nền tảng cho bài học nầy.
Chỉ một mình Đức Thánh Linh mới có thể bắt phục một tội nhân về nhu cầu
cần đến Đức Chúa Trời của mình. Đa-vít, dưới quyền năng cáo trách của
Đức Thánh Linh, đã cầu nguyện rằng: “Vì tôi nhận biết các sự vi phạm tôi,
tội lỗi hằng ở trước mặt tôi. Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ một mình Chúa
thôi, và làm điều ác trước mặt Chúa” (Thi Tv 51:3-4).
Đức Thánh Linh thường xử dụng những chứng nhân để phán với tội nhân.
Sau đây là những ví dụ từ trong Kinh thánh:
1. Phierơ . Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, lời hứa ban Đức Thánh Linh của Chúa
Giê-xu đã xảy ra. Phierơ, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, đứng lên giảng tin
lành về Đức Chúa Giê-xu Christ cho dân chúng. Bài giảng của ông được
chép trong Cong Cv 2:14-36.
Khi dân chúng đã nghe lời giảng của Phierơ, thì “trong lòng cảm động”(c.
37). Phierơ rao giảng dưới sự xức dầu của Đức Thánh Linh, và chính quyền
năng cáo trách của Đức Thánh Linh chạm đến lòng của họ, khiến họ hỏi
rằng: “Hỡi anh em, chúng ta phải làm chi?”
2. Phao-lô . Trong thư gởi cho Hội thánh Côrinhtô, sứ đồ Phao-lô cho họ
biết điều gì sẽ xảy ra khi một người không tin đến nghe trong một buổi
nhóm nơi mà mọi người đang nói tiên tri bởi quyền năng xức dầu của Đức
Thánh Linh. Ông nói: “thì họ sẽ bị mọi người bắt phục, và bị mọi người xét
đoán, sự kín dấu trong lòng họ đã bị tỏ ra, họ bèn sấp mặt xuống đất, thờ lạy
Đức Chúa Trời và nói rằng thật có Đức Chúa Trời ở giữa anh em” (ICo1Cr
14:24-25).
3. Ê-tiên . Một trong những chấp sự đầu tiên được các sứ đồ chọn là Ê-tiên,
“là người đầy đức tin và Đức Thánh Linh” (Cong Cv 6:5). Ê-tiên đã làm
nhiều dấu kỳ phép lạ giữa dân chúng, và những nhà lãnh đạo Do thái bắt đầu
chống đối ông. 6:9-10 ghi lại rằng: “ (những người nầy) nổi lên cải lẫy cùng
Ê-tiên. Song chúng không chống lại nổi với trí khôn người và Đức Thánh
Linh, là Đấng nhờ người mà nói”
Công vụ đoạn 7 ghi lại bài giảng của Ê-tiên trước tòa công luận. Quyền năng
cáo trách của Đức Thánh Linh rất mạnh mẽ, được bày tỏ qua những lời kết
luận của Ê-tiên: “Hỡi những người cứng cổ, lòng và tai chẳng cắt bì kia! Các
ngươi cứ nghịch với Đức Thánh Linh hoài ...”(c.51).
1. Điều gì đã xảy ra sau bài giảng của Phierơ (2:41)?
...........................................................................................................................
..................................
2. Có phải mọi người đã nghe Phao-lô giảng đều ăn năn để đáp lại quyền
năng cáo trách của Đức Thánh Linh không?
...........................................................................................................................
..................................
3. Điều gì xảy ra sau bài giảng của Ê-tiên (7:54-60)?
...........................................................................................................................
..................................
Mặc dù sứ đồ Phao-lô là người học thức rất cao, ông nói với những người
Côrinhtô rằng: “Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết
khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép;
hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là
trên quyền phép Đức Chúa Trời”(ICo1Cr 2:4-5). Phao-lô đã kinh nghiệm
được sự phụ thuộc vào quyền năng cáo trách của Đức Thánh Linh để đem
tội nhân đến với Đấng Christ.

Đem đến sự ăn năn


Mục tiêu 2: Từ những ví dụ cho sẵn, phân biệt những câu đúng dựa trên ý
nghĩa của sự ăn năn và phần của Đức Thánh Linh trong việc đem con người
đến sự ăn năn .
Chỉ một mình Đức Thánh Linh mới có thể bắt phục con người về nhu cầu
cần Đức Chúa Trời của mình, nhưng Ngài không bắt buộc tội nhân ăn năn.
Sự ăn năn đòi hỏi một hành động đức tin của tội nhân khi người ấy đáp ứng
lại sự cáo trách của Đức Thánh Linh. Phao-lô nói với người Côrinhtô rằng:
Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự ăn năn, và sự ăn năn dẫn
đến sự cứu rỗi; về sự đó, người ta chẳng hề hối tiếc”(IICo 2Cr 7:10, bản
NIV)
Đây là sự buồn rầu mà Đavít diễn tả trong Thi Tv 51:3-4. Sự buồn rầu theo ý
Đức Chúa Trời khiến tội nhân nhìn thấy mình như Đức Chúa Trời nhìn thấy
người đó, bởi vì chính Thánh Linh của Đức Chúa Trời bày tỏ cho người ấy
biết cách mà Đức Chúa Trời nhìn mình (ICo1Cr 2:11).
Sự ăn năn là gì ?
Sự ăn năn là hành động của một người nhận biết tội lỗi, quay khỏi nó, xưng
ra với Đức Chúa Trời, và hoàn toàn từ bỏ nó. Sự ăn năn ảnh hưởng đến mọi
phần trong chúng ta: sự khôn ngoan (hoặc tâm trí), tình cảm (hoặc cảm xúc),
và ý chí (được biểu lộ qua hành động). Vì vậy, sự ăn năn là một sự thay đổi
tâm trí, thái độ và hành vi của bạn đối với tội lỗi. Nó bao gồm cả sự nhận
biết những sai lầm mà bạn đã vi phạm và sự buồn rầu, đau đớn theo ý Đức
Chúa Trời bởi sự sỉ nhục mà chúng gây cho Ngài. Nó không phải chỉ là một
sự hối tiếc sâu xa cho hành động tội lỗi hoặc một lời hứa sẽ không vi phạm
nữa, nhưng là sự tự xét đoán mình trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Điều nầy sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có một sự thức tỉnh của lương
tâm đối với tội lỗi và quyết định từ bỏ nó, cùng với sự giúp đỡ của Đức
Thánh Linh.
1. Thay đổi tâm trí . Sự thay đổi tâm trí nầy xuất phát từ một sự nhận biết
rằng mình đã không phải với Đức Chúa Trời. Nó là kết quả từ sự nhận biết
rằng mình đang đối diện với một điều sai lầm - rằng kết quả của sự sai lầm
này sẽ là sự hư mất. Khi thấy được tình cảnh khốn nạn của mình, đứa con
hoang đàng đã nhận ra điều mình đã làm và quyết định: “Ta sẽ đứng dậy trở
về cùng cha”(LuLc 15:17-19). Cùng với sự ăn năn là sự nhận biết rằng Đức
Chúa Giê-xu Christ là giải pháp duy nhất cho nan đề tội lỗi. Chỉ qua đức tin
vào Đấng Christ mà chúng ta mới có sự tự do đối với tội lỗi.
2. Thay đổi cảm xúc . Sự nhận biết tình trạng tội lỗi của mình đem đến cho
tội nhân cảm xúc buồn rầu, đau đớn. Phao-lô nói đến điều nầy trong thư tín
thứ hai ông gởi cho người Côrinhtô: “... nay tôi lại mừng, không phải mừng
về sự anh em đã phải buồn rầu, song mừng về sự buồn rầu làm cho anh em
sanh lòng hối cải. thật anh em đã buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời, đến nỗi
chưa chịu thiệt hại bởi chúng tôi chút nào”(IICo 2Cr 7:9). Đa-vít bày tỏ cảm
xúc của mình trong Thi Tv 38:18 rằng: “Vì tôi sẽ xưng gian ác tôi ra, tôi
buồn rầu vì tội lỗi tôi”. Bên cạnh mức độ của sự đau đớn mà một người cảm
thấy hoặc bày tỏ, điều quan trọng là sự xung tội lỗi của người ấy và quyết
định lìa bỏ chúng.
3. Sự thay đổi hành động . Trong khi điều quan trọng là nhận biết tội lỗi và
xưng ra , thì sự lìa bỏ nó cũng quan trọng như vậy. Nếu đứa con trai hoang
đàng chỉ nhận biết tình trạng khốn nạn của mình chỉ đau buồn mà thôi, thì
điều đó chưa đủ. Giây phút quyết định cho kinh nghiệm ăn năn của nó là
khi, qua một hành động của ý chí, “nó bèn đứng dậy mà về cùng Cha mình”
(LuLc 15:20). Sự ăn năn liên quan đến mọi phần trong đời sống chúng ta.
Nó không chỉ là sự nhận biết tội lỗi và đau buồn về những việc đã qua,
nhưng còn là những quyết định của chúng ta cho tương lai. Đó là sự từ bỏ
đường lối của chúng ta để đi theo đường lối của Đức Chúa Trời trong sự
vâng phục và sự tương giao với Ngài.
Ai là người phải ăn năn ?
Ăn năn là lời kêu gọi cho tất cả mọi người. “Vậy thì, Đức Chúa Trời đã bỏ
qua các đời ngu muội đó, mà nay biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều
phải ăn năn ”(Cong Cv 17:30). Lời kêu gọi nầy dành cho tất cả mọi người.
Tất cả những ai chưa tin nhận Đấng Christ đều được mời đến để ăn năn,
nhận lãnh sự tha thứ của Đức Chúa Trời, và trở thành một thành viên trong
gia đình của Ngài (GiGa 3:15-17; Tit Tt 2:11; KhKh 22:17).
Sứ điệp ăn năn cũng dành cho những người đã tin nhận Đấng Christ và trở
thành những môn đệ của Ngài. Trong khi những tín hữu đã được thay đổi và
không còn ở dưới sự kiểm soát của tội lỗi, đôi khi họ cũng có thể bỏ qua
những trách nhiệm thuộc linh của mình hoặc không đáp ứng lại với dự
hướng dẫn của Đức Thánh Linh cho sự tăng trưởng thuộc linh của họ, hoặc
phạm vào một tội nào đó (so sánh RoRm 8:5-11 với Eph Ep 4:17-32). Cho
dù nan đề như thế nào đi nữa, thì sự ăn năn vẫn là giải pháp cho những thất
bại và tội lỗi. Lời hứa về sự tha thứ của Đức Chúa Trời cho Cơ đốc nhân
được chép trong IGi1Ga 1:9, nhưng chỉ có thể được áp dụng cho những ai
sẵn sàng ăn năn. Trong đoạn 2 và 3 của sách Khải huyền, lời kêu gọi ăn năn
được lặp lại cho năm trong số bảy Hội thánh được nói đến. Năm Hội thánh
nầy được Đức Thánh Linh kêu gọi ăn năn hoặc sẽ mất lời chứng của mình,
ăn năn hoặc bị phán xét, ăn năn hoặc chịu khổ nạn, ăn năn hoặc hư mất, ăn
năn hoặc bị ném ra ngoài. Lời kêu gọi: “Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh
Linh phán cùng các Hội thánh” (KhKh 2:7) được lặp lại bảy lần trong
chương hai và ba, nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc nghe tiếng của Đức
Thánh Linh khi Ngài phán và chú ý đến sứ điệp của Ngài.
4 Trong bài tập nầy, hãy sắp xếp các Hội thánh và lời kêu gọi ăn năn của
Đức Thánh Linh với các lý do rằng sự ăn năn là cần thiết. Đọc Khải huyền
chương 2 và 3.
1) Hội thánh tại Ê-phê-sô: “Hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu
của mình.”
2) Hội thánh tại Bẹt-găm: “Vậy hãy ăn năn đi, bằng chẳng, ta sẽ ... lấy thanh
gươm ở miệng ta mà giao chiến cùng chúng nó.”
3) Hội thánh tại Thiatirơ: “Phàm kẻ nào phạm tội ... mà không ăn năn việc
làm của nó, thì ta cũng quăng vào tai nạn lớn.”
4) Hội thánh tại Sạt-đe: “Nếu ngươi không tỉnh thức, ta sẽ đến như kẻ trộm.”
5) Hội thánh tại Lao-đi-xê: “Phàm những kẻ ta yêu thì ta quở trách và sửa
phạt; vậy hãy có lòng sốt sắng và ăn năn đi.”
. . a Ngươi còn dung cho Giêsabên,… dạy dỗ và phỉnh phờ tôi tớ ta , đặng rủ
chúng nó phạm tà dâm .
. . . b Ngươi có tiếng là sống, nhưng mà là chết…. vì ta không thấy công
việc của ngươi là trọn vẹn trước mặt Đức Chúa Trời ta .
. . . c Ngươi đã bỏ lòng kính mến ban đầu
. . .d Ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh .
. . . e Ngươi theo những giáo sư giả
Ăn năn đem đến sự tha thứ, không chỉ cho một tội nhưng mà cho rất nhiều
tội (Mat Mt 18:21,22). Đức Chúa Trời không thể dung chịu tội lỗi. Sự tha
thứ của Đức Chúa Trời không dựa trên loại hay số lượng phạm tội, nhưng
trên sự ăn năn thực lòng - một sự thay đổi trong tâm trí, cảm xúc và hành vi
đối với tội lỗi. Bây giờ là thì giờ để ăn năn. như chúng ta đã thấy, Đức
Thánh Linh đang liên tục cáo trách tội nhân ăn năn sự chống nghịch của họ
với Đức Chúa Trời và kêu gọi họ đầu phục Ngài. Đức Thánh Linh cũng
đang hành động trong lòng tín hữu, khuyên giục họ để cho Ngài kiểm soát
đời sống họ và cùng bước đi với Ngài (GaGl 5:16-18, 25).
Đối nghịch với sự an năn là sự chống nghịch lại lời khuyên giục của Đức
Thánh Linh. Như chúng ta đã thảo luận trước đây trong bài học nầy, sứ điệp
của Ê-tiên cho người Do thái đem đến sự chống đối và giận dữ. Điều nầy
cho thấy rằng có thể có những người dành cả cuộc đời họ trong giáo hội để
chống đối Đức Thánh Linh (KhKh 7:51). Khi ôn lại HeDt 10:26-31; KhKh
3:16, 19 và ChCn 29:1, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời yêu con người và
sẵn sàng sửa phạt những lỗi lầm của họ để họ càng trở nên giống Đấng
Christ. nhưng nếu con người cứ chống nghịch Ngài và tiếp tục phạm tội, thì
chắc chắn họ sẽ gặt lấy sự đoán phạt kinh khiếp.
Một hình ảnh minh họa cho điều nầy là một người nào đó gọi điện thoại cho
bạn. Nếu bạn cứ tiếp tục lờ đi những tiếng chuông, người ấy sẽ gác điện
thoại và sẽ không cố gắng gọi cho bạn nữa. Cũng vậy, nếu bạn cứ tiếp tục
chống đối Đức Thánh Linh, cuối cùng Ngài sẽ không phán với lòng bạn và
kêu gọi bạn ăn năn nữa. Nếu bạn có những tội nào chưa xưng ra, bây giờ là
lúc để bạn ăn năn và tiếp nhận sự tha thứ.
5 Khoanh tròn các ký tự trước mỗi câu ĐÚNG liên quan đến sự ăn năn và
phần của Đức Thánh Linh trong việc mang đến sự ăn năn.
a Sự ăn năn là một sự cảm xúc tội lỗi về một điều gì mà bạn đã làm.
b Vai trò của Đức Thánh Linh trong việc đem tội nhân đến sự ăn năn là
khiến con người thấy chính mình như Đức Chúa Trời thấy họ, từ đó sanh ra
sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời.
c Tội nhân phải thay đổi tâm trí, cảm xúc và hành vi của mình - đó là ý
nghĩa của sự ăn năn.
d Sau khi được cứu thì không cần phải ăn năn nữa.
e Sứ điệp của Đức Thánh Linh cho bảy Hội thánh trong sách Khải huyền
chủ yếu là cho những người không tin.
f Sự tha thứ của Đức Chúa Trời dựa trên sự ăn năn thật lòng.
g Bạn có thể chống đối quyền năng cáo trách của Đức Thánh Linh cho đến
lúc Ngài rút quyền năng đó khỏi bạn.
THÁNH LINH SỰ SỐNG
Đem Đến Sự Tái Sanh
Mục tiêu 3: Từ những phân đoạn Kinh thánh cho trước, giải thích điều gì
xảy ra khi Đức Thánh Linh ban sự sống cho tội nhân .
Một đêm kia khi Nicôđem đến thăm Chúa Giê-xu, Ngài bảo rằng ông cần
được sanh lại (GiGa 3:1-12). Lập tức Nicôđêm nghĩ về sự sanh tự nhiên và
hỏi rằng: “Người đã già thì sanh lại làm sao được?”(c.4). Chúa Giê-xu bèn
giải thích rằng Ngài đang nói về sự sanh ra thuộc linh, và phán rằng: “Hễ chi
sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ chi sanh bởi Đức Thánh Linh là thần.”(c.6).
Nói cách khác, nếu một người muốn vào Vương quốc của Đức Chúa Trời,
người ấy phải được sanh ra thuộc linh.
Ađam, người đầu tiên, đã được ban cho sự sống thuộc linh từ buổi ban đầu,
nhưng ông đã phạm tội và đánh mất nó. Và Phao-lô bảo rằng bởi tội lỗi của
Ađam, mà sự chết trãi qua trên hết thảy mọi người, nhưng không chỉ vì tội
lỗi của Ađam mà thôi, nhưng vì mọi người đều đã phạm tội (RoRm 5:12).
Trong thư gởi cho Hội thánh Ê-phê-sô, Phao-lô nói rằng: “Còn anh em đã
chết trong lầm lỗi và tội ác mình” (Eph Ep 2:1). Nhưng ông tiếp: “Ấy là nhờ
ân diển, bởi đức tin mà anh em được cứu”(c.8). Vậy thì, lý do mà mọi người
phải được sanh lại để bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời ấy là tất cả
mọi tội nhân đều đã chết về phần thuộc linh.
Chúng ta đã thấy được rằng Đức Thánh Linh đem đến sự ăn năn bằng cách
bày tỏ cho tội nhân thấy họ cần ân điển tha thứ của Đức Chúa Trời. Khi tội
nhân đáp ứng lại, tuyên xưng tội lỗi của họ và tiếp nhận sự cứu rỗi, thì
Thánh Linh sự sống sẽ cho người ấy sự sống mới - sự sống thuộc linh.
Chúng ta nói rằng tội nhân được sanh lại , ấy là người đó kinh nghiệm được
sự sanh ra thuộc linh. Thật là một sự thay đổi kỳ diệu biết bao! Bây giờ
người đó có Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trong mình, và được tự do
khỏi gánh nặng tội lỗi.
Không có cách nào khác để trở thành một Cơ đốc nhân. Bất cứ điều gì
không bởi công tác nầy của Đức Thánh Linh đều là cố gắng của xác thịt, và
Chúa Giê-xu phán rằng xác thịt chỉ có thể sanh ra xác thịt. Ngoài sự giúp đỡ
của Đức Thánh Linh , không thể có sự thay đổi thuộc linh trong đời sông
của một người.
6 Hãy đọc những phân đoạn Kinh thánh dưới đây và viết ra những điều mà
mỗi câu nói về hoạt động của Đức Thánh Linh trong việc ban sự sống thuộc
linh cho tội nhân ăn năn:
a GiGa 6:63 ...............................................................................
b RoRm 8:2 ...................................................................................
c GaGl 4:4-6 ...............................................................................
d 5:16-18, 25 ......................................................................

Những phân đoạn Kinh thánh nầy cho thấy rằng chính Đức Thánh Linh là
Đấng ban sự sống thuộc linh. Điều mà chúng ta cần làm là kết hợp và tiếp
nhận món quà sự sống nầy.
7. Đọc RoRm 8:1-11 và diền vào những chỗ trống.
a. Khi bạn được Đức Thánh Linh ban cho sự tự do khỏi sự tội và sự chết,
bạn không còn sống theo bản tánh tội lỗi nữa, nhưng
theo .......................................................
b. Khi bạn sống theo Đức Thánh Linh, tâm trí bạn sẽ hướng về những điều
Đức Thánh Linh ......................................................
c. Phương cách duy nhất để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời là được kiểm soát
bởi .............................................................................
d. Nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, người ấy không thuộc
về ........................................................................................

Hễ ai được sanh ra bởi Đức Chúa Trời đều có Thánh Linh của Đức Chúa
Trời. “Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là
con cái Đức Chúa Trời” (RoRm 8:16). Đây là điều mà Đức Chúa Trời dự
định từ buổi ban đầu. Ngài muốn con người là đền thờ của Ngài, là nơi ngự
của Ngài. Phao-lô nhắc nhở Hội thánh Côrinhtô về điều nầy: “ Anh em há
chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa
Trời ở trong anh em sao?”(ICo1Cr 3:16).
Trong RoRm 8:9 Đức Thánh Linh được gọi là Thánh Linh của Đấng Christ ,
và đúng vậy, Ngài đại diện cho Đấng Christ trong chúng ta. Ngài được Đức
Chúa Cha ban xuống để ở với chúng ta thay cho Đấng Christ. Phao-lô cũng
gọi Đức Thánh Linh là Thánh Linh của Con Ngài (GaGl 4:6). Đây là lý do
tại sao ông có thể nói rằng: “Đấng Christ sống trong tôi” (2:20).

Ngự Trong Chúng Ta


Mục tiêu 4: Lựa chọn những câu đúng liên quan đến việc Đức Thánh Linh
ngự trong đời sống của một Cơ đốc nhân .
Khi Chúa Giê-xu phán về Đức Thánh Linh rằng: “ Ngài vẫn ở với các ngươi
và sẽ ở trong các ngươi” (GiGa 14:17), các môn đồ của Ngài không hiểu
được ý nghĩa của điều nầy. Bàn luận về vấn đề nầy, Phao-lô bày tỏ rằng một
đặc ân như vậy đòi hỏi một đời sống có trách nhiệm về phía mỗi tín hữu
(GiGa 14:16-17; ICo1Cr 3:16-17; 6:19-20; IICo 2Cr 6:16-17). Ông nhấn
mạnh điều nầy trong RoRm 8:12-17, rằng chúng ta phải làm chết các việc
làm của xác thịt (c.12). Nhận biết sự kiểm soát của Đức Thánh Linh trên đời
sống của mỗi chúng ta đem đến sự ý thức quyền làm con của chúng ta
(c.15,16) và cơ nghiệp thuộc linh của chúng ta (c.17). Việc Đức Thánh Linh
sống trong tôi có nghĩa là Ngài ngự trong tôi trong mọi lúc. Điều nầy đem lại
sự liên tục trong mối tương giao của tôi với Ngài. Ngài không chỉ là một vị
khách thiên thượng; Ngài dành trọn thì giờ để ngự trong tôi. Bây giờ chúng
ta hãy tóm tắc những lợi ích thuộc về chúng ta do kết quả của việc Đức
Thánh Linh ngự trong chúng ta.
Một phần trong vai trò cư ngụ của Đức Thánh Linh trong chúng ta là Ngài
hành động như một người cố vấn và giáo sư của chúng ta. Trong chức năng
nầy, Đức Thánh Linh cho phép chúng ta hiểu được những lẽ thật liên quan
đến sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu, đem sự dạy dỗ đó vào trong tâm trí chúng ta
(GiGa 14:26; 16:13-15). Đức Thánh Linh trong chúng ta giúp đỡ chúng ta
trong sự yếu đuối và cầu thay cho chúng ta theo ý muốn của Đức Chúa Trời
(RoRm 8:26-27).
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác của Đức Thánh
Linh trong người tín hữu liên quan đến một kinh nghiệm xảy ra sau khi
người ấy đã kinh nghiệm được sự sanh lại, được xem như là phép báp têm
bằng nước hay trong Đức Thánh Linh (chúng ta sẽ thảo luận điều nầy kỷ
hơn trong Bài Học 7). Chúa Giê-xu phán với các sứ đồ cách ngắn gọn trước
khi Ngài về trời rằng họ cứ ở trong thành cho đến khi mặc lấy quyền phép từ
trên cao (LuLc 24:49). Sau đó Ngài giải thích : “Đừng ra khỏi thành
Giêrusalem, nhưng phải ở đó chờ điều Cha đã hứa ... nhưng trong các ngày
các ngươi sẽ chịu phép báp têm bằng Đức Thánh Linh”(Cong Cv 1:4-5).
Cùng với phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, Chúa Giê-xu phán rằng họ sẽ
nhận lãnh quyền phép để làm chứng không chỉ trong đất nước của họ nhưng
cho cả thế giới (1:8). Sách Công vụ ghi lại tính xác thật của lời phán của
Chúa Giê-xu, bởi vì những tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh trở thành một
công cụ quyền năng để truyền giảng Tin lành khắp thế giới.
Kèm theo phép báp têm bằng Đức Thánh Linh là sự phát huy những ân tứ
thuộc linh. Sứ đồ Phao-lô nói đến những ân tứ thuộc linh trong RoRm 12:4-
8; ICo1Cr 12:1-14:40 và Eph Ep 4:11-16. Những ân tứ nầy nhằm xây dựng
thân thể của Đấng Christ. (Chúng ta sẽ thảo luận những ân tứ nầy kỷ hơn
trong Bài Học 9).
Cuối cùng, khi Đức Thánh Linh ngự trong chúng ta, Ngài sẽ sinh ra những
trái thuộc linh, mà một số được xem như sự tăng trưởng của đặc tính của Cơ
đốc nhân (GaGl 5:16-25). Trái của Thánh Linh nghịch với những công việc
của bản chất tội lỗi kết quả từ việc sống và bước đi với Ngài. (Chúng ta sẽ
thảo luận về trái của Thánh Linh trong Bài 10).
8. Dựa trên những phân đoạn Kinh thánh đã thảo luận trong bài, trong những
câu sau, câu nào là câu ĐÚNG?
a. Mặc dầu tội nhân không nhận biết, nhưng Đức Thánh Linh vẫn ngự trong
họ bởi vì họ là đền thờ của Đức Chúa Trời.
b. Bây giờ khi Đức Thánh Linh đang bắt đầu ngự trong bạn, bạn phải sống
theo ý muốn của Ngài.
c. Việc Đức Thánh Linh ngự trong bạn đem đến cho bạn sự giúp đỡ của
Ngài trong vai trò của một người Cố vấn, một Giáo sư và một Đấng cầu
thay.
d. Phép báptêm trong Thánh Linh được ban xuống là để ban quyền năng cho
tín hữu để họ làm chứng cho Cứu Chúa phục sinh của họ cách có hiệu quả.
e. Các ân tứ của Đức Thánh Linh nhằm xây dựng thân thể của Đấng Christ.
f. Trái của Đức Thánh Linh xuất phát từ những sự cố gắng của tín hữu khiến
họ trở thành những khuôn mẫu được chấp nhận trong đức tin Cơ đốc.

Thánh Hóa Chúng Ta


Mục tiêu 5: Nhận diện những sự giải thích chính xác về “Sự thánh hóa bởi
Đức Thánh Linh .”
Một công tác khác của việc Đức Thánh Linh cư ngụ trong chúng ta là để
thánh hóa chúng ta. Theo nghĩa đơn giản nhất, sự thánh hóa là việc Đức
Thánh Linh làm cho tín hữu thánh khiết bằng cách phân cách người ấy khỏi
tội lỗi và để riêng người ấy ra cho Đức Chúa Trời. Điều nầy xảy ra khi
người tín hữu đầu phục hoàn toàn sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh hầu
cho sự trói buộc của tội lỗi không còn vấn vương trên người ấy nữa (RoRm
8:2, 9).
Phao-lô đề cập đến những người ngoại bang trở nên của lễ vừa ý Đức Chúa
Trời, nên thánh bởi Đức Thánh Linh (RoRm 15:16). Ông nói với người
Côrinhtô rằng họ đã được rửa sạch, được xưng công bình, và được nên thánh
trong danh Đức Chúa Giê-xu Christ và bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời
chúng ta (ICo1Cr 6:11). Với Hội thánh tại Têsalônica, ông viết rằng:
Hỡi anh em yêu dấu của Chúa, còn như chúng tôi, phải vì anh em tạ ơn Đức
Chúa Trời không thôi, vì vừa lúc ban đầu, Ngài đã chọn anh em bởi sự nên
thánh của Thánh Linh, và bởi tin lẽ thật, đặng ban sự cứu rỗi cho anh em. Ấy
cũng là vì đó mà Ngài đã dùng Tin lành chúng tôi để gọi anh em, đặng anh
em hưởng được sự vinh hiển của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta (IITe
2Tx 2:13-14).
Khi chúng ta kinh nghiệm được sự tái sanh, Đức Thánh Linh khiến chúng ta
được Đức Chúa Trời chấp nhận và chúng ta đứng trước mặt Ngài dựa trên
công tác cứu chuộc đã hoàn tất của Đấng Christ. Chúng ta được xưng là
công bình và được kể như chưa từng phạm tội. Tuy nhiên chúng ta phải tỏ
bày sự được xưng công bình của chúng ta bằng những hành động cụ thể.
Chúng ta là những em bé mới được sanh ra về phần thuộc linh, và chúng ta
được dạy rằng phải lớn lên và trưởng thành (IIPhi 2Pr 3:18; IITi 2Tm 2:15;
IPhi 1Pr 2:2-3). Từ đây, Đức Thánh Linh bắt đầu hành động trong chúng ta,
và chúng ta có thể đáp ứng lại với Đức Chúa Trời. Chúng ta được định cho
sự sống đời đời, và đó là mục tiêu mà chúng ta phải trưởng thành trong sự
giống như Đấng Christ. Chúng ta phải trở thành bản sao của Đấng đã cứu
chuộc chúng ta và Đấng mà hột giống của Ngài ở trong chúng ta (IGi1Ga
3:9). Như chúng ta đã thấy qua sự nghiên cứu RoRm 8:5-16; GaGl 5:16-25
và Eph Ep 4:20-32, từ bỏ bản tánh củ và mặc lấy bản tánh mới là một công
tác tăng trưởng liên tục trong sự trở nên giống như ảnh tượng của Đấng
Christ (RoRm 8:29). Bây giờ, với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh, mỗi ngày
chúng ta phải phân rẽ mình với những điều không đẹp lòng Đức Chúa Trời
mà Đức Thánh Linh dạy cho chúng ta. Và với tiến trình tăng trưởng như
vậy, chúng ta càng trở nên giống như ảnh tượng của Ngài. Và một ngày kia
chúng ta sẽ giống như Ngài, vì chúng ta sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy
(IGi1Ga 3:2). Chỉ khi đó, chúng ta mới nổ lực để nhạy cảm với sự kiểm soát
của Đức Thánh Linh; chúng ta đang ở trên tiến trình biến đổi để trở nên trọn
vẹn.
9 Chọn lựa những phần hoàn chỉnh đúng: Sự thánh hóa bởi Đức Thánh Linh
có nghĩa là chúng ta:
a) được trở nên trọn vẹn ngay lập tức và sẽ không phạm tội nữa.
b) được biệt riêng cho Đức Chúa Trời và được phân rẽ khỏi tội lỗi.
c) mỗi ngày càng trở nên giống như hình ảnh của Đấng Christ bằng cách để
Đức Thánh Linh hướng dẫn chúng ta trong mọi công tác chúng ta làm.
d) để Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta làm những điều đẹp lòng Đức Chúa
Trời.
THÁNH LINH CỦA SỰ LÀM CON
Mục tiêu 6: Tra xét lại kinh nghiệm tái sanh của chính bạn công tác của
Thánh Linh của sự nhận làm con trong đời sống bạn .
Khiến Chúng Ta Trở Nên Những Kẻ Kế Tự
Vậy hỡi anh em, chúng ta chẳng mắc nợ xác thịt đâu, đặng sống theo xác
thịt. Thật thế, nếu anh em sống theo xác thịt thì phải chết; song nếu nhờ Đức
Thánh Linh , làm cho chết các việc của thân thể, thì anh em sẽ sống. Vì hết
thảy kẻ nào được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn, đều là con của
Đức Chúa Trời. Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn
ở trong sự sợ hãi, nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó
chúng ta kêu rằng: Aba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm chúng cho lòng
chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con
cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và kẻ đồng kế tự với Đấng
Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh
hiển với Ngài (RoRm 8:12-17).
Trong những câu Kinh thánh trên, sứ đồ Phao-lô có ý nói gì khi ông gọi Đức
Thánh Linh là thần trí của sự làm con nuôi ? Sự nhận làm con nuôi liên quan
đến địa vị của một người trong gia đình Đức Chúa Trời và liên quan đến
những đặc quyền của một người là con Đức Chúa Trời. Đối với người La-
mã, một phương diện của sự nhận làm con là một người được thừa nhận vào
trong gia đình cách chính thức. Thường thì những cha mẹ nghèo không thể
nuôi nấng con cái đem cho con của mình cho những gia đình giàu để họ
nhận làm con nuôi. Cha mẹ nuôi có toàn quyền kiểm soát trên đứa trẻ cũng
như đứa trẻ được cùng hưởng những đặc quyền như những đứa con khác;
tuy nhiên, trong suốt thời kỳ thơ ấu ( trước khi chúng đến tuổi trưởng thành),
tất cả con cái (bao gồm cả con ruột và con nuôi) chỉ khác với những gia
nhân trong nhà rất ít (GaGl 4:1-2). Những đặc quyền của con cái chỉ thể hiện
cách đầy đủ khi chúng trưởng thành.
Bởi sự sanh lại, Đức Thánh Linh, là Thần ban sự sống, khiến chúng ta thật
sự trở nên những kẻ cùng dự phần với bản tánh của Đức Chúa Trời. Và rồi
bởi Thánh Linh của sự nhận làm con, chúng ta liền được ban cho một địa vị
trong gia đình Đức Chúa Trời. Điều nầy có nghĩa rằng chúng ta được cùng
hưởng tất cả mọi đặc quyền của một thành viên trong gia đình. Tuy nhiên,
khác với người la-mã, chúng ta không cần phải đợi cho đến tuổi trưởng
thành. Bởi sự nhận làm con của Đức Thánh Linh Đức Chúa Trời kể chúng ta
có cùng một địa ví như những người con đã trưởng thành khác (GaGl 4:1-7).
Vì vậy, chúng ta có đầy đủ mọi đặc quyền của con cái và được kể như
những người con thật.
Trong thư tín gởi cho người Galati, Phao-lô đề cập đến khía cạnh địa vị của
sự nhận làm con (xem GaGl 3:26-29 và 4:1-7). Ông nói rằng những đứa trẻ
là con cái không khác với những tôi tớ, mặc dù chúng là những kẻ kế tự của
gia đình. Chúng phải ở trong sự canh giữ, chăm sóc cho đến khi người cha
cho biết rằng chúng là những kẻ trưởng thành. Ông nói với người Galati là
những người còn hành động như những đứa trẻ dưới sự trói buộc của những
sắc lệnh của người Do thái, rằng họ đã nhận được các quyền lợi đầy đủ của
con cái . Rồi ông tiếp tục: “Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai
Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! Dường
ấy, ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con; lại nếu ngươi là con, thì
cũng là kẻ kế tự bởi ơn của Đức Chúa Trời”(GaGl 4:6-7).
Một trong những đặc quyền của tình trạng trưởng thành của chúng ta, những
kẻ được nhận làm con, là sự bảo đảm thuộc linh bên trong rằng chúng ta là
con cái Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh làm chứng cho điều nầy khi chúng
ta tiếp nhận Ngài (RoRm 8:12-17; IGi1Ga 3:24; 4:13-14), và bởi sự làm
chứng nầy chúng ta có thể gọi Ngài là Cha . Sứ đồ Giăng nhấn mạnh đến sự
dạy dỗ nầy rằng chính lúc bây giờ chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời
(IGi1Ga 3:2). Không một ai cần phải đợi đến sự tái lâm của Đấng Christ hay
sự phán xét trong tương lai mới xác định tình trạng thuộc linh của mình. Khi
tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa, người ấy có cả sự chứng quyết bên
trong của Đức Thánh Linh cũng như sự chứng quyết bên ngoài của Lời Đức
Chúa Trời rằng người ấy là con của Đức Chúa Trời.
Bây giờ, đang khi chúng ta là con với đầy đủ các đặc ân và quyền lợi của kẻ
kế tự đã trưởng thành, chúng ta vẫn phải chờ đợi một sự thực hiện đầy đủ
của quyền làm con khi chúng ta đứng trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời
và nhận lấy thân thể vinh hiển của chúng ta. Phao-lô xác nhận điều nầy trong
RoRm 8:23 khi ông nói rằng: “Lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức
Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi trông đợi sự làm con nuôi,
tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy.”
Điều nầy được sứ đồ Giăng giải thích xa hơn trong IGi1Ga 3:2: “Hỡi kẻ rất
yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự
chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi
Ngài (Chúa Giê-xu) hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài
như vốn có thật vậy.”
Sau này Giăng nói rằng: “ai chẳng làm điều công bình là không thuộc về
Đức Chúa Trời, kẻ chẳng yêu anh em mình cũng vậy” (IGi1Ga 3:10, 21-24;
5:1-3). Trở thành một phần trong gia đình Đức Chúa Trời đòi hỏi phải mang
lấy một số trách nhiệm cũng như quyền lợi. Chính Thánh Linh của Đức
Chúa Trời ở trong bạn giúp đỡ bạn có thể làm trọn những trách nhiệm nầy.
Ngài đặt tình yêu thiên thượng trong lòng bạn và ban cho bạn ước muốn
thực hiện những điều làm Cha trên trời của bạn.
10 Dựa trên phần đã thảo luận, hãy chọn câu trả lời tốt nhất. Thuật ngữ
Thánh Linh của sự làm con nuôi liên hệ đến
a) hành động của Đức Thánh Linh bởi đó tôi trở nên con cái của Đức Chúa
Trời trong giây phút được tái sanh.
b) quyền của Đức Thánh Linh để ban cho tôi địa vị mà Ngài chọn lựa trong
sự tương quan với những tín hữu khác.
c) sự kiểm soát trọn vẹn của Đức Thánh Linh trên người tín hữu trong giây
phút người ấy kinh nghiệm sự tái sanh.
11 Sự nhận làm con nuôi vào gia đình Đức Chúa Trời xảy ra khi tôi
a) tiếp nhận thân thể vinh hiển của tôi.
b) kêu rằng: “Aba! Cha!”
c) kinh nghiệm được sự tái sanh.
12 Từ những phân đoạn Kinh thánh sau, hãy kể tên ba phương cách mà bạn
có thể biết bạn là con cái Đức Chúa Trời, rằng bạn đã được Đức Thánh Linh
sanh lại (RoRm 8:16; IGi1Ga 3:10, 21-24; 4:13-14; 5:1-3).
...........................................................................................................................
..................................
13 Hãy tra xét chính bạn bằng cách viết có hoặc không trong những khoảng
trống sau
a Tôi đã ăn năn tội lỗi của tôi ..........................
b Bởi đức tin tôi đã tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa của cá
nhân tôi .....................
c Tôi biết rằng mặc dầu tôi là một Cơ đốc nhân, tôi cũng cần phải ăn năn
những thất bại đôi khi tôi đã phạm và tiếp nhận sự tha thứ .............................
d Tôi biết rằng ăn năn có nghĩa là quay khỏi tội lỗi và hướng về phía Đức
Chúa Trời ............................
e Bởi vì tôi đã được thoát khỏi luật của sự tội và sự chết, tôi muốn làm
những điều Đức Thánh Linh ao ước ..........................
f Tôi muốn Đức Thánh Linh thánh hóa tôi và khiến tôi mỗi ngày giống Đấng
Christ hơn .............................
g Tôi biết rằng tôi là một Cơ đốc nhân bởi vì tôi có chứng cớ của Lời Đức
Chúa Trời và chứng cớ của Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong
tôi .......................................
h Tôi nhận biết rằng được nhận làm con trong gia đình Đức Chúa Trời đem
lại cho tôi một số trách nhiệm cũng như quyền lợi .....
Đây là một thì giờ rất tốt để bạn suy gẫm những câu trên và xác định rằng
bạn đã kinh nghiệm được những phước hạnh dành để cho bạn trong Đấng
Christ chưa? Hãy cầu xin Đức Thánh Linh sắm sẵn phần của bạn trong gia
đình Đức Chúa Trời, với tất cả những đặc quyền và trách nhiệm của bạn
trong cương vị là con cái của Đức Chúa Trời.
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Mỗi chủ đề sau đây có hai câu trả lời. hãy chọn câu
nào hoàn chỉnh và chính xác nhất dựa trên bài học nầy. Khoanh tròn các ký
tự trước mỗi câu bạn chọn.
1. Tái sanh :
a) Đây là công tác của Đức Thánh Linh mà qua đó Ngài ban sự sống thuộc
linh mới cho tội nhân ăn năn là người đã xưng tội lỗi của mình ra và tiếp
nhận Đức Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa.
b) Đây là sự thay đổi tâm trí và cảm xúc liên quan đến tình trạng thuộc linh
của một người, và là một sự ao ước sống một đời sống thoát khỏi tội lỗi.
2. Sự cáo trách :
a) Quyền năng cáo trách của Đức Thánh Linh mạnh đến nỗi tội nhân không
có sự chọn lựa nào hơn là đáp ứng lại bằng cách từ bỏ tội lỗi của mình và
vâng phục Đức Chúa Trời. Nó thường đi đôi với những cảm xúc tội lỗi và sự
nhận biết rằng không thể sống một đời sống vô tội.
b) Khi Đức Thánh Linh cáo trách một tội nhân cách trực tiếp và bắt phục
người ấy về nhu cầu cần Đức Chúa Trời, Ngài thường hành động qua một sứ
điệp được xức dầu hoặc qua một lời chứng cá nhân để phán với lòng của tội
nhân.
3. Sự ăn năn :
a) Sự ăn năn là một sự buồn rầu theo ý muốn của Đức Chúa Trời mà bởi đó
tội nhân thấy được thực trạng của chính mình. Người ấy nhận biết rằng mình
phải thay đổi lối sống của mình nếu muốn nhận được sự sống đời đời, và
người ấy sẽ cố gắng không làm những điều dẫn đến sự chết đời đời.
b) Sự ăn năn liên quan đến một sự thay đổi của tâm trí đối với tội lỗi, một sự
thay đổi của cảm xúc bao hàm sự đau buồn thật lòng vì một đời sống tội lỗi,
một sự thay đổi về hành động bằng cách quay khỏi tội lỗi và hướng về Đức
Chúa Trời. Có một sự thay đổi bên trong cũng như bên ngoài. Tội nhân phải
ăn năn tội lỗi để tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời; tín hữu phải ăn
năn những thất bại và những lỗi lầm ngăn trở sự tăng trưởng thuộc linh là trở
nên giống như Đấng Christ của người đó.
4. Những kết quả của một đời sống thuộc linh
a) Tôi được tự do khỏi sự cám dỗ của tội lỗi, vì vậy tôi không còn bị những
ước muốn phạm tội quấy rầy nữa.
b) Tôi không sống theo bản tánh tội lỗi nữa, nhưng tâm trí tôi được dành
riêng cho những điều Đức Thánh Linh muốn tôi làm.
5. Đức Thánh Linh cư ngụ :
a) Khi Đức Thánh Linh cư ngụ trong tôi, tôi nhận được rất nhiều đặc quyền.
Ngài làm cho quyền làm con của tôi được bảo đảm, Ngài giúp đỡ tôi cầu
nguyện, Ngài cáo trách những lỗi lầm của tôi và giúp tôi chiến thắng chúng.
b) Khi Đức Thánh Linh cư ngụ trong tôi và khiến thân thể tôi trở nên đền
thờ của Ngài, Ngài sẽ kiểm soát trọn vẹn tôi, hầu cho tất cả mọi sự chọn lựa,
hành động và tư tưởng của tôi là của Ngài. Tôi không còn bị quấy rầy bởi
những nhu cầu hoặc ước muốn xác thịt nữa bởi vì Ngài đã cất những điều đó
khỏi tôi.
6. Sự thánh hóa bởi Đức Thánh Linh :
a) Khi tôi đầu phục sự kiểm soát của Đức Thánh Linh, Ngài khiến tôi có thể
phân rẽ khỏi tội lỗi và biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời. Đây là một tiến trình
tăng trưởng làm cho tôi càng trở nên giống Đấng Christ khi tôi đầu phục
Đức Thánh Linh và để Ngài phát huy những trái của Ngài trong tôi.
b) Đây là một công tác đặc biệt của Đức Thánh Linh mà qua đó tôi được trở
nên giống như hình ảnh của Đấng Christ ngay lập tức và được ban cho
những trái của Thánh Linh.
7. Thánh Linh của sự làm con :
a) Khi tôi đạt đến sự tăng trưởng trọn vẹn của Cơ đốc nhân, tôi ý thức được
giá trị của việc đựơc nhận vào gia đình của Đức Chúa Trời, với tất cả những
trách nhiệm và đặc quyền của một người thừa kế. Chính Đức Thánh Linh là
Đấng quyết định khi nào thì tôi sẵn sàng cho sự nhận làm con và làm chứng
cho lòng tôi rằng tôi là con cái Đức Chúa Trời.
b) Khi Đức Thánh Linh đem tôi đến sự sanh lại, Ngài khiến tôi trở thành kẻ
đồng dự phần với bản tánh của Đức Chúa Trời. Ngài cũng nhận tôi vào
trong gia đình của Đức Chúa Trời, ban cho tôi mọi đặc quyền của con cái, và
tôi trở thành kẻ đồng kế tự với Đức Chúa Giê-xu Christ về tất cả mọi đặc
quyền của con cái Đức Chúa Trời. Tôi biết rằng tôi đã được sanh lại trong
gia đình Đức Chúa Trời bởi vì Thánh Linh của Ngài chứng cho linh của tôi ,
bởi vì tôi muốn làm điều thiện, và bởi vì Ngài ban cho tôi tình yêu để tôi có
thể yêu thương những anh chị em trong Đấng Christ.
Trả Lời Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. Nhiều người tiếp nhận sứ điệp của ông và chịu báp têm.
2. Không, câu Kinh thánh “những kẻ nhận lời đó” (Cong Cv 2:41) hàm ý
rằng một số người chống đối Đức Thánh Linh.
3. Những người nghe ông thì rất giận dữ và chống đối Thánh Linh của Đức
Chúa Trời. Họ ném đá Ê-tiên cho đến chết.
4. a 3) Hội thánh tại Thi-a-ti-rơ.
b 4) Hội thánh tại Sạt-đe.
c 1) Hội thánh tại Ê-phê-sô.
d 5) Hội thánh tại Lao-đi-xê.
e 2) Hội thánh tại Bẹt-găm.
5. a Sai (Sự ăn năn liên quan đến sự thay đổi)
b Đúng.
c Đúng.
d Sai.
e Sai.
f Đúng.
g Đúng.
6. a Đức Thánh Linh ban sự sống.
b Luật của Thánh Linh sự sống buông tha tôi khỏi luật của sự tội và sự chết.
c Đức Thánh Linh ban cho chúng ta những điều cần cho sự sống thuộc linh
của chúng ta và chứng thực quyền làn con của chúng ta.
d Chúng ta sống bởi Đức Thánh Linh và được dẫn vào một đời sống Cơ đốc
nhân được Đức Chúa Trời chấp nhận.
7. a Đức Thánh Linh
b những ước muốn
c Đức Thánh Linh
d Đấng Christ
8. a Sai
b Đúng
c Đúng
d Đúng
e Đúng
f Sai (Trái của Đức Thánh Linh xuất phát từ việc sống và bước đi với Đức
Thánh Linh).
9. Những câu trả lời b), c) và d) là đúng.
10. a) Hành động của Đức Thánh Linh mà bởi đó tôi được trở nên con cái
của Đức Chúa Trời trong giây phút của sự tái sanh.
11. c) Kinh nghiệm sự sanh lại.
12. Đức Thánh Linh chứng quyết trong linh của tôi. Tôi sẽ làm những điều
công bình. Tôi sẽ yêu thương anh em tôi (những Cơ đốc nhân khác).
13. Câu trả lời của bạn. Tôi hy vọng rằng bạn có thể trả lời có cho mỗi câu
hỏi.
ĐỨC THÁNH LINH ĐẤNG BAN QUYỀN NĂNG
Giảng dạy trong một trường Kinh thánh luôn cuốn hút tôi khi tôi nhìn thấy
công tác của Đức Thánh Linh trên đời sống của những sinh viên. Công tác
biến đổi mà Ngài thực thi trên đời sống của những sinh viên không ngừng
làm cho tôi hết ngạc nhiên.
Nhiều sinh viên bước vào trường Kinh thánh nhưng dường như không có
năng khiếu gì cho chức vụ hầu việc Chúa giữa nhiều người; tuy nhiên họ
thường đến bởi sự bắt phục rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi họ. Và rồi, khi
họ học tập, cầu nguyện,và dâng chính mình cho Đức Thánh Linh, phép lạ đã
xảy ra. Khi Đức Thánh Linh kiểm soát họ nhiều hơn, xức dầu trên những tài
năng mà họ đã dâng cho Ngài, mở mang tâm trí họ bởi sự nghiên cứu có hệ
thống, thì mọi khả năng bắt đầu xuất hiện. Như một nụ hoa qua màn sương
mai nở ra dưới ánh nắng của buổi bình minh, những sinh viên nầy trong Đức
Thánh Linh mỗi ngày. Khi tốt nghiệp, họ đã sẵn sàng cho chức vụ mà Đức
Chúa Trời kêu gọi họ. Họ rời nhà trường và đi ra để trở thành những mục sư,
những nhà truyền giáo thành công.

Sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh được minh chứng từ khi Đức Chúa
Trời kêu gọi những chứng nhân đầu tiên của Ngài. Trong khi một số, như sứ
đồ Phao-lô, là người có học thức cao, rất nhiều người nổi tiếng trong số họ
bắt đầu từ những người hết sức tầm thường. Cho dù kinh nghiệm, sự rèn tập,
hoặc khả năng của con người như thế nào chăng nữa, nhân tố khiến họ có
thể làm đảo lộn thế giới không phải là tài biện luận hay sự khôn ngoan của
con người, nhưng là sự tỏ ra của quyền phép Đức Thánh Linh (ICo1Cr 2:1-
5).

Trong bài học nầy chúng ta sẽ học rằng khi Đức Thánh Linh đến trên đời
sống bạn qua sự đầy trọn của phép báp têm, Ngài sẽ giúp bạn trở thành một
người hầu việc vương quốc của Đức Chúa Trời cách có quyền năng. Quyền
năng đó được dành sẵn cho những tôi tớ của Đức Chúa Trời trong thời Cựu
ước và cho các môn đồ trong thời Tân ước cũng được dành sẵn cho bạn ngày
hôm nay.
Dàn Ý Bài Học
Những nhân vật thời Cựu ước
Những môn đồ thời Tân ước
Những tín hữu của thế kỷ hai mươi
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Đưa ra những ví dụ về sự xức dầu của Đức Thánh Linh trên đời sống của
những cá nhân được Đức Chúa Trời chọn lựa trong thời Cựu ước.
Mô tả sự thay đổi của các môn đồ thời Tân ước sau sự ban Đức Thánh Linh
xuống trong ngày lễ Ngũ tuần và những kết quả của sự thay đổi đó.
Liên hệ đến sự ban Đức Thánh Linh trong thời kỳ cận đại nầy với mục đích
của việc truyền giáo cho thế giới và thúc đẩy sự tái lâm của Chúa.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học như đã được chỉ dẫn trong phần những hoạt động học
tập của Bài học 1. Đọc những phần Kinh thánh trưng dẫn và trả lời những
câu hỏi nghiên cứu.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Ôn lại Bài học 4-7 rồi trả lời những câu hỏi trong phần bản tường trình học
tập của học viên đơn vị 2.
Những Từ Ngữ Then Chốt
thành quả
tập trung, sự
minh chứng
điều mâu thuẩn
ban quyền năng
Ngũ kinh
ban cho, sự
ứng nghiệm, sự
bốc đồng
cư ngụ
đổ đầy
thuộc lễ Ngũ tuần
quá tự quyền
có thể nhận lãnh
người nhận lãnh
tự ý
Triển Khai Bài Học
NHỮNG NHÂN VẬT THỜI CỰU ƯỚC
Trong Ngũ Kinh
Mục tiêu 1: Nêu lên mục đích mà Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh trên
những người được chọn trong thời kỳ được mô tả của Ngũ Kinh .

Ngũ Kinh là tên của năm sách đầu trong Cựu ước: Sáng Thế Ký, Xuất-Ê-
Díp-Tô-Ký, Lê-Vi-Ký, Dân-Số-Ký và Phục-Truyền-Luật-Lệ-Ký. Chúng
thường được gọi là “các sách của Môi-se” bởi vì Môi-se được xem là tác giả
của năm sách nầy.

Đức Thánh Linh trong năm sách nầy, và trong toàn bộ Cựu ước, được nhấn
mạnh trên những việc Ngài làm hơn là trên việc Ngài là ai . Trên thực tế,
Cựu ước không đề cập gì đến cá tánh của Đức Thánh Linh, nhưng Cựu ước
chứa đựng những công tác diệu kỳ của Đức Thánh Linh, bắt đầu bằng công
tác sáng tạo trong SaSt 1:1-31.
Sự nhấn mạnh của Cựu ước là sự giáng xuống trên những người được chọn
của Đức Thánh Linh cho một sự phục vụ đặc biệt. Tuy nhiên, sự hiện diện
để cư ngụ của Đức Thánh Linh là một hiện tượng của Tân ước. Điều nầy
được minh chứng qua những lời của Sứ đồ Giăng: “bởi bấy giờ Đức Thánh
Linh chưa ban xuống, vì Đức Chúa Giê-xu chưa được vinh hiển”(GiGa
7:39), và qua lời của Chúa Giê-xu khi Ngài phán về sự Đức Thánh Linh
được ban xuống: “nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi
và sẽ ở trong các ngươi”(GiGa 14:17).

Bằng cách so sánh, chúng ta có thể nói rằng, dựa trên bằng chứng của Kinh
thánh, những cá nhân trong thời Cựu ước được sự hiện diện từng hồi từng
lúc của Đức Thánh Linh để họ có thể hoàn thành công tác mà Đức Chúa
Trời sai họ làm; trong khi đó, những tín hữu trong thời kỳ Tân ước hưởng
được sự hiện diện vĩnh hằng của Đức Thánh Linh trên đời sống họ. Trước
tiên, Đức Thánh Linh đến trên tín hữu như là một tác nhân của sự tái sanh.
Rồi thì, như chúng ta đã thấy (trong Mat Mt 3:11; Mac Mc 1:8; GiGa 1:33;
Cong Cv 1:5), các tín hữu được báp têm trong Đức Thánh Linh và tiếp nhận
Ngài bởi sự đầy trọn của phép báp têm.
Đức Thánh Linh bắt đầu liên hệ với con người ngay sau Sự sa ngã. Ngài tìm
thấy những con người sẵn sàng mang lấy công tác của Ngài như Nô-ê, Áp-
ra-ham, I-sác. Mặc dầu Đức Thánh Linh rất ít được đề cập khi đối chiếu với
những con người nầy, chúng ta vẫn biết rằng họ được Ngài hướng dẫn bởi
sự vâng phục Đức Chúa Trời của họ. Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành
động trên con người nhưng không hề thu hút sự chú ý về phía Ngài. Công
tác của Ngài luôn được tỏ bày qua Cựu ước trong khi danh xưng của Ngài
không hề xuất hiện.

Ngũ Kinh cũng đề cập đến những con người đặc biệt được Đức Thánh Linh
hành động trên họ cách hết sức quyền năng.

1. Giô-sép là người đầu tiên được kể là “có thần minh của Đức Chúa Trời”
(SaSt 41:38). Pha-ra-ôn nhận biết điều nầy bởi vì Giô-sép có khả năng siêu
nhiên để giải nghĩa các giấc mơ. Đức Thánh Linh ngự trên Giô-sép khiến
ông có thể chiến thắng cám dỗ và trở thành người trông coi cả một quốc gia.

2. Môi-se được Đức Chúa Trời chọn lựa để dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi
Ai-cập. Ê-sai nói rằng Môi-se là kẻ chăn Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời, và
rằng Đức Chúa Trời “đặt Thần thánh mình giữa dân sự” (EsIs 63:11). Ê-sai
cũng nói thêm rằng “Thần của Đức Giê-Hô-Va đã khiến dân sự yên
nghỉ”(63:14).

Đến lúc phải xây một Đền Tạm cho Đức Giê-Hô-Va, Đức Chúa Trời phán
cùng Môi-se rằng Ngài đã chọn một người cho công việc nầy và phán rằng :
“Ta đã làm cho người đầy dẫn Thần của Đức Chúa Trời, sự khôn ngoan, sự
thông sáng, và sự hiểu biết để làm mọi thứ nghề thợ”(XuXh 31:2-3). Bết-sa-
lê-ên được ban cho khả năng thần thượng cần thiết để xây dựng nhà của Đức
Chúa Trời.

Khi Môi-se bắt đầu mệt mõi bởi gánh nặng về dân sự và kêu cầu với Đức
Chúa Trời, Đức Giê-Hô-Va ban Đức Thánh Linh tên bảy mươi trưởng lão để
giúp đỡ Môi-se trong việc đáp ứng các nhu cầu của dân sự.
1. Đọc Dan Ds 11:10-17 và trả lời các câu hỏi sau:
a. Câu Kinh thánh nào bày tỏ rằng Đức Thánh Linh ngự trên Môi-se?
.......................................................................................................
b. Đức Chúa Trời dùng phương cách nào để ban Đức Thánh Linh cho bảy
mươi trưởng lão?
.......................................................................................................
c. Khi Đức Thánh Linh ngự trên bảy mươi trưởng lão nầy, họ đã làm gì?
.......................................................................................................

3. Giô-suê được Chúa chọn để kế nghiệp cho Môi-se. Chúa phán cùng Môi-
se rằng: “Hãy chọn lấy Giô-suê ..., người có Thần cảm động; phải đặt tay
trên mình người” (27:18). Bởi quyền năng của Đức Thánh Linh mà Giô-suê
có thể lãnh đạo dân sự chiếm giữ đất hứa. Khi bắt đầu thời kỳ lãnh đạo của
ông Kinh thánh chép rằng: “Giô-suê, con trai của Nun, được đầy dẫy thần
khôn ngoan, vì Môi-se đã đặt tay trên mình người”(XuXh 34:9). Vì vậy,
trong cuộc hành trình từ Ai-cập đến Ca-na-an, dân Y-sơ-ra-ên được hướng
dẫn dưới sự lãnh đạo của một lãnh tụ đầy quyền năng của Đức Thánh Linh.
Trong khi chúng ta có thể nói rằng Đức Thánh Linh ngư trên những cá nhân
của thời Cựu ước và trong những tín hữu của thời Tân ước, điều nầy cũng
không thể giải quyết sự khác biệt cách thỏa đáng. Những bằng chứng trong
Kinh thánh cho thấy rằng sự ngự xuống và ban quyền năng của Đức Thánh
Linh trong thời kỳ Cựu ước chỉ thỉnh thoảng và có chọn lựa, trong khi trong
thời kỳ Tân ước điều nầy xảy ra cách phổ thông và liên tục. Hiển nhiên, mỗi
ví dụ trên đều cho thấy được nhu cầu và kinh nghiệm về sự ngự xuống để
ban quyền năng của Đức Thánh Linh cách lâu dài.
2. Nêu lên mục đích mà Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh trên những con
người được liệt kê sau đây:
a. Giô-sép ......................................................................................
b. Môi-se .......................................................................................
c. Bảy mươi trưởng lão ..................................................................
d. Giô-suê ......................................................................................
e. Dựa trên những bằng chứng trong mỗi trường hợp trên, hãy cho biết sự
ngự xuống ban quyền năng của Đức Thánh Linh là một kinh nghiệm ngắn
ngủi hay lâu dài?
.......................................................................................................

ÁP-RA-HAM
MÔI-SE
GIÔ-SUÊ
ĐƯỢC ĐỨC THÁNH LINH HƯỚNG DẪN
Trong Các Sách Lịch Sử
Mục tiêu 2: Nêu lên nguyên tắc có thể được học hỏi qua đời sống của Sam-
sôn, Sau-lơ và Đa-vít .

Sách Giô-suê ghi lại nhiều chiến thắng của dân Y-sơ-ra-ên khi họ tiến vào
xứ Ca-na-an dưới sự lãnh đạo của Giô-suê và chiếm giữ xứ. Quyền lãnh đạo
bởi sự xức đầu của Đức Thánh Linh có thể được tóm tắt trong Gios Gs 24:31
Y-sơ-ra-ên phục sự Đức Giê-Hô-Va trọn lúc sanh tiền của Giô-suê và các
trưởng lão mà biết mọi việc Đức Giê-Hô-Va đã làm vì Y-sơ-ra-ên.
Cac Tl 2:10-12 cho chúng ta biết điều xảy ra tiếp theo:
Hết thảy người đời ấy cũng được tiếp về cùng tổ phụ mình; rồi một đời khác
nổi lên, chẳng biết Đức Giê-Hô-Va, cũng chẳng biết các điều Ngài đã làm
nhơn vì Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên làm ác trước mặt Đức Giê-Hô-
Va, hầu việc các thần tượng của Ba-anh, bỏ Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời của
tổ phụ mình, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
Kết quả là, Đức Chúa Trời đoán xét dân Y-sơ-ra-ên bằng cách cho phép kẻ
thù đánh bại họ trong bất cứ cuộc chiến nào. 2:16 cho chúng ta biết rằng:
“Đức Giê-Hô-Va dấy lên những quan xét”.
Trong suốt thời kỳ các quan xét, quyền năng của Đức Thánh Linh được bày
tỏ cách đặc biệt. Có nhiều thất bại của những người được chọn để giải phóng
dân sự của Đức Chúa Trời khỏi sự tàn bạo của kẻ thù, tuy nhiên Đức Chúa
Trời vẫn xử dụng họ cho dù họ yếu đuối.
Có tất cả 13 quan xét cai trị dân Y-sơ-ra-ên trong khoảng 300 năm. Câu
chuyện về Ghê-đê-ôn và Sam-sôn kể về những công việc kỳ diệu của con
người khi Đức Thánh Linh ngự xuống trên họ.
3. Đọc 6:11-15. Khi Chúa hiện ra cùng Ghê-đê-ôn, ông đã mô tả chính mình
như thế nào?
.......................................................................................................

Bởi Ghê-đê-ôn vâng theo các chỉ dẫn của thiên sứ của Đức Giê-Hô-Va, nên
Thánh Linh của Ngài đã ngự trên ông (6:34). Đức Chúa Trời xử dụng Ghê-
đê-ôn để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi đạo quân Ma-đi-an chỉ với 300
người được chọn.
Sam-sôn là một bài học cho những ai muốn mặc lấy Thánh Linh của Đức
Chúa Trời trong đời sống và chức vụ hầu việc Đức Chúa Trời. Ông được
chuẩn bị để dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ngay trong lòng mẹ (Xem Các Quan Xét
chương 13-16). Khi ông còn là một cậu bé, “Đức Giê-Hô-Va ban phước
cho. Thần của Đức Giê-Hô-Va khởi cảm động người”(13:24-25).
4. Đọc 14:6, 19 và 15:14. Những câu Kinh thánh nầy chép điều gì về Sam-
sôn?
.......................................................................................................
Sam-sôn được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời từ trong lòng mẹ, và Ngài
chọn ông để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay người Phi-li-tin. Tuy nhiên,
Sam-sôn không vâng giữ sự hứa nguyện của mình với Chúa.
5. Đọc 16:15-20. Điều gì xảy ra khi Sam-sôn bất tuân lời hứa nguyện và tiết
lộ nguồn sức mạnh của ông?
.......................................................................................................

Khi dân Y-sơ-ra-ên đòi một vua (ISa1Sm 8:4), Đức Chúa Trời ban Sau-lơ
cho họ. Tiên tri Samuên nói với Sau-lơ rằng: “Thần của Đức Giê-Hô-Va sẽ
cảm động ngươi nói tiên tri cùng chúng, rồi ngươi sẽ hóa ra một người khác”
(ISa1Sm 10:6). Lời tiên tri nầy được ứng nghiệm trong chính ngày đó, và
Đức Chúa Trời xử dụng Sau-lơ để làm vua dân Y-sơ-ra-ên, tuy nhiên, giống
như Sam-sôn, Sau-lơ không tiếp tục kính sợ và vâng phục Đức Chúa Trời.
Vì vậy, Kinh thánh đã dùng những lời lẽ đáng buồn nhất để viết về ông.
6. Đọc 16:14. Những lời lẽ đáng buồn nầy là gì?
.......................................................................................................

Trong thời gian đó, Đức Thánh Linh đang chuẩn bị cho một cậu bé chăn
chiên để làm vua Y-sơ-ra-ên. Kinh thánh cho biết bằng cách nào mà Samuên
đã tìm thấy cậu bé, xức dầu cho cậu, và “Từ ngày đó về sau, Thần của Đức
Giê-Hô-Va cảm động Đa-vít” (16:13).
Đa-vít là một trong một số ít nhân vật của thời kỳ Cựu ước được Thánh Linh
của Đức Giê-Hô-Va ngự trên ông cách lâu dài và liên tục. Nếu không có
Đức Thánh Linh toàn năng là Đấng ngự trên ông, ông không thể làm được
những công việc diệu kỳ như vậy.
Đa-vít ý thức được nhu cầu về sự hiện diện của Đức Thánh Linh trên đời
sống ông. Khi ông phạm tội, ông ăn năn và kêu cầu cùng Đức Chúa Trời
rằng: “Xin chớ từ bỏ tôi ở trước mặt Chúa, cũng đừng cất khỏi tôi Thánh
Linh Chúa” (Thi Tv 51:11).
7. Nguyên tắc nào có thể được rút ra từ sự thất bại của Sam-sôn, Sau-lơ và
Đa-vít, liên quan đến sự hiện diện của Đức Thánh Linh trên đời sống họ?
...........................................................................................................................
..................................

Trong Các Sách Tiên Tri


Mục tiêu 3: Nhận lời tuyên bố phản ánh về thái độ của các tiên tri trong thời
Cựu ước liên quan đến nhu cầu về Đức Thánh Linh trên đời sống của ho .
Đức Thánh Linh xử dụng các sách tiên tri cho một vai trò quan trọng trong
lịch sử Y-sơ-ra-ên sau nầy. Những bản văn nầy chiếm một phần quan trọng
trong Kinh thánh Cựu ước.
Điều mà tiên tri Mi-chê nói về mình cũng có thể được áp dụng cho các tiên
tri thật của Đức Chúa Trời: “Nhưng ta, ta được đầy dẫy sức mạnh, sự xét
đoán và lòng bạo dạn bởi Thần của Đức Giê-Hô-Va” (MiMk 3:8).
Ê-xê-chi-ên kể về cách mà Đức Thánh Linh đã cất ông lên ở khoảng giữa đất
và trời và cho ông thấy khải tượng về Giê-ru-sa-lem (Exe Ed 8:3).
Sự hiện diện của Đức Thánh Linh trên Đa-ni-ên được vị vua ngoại giáo Nê-
bu-cát-nết-sa nhận biết khi ông nói rằng: “ta biết rằng linh của các thần
thánh ở trong ngươi, và không có một điều kín nhiệm nào là khó cho ngươi”
(DaDn 4:9).
Các tác giả Tân ước cũng thừa nhận sự xức dầu của Đức Thánh Linh trên
các tiên tri. Phao-lô nói với người Giu-đa ở La-mã rằng: “Đức Thánh Linh
đã phán phải lắm, khi Ngài dùng đấng tiên tri Ê-sai mà phán cùng các ngươi
rằng ...” (Cong Cv 28:25).
Tác giả thư Hê-bơ-rơ trưng dẫn Gie Gr 31:33-34 rằng: “Đức Thánh Linh
cũng làm chứng ...” (HeDt 10:15-17). Ấy là, lời của tiên tri Giê-rê-mi được
xem như là lời của Đức Thánh Linh.
Sứ đồ Phierơ xác nhận công tác của Đức Thánh Linh qua các tiên tri bằng
những lời được chép trong IIPhi 2Pr 1:20-21
Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh thánh lấy ý
riêng mà giải được. Vì chẳng hề có lời thiên tri nào là bởi ý một người nào
mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi
Đức Chúa Trời.
8. Trong những câu sau đây, câu nào bày tỏ rõ ràng nhất thái độ của các tiên
tri thời Cựu ước liên quan đến nhu cầu cần đến Đức Thánh Linh trên đời
sống của họ? Hãy khoanh tròn ký tự trước câu bạn chọn.
a) Sự cầu xin của Đa-vít: “Xin chớ từ bỏ tôi khỏi trước mặt Chúa, cũng đừng
cất khỏi tôi Thánh Linh Chúa” (Thi Tv 51:11).
b) Sự tuyên bố của Xa-cha-ri: “‘Ấy chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng
phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta”, Đức Giê-Hô-Va vạn quân phán
vậy” (XaDr 4:6).
c) Lời tuyên bố của Mi-chê: “Nhưng ta, ta được đầy dẫy sức mạnh, sự xét
đoán và lòng bạo dạn bởi Thần của Đức Giê-Hô-Va” (MiMk 3:8).
CÁC MÔN ĐỒ THỜI TÂN ƯỚC
Mục tiêu 4: Đối chiếu và phân tích lời chứng của sứ đồ Phierơ trước và
trong Lễ Ngũ Tuần .
Trước Lễ Ngũ Tuần
Trọng tâm của Đức Thánh Linh trong Tân ước trước ngày Lễ Ngũ Tuần là
Con Người Giê-xu và công tác của Ngài. Chúng ta đã thảo luận chức vụ của
Chúa Giê-xu trong Bài Học 5, trong phần Lời Hằng Sống , vì vậy chúng ta
sẽ không bàn về điều nầy trong bài học nầy nữa.
Một số ít người nhận lãnh sự ngự xuống cách đặc biệt để ban quyền năng
của Đức Thánh Linh trước ngày Lễ Ngũ Tuần cho một mục đích đặc biệt
nào đó. Họ là:
Giăng Báp-tít (LuLc 1:15).
Cha mẹ của Giăng Báp-tít (LuLc 1:41, 67).
Ma-ri, mẹ của Chúa Giê-xu (Mat Mt 1:18, 20).
Si-mê-ôn (LuLc 2:25).
Đức Thánh Linh không hành động trực tiếp với các môn đồ trừ khi trong
những cơ hội đặc biệt mà Chúa Giê-xu sai họ đi ra thi hành chức vụ. (Xem
Mat Mt 10:1; Mac Mc 3:13-15; 6:7; LuLc 9:1 và 10:19. Những câu Kinh
thánh nầy bày tỏ rằng khi Đức Chúa Giê-xu sai các môn đệ đi ra thi hành
chức vụ, Ngài ban cho họ quyền phép để làm những phép lạ trong danh của
Ngài. Trước đây chúng ta thấy rằng Ngài nhận lấy quyền phép của Ngài từ
Đức Thánh Linh. Và Ngài ban quyền phép này cho các môn đồ với mục đích
là để họ thi hành chức vụ.)
Hầu hết thì giờ các môn đồ ở với Chúa Giê-xu. Ngài là vị Giáo sư thiên
thượng của họ. Họ nhìn xem Ngài, lắng nghe Ngài, và cố gắng bắt chước
Ngài, nhưng họ luôn thất bại. Lúc ấy, Ngài có thể ở với họ, nhưng không ở
trong họ. Họ không thể chia xẻ quyền năng ở trong Ngài cách trọn vẹn cho
đến sau khi Ngài chịu chết và phục sinh. Như Giăng sau nầy viết lại rằng:
“Bởi bấy giờ Đức Thánh Linh chưa ban xuống, vì Đức Chúa Giê-xu chưa
được vinh hiển” (GiGa 7:39).
Lịch sử về các môn đồ trước và sau Lễ Ngũ Tuần làm cho tôi nhớ đến các
mục quảng cáo cho thấy sự tương phản của một người trước khi người ấy
dùng sản phẩm được quảng cáo và sự thay đổi sau khi xử dụng sản phẩm ấy.
Chẳng hạn như:
Một người yếu ớt trở thành một lực sĩ.
Một cô gái quê mùa trở thành một người mẫu nổi tiếng.
Một người nông dân nghèo trở thành một chủ đất giàu có.
Một người công nhân cực khổ trở thành một người quản lý có quyền lực.
Mục đích của những mục quảng cáo nầy là chúng thuyết phục người ta rằng
họ có thể kinh nghiệm được sự thành công đó nếu như họ xử dụng những
sản phẩm nầy.
Một sự nghiên cứu về sứ đồ Phierơ trước và sau Lễ Ngũ Tuần là một bằng
chứng đầy thuyết phục cho thấy sự thay đổi trong đời sống của một người là
điều xảy ra như là kết quả của sự đổ đầy Đức Thánh Linh. Trong phần nầy
chúng ta sẽ học về Phierơ là người như thế nào trước Lễ Ngũ Tuần.
PHIERƠ TRƯỚC LỄ NGŨ TUẦN
1. Bốc đồng (hành động không suy nghĩ) - Mat Mt 14:28; 17:4; GiGa 21:7).
2. Đầy mâu thuẩn:
a. Tự cao tự đại - Mat Mt 16:22; GiGa 13:8; 18:10
Nhút nhát, sợ sệt - Mat Mt 14:30; 26:69-72
b. Vừa vụ lợi, vừa hy sinh - 19:27; Mac Mc 1:18
c. Đôi khi có sự nhận biết thuộc linh sâu sắc, nhưng những lúc khác tỏ ra
thiếu sự thông hiểu các lẽ thật thuộc linh - GiGa 6:68; Mat Mt 15:15-16
d. Hai lần tuyên xưng đức tin vào Đấng Christ - 16:16; GiGa 6:69
Phạm tội chối Chúa cách hèn yếu - Mac Mc 14:67-71
Theo Chúa xa xa - Mat Mt 26:58
3. Kết giao với những người làm ác - GiGa 18:18
4. Phạm tội báng bổ - Mac Mc 14:70-71
Trong đêm phục sinh, Chúa Giê-xu hiện ra với các môn đồ và cho họ thấy
điều sẽ đến. Rồi Ngài hà hơi trên môn đồ mà phán rằng: “Hãy nhận lãnh
Đức Thánh Linh” (GiGa 20:22). Nhiều người thấy được sự liên hệ giữa
mạng lịnh nầy với công tác của Đức Thánh Linh trong công cuộc tái sanh,
bởi vì Đức Thánh Linh là một tác nhân quan trọng trong sự tái sanh. Công
việc nầy nói lên rằng Ngài đã hoàn thành công tác phục hồi con người cho
Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, lúc ấy Chúa Giê-xu đã không ban cho họ phép
báp têm trong Đức Thánh Linh. và khi Chúa Giê-xu gặp họ sau nầy, Ngài
nhắc lại rằng phép báp têm trong Đức Thánh Linh là việc sẽ đến (Cong Cv
1:4, 8).
9. Trong những câu sau, câu nào giải thích làm thế nào các môn đồ có thể
duy trì đức tin của họ trong Đấng Christ trước Lễ Ngũ Tuần?
a) Họ nghiên cứu Kinh thánh và đến đền thờ cầu nguyện mỗi ngày.
b) Họ có sự hiện diện của Đức Thánh Linh nhưng không có quyền năng của
Ngài.
c) Hầu hết thì giờ họ ở với Chúa Giê-xu và học hỏi với Ngài.
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần
Cuối cùng ngày mà Chúa Giê-xu hứa đã đến. Tiến gió từ trên trời đầy khắp
phòng cao nơi các môn đồ và các tín hữu khác đang chờ đợi. Họ thấy dường
như có vật gì như lưỡi bằng lửa giáng xuống và đậu trên mỗi người. Và khi
họ đang tràn ngập trong sự hiện diện thiên thượng, họ được đầy dẫy Đức
Thánh Linh và bắt đầu nói các ngôn ngữ họ chưa từng biết. Chính Đức
Thánh Linh là Đấng ban lời cho họ nói (Cong Cv 2:1-4).
Điều nầy đúng với điều mà Giăng Báp tít và Chúa Giê-xu đã hứa. Họ được
báp têm bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa (Mat Mt 3:11; Cong Cv 1:5).
Chúa Giê-xu hứa rằng họ sẽ nói những ngôn ngữ mới, và điều đó đã xảy ra
khi họ nói ra những lời Đức Thánh Linh ban cho họ (Mac Mc 16:17).
Hàng ngàn người Giu-đa kính sợ Đức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem và các
vùng lân cận đến dự Lễ Ngũ Tuần. Khi nghe tiếng gió thổi ào ào, đám đông
tụ tập lại và vô cùng ngạc nhiên bởi mỗi người nghe ai đó nói tiếng của xứ
mình. “Hết thảy những người nói đó, há chẳng phải là người Ga-li-lê sao?”
Họ hỏi, “Vậy thì, sao chúng ta nghe ai nấy đều nói tiếng riêng của xứ chúng
ta sanh đẻ?” (Cong Cv 2:7-8).
Một vài người chế nhạo họ, nói rằng họ đã uống quá nhiều rựu, nhưng
Phierơ đứng lên và giải thích những gì đã xảy ra. Ông rao giảng rằng Đấng
Christ vẫn sống và bây giờ đang ứng nghiệm lời hứa ban Đức Thánh Linh
của Ngài.
Nhiều người bị Đức Thánh Linh bắt phục và kêu lên rằng: “Hỡi anh em,
chúng ta phải làm chi?” Phierơ đáp rằng: “Hãy hối cải, ai nấy phải nhơn
danh Đức Chúa Giê-xu chịu phép báp têm, để được tha tội mình, rồi sẽ được
lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh” (2:37-38). Ba ngàn người đã đáp ứng và
tiếp nhận phép báp têm. Đây là một ngày trọng đại của Hội thánh - thật sự,
trên một phương diện, đây là ngày khai sinh Hội thánh! (2:1-41).
10. Ôn lại Công vụ chương 1 và 2. Môn đồ nào là người giữ quyền lãnh đạo
sau khi Chúa Giê-xu về trời?
.......................................................................................................
Sau Lễ Ngũ Tuần
Quyền năng Lễ Ngũ Tuần không ngừng lại khi ngày Lễ Ngũ Tuần chấm dứt.
Đó là ngày bắt đầu cho một thời đại hành động đặc biệt của Đức Thánh
Linh. Qua sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu, con đường đã mở ra để
Đức Thánh Linh ngự xuống và sống trong lòng của tín hữu.
Ngày Lễ Ngũ Tuần đã đem đến phép báp têm trong Đức Thánh Linh, là sự
ban cho quyền năng đặc biệt mà Chúa Giê-xu hứa rằng quyền năng ấy sẽ
khiến cho họ trở thành các chứng nhân đắc lực của Ngài. Sự thành công của
các môn đồ được tóm tắt trong HeDt 2:4: “Đức Chúa Trời cũng dùng những
dấu kỳ sự lạ và đủ thứ phép mầu, lại dùng sự ban cho của Đức Thánh Linh
mà Ngài đã theo ý muốn mình phát ra, để làm chứng với các kẻ đó.”
Phierơ là một ví dụ điển hình cho điều xảy ra sau Lễ Ngũ Tuần . Hãy so
sánh biểu đồ dưới đây với biểu đồ trước Lễ Ngũ Tuần .
PHIERƠ SAU LỄ NGŨ TUẦN
Trở thành một người truyền đạo đầy quyền năng và người lãnh đạo của Hội
thánh đầu tiên - Công vụ chương 1-5 và 10-12
Mạnh dạn rao giảng về Đấng Christ - GiGa 1:42; Mat Mt 16:18; Cong Cv
1:8
Thi hành phép lạ - 3:7; 5:15; 9:34, 40
Can đảm - 4:19-20; 5:28-29, 40, 42
Là một sự khích lệ và một gương điển hình của sự chịu khổ - 1Phierơ
Đưa ra những chỉ dẫn cho Hội thánh liên quan đến những giáo sư giả và
những kẻ hay gièm chê - 2Phierơ
Nếu bạn so sánh biểu đồ nầy với biểu đồ trước đây, bạn sẽ thấy rằng việc
Đức Thánh Linh ngự trong Phierơ tạo nên sự khác biệt khiến ông có thể trở
thành một chứng nhân đầy quyền năng cho Chúa của mình. Thay vì chối
Chúa một cách hèn nhát, ông đã làm chứng cách hùng hồn cho đoàn dân
đông về ơn cứu rỗi của Đấng Christ.

Cơn phấn hưng bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem khi Phierơ giảng một bài giảng đầy
quyền năng vào ngày Lễ Ngũ Tuần lan rộng đến vùng Samari bởi một chấp
sự đầy dẫy Đức Thánh Linh tên là Phi-líp. Dân chúng tin sứ điệp Phúc âm
và nhận lãnh phép báp têm bằng nước. Nhiều phép lạ xảy ra, tuy nhiên
không một ai được báp têm bằng Đức Thánh Linh. Vì vậy, Phierơ và Giăng
được sai xuống từ Giê-ru-sa-lem. Hai người đặt tay trên những tín hữu mới
để họ nhận lãnh Đức Thánh Linh (8:4-17).
Sau-lơ người Tạt-sơ, sau nầy gọi là Phao-lô, là người nhận lãnh Đức Thánh
Linh kế tiếp. Khi A-na-nia cầu nguyện cho ông, Phao-lô trở thành một sứ đồ
vĩ đại cho dân ngoại (9:17).
Tuy nhiên, sứ đồ Phierơ là người đầu tiên tiếp xúc với dân ngoại trong
quyền năng của Lễ Ngũ Tuần. Đức Thánh Linh sai ông đến nhà Cọt-nây
không theo ý của ông. Và khi ông giảng cho đoàn dân đông ngoại bang, Đức
Thánh Linh giáng xuống trên tất cả những người nghe đạo. Phierơ vô cùng
ngạc nhiên vì ông nghe họ nói tiếng mới như ông đã nói trong ngày Lễ Ngũ
Tuần. Sau nầy, khi ông tự binh vực mình trước những anh em Giu-đa, ông
nhớ lại lời hứa của Giăng Báp tít rằng Chúa Giê-xu sẽ báp têm họ bằng Đức
Thánh Linh. Ông thừa nhận kinh nghiệm của dân ngoại với phép báp têm đó
(10:1-11:18).
Hai mươi năm sau, sứ đồ Phao-lô đến thăm thành phố Ê-phê-sô và biết rằng
có một số tín hữu ở tại đó. Câu hỏi đầu tiên của ông được ghi lại là: “Từ khi
(hoặc sau khi) anh em tin, có nhận lãnh được Thánh Linh chăng?” (19:2).
Họ trả lời rằng họ chưa hề nghe nói về một Đức Thánh Linh nào cả. Phao-lô
dạy dỗ họ, làm phép báp têm cho họ trong danh của Chúa Giê-xu, và đặt tay
trên họ. Đức Thánh Linh giáng trên họ, họ nói tiếng mới và nói tiên tri
(19:1-7).
Sứ đồ Phierơ và Phao-lô, cùng với Gia-cơ, Giăng và Giu-đe, được Đức
Thánh Linh ban quyền năng để viết ra cho chúng ta những sách thư tín trong
Tân ước - là kim chỉ nam cho đời sống của Cơ đốc nhân trong Đức Thánh
Linh. Lời chứng đầy quyền năng của họ, là điều họ nhận lãnh bởi sự đầy dẫy
của Đức Thánh Linh, vẫn còn tác động trên những đời sống ngày hôm nay!
11. Đối chiếu kinh nghiệm của Phierơ trước và sau khi Lễ Ngũ Tuần, dựa
trên hai biểu đồ chúng ta đã có. Sau đó, hãy sắp xếp thời gian (bên phải) với
những sự mô tả về Phierơ (bên trái). Viết số bạn chọn trước những khoảng
trống.
1) Trước Lễ Ngũ Tuần
2) Sau Lễ Ngũ Tuần
. . . . a Can đảm
. . . . b Một tấm gương không xứng đáng
. . . . c Một chứng nhân vững vàng
. . . . d Sợ hãi và đầy mâu thuẩn
. . . . e Một người lãnh đạo có quyền năng và một người truyền đạo năng nổ
. . . . f Một kẻ phỉ báng hèn yếu
. . . . g Bốc đồng
. . h Một người lãnh đạo thuộc linh “gương mẫu”

NHỮNG TÍN HỮU CỦA THẾ KỶ HAI MƯƠI


Mục tiêu 5: Giải thích mục đích của phong trào năng quyền Lễ Ngũ Tuần
trong thời kỳ cận đại dưới sự soi dẫn của các lời tiên tri trong Kinh thánh .
Đức Thánh Linh được ban xuống từ sau ngày Lễ Ngũ Tuần, tuy nhiên, vào
những thế kỷ đầu tiên của Hội thánh, sự ban Thánh Linh này không được
phổ biến cách rộng rãi. Những người lãnh đạo Hội thánh trong thời kỳ đầu
tiên như Tertullian (160 - 220 A.D), Origen (185-254 A.D), và Chrysostom
(400 A.D) viết về sự ban Đức Thánh Linh xuống với việc nói tiếng mới như
trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Qua suốt thời kỳ Trung cổ, những cuộc phấn hưng
Tin lành, và cho đến thế kỷ hai mươi, trong những cuộc phục hưng đặc biệt,
Đức Thánh Linh được ban xuống cùng với việc nói tiếng mới và những khả
năng thuộc linh để làm chứng nhân cho Đấng Christ.
Trong Công vụ đoạn 2, sứ đồ Phierơ trưng dẫn lời tiên tri được chép trong
sách Giô-ên rằng trong những ngày sau rốt Đức Thánh Linh sẽ được đổ
xuống trước ngày lớn và vinh hiển của Chúa (2:17-21). Phierơ nói rằng lời
hứa về ân tứ của Đức Thánh Linh được dành cho tất cả những người mà
“Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta sẽ gọi” (2:39). Điều nầy bao gồm cho cả
những Cơ đốc nhân của thế kỷ hai mươi! Từ những bằng chứng chung
quanh, dường như chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng, nghĩa là
ngày lớn và vinh hiển của Chúa đang đến gần, và con người trong thế kỷ
chúng ta đang sống vẫn đang được Chúa kêu gọi.
12. Theo 1:8, mục đích của việc ban Đức Thánh Linh xuống trong ngày Lễ
Ngũ Tuần đem lại cho tín hữu điều gì?
.......................................................................................................
13. Theo 2:38-39, sự ban xuống nầy sẽ được tiếp tục trong bao lâu?
...........................................................................................................................
...................................................................................

Sự ban quyền năng của Lễ Ngũ Tuần trong những ngày cận đại nầy cùng lúc
xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Một ví dụ điển hình xảy ra ở Mỹ quốc trong
một trường Kinh thánh tại Topeka, Kansas. Với sự đói khát về một kinh
nghiệm sâu xa hơn trong Đức Chúa Trời, các sinh viên tại đây đã thấy được
rằng kinh nghiệm của những Cơ đốc nhân trong Hội thánh đầu tiên là tiêu
chuẩn cho họ; vì vậy, họ đã nghiên cứu sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Để đáp
lại đức tin và những lời cầu nguyện tha thiết của họ, Đức Thánh Linh đã
giáng xuống và làm thỏa mãn sự đói khát thuộc linh của họ. Vào ngày 1 / 1 /
1901, một sinh viên đầu tiên được đầy dẫy Đức Thánh Linh, và tiếp theo đó
là nhiều sinh viên khác kinh nghiệm được sự đầy dẫy nầy. Khi họ được báp
têm trong Đức Thánh Linh, họ đã nói những ngôn ngữ khác theo như Đức
Thánh Linh cho họ nói. Cơn phấn hưng lan rộng đến Galena, Kansas, và đến
năm 1903, nó lan rộng đến Houston, Texas, và trên toàn tiểu ban Texas. Đến
năm 1906, có hơn 1000 người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Vào năm 1906, một nhà truyền đạo người da đen tên là W. J. Seymour, từ
thành phố Houston đến thành phố California để truyền giảng, và một cơn
phấn hưng đã nổ ra tại Hội Truyền Giáo Đường Azusa. Buổi nhóm kéo dài
trong suốt ba năm, cả ngày lẫn đêm, không hề nghỉ ngơi, và một sự ban Đức
Thánh Linh trong quyền năng của Lễ Ngũ Tuần cách liên tục cùng với việc
nói tiếng mới và các phép lạ đã xảy ra. Từ đó, cơn phấn hưng lan rộng trên
toàn nước Mỹ và Canađa.
Cùng lúc đó, có những sự ban Đức Thánh Linh xuống cách tự phát tương tự
xảy ra ở Anh quốc, Na-uy, Đan mạch, Thụy sĩ, Pháp, Đức và Ấn độ. Vị giáo
sĩ của phong trào Lễ Ngũ Tuần đầu tiên đặt chân lên vùng đất Trung quốc
vào tháng 10, năm 1907.Chỉ trong vòng sáu tháng, 700 người Trung quốc và
các giáo sĩ được báp têm bằng Đức Thánh Linh. Đến năm 1909, cơn phấn
hưng trong phong trào Lễ Ngũ Tuần lan rộng đến Ai-cập, Châu Phi, và vùng
Nam Mỹ.
Cho đến giữa thế kỷ chúng ta đang sống, Đức Thánh Linh bắt đầu hành
động trong quyền năng chữa bịnh. Các nhà truyền giáo với những ân tứ đặc
biệt của Đức Thánh Linh chỉ đạo những cuộc thập tự chinh được phát động
trên toàn thành phố với hàng ngàn người tham gia. Những phép lạ chữa bệnh
chưa từng có trong những cuộc truyền giáo giữa công chúng từ thời Tân ước
đã xảy ra. Và Đức Thánh Linh, bởi quyền năng chữa bịnh, đang vận hành
trên toàn thế giới.
Chúng ta đang chứng kiến một sự ban Thánh Linh của Đức Chúa Trời cách
rộng rãi. Sự vận hành nầy của Đức Thánh Linh không còn bị giới hạn trong
những thánh đường Ngũ Tuần như trong đầu thế kỷ nầy. Thay vào đó, chúng
ta đang chứng kiến sự ban Đức Thánh Linh xuống trên những Cơ đốc nhân
của nhiều giáo phái khác nhau. Bởi vì trọng tâm được đặt trên phép báp têm
bằng Đức Thánh Linh và những ân tứ theo sau, nên phong trào nầy được
xem như là phong trào năng quyền của Lễ Ngũ Tuần .Tuy nhiên, điều quan
trọng nhất ấy là Đức Thánh Linh đang áp dụng những kinh nghiệm trong
sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho các Cơ đốc nhân trong tất cả các giáo phái,
xảy ra trên toàn thế giới. Điều nầy được xem như là một sự vận hành của
Đức Thánh Linh để chuẩn bị Hội thánh thật của Đức Chúa Giê-xu Christ
cho sự đến lần thứ hai của Ngài .
TRƯỚC HẾT LÀ MƯA XUỐNG . . . . . RỒI ĐẾN MÙA GẶT
SỰ BAN ĐỨC THÁNH LINH BAN XUỐNG SỰ CỨU RỖI CHO MỌI
NGƯỜI

Nghiên cứu kỷ hơn bài giảng của Phierơ trong ngày Lễ Ngũ Tuần cho thấy
vài yếu tố quan trọng. Sự ban Đức Thánh Linh xuống, cùng với sự tỏ bày
những hiện tượng siêu nhiên trên trời và dưới đất - tất cả những điều nầy
được kèm theo một lời thách thức toàn cầu hãy nghe theo tiếng gọi của Đức
Chúa Trời và được cứu ( so sánh 2:17-21 với Mat Mt 24:3-14). Hơn nữa khi
chúng ta so sánh những sự kiện mà Chúa Giê-xu đưa ra trong 24:14 và
những điều Phierơ mô tả trong ngày Lễ Ngũ Tuần, chúng ta phải tin rằng có
một mối tương quan tích cực giữa sự ban Đức Thánh Linh xuống và mạng
lịnh truyền giáo cho toàn thế giới. Chúa Giê-xu phán : “Tin lành nầy về
nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn
dân, bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến” (24:14).
14. Dựa trên phần đánh giá 24:3-14 của chúng ta và bài học, hãy chọn phần
hoàn chỉnh nhất cho câu sau: Chúa Giê-xu phán cùng các môn đệ của Ngài
rằng sự đến lần thứ hai của Ngài sẽ xảy ra khi
a) Tin lành được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân.
b) sẽ có tiếng đồn về chiến tranh, đói kém, động đất xảy ra trên thế giới.
c) những giáo sư giả đến xưng là “Ta là Đấng Christ”.
15. Dựa trên phần đã thảo luận trong bài học, hãy cho biết mục đích của sự
ban Đức Thánh Linh xuống trong thời kỳ cận đại nầy có liên quan với sự
đến lần thứ hai của Đấng Christ là gì? (cũng xem Cong Cv 1:8)
...........................................................................................................................
...................................................................................

Bạn có nhận được sự ban Đức Thánh Linh xuống trong những ngày sau rốt
nầy, là điều đang lan tràn khắp đất không? Bạn có nhận được quyền năng để
làm chứng nhân cho Đức Chúa Trời nơi mà Ngài đang đặt để bạn không?
Bạn đã làm tròn trách nhiệm là đem sứ điệp đến cho toàn thế giới chưa?
Quyền năng của Đức Thánh Linh là điều đã được ban cho các sứ đồ để họ
vương đến với thế giới cũng đang dành sẵn cho bạn. Chúa Giê-xu sẽ trở lại
ngay khi sứ điệp phúc âm được giảng ra cho toàn thế giới để làm chứng cho
muôn dân. Ngài đã giao phó trọng trách đó cho chúng ta. Thật vinh hạnh biết
bao khi mà quyền năng của Đức Thánh Linh ở trên và ở trong chúng ta hầu
cho chúng ta có thể làm việc để thúc đẩy sự tái lâm của Chúa chúng ta!
Bài trắc nghiệm
ĐÚNG - SAI. Nếu là câu ĐÚNG, hãy viết chữ Đ trước khoảng trống. Nếu
câu SAI, viết chữ S.
. . . 1. Sự nhấn mạnh trong Kinh thánh Cựu ước được tập trung trên đặc tính
của Đức Thánh Linh hơn là trên những công việc của Ngài.
. . . 2. Những tín hữu trong thời Cựu ước cùng một sự ban Đức Thánh Linh
cách phổ thông như những tín hữu sau ngày Lễ Ngũ Tuần kinh nghiệm
được.
. . . 3. Đức Thánh Linh giáng trên những con người trong thời Cựu ước để
ban cho họ quyền năng để họ làm tròn một công tác đặc biệt nào đó cho Đức
Chúa Trời.
. . . 4. Sam-sôn và Sau-lơ là những gương trong thời kỳ Cựu ước hưởng
được sự hiện diện của Đức Thánh Linh mà không bị gián đoạn.
. . . 5. Đức Thánh Linh sẽ lìa bỏ một người nếu người ấy cứ chông đối và
không vâng phục.
. . . 6. Thời kỳ Các quan xét là một thời kỳ chiến thắng liên tục của dân Y-
sơ-ra-ên bởi vì họ được Đức Thánh Linh hướng dẫn.
. . . 7. Các tiên tri thời Cựu ước nhìn nhận rằng họ không thể làm được điều
gì nếu không có quyền năng của Đức Thánh Linh.
. . . 8. Trọng tâm chủ yếu của Đức Thánh Linh trước ngày Lễ Ngũ Tuần là
trên mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu.
. . . 9. Một sự nghiên cứu về một trong những sứ đồ trước và sau Lễ Ngũ
Tuần cho thấy thế nào Đức Thánh Linh có thể thay đổi một người từ yếu
đuối trở thành một chứng nhân đầy quyền năng.
. . . 10. Sự ban Đức Thánh Linh xuống cứ được tiếp tục kể từ ngày Lễ Ngũ
Tuần.
. . . 11. Chúa Giê-xu sẽ trở lại ngay khi mọi người được đầy dẫy Đức Thánh
Linh.
. . . 12. Việc Đức Thánh Linh được ban xuống trong tất cả mọi giáo phái trên
thế giới trong thời kỳ nầy dường như là một sự chuẩn bị cho một Hội thánh
thật của Đấng Christ cho sự đến lần thứ hai của Ngài.
Trả lời câu hỏi nghiên cứu
1. a. Câu 17
b. Đức Chúa Trời lấy Thần cảm Môi-se mà ban cho những người đó (Vì
vậy, sự khôn ngoan và quyền năng mà Đức Thánh Linh ban cho Môi-se
cũng được ban cho họ.)
c. Tất cả đều nói tiên tri.
2. a Giải nghĩa các điềm chiêm bao; trở thành một người trông coi đất nước.
b Hướng dẫn dân sự của Đức Chúa Trời ra khỏi Ai-cập.
c Giúp đỡ Môi-se đáp ứng các nhu cầu của dân sự.
d Hướng dẫn dân sự của Đức Chúa Trời vào đất hứa (Ca-na-an).
e Sự ngự xuống ban quyền năng của Đức Thánh Linh tương đối là một kinh
nghiệm lâu dài trong từng trường hợp.
3. Ông xuất thân từ một dòng họ nghèo hơn hết, và ông là nhỏ hơn hết trong
nhà cha ông.
4. “Thần của Đức Giê-Hô-Va cảm động Sam-sôn rất mạnh.”
5. Điều ngụ ý ở đây là Thần của Đức Giê-Hô-Va, Đấng ngự trên ông (Cac Tl
13:25; 14:6, 19 và 15:14) để ban cho ông sức mạnh đã lìa bỏ ông (c. 20).
6. “Thần của Đức Giê-Hô-Va lìa khỏi Sau-lơ.”
7. Câu trả lời của bạn phải tương tự như thế nầy: Nếu Đức Thánh Linh buồn
rầu bởi một đời sống tội lỗi, chống đối, không vâng phục, Ngài có thể lìa bỏ
một người ngay cả khi người ấy được Đức Chúa Trời chọn lựa. Sự hiện diện
của Đức Thánh Linh trong đời sống của một người kêu gọi người đó có một
đời sống có trách nhiệm và nhạy bén với sự hiện diện của Ngài.
8. Trong khi tất cả những câu trên đều cho thấy sự phụ thuộc của các tiên tri
vào Đức Thánh Linh, câu a) và c) dường như liên hệ nhiều hơn đến cuộc đời
cá nhân của các tiên tri hơn là chức vụ của họ. Tôi sẽ chọn câu b) bởi vì nó
cho thấy sự phụ thuộc của tất cả các đấng tiên tri vào Đức Thánh Linh.
9. c) Hầu hết thời giờ họ ở với Chúa Giê-xu và học hỏi với Ngài.
10. Phierơ
11. a. 2) Sau Lễ Ngũ Tuần.
b. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
c. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
d. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
e. 2) Sau Lễ Ngũ Tuần.
f . 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
g. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần. (Nhìn chung, ông không còn bốc đồng kể từ sau
Lễ Ngũ Tuần).
h. 2) Sau Lễ Ngũ Tuần.
12. Quyền năng để làm chứng cho Đức Chúa Giê-xu Christ trên khắp thế
giới.
13. Sự ngụ ý ở đây là lời hứa vẫn có giá trị cho đến khi Đức Chúa Trời còn
kêu gọi con người cho chính Ngài, ấy là, cho đến ngày lớn và vinh hiển của
Chúa.
14. a) Tin lành được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân.
15 Câu trả lời của bạn. Tôi tin rằng chúng ta đang sống trong những ngày
cuối cùng, và rằng sự ban Đức Thánh Linh xuống trong thế kỷ hai mươi
cũng như những cuộc phấn hưng bởi năng quyền của Lễ Ngũ Tuần trong
hiện tại là mục đích của sự ban quyền năng cho những chứng nhân để tin
lành được giảng ra cho mọi người. Chúa Giê-xu sẽ trở lại ngay khi tin lành
được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân.
THỜ PHƯỢNG TRONG THÁNH LINH
Chúa Giê-xu phán rằng: “Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì
phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (GiGa 4:24). Chúa Giê-xu đang
phán với người đàn bà Samari bên cạnh giếng Si-kha. Trước đó Ngài bảo
với bà rằng: “Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết
người nói: ‘Hãy cho ta uống’ là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và
người sẽ cho ngươi nước sống” (4:10).
Vào chặng cuối của con đường chức vụ, Chúa Giê-xu thắp sáng hơn ý nghĩa
của nước sống . Ngài phán rằng: “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà
uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y
như Kinh thánh đã chép vậy” (7:37-38). Sứ đồ Giăng giải thích rằng Chúa
Giê-xu đang phán về Đức Thánh Linh, là Đấng mà các môn đệ của Ngài sẽ
nhận lãnh sau khi Đức Chúa Giê-xu được vinh hiển (c. 39). Cùng với sự
giáng xuống của Đức Thánh Linh, nguồn nước thờ phượng sẽ tuôn chảy từ
trong tín hữu như là chức vụ của Đức Thánh Linh đối với Đức Chúa Trời.
Sự thờ phượng thật sự biểu hiện bằng sự kính sợ Đức Chúa Trời, sanh ra sự
ngợi khen Chúa, vâng phục mạng lịnh của Ngài, và ước ao dâng chính mình
cho sự hầu việc vương quốc Đức Chúa Trời.
Trong tất cả những tạo vật của Đức Chúa Trời, chỉ có loài người được ban
cho khả năng tiếp nhận Đức Chúa Trời trong Ngôi vị Đức Thánh Linh và có
mối thông công với Ngài qua Đức Thánh Linh. Bây giờ, Đức Thánh Linh
đang chuẩn bị một đoàn thể những con người được cứu để kết hiệp với Đấng
Christ cách trọn vẹn đang sắp xảy ra trong cõi đời đời. Bởi vì Thánh Linh
của Ngài ở trong chúng ta, nên chúng ta ao ước được thờ phượng Ngài và
sống cho Ngài cho đến ngày đó. Thật vinh hạnh biết bao khi chúng ta được
tôn vinh Đấng đã phó chính mình Ngài vì chúng ta để chúng ta có sự sống
đời đời. Ngài ban cho chúng ta quyền năng để thờ phượng Ngài qua Đức
Thánh Linh, là nguồn nước sống đang ở trong chúng ta! Hãy thờ phượng
Ngài, kính sợ Ngài, và hầu việc Ngài!
Dàn Ý Bài Học
Kính sợ Đức Chúa Trời
Tôn vinh Đức Chúa Trời
Hầu việc Đức Chúa Trời
Cầu nguyện với Đức Chúa Trời
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Giải thích được sự liên hệ giữa sự tôn kính, hay kính sợ Đức Chúa Trời và
sự thờ phượng trong Đức Thánh Linh.
Mô tả những phương cách mà Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta tôn vinh
Đức Chúa Trời.
Bày tỏ tầm quan trọng của sự hầu việc Đức Chúa Trời bởi vì nó liên quan
đến sự thờ phượng thuộc linh.
Phát huy một đời sống cầu nguyện cá nhân và bước đi mỗi ngày với Đức
Chúa Trời, ấy là thờ phượng trong Đức Thánh Linh và trong lẽ thật.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học như đã trình bày trong phần những hoạt động học tập
của Bài học 1. Đọc nội dung bài học, tìm và đọc những đoạn Kinh thánh
trưng dẫn, và trả lời những câu hỏi nghiên cứu.
Học ý nghĩa của những từ then chốt mà bạn không biết.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Những Từ Then Chốt
kính sợ
làm cho kính sợ, (sự)
làm ô uế
gây dựng
tán tụng, (sự)
thiêng liêng
làm cho trọn vẹn
tôn kính
vâng phục
vâng phục, (sự)

Triển Khai Bài Học


KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA TRỜI
Mục tiêu 1: Hoàn chỉnh những câu rút ra từ Kinh thánh bày tỏ nhu cầu cần
phải kính sợ Đức Chúa Trời .
Định nghĩa theo Kinh thánh
Người khôn ngoan nói rằng: “ Sự kính sợ Đức Giê-Hô-Va là khởi đầu sự tri
thức” (ChCn 1:7). Một người khác giải thích rộng ra bằng cách nói rằng sự
kính sợ Đúc Giê-Hô-Va là một sự tôn kính mà nó tôn vinh Đức Chúa Trời
và đó là khởi đầu của mọi sự khôn ngoan. Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta
nhận biết được Đức Chúa Trời là ai và Ngài đã làm những gì cho chúng ta.
Khi chúng ta nhìn thấy sự đáng kính sợ của Đức Chúa Trời, sức lực và
quyền năng của Ngài, chúng ta sẽ nhận thức được rằng Ngài thật đáng kính
sợ .
Sự kính sợ Đức Chúa Trời bao gồm cả sự tôn kính, sự sợ hãi, và sự kính
trọng, là sự khiến cho một người bày tỏ lòng ngưỡng mộ, sự tôn quí, và sự
vâng phục đối với Ngài. Điều nầy được minh họa qua kinh nghiệm thờ
phượng của Ê-sai.
1 Đọc EsIs 6:1-8, và trả lời những câu hỏi sau:
a Ê-sai đã mô tả khải tượng về Chúa như thế nào? Ông thấy Chúa như
.......................................................................................................
b Theo bạn, phản ứng của Ê-sai khi ông thấy khải tượng nầy là một phản
ứng của sự kính sợ hay là một phản ứng của sự thiếu kính sợ?
.......................................................................................................
c Khi Ê-sai thấy sự huyền nhiệm của Đức Chúa Trời, ông đã nhìn thấy chính
mình như thế nào?
.......................................................................................................
d Ông được thanh tẩy như thế nào?
.......................................................................................................
e Từ ngữ nào sau đây mô tả thái độ của Ê-sai đối với khải tượng nầy? kính
sợ, vâng phục, không quan tâm
.......................................................................................................
Kinh thánh luôn dạy rằng sự kính sợ Đức Chúa Trời là một điều cần thiết và
đáng ao ước. Điều này không chỉ đúng trong thời Cựu ước là khi dân Y-sơ-
ra-ên sống dưới một chế độ thần quyền tương đối lạnh lùng nhưng cũng
đúng trong thời kỳ Tân ước khi mà mối tương giao của một người với Chúa
Giê-xu Christ đã trở nên gần gũi hơn. Đây là một việc phải lẽ bởi vì Đức
Chúa Trời muốn chúng ta tôn kính Ngài và dành cho Ngài một nơi xứng
đáng trong cuộc đời của chúng ta khi chúng ta đã biết Ngài là ai và Ngài đã
làm gì cho chúng ta. Đừng bao giờ suy nghĩ rằng mối tương giao của chúng
ta với Ngài là điều tầm thường, hoặc ra mắt Ngài trong sự khinh lờn. Ngài là
Đấng chủ tể của vũ trụ, Ngài đáng được chúng ta tôn trọng, thờ phượng và
tán tụng đời đời.
Sự Tôn Kính
Chức vụ của Đức Thánh Linh trong Hội thánh đầu tiên đem đến cho các tín
hữu lòng tôn kính khi Ngài làm những dấu kỳ phép lạ giữa dân sự (Cong Cv
2:43). Càng tăng trưởng, Hội thánh càng được Đức Thánh Linh ban năng lực
để họ thêm lòng kính sợ Chúa (9:31).
Chúng ta hãy quan sát kỹ hơn cụm từ kính sợ Chúa để xem nó hàm chứa
điều gì. Sự kính sợ Chúa xuất phát từ sự nhận biết của chúng ta về một Đức
Chúa Trời hằng sống. Điều nầy sanh ra một sự kính sợ thánh khiết trong
chúng ta khiến chúng ta tôn kính quyền phép của Đức Chúa Trời, vâng phục
mạng lịnh Ngài, đứng trước sự oai nghi và sự thánh khiết của Ngài cách
kính cẩn, và từ bỏ điều ác (xem SaSt 22:12; ISa1Sm 12:14, 20-25; Giop G
28:28; Thi Tv 111:10). Những ai kính sợ Đức Chúa Trời như đáng phải kính
sợ sẽ thấy rằng gương kính sợ của Chúa Giê-xu sản sinh ra “sự tôn kính
nhiệt thành” (HeDt 5:7 bản diễn ý). Sứ đồ Phao-lô khuyên giục các tín hữu
hãy kính sợ Đức Chúa Trời và sống một đời sống thánh khiết (IICo 2Cr 7:1;
Phi Pl 2:12).
Tấm gương của A-na-nia và Sa-phi-ra là một lời cảnh cáo cho Hội thánh đầu
tiên về sự cần thiết phải kính sợ Đức Chúa Trời. Bởi họ đã nói dối Đức
Thánh Linh và các anh em Cơ đốc nhân, nên Đức Chúa Trời đoán phạt họ và
họ ngã chết tức thì (Cong Cv 5:1-11).
2. Hội thánh đã phản ứng với điều nầy như thế nào?
.......................................................................................................
Sứ đồ Phao-lô viết cho những tín hữu Hội thánh Côrinhtô rằng: “Hỡi những
kẻ rất yêu dấu của tôi, chúng ta đã có lời hứa dường ấy, thì hãy làm cho
mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh, lại lấy sự kính
sợ Đức Chúa Trời mà làm cho trọn việc nên thánh của chúng ta” (7:1). Ông
cũng dạy các tín hữu tại Ê-phê-sô phải kính sợ Đấng Christ mà vâng phục
nhau (Eph Ep 5:21).
Ước muốn được ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời và dâng cho Ngài
sự tôn quí thuộc về Ngài là một việc hoàn toàn xa lạ với xác thịt. Khi Ê-sai
nhìn thấy chính mình trong sự tương quan với Đức Chúa Trời Toàn năng,
lòng ông tràn ngập sự sợ hãi bởi sự bất khiết của mình. Nhưng khi được than
lửa đỏ từ bàn thờ của Đức Chúa Trời đụng đến, sự sợ hãi trong ông tan biến,
ông mạnh dạn tôn thờ Đấng Tạo Hóa của mình (EsIs 6:5-8).
Cũng vậy, ước muốn dâng sự tôn quí lên cho Đức Chúa Trời của chúng ta
phải được phát xuất từ trong tâm thần của chúng ta khi chúng ta được Đức
Thánh Linh đụng đến, và ước muốn nầy sẽ lớn lên khi chúng ta càng thuận
phục Đức Chúa Trời. Tất cả những ai hầu việc Đức Chúa Trời quanh ngai
của Ngài đều vui mừng trong sự hiện diện kỳ diệu của Ngài và kêu rằng: “
Thánh thay, thánh thay, thánh thay” (6:3; KhKh 4:8).
Ê-sai kể về bảy Thần sẽ ngự trên Đấng Mê-si, mà trong đó bao gồm cả sự
kính sợ Đức Chúa Trời:
Thần của Đức Giê-Hô-Va sẽ ngự trên Ngài - tức là
Thần khôn ngoan và thông sáng,
Thần mưu toan và mạnh sức,
Thần hiểu biết và kính sợ Đức Giê-Hô-Va -
Ngài lấy sự kính sợ Đức Giê-Hô-Va làm vui.
EsIs 11:2-3
Bây giờ, Đức Thánh Linh đang cư ngụ trong chúng ta, và chúng ta có thể
kinh nghiệm được sự khôn ngoan, thông sáng, mưu toan, mạnh sức và hiểu
biết của Ngài. Chúng ta cũng có thể học biết sự kính sợ và tôn trọng Đức
Chúa Trời qua sự vùi giúp của Đức Thánh Linh. Sự gần gũi với Đức Chúa
Trời bởi sự thông công với Đức Thánh Linh khiến chúng ta càng kính trọng
Đức Chúa Trời hơn khi chúng ta càng tiến đến gần Ngài.
Nhu cầu cần phải có Sự tôn kính
Phao-lô dạy rằng kẻ ác chẳng kính sợ Đức Chúa Trời (RoRm 3:18). Tuy
nhiên, Đức Chúa Trời Toàn năng đáng được kính sợ vượt trên tất cả mọi
quyền lực khác. Hãy đọc những gì tác giả thư Hêbơrơ viết về điều nầy:
Vì nếu chúng ta đã nhận biết lẽ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn
có tế lễ chuộc tội nữa, nhưng chỉ có sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và
lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch mà thôi. Ai đã phạm luật pháp Môi-se,
nếu có hai ba người làm chứng, thì chết đi không thương xót, huống chi là
kẻ giày đạp Con Đức Chúa Trời ... lại khinh lờn Đức Thánh Linh ban ơn, thì
anh em há chẳng tưởng rằng người ấy đáng bị hình rất nghiêm đoán phạt hay
sao? ... Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay
(HeDt 10:26-31).
Sứ đồ Phierơ viết rằng: “Hãy ... kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua” (IPhi
1Pr 2:17). Đây là điều chúng ta phải làm. Điều nầy không có nghĩa là chúng
ta phải sống trong sự sợ hãi Đức Chúa Trời, không biết Ngài cảm nhận như
thế nào về chúng ta và Ngài có thể làm gì cho chúng ta. Qua Đức Thánh
Linh, Ngài tự bày tỏ chính mình cho chúng ta biết Ngài là Cha trên trời đầy
lòng yêu thương, là một người Cha mà chúng ta có thể đến gần Ngài với sự
tôn quí và kính trọng sâu xa. Sự thờ phượng trong tâm thần sẽ bắt nguồn từ
sự tôn kính Đức Chúa Trời, một sự tôn kính khiến chúng ta tán tụng Ngài và
vâng phục Ngài.
3. Tìm đọc những câu Kinh thánh sau, rồi tóm tắt mỗi câu nói gì về lẽ cần
phải kính sợ hay tôn kính Đức Chúa Trời.
a. XuXh 20:20 - Sự kính sợ Đức Chúa Trời sẽ ................................
b. PhuDnl 5:29 - Dân Y-sơ-ra-ên được khuyên giục phải kính sợ Đức Chúa
Trời, để ....................................................................
c. Giop G 28:28 - Sự kính sợ Đức Giê-Hô-Va là ...............................
d. Thi Tv 19:9 - Sự kính sợ Đức Giê-Hô-Va là ..........................
e. 33:18-19: “Kìa, mắt của Đức Giê-Hô-Va đoái xem người kính sợ Ngài”
để .................................................................
f. 85:9 - Những kẻ kính sợ Đức Giê-Hô-Va sẽ nhận
được ..................... ........................................................................
g. 103:11 - Đức Giê-Hô-Va sẽ .............................cho kẻ kính sợ Ngài.
h. ChCn 14:27 - Sự kính sợ Đức Giê-Hô-Va là .....................
I. MaMl 4:2 - “Nhưng về phần các ngươi là kẻ kính sợ danh ta, thì mặt trời
công bình sẽ mọc lên cho ......................................
j. LuLc 1:50 - Những kẻ kính sợ Đức Giê-Hô-Va sẽ nhận được ....
k. Phi Pl 2:12-13 - “lấy lòng sợ sệt run rẩy mà làm nên sự cứu chuộc mình,
vì Đức Chúa Trời ......................................................
l. KhKh 11:18 - Những kẻ kính sợ danh Đức Chúa Trời sẽ nhận được
.......................................................................................................
TÔN VINH ĐỨC CHÚA TRỜI
Bằng Tâm Thần và Lẽ Thật
Mục tiêu 2: Chọn lựa từ trong bản liệt kê những yếu tố của sự thờ phượng
Đức Chúa Trời bằng Tâm thần và lẽ thật .

Bài giảng cho người đàn bà Samari của Chúa Giê-xu mà chúng ta đã đề cập
ở đầu bài học nầy, đã đưa ra một khuôn mẫu cho sự thờ phượng trong Hội
thánh. Đây là điều Ngài phán cùng bà:
Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm
thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha
ưa thích vậy. Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần
và lẽ thật mà thờ lạy (GiGa 4:23-24).
Sau nầy, khi Chúa Giê-xu dạy cho các môn đệ của Ngài rằng lúc nào Thần
Lẽ Thật đến, thì Ngài sẽ dẫn họ vào mọi lẽ thật. Rồi Ngài phán: “Ấy chính
Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các
ngươi. Mọi sự Cha có, đều là của ta; nên ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc
về ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (GiGa 16:13-15).
ĐỨC THÁNH LINH LÀM SÁNG DANH ĐẤNG CHRIST
Tôn vinh Đức Chúa Trời là điều vô cùng cần thiết trong việc bày tỏ sự tôn
thờ của chúng ta đối với Ngài. Đức Thánh Linh đã đến để giúp đỡ chúng ta
làm sáng danh Đức Giê-Hô-Va. Ngài giúp đỡ chúng ta trong sự thờ phượng
bằng cách cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của Chúa chúng ta, bởi vì đó là vẻ
đẹp của sự thánh khiết. Khi chúng ta thờ phượng Đức Giê-Hô-Va trong vẻ
đẹp của sự thánh khiết, chúng ta ca ngợi sự thánh sạch và tuyệt vời của
Ngài, vì sự thánh khiết bao trùm lên mọi thuộc tánh khác của Đức Chúa
Trời. Như những tia sáng của mặt trời hòa quyện với những màu sắc của
quang phổ cách hài hòa khi ánh nắng chiếu rọi, thì các thuộc tánh của Đức
Chúa Trời cũng hòa quyện cách hài hòa trong sự thánh khiết khi Đức Chúa
Trời tự tỏ bày chính mình Ngài. Chỉ một mình Ngài là Đấng thánh khiết
(ISa1Sm 2:2), trong Ngài không hề có một điều ác nào; vì vậy, những gì
Ngài làm đều là công bình, bởi vì công việc của Ngài bày tỏ chính Ngài.
Ngài đã chọn lựa chúng ta qua sự hy sinh của Con Ngài bởi ân điển Ngài,
hầu cho chúng ta có thể đến gần Ngài với lòng vui mừng, vì biết rằng Ngài
là Đấng ngự giữa sự ca ngợi của dân Ngài và lấy làm vui mà ban cho họ
những điều lòng họ ao ước. Chúng ta không thể hiểu được sự thánh khiết
thật là gì trừ khi Đức Thánh Linh bày tỏ cho chúng ta.
Vào những ngày đầu làm Cơ đốc nhân tôi là một người rất thẹn, và ý nghĩ sẽ
hầu việc Chúa giữa công chúng làm cho tôi sợ hãi. Ở nhà, tôi chơi đàn
accordion rất thành thạo, nhưng dù tôi cố gắng trình diễn như thế nào đi nữa,
tôi cũng không thể nào chơi trọn một bài hát trước một nhóm ít người.
Rồi tôi được báp têm bằng Đức Thánh Linh. Trong đêm đó tôi cảm thấy
rằng mình có thể trình diễn trước một ngàn người, vì vậy tôi đồng ý sẽ đàn
và hát trong buổi lễ thờ phượng sáng chúa nhật đến.
Buổi sáng hôm đó, sự dạn dĩ mà tôi cảm thấy khi Đức Thánh Linh giáng trên
tôi bỗng nhiên biến mất, và tôi bắt đầu run rẫy. Sự thất bại đang treo lơ lửng
trước mặt, nhưng tôi tuyên bố trong quyền năng của Đức Thánh Linh và
bước lên bục giảng. Và khi tôi bắt đầu chơi đàn, một lần nữa tôi lại cảm thấy
quyền năng của Đức Thánh Linh giáng trên tôi và tôi đã có thể đàn và hát.
Tuy nhiên, khi chấm dứt, tôi nhận ra một điều hoàn toàn khác - không một
người nào tỏ vẻ quan tâm đến khả năng đàn và hát của tôi cả. Mọi người
trong buổi nhóm đều nhắm mắt và tay họ đưa cao trong sự thờ phượng Đức
Chúa Trời. Đức Thánh Linh đã xử dụng tôi, nhưng Chúa là Đấng nhận sự
vinh hiển!
Như chúng ta đã nêu lên trong bài học trước, Đa-vít là một trong số ít nhân
vật thời Cựu ước được Đức Thánh Linh ngự trên cách liên tục. Những thi
thiên của Đa-vít cho thấy Đức Thánh Linh vận hành trên ông, giúp đỡ ông
tôn vinh Đức Chúa Trời. Các thi thiên đều tràn ngập sự ca ngợi và cảm tạ
Đức Chúa Trời Toàn năng, Đấng ban cho chúng ta mọi điều tốt lành. Hơn
nữa, chúng lại minh họa thế nào Đức Thánh Linh có thể vận hành trên chúng
ta để giúp chúng ta dâng giọng ca tiếng nói của mình để ca ngợi và tán tụng
Cứu Chúa của chúng ta, khi chúng ta ngắm xem vẻ đẹp và sự hy sinh của
Ngài vì chúng ta.
4. Những phẩm chất và thái độ nào sau đây là những yếu tố cần thiết trong
sự thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm thần vàlẽ thật?
a) Vâng phục
b) Ca ngợi
c) Dạn dĩ
d) Thánh khiết
e) Tôn kính
f) Được Đức Thánh Linh giáng trên
g) Chức vụ trước công chúng
Trong Ngôn Ngữ của Đức Thánh Linh
Mục tiêu 3: Liệt kê hai phương cách thờ phượng trong ngôn ngữ của Đức
Thánh Linh, và nêu lợi ích của mỗi phương cách đó .
Khi Đức Thánh Linh mặc khải vẻ đẹp của sự thánh khiết cho các tín hữu,
ngôn từ không thể diễn tả được. Đôi khi thật khó có thể tìm được những
ngôn từ trong ngôn ngữ của nhân loại để diễn đạt sự thờ phượng theo ý Đức
Chúa Trời. Và Đức Thánh Linh lại giúp đỡ chúng ta bằng cách ban cho
chúng ta ngôn ngữ của chính Ngài.
Cầu nguyện trong Thánh Linh . Một người bạn thân kể với chúng tôi rằng
ông đã chống lại ngôn ngữ của Đức Thánh Linh trong nhiều năm. Tuy nhiên
ông hết sức ao ước sự đầy dẫy Đức Thánh Linh và tuyên xưng với Chúa
rằng ông thiếu khả năng để thờ phượng Đức Chúa Trời như cách mà ông ao
ước. Ông luôn cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin ban cho con sự đầy dẫy
Đức Thánh Linh, nhưng con không muốn nói một ngôn ngữ mà con không
hiểu.” Cuối cùng, khi ông không nhận được câu trả lời thỏa đáng, ông đã
thừa nhận rằng điều cần yếu nhất là ông phải hoàn toàn thuận phục Đức
Thánh Linh.
Sau kinh nghiệm đầu tiên của sự thờ phượng trong Thánh Linh, ông làm
chứng rằng ông đã cảm thấy dường như một vòi nước được mở ra trong linh
của ông và tuôn chảy tất cả những gì ông muốn nói với Đức Chúa Trời. Và
đó là lần đầu tiên ông đã thỏa lòng vì đã thờ phượng Đức Chúa Trời trong
tâm thần và lẽ thật.
Hát trong Thánh Linh . Hát là một phần rất quan trọng trong sự tôn vinh Đức
Chúa Trời. Một người nói rằng: “Âm nhạc là ngôn ngữ của linh hồn.”
Chúng ta được khuyên giục phải dùng những “bài hát thiêng liêng” mà ca
ngợi Đức Chúa Trời.
Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết
lòng hát mừng ngợi khen Chúa. Hãy thường nhơn danh Đức Chúa Giê-xu
Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta (Eph Ep
5:19-20).
Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật
mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng
mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát ngợi khen
Đức Chúa Trời (CoCl 3:16).
Hát thi thiên và thánh ca là để gây dựng Hội thánh và làm chứng cho người
chưa tin (xem ICo1Cr 14:1-40). Hát trong Thánh Linh, được ngụ ý trong
cụm từ “bài hát thiêng liêng”, giúp chúng ta diễn đạt được những cảm xúc
sâu lắng nhất của sự vui mừng, sự ngợi khen, và sự tôn thờ trong ngôn ngữ
của Đức Thánh Linh. Cả hai đều là những yếu tố cần thiết và quan trọng
trong sự thờ phượng của chúng ta và cả hai đều được Đức Thánh Linh xức
dầu. Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Tôi sẽ cầu nguyện theo tâm thần, nhưng cũng
cầu nguyện bằng trí khôn. Tôi sẽ hát theo tâm thần, nhưng cũng hát bằng trí
khôn” (ICo1Cr 14:15).
5. Liệt kê hai phương cách thờ phượng bằng ngôn ngữ của Đức Thánh Linh,
và nêu lên lợi ích của mỗi phương cách đó.
a.........................................................................................................................
...................................................................................
b.........................................................................................................................
...................................................................................
Stanley M. Horton cho biết các tín hữu trong Hội thánh đầu tiên biết rằng
trong sự thờ phượng, họ “hoàn toàn thiếu khả năng ca ngợi và tôn vinh Đức
Chúa Trời. Họ mong được hát trong Đức Thánh Linh, cầu nguyện trong Đức
Thánh Linh, các ân tứ và chức vụ của Đức Thánh Linh ... mỗi ngày ... họ
sống và bước đi trong Đức Thánh Linh” (Horton, 1976, trang 12).
HẦU VIỆC ĐÚC CHÚA TRỜI
Mục tiêu 4: Xác định những phần Kinh thánh bày tỏ cho chúng ta về mối
liên hệ giữa sự hầu việc Đức Chúa Trời và sự thờ phượng bằng tâm thần .
Một số từ ngữ Hy-lạp được dịch là sự thờ phượng cũng có thể dịch là sự hầu
việc . RoRm 12:1 là một ví dụ:
Vậy, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể
mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ
phượng phải lẽ của anh em.
Trong một bản dịch khác, câu nầy được kết luận như sau: “... ấy là sự hầu
việc phải lẽ của anh em” (Bản KJ). Vì vậy, một trong những cách mà Đức
Thánh Linh giúp đỡ bạn hầu việc Đức Chúa Trời là khiến bạn có thể dâng
hiến chính bạn cho Đức Chúa Trời.
Một ví dụ tương tự được Phao-lô viết trong thư gởi cho người Phi-líp rằng:
“chúng ta ... là kẻ cậy Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà hầu việc (thờ
phượng) Đức Chúa Trời, khoe mình trong Đấng Christ, và không để lòng
trông cậy trong xác thịt bao giờ” (Phi Pl 3:3).
Sự cầu nguyện và kiêng ăn của nữ tiên tri An-ne trong đền thờ được gọi là
sự thờ phượng hay sự hầu việc trong những bản dịch khác nhau. Khi Phao-lô
nói về sự hầu việc Chúa với sự khiêm nhường và nước mắt, từ ngữ hầu việc
có thể cũng được dịch là thờ phượng (Cong Cv 20:19).
Không khó lắm khi phải liên hệ sự cầu nguyện, kiêng ăn và sự khóc lóc với
sự thờ phượng, tuy nhiên, sự thờ phượng không chỉ như vậy mà thôi. tác giả
thư Hêbơrơ viết rằng Chúa Giê-xu dâng chính mình Ngài bởi Đức Thánh
Linh đời đời để tội lỗi chúng ta có thể được thanh tẩy đặng hầu việc (thờ
phượng) Đức Chúa Trời hằng sống (HeDt 9:14). Nói cách khác, mỗi ngày
đời sống của chúng ta phải là sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Mọi điều
chúng ta nói hay làm đều là những phương tiện của sự thờ phượng tâm linh!
Đây là điều mà sứ đồ Phao-lô muốn nói với người Côlôse:
Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhơn danh Đức Chúa Giê-xu mà
làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha. Hễ làm
việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho
người ta.... Hãy hầu việc Đấng Christ, tức là Chúa (CoCl 3:17, 23, 24).
HẦU VIỆC - CẦU NGUYỆN - CA NGỢI NHƯ LÀM CHO CHÚA
6. Chúng ta có thể học được đôi điều về sự thờ phượng tâm linh bằng cách
đọc Rôma chương 12 và áp dụng vào đời sống chúng ta. Hoàn chỉnh biểu đồ
sau đây bằng cách tìm xem những điều KHÔNG làm trong chương nầy và
nêu lên những điều chúng ta PHẢI làm. Đây là bước đầu tiên trong sự hầu
việc của Cơ đốc nhân như là sự thờ phượng tâm linh.
- KHÔNG:
a. làm theo đời nầy . . . (c.2)
b ... có tư tưởng cao quá lẽ (c.3)
c ... làm biếng (c.11)
d cho mình là khôn ngoan (c.16)
e lấy ác trả ác (c.17)
f trả thù (c.19)
- NHƯNG PHẢI:
7. Rô-ma 12 cũng dạy chúng ta phải hầu việc như thế nào . Hoàn chỉnh các
câu sau dựa trên câu 6 đến 8 và câu 20.
a. Nếu ai được ơn nói tiên tri, hãy ..................................................
b. Nếu đó là ơn hầu việc (chức vụ), hãy ........................................
c. Nếu đó là ơn dạy dỗ, hãy ...........................................................
d. Nếu đó là ơn khuyên bảo, hãy ...................................................
e. Nếu đó là ơn bố thí, hãy .............................................................
f. Nếu đó là ơn cai trị, hãy .............................................................
g. Nếu đó là ơn làm sự thương xót, hãy ..........................................
h. Nếu kẻ thù của bạn đói,..............................................................
i. Nếu họ khát, ...............................................................................
Chúa Giê-xu dạy dỗ các môn đệ của Ngài ý nghĩa của sự thờ phượng bằng
tâm linh qua sự hầu việc trong ví dụ về chiên và dê (Mat Mt 25:31-46). Ngài
đã sai chúng ta vào trong thế giới để lo lắng cho nhu cầu của những người
khác. Chúng ta phải cho họ uống Nước hằng sống mà chúng ta đã nhận từ
Ngài. Chúng ta phải chia xẻ Bánh hằng sống, là Lời đời đời, cho những ai
đang hư mất trong tội lỗi. Chúng ta cũng phải lo lắng đến những nhu cầu thể
xác của họ như thể chúng ta đang làm cho Chúa. Đây là sự thờ phượng tâm
linh được tỏ ra bằng hành động.
8. Hãy đọc kỷ Mat Mt 25:31-46. Sau đó, hãy khoanh tròn phần hoàn chỉnh
đúng của mỗi câu sau:
Nền tảng của sự phán xét ở đây dường như là
a) sự đáp ứng của những người nghe khi họ nhìn thấy nhu cầu.
b) sự thiếu khả năng nhận thức của những người nghe.
Từ sự phán xét của Con Người đối với những kẻ được thưởng, chúng ta rút
ra rằng
c) một người muốn nhận được sự cứu rỗi phải siêng năng làm việc.
d) lo lắng cho nhu cầu của những người chung quanh là hầu việc Ngài.
Sự đoán phạt dựa trên
e) số lượng mà một người đã làm so với những gì mà người ấy đã có thể
làm.
f) không đáp ứng với nhu cầu của những người chung quanh như làm cho
Chúa.
Trong ví dụ nầy, Chúa Giê-xu muốn dạy rằng
g) sự thờ phượng sẽ là một việc vô nghĩa nếu không đi kèm với hành động là
sự bày tỏ tình yêu của một người với Đức Chúa Trời.
h) sự thờ phượng dưới mọi hình thức đều được chấp nhận dù có hay không
có hành động đi kèm.
CẦU NGUYỆN CÙNG ĐỨC CHÚA TRỜI
Lời cầu nguyện của bạn sẽ hiệu quả hơn nếu bạn theo khuôn mẫu của Tân
ước về sự cầu nguyện trong Đức Thánh Linh . Phao-lô dạy rằng: “hãy nhờ
Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin”
(Eph Ep 6:18). Đây là một khái niệm rộng lớn bao gồm điều mà ông gọi là
cầu nguyện theo Đức Thánh Linh . Phao-lô nói rằng: “Vì nếu tôi cầu nguyện
bằng tiếng lạ, thì tâm thần tôi cầu nguyện, nhưng trí khôn tôi lơ lửng (tôi
không hiểu mình đang cầu nguyện điều gì). Vậy thì tôi sẽ làm thế nào? Tôi
sẽ cầu nguyện theo tâm thần, nhưng cũng cầu nguyện bằng trí khôn”
(ICo1Cr 14:14-15). Cả hai điều nầy đều có thể là và sẽ là cầu nguyện theo
Đức Thánh Linh . Bạn hãy lưu ý rằng trong phân đoạn nầy, cầu nguyện bao
gồm cả ngợi khen (c.16), và cảm tạ , để thêm vào sự cầu nguyện.
Chúa Giê-xu dạy chúng ta ý nghĩa của sự thờ phượng bằng tâm linh trong sự
cầu nguyện, mà chúng ta gọi là Bài cầu nguyện chung (Mat Mt 6:9-13):
Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh;
Nước Cha được đến,
ý Cha được nên, ở đất như trời.
Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày;
Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch
cùng chúng tôi.
Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác!
Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha đời đời. Amen!
Chúng ta sẽ nghiên cứu câu mở đầu của bài cầu nguyện nầy và xem câu nầy
có liên hệ như thế nào với những gì chúng ta nói về sự cầu nguyện bằng tâm
linh.
Danh Cha Được Thánh - SỰ TÔN KÍNH
Nếu bạn có một cuốn Kinh thánh Phù dẫn, bạn sẽ tìm được những danh
xưng khác của Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu.
Nước Cha Được Đến - SỰ TÔN VINH Mục tiêu 6: Giải thích làm thế nào
bạn có thể tôn vinh Đức Chúa Trời bằng cách thúc đẩy sự đến của nước
Ngài .
Chủ đề của sự giảng dạy của Chúa Giê-xu trong sách tin lành Mathiơ là
nước thiên đàng . Ngài dạy rằng: “Nước thiên đàng giống như của báu được
chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui
mừng mà trở về, bán hết gia tài mình, mua đám ruộng đó” (Mat Mt 13:44).
Chúa Giê-xu là người mua đám ruộng trong câu chuyện ngụ ngôn; ruộng là
thế gian ; và của báu là vương quốc của Ngài. Chúa Giê-xu đã mua chuộc
thế gian bằng chính huyết quí giá của Ngài, nhưng nó chưa thuộc về Ngài.
Của báu bị cất giấu khỏi con mắt của thế gian là vương quốc mà Đức Thánh
Linh đang hành động trong lòng của các tín hữu. Ngài đang chuẩn bị cho sự
cai trị của Chúa Giê-xu khi Ngài trở lại và thành lập vương quốc của Ngài.
Phao-lô, dưới sự soi dẫn của Đức Thánh Linh, nói về sự vinh hiển hầu đến
của Đấng Christ rằng: “Ấ y là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng
người chưa nghĩ đến, nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn điều ấy cho những
người yêu mến Ngài” (ICo1Cr 2:9). Rồi ông thêm rằng: “Đức Chúa Trời đã
dùng Đức Thánh Linh để bày tỏ những sự đó cho chúng ta” (c.10). Trong
khi tâm trí chúng ta đang hướng về những phước hạnh trong sự hiện diện
của Đấng Christ và phước hạnh khi được kết hiệp với những người được cứu
của mọi thế hệ, Đức Chúa Trời đã vén bức màn lên để cho chúng ta thấy
trước sự vinh hiển sẽ được bày tỏ (KhKh 21:1-22:21). Không gì có thể diễn
đạt được lòng mong ước của chúng ta về sự hoàn tất chương trình cứu chuộc
của Đức Chúa Trời.
10. Bạn có biết rằng bạn có thể góp phần thúc đẩy sự đến của nước Đức
Chúa Trời không? Đọc Mat Mt 24:14. Sau đó hãy đọc 9:37-38 và LuLc
10:2. Hãy giải thích làm thế nào bạn có thể tôn vinh Đức Chúa Trời bằng
cách thúc đẩy sự đến của nước
Ngài. .................................................................................................................
.............................................................................................
Rồi sẽ đến ngày Chúa Giê-xu thành lập vương quốc của Ngài, khi đó, chúng
ta có thể cùng các thiên sứ ca hát quanh Ngôi Ngài:
Chiên Con đã chịu giết đáng được quyền phép, giàu có, khôn ngoan, năng
lực, tôn quí, vinh hiển và ngợi khen ... Chúc cho Đấng ngồi trên ngôi cùng
Chiên Con được ngợi khen, tôn quí, vinh hiển và quyền phép cho đến đời
đời! (KhKh 5:12-13).
Trong khi chờ đợi ngày đó, chúng ta hãy cầu nguyện dưới sự xức dầu của
Đức Thánh Linh rằng: “Nước Cha được đến!”
Ý Cha Được Nên - SỰ HẦU VIỆC
Mục tiêu 7: Đánh giá lại kinh nghiệm thờ phượng của chính bạn để xác định
rằng bạn có đang thờ phượng trong Đức Thánh Linh và trong lẽ thật không .
Điều thứ ba mà Chúa Giê-xu dạy chúng ta cầu nguyện la: “Xin ý Cha được
nên.” Ai có thể biết được tâm trí và ý muốn của Đức Chúa Trời hơn Đức
Thánh Linh? Trong ICo1Cr 2:9-11 chúng ta được dạy rằng Đức Chúa Trời
bày tỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta qua Đức Thánh Linh. Ngài là Đấng có
thể giúp đỡ chúng ta cầu nguyện cách hữu hiệu nhất để ý muốn của Đức
Chúa Trời được thực hiện, và rồi khi Lời Ngài được rao giảng, Ngài sẽ trả
lời sự cầu nguyện của chúng ta.
Cuộc đời của Chúa Giê-xu là một tấm gương vĩ đại nhất cho chúng ta thấy
rằng sự hầu việc Đức Chúa Trời là làm theo ý muốn của Ngài. Sự quan tâm
lớn nhất của Chúa Giê-xu là thực hiện ý muốn của Cha (xem LuLc 22:42),
và Đức Thánh Linh luôn hiện diện để giúp đỡ Ngài (xem 4:1, 14, 18-19).
Bạn cũng có thể sống như Chúa Giê-xu đã sống. Cuộc đời bạn cũng sẽ là
một nguồn phước cho Đức Chúa Trời nếu bạn để Đức Thánh Linh giúp đỡ
bạn thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời.
RoRm 8:27 nói rằng Đức Thánh Linh sẽ giúp đỡ chúng ta: “Đấng dò xét
lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức
Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy.” Ngay khi chúng ta không
biết phải cầu nguyện như thế nào, Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ chúng ta, và
Ngài sẽ cầu thay cho chúng ta để ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện
trên đời sống của chúng ta.
11. Nếu chúng ta cầu nguyện để ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện
trên đời sống của chúng ta, chúng ta phải sẵn sàng vâng phục và hầu việc
Ngài. Chúa Giê-xu dạy các môn đồ rằng họ phải cầu nguyện để Chúa sai các
con gặt vào trong đồng lúa đã chín vàng (Mat Mt 9:36-38).
a. Để trả lời cho sự cầu nguyện của họ, Chúa Giê-xu đã sai ai?
.......................................................................................................
b. Bạn áp dụng điều nầy như thế nào vào chính ao ước thực hiện ý muốn
Đức Chúa Trời của bạn?
...........................................................................................................................
...................................................................................
12. Trong bài học nầy chúng ta đã thảo luận về sự thờ phượng bằng tâm linh
, hay sự thờ phượng trong Đức Thánh Linh. Thờ phượng Đức Chúa Trời
trong Đức Thánh Linh và trong lẽ thật liên quan đến sự vâng phục, tôn kính,
ngợi khen, tôn vinh danh của Ngài, sự thực hiện ý muốn Ngài, một đời sống
thánh khiết, và sự hầu việc vương quốc của Ngài. Bây giờ là lúc để bạn đánh
giá lại sự thờ phượng Đức Chúa Trời của chính bạn. Đó có phải là sự thờ
phượng thuộc linh không, hay chỉ là một hình thức thờ phượng sáo rỗng?
Cách tốt nhất để bạn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời là thờ phượng Ngài bằng
tâm thần và lẽ thật. Hãy để Đức Thánh Linh dạy bạn ý nghĩa của sự thờ
phượng thật khi bạn đầu phục sự hướng dẫn của Ngài trong đời sống bạn.
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Khoanh tròn những ký tự trước những câu trả lời
tốt nhất.
1. Theo GiGa 7:37-39, nước sống mà Chúa Giê-xu ban cho là:
a) những phước hạnh về vật chất.
b) những điều răn của Đức Chúa Trời.
c) sự kết hiệp với Đức Chúa Trời.
d) Đức Thánh Linh.
2 Điều nào sau đây KHÔNG phải là một phần trong ý nghĩa của sự kính sợ
Đức Chúa Trời ?
a) sự kinh khiếp
b) sự tôn kính
c) sự tán tụng
d) sự tôn trọng
e) sự vâng phục
3. Gương của Ê-sai (EsIs 6:1-6) dạy rằng khi sự hiện diện của Đức Chúa
Trời đụng đến chúng ta, chúng ta sẽ muốn
a) chạy trốn khỏi sự phán xét của Ngài.
b) tôn quí Ngài và đầu phục Ngài.
c) theo những ham muốn của chúng ta.
4. Tại sao kính sợ Đức Chúa Trời là một phần quan trọng trong sự thờ
phượng thuộc linh?
a) Điều đó khiến chúng ta vâng phục Ngài vì e rằng chúng ta không muốn
vâng phục
b) Điều đó khiến chúng ta đến gần Đức Chúa Trời trong sự tôn kính Ngài
bởi vì chúng ta nhận biết được sự thánh khiết của Ngài và rằng Ngài đáng để
chúng ta yêu mến và vâng phục.
c) Đó là phương cách duy nhất mà Đức Chúa Trời có thể kiểm soát chúng ta
cách trọn vẹn, vì chúng ta không thể vâng phục Ngài nếu không kính sợ
Ngài.
5. Hát trong Đức Thánh Linh là một cách
a) thờ phượng với sự thông hiểu.
b) hiểu được tâm trí của Đức Thánh Linh.
c) tôn vinh Đức Chúa Trời.
6. Một từ khác của sự thờ phượng là
a) sự hầu việc.
b) sự vâng phục.
c) sự gây dựng.
7 Nguyên tắc của sự hầu việc trong ý nghĩa của sự thờ phượng là
a) mọi việc chúng ta làm có thể là một phương tiện của sự thờ phượng linh.
b) Sự thờ phượng chỉ có thể xảy ra trong những sự hầu việc trong Hội thánh.
c) Hành động của chúng ta quan trọng hơn sự thờ phượng nói ra bằng lời
của chúng ta.
ĐÚNG - SAI. Nếu là câu ĐÚNG, hãy viết Đ trước khoảng trống. Nếu là
SAI, viết S
. . . 8. Rô-ma chương 12 đưa ra nhiều sự hướng dẫn quan trọng về sự thờ
phượng thuộc linh.
. . . 9. Câu chuyện ngụ ngôn về chiên và dê nói lên rằng giúp đỡ một người
trong lúc họ cần yếu như là giúp đỡ Chúa Giê-xu.
. . . 10. Cầu nguyện theo trí khôn là quan trọng nhưng không thuộc linh bằng
cầu nguyện trong Thánh Linh.
. . . 11. Bạn có thể xác định được sự kính sợ Đức Chúa Trời của một người
qua cách người ấy đối với danh của Ngài.
. . . 12. Vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ không đến cho đến khi mọi người
đều thờ phượng Ngài.
. . . 13. Trong ngụ ngôn về của báu được chôn cất trong đồng ruộng, của báu
là vương quốc của Đức Chúa Trời.
. . . 14. Cách duy nhất để biết được ý muốn của Đức Chúa Trời là phải được
Đức Thánh Linh hướng dẫn.
. . . 15. Kính sợ Đức Chúa Trời là một điều tốt.
. . .16. Không thể thờ phượng trong Thánh Linh và trong lẽ thật nếu không
có sự vâng phục.
. . . 17. Để được chấp nhận, sự thờ phượng phải được diễn đạt bằng ngôn
ngữ của chính người thờ phượng.
. . . 18. Hát ca vịnh, thơ thánh không quan trọng bằng hát trong Thánh Linh.
. . . 19. Cầu nguyện và kiêng ăn thường đi đôi với sự thờ phượng thuộc linh.
. . . 2.0 Mỗi ngày chúng ta sống trong sự hướng dẫn của Thánh Linh là một
hành động của sự thờ phượng.
Trả Lời Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. a. cao sang và được tôn vinh.
b. kính sợ.
c. là ô uế
d. bởi than lửa đỏ từ bàn thờ của Đức Chúa Trời.
e. vâng phục.
2. Cả Hội thánh đều rất sợ hãi, cho đến người nào nghe tin cũng vậy.
3. Những câu trả lời nầy dựa trên bản Kinh thánh NIV. Nếu bạn dùng một
bản dịch khác, câu trả lời của bạn có thể tương tự như vậy.
a. khiến các ngươi không phạm tội
b. họ và con cháu họ được phước đời đời.
c. sự khôn ngoan.
d trong sạch, hằng còn đến đời đời.
e. cứu họ khỏi sự chết”.
f. sự cứu rỗi.
g. yêu mến hay tỏ lòng thương xót.
h. nguồn sự sống.
I. trong cánh nó có sự chữa bịnh.”
j. thương xót.
k. là Đấng làm việc trong lòng anh em.”
l. phần thưởng.
4. Tất cả những yếu tố nầy đều cần thiết ngoại trừ c) dạn dĩ, và g) chức vụ
trước công chúng
5. a. Cầu nguyện trong Đức Thánh Linh - Vị sứ đồ nói rằng: “Tôi sẽ cầu
nguyện theo tâm thần,” cho thấy rằng ông cầu nguyện trong một ngôn ngữ
mà ông không hiểu khi ông không thể tìm ra những ngôn từ để bày tỏ sự thờ
phượng của mình.
b. Hát trong Đức Thánh Linh - Giúp đỡ chúng ta qua âm nhạc để diễn đạt
được những cảm xúc sâu lắng nhất của sự vui mừng, ngợi khen và sự tôn
thờ.
6. Lưu ý. Trong bài bập này chúng tôi xử dụng bản Kinh thánh NIV. Từ ngữ
có thể khác với bản Kinh thánh bạn dùng, nhưng ý nghĩa như nhau.
a . . . được biến hóa bởi sự đổi mới của tâm trí mình.
b . . . có sự suy xét sáng suốt theo mức độ đức tin mà Đức Chúa Trời ban
cho mình.
c . . . có lòng sốt sắng; hầu việc Chúa.
d . . . khiêm tốn hòa mình với những người tầm thường.
e . . . làm điều công bình trước mặt mọi người.
f . . . nhường cho cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời (để Đức Chúa Trời hành
động).
7. a. nói theo lượng đức tin.
b. hầu việc.
c. dạy dỗ.
d.khuyên bảo.
e. bố thí cách rộng rãi.
f. siêng năng mà cai trị.
g. làm cách vui lòng.
h. hãy cho ăn.
I. hãy cho uống.
8. a) sự đáp ứng của những người nghe khi họ nhìn thấy nhu cầu.
d) lo lắng cho nhu cầu của những người chung quanh như làm cho Chúa.
f) không đáp ứng với những nhu cầu của những người chung quanh như làm
cho Chúa.
g) thờ phượng sẽ là một công việc chết nếu không đi đôi với việc làm.
9. a) Danh Ngài là Đấng Lạ Lùng, Đấng Mưu Luận, Đức Chúa Trời Quyền
Năng, Cha Đời Đời, Chúa Bình An.
b) Ma quỉ bị trừ đi bởi danh Ngài.
c) Chúng ta trở nên con cái Đức Chúa Trời qua danh của Ngài.
d) Lời cầu nguyện và nhu cầu của chúng ta được đáp ứng khi chúng ta nài
xin trong danh Ngài.
e) Trong danh Ngài có sự chữa lành.
f) Sự cứu rỗi được ban qua danh Ngài.
g) Ngài là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa.
10. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ nói rằng tôi có thể cầu nguyện rằng các tín
hữu có thể rao truyền tin lành cho cả thế giới, để mọi người có thể nghe vàcó
cơ hội tiếp nhận Đấng Christ làm Chúa và Cứu Chúa.
11. a. Ngài sai chính các môn đồ là những người đã cầu nguyện.
b. Câu trả lời của bạn. Tôi mong rằng nếu tôi cầu nguyện để ý muốn của
Ngài được thực hiện trên đất, Ngài sẽ xử dụng tôi để thực hiện ý muốn của
Ngài. Tôi phải được chuẩn bị để hầu việc Ngài.
NHỮNG ÂN TỨ THUỘC LINH
Bạn có nhớ rằng khi Chúa Giê-xu hứa với các môn đồ là Ngài sẽ ban Đức
Thánh Linh để ở với họ, Ngài phán rằng: “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh
ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (GiGa 16:14).
Nói cách khác, Đức Thánh Linh sẽ bày tỏ Đấng Christ cho thế gian.
Một trong những cách mà Đức Thánh Linh thực hiện điều nầy là tỏ bày cho
thế gian biết những việc Đức Chúa Trời có thể làm , bởi những ân tứ thuộc
linh. Bạn nhớ rằng trong bài học đầu, chúng ta đã học về các thuộc tính của
Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh như vô sở bất tri, vô sở
bất năng, và vô sở bất tại. Tất cả những thuộc tính nầy đều được mặc khải
qua những biểu hiện của Đức Thánh Linh, được liệt kê trong ICo1Cr 12:8-
10. Những biểu hiện siêu nhiên của Đức Thánh Linh chứng tỏ rằng Đức
Chúa Trời đang sống và đang quan tâm đến nhu cầu của nhân loại. Các ân tứ
thuộc linh được ban cho Hội thánh để xây dựng thân thể của Đấng Christ .
Hãy lưu ý rằng chúng ta đang xử dụng thuật ngữ những ân tứ và những biểu
hiện trong cách có thể thay thế cho nhau. cả hai thuật ngữ đều nói lên những
hoạt động của Đức Thánh Linh. Ngài ban những ân tứ siêu nhiên của Ngài
như ý Ngài muốn, và những ân tứ nầy được thể hiện qua những người nhận
chúng. Mục đích của sự ban cho nầy luôn luôn là để xây dựng Hội thánh và
để tôn vinh Đấng Christ.
Trong bài học nầy chúng ta sẽ nghiên cứu cách ngắn gọn các ân tứ của Đức
Thánh Linh và những phương cách mà chúng bày tỏ quyền năng của Chúa
Giê-xu đối với Hội thánh của Ngài, và qua Hội thánh, cho cả thế giới.
Dàn Ý Bài Học
Những Dẫn Chứng Kinh Thánh
Những Ân Tứ Thuộc Lời Nói
Những Ân Tứ Thuộc Quyền Năng
Những Ân Tứ Thuộc Sự Khải Thị
Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Liệt kê chín ân tứ thuộc linh được chép trong 1Côrinhtô 12 và viết định
nghĩa ngắn gọn của mỗi ân tứ.
Nêu mục đích của những ân tứ thuộc linh.
Cho biết ai có thể nhận được một ân tứ thuộc linh.
Nhận thấy nhu cầu về sự vận hành của những ân tứ thuộc linh trong Hội
thánh ngày hôm nay và ước ao nhận lãnh được những ân tứ nầy.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học theo cách đã trình bày trong những bài học trước. Hãy
đọc những phân đoạn Kinh thánh trưng dẫn, và cẩn thận trả lời tất cả những
câu hỏi nghiên cứu.
Để làm nền tảng cho Bài học nầy, hãy đọc 1Côrinhtô 12 và 14; và Rô-ma
12.
Tra xem nghĩa của những từ then chốt mà bạn không biết.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.

Những Từ Then Chốt


người quản trị
phân biệt
phân biệt, sự
nhận biết
gây dựng, sự
được gây dựng
thông giải, sự
lời tiên tri
tiếp nhận
ngoạn mục
siêu nhiên
Khai Triển Bài Học
NHỮNG DẪN CHỨNG KINH THÁNH
Mục tiêu 1: Liệt kê và so sánh những ân tứ thuộc linh được nói đến trong
những phân đoạn Kinh thánh khác nhau .
Nếu nghiên cứu sách Công vụ Các Sứ đồ và các sách Thư tín, chúng ta sẽ
thấy rằng Hội thánh đầu tiên kinh nghiệm được những biểu hiện của Đức
Thánh Linh. Những biểu hiện nầy là những ân tứ nhằm xây dựng Hội thánh
và đem sự vinh hiển đến cho Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, chỉ những cá nhân tín
hữu nào hoàn toàn đầu phục Đức Thánh Linh và để Ngài hành động qua họ
mới nhận được những ân tứ nầy.
Những ân tứ thuộc linh được dẫn chứng một vài chổ trong Kinh thánh. Sự
bàn luận rỏ ràng nhất là trong ICo1Cr 12:131; 14:1-40. Ở đây, sứ đồ Phao-lô
đang đưa ra những chỉ dẫn cho Hội thánh tại Côrinhtô liên quan đến sự xử
dụng các ân tứ thuộc linh. 12:4-11 kể ra chín ân tứ :
Vả, có các sự ban cho khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Thánh Linh. Có các
chức vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có các việc làm khác nhau,
nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời, là Đấng làm mọi việc trong mọi người.
Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích
chung. Vả, người nầy nhờ Đức Thánh Linh, được nói lời khôn ngoan; kẻ kia
nhờ một Đức Thánh Linh ấy cũng được lời nói có tri thức. Bởi một Đức
Thánh Linh, cho người nầy được đức tin; cũng bởi một Đức Thánh Linh ấy,
cho kẻ kia được ơn chữa tật bịnh; người thì được làm phép lạ; kẻ thì được
nói tiên tri; người thì được phân biệt các thần; kẻ thì được nói nhiều thứ
tiếng khác nhau, người thì được thông giải các thứ tiếng ấy. Mọi điều đó là
công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân
phát sự ban cho riêng cho mỗi người.
Dẫn chứng thứ hai trong câu 28, nơi mà tám ân tứ được nói đến. Trong đó,
một số ân tứ được các nhà học giả Kinh thánh gọi là những ân tứ chức vụ :
Đức Chúa Trời đã lập trong Hội thánh, thứ nhứt là sứ đồ, thứ nhì là đấng
tiên tri, thứ ba là thầy giáo, kế đến là kẻ làm phép lạ, rồi kẻ được ơn chữa
bịnh, cứu giúp, cai quản và nói các thứ tiếng.
Điều đáng lưu ý là bản liệt kê thứ nhất nhấn mạnh trên các ân tứ , còn bản
liệt kê thứ hai nhấn mạnh trên những người nhận lãnh các ân tứ.
1. Hãy cho biết ba ân tứ trong bản liệt kê thứ hai không được nói đến trong
bản liệt kê thứ nhất là những ân tứ nào?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Trong câu 29-30, Phao-lô giải thích cho câu 28:
Có phải cả thảy là sứ đồ sao? Cả thảy là tiên tri sao? Cả thảy là thầy giáo
sao? Cả thảy đếu làm phép lạ sao? Cả thảy đều được ơn chữa bịnh sao? Cả
thảy đều nói tiếng lạ sao? Cả thảy đều thông giải tiếng lạ sao?
Hai dẫn chứng về các ân tứ thuộc linh khác cũng sẽ được kể đến. Dẫn chứng
đầu tiên ở trong RoRm 12:6-8, mà chúng ta đã học qua trong Bài 8, khi
nghiên cứu về khía cạnh hầu việc của Cơ đốc nhân như là một hành động
của sự thờ phượng.
Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai
được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; ai được gọi đến
làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; ai
gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà
bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy
lòng vui mà làm.
Dẫn chứng thứ tư ở trong Eph Ep 4:11-13, bao gồm cả sự giải thích về mục
đích của các ân tứ trong Hội thánh.
Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác
làm thầy giảng tin lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư, để các thánh đồ
được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng
Christ, cho đến chừng chúng ta thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự
hiểu biết Con Đức Chúa Trời, mà nên bậc thành nhơn, được tầm thước vóc
giạc trọn vẹn của Đấng Christ.
Ba mục đích của các ân tứ được nói đến ở đây là:
Gây dựng thân thể của Đấng Christ.
Hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Chúa Giê-xu.
Sự trưởng thành của Cơ đốc nhân - Giống như Đấng Christ.
2. Trong vở của bạn, hãy liệt kê mỗi ân tứ được kể đến trong bốn phân đoạn
Kinh thánh trên, mỗi cột cho một phân đoạn. Ví dụ:
ICo1Cr 12:7-11 ân tứ chữa bịnh
12:28-30 ân tứ chữa bịnh
RoRm 12:6-8 không nói đến
Eph Ep 4:11 không nói đến
Stanley Horton gợi ý rằng nếu tất cả những bản liệt kê nầy được liên kết lại
với nhau, có thể có từ 18-20 ân tứ (Horton, 1976, tr. 210). Có một số trùng
nhau, và một số nhà học giả Kinh thánh cho rằng chúng có thể được chia
thành những ân tứ chức vụ và những ân tứ thuộc linh. Vì mục đích của sự
nghiên cứu của chúng ta, chúng ta sẽ xử dụng bản liệt kê chín ân tứ thuộc
linh trong ICo1Cr 12:7-11. Chúng ta đã chia thành ba nhóm như sau:
Những ân tứ thuộc lời nói: Nói tiếng mới, thông giải tiếng mới, và nói tiên
tri.
Các ân tứ thuộc quyền năng: Đức tin, chữa bịnh, phép lạ.
Các ân tứ thuộc sự khải thị: Phân biệt các thần, lời tri thức, và lời khôn
ngoan.
NHIỀU ÂN TỨ NHƯNG MỘT ĐỨC THÁNH LINH
Một số người gợi ý rằng các ân tứ thuộc lời nói nhấn mạnh trên thuộc tính
toàn tại của Đức Thánh Linh; các ân tứ thuộc quyền năng bày tỏ sự toàn
năng của Ngài; và các ân tứ thuộc sự khải thị biểu lộ sự toàn tri của Ngài.
Điểm quan trọng cần nhớ ấy là tất cả những ân tứ thuộc linh đều là những
biểu hiện của Đức Thánh Linh khi Ngài hành động qua những tín hữu đầy
dẫy Đức Thánh Linh trong chức vụ đối với Hội thánh.

NHỮNG ÂN TỨ THUỘC LỜI NÓI


Mục tiêu 2: Xác định những câu đúng liên quan đến những ân tứ thuộc lời
nói .
Sự Tiếp Nhận Lời
Thuật ngữ lời chỉ về một điều được nói ra, một sự diễn tả bằng âm thanh.
Trong mạch văn, thuật ngữ nầy mô tả sự nói bằng những thứ tiếng khác theo
như Đức Thánh Linh ban cho lời hay cho phép nói . Bằng chứng có thể thấy
được trước tiên rằng một người được báp têm trong Đức Thánh Linh có thể
được gọi là sự tiếp nhận lời .Đây có thể được coi là dấu hiệu đầu tiên rằng
một người tiếp nhận ân tứ của Đức Thánh Linh mà Chúa Giê-xu đã hứa.
Người tiếp nhận ý thức được sự giáng xuống của Đức Thánh Linh, bởi vì
người ấy kinh nghiệm được sự đầy trọn của sự vui mừng, ca ngợi, quyền
năng, và sự dạn dĩ thánh ... khi người ấy thờ phượng và tôn vinh Đức Chúa
Trời. Khi Đức Thánh Linh giáng xuống trong sự tái sanh, Ngài khiến chúng
ta nhận thức được quyền làm con của mình (RoRm 8:5-16). Ngài cũng ban
cho chúng ta quyền năng để chiến thắng bản chất củ (Eph Ep 4:17-32). Rồi
khi Ngài giáng xuống trong sự đầy trọn của phép báp têm, Ngài ban quyền
năng để làm chứng với một phương cách tươi mới. Trong Lễ Ngũ Tuần, sự
ban cho nầy đến trên những môn đồ là những người đã thuộc về Đấng
Christ; do đó, phép báp têm nầy chỉ về một kinh nghiệm tiếp theo trong Đức
Thánh Linh (so sánh Cong Cv 8:14-17; 18:1-7).
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần dân chúng vô cùng ngạc nhiên về hiện tượng nói các
thứ tiếng. Những người Giu-đa kính sợ Đức Chúa Trời đến từ nhiều nơi
khác nhau nghe tiếng vang ra thì chạy đến. Họ vô cùng sững sốt khi nghe
những công việc kỳ diệu của Đức Chúa Trời được truyền ra bằng chính ngôn
ngữ của họ qua những người Galilê. Bởi vì đây là một hiện tượng không thể
giải thích được, nên sứ đồ Phierơ đã đưa ra một sự giải thích dựa trên Kinh
thánh. Kết quả là có một sự đáp ứng thuộc linh. Tiếng mới, trong trường hợp
nầy, là một dấu hiệu siêu nhiên để những người không tin biết rằng đây là
một sự ban cho thiêng liêng (ICo1Cr 14:22).
3 Nói tiếng mới là một dấu hiệu chứng tỏ rằng một người đã nhận được ân
tứ của Thánh Linh. Trong Công Vụ 10, chức vụ cho dân ngoại của sứ đồ
Phierơ lần đầu tiên được ghi lại. Hãy đọc câu 44-46. Dựa vào đâu mà Phierơ
và các tín hữu khác nhận biết rằng những người ngoại ban nầy đã nhận được
ân tứ của Đức Thánh Linh? (Hãy chọn câu trả lời.)
a) Khi họ nhận lễ báp têm bằng nước.
b) Khi họ cầu nguyện ăn năn.
c) Khi họ bắt đầu nói tiếng mới và ca ngợi Đức Chúa Trời.
d) Khi họ nhiệt thành đáp ứng lại với chức vụ của Ngôi Lời.
Trong hầu hết các trường hợp, những người nghe không hiểu được ý nghĩa
của tiếng mới, và những người nói không bao giờ hiểu được. tuy vậy không
cần có sự thông giải, bởi vì mục đích của tiếng mới trong sự tiếp nhận lời là
ca tụng Đấng ban ân tứ. Trong khi tiếng mới có thể được xem như sự chứng
thực của một kinh nghiệm, nó dường như gây ấn tượng mạnh nhất đối với
những người chưa tin (Cong Cv 4:13).
Lời Được Ban Cho Cá Nhân
Những gì Kinh thánh nói về việc nói những ngôn ngữ khác nhau có thể làm
bạn bối rối trừ khi bạn hiểu được sự khác nhau giữa mục đích của lời được
ban cho mọi người và lời được ban cho cá nhân. Biểu hiện tiếng mới được
chép trong ICo1Cr 12:10 là lời được ban cho mọi người ; để ai nấy đều được
lợi ích chung (xem câu 7). Bởi vì ân tứ nầy là để gây dựng Hội thánh, nên nó
phải luôn luôn được thông giải để những người nghe được gây dựng.
Còn lời được ban cho cá nhân là để gây dựng cá nhân tín hữu. Khi bạn cầu
nguyện hoặc hát trong Thánh Linh trong một buổi thờ phượng riêng tư,
không cần phải có sự thông giải - vì đây chỉ là sự nói tiếng mới để gây dựng
cho cá nhân tín hữu (ICo1Cr 14:2, 4). Với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh,
bạn có thể cầu nguyện trong cách mà nếu không có sự giúp đỡ của Ngài thì
bạn không thể, bởi vì bạn đang thốt ra những sự huyền nhiệm trong Đức
Thánh Linh mà chúng chỉ hướng về một mình Đức Chúa Trời.
Một trong những phước hạnh lớn lao nhất của lời được ban cho cá nhân là
sự nhận biết sự hiện diện của Đức Chúa Trời khi bạn thờ phượng và hầu
việc Chúa trong Đức Thánh Linh.Bạn kinh nghiệm được sự ứng ngiệm lời
hứa của Chúa Giê-xu: “Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu, ta sẽ đến
cùng các ngươi” (GiGa 14:18).
Lời được ban cho cá nhân chỉ dành riêng cho bạn khi bạn thờ phượng Đức
Chúa Trời. Những lời nầy có thể được thực hành thường xuyên khi bạn để
Đức Thánh Linh bày tỏ chính mình Ngài qua bạn. Rỏ ràng là Phao-lô đã nói
tiếng mới trong sự thờ phưọng cá nhân khi ông nói rằng: “Tôi tạ ơn Đức
Chúa Trời, vì đã được ơn nói tiếng lạ nhiều hơn hết thảy anh em” (ICo1Cr
14:18), vì trong câu 19, ông đối chiếu hành động của ông trong Hội thánh.

4. (chọn câu trả lời.) Một sự khác nhau quan trọng giữa lời được ban cho cá
nhân và lời được ban cho mọi người là
a) lời được ban cho mọi người gây dựng Hội thánh, còn lời ban cho cá nhân
không gây dựng một ai cả.
b) lời ban cho mọi người phải được thông giải, trong khi lời ban cho cá nhân
không cần có sự thông giải.
c) mọi người có thể có ân tứ về lời được ban cho cá nhân, trong khi lời được
ban cho mọi người chỉ được ban cho những người lãnh đạo trong Hội thánh.
Lời Được Ban Cho Mọi Người
Có ba sự biểu hiện của Đức Thánh Linh được xem như những lời được ban
cho mọi người: Nói tiếng mới, thông giải tiếng mới, và nói tiên tri.
Người nói tiếng mới không bao giờ hiểu được ý nghĩa của những tiếng mới
được nói giữa công chúng, và thường thì những người nghe cũng không
hiểu. Phải có một người thông giải (giải thích những điều đã được nói ra).
Đức Thánh Linh ban sự thông giải trong chính ngôn ngữ của người đứng ra
thông giải. Người thông giải không hiểu được ý nghĩa của ngôn ngữ tiếng
mới. Người thông giải có thể là người nói tiếng mới hoặc có thể là một
người khác.
Lời tiên tri là những lời ban cho mọi người của Đức Thánh Linh trong ngôn
ngữ mà những người nghe hiểu được.
Mục đích của tiếng mới và sự thông giải là sự gây dựng Hội thánh hơn là sự
gây dựng cho cá nhân người nói. cũng vậy, mục đích của việc nói tiên tri là
gây dựng Hội thánh và thường được thể hiện khi có người chưa tin ngồi
nghe hoặc không có người thông giải.
5. Đọc 14:1-5. Tại sao nói tiên tri cao trọng hơn nói tiếng mới trừ khi nói
tiếng mới mà được thông giải?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Mục tiêu của lời tiên tri và tiếng mới với sự thông giải giống nhau. Qua
những ân tứ nầy, Hội thánh có thể được khích lệ, được khuyên dạy, và được
hà hơi bởi vì Đức Thánh Linh nói ra những nhu cầu mà Ngài biết tỏ tường
(RoRm 8:26-27; ICo1Cr 2:10-15). Vì vậy, Hội thánh được gây dựng. Đôi
khi, Hội thánh được hướng dẫn cách đặc biệt để thực hiện mạng lịnh đi
chinh phục những linh hồn hư mất (so sánh Cong Cv 1:8 với 13:1-3). Trong
những khi khác, Đức Thánh Linh truyền đạt ý muốn của Ngài bằng cách
cấm đoán hay ngăn chặn những tôi tớ của Ngài không làm điều gì đó (16:6-
10). Một mục đích khác của việc nói tiên tri được chép trong 21:10-11, khi
Đức Thánh Linh bày tỏ cho Phao-lô biết “những việc sẽ đến” (GiGa 16:13).
Bằng chứng từ những phần Kinh thánh khác cho thấy rằng Phao-lô nhận
lãnh sự truyền đạt trực tiếp từ Chúa (Cong Cv 23:11) và sự truyền đạt gián
tiếp qua một thiên sứ (27:23-24). Tất cả những điều nầy bày tỏ rằng Chúa
quan tâm đến đời sống thuộc linh, sự tăng trưởng, và sự phát triển của Hội
thánh Ngài.
Không có những ví dụ về tiếng mới hoặc sự thông giải được ghi lại trong
Kinh thánh Tân ước, nhưng có một vài lời cầu nguyện có thể được xem như
những lời tiên tri (xem LuLc 1:47-55, 68-79 và 2:29-32). Ngược lại, dựa trên
phần giảng giải của vị sứ đồ trong ICo1Cr 14:1-40, chúng ta có thể kết luận
rằng những ân tứ thuộc lời nói là những điều hiển nhiên ở Hội thánh
Côrinhtô.
Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng cả những lời tiên tri hoặc tiếng mới có
sự thông giải đều được Đức Thánh Linh hướng dẫn để Hội thánh được gây
dựng. Có thể bạn đã nghe một người truyền đạo đầy dẫy Đức Thánh Linh
giảng ra những lời tiên tri trong bài giảng của mình, và bạn đã kinh nghiệm
được một phước hạnh đặc biệt khi Hội thánh được tăng trưởng bằng cách
nầy.
Mục đích của những ân tứ nầy là để khích lệ Hội thánh, bởi vì chúng đem
đến sự hiện diện và phước hạnh của Đức Thánh Linh vào trong buổi nhóm.
Tuy nhiên, điều quan trọng ấy là những ống dẫn con người phải đầu phục
Đức Thánh Linh để không thu hút sự chú ý về mình, nhưng cho Đức Chúa
Trời.
Sứ đồ Phao-lô viết chương 14 cho các tín hữu Côrinhtô bởi vì ông biết rằng
họ có thể lạm dụng những ân tứ siêu nhiên của Đức Thánh Linh. Nếu tiếng
mới và sự thông giải hoặc lời tiên tri bằng cách nào đó làm giảm giá trị của
sự vận hành của Đức Thánh Linh, hay không phù hợp với Kinh thánh, bạn
sẽ biết rằng đó là công việc của xác thịt, chớ không phải việc của Thánh
Linh.
Để hiểu chi tiết hơn về sự lạm dụng những ân tứ thuộc linh, tôi đề nghị bạn
hãy đọc sách của Donald Gee: Những vấn đề liên quan đến ân tứ thuộc linh .
Phao-lô khuyên chúng ta hãy ao ước những ân tứ thuộc linh: “Hãy ước ao
cho được sự ban cho lớn hơn hết” (ICo1Cr 12:31). “Hãy nôn nả tìm kiếm
tình yêu thương. Cũng hãy ước ao các sự ban cho thiêng liêng, nhứt là sự
ban cho nói tiên tri” (14:1).
6. Hãy khoanh tròn các mẫu tự trước những câu ĐÚNG liên quan đến những
ân tứ thuộc lời nói.
a. Thuật ngữ sự tiếp nhận lời liên hệ đến tiếng mới với sự thông giải.
b. Tiếng mới trong sự thờ phượng riêng tư luôn luôn hướng về Đức Chúa
Trời.
c. Dấu hiệu có thể thấy được trước tiên rằng một người đã nhận phép báp
têm trong Đức Thánh Linh là người ấy bắt đầu nói tiếng mới.
d. Phép báp têm trong Đức Thánh Linh đem đến cho những người nhận lãnh
sự hiện diện phước hạnh của Đức Thánh Linh, cũng như sự vui mừng và sự
dạn dĩ thánh.
e. Nói tiếng mới là điều quan trọng nhất trong lời được ban cho mọi người.
f. Tiếng mới với sự thông giải cao trọng hơn nói tiên tri.
g. Phao-lô cho rằng nói tiên tri là một trong những ân tứ cao trọng nhất.
h. Mục đích của lời được ban cho mọi người là sự gây dựng Hội thánh.
I. Khi một người nói tiếng mới, người ấy không thể hiểu được ý nghĩa của
những lời mình nói.
j. Chủ đích của sự vận hành của những ân tứ thuộc lời nói là tôn vinh Đức
Chúa Trời và làm cho các tín hữu mạnh mẽ; vì vậy, những ân tứ nầy phải
luôn phù hợp với Kinh thánh.
k. Một lời tiên tri có thể là một lời mới nhất từ Đức Chúa Trời mà lời ấy có
thể không phù hợp với Kinh thánh.
NHỮNG ÂN TỨ THUỘC QUYỀN NĂNG
Kinh thánh là một quyển sách của công việc. Kinh thánh ghi lại những công
việc của Đức Chúa Trời giữa loài người. Trong những bài học trước chúng
ta đã học rằng Đức Thánh Linh là một tác nhân thực hiện ý muốn của Đức
Chúa Cha. Chúng ta đã thấy được quyền năng của Đức Thánh Linh vận
hành trong Công Cuộc Sáng Tạo. Và rồi chúng ta cũng đã thấy Ngài hành
động trên đời sống của những người được chọn trong thời Cựu ước. Kế đến
chúng ta thấy Đức Thánh Linh xức dầu cho Chúa Giê-xu để Ngài làm những
công việc quyền năng khi thi hành chức vụ trên đất.
Trước khi về trời, Chúa Giê-xu nói rằng những môn đồ có thể làm những
việc lớn lao hơn khi Đức Thánh Linh được ban xuống để giúp đỡ họ (GiGa
14:12). Sách Công vụ là một bản ký thuật những công tác của Đức Thánh
Linh trong quyền năng thi hành phép lạ, như Đức Chúa Giê-xu đã hứa.
Ngày hôm nay Đức Thánh Linh vẫn đang hành động trong quyền năng thi
hành phép lạ. Ngài hành động trong đời sống của những tín hữu ao ước
những ân tứ quyền năng của Ngài. Mục đích của những ân tứ nầy là tôn vinh
Đức Chúa Trời và gây dựng Hội thánh. Đó là ân tứ đức tin, ân tứ chữa bịnh ,
và ân tứ làm phép lạ .
Ân Tứ Đức Tin
Mục tiêu 3: Phân biệt những loại đức tin mà con người có .
Ân tứ đức tin là một đức tin đặc biệt mà Đức Thánh Linh ban cho, và chúng
ta không nên lầm lẫn với sự tin thông thường của con người, như khi bạn
ngồi trên một chiếc ghế thì bạn tin rằng chiếc ghế đó có thể đỡ được bạn. Đó
cũng không phải là đức tin để được cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho bạn
khi bạn tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa, cũng không phải là trái đức
tin là kết quả của mối tương giao của bạn với Đức Thánh Linh, là sự tin cậy
rằng Đức Chúa Trời sẽ hướng dẫn bạn trong đời sống cơ đốc mỗi ngày của
bạn. (Chúng ta sẽ học về trái của Đức Thánh Linh trong bài kế tiếp.)
Ân tứ đức tin là một sự ban cho đặc biệt của Đức Thánh Linh về một đức tin
có thể dời núi được - một sự tin chắc không lay chuyển rằng Đức Chúa Trời
sẽ cung cấp những gì cần thiết trong giờ thiết yếu !
Đó là đức tin của ba bạn Hêbơrơ khi họ bị ném vào lò lửa hực (DaDn 3:16-
18); của Đaniên khi ông bị quăng vào hang sư tử (6:21-22); của sứ đồ Phierơ
khi ông bình thản ngủ trong đêm trước khi phải bị chém đầu vào ngày hôm
sau (Cong Cv 12:6).
Đó là đức tin khiến Phierơ có thể nói với người bại rằng: “Ta chẳng có vàng
bạc chi hết, song điều ta có thì ta cho ngươi: nhơn danh Đức Chúa Giê-xu
Christ ... hãy bước đi” (3:6). Và người ấy đã bước đi! Chúng ta hãy xem
thêm để có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của những sự chữa lành nầy.
Phao-lô, khi ở Lít-trơ, nhận biết (do sự nhạy bén của ông với Đức Thánh
Linh) rằng người què có đức tin có thể chữa lành được. Thực hành ân tứ đức
tin, ông nói lớn tiếng rằng: “Ngươi hãy chờ dậy, đứng thẳng chơn lên!”
(14:8-10). Cùng sự nhạy bén với Đức Thánh Linh đó mà Smith
Wigglesworth, một nhà truyền giáo của giáo phái Ngũ tuần, vào những ngày
đầu của thế kỷ nầy, đã can đảm đi vào bịnh viện, đỡ một người phụ nữ đang
hấp hối đứng dựa vào tường và cầu nguyện trong danh Đức Chúa Giê-xu để
bà được chữa lành! Và bà đã được chữa lành!

Mặc dầu ân tứ đức tin có thể được xem như một ân tứ khiêm nhường nhất
trong các ân tứ thuộc quyền năng, nó lại rất cần thiết đối với ân tứ chữa bịnh
và ân tứ làm phép lạ. Đức tin đặc biệt nầy được ban cho những cá nhân Đức
Thánh Linh chọn lựa theo ý Ngài muốn, cũng như các ân tứ thuộc linh khác.
Có thể bạn đã kinh nghiệm được ân tứ đức tin, hoặc đã thấy trong tín hữu
khác.
7. Hãy nêu lên vài ví dụ từ kinh nghiệm của bạn về ân tứ đức tin được tỏ ra
bằng hành động.
...........................................................................................................................
...................................................................................
8. Sắp xếp những loại đức tin với sự mô tả của mỗi loại. Viết số mà bạn
chọn lựa vào những khoảng trống.
1) Đức tin để được cứu.
2) Ân tứ đức tin.
3) Trái đức tin.
4) Đức tin thông thường.
. . . . a. Tin cậy rằng Đức Chúa Trời sẽ hướng dẫn bạn trong đời sống cơ đốc
mỗi ngày của bạn.
. . . . b. Tin rằng nếu bạn ngồi trên một chiếc xe đạp và bắt đầu đạp, thì nó sẽ
chở bạn và đưa bạn đến nơi bạn muốn.
. . . . c. Tin rằng khi bạn xưng ra tội lỗi của bạn và tiếp nhận Đấng Christ,
Ngài sẽ cứu bạn khỏi sự phán xét đời đời.
. . . . d. Một sự tin chắc cách đặc biệt đến từ Đức Thánh Linh rằng bất cứ
điều gì bạn cầu xin trong danh Chúa Giê-xu thì Ngài sẽ làm.
Những Ân Tứ Chữa bịnh
Mục tiêu 4: Nhận diện những ví dụ nói đến mục đích của các sự chữa bịnh
trong sách Công vụ , dựa trên những phần Kinh thánh trưng dẫn .
Bạn có lưu ý rằng trong 1Côrinhtô 12, câu 9 và câu 30 liệt kê danh từ số
nhiều những ân tứ chữa bịnh? Tôi nghĩ Đức Thánh Linh muốn mọi người
biết rằng có nhiều ân tứ đặc biệt được dự phòng để chữa lành những căn
bịnh khác nhau.
Trong Hội thánh đầu tiên, mục đích của những ân tứ nầy dường như là để
truyền giáo hơn là để gây dựng thân thể của Đấng Christ. Sự chữa lành xảy
ra hầu cho danh của Đấng Christ được vinh hiển (xem Cong Cv 3:1-3). Đây
là sự quan phòng cho những thành viên trong Hội thánh như được nêu lên
trong Gia Gc 5:14-15, ấy là, nếu có ai đau ốm, “hãy mời các trưởng lão Hội
thánh đến, sau khi nhơn danh Chúa xức dầu cho người bịnh đoạn, thì các
trưởng lão hãy cầu nguyện cho người. Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ
bịnh, Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy.”
Gia-cơ khuyên giục những Cơ đốc nhân xưng ra những tội lỗi của họ cùng
nhau và cầu nguyện cho nhau hầu cho họ có thể nhận sự chữa lành. Tức
nhiên, sự chữa lành của Cơ đốc nhân không chỉ là sự đặt tay của vị giáo sĩ có
ân tứ, nhưng nó đòi hỏi những nhu cầu thuộc linh khác phải được đáp ứng
bởi sự tương tác trong thân thể của các tín hữu.
9. Đọc Cong Cv 3:1-13. Dân chúng phản ứng như thế nào đối với sự chữa
bịnh nầy?
.......................................................................................................
10. Việc Phierơ chữa bịnh nhằm mục đích gì?
.......................................................................................................
11. Đọc 14:8-18. Hãy khoanh tròn các mẫu tự trước những câu ĐÚNG liên
quan đến sự chữa lành người bại.
a. Phần Kinh thánh nầy hàm ý rằng cả người bại và sứ đồ Phao-lô đều có
đức tin chữa bịnh.
b. Dân chúng lập tức nhận biết rằng sự chữa lành đến từ Đức Chúa Trời.
c. Phao-lô và Ba-na-ba từ chối nhận của lễ d ân chúng dâng cho mình.
d. Mục đích của sự chữa bịnh là đem đến cho các sứ đồ một cơ hội để làm
sáng danh Đấng Christ và rao truyền tin mừng phúc âm.
e. Sau khi họ giải thích như vậy, dân chúng ngừng không thờ phượng hai
ông nữa.

Một Hội thánh đầy dẫy Đức Thánh Linh có thể ngửa trông những ân tứ chữa
bịnh từ Đức Thánh Linh, nhưng điều nầy không có nghĩa rằng ai cũng được
ban cho quyền năng tuyệt đối để tiêu trừ tất cả mọi bịnh tật. Đức Thánh Linh
ban những ân tứ của Ngài theo ý Ngài muốn, và chúng ta được khuyên giục
hãy ước ao những ân tứ của Ngài. Mục đích luôn luôn là để tôn vinh Đấng
Christ, chớ không phải con người. Điều quan trọng là phải nhạy bén với sự
thúc giục của Đức Thánh Linh. Nếu Ngài thúc giục bạn thi hành một ân tứ
thuộc linh, hãy vâng phục Ngài cách tuyệt đối.
Làm Phép Lạ
Mục tiêu 5: Xác định những phép lạ và nhận định lợi ích lớn nhất .
Phép lạ có thể được định nghĩa là sự can thiệp của Đức Chúa Trời vào trật tự
bình thường của thiên nhiên . Định nghĩa nầy thừa nhận rằng thiên nhiên
luôn luôn vận chuyển với những quy luật nhất định, nhưng Đức Chúa Trời
kiểm soát thiên nhiên và đôi khi thay đổi những quy luật đó cách tạm thời để
thực hiện những mục đích của Ngài.
Làm phép lạ có thể được xem như ân tứ ngoạn mục nhất trong các ân tứ của
Thánh Linh. Cựu ước đã cho thấy những bằng chứng đặc biệt về việc Đức
Thánh Linh giáng trên những người được chọn của Đức Chúa Trời và họ đã
làm các công việc diệu kỳ quá sức của con người.
12. Hãy tìm đọc những phần Kinh thánh sau đây. Cho biết phép lạ nào đã
xảy ra trong mỗi trường hợp và ai là người được Chúa dùng. Hãy viết câu trả
lời trong vở của bạn.
a) XuXh 14:21
b) 17:6-7
c) Gios Gs 10:12
d) Cac Tl 15:14
e) IVua 1V 18:38
f) IIVua 2V 4:35

Chức vụ trên đất của Chúa Giê-xu cũng đầy dẫy các phép lạ. Chúng bắt đầu
từ khi Ngài hóa nước thành rượu tại tiệc cưới Cana (GiGa 2:9) và chấm dứt
cùng với sự thăng thiên về trời của Ngài (Cong Cv 1:9).Trong suốt thời kỳ
chức vụ, Chúa Giê-xu đã đi bộ trên mặt biển, cho năm ngàn người ăn chỉ với
năm cái bánh và hai con cá, kêu kẻ chết sống lại, chữa lành kẻ bịnh, đuổi
quỉ, và làm nhiều phép lạ khác. Các sách phúc âm đầy dẫy những phép lạ
của Ngài.
Chúa Giê-xu hứa rằng khi Ngài trở về cùng Cha và ban Đức Thánh Linh
xuống, các môn đồ của Ngài có thể làm những phép lạ lớn hơn Ngài đã làm
cùng với việc công bố Lời. Phép lạ không hề chấm dứt; nhưng ngược lại,
chúng chứng thực giá trị của sự công bố phúc âm và bày tỏ sự tể trị và quyền
năng của Đức Chúa Trời.
Sách Công vụ ghi lại nhiều phép lạ của các môn đồ. Thật ra, Kinh thánh Tân
ước bày tỏ tính xác thực trong những lời hứa của Chúa Giê-xu: “Vậy những
kẻ tin sẽ được các dấu lạ nầy” (Mac Mc 16:17). Trong khi những phép kỳ
dấu lạ được gộp lại trong sách Công vụ (ví dụ xem Cong Cv 5:12-16), thì
một sự nghiên cứu kỷ lưỡng cho thấy một mức độ gia tăng của các phép lạ.
Tác giả thư Hêbơrơ trình bày rằng phúc âm, trong những năm đầu được
công bố, được kèm theo bởi những dấu kỳ sự lạ và đủ thứ phép mầu, lại
dùng sự ban cho của Đức Thánh Linh (HeDt 2:4). Những phép lạ nầy bao
gồm cả sự kêu kẻ chết sống lại (Cong Cv 20:10), thoát khỏi nhà tù cách kỳ
diệu (5:19; 12:6-10), di chuyển kỳ lạ (8:30), tiên báo về đói kém (11:28-29),
hình phạt (12:23; 13:9-12), chữa lành kẻ bại (3:6-10; 14:8-10), đuổi quỉ
(16:16-18), xiềng xích trong tù đứt tung (16:25-28). Thật cảm tạ Chúa vì các
phép lạ vẫn còn đi kèm với sự công bố phúc âm ngày hôm nay, bởi quyền
năng thi hành phép lạ của Đức Chúa Trời vẫn sẵn sàng cho chúng ta.
13. Các phép lạ, những điều mà Kinh thánh Tân ước đưa ra rất nhiều bằng
chứng, chủ yếu là để (dựa trên phần thảo luận của chúng ta).
a) đáp ứng nhu cầu của những cá nhân có giá trị.
b) chứng minh quyền năng của những giáo sĩ, mục sư, và giáo sư để kiểm
soát đời sống của những con người nầy.
c) chứng thực rằng sự công bố phúc âm là bởi Đức Chúa Trời chọn lựa.
d) thỏa mãn sự tò mò của những kẻ tìm kiếm những dấu lạ trong Hội thánh
hay trong một nhóm người nào đó.
NHỮNG ÂN TỨ THUỘC SỰ KHẢI THỊ
Mục tiêu 6: Sắp xếp mỗi ân tứ thuộc sự khải thị với định nghĩa và với một ví
dụ .
Các ân tứ thuộc linh trong nhóm nầy đem đến cho người tín hữu đầy dẫy
Đức Thánh Linh một sự hiểu biết thiêng liêng khi người ấy cần thiết. Sự
hiểu biết của Đức Chúa Trời là vô giới hạn, và Ngài hiểu rỏ bất kỳ hoàn
cảnh nào mà bạn đang đối diện. Bằng những ân tứ của sự khải thị, Ngài quan
phòng sự giúp đỡ siêu nhiên khi sự hiểu biết của con người tỏ ra bất lực.
Chúng ta cần nhấn mạnh rằng những ân tứ nầy không xảy ra do sự luyện tập
thuộc linh hoặc tự nhiên. Những tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh cần phải
học tập, và họ phải trung tín nghiên cứu Lời của Đức Chúa Trời, tuy nhiên,
có những lúc chỉ cần có sự khải thị đặc biệt của tâm trí của Đức Chúa Trời.
Những sự hiểu biết thiêng liêng nầy được cung cấp qua các ân tứ thuộc linh
được gọi là phân biệt các thần, lời tri thức , và lời khôn ngoan .
Phân biệt các Thần
Mục tiêu 7: Xác định những câu đúng liên quan đến hoạt động của Đức
Thánh Linh và sự phân biệt các thần .
Từ ngữ phân biệt xuất phát từ tiếng Hy-lạp có nghĩa là: “ một sự phán đoán
qua”. Bản dịch Kinh thánh cho những bài học nầy gọi là “khả năng phân biệt
các thần” (ICo1Cr 12:10).
Hầu hết chúng ta không nhận biết rằng có vô số linh đang hoạt động chung
quanh chúng ta. Ân tứ phân biệt các thần đem đến cho người tín hữu đầy dẫy
Đức Thánh Linh một cái nhìn thoáng qua thế giới linh vô hình nầy và một
quyền năng để phán đoán linh nào đang hoạt động. Có ba lãnh vực hoạt
động của các linh mà chúng ta phải xác định:
Thánh Linh của Đức Chúa Trời . Đức Chúa Trời là Thần linh, và chúng ta
cần nhận biết Ngài khi Ngài vận hành để chúng ta có thể liên kết với Ngài.
Ngài vận hành qua những tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh là những người
thuận phục Ngài, và đôi khi Ngài xử dụng các thiên sứ của Ngài, là những
linh thiện, để thực hiện các mệnh lệnh của Ngài.
Các linh ác . Sách khải huyền nói về các linh ác làm những phép lạ trong
những ngày sau rốt (KhKh 16:14). Ngày hôm nay có rất nhiều hoạt động của
Sa-tan trong lãnh vực huyền bí và sự thờ phượng ma quỉ. Cơ đốc nhân đầy
dẫy Đức Thánh Linh phải có khả năng nhận diện các hoạt động của những
linh ác, nếu không người ấy sẽ bị đánh lừa.
Linh của con người . Có thể đôi khi linh của con người hướng dẫn các tín
hữu chớ không phải Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh ban
cho chúng ta khả năng phân biệt các thần để chúng ta có thể nhận biết đâu là
một sự bày tỏ đến từ Ngài, hoặc đến từ một linh ác, hoặc đến từ xác thịt.

Trong Tân ước, có vài trường hợp đề cập đến ân tứ phân biệt các thần. Chúa
Giê-xu biết trước rằng Giu-đa sẽ phản Ngài (GiGa 13:21, 26). Ngài hiểu sự
lừa dối của Sa-tan trong khi Ngài chịu cám dỗ (LuLc 4:1-12), và Ngài cũng
biết những khi Sa-tan là nguyên nhân của bịnh tật (4:33-35; GiGa 5:14).
Phierơ thấy được rằng Si-môn đang bị một linh ác sai khiến (Cong Cv 8:18-
23).
Ân tứ phân biệt các thần sẽ giữ chúng ta không trở thành những nạn nhân
tuyệt vọng của những sự lừa dối thuộc linh. Ân tứ nầy chỉ có thể vận hành
trong và qua các tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh (ICo1Cr 2:12-15). Chúng
ta cũng sẽ không bị lừa dối bởi những linh thuộc về xác thịt.
Chúng ta học được rất nhiều bài học qua thư tín thứ nhất của sứ đồ Giăng.
Ông nói rằng nhiều kẻ địch lại Đấng Christ ra từ giữa chúng ta (IGi1Ga
2:18-19). Họ chối bỏ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con (c.22). Những kẻ gây
rối nầy đi đến các tín hữu để tìm cách lừa dối họ, và tự cho sứ điệp của họ
đến từ Đức Chúa Trời (c.26, so sánh KhKh 2:14-16, 20-23; 3:9). Giăng
khuyên các tín hữu hãy thử các thần (4:1) để phân biệt được thần chân thật
và thần sai lầm (4:6). Ông cũng đưa ra một số khía cạnh để phán đoán: 1) Có
phải họ là những người sống công bình, giữ luật pháp, và tránh phạm tội
không? 3:4-10) 2) Họ có yêu anh em mình không? (3:10) 3) Có phải họ là
những kẻ chối bỏ sự thành nhục thể của Đấng Christ? (2:22; 4:2;) 4) Họ có
giữ theo các giáo lý căn bản mà các sứ đồ truyền cho chăng? (2:18-19) 5) Họ
có chia xẻ nhu cầu với anh em mình không? (3:16-20) 6) Họ có giữ theo
những sự dạy dỗ của các sứ đồ chăng? (4:6) 7) Họ có vâng giữ các điều răn
của Chúa không? (5:1-3). Chúa là đầu của Hội thánh sẽ chỉ cho chúng ta
những gì cần để đoán xét. Tuy nhiên điều nầy đòi hỏi chúng ta phải nhạy
bén với Đức Thánh Linh khi chúng ta tìm kiếm sự phân biệt giữa điều tốt và
ích lợi với điều sai lầm.
14. Những câu nào là câu ĐÚNG liên quan đến hoạt động của linh và sự
phân biệt các thần?
a. Những hoạt động của linh chỉ có thể đến từ Đức Thánh Linh.
b. Những linh gian ác đôi khi có thể lừa dối con người và dẫn họ rời xa chân
lý.
c. Ân tứ phân biệt các thần cho phép một tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh
phân biệt được Thần chân thật với thần giả dối.
d. Linh của con người xác thịt đôi khi có thể bắt chước những sự bày tỏ của
Đức Thánh Linh.
e. Những tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh phải nhạy bén với Đức Thánh
Linh và phải quen thuộc với những khía cạnh trong sự phân biệt các thần để
không bị lừa dối.
f. Ai cũng có thể phân biệt được các thần.
Lời Tri Thức
Mục tiêu 8: Nhận diện những ví dụ của Kinh thánh về lời tri thức và lời
khôn ngoan .
Chúng ta đã học rằng Đức Thánh Linh biết tâm trí của Đức Chúa Trời. Ngài
có thể bày tỏ tri thức của Đức Chúa Trời cho bạn những khi cần thiết. Đó có
thể là một sự báo trước về tương lai, có thể là một điều gì đó đang xảy ra ở
một nơi khác mà bạn không biết, hoặc cũng có thể là một điều gì đó trong
quá khứ mà bạn cần phải nhớ lại. Bạn sẽ không được ban cho ân tứ tri thức
để bạn hiểu biết hết mọiviệc, nhưng chỉ được ban cho lời tri thức vào những
khi cần thiết.
Có bao giờ bạn cảm thấy cần phải ngừng công việc bạn đang làm để cầu
nguyện cho một ai đó ở rất xa bạn? Sau đó bạn biết rằng khi bạn cầu nguyện,
người đó đang trãi qua một sự khủng hoảng và cần đến lời cầu nguyện của
bạn? Đó là ví dụ về lời tri thức mà Đức Thánh Linh ban cho các tín hữu đầy
dẫy Đức Thánh Linh là những người đầu phục sự hướng dẫn của Ngài.
Trong Cựu ước, ví dụ về ân tứ tri thức được chép trong IIVua 2V 6:9-10.
Tiên tri Ê-li-sê, người được mệnh danh là “Người của Đức Chúa Trời” báo
cho vua Y-sơ-ra-ên không nên đi ngang qua một nơi kia bởi vì ông biết kẻ
thù đang ẩn núp ở đó. Bởi sự tỏ ra của Đức Chúa Trời, tiên tri Ê-li-sê báo
cho vua Y-sơ-ra-ên nhiều lần như vậy, để vua giữ mình.
Lời Khôn Ngoan
Đức Thánh Linh ban cho bạn lời khôn ngoan để bạn biết phải làm gì trong
những khi có cần. Đây không chỉ đơn thuần là sự khôn ngoan của con người
dựa trên những kinh nghiệm trong quá khứ, nhưng là một sự khôn ngoan đặc
biệt được ban cho để đáp ứng một nhu cầu đặc biệt. Lời khôn ngoan đôi khi
bao gồm cả lời tri thức.
Ở đây một lần nữa, ân tứ chỉ là một lời khôn ngoan. Điều nầy có nghĩa là
bạn nhận được sự khôn ngoan từ Đức Thánh Linh cho một hoàn cảnh nào
đó. Lời khôn ngoan rất cần thiết cho những người đang lãnh đạo Hội thánh.
Một lời từ Đức Thánh Linh có thể đem đến sự hiệp một trong những buổi
nhóm đông người và trong những công tác của Hội thánh. Nếu bạn phải đối
diện với tòa án của thế gian để binh vực cho niềm tin vào Đấng Christ của
mình, thật khích lệ khi biết rằng Đức Thánh Linh sẽ ở với bạn và sẽ ban cho
bạn lời khôn ngoan cần thiết.
Công vụ chương 15 ghi lại buổi hội nghị ở Giê-ru-sa-lem, nơi mà các sứ đồ
và các trưởng lão cùng họp nhau để quyết định rằng liệu những tín hữu
ngoại bang phải chịu phép cắt bì theo như luật của người Giu-đa hay không.
Ân tứ lời khôn ngoan được biểu lộ qua bức thư mà các nhà lãnh đạo Hội
thánh gởi cho những tín hữu ngoại bang, rằng: “Đức Thánh Linh và chúng
ta đã ưng rằng chẳng gán gánh nặng nào khác cho anh em ngoài những điều
cần dùng...” (Cong Cv 15:28).
15. hãy viết 1) trước những câu chỉ về lời tri thức và 2) trước những câu chỉ
về lời khôn ngoan .
. . . . a. GiGa 4:7-17 : Chúa Giê-xu nói với người đàn bà về cuộc đời quá khứ
của bà.
. . . . b. Cong Cv 5:27-29 : Phierơ đưa ra một giải pháp cho vấn đề.
. . . . c. 5:3 : Phierơ biết rằng Anania và Saphira đã nói dối về tài sản của họ.
. . . . d. 10:19 : Đức Thánh Linh cho Phierơ biết rằng ông không còn cách
nào khác để hiểu biết.
. . . . e. 28:26 : Đức Thánh Linh ban cho Ê-sai một sứ điệp liên quan đến
việc dân Giu-đa sẽ phản ứng với phúc âm như thế nào.
16. Hãy cho biết tên của mỗi ân tứ thuộc sự khải thị được mô tả trong mỗi
bài tập sau:
a. Một lời đặc biệt cho phép bạn biết phải làm điều gì khi có cần.
....................................................................................................
b. Ân tứ có thể biết được rằng một sự biểu lộ của linh là thuộc về Đức Chúa
Trời, hay thuộc về ma quỉ, hay thuộc về linh của con người.
....................................................................................................
c. Một sự khải thị của Đức Thánh Linh về một điều bạn cần biết ở một thời
điểm đặc biệt.
....................................................................................................
d. Ân tứ khiến Phao-lô có thể nhận biết rằng có một ác linh ở trong đứa đầy
tớ gái (16:16-18).
....................................................................................................

Để thảo luận chi tiết hơn về những ân tứ thuộc linh và sự ứng dụng cách
phải lẽ những ân tứ nầy trong Hội thánh, tôi đề nghị bạn hãy học khóa ICI
trong loạt bài học nầy với tựa đề là Những ân tứ thuộc linh , được biên soạn
bởi Robert L. Brandt. Hãy nhớ rằng mục đích của mọi ân tứ của Đức Thánh
Linh là xây dựng Hội thánh - thân thể của Đấng Christ. Đức Thánh Linh ban
những ân tứ theo ý Ngài muốn, để Hội thánh kinh nghiệm được sự trưởng
thành thuộc linh và mạnh mẽ.
Bài Tự Trắc Nghiệm
1. SẮP XẾP. Hãy sắp xếp chín ân tứ trong ICo1Cr 12:7-11 với định nghĩa
của mỗi ân tứ. Ghi số bạn chọn vào những khoảng trống.
1) Tiếng mới
2) Thông giải tiếng mới
3) Tiên tri
4) Đức tin
5) Chữa bịnh
6) Phép lạ
7) Phân biệt các thần
8) Lời tri thức
9) Lời khôn ngoan
. . . a. Ân tứ cho biết rằng một sự biểu lộ của linh là từ Đức Thánh Linh hay
từ những linh khác.
. . . b. Ân tứ về một niềm tin đặc biệt rằng Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều
bạn cầu xin.
. . . c. Ân tứ đem đến cho bạn một sự hiểu biết đặc biệt trong một nhu cầu
cấp thiết và khả năng để nhớ lại một điều gì đó trong quá khứ khi bạn cần
nó.
. . . d. Ân tứ về những ngôn ngữ bạn không biết.
. . . e. Ân tứ can thiệp vào bản chất của thiên nhiên.
. . . f. Ân tứ , theo cách nói của những người nghe, đem đến sự giải thích cho
một sứ điệp bằng tiếng mới.
. . . g. Ân tứ đem đến sự phục hồi khỏi bịnh tật.
. . . h. Ân tứ về một sứ điệp từ Đức Chúa Trời trong ngôn ngữ của những
người nghe.
. . . I. Ân tứ bày tỏ điều gì phải làm trong thì giờ cần thiết.
CÂU TRẢ LỜI NGẮN. Hãy trả lời những câu hỏi sau cách ngắn gọn.
2. Hãy liệt kê ba loại ân tứ đã thảo luận trong bài học nầy.
.......................................................................................................
3. Hãy nêu lên hai mục đích quan trọng của những ân tứ thuộc linh.
......................................................................................................
4. Ai có thể nhận lãnh các ân tứ thuộc linh?
.......................................................................................................
.......................................................................................................
Trả Lời Những Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. Sứ đồ, thầy giáo, và người cai quản. (Dường như là những người có thể
giúp đỡ kẻ khác .)
2. ICo1Cr 12:7-11
- khôn ngoan
- tri thức
- đức tin
- những ân tứ chữa bịnh
- quyền năng làm phép lạ
- ơn nói tiên tri
- phân biệt các thần
- nói tiếng mới
- thông giải tiếng mới
12:28-30
- những ân tứ chữa bịnh
- những người làm phép lạ
- tiên tri
- nói tiếng mới
- thông giải tiếng mới
- sứ đồ
- giáo sư
- làm chức vụ
- quyền lãnh đạo
- bố thí
- làm sự thương xót
- người cứu giúp
- người cai quản
RoRm 12:6-8
- không được đề cập
- nói tiên tri
- sứ đồ
- dạy dỗ
Eph Ep 4:11
- không được đề cập
- tiên tri
- sứ đồ
- giáo sư
- mục sư
- người giảng tin lành
3. c) Khi họ bắt đầu nói tiếng mới và ca ngợi Đức Chúa Trời.
4. b) Lời được ban cho mọi người phải được thông giải, trong khi lời được
ban cho cá nhân không cần sự thông giải.
5. Tiếng mới chỉ gây dựng cho người nói. Lời tiên tri và tiếng mới có sự
thông giải gây dựng cả Hội thánh. (Hãy đọc trọn chương 14 để có sự hiểu
biết đầy đủ hơn về lẽ thật nầy.)
6. a. Sai.
b Đúng.
c Đúng.
d Đúng.
e Sai.
f Sai.
g Đúng.
h Đúng.
I Đúng.
j Đúng.
k Sai.
7. Câu trả lời của bạn.
8. a. 3) Trái đức tin.
b. 4) Đức tin thông thường.
c. 1) Đức tin để được cứu.
d. 2) Ân tứ đức tin.
9. Họ nghĩ rằng Phierơ và Giăng có khả năng chữa bịnh do chính quyền
năng của hai người hoặc bởi chính đức độ của hai người
10. Để tôn vinh Chúa Giê-xu.

12. a) Biển rẽ ra - Môi-se.


b) Nước chảy ra từ hòn đá - Môi-se.
c) Mặt trời và mặt trăng đứng yên - Giô-suê.
d) 1000 người phi-lê-tin bị giết - Sam-sôn.
e) Của lễ được lửa thiêu hủy - Ê-li.
f) Khiến đứa trẻ sống lại Ê-li-sê.
13. c) Chứng thực rằng sự công bố phúc âm là bởi Đức Chúa Trời chọn lựa.
14. a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
e. Đúng.
f. Sai.
15. a. 1) Lời tri thức.
b. 2) Lời khôn ngoan.
c. 1) Lời tri thức.
d. 1) Lời tri thức
e. 2) Lời khôn ngoan.
16. a. Lời khôn ngoan.
b. Phân biệt các thần.
c. Lời tri thức.
d. Phân biệt các thần.
TRÁI THÁNH LINH
Nhưng trái của Đức Thánh Linh ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình
an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ. Không có luật
pháp nào cấm các sự đó (GaGl 5:22-23).
Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhơn từ; tình yêu
thương chẳng ghen tị; chẳng khoe mình; chẳng lên mình kiêu ngạo, chẳng
làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự
dữ, chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. Tình yêu
thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự.
Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ (ICo1Cr 13:4-8).
Chúa Giê-xu đã thăng thiên cách đây gần 2000 năm. Tuy nhiên những môn
đồ của Ngài là những Cơ đốc nhân thật vẫn giữ hình ảnh Ngài sống động.
Bởi quyền năng của Đức Thánh Linh, nhiều người trong số họ trở nên giống
như Ngài trong bản tính cho đến nỗi thế gian thấy Chúa qua họ. Khi những
chiến sĩ chinh phục linh hồn làm chứng về Ngài, người nghe nói rằng: “Ồ
vâng, tôi biết ông ấy, ông ấy là người láng giềng của tôi.” Hoặc: “Vâng, tôi
biết ông ấy, ông ấy cùng làm việc với tôi.” Ngay cả trong rừng sâu cũng có
câu trả lời rằng: “Vâng, tôi biết ông ấy, ông ấy thường đến thăm chúng tôi
và kể cho chúng tôi nghe về Đức Chúa Trời.” Họ đang nói về những người
đã để Đức Thánh Linh đem bản tánh của Chúa Giê-xu vào trong đời sống
họ.
Thật thích hợp cho chúng ta trong bài học cuối nầy suy gẫm về những nét
đặc trưng của những môn đồ thật của Chúa Giê-xu, và bằng cách nào những
đặc tính nầy được phát huy trong đời sống của tín hữu qua sự cư ngụ của
Đức Thánh Linh. Sứ đồ Phao-lô gọi những đặc tính nầy là trái Thánh Linh .
Chúng có thể được tóm tắt trong một lời: tình yêu thương . Đây là những
thuộc tính của Đức Chúa Trời, kết quả trong đời sống của tín hữu bởi Đức
Thánh Linh. Tôi muốn gọi trái Thánh Linh là bản tính của Cơ đốc nhân .
Khi bạn nghiên cứu bài, hãy tự tra xét chính mình. Những người khác có thể
nhìn thấy Chúa Giê-xu qua bạn hay không?
Dàn Ý Bài Học
Sự cần yếu của Trái Thánh Linh
Sự biểu hiện của Trái Thánh Linh
Sự ban thưởng của Trái Thánh Linh
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Giải thích ý nghĩa của thuật ngữ trái Thánh Linh dựa trên ICo1Cr 13:1-13 và
GaGl 5:22-23.
Nêu lên lý do tại sao trái Thánh Linh là cần yếu khiến cho sự làm chứng, sự
phục vụ, và sự hy sinh có hiệu quả.
Lượng giá đặc tính Cơ đốc nhân của bạn và xác định điều gì là cần thiết cho
sự trưởng thành của Cơ đốc nhân.
Kinh nghiệm được những phần thưởng vĩnh hằng của việc để Đức Thánh
Linh phát huy ảnh tượng của Đấng Christ trong bạn.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học như cách bạn đã được hướng dẫn trong những bài học
trước. Tìm và đọc tất cả những phần Kinh thánh trưng dẫn, và trả lời những
câu hỏi nghiên cứu. Hãy chú ý cách đặc biệt đến những câu hỏi tự lượng giá
của bài 10.
Đọc GiGa 15:1-27, ICo1Cr 13:1-13, GaGl 5:1-26, và IIPhi 2Pr 1:5-11 để
làm nền tảng cho bài học nầy.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Ôn lại những điều bạn đã học trong Đơn vị 3. Sau đó trả lời những câu hỏi
cho Đơn vị 3 trong bản tường trình học tập theo từng đơn vị của bạn. Theo
những chỉ dẫn trong bản tường trình.
Những Từ Then Chốt
chịu đựng, sự
tuận đạo, sự
động cơ
bền lòng
thanh tẩy
đặc tính
Khai Triển Bài Học
SỰ CẦN YẾU CỦA TRÁI THÁNH LINH
Mục tiêu 1: Lựa chọn những câu đúng giải thích tại sao trái Thánh Linh là
cần yếu trong đời sống của Cơ đốc nhân .
Trong khi nghiên cứu Bài 9, bạn có tự hỏi tại sao sứ đồ Phao-lô đang nói đến
các ân tứ của Đức Thánh Linh trong 1Côrinhtô chương 12 và 14, thì ông cắt
ngang bằng cách thảo luận một vấn đề khác ở chương 13? Quay lại chương
13 và bạn sẽ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi nầy. Hãy đọc ba câu đầu và đếm
tất cả các đại từ mà bạn thấy trong những câu Kinh thánh nầy. Trong bản
dịch Kinh thánh tôi đang dùng, đại từ “tôi” xuất hiện tám lần!
Phao-lô đang cố gắng nói với chúng ta điều gì ở đây? Rỏ ràng ở đây ông
đang đề cập đến chính mình ông như là một con người. Ông nói rằng: “Hãy
bỏ đi những gì tôi đã nói và những gì tôi đã làm, và bản chỉ còn thấy chính
bản thân tôi mà thôi. Lúc ấy, tôi là người như thế nào quan trọng hơn là tôi
đã nói gì hoặc tôi đã làm gì .”
Như chúng ta đã thấy trong Bài học 9, Đức Thánh Linh đến để giúp đỡ tôi
làm những điều Đức Chúa Trời muốn. Càng quan trọng hơn cho tôi trong
cương vị là một con người, Ngài giúp đỡ tôi trở thành người mà Đức Chúa
Trời muốn tôi trở thành theo ý Đức Chúa Trời đem lại ích lợi cho những
người khác nhiều nhất. Nhưng trở nên giống như Đức Chúa Trời ích lợi cho
tôi nhất. Cả hai đều làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, nhưng nếu chỉ làm mà
không trở nên thì chỉ là điều vô nghĩa và không ích lợi gì cả.
Bây giờ chúng ta hãy ngiên cứu kỷ hơn điều mà Phao-lô nói về tầm quan
trọng của trái Thánh Linh, hay đặc tính của Cơ đốc nhân. Trong khi làm điều
nầy, chúng ta thay thế từ ngữ tình yêu thương bằng cụm từ bản tính của Cơ
đốc nhân .
Trong Sự Làm Chứng
Mục tiêu 2: Xác định bản tính thật của Cơ đốc nhân mang lại ý nghĩa như
thế nào trong việc làm hậu thuẩn cho lời làm chứng của bạn .
Nếu tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của thiên sứ, nhưng không
có bản tính thật của Cơ đốc nhân làm hậu thuẩn cho lời làm chứng của tôi,
thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay chập chỏa vang tiếng trong đền thờ của
người ngoại đạo. Lời làm chứng của tôi khiến cho những người khác đến
trong đền thờ của tôi để tìm kiếm Đức Chúa Trời. Nhưng nếu bản tánh của
Ngài không được nhìn thấy qua tôi, họ quay đi thất vọng. Lời làm chứng của
tôi cũng chẳng tốt hơn tiếng đồng kêu hay tiếng chập chỏa là những thứ kêu
gọi người ta đến với những đền thờ ngoại giáo trống rỗng. Lời làm chứng
của tôi không đi đôi với bản tính thật của tôi.
Đức Thánh Linh đến ngự trong đền thờ thân thể bạn và Ngài mong ước sinh
ra những trái Thánh Linh trong bạn. Và rồi khi bạn làm chứng về những điều
Đức Chúa Trời có thể làm cho một đời sống tiếp nhận Ngài, bạn sẽ là một ví
dụ sống cho lời làm chứng của bạn. Người khác sẽ nói rằng: “Vâng, tôi biết
Đức Chúa Trời như thế nào rồi. Ngài giống như ông vậy.”
1. Bản tính thật của Cơ đốc nhân có ý nghĩa như thế nào trong việc làm hậu
thuẩn cho lời làm chứng của bạn? (Chọn câu trả lời.)
a) Điều đó có nghĩa là bạn sẽ có một sứ điệp đầy quyền năng để lôi kéo
người ta đến với Đấng Christ bất kể bạn sống như thế nào.
b) Điều đó có nghĩa rằng Ngài bày tỏ tình yêu của Đấng Christ trong mọi
lúc, và người ta được kéo đến với Đấng Christ bởi bạn là người như thế nào
và bạn đã nói điều gì.
Trong Sự Phục Vụ
Mục tiêu 3: Hoàn chỉnh những câu tóm tắt tầm quan trọng của việc trở thành
cũng như làm theo .
Nếu tôi có ân tứ nói tiên tri, ân tứ được xem là cao trọng nhất trong những
ân tứ thuộc lời nói - và nếu tôi có thể hiểu được hết thảy những sự huyền
nhiệm và mọi sự tri thức, là ân tứ được coi là cao nhất trong những ân tứ
thuộc sự khải thị - và nếu tôi có đức tin có thể dời núi được, là điều lớn nhất
trong những ân tứ thuộc quyền năng - nhưng nếu không có đặc tính của Cơ
đốc nhân, thì chính tôi sẽ chẳng ra gì cả.
Sứ đồ Phao-lô không hề có ý định hạ thấp giá trị của các ân tứ. Đây là những
ân tứ của Đức Thánh Linh, là những biểu hiện cao nhất của tâm trí và quyền
năng của Đức Chúa Trời mà con người có thể thực hành. Những ân tứ nầy
đem lại rất nhiều lợi ích lớn lao cho con người khi có cần. Những thành viên
trong Hội thánh sẽ được gây dựng. Tri thức và sự khôn ngoan siêu nhiên sẽ
được ban phát. Các núi sẽ bị dời đi. Đức Chúa Trời sẽ được ca ngợi, và tôi
có thể được kính trọng như một tôi tớ đầy ân tứ của Đức Chúa Trời. Tuy
nhiên, nếu tôi không sở hữu trái bản tính của Cơ đốc nhân, tôi không có
phần gì trước mặt Đức Chúa Trời .
Để xác nhận cho điều nầy Chúa Giê-xu đã nói rằng: “Các ngươi nhờ những
trái nó mà nhận biết được” (Mat Mt 7:16). Rồi Ngài thêm rằng: “Ngày đó sẽ
có nhiều người thưa cùng ta rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng
từng nhơn danh Chúa mà nói tiên tri sao? nhơn danh Chúa mà trừ quỉ sao?
nhơn danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao?’ Khi ấy, ta sẽ phán rõ ràng cùng
họ rằng: ‘Hỡi kẻ làm gian ác, ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi
ta!” (7:22-23).
Phục vụ Đức Chúa Trời, như là một phần của sự thờ phượng, là chức vụ cao
nhất mà một người có thể thực hiện. Tuy nhiên, khi tôi tớ Cơ đốc nhân đứng
trước Chủ mình, người ấy bị xét đoán vì đã là người như thế nào và được
thưởng vì đã làm điều gì (24:45-51).
Lý do của điều nầy là Đức Thánh Linh đang chuẩn bị những người cai trị
cho vương quốc hầu đến của Đấng Christ. Bởi vì họ sẽ cai trị cùng với Đấng
Christ, nên họ phải giống như Ngài. Vị trí sẽ được phân chia dựa trên căn
bản của sự giống với ảnh tượng của Đấng Christ, hơn là những gì đã làm.
Đấng Christ sẽ dùng roi sắt mà cai trị cùng với sự công bình, sự chánh trực
và tình yêu. Vì vậy, Ngài tìm kiếm những người cai trị có động cơ thánh
khiết của Cơ đốc nhân và những thái độ giống với Đấng Christ. (Xem KhKh
2:26, 27).
Chức vụ trong một số nền chính trị đôi khi thắng cuộc dựa trên căn bản của
những thành tựu đáng tự hào hoặc những lời hứa cho tương lai, hơn là dựa
trên căn bản của những tính cách tốt. Trong vương quốc của Đấng Christ,
bạn là người như thế nào có giá trị hơn là bạn đã làm điều gì. Đây là sứ điệp
của ICo1Cr 13:1-13.
Điều nầy khiến cho mọi tín hữu đều bằng nhau. Mỗi thành viên trong Hội
thánh đều có cùng một cơ hội để giống Chúa Giê-xu là Đấng có chức vụ cao
nhất trong Hội thánh. Cả hai sở hữu cùng một Đức Thánh Linh trong thân
thể mình, và Chúa Giê-xu tìm cách sinh trái Thánh Linh trong đời sống của
họ.
2. Điền vào khoảng trống để hoàn chỉnh những câu sau:
a. 1Côrinhtô 13 nói rằng chúng ta ..................................... như thế nào quan
trọng hơn chúng ta đã ........................................
b. Những muốn đồng cai trị với Đấng Christ phải ..........................
c. Chúa Giê-xu phán rằng chúng ta sẽ được biết bởi ......................... của
chúng ta. Điều nầy có nghĩa là chúng ta sẽ bày tỏ chính mình
bởi ............................................ của chúng ta.
Trong Sự Hy Sinh
Mục tiêu 4: Giải thích mối liên hệ giữa sự hy sinh và việc bày tỏ bản tính
của Cơ đốc nhân dựa trên 13:3.
Dầu tôi phân phát gia tài cho kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt,
song nếu tôi không có bản tính của Cơ đốc nhân, thì điều đó chẳng ích chi
cho tôi .
Đức Chúa Trời yêu thương kẻ nghèo. Qua sứ đồ Gia-cơ, Ngài cảnh cáo rằng
trong những ngày sau rốt, người giàu có sẽ than khóc bởi vì họ đã hà hiếp
những người làm công nghèo khó, chẳng trả công xứng đáng cho họ (Gia Gc
5:1-4). Đức Chúa Trời lấy làm đẹp lòng khi những người giàu có chia xẻ với
những người đang ở trong sự túng thiếu. Ban cho kẻ nghèo là một sự bày tỏ
bản tính của Cơ đốc nhân rõ hơn là nói về Đức Chúa Trời, và càng vượt xa
hơn những ân tứ khác, nhưng nó không phải là tiêu chuẩn của trái Thánh
Linh. Những gì bạn ban cho tất nhiên sẽ có ích lợi cho kẻ nghèo, ít nhất
cũng trong một thời gian nào đó, nhưng động cơ để ban cho phải xuất phát
từ bản tánh của Đấng Christ trong bạn nếu điều đó được kể ra khi bạn đứng
trước Ngài.
Khi Phao-lô nói đến việc ông bỏ thân mình để chịu đốt (ICo1Cr 13:3) chúng
ta không biết có phải ông đang đề cập đến sự tuận đạo hay một hình thức hy
sinh cá nhân vì một lý do tôn giáo nào đó là điều phổ thông trong thời đại
của ông. Và cho dù đó là gì đi nữa, thì điều mà ông muốn nói ấy là: “Ngay
cả khi tôi hiến chính thân thể tôi để chịu cái chết đau đớn nhất để có thể
chứng tỏ lòng nhiệt thành tôn giáo của mình, nhưng nếu tôi không có trái
Thánh Linh, là bản tính của Cơ đốc nhân, điều đó chẳng có ích chi cho tôi .”
3. Tiêu chuẩn của trái Thánh Linh là gì?
.......................................................................................................
4. Khi nào thì sự ban cho kẻ nghèo, hoặc sự hy sinh cá nhân, được Đức
Chúa Trời chấp nhận và đẹp lòng?
.......................................................................................................
5. Theo bạn, tại sao Phao-lô đưa ra hình ảnh một người hiến thân thể của
mình để chịu đốt là để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự sở hữu trái Thánh
Linh ?
...........................................................................................................................
...................................................................................
6. Hãy khoanh tròn mẫu tự trước những câu ĐÚNG là những câu giải thích
tại sao trái Thánh Linh là điều cần yếu trong đời sống của một Cơ đốc nhân.
a. Sứ đồ Phao-lô bày tỏ rằng tôi là người như thế nào quan trọng hơn tôi nói
gì hoặc tôi làm gì.
b. Nói tiếng mới thì có giá trị rất ít hoặc không giá trị khi so sánh với trái
Thánh Linh.
c. Nếu tôi không có bản tánh của Đấng Christ, tất cả những điều tôi làm đều
vô nghĩa.
d. Người ta được thu hút đến với Đấng Christ bởi tôi nói gì hơn là tôi là
người như thế nào.
e. Tôi có thể có tất cả những ân tứ thuộc linh nhưng vẫn không được gì .
f. Nếu tôi không muốn đứng trước mặt Đức Chúa Trời mà không có phần gì
với Ngài, tôi phải sở hữu trái Thánh Linh.
g. Chúa Giê-xu nói rằng chúng ta sẽ nhận biết những môn đồ của Ngài qua
các ân tứ của họ.
h. Vị trí tương lai của chúng ta trong vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ dựa
trên sự giống ảnh tượng Đấng Christ của chúng ta.
SỰ BIỂU HIỆN CỦA TRÁI THÁNH LINH
Định Nghĩa
Mục tiêu 5: Xác định những từ ngữ định nghĩa tình yêu thương là gì .
Bản tính của Cơ đốc nhân là điều vô cùng quan trọng, nhưng điều đó là gì,
và làm thế nào để tôi biết được rằng tôi có điều đó? Những câu Kinh thánh
mà chúng ta bắt đầu trong bài học nầy sẽ cho chúng ta câu trả lời. Qua
những câu Kinh thánh nầy, chúng ta thấy được những khía cạnh khác trong
bản tính của Cơ đốc nhân, hay trái Thánh Linh. Trong khi bạn nghiên cứu,
hãy tự hỏi chính mình rằng bạn đã sở hữu những thuộc tính nầy của Đấng
Christ chưa?
7. Hãy liệt kê chín trái Thánh Linh được chép trong GaGl 5:22-23.
...........................................................................................................................
...................................................................................
Bản tính thật của Cơ đốc nhân biểu hiện qua trái Thánh Linh , là điều được
tóm tắt trong tình yêu thương . Các thuộc tính khác của Đức Chúa Trời xuất
phát từ tình yêu thương màchúng được hình thành trong đời sống của người
tín hữu bởi sự cư ngụ của Đức Thánh Linh. Đó là lý do tại sao ICo1Cr 13:4-
8 có thể được gọi là tiêu chuẩn đo lường của Đức Chúa Trời cho một Cơ đốc
nhân thật.
Từ ngữ tình yêu thương trong đoạn Kinh thánh nầy được dịch từ tiếng Hy-
lạp là agape . Đây là tình yêu tuôn chảy trực tiếp từ Đức Chúa Trời: “Sự yêu
thương của Đức Chúa Trời rãi khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh
đã được ban cho chúng ta” (RoRm 5:5). Chính vì tình yêu nầy mà Đức Chúa
Trời đã ban Con độc sanh của Ngài làm của lễ hy sinh cho chúng ta (GiGa
3:16). Đây cũng là tình yêu của Chúa Giê-xu dành cho chúng ta: “Bởi đó
chúng ta nhận biết lòng yêu thương, ấy là Chúa đã vì chúng ta bỏ sự sống;
chúng ta cũng nên bỏ sự sống vì anh em mình vậy” (IGi1Ga 3:16 cũng xem
GiGa 15:12-13).
Chúng ta sẽ diễn giải điều mà nhà học giả Kinh thánh A. T. Pierson nói về
tình yêu và trái Thánh Linh:
Vui mừng là tình yêu trong sự hoan hỉ,
Bình an là tình yêu trong sự an nghỉ tin cậy,
Nhịn nhục là tình yêu trong sự thử luyện,
Nhơn từ là tình yêu trong xã hội,
Hiền lành là tình yêu trong hành động,
Trung tín là tình yêu trong sự chịu đựng,
Mềm mại là tình yêu trong sự huấn luyện,
Tiết độ là tình yêu trong kỷ luật.
Nếu bạn sở hữu loại tình yêu nầy, là bản tính thật của Cơ đốc nhân, bạn sẽ
nhịn nhục (xem ICo1Cr 13:4-7). Trong mọi sự mà bạn phải chịu đựng, bạn
sẽ không mất tự chủ để rồi làm hay nói điều gì mà sau nầy bạn phải hối tiếc.
Bạn sẽ nhơn từ với những người làm hại bạn.
Bạn sẽ không ghen tị với địa vị hoặc của cải của những người khác, nhưng
sẽ thỏa lòng trong sự quan phòng của Đức Chúa Trời cho đời sống bạn.
Ban sẽ không khoe mình bởi những gì bạn đạt được, nhưng để môi miệng
của những người khác ca ngợi, và rồi bạn dâng sự vinh hiển về cho Đức
Chúa Trời.
Bạn sẽ không lên mình kêu ngạo , vì biết rằng tất cả những gì bạn có đều là
sự ban cho của Đức Chúa Trời, và những điều bạn làm được đều bởi sức của
Ngài.
Bạn sẽ không làm điều trái phép . Một Cơ đốc nhân chân thật sẽ đối xử với
mọi người với sự tôn trọng cho dù địa vị hay hiện trạng của họ như thế nào
đi nữa.
Bạn sẽ không kiếm tư lợi , nhưng sẽ đặt Đức Chúa Trời lên trước nhất và
những người khác ở trước bạn.
Bạn sẽ không nóng giận hoặc nhạy giận , nhưng sẽ thực hành sự vui vẻ.
Bạn sẽ không nghi ngờ sự dữ hay nhớ đến những sự dữ mà người khác đã
làm cho bạn, nhưng sẽ luôn luôn nhanh chóng tha thứ.
Bạn sẽ không vui trong những điều không công bình , nhưng bạn sẽ luôn
nhớ rằng Đấng Christ đã chịu khổ thế cho bạn.
Bạn sẽ vui mừng trong lẽ thật.
Bạn sẽ khoan dung đối với mọi sự.
Bạn sẽ tin cậy những sự chân thật.
Bạn sẽ hy vọng vào những lời hứa của Đức Chúa Trời.
Bạn sẽ bền lòng (hay vững chí) chịu đựng những gì cần thiết cho đến khi
đức tin trở thành mắt thấy - cho đến khi điều mà bạn trông cậy trở thành sự
thật.
8. Hãy khoanh tròn mẫu tự trước những định nghĩa về tình yêu thương.
a) Tiết độ
b) Kiếm tư lợi
c) Sự hy sinh chính mình
d) Mềm mại
e)Khiêm nhường
f) Thô lỗ
g) Nhịn nhục
h) Vui mừng trong mọi lúc
I) Bình an
j) Ghen tị
k) Nhạy giận
l) Bền lòng
m) Khoan dung
n) Kiêu ngạo
o) Hy vọng
p) Nhơn từ
Ap Dụng
Mục tiêu 6: Áp dụng trái Thánh Linh trong đời sống bạn để những trái nầy
thể hiện qua bạn như đã bày tỏ qua cuộc đời của Chúa Giê-xu .
Có thể bạn sẽ nói rằng: “Ai là người có thể đạt đến một tiêu chuẩn như
vậy?” Thật sự, chỉ một người có thể. Tên của người đó là Giê-xu. Bạn có thể
đăt tên của Ngài trước tất cả những đặc tính đó. Chúa Giê-xu không đòi hỏi
chúng ta điều gì mà chính Ngài đã không làm, và Ngài đã làm bởi quyền
năng của cùng một Đức Thánh Linh đang cư ngụ trong chúng ta.
Đấng Christ là một gương cho chúng ta. Chúng ta không thể bắt chước Ngài
bởi năng lực của chính mình. Chúng ta phải để Đức Thánh Linh mặc lấy
hình ảnh của Ngài cho chúng ta. Chúng ta là những kẻ được dự phần trong
bản tánh Ngài (IIPhi 2Pr 1:4). Mức độ mà chúng ta dự phần sẽ xác định
khoảng cách của chúng ta với tiêu chuẩn của một con người trọn vẹn trong
Đấng Christ.
9. Sau đây là những ví dụ về thần tánh của Đấng Christ được bày tỏ khi Ngài
thi hành chức vụ trên đất. Hãy sắp xếp mỗi phân đoạn Kinh thánh với trái
Thánh Linh minh họa. Hãy đọc kỷ những phân đoạn Kinh thánh nầy.
1) Yêu thương
2) Vui mừng
3) Bình an
4) Nhịn nhục
5) Nhơn từ
6) Hiền lành
7) Trung tín
8) Mềm mại
9) Tiết độ
. . . . a GiGa 14:27
. . . . b EsIs 53:7
. . . . c HeDt 4:15
. . . . d IIPhi 2Pr 3:9
. . . . e LuLc 22:42
. . . . f IGi1Ga 3:16
. . . . g Mat Mt 4:1-11
. . . . h EsIs 53:8-9
. . . . I GiGa 8:3-11
. . . . j HeDt 12:2
. . . . k Cong Cv 10:38
. . . . l Mat Mt 18:21-22

Bây giờ hãy tra xét chính mình chúng ta. Hầu hết chúng ta đều giống như
một cậu học sinh nhỏ trong trường Kinh thánh của chúng tôi. Rudy thật sự
không thích các kỳ thi. Cậu ta thường thở dài, ca cẩm và ít khi trả lời tất cả
các câu hỏi. Trong một kỳ thi kia, cậu để giấy trắng và chỉ viết ở bên dưới
rằng: “Đấng Christ là câu trả lời.” Tuy nhiên, vị giáo viên đã tỏ ra công
bằng trong tình huống nầy. Cô viết lên phần trên của tờ giấy rằng: “Đấng
Christ: 100; Rudy: 0.)
Đây có thể là một câu chuyện vui, nhưng nó đã nói lên một điều gì đó về
ngày thi cuối cùng của chúng ta. Tôi biết rằng bản tính Cơ đốc nhân của
Đấng Christ là 100 điểm, nhưng dĩ nhiên tôi muốn điểm của tôi phải hơn
điểm của Rudy, còn bạn thì sao?
Phao-lô cho chúng ta biết rằng chúng ta sẽ chịu xét đoán bởi Đấng Christ,
theo phúc âm của Ngài (RoRm 2:16). Có thể 1Côrinhtô 13 sẽ chính là sứ
điệp được dùng trong ngày phán xét của Đấng Christ như là một tiêu chuẩn
để chọn lựa những người sẽ giữ những vị trí quan trọng trong vương quốc
hầu đến của Ngài. Định nghĩa của trái Thánh Linh mà Phao-lô đã đưa ra cho
chúng ta có thể sẽ là bài tự trắc nghiệm mà chúng ta phải nghiên cứu thường
xuyên cho kỳ thi cuối cùng của mình.
Tất cả những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi trong bản tính của Cơ đốc nhân đã
được ghi lại trong những phân đoạn Kinh thánh mà chúng ta đã học về trái
Thánh Linh. Đó là những thuộc tính của Đức Chúa Trời, là những đặc tính
của Ngài. Bạn không thể tự mình sản sinh ra những đặc tính nầy được - bạn
phải để chúng lớn lên bởi mối tương giao các nhân với Đức Thánh Linh.
Ngài sẽ sinh ra những trái nầy trong bạn.
10 Trong vở của bạn, hãy lập một biểu đồ như sau, và liệt kê tất cả các trái
Thánh Linh từ GaGl 5:22-23 và ICo1Cr 13:1-13. Hãy tự cho điểm khi bạn
phát huy được mỗi trái nầy. Hãy cầu xin Đức Thánh Linh sinh ra những trái
nầy trong bạn theo như tiêu chuẩn của Đấng Christ. Bạn tự đánh giá mình
như thế nào?
- TRÁI:
Yêu thương, vui mừng, bình an.
Tôi có thể thấy trái nầy trong đời sống của tôi:
- không bao giờ (0)
- ít khi (20)
- Đôi khi (40)
- Thường hay (60)
- Thường xuyên (80)
- luôn luôn (100)
SỰ BAN THƯỞNG CỦA TRÁI THÁNH LINH
Mục tiêu 7: Nêu lên ba phần thưởng của việc kết trái, và trưng dẫn những
phần Kinh thánh làm hậu thuẩn cho mỗi phần thưởng .
Tôi đã từng là một thiếu niên, nhưng bây giờ tôi đã là một ông nội. Hãy tin
là có rất nhiều kinh nghiệm được học hỏi trong thời gian đó. Một số rất thú
vị, và số kia thì không thú vị lắm, nhưng tất cả đều cần thiết.
Bạn có thể hỏi: “Nhưng chúng cần thiết cho cái gì?” Vâng, nếu chúng chỉ
cần thiết cho đời nầy mà thôi, là thời gian mà tôi còn đang sống, rồi nó sẽ
qua đi! Không, Đức Thánh Linh đang chuẩn bị tôi cho điều gì đó cao trọng
hơn trong một tương lai rất gần - một điều gì đó cao trọng hơn ngay cả
những điều tôi đã tưởng tượng! Trái Thánh Linh, bản tính của Cơ đốc nhân,
đang được Đức Thánh Linh phát huy trong tôi để sắm sẵn cho tôi một chổ
trong cõi đời đời .
Vượt Qua Thời Gian
Bản tính của Cơ đốc nhân chỉ là một phần của cõi đời đời mà bạn có thể
kinh nghiệm được ngay bây giờ. Mọi việc đều sẽ qua đi: “Các lời tiên tri rồi
sẽ hết, sự ban cho nói tiếng lạ sẽ thôi, sự thông biết hầu bị bỏ” (c. 8).
Các lời tiên tri sẽ không còn cần thiết khi chúng ta thấy Chúa Giê-xu, vì vậy
chúng sẽ chấm dứt. Chúng chỉ còn là những kỷ niệm sau khi chúng được
ứng nghiệm.
Tiếng mới, cả ngôn ngữ hiểu được hoặc không hiểu được, sẽ thôi đi khi Đức
Thánh Linh đem đến một hình thức tương giao siêu việt hơn. Và sẽ không
còn những trở ngại trong ngôn ngữ nữa.
Sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta cũng sẽ qua đi, bởi vì những lời tiên tri,
tiếng mới, và sự hiểu biết hiện tại chỉ lấy làm tốt cho sự khải thị một phần
nào đó của Đức Chúa Trời trong lúc này mà thôi. Chỉ có sự phát huy bản
tính của chúng ta mới còn lại khi chấm dứt đời nầy mà thôi. Tình yêu
thương chẳng hề hư mất - nó sẽ còn lại. Bản tính của Cơ đốc nhân vượt qua
thời gian (ICo1Cr 13:8, 13).
11. (Chọn câu trả lời tốt nhất.) Lý do mà chúng ta sẽ không cần đến tiếng
mới, lời tiên tri, và tri thức hạn hẹp trong vương quốc đời đời của Đấng
Christ ấy là
a) khi chúng ta ở trong sự hiện diện của Ngài, chúng ta sẽ không còn cần đến
những sự khải thị không hoàn thiện nầy nữa, bởi vì chúng ta sẽ thấy Ngài và
biết Ngài như vốn có thật vậy.
b) chúng ta sẽ không cần sự liên lạc trong vương quốc của Ngài.
c) khi chúng ta đồng cai trị với Ngài, chúng ta sẽ không cần đến quyền năng
của Đức Thánh Linh hành động trong chúng ta nữa.
Đem Đến Sự Trưởng Thành
Như chúng ta đã thấy trong những bài học trước, Đức Thánh Linh là Đấng
đem đến cho chúng ta sự sống mới cùng với sự tái sinh. Và rồi khi chúng ta
được nuôi dưỡng bởi Lời của Đức Chúa Trời dưới sự chăn giữ của Đức
Thánh Linh, chúng ta lớn lên bằng học hỏi và kinh nghiệm.
Tất cả chúng ta đều là con cái của Đức Chúa Trời trong những giai đoạn
trưởng thành thuộc linh khác nhau một khi đã kinh nghiệm được sự tái sinh.
Tuy nhiên, chiều dài thời gian mà mỗi chúng ta là một Cơ đốc nhân ảnh
hưởng rất ít đến tình trạng trưởng thành thuộc linh của chúng ta.
Đức Thánh Linh chỉ có thể sinh ra trái bản tính của Cơ đốc nhân trong đời
sống chúng ta khi chúng ta cộng tác với Ngài. Một số Cơ đốc nhân đầy dẫy
Đức Thánh Linh đã phải mất nhiều năm chỉ để học được rất ít. Tiếng mới,
lời tiên tri là những điều ích lợi, và chúng là những ân tứ tuyệt vời của Đức
Thánh Linh, nhưng sự hiện diện của chúng trong đời sống của chúng ta
không phải lúc nào cũng là một sự bày tỏ sự trưởng thành thuộc linh của
chúng ta. Mức độ trưởng thành trong Đức Chúa Trời, như chúng ta đã thấy,
phụ thuộc vào mức độ chúng ta để Đức Thánh Linh sinh ra những đặc tính
của Chúa Giê-xu trong đời sống của chúng ta.
12. Đọc GiGa 15:1-5. Đây là những lời của Chúa Giê-xu. Ngài cho chúng ta
kết quả trong điều kiện gì?
.......................................................................................................
Ở trong Đấng Christ liên quan đến sự hiệp một với Ngài (c.1,2) tỉa-sửa (kỷ
luật) bởi Đức Chúa Cha (c.2) và kết quả (c.5). Đây là những điều kiện của sự
kết quả.
13. Trong IIPhi 2Pr 1:5-8 chúng ta tìm thấy tiến trình cho việc sinh ra trái
Thánh Linh. Hãy hoàn chỉnh biểu đồ sau bằng cách liệt kê những bước tiến
mà Phierơ khuyên giục chúng ta tuân theo trong sự phát triển sự trưởng
thành của Cơ đốc nhân. Hãy chú ý đến nơi mà tất cả chấm dứt.
Phierơ tiếp tục nói rằng: “Vì nếu các điều đó có đủ trong anh em và đầy dẫy
nữa, thì ắt chẳng để cho anh em ở dưng hoặc không kết quả trong sự nhận
biết Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta đâu. Nhưng ai thiếu những điều đó,
thì thành ra người cận thị, người mù; quên hẳn sự làm sạch tội mình ngày
trước” (1:8-9).
Đem Đến Sự Đầy Trọn
Cuối cùng khi chúng ta đứng trước Chúa Giê-xu, khuôn mẫu của chúng ta,
chúng ta sẽ biết một Cơ đốc nhân trưởng thành trọn vẹn là như thế nào. Sứ
đồ Phao-lô nói rằng: “Ngày nay chúng ta xem như trong một cái gương cách
mập mờ; đến bấy giờ chúng ta sẽ thấy hai mặt đối nhau” (ICo1Cr 13:12).
Hiện nay, đức tin và sự hy vọng giúp đỡ chúng ta hăng hái trên bước đường
thuộc linh, nhưng đây không phải là điều dành cho cõi đời đời. Cả hai đều sẽ
trở nên rỏ ràng khi chúng ta đối mặt cùng Chúa chúng ta.
Cách duy nhất để kinh nghiệm được sự đầy trọn của phần thưởng của chúng
ta là sinh ra trái Thánh Linh trong đời sống chúng ta. Phierơ nhắc nhở chúng
ta rằng: “Làm điều đó anh em sẽ không hề vấp ngã; dường ấy, anh em sẽ
được cho vào cách rộng rãi trong nước đời đời của Đức Chúa Giê-xu Christ
là Chúa và Cứu Chúa của chúng ta” (IIPhi 2Pr 1:10-11).
14. Hãy cho biết ba phần thưởng của sự kết quả, và trưng dẫn những câu
Kinh thánh làm hậu thuẩn cho mỗi phần thưởng.
...........................................................................................................................
...................................................................................
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Khoanh tròn các mẫu tự trước những câu trả lời tốt
nhất cho mỗi câu hỏi.
1. Thuật ngữ trái Thánh Linh nói về
a) những ân tứ thuộc linh.
b) lời tiên tri và sự hy sinh.
c) Sự giống ảnh tượng Đấng Christ.
2. Các đặc tính của trái Thánh Linh được phát triển trong tín hữu bởi
a) Đức Thánh Linh.
b) sự học hỏi và kinh nghiệm.
c) những cố gắng của tín hữu để trở nên giống Chúa Giê-xu.
3. Phần của tín hữu trong việc phát triển bản tính của Cơ đốc nhân là
a) cố gắng bắt chước Đấng Christ.
b) sống theo luật pháp.
c) để Đức Thánh Linh phát triển trái Thánh Linh trong họ.
4. Trái Thánh Linh, hay bản tính của Cơ đốc nhân, có thể được tóm gọn
trong từ ngữ
a) agape (tình yêu thương).
b) phục vụ.
c) đức tin.
d) làm chứng.
5. Trong những điều sau, điều nào quan trọng nhất đối với Cơ đốc nhân?
a) Điều tôi nói.
b) Tôi là người như thế nào.
c) Điều tôi làm.
d) Điều tôi cảm nhận.
6. Tôi có thể có tất cả các ân tứ thuộc linh mà vẫn không có gì trừ khi tôi
cũng có
a) quyền năng.
b) tiếng mới.
c) sự khải thị từ Đức Chúa Trời.
d) tình yêu thương.
7. Trong vương quốc của Đức Chúa Trời, vị trí của những người đồng cai trị
với Đấng Christ sẽ dựa trên
a) hành động trong quá khứ của họ.
b) những ước muốn của họ.
c) sự giống ảnh tượng Đấng Christ của họ.
d) kinh nghiệm thờ phượng của họ.
8. Tiết độ là tình yêu trong
a) hành động.
b) kỷ luật.
c) sự cám dỗ.
d) xã hội.
9. Điều duy nhất sẽ còn lại trong cõi đời đời là
a) hy vọng.
b) lời tiên tri.
c) đức tin.
d) bản tính của Cơ đốc nhân.
10. Tiến trình của việc sinh ra trái Thánh Linh được chép trong IIPhi 2Pr
1:5-8 bắt đầu và kết thúc bằng hai từ ngữ
a) Đức tin - tiết độ.
b) Nhơn đức - tin kính.
c) Đức tin - tình yêu thương.
d) Tình yêu thương - nhịn nhục.
Trả Lời Những Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. b) Điều đó có nghĩa là bạn bày tỏ tình yêu của Đấng Christ trong mọi lúc,
và người khác sẽ được kéo đến với Đấng Christ bởi bạn là người như thế
nào cũng như bạn nói điều gì.
2. a. là, làm.
b. giống như Ngài.
c. trái, bản tính của Cơ đốc nhân
3. Tình yêu thương, hoặc bản tính của Cơ đốc nhân.
4. Khi điều đó được thực hiện bởi tình yêu của Đấng Christ ban cho chúng
ta.
5. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ nói rằng ông muốn chúng ta bày tỏ tình yêu
như Đấng Christ bày tỏ vì chỉ có tình yêu mới còn lại trong cõi đời đời. Ông
dùng sự tự hy sinh như là một hành động cao cả nhất mà một người có thể
làm, để cho thấy rằng chúng ta là người như thế nào là điều quan trọng hơn.
6. a. Đúng.
b. Sai.
c Đúng.
d Sai.
e Đúng.
f Đúng.
g Sai.
h Đúng.
7. Yêu thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín,
mềm mại, tiết độ
8. Bạn sẽ khoanh tròn tất cả các mẫu tự trừ b), f), j), k), và n).
9. Tôi sẽ sắp xếp như thế nầy:
a 3) Bình an.
b 8) Mềm mại.
c 9) Tiết độ.
d 4) Nhịn nhục.
e 7) Trung tín.
f 1) Yêu thương.
g 9) Tiết độ.
h 6) Hiền lành.
I 5) Nhơn từ.
j 2) Vui mừng.
k 6) Hiền lành.
l 4) Nhịn nhục.
10. Câu trả lời của bạn.
11. a) Khi chúng ta ở trong sự hiện diện của Ngài, chúng ta sẽ không còn
cần đến những sự mặc khải không hoàn thiện nầy nữa.
12. Để kết quả, bạn phải ở trong Ngài.

14. Trái Thánh Linh, hay tình yêu thương, là điều vượt qua thời gian :
ICo1Cr 13:8, 13. Trái Thánh Linh đem đến sự trưởng thành thuộc linh , hoặc
giống với ảnh tượng Đấng Christ: IIPhi 2Pr 1:8. Trái Thánh Linh cũng đem
đến sự đầy trọn : 1:10-11.

Thư Mục
Bikersteth, Edward Henry. Đức Thánh Linh: Thân vị và Công tác của Ngài .
Nhà xuất bản Kregel, Grand Rapids, Michigan, 1973.
Biederwolf, William E. Hướng dẫn Nghiên cứu về Đức Thánh Linh . Nhà
xuất bản Baker Book, Grand Rapids, Michigan, 1974.
Gee, Donald. Liên hệ Những Ân tứ Thuộc linh . Nhà xuất bản Tin lành,
Springfield, Missouri, 1947.
Horton, Stanley M. Kinh Thánh nói gì về Đức Thánh Linh . Nhà xuất bản
Tin lành, Springfield, Missouri, 1976.
Horton, Stanley M. Đức Thánh Linh: Hướng dẫn Nghiên cứu . Viện Thư Tín
Quốc Tế, Brussels, Belgium, 1979.
Thiessen, Henry C. Những Bài Giảng theo Thần Học Hệ Thống . Hiệu đính
bởi Vernon D. Doerksen. Công ty Phát hành Sách William B. Eerdmans,
Grand Rapids, Michigan, 1979.

Chú Giải Từ
- A-ba: Từ ngữ Aramaic Cha
- An ủi (Paraclete): Liên hệ đến Đức Thánh Linh là Đấng An-ủi.
- Ăn năn: Tỏ ra đau buồn vì tội lỗi và ước muốn thay đổi
- Ăn năn, sự: Hành động hay tiến trình thay đổi tâm trí của một người; hối
cải và từ bỏ tội lỗi
- Ấn chứng: Một điều gì đó dùng để chứng thực hoặc bảo đảm.
- Ba Ngôi: Ba Ngôi vị của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con
và Đức Thánh Linh.
- Ban cho, sự: Sự cung cấp, sự quan phòng.
- Ban quyền: Cho quyền hạn để hành động, thay cho ai, hoặc làm thế cho ai.
- Ban quyền năng: Ban quyền năng cho, làm cho có thể.
- Ban tứ: Ân tứ hay một sự ban cho
- Bảo tồn: Gìn giữ, bảo vệ, hổ trợ.
- Bền lòng: Vững vàng trong điều bạn tin; vững chí khi đối diện với nghịch
cảnh.
- Biến đổi: hoàn toàn thay đổi
- Biểu hiện: Làm cho rõ ràng bằng cách bày tỏ ra.
- Biểu hiện, sự: Sự làm cho rõ ràng bằng cách bày tỏ ra.
- Bốc đồng: hành động thiếu suy nghĩ cách chính chắn
- Cảm xúc: Có thể biểu lộ tình cảm
- Cáo trách, sự: Một biểu hiện của sự bị cáo trách về tội lỗi.
- Cầu thay: Hành động giữa hai bên để đem đến sự hòa giải; cầu nguyện cho
ai.
- Chỉ định, sự: Hành động của sự xác định ai, điều gì.
- Chiến đấu: Tranh đấu cho; chống lại.
- Chịu đựng: Khả năng để đứng vững; khả năng vượt khó.
- Chống đối: Chống nghịch; ngược với.
- Có thể nhận lãnh: Có khả năng hoặc có khuynh hướng để nhận lãnh.
- Cơ nghiệp: Điều gì đó được nhận bởi quyền thừa kế.
- Cố vấn: Người đưa ra lời khuyên hay sự giúp đỡ.
- Công bình, sự: Công nghĩa; một điều gì đó theo lẽ phải.
- Cư ngụ: Hiện diện trong
- Cứu chuộc, sự: Hành động giải phóng khỏi tội lỗi hoặc nợ nần; hành động
của sự giành lại được.
- Đặc tính: Phẩm chất hoặc tính cách.
- Đầy trọn, sự: Sự đầy đủ; khả năng đáp ứng mọi nhu cầu.
- Điều mâu thuẩn: Hành động của một người mà nó ngược lại với các hành
động khác của người đó.
- Đổ đầy: Một sự đầy dẫy ở trong.
- Động cơ: Một động lực như là một nhu cầu hay một mong ước khiến cho
một người hành động.
- Đức Chúa Trời Tam Nhất: ba-trong-một; liên quan đến Ba Ngôi
- Được gây dựng: Được dạy dỗ hoặc được xây dựng về phần thuộc linh
- Gây dựng: Làm cho mạnh mẽ; dạy dỗ hoặc xây dựng về mặt thuộc linh.
- Gây dựng, sự: Sự làm cho mạnh mẽ; sự dạy dỗ hoặc sự xây dựng về mặt
thuộc linh.
- Giáng xuống: Hành động di chuyển từ nơi cao hơn xuống nơi thấp hơn.
- Hạn chế: Có một bản tánh hay một sự hiện hữu hạn hẹp.
- Hệ mặt trời: Mặt trời và các thiên thể xoay quanh và được giữ bởi hấp lực
của nó.
- Hiện hữu từ trước vô cùng, sự: Nói về sự có trước buổi sáng thế
- Hoàn mỹ: Không có lỗi lầm hay thiếu xót.
- Hư mất: Chết
- Hướng về: Nghiên về một tình huống nào đó.
- Kẻ dự phần: Người dự phần trong một điều gì đó.
- Kẻ kế tự Người được trao quyền để nhận tài sản từ người khác.
- Khải thị, sự: Sự làm cho một điều gì đó được biết đến mà trước đây không
được biết.
- Kinh sách: Những sách được chấp nhận là Kinh thánh.
- Kính sợ: Một sự sợ hãi phát xuất từ sự tôn kính sâu xa.
- Làm buồn: Làm cho ai buồn rầu
- Làm cho kính sợ, sự: Khả năng phát xuất sự tôn kính và sợ hãi.
- Làm cho trọn vẹn: Làm cho trở nên trọn vẹn.
- Làm hại: Làm cho hư hại.
- Làm ô uế: Trở nên dơ bẩn, bất khiết bởi tiếp xúc hoặc kết hiệp với.
- Lời chúc phước: Một lời chúc phước ngắn bao gồm cả lời cầu nguyện.
- Lời phát biểu: Điều gì đó được nói ra.
- Lời tiên tri: Lời phát biểu được linh dẫn.
- Lỗi lầm cố ý: Sự vi phạm có chủ ý.
- Minh chứng: Đồng ý với; xác nhận cho
- Mở trí: Dạy dỗ; soi sáng; ban kiến thức cho; làm rõ.
- Nhà thiên văn học: Người chuyên về nghiên cứu các thiên thể.
- Nhạy bén: Có khả năng cảm nhận đặc biệt.
- Nhận biết: Nhận ra sự khác nhau.
- Ngoạn mục: Cảnh tượng đẹp mắt hoặc kỳ lạ
- Ngũ kinh: năm sách đầu của Cựu ước
- Người cầu thay: Người cầu nguyện, nài xin cho người khác.
- Người diễn giải: Người giải thích ý nghĩa của điều gì.
- Người hòa giải: Người đứng giữa hai bên để đem đến sự hòa thuận.
- Người nhận lãnh: Người nhận điều gì
- Người quản trị: Người thi hành những công tác lãnh đạo.
- Nói tiên tri: Nói dưới sự soi dẫn thiên thượng.
- Nuôi nấng: Nuôi dưỡng; chăm sóc; dạy dỗ.
- Phạm thượng: Hành đông phỉ báng hoặc thiếu sự tôn kính Đức Chúa Trời.
- Phân biệt: Phân chia hay nhận biết giữa
- Phân biệt, sự: Khả năng nhận biết giữa; một sự hiểu biết sâu sắc
- Phù hợp: Đem đến sự hài hòa hoặc sự tương ứng.
- Quá tự quyền: Vượt quá giới hạn cho phép; vượt quá quyền hạn.
- Quản trị: thuộc về hoặc liên quan đến sự thi hành những công tác lãnh đạo
- Quyền tể trị: Sở hữu quyền lực cao nhất.
- Siêu nhiên: Vượt quá sự tự nhiên hoặc bình thường; thuộc về hay liên quan
đến Đức Chúa Trời.
- Soi dẫn: Quyền năng thần thượng của Đức Thánh Linh trên sự khôn ngoan
hoặc cảm xúc của một người để bày tỏ tâm trí của Đức Chúa Trời.
- Soi dẫn, sự: Công tác của Đức Chúa Trời để bày tỏ tâm trí của Đức Chúa
Trời trên sự khôn ngoan hay cảm xúc của một người.
- Soi sáng, sự: Sự làm cho rỏ ràng.
- Tái sanh, sự: Tiến trình được đổi mới hoặc được sanh lại.
- Tán tụng, sự: Hành động của sự dâng cao trong sự ca ngợi và sự tôn thờ.
- Tập trung, sự: Nhấn mạnh; đặt trọng tâm hoặc sự chú ý trên.
- Thanh tẩy: Xóa đi; tẩy sách.
- Thành quả: Điều đạt được, hoàn thành
- Thân mật: Rất gần gũi; rất thân thiết.
- Thánh hóa: Làm cho thánh khiết; biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời.
- Thánh hóa, sự: Thánh khiết; tình trạng được biệt riêng ra cho Đức Chúa
Trời.
- Thánh khiết, sự: Phẩm chất thanh sạch; không có tội lỗi.
- Thiên thể: thuộc về, hoặc liên quan đến những vật thể trên trời.
- Thiên văn học: Khoa học về các thiên thể (như mặt trời, mặt trăng, các
ngôi sao ...)
- Thiêng liêng: Thánh khiết; thuộc về thần thánh
- Thuộc Lễ ngũ tuần: liên quan đến kinh nghiệm của lễ báp têm trong Đức
Thánh Linh; một người đã có kinh nghiệm nầy.
- Thuộc tính: Phẩm chất hay thuộc tính của một người hay một vật.
- Thử thách: Trãi qua hoặc kinh nghiệm một sự khó khăn.
- Thực vật: Loài cây cỏ.
- Thượng Đế: Hữu thể tối cao; Đức Chúa Trời.
- Tiếp nhận: Hành động tiếp nhận hay tiếp đón
- Tôn kính: Tôn quí hoặc tôn trọng
- Tôn vinh: Dâng sự ca ngợi, tôn quí.
- Trung tính: Không thuộc về giống đực hay giống cái.
- Trưởng lão: Người có uy quyền bởi tuổi tác hoặc đức hạnh.
- Tuận đạo: Chịu chết vì niềm tin tôn giáo
- Tự ý: Không theo ảnh hưởng, kế hoạch; tự động.
- Ứng nghiệm: Hoàn thành
- Vâng phục: Vâng theo những người khác
- Vâng phục, sự: Dâng hiến chính mình cách trọn vẹn.
- Vi phạm, sự: tội lỗi, sự quá phạm.
- Vô sở bất năng: Có quyền năng vô biên.
- Vô sở bất tại: Hiện diện khắp mọi nơi.
- Vô sơ bất tri: Biết hết mọi điều.
- Vũ trụ: Các từng trời và trái đất và tất cả mọi vật chứa trong đó.
- Xác nhận, sự: Sự bày tỏ sự chấp thuận cách mạnh mẽ, đồng ý.
- Xức dầu: Làm cho có thể; ban quyền năng vì một mục đích đặc biệt.
- Xức dầu, sự: Trong Cựu ước, sự đổ dầu trên đầu để chỉ định một người cho
mục đích đặc biệt; trong Tân ước, Đức Thánh Linh giáng trên một người để
ban quyềng năng vì một mục đích đặc biệt.
- Xướng ngôn viên: Người nói đại diện cho người khác

Trả Lời Những Bài Tự Trắc Nghiệm


Bài 1
1. Sai.
2. Đúng.
3. Đúng.
4. Đúng.
5. Sai.
6. Đúng.
7. Sai.
8. Sai.
9. Đúng.
10. Đúng.
11. Những nan đề.
12. Những ước muốn.
13. Kinh nghiệm.
14. Mối tương giao.
15. Sự trưởng thành.
16. Trọn vẹn.
17. Khả năng cảm xúc, hiểu biết, và chọn lựa.
18. Bởi vì Ngài là một Thân vị, nên Ngài có thể yêu thương tôi, và tôi có thể
đáp lại tình yêu của Ngài. Ngài cũng có thể yêu thương những người khác
qua tôi.
19. Một trong những điều nầy: Ngài có thể bị nói dối, bị chống đối, bị khinh
lờn, bị nói phạm thượng, và bị chống nghịch.
Bài 2
1. Sai.
2. Đúng
3. Đúng.
4. Sai.
5. Sai.
6. Đúng.
7. Đúng.
8. Sai.
9. Đúng.
10. Đúng.
11. Sai.
12. Đúng.
13. Bạn nên khoanh tròn tất cả các mẫu tự trừ b), d) và j).
14. Bằng sự kết hiệp của Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh
Linh.
15. Bởi vì Ngài có các thuộc tính của Ba Ngôi, nên Ngài ban cho tôi sự sống
thuộc linh, quyền năng, sự thánh khiết và sự tương giao.
Bài 3
1. c) Đấng Tạo Hóa.
2. d) Đấng ở bên cạnh để giúp đỡ.
3. b) Sự tái tạo.
4. a) Sự tái sanh.
5. c) Sa-tan.
6. a) Ngài luật chúng ta.
7. d) Sự trọn vẹn.
8. c) Đấng Cầu Thay.
9. 1) Đấng Hướng Dẫn của chúng ta.
10. Hai trong số nầy: Nhắc cho chúng ta những điều thuộc về Đấng Christ,
làm chứng về Đấng Christ, dẫn chúng ta và mọi lẽ thật, tôn vinh Đấng
Christ, ban cho chúng ta sự hiểu biết về những việc trong tương lai trong
chương trình của Đức Chúa Trời.
11. Chúa Giê-xu, Đức Thánh Linh, tín hữu.
Bài 4
1. b) rất ít về sự dự phần của mỗi Ngôi Vị, nhưng nhấn mạnh trên cả Ba
Ngôi của một Đức Chúa Trời đời đời và rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa của
muôn vật.
2. c) Nhu cầu cần được cứu của con người.
3. a) từ trước buổi sánh thế.
4. b) Sự thực hữu từ trước vô cùng của Ba Ngôi liên quan đến buổi sáng thế.
5. a) Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.
6. c) vận hành trong quyền năng để thực hiện những mệnh lệnh thần thượng.
7. c) Ban sanh khí khiến cho con người trở thành một loài sanh linh.
8. a) bảo tồn mọi vật đã được tạo dựng.
9. b) bày tỏ sự vinh hiển của Ngài và nhận sự vinh hiển.
10. b) Thờ phượng và vâng phục Ngài.
11. b) Đức Chúa Trời dựng nên con người từ bụi đất.
12. b) Con người chưa sẵn sàng để tiếp nhận sự khải thị về một Đức Chúa
Trời Ba Ngôi.
Bài 5
1. c) làm theo những gì chúng ta đã nghe.
2. b) bị thay đổi trong khi được truyền lại.
3. d) không sai trật.
4. b) sự khải thị.
5. a) Kinh thánh trong mức độ đầy trọn nhất là được Đức Thánh Linh soi
dẫn.
6. c) hiểu được ý nghĩa của Kinh thánh.
7. a) sự hiệp nhất của Kinh thánh.
8. c) sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh.
9. c) Ngày nay vẫn còn hành động và Kinh thánh nói rằng Kinh thánh sẽ làm
việc trong đời sống của con người.
10. b) Phép báp têm của Ngài.

Bài 6
1. a) Đây là công tác của Đức Thánh Linh...
2. b) Mặc dù Đức Thánh Linh là Dấng cáo trách tội nhân ...
3. b) Sự ăn năn liên quan đến một sự thay đổi ...
4. b) Tôi sẽ không còn sống theo bản tánh tội lỗi nữa ...
5. a) Khi Đức Thánh Linh cư ngụ trong tôi, tôi nhận được rất nhiều lợi ích ...
6. a) Khi tôi thuận phục sự kiểm soát của Đức Thánh Linh, Ngài khiến tôi có
thể phân rẽ khỏi tội lỗi và biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời.
7. b) Khi Đức Thánh Linh ban cho tôi sự tái sinh ...
Bài 7
1. Sai.
2. Đúng.
3. Đúng.
4. Sai.
5. Đúng.
6. Sai.
7. Đúng.
8. Sai.
9. Đúng.
10. Đúng.
11. Sai.
12. Đúng.
Bài 8
1. d) Đức Thánh Linh.
2. a) Sự khiếp sợ.
3. b) Tôn kính Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài.
4. b) điều đó khiến chúng ta đến gần Đức Chúa Trời trong sự kính sợ Ngài
bởi vì chúng ta nhận biết sự thánh khiết của Ngài.
5. c) tôn vinh Đức Chúa Trời.
6. a) sự hầu việc.
7. a) mọi điều chúng ta làm có thể là một phương tiện của sự thờ phượng
thuộc linh.
8. Đúng.
9. Đúng.
10. Sai.
11. Đúng.
12. Sai.
13. Đúng.
14. Đúng.
15. Đúng.
16. Đúng.
17. Sai.
18. Sai.
19. Đúng.
20. Đúng.
Bài 9
1. a. 7) Phân biệt các thần.
b. 4) Đức tin.
c. 8) Lời tri thức.
d. 1) Tiếng mới.
e. 6) Phép lạ.
f. 2) Thông giải tiếng mới.
g. 5) Chữa bịnh.
h. 3) Tiên tri.
I. 9) Lời khôn ngoan.
2. Những ân tứ thuộc lời nói, những ân tứ thuộc quyền năng, và những ân tứ
thuộc sự khải thị.
3. Gây dựng Hội thánh, tôn vinh Đấng Christ.
4. Bất cứ tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh nào. ( Tuy nhiên những ân tứ nầy
được ban cho tùy theo ý muốn của Đức Thánh Linh. Chúng ta được khích lệ
hãy ao ước những ân tứ thuộc linh. Điều nầy gợi ý rằng những ai hết lòng ao
ước những ân tứ thuộc linh là những người được Đức Thánh Linh chọn lựa.)
Bài 10
1. c) Sự giống ảnh tượng của Đấng Christ.
2. a) Đức Thánh Linh.
3. c) để Đức Thánh Linh phát triển những trái Thánh Linh trong mình.
4. a) agape (tình yêu thương).
5. b) Tôi là người như thế nào.
6. d) tình yêu thương.
7. c) Sự giống ảnh tượng của Đấng Christ.
8. b) kỷ luật.
9. d) bản tính của Cơ đốc nhân.
10. c) Đức tin - tình yêu thương.

You might also like