You are on page 1of 242

DẪN NHẬP KINH THÁNH - 1

Dẫn nhập Sáng Thế ký


Các niên đại
Công cuộc sáng tạo
Thời của Nô-ê không được cho biết
Áp-ra-ham ra đời khoảng 2166 -2000 TC
Áp-ra-ham vào xứ Ca-na-an khoảng 2091-1925 TC
Y-sác ra đời khoảng 2066-1900 TC
Gia-cốp và Ê-sau ra đời khoảng 2006-1840 TC
Gia-cốp trốn đến Cha-ran, khoảng 1929-1764 TC
Giô-sép ra đời, khoảng 1915-1750 TC
Giô-sép bị bán sang Ai-cập khoảng 1898-1733TC
Giô-sép qua đời, khoảng 2805-1640 TC
Lời giới thiệu
Ban đầu... bắt đầu... khởi đầu... mở đầu. Trong mấy từ ngữ này, có một điều
gì đó thật tươi mới, lạc quan, cho dù chúng chỉ một buổi bình minh của một
ngày mới, sự ra đời của một đứa trẻ, khúc dạo đầu của một bản nhạc giao
hưởng, hay những dặm đường đầu tiên trong một chuyến đi nghỉ hè của gia
đình. Được tự do đối với mọi vấn đề với đầy đủ hứa hẹn những điểm bắt đầu
khơi dậy hi vọng và nhiều khải tượng của trí tưởng tượng đối với tương lai.
Sáng thế ký có nghĩa là quyển sách viết về “buổi ban đầu” hay “nguồn gốc”
và nó hàm chứa phần ký thuật về buổi ban đầu của thế giới này, của lịch sử
loài người, của gia đình, của văn minh, của sự cứu rỗi. Nó là câu chuyện kể
lại chủ đích và kế hoạch của Đức Chúa Trời cho công trình sáng tạo của
Ngài. Là quyển sách của những khởi điểm, Sáng thế ký định đoạt các giai
đoạn cho toàn bộ Thánh Kinh. Nó trình bày thân vị và bản tính của Đức
Chúa Trời (Đấng Tạo Hoá, Đâng Bảo Trì, Đấng Phán xét, Đấng Cứu Chuộc
giá trị và phẩm giá của con người (được sáng tạo theo hình tượng của Đức
Chúa Trời, được cứu rỗi bởi ân điển Ngài, được Đức Chúa Trời sử dụng
trong thế gian này) tấn thảm kịch và các hậu quả của tội lỗi (sự sa ngã, cách
biệt với Đức Chúa Trời sự phán xét) và lời hứa, bảo đảm cho sự cứu rỗi (lời
giao ước, sự tha tội, Đấng Mê-si-a của lời hứa).
Khởi điểm của Sáng thế ký là Đức Chúa Trời. Chúng ta thình lình nhìn thấy
Ngài sáng tạo thế gian này bằng cách phô bày ra quyền năng và chủ đích uy
nghiêm của mình, mà tuyệt đỉnh là một người nam và một người nữ giống
như chính Ngài vậy (1:26,27). Nhưng chẳng bao lâu, tội lỗi đã vào trong thế
gian, và Sa-tan đã xuất hiện, chẳng cần chi phải đeo mặt nạ. Vốn được tắm
mình trong sự ngây thơ vô tội, công trình sáng tạo đã bị sự sa ngã (sự cố ý
không vâng lời của A-đam và Ê-va) đánh tan. Sự thông công với Đức Chúa
Trời bị gián đoạn, và điều ác bắt đầu dệt mạng lưới phá hoại của nó. Tiếp
theo đó, chúng ta đọc thấy thế nào A-đam và Ê-va đã nhanh chóng bị đuổi ra
khỏi cảnh vườn đẹp đẽ, trưởng nam của họ trở thành kẻ sát nhân, và gian ác
cứ chồng thêm gian ác, cho đến cuối cùng, Đức Chúa Trời đã tuyệt diệt toàn
thể mọi người khỏi mặt đất, ngoại trừ một gia đình nhỏ do Nô-ê, con người
duy nhất biết kính sợ Đức Chúa Trời, cầm đầu.
Khi đến với Áp-ra-ham trong các đồng bằng xứ Ca-na-an, chúng ta thấy Đức
Chúa Trời bắt đầu lập giao ước với dân Ngài và nét phác hoạ đại cương của
kế hoạch cứu rỗi của Ngài được cứu rỗi là nhờ có đức tin. Các hậu duệ của
Áp-ra-ham sẽ là dân sự của Đức Chúa Trời, và Cứu Chúa của thế gian này
sẽ từ tuyển dân ấy mà ra đời. Các truyện tích của Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép
nối tiếp nhau vốn có nhiều ý nghĩa hơn là những tiểu sử lý thú. Chúng nhấn
mạnh các lời hứa của Đức Chúa Trời và là chứng cứ cho việc Ngài vốn
thành tín. Những người chúng ta gặp trong Sáng thế ký là những con người
chất phác, bình thường, nhưng qua họ, Đức Chúa Trời đã làm nhiều việc lớn
lao. Đó là những bức tranh sinh động về cách Đức Chúa Trời có thể và đã
thật sự dùng đủ hạng người để thực hiện các chủ đích tốt lành của Ngài...
thậm chí cho những người như bạn và tôi.
Hãy đọc Sáng thế ký để được khích lệ. Có hi vọng cho chúng ta! Cho dù tình
hình thế giới có vẻ đen tối đến đâu. Đức Chúa Trời đã có một kế hoạch. Cho
dù bạn có cảm thấy mình có vẻ vô nghĩa hay vô dụng đến đâu, Đức Chúa
Trời vẫn yêu bạn và muốn sử dụng bạn cho kế hoạch của Ngài. Cho dù bạn
có tội lỗi và xa cách Đức Chúa Trời đến đâu, sự cứu rỗi của Ngài vẫn được
dành cho bạn hãy đọc Sáng thế ký, và ...hi vọng!
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để ghi lại công cuộc sáng tạo thế gian này của Đức Chúa Trời và
ước muốn biệt riêng ra một dân để thờ phượng Ngài.
Trước giả: Môi-se
Đọc giả: Cho dân Y-sơ-ra-ên
Niên đại viết sách: 1450-1410 TC
Bối cảnh: Tại khu vực hiện nay được biết là Trung Đông
Các câu chìa khoá: SaSt 1:27; 12:2,3
Các nhân vật chính: A-đam, E-va, Nô-ê, Áp-ra-ham, Sa-ra, Y-sác, Rê-bê-ca,
Gia-cốp, Giô-sép.
Bố cục:
A. Truyện tích về công trình sáng tạo (1:1-2:3)
Đức Chúa Trời đã dựng nên trời, biển và đất. Ngài sáng tạo ra cây cỏ, các
loài thú, loài cá, loài chim. Nhưng Ngài đã dựng nên con người giống như
hình tượng mình. Lắm khi chúng ta bị người khác coi thường, khinh dể.
Nhưng chúng ta có thể tin chắc vào giá trị của mình, vì chúng ta vốn được
sáng tạo theo hình tượng của Đức Chúa Trời.
B. Truyện tích về A-đam (2:4-5:32)
1. A-đam và Ê-va
2. Ca-in và A-bên
3. Hậu duệ của A-đam
Lúc A-đam và Ê-va được Đức Chúa Trời tạo nên, hai ông bà vốn vô tội.
Nhưng hai vị đã trở thành tội nhân khi không vâng lời Đức Chúa Trời và ăn
trái cây đã bị cấm, tuy A-đam và Ê-va biết được năng lực tiêu diệt của tội lỗi
và các hậu quả cay đắng của nó.
C. Truyện tích về Nô-ê (6:1-11:32)
1. Nạn lụt
2. Việc tái phân phối nhân loại trên đất
3. Tháp Ba-bên
Nô-ê được chừa lại khỏi bị nạn lụt hủy diệt vì ông biết vâng lời Đức Chúa
Trời và đóng một chiếc tàu. Đức Chúa Trời đã bảo vệ Nô-ê và gia đình ông
thế nào, thì ngày nay Ngài cũng vẫn còn bảo vệ cho những người tận trung
với Ngài thể ấy.
D. Truyện tích về Áp-ra-ham (12:1-25:18)
1. Đức Chúa Trời hứa ban cho Áp-ra-ham một dân tộc
2. Áp-ra-ham và Lót
3. Đức Chúa Trời hứa ban cho Áp-ra-ham một con trai
4. Sô-đôm và Gô-mô-rơ
5. Y-sác ra đời và suýt bị dâng làm sinh tế
6. Y-sác và Rê-bê-ca
7. Áp-ra-ham qua đời
Áp-ra-ham được lệnh phải lìa quê hương đến xứ Ca-na-an, đi lưu lạc và chờ
đợi nhiều năm mới có được một con trai, để rời được lệnh phải dâng nó lên
làm của lễ thiêu. Sau những giai đoạn bị thử thách mãnh liệt đó, Áp-ra-ham
vẫn tận trung với Đức Chúa Trời. Gương tốt của ông dạy chúng ta về vấn đề
sống một cuộc đời bằng đức tin có nghĩa là gì.
E. Truyện tích về Y-sác (25:19-28:9)
1. Gia-cốp và Ê-sau
2. Y-sác và A-bi-mê-léc
3. Gia-cốp được Y-sác chúc phước cho.
Y-sác đã không sống theo ý riêng của mình. Ông đã không chống cự khi
suýt bị dâng lên làm sinh tế, và ông cũng vui vẻ chấp nhận người vợ mà
người khác đã chọn cho ông. Cũng như Y-sác, chúng ta phải học tập để biết
đặt ý chỉ của Đức Chúa Trời lên trên hết mọi sự.
F. Truyện tích về Gia-cốp (28:10-36:43)
1. Gia-cốp xây dựng gia đình
2. Gia-cốp hồi hương
Gia-cốp là người không dễ dàng bỏ cuộc. Ông đã phục vụ cho La-ban hơn
14 năm trời. Sau đó ông còn vật lộn với Đức Chúa Trời nữa. Tuy Gia-cốp
phạm nhiều sai lầm, việc lao động gian khổ của ông dạy chúng ta một bài
học về cách sống một cuộc đời để phục vụ Chúa.
H. Truyện tích về Giô-sép (37:1-50:26)
1. Giô-sép bị bán làm ô lệ
2. Giu-đa và Ta-ma
3. Giô-sép bị bỏ tù
4. Giô-sép được đặt làm người cai trị xứ Ai-cập
5. Giô-sép gặp lại các anh mình tại Ai-cập
6. Cả gia đình Giô-sép dời qua Ai-cập
7. Gia-cốp và Giô-sép qua đời tại Ai-cập
Giô-sép bị các anh mình bán sang Ai-cập để làm nô lệ, và bị chủ mình bỏ tù
một cách bất công. Qua cuộc đời Giô-sép, chúng ta học được rằng phải chịu
khổ - dù có bất công đến đâu - điều có thể làm phát triển cá tính để chúng ta
sẽ trở thành một người vững vàng, mạnh mẽ.
Các đại đề mục
Luận đề: Các khởi điểm
Phần giải thích: Sáng thế ký giải thích khởi điểm của nhiều thực tại quan
trọng: vũ trụ, địa cầu, con người, tội lỗi, và kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa
Trời.
Tầm quan trọng:
Sáng thế ký dạy rằng địa cầu đều được tạo dựng hoàn thiện và tốt lành. Loài
người là tạo vật đặc biệt và độc đáo cua Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sáng
tạo và nâng đỡ mọi sinh vật.
Luận đề: Không vâng lời
Phần giải thích: Người ta bao giờ cũng trực diện với nhiều quyết định quan
trọng. Người ta chọn cách sống không vâng lời Đức Chúa Trời khi kế hoạch
của Ngài không dễ dàng cho họ tuân thủ.
Tầm quan trọng: Sáng thế ký giải thích tại sao con người lại làm ác: chính
họ đã chọn để hành động sai lầm. Ngay đến các đại anh hùng của Thánh
Kinh cũng từng thất bại và không vâng lời Đức Chúa Trời.
Luận đề: Tội lỗi
Phần giải thích: Tội lỗi tàn hại đời sống người ta. Việc ấy xảy ra khi chúng
ta không vâng lời Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Sống theo đường lối của Đức Chúa Trời khiến đời sống
chúng ta có kết quả và mãn nguyện
Luận đề: Lời hứa
Phần giải thích: Đức Chúa Trời đưa ra nhiều lời hứa để giúp đỡ và bảo vệ
loài người. Loại lời hứa này được gọi là “giao ước”.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa của Ngài lúc ấy, và vẫn giữ
chúng hiện nay. Ngài hứa yêu chúng ta, tiếp nhận chúng ta, tha tội cho
chúng ta.
Luận đề: Vâng lời
Phần giải thích: Mặt trái của tội lỗi là vâng lời. Vâng lời Đức Chúa Trời thì
mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài được vãn hồi
Tầm quan trọng: Phương pháp duy nhất để được hưởng lợi ích của các lời
hứa của Đức Chúa Trời là vâng lời Ngài
Luận đề: Thịnh vượng
Phần giải thích: Được thịnh vượng có ý nghĩa sâu nhiệm hơn là chỉ được
giàu có về phương diện vật chất mà thôi. Sự thịnh vượng và thành công đích
thực sở dĩ có được là nhờ biết vâng lời Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Khi người ta vâng lời Đức Chúa Trời, họ được bình an với
Ngài, với tha nhân và với bản thân họ.
Luận đề: Dân Y-sơ-ra-ên
Phần giải thích: Đức Chúa Trời bắt đầu lịch sử dân Y-sơ-ra-ên để có một
dân biệt riêng là do Ngài để 1. giữ theo cách sống của Ngài trong thế gian
này; 2. truyền bá cho thế gian biết thật ra Ngài là ai và như thế nào, và 3.
chuẩn bị thế gian này cho sự ra đời của Chúa Cứu Thế.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời hiện đang trông mong có nhiều người noi
theo Ngài. Chúng ta phải truyền giảng chân lý của Đức Chúa Trời và yêu
thương tất cả các dân các nước, chứ không phải chỉ yêu đất nước dân tộc
mình mà thôi. Chúng ta phải trung tín thực hiện sứ mạng mà Đức Chúa Trời
đã giao cho mình.

Dẫn nhập Xuất Ê-díp-tô ký


Các niên đại:
Giô-sép qua đời 1805 TC (1640 TC)
Môi-se ra đời 1526 (1350 TC)
Xuất Ai-cập 1446 (1280)
Ban bố Mười Điều Răn 1445 (1279)
Dân Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an 1406 (1240)
Các quan xét bắt đầu cai trị 1375 (1220)
Lời giới thiệu:
Hãy chổi dậy... từ bỏ... chiếm lấy... là các từ ngữ phù hợp với những người
đã sa bẫy hay đang làm nô lệ. Tuy nhiên có một số người chống lại việc tiến
lên theo trật tự, vì thích môi trường sống hiện tại hơn là một môi trường
sống mới mẻ, chưa từng quen biết. Đổi cảnh sống an nhàn đầy đỷ tiện nghi
của một nơi mình đã quen biết để lấy một tương lai bấp bênh, thì không phải
là việc dễ làm. Nhưng nếu chính Đức Chúa Trời truyền lệnh phải di chuyển
thì sao? Chúng ta có sẵn sàng theo sự lãnh đạo của Ngài không? Xuất Ê-díp-
tô mô tả một loạt những tiếng gọi của Đức Chúa Trời và lời đáp lại của dân
sự Ngài.
Bốn trăm năm đã trôi qua kể từ khi Giô-sép đưa gia đình ông đến Ai-cập.
Các hậu duệ của Áp-ra-ham này, giờ đây đã gia tăng mạnh mẽ, lên đến trên
hai triệu. Với vị Pha-ra-ôn mới lên ngôi của Ai-cập, đám người Hy-bá-lai
ngoại tộc và dân số của họ thật là đáng sợ. Pha-ra-ôn đã quyết định biến họ
thành nô lệ để họ khỏi làm lệch cán cân quyền lực. Như sự việc đã xảy ra, vì
sau đó, Đức Chúa Trời đã đến để cứu vớt dân sự Ngài.
Qua một loạt các biến cố, một bé trai người Hy-bá-lai tên Môi-se đã trở
thành một hoàng tử trong cung điện của Pha-ra-ôn rồi đào thoát và đến cư
ngụ tại một vùng đất ngoài sa mạc. Đức Chúa Trời đã thăm viếng Môi-se
trong một bụi gai cháy một cách bí mật và sau khi tranh luận với Ngài, Môi-
se đã đồng ý quay trở lại Ai-cập để lãnh đạo dân sự Ngài thoát khỏi cảnh nô
lệ. Ông đã phải đối đầu với Pha-ra-ôn và qua một số các tai vạ và những lời
hứa bị bỏ qua, dân Y-sơ-ra-ên đã thoát được móng vuốt của vua ấy.
Di dời cả một khối người đông đảo như thế không phải là chuyện dễ dàng,
nhưng họ đã ra khỏi Ai-cập, vượt Hồng hải để vào sa mạc, phía sau Môi-se
với trụ mây và trụ lửa. Bất chấp nhiều chứng cứ liên tục của tình yêu và
quyền năng của Đức Chúa Trời, dân sự vẫn than phiền và bắt đầu tiếc rẽ
những ngày họ đã sống tại Ai-cập. Đức Chúa Trời đã cung cấp cả các nhu
cầu thuộc thể lẫn thuộc linh cho họ bằng lương thực và một nơi để thờ
phượng, nhưng Ngài cũng đã trừng phạt sự không vâng lời và vô tín của họ.
Rồi một cuộc gặp gỡ đầy kịch tính với Môi-se tại núi Si-na-i, Ngài đã ban bố
bộ luật về cách phải sống như thế nào cho phải lẽ, theo sự công chính của
Ngài.
Đức Chúa Trời đã lãnh đạo Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên, và Ngài cũng muốn
dẫn đường cho chúng ta nữa. Bạn có sẵn sàng như Môi-se, để nhận một
nhiệm vụ đặc thù không? Ngài sẽ ở với bạn; bạn hãy vâng lời và đi theo
Ngài. Ngài đã từng giải thoát bạn khỏi một kẻ thù hay một cám dỗ nào
chưa? Hãy tin cậy Ngài và làm theo điều Ngài truyền dạy. Bạn đã từng được
nghe những lời chỉ dạy đạo đức thật rõ ràng của Ngài chưa? Hãy đọc, nghiên
cứu và làm theo Lời Ngài. Ngài có đang kêu gọi bạn hãy đến để thờ phượng
Ngài cách đứng đắn, trung thực không? Hãy tìm cho kỳ được sự hiện diện
của Ngài trong đời sống, gia đình, và trong tổ chức của hội chúng các tín
hữu. Xuất Ê-díp-tô ký là một câu chuyện đầy phấn khích về sự hướng dẫn
của Đức Chúa Trời. Hãy đọc nó với quyết tâm đi theo Đức Chúa Trời bất cứ
nơi nào Ngài dẫn bạn đi.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Ghi lại các biến cố về việc dân Y-sơ-ra-ên được giải thoát khỏi
Ai-cập và phát triển thành một dân tộc.
Trước giả: Môi-se
Niên đại sách: 1450-1410 TC... gần như đồng thời với Sáng thế ký.
Địa điểm viết sách: Trong sa mạc, lúc dân Y-sơ-ra-ên đi lưu lạc, tại một nơi
nào đó của bán đảo Si-na-i.
Bối cảnh: Tại Ai-cập. Dân sự của Đức Chúa Trời từng được biệt đãi trong
xứ, giờ đây phải chịu cảnh nô lệ. Đức Chúa Trời sắp giải phóng họ.
Câu gốc: XuXh 3:7,10
Các nhân vật chính: Môi-se, Mi-ri-am, Pha-ra-ôn, Công chúa con gái Pha-ra-
ôn, Giê-trô, A-rôn, Giô-suê, Bết-sa-lê-ên.
Các địa danh chính: Ai-cập, Gô-sen, Sông Ni-lơ, Ma-đi-an, Biển Đỏ, Báo
đảo Si-na-i, núi Si-na-i.
Những nét đặc trưng: Xuất Ê-díp-tô ký ghi lại nhiều phép lạ hơn bất cứ một
sách nào khác của Cựu ước kinh và được coi trọng nhờ có Mười Điều Răn.
Bố cục:
A. Dân Y-sơ-ra-ên tại Ai-cập (1:1-12:30)
1. Ách nô lệ tại Ai-cập
2. Đức Chúa Trời chọn Môi-se
3. Đức Chúa Trời sai Môi-se đến với Pha-ra-ôn
4. Các tai vạ hành hại xứ Ai-cập
5. Lễ Vượt qua
Khi dân Y-sơ-ra-ên bị bắt làm nô lệ tại Ai-cập, Đức Chúa Trời đã nghe thấu
tiếng kêu rêu của họ và cứu vớt họ. Chúng ta có thể tin quyết rằng Đức Chúa
Trời vẫn còn nghe tiếng kêu than của dân (những người thuộc về) Ngài. Như
Ngài từng giải thoát dân Y-sơ-ra-ên khỏi những kẻ cầm tù họ thế nào, Ngài
cũng giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi, sự chết và điều xấu xa gian ác y như
thế.
B. Dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc (12:31-18:27)
1. Việc Xuất Ai-cập
2. Vượt biển
3. Lời than phiền trong sa mạc
Sau khi vượt Hồng hãi, dân Y-sơ-ra-ên trở thành những con người hay gây
gổ và bất mãn. Cũng như dân Y-sơ-ra-ên, chúng ta cảm thấy mình hay than
phiền và bất mãn. Các Cơ-đốc nhân vẫn còn phải chiến đấu, nhưng xin
chúng ta đừng bao giờ để cho khó khăn và những hoàn cảnh bất như ý khiến
mình quay đi mà không tin cậy Đức Chúa Trời nữa.
C.Dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-na-i (19:1-40:38)
1. Ban bố luật pháp
2. Những lời chỉ dạy về việc dựng Đền tạm
3. Vi phạm luật pháp
4. Xây dựng Đền tạm
Đức Chúa Trời mặc khải luật pháp của Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-
na-i. Thông qua luật pháp, họ được học biết nhiều hơn về Đức Chúa Trời là
Đấng như thế nào và Ngài trông mong dân (những người thuộc về) Ngài
phải sống như thế nào. Luật pháp vẫn còn có giá trị chỉ giáo cho chúng ta, vì
nó vạch trần tội lỗi chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy chuẩn mực cho đời
sống đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Các đại đề mục
Luận đề: Ách nô lệ
Lời giải thích: Dân Y-sơ-ra-ên đã làm nô lệ 400 năm. Pha-ra-ôn vua Ai-cập
áp bức họ thật tàn bạo. Họ kêu cầu Đức Chúa Trời, xin Ngài giải cứu họ.
Tầm quan trọng: Cũng như dân Y-sơ-ra-ên, chúng ta cần cả sự lãnh đạo của
loài người lẫn của Đức Chúa Trời để thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Sau khi
đào thoát, ký ức về ách nô lệ đã giúp dân Y-sơ-ra-ên biết cách đối xử hào
hiệp hơn với người khác. Chúng ta cần chống lại những kẻ áp bức người
khác.
Luận đề: Cứu vớt cứu chuộc
Lời giải thích: Đức Chúa Trời đã cứu vớt dân Y-sơ-ra-ên. Nhờ có lãnh tụ
Môi-se và các phép là do quyền năng Ngài. Lễ Vượt qua là một lễ kỷ niệm
hằng năm việc họ thoát được ách nô lệ.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời giải thích chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Chúa Cứu Thế Giê-xu đã kỷ niệm lễ Vượt qua với các môn đệ Ngài khi dự
Tiệc thánh (Bữa Tiệc Tối Cuối Cùng) rồi ra đi để cứu chúng ta khỏi tội lỗi
bằng cách chịu chết thay cho chúng ta.
Luận đề: Hướng dẫn
Lời giải thích: Đức Chúa Trời đã hướng dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập
bằng cách sử dụng các tai vạ, lòng dũng cảm của Môi-se, phép lạ tại Biển
đỏ, và Mười Điều Răn. Đức Chúa Trời là Đấng hướng dẫn đáng tin cậy.
Tầm quan trọng: Tuy Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng và có thể làm phép
lạ, bình thường Ngài vẫn lãnh đạo chúng ta bằng sự lãnh đạo khôn ngoan và
sự nỗ lực tập thể. Lời Ngài ban cho chúng ta sự khôn ngoan để đưa ra các
quyết định hằng ngày và cai trị hướng dẫn đời sống chúng ta.
Luận đề: Mười Điều Răn
Lời giải thích: Hệ thống luật pháp của Đức Chúa Trời gồm ba phần. Mười
Điều Răn là phần thứ nhất, với các lý tưởng tuyệt đối cho đời sống thuộc
linh và đạo đức. Luật dân sự là phần thứ hai, cho người ta biết các luật lệ để
điều khiển đời sống của họ. Luật lễ nghi là phần thứ ba, chỉ cho họ các kiểu
mẫu để dựng lên ngôi Đền Tạm và sự thờ phượng thường xuyên.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời đã dạy cho dân Y-sơ-ra-ên về tầm quan
trọng của sự chọn lựa và trách nhiệm. Khi họ tuân thủ các điều kiện của luật
pháp, Ngài ban phước ho họ; nếu họ quên hay không tuân thủ, thì Ngài
trừng phạt họ hoặc cho phép tai hoạ xảy đến. Nhiều quốc gia lớn trên thế
giới lấy hệ thống pháp luật đã được quy định trong Xuất Ê-díp-tô ký làm nền
tảng cho luật pháp của họ. Luật đạo đức của Đức Chúa Trời vẫn còn giá trị
cho ngày hôm nay.
Luận đề: Dân tộc
Lời giải thích: Đức Chúa Trời đã sáng lập dân Y-sơ-ra-ên để làm nguồn cho
chân lý và sự cứu rỗi cho cả thế gian. Mối liên hệ giữa Ngài với dân Ngài là
tình yêu nhưng cũng rất vững chắc, cương quyết. Dân Y-sơ-ra-ên không có
quân đội, trường học, quan cai trị, thị trưởng hay cảnh sát viên khi họ rời Ai-
cập. Đức Chúa Trời đã phải dạy cho họ các luật lệ về lập pháp và cách hành
xử hằng ngày. Ngài chỉ cho họ cách thờ phượng và phải làm thế nào vào các
ngày lễ của quốc gia dân tộc.
Tầm quan trọng: Quốc gia Y-sơ-ra-ên mới được thiết lập có đầy đủ các đặc
điểm về cách ăn ở cư xử như của các Cơ-đốc nhân ngày nay. Chúng ta
thường bị yếu kém về mặt tổ chức, có khi nổi loạn, cũng có lúc được thắng.
Bản thân Đức Chúa Trời và Lời Ngài vẫn còn là người hướng dẫn duy nhất
cho chúng ta. Nếu các Hội thánh của chúng ta phản ảnh được cho thiên hạ
thấy chúng ta vốn được Đức Chúa Trời lãnh đạo, chúng ta sẽ phục vụ Ngài
có kết quả.

Dẫn nhập Lê-vi-ký


Các niên đại:
Giô-sép qua đời 1805 TC (1640 TC)
Giai đoạn dân Y-sơ-ra-ên làm nô lệ tại Ai-cập.
Xuất Ai-cập 1446 (1280 TC)
Mười Điều Răn được ban bố 1445 (1279 TC)
Môi-se đóng trại tại Si-na-i 1444 (1278 TC)
Môi-se qua đời. Vào xứ Ca-na-an 1406 (1240 TC)
Các quan xét bắt đầu cai trị 1375 (1220 TC)
Vương quốc thống nhất dưới thời Sau-lơ 1050 (1045)
Lời giới thiệu:
“Đức Chúa Trời dường như ở quá xa...phải chi tôi được nhìn thấy hay nghe
Ngài...” Có bao giờ bạn cảm thấy như thế khi phải chiến đấu với nỗi cô đơn,
bị chán nản thất vọng đè nặng, bị tội lỗi sàng sảy, bị các vấn đề hãm áp, hay
không? Đươc tạo dựng theo hình tượng của Đức Chúa Trời, sở dĩ chúng ta
được Ngài tạo ra là để liên hệ mật thiết với Ngài; cho nên một khi mối liên
hệ ấy đã bị cắt đứt, thì chúng ta trở nên bất toàn và cần được tái tạo, phục
hồi. Tương giao với Đức Chúa Trời hằng sống là yếu tính của sự thờ
phượng. Nó tối quan trọng, liên quan đến phần cốt lõi của cuộc đời chúng ta.
Có lẽ chính vì thế mà toàn bộ Thánh Kinh đã được dành cho vấn đề thờ
phượng. Sau cuộc Xuất Ai-cập đầy kịch tính của dân Y-sơ-ra-ên, dân sự đã
cắm trại dưới chân núi Si-na-i luôn hai năm để nghe lời Đức Chúa Trời (từ
Xuất Ê-díp-tô chương 19 đến Dân số ký chương 10). Đây là thì giờ để nghỉ
ngơi, dạy dỗ, gây dựng, và gặp Ngài mặt đối mặt. Sự cứu chuộc trong Xuất
Ê-díp-tô ký là phần nền tảng để được thanh tẩy, thờ phượng, và phục vụ
trong Lê-vi-ký.
Bức thông điệp nổi bật trong Lê-vi-ký là sự thánh khiết của Đức Chúa Trời -
“Hãy truyền cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Hãy nên thánh, vì ta Giê-hô-
va Đức Chúa Trời các người vốn là thánh” (19:2). Nhưng làm thế nào một
dân tộc bất khiết lại có thể đến gần một Đức Chúa Trời thánh khiết? Câu trả
lời là: trước hết phải giải quyết cho xong vấn đề tội lỗi. Cho nên các chương
mở đầu Lê-vi-ký đưa ra những lời chỉ giáo chi tiết về cách dâng của lễ, là
các biểu tượng tích cực của sự ăn năn và vâng lời. Cho dù là bò, ngũ cốc, dê
hay chiên, các của lễ phải hoàn thiện, không tì không vết - hình ảnh của sinh
tế tối hậu hầu đến, là Chúa Giê-xu, Chiên Con của Đức Chúa Trời. Chúa
Giê-xu đã đến, mở ra con đường đến với Đức Chúa Trời bằng cách từ bỏ
mạng sống mình làm sinh tế cuối cùng thay cho chúng ta. Sự thờ phượng
đích thực và hợp nhất với Đức Chúa Trời bắt đầu khi chúng ta xưng tội mình
và tin nhận Chúa Cứu Thế là Đấng duy nhất co thể cứu chuộc chúng ta khỏi
tội lỗi và giúp chúng ta đến gần Đức Chúa Trời.
Trong Lê-vi-ký, các của lễ, các thầy tế lễ, và Ngày Đại lễ chuộc tội mở
đường cho dân Y-sơ-ra-ên đến với Đức Chúa Trời. Dân sự Ngài cũng phải
thờ phượng Ngài bằng chính đời sống của họ nữa. Cho nên chúng ta được
đọc các luật lệ về thanh tẩy (11-15) và các luật lệ về sự sinh hoạt hằng ngày
liên quan đến các trách nhiệm đối với gia đình, sinh hoạt tình dục, các mối
liên hệ xã giao, những cách sống theo thế gian (18-20) và các lời thề nguyền
(27). Những lời chỉ giáo này gồm có việc cùng bước đi với Đức Chúa Trời,
và các mẫu mực của sinh hoạt thuộc linh vẫn còn được áp dụng cho ngày
hôm nay. Do đó, thờ phượng vốn có phương diện theo chiều ngang của nó -
nghĩa là Đức Chúa Trời được tôn vinh bằng đời sống của chúng ta và cách
chúng ta liên hệ với nhau.
Điểm nhấn mạnh cuối cùng trong Lê-vi-ký là vấn đề lễ hội. Quyển sách này
đưa ra những lời chỉ giáo liên quan đến các kỳ lễ. Đây là các cơ hội đặc biệt,
thường xuyên và tập thể để nhớ lại những gì Đức Chúa Trời đã làm, để mọi
người cảm tạ Ngài và tái cống hiến cuộc đời để phục vụ Ngài (23). Các
truyền thống và ngày lễ Cơ-đốc giáo của chúng ta tuy có khác nhưng cũng là
các thành tố cần thiết cho việc thờ phượng. Chúng ta cũng cần có những
ngày đặc biệt để thờ phượng và kỷ niệm với các anh chị em mình để nhớ lại
những điều tốt lành Đức Chúa Trời đã làm cho đời sống chúng ta.
Trong khi đọc Lê-vi-ký xin bạn hãy tái hiến thân cho sự thánh khiết, thờ
phượng Đức Chúa Trời bằng cách xưng tội riêng, phục vụ công khai, và cử
hành lễ kỷ niệm tập thể.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Một sách chỉ nam cho các thầy tế lễ và người Lê-vi, phác hoạ các
nghĩa vụ của họ torng việc thờ phượng, và là một sách hướng dẫn cho người
Hy-bá-lai sống một cuộc đời ngay lành.
Trước giả: Môi-se
Niên đại: 1445-1444 T.C.
Bối cảnh: Tại chân núi Si-na-i, Đức Chúa Trời dạy cho dân Y-sơ-ra-ên cách
sống như một dân thánh.
Câu gốc: LeLv 19:2)
Các nhân vật chính: Môi-se, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, Y-tha-ma.
Địa điểm chính: Núi Si-na-i
Những nét đặc trưng: Sự thánh khiết được đề cập nhiều lần (152) hơn bất
luận sách nào khác của Thánh Kinh.
Bố cục:
A. Thờ phượng một Đức Chúa Trời thánh khiết (1:1-17:16)
1. Những lời chỉ giáo về các của lễ
2. Những lời chỉ giáo cho các thầy tế lễ
3. Những lời chỉ giáo cho dân chúng
4. Những lời chỉ giáo về bàn thờ
Đức Chúa Trời cung cấp những lời chỉ giáo đặc thù (cụ thể) cho loại thờ
phượng sẽ làm đẹp lòng Ngài. Những lời chỉ giáo này dạy cho chúng ta về
bản tính của Đức Chúa Trời và có thể giúp chúng ta phát triển một thái độ
phải lẽ trong việc thờ phượng. Qua các của lễ, chúng ta được biết tính cách
trầm trọng của tội lỗi và tầm quan trọng của việc phải đem các tội lỗi của
chúng ta đến với Đức Chúa Trời để xin Ngài tha cho.
B. Sống một cuộc đời thánh khiết (18:1-27:34)
1. Các chuẩn mực cho dân sự
2. Các luật lệ cho thầy tế lễ
3. Các mùa và kỳ lễ
4. Nhận được phước hạnh của Đức Chúa Trời
Đức Chúa Trời ban bố các chuẩn mực để người Y-sơ-ra-ên có thể sống một
cuộc đời thánh thiện. Họ phải biệt riêng ra với các lân bang theo ngoại đạo
quanh họ. Cũng thế, toàn thể các tín hữu phải xa rời tội lỗi mà tận hiến cho
Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời vẫn còn muốn cất đi tội lỗi khỏi đời sống
của những người thuộc về Ngài.
Các đại đề mục:
Luận đề: Dâng của lễ
Lời giải thích: Có năm của lễ nhằm đáp ứng hai chủ đích: một là nhằm dâng
lên lời ca tụng cảm tạ, và sự tận hiến, chủ đích kia là nhằm chuộc tội, để che
đậy và cất đi mọi lỗi lầm. Các sinh tế bằng súc vật chứng minh rằng ngươi
dâng sinh tế ấy dâng sinh mạng của con thú lên cho Đức Chúa Trời để thay
thế cho chính mạng sống mình.
Tầm quan trọng: Các của lễ nhằm mục đích thờ phương và để được tha tội.
Qua chúng, chúng ta được biết giá phải trả cho tội lỗi, vì chúng ta biết rằng
chúng ta không thể tự tha tội cho mình. Hệ thống của Đức Chúa Trời dạy
rằng mạng phải đền mạng. Trong Cựu ước kinh, sinh mạng một con vật bị hi
sinh để cứu mạng cho một người. Nhưng đó chỉ là một biện pháp tạm thời,
cho đến khi Chúa Giê-xu phải chịu chết để trang trải sự trừng phạt đối với
tội lỗi cho mọi người vĩnh viễn.
Luận đề: Sự thờ phượng
Lời giải thích: Bảy kỳ lễ đã được chỉ định làm những ngày lễ tôn giáo và
quốc gia. Chúng thường được cử hành trong gia đình. Các biến cố ấy dạy
cho chúng ta nhiều điều về vấn đề thờ phượng Đức Chúa Trời cả trong việc
cử hành lẫn trong việc âm thầm tận hiến.
Tầm quan trọng: Các luật lệ về thờ phượng của Đức Chúa Trời thiết lập một
mẫu mực có trật tự, thường xuyên, về vấn đề thông công với Ngài. Chúng
dành thì giờ cho việc kỷ luật và cảm tạ cũng như cho việc tỏ lòng tôn kính
và tái cống hiến. Việc thờ phụng của chúng ta phải chứng minh sự tận hiến
sâu xa của chúng ta.
Luận đề: Sức khoẻ
Lời giải thích Các điều luật dân sự về cách ăn uống, bệnh tật, và tình dục
đều được truyền dạy. Trong các nguyên tắc thuộc thể này, nhiều nguyên tắc
thuộc linh cũng được gợi ý. Dân Y-sơ-ra-ên phải sống khác với các lân
bang. Đức Chúa Trời đang bảo tồn dân Y-sơ-ra-ên kỏi bệnh tật và các vấn
đề về sức khoẻ cộng đồng.
Tầm quan trọng Chúng ta phải sống khác với những người không tin Chúa
chung quanh cả về mặt đạo đức lẫn thuộc linh. Các nguyên tắc để sống khoẻ
mạnh hôm nay cũng quan trọng như vào thời của Môi-se. Một môi trường
lành mạnh và một thân thể khoẻ mạnh, khiến chúng ta phục vụ Đức Chúa
Trời càng hiệu quả hơn.
Luận đề: Sự thánh khiết
Lời giải thích Thánh khiết có nghĩa là “biệt riêng ra” hay “dành riêng cho” ,
“tận hiến”. Đức Chúa Trời đã đưa dân sự Ngài ra khỏi Ai-cập, thế là giờ đây
Ngài cũng cất xứ Ai-cập xa khỏi dân sự Ngài. Ngài đang chỉ cho họ phải
thay đổi cách sống theo lối người Ai-cập để sống và suy nghĩ theo cách của
Ngài là như thế nào.
Tầm quan trọng Chúng ta phải tận hiến, dành riêng mọi lãnh vực của đời
sống chúng ta cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải tuyệt
đối vâng lời Ngài cả trong các động cơ thúc đẩy lẫn trong hành động thực tế.
Tuy chúng ta không tuân thủ tất cả cách thực hành việc thờ phượng y như
dân Y-sơ-ra-ên, chúng ta phải có cùng một tinh thần sẵn sàng và tận hiến
như họ vậy.
Luận đề: Người Lê-vi
Lời giải thích Người Lê-vi và các thầy tế lễ dạy bảo dân sự về việc thờ
phượng. Họ là những người phục vụ Chúa (mục sư) của thời đó Họ cũng
điều chỉnh các luật lệ luân lý đạo đức, dân sự và nghi lễ, và quản lý sức
khoẻ, công lý, và sự an vui phúc lợi của toàn dân.
Tầm quan trọng Người Lê-vi là các nhân viên phục vụ (tôi tớ) chỉ cho dân
Y-sơ-ra-ên biết con đường của Đức Chúa Trời. Họ là chiếc bóng trong lịch
sử của Chúa Cứu Thế, là Thầy tế lễ Thượng Phẩm, nhưng cũng là người làm
Đầy Tớ của chúng ta. Các tôi tớ chân chính của Đức Chúa Trời chăm sóc
mọi nhu cầu của dân (những người thuộc về) Ngài.

Dẫn nhập Dân số ký


Các niên đại
Giô-sép qua đời 1805 TC (1640)
Giai đoạn dân Y-sơ-ra-ên làm nô lệ tại Ai Cập
Xuất Ai-cập 1446 (1280)
Ban bố Mười Điều Răn 1445 (1279)
Kiểm tra dân số lần thứ nhất 1444 (1278)
Điệp vụ đầu tiên 1443 (1277)
Giai đoạn lưu lạc trong sa mạc
Kiểm tra dân số lần thứ hai. Những lời tiên tri của Ba-la-am 1407 (1241)
Giô-suê hạ lệnh vào xứ Ca-na-an 1406 (1240)
Các quan xét bắt đầu cai trị 1375 (1220)
Vương quốc thống nhất dưới thời Sau-lơ 1050 (1045)
Lời giới thiệu
Tất cả những bậc làm cha mẹ đều biết rõ tiếng la hét điếc tai của một con trẻ
- một lời than phiền chối tai đập mạnh vào màng nhĩ và làm buồn cho tâm
hồn. Tiếng thét ấy thật khó chịu, nhưng điều thật sự gây tức tối là phần
nguyên nhân tiềm ẩn - thái độ bất mãn và không vâng lời. Trong lúc “các
con cái Y-sơ-ra-ên” đi từ chân núi Si-na-i đến xứ Ca-na-an, họ đã lằm bằm,
la hét và than phiền tại từng khúc quanh. Họ chỉ chú trọng vào tình trạng
thiếu tiện nghi hiện tại. Họ bị mất đức tin, nên bị thêm 40 năm phụ trội cho
chuyến đi của mình.
Dân số ký là sách ghi lại câu chuyện thê thảm về lòng vô tín của dân Y-sơ-
ra-ên phải được dùng làm một bài học nhiều kịch tính cho tất cả những
người thuộc về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời yêu chúng ta và mong muốn
điều tốt nhất cho chúng ta. Ngài có thể và cần phải được tin cậy. Dân số ký
cũng phác hoạ một bức chân dung thật rõ ràng về sự kiên trì nhẫn nhục của
Đức Chúa Trời. Nhiều lần, Ngài đã rút lại sự trừng phạt để bảo tồn dân Ngài.
Nhưng ta không nên đinh ninh là Ngài cứ kiên nhẫn mãi như thế. Rồi có
ngày sự phán xét sẽ đến. Cho nên chúng ta phải vâng lời.
Lúc Lê-vi ký bắt đầu, dân Y-sơ-ra-ên đang đóng trại dưới chân núi Si-na-i.
Dân sự vừa tiếp nhận luật pháp của Đức Chúa Trời và chuẩn bị di chuyển.
Một cuộc kiểm tra dân số đã được thực hiện để xác định số người đủ điều
kiện thi hành quân dịch. Tiếp theo đó, dân sự được biệt riêng ra cho Đức
Chúa Trời. Đức Chúa Trời khiến toàn thể dân sự đều được chuẩn bị sẵn
sàng, cả về phương diện thuộc linh lẫn thuộc thể, để nhận lấy sản nghiệp của
họ.
Nhưng rồi họ bắt đầu than phiền. Trước hết, dân sự than phiền về vấn đề
lương thực thực phẩm. Kế đó là than phiền về uy quyền của Môi-se. Đức
Chúa Trời đã trừng phạt vài người, nhưng tha cho cả dân sự nhờ lời cầu
nguyện của Môi-se. Rồi toàn thể dân sự đến Ca-đe, và các điệp viên được
phái vào xứ Ca-na-an để thẩm định lực lượng của nó. Mười người đã trở lại
với những câu chuyện kể đầy sợ hãi về những con người khổng lồ trong xứ
ấy. Chỉ có Ca-lép và Giô-suê là khích lệ họ “hãy đi lên và chiếm xứ đi”
(13:28). Bản báo cáo của số ít người này đã chẳng được những đôi tai điếc
vì bức thông điệp bất lợi của số đông để ý. Vì lòng vô tín của họ, Đức Chúa
Trời tuyên bố rằng thế hệ hiện hữu sẽ chẳng còn sống để nhìn thấy đất hứa.
Thế là “cuộc lưu lạc” bắt đầu. Suốt giai đoạn lưu lạc trong sa mạc đó, đã có
một mẫu mực liên tục về những lời lằm bằm, khinh bạc, và những lần sửa
phạt, chết chóc. Phải chi họ chịu tin cậy Đức Chúa Trời để được vào xứ mà
Ngài đang dành sẵn cho họ, thì tốt hơn biết bao! Tiếp theo đó là cả một cuộc
chờ đợi khủng khiếp được bắt đầu - chờ cho thế hệ cũ qua đi, xem chẳng hay
thế hệ mới có chịu trung tín vâng lời Đức Chúa Trời hay không.
Dân số ký đã kết thúc y như nó được bắt đầu, nghĩa là với tình trạng chuẩn
bị. Thế hệ mới này của dân Y-sơ-ra-ên đã được kiểm tra và thánh hoá. Sau
khi đánh bại được nhiều đạo quân, họ đã định cư tại phía Đông sông Giô-
đanh. Rồi họ trực diện với cuộc thử thách gay go nhất: vượt sông để chiếm
phần đất đẹp đẽ mà Đức Chúa Trời đã hứa ban cho họ.
Bài học ở đây thật là rõ ràng. Dân sự của Đức Chúa Trời phải tin cậy Ngài,
lấy đức tin mà tiến lên, nếu muốn giành lấy phần đất mà Ngài đã hứa ban
cho mình.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Kể lại câu chuyện về dân Y-sơ-ra-ên đã chuẩn bị như thế nào để
vào xứ Ca-na-an, thế nào họ đã phạm tội và bị trừng phạt, và thế nào họ đã
chuẩn bị để thử lại một lần nữa.
Trước giả: Môi-se
Đọc giả: Cho dân Y-sơ-ra-ên
Niên đại viết sách: 1450-1410 TC
Bối cảnh: Vùng sa mạc Si-na-i bao la, cũng như các xứ về phía Nam và phía
Đông Ca-na-an.
Các câu gốc: 14:22,23
Các nhân vật chính: Môi-se, A-rôn, Mi-ri-am, Giô-suê, Ca-lép, Ê-lê-a-sa,
Cô-rê, Ba-la-am
Các địa danh chính: Núi Si-na-i, đất hứa (xứ Ca-na-an), Ca-đe, Núi Hô-rơ,
đồng bằng Mô-áp.
Bố cục
A. Chuẩn bị cho chuyến đi (1:1-10:10)
1. Lần kiểm tra dân số thứ nhất
2. Vai trò của người Lê-vi
3. Trại quân phải thánh khiết
4. Nhận sự chỉ dẫn cho chuyến đi
Như một phần chuẩn bị cho họ, Đức Giê-hô-va đã đưa ra những đường
hướng chỉ đạo thật chặt chẽ cho dân Y-sơ-ra-ên liên quan đến sự thánh khiết
bên trong trại quân. Ngài muốn họ phải có một nếp sống phân biệt với các
lân bang. Ngài muốn họ phải là một dân thánh. Cũng thế, chúng ta cần phải
quan tâm đến sự thanh sạch của chính mình trong Hội thánh.
B. Lần tiếp cận đầu tiên với xứ thánh (10:11-14:45)
1. Dân sự than phiền
2. Mi-ri-am và A-rôn chống lại Môi-se
3. Các điệp viên sách động gây rối
Dân Y-sơ-ra-ên đã không được vào đất hứa vì cớ lòng vô tín của họ. Xuyên
suốt lịch sử, dân sự của Đức Chúa Trời cứ phải liên tục chiến đấu với tình
trạng thiếu đức tin. Chúng ta phải phòng ngừa lòng vô tín, không cho nó lập
một đầu cầu để đặt chân lên ngưỡng cửa của đời sống chúng ta, vì điều đó sẽ
ngăn trở không cho chúng ta hưởng được các phước hạnh mà Đức Chúa
Trời đã hứa.
C. Lưu lạc trong sa mạc (15:1-21:35)
1. Các quy tắc phụ trội
2. Nhiều cấp lãnh đạo nổi loạn chống lại Môi-se
3. Nhiệm vụ của các thầy tế lễ và người Lê-vi
4. Thế hệ mới
Khi dân sự lằm bằm chống lại Đức Chúa Trời và chỉ trích Môi-se, họ đã bị
trừng phạt nghiêm khắc, trên 14.000 người đã phải chết, hậu quả của việc họ
nổi loạn chống lại Môi-se. Hậu quả của cuộc phản loạn của Cô-rê, là Cô-rê,
Đa-than, A-bi-ram và cả nhà họ đã chết, cùng với 250 thầy tế lễ giả mạo.
Nếu tâm trạng bất mãn và không hài lòng còn được phép tồn tại trong đời
sống chúng ta, sẽ rất dễ dẫn đến cảnh tàn hại. Chúng ta cần phải giữ mình để
không lằm bằm, chê bai chỉ trích các cấp lãnh đạo.
D. Lần tiếp cận thứ hai với đất hứa (22:1-36:13)
1. Câu chuyện về Ba-la-am
2. Lần kiểm tra dân số thứ hai
3. Những lời chỉ giáo liên quan đến các của lễ
4. Báo thù đối với dân Ma-đi-an
5. Các chi phái ở bên kia sông Giô-đanh
6. Đóng trại trong đồng bằng Mô-áp
Hai dân Mô-áp và Ma-đi-an đã không thuê được Ba-la-am nguyền rủa dân
Y-sơ-ra-ên, nên xin lời khuyên của ông ta để đưa họ đến chỗ thờ lạy thần
tượng. Ba-la-am vốn biết điều gì là phải lẽ, nhưng đã nhượng bộ sự cám dỗ
của các phần thưởng vật chất, và đã phạm tội. Chỉ biết điều gì là phải, là
đúng, thì chẳng bao giờ là đủ cả. Chúng ta còn phải làm điều đúng việc phải
nữa.
Các đại đề mục
Luận đề: Kiểm tra dân số
Lời giải thích Môi-se tu bộ dân Y-sơ-ra-ên hai lần. Lần kiểm tra dân số thứ
nhất tổ chức dân sự thành các đơn vị quân đội để tự vệ cho tốt hơn. Lần thứ
hai chuẩn bị cho việc chinh phục phần đất phía Đông sông Giô-đanh.
Tầm quan trọng Dân sự cần được tổ chức, huấn luyện và hướng dẫn để thực
hiện những công việc lớn lao. Phải tính trước giá phải trả trước khi bắt tay
thực hiện một công trình quan trọng thì bao giờ cũng là khôn ngoan cả. Khi
biết có trở ngại trước mắt, chúng ta sẽ càng dễ dàng né tránh chúng. Trong
công việc của Đức Chúa Trời, chúng ta phải dọn dẹp các rào cản trong các
mối liên hệ của mình với tha nhân để các kết quả không bị hạn chế.
Luận đề: Phản loạn
Lời giải thích Tại Ca-đe, 12 điệp viên đã được phái sang xứ Ca-na-an để báo
cáo về các thành lũy của kẻ thù. Khi các điệp viên ấy trở về, 10 người bảo
rằng họ phải bỏ cuộc để quay trở về Ai-cập, hậu quả là dân sự không chịu
tiến vào xứ Ca-na-an. Đứng trước sự chọn lựa ấy, dân Y-sơ-ra-ên đã nổi
loạn phản lại Đức Chúa Trời. Phản loạn không bắt đầu bằng một cuộc nổi
dậy mà bằng việc oán trách và lằm bằm chống lại Môi-se và Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng Phản loạn chống lại Đức Chúa Trời bao giờ cũng là một vấn
đề nghiêm trông. Đây không phải là một điều có thể xem nhẹ, vì sự trừng
phạt của Đức Chúa Trời dành cho tội lỗi thường rât nghiêm khắc. Sự phản
loạn của chúng ta không thường bắt đầu bằng sự tranh chiến công khai, mà
theo nhiều đường lối tinh tế - bằng lời oán trách và chê bai. Phải chắc chắn
rằng những lời bình luận tiêu cực của bạn không phải là sản phẩm của một
tinh thần phản loạn.
Luận đề: Lưu lạc
Lời giải thích Vì họ nổi loạn, nên dân Y-sơ-ra-ên đã phải đi lưu lạc 40 năm
trong sa mạc. Điều này cho thấy Đức Chúa Trời co thể trừng phạt tội lỗi
cách nghiêm khắc như thế nào. Bốn mươi năm là thời gian đủ cho tất cả
những ai bám víu vào các tập tục và giá trị của xứ Ai-cập phải chết đi. Nó là
thời gian đủ để đào tạo một thế hệ mới theo các đường lối của Đức Chúa
Trời.
Tầm quan trọng Đức Chúa Trời trừng phạt tội lỗi hết sức nặng nề vì Ngài
vốn thánh khiết. Việc lưu lạc trong sa mạc cho thấy Đức Chúa Trời xem việc
công khai bất tuân các lệnh truyền của Ngài là nghiêm trọng như thế nào.
Phải tẩy sạch tội lỗi khỏi đời sống chúng ta là điều tối quan trọng đối với
chủ đích của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Xứ Ca-na-an
Lời giải thích Ca-na-an là đất hứa. Nó là xứ mà theo giao ước Đức Chúa
Trời đã hứa ban cho Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Xứ Ca-na-an phải là chỗ
trú ngụ của dân sự Đức Chúa Trời, những người đã được biệt riêng ra cho sự
thờ phượng thuộc linh đích thực.
Tầm quan trọng Tuy sự trừng phạt của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi thường
là nghiêm khắc, Ngài vẫn tạo cơ hội hoà giải và hi vọng - tình yêu của Ngài
quả là diệu kỳ. Như tình yêu và luật pháp của Đức Chúa Trời đã dẫn dân Y-
sơ-ra-ên vào đất hứa thể nào, Ngài cũng muốn ban cho đời sống chúng ta
một chủ đích và vận mệnh y như thế.

Dẫn nhập Phục Truyền Luật Lệ ký


Các niên đại
Giô-sép qua đời 1805 TC (1640)
Giai đoạn làm nô lệ tại Ai-cập
Giai đoạn lưu lạc trong sa mạc
- Xuất Ai-cập 1446 (1280)
- Ban bố Mười Điều Răn 1445 (1279)
Môi-se qua đời, dân Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an 1406 (1240)
Các quan xét bắt đầu cai trị 1375 (1220)
Vương quốc thống nhất dưới thời Sau-lơ 1050 (1045)
Lời giới thiệu
Những cuộc họp bạn cùng lớp, những tập vỡ cũ và các bức ảnh lưu niệm
trong quyển album, những bài ca quen thuộc và những người bạn láng giềng
xưa kia - cũng như các bạn thân lâu đời thường đánh thức ký ức của chúng
ta và kích thích các tình cảm của chúng ta. Quá khứ là chiếc kính vạn hoa
của những lời hứa hẹn, những thất bại, chiến thắng, và những điều gây bối
rối cho chúng ta. Nhiều khi chúng ta muốn quên đi các kỷ niệm quá đau
buồn. Tuy nhiên, nhiều năm tháng càng qua đi thì ký ức về các biến cố
không vui thường mờ dần nhưng vẫn tồn tại trong tiềm thức của chúng ta.
Rồi sẽ có một lúc để chúng ta nhớ lại: không nên lặp lại các sai lầm, những
lời hứa hẹn cần phải được hoàn tất; và ký ức về các biến cố đặc biệt có thể
khích lệ chúng ta và thôi thúc chúng ta hành động.
Phục truyền luật lệ ký được viết theo hình thức một bản giao ước giữa một
nhà vua và thần dân của mình - một quốc gia tiêu biểu của thiên niên kỷ thứ
hai TC. Nó được gọi là xứ Y-sơ-ra-ên để kỷ niệm về Đức Chúa Trời là ai và
Ngài đã làm những việc gì. Do thiếu đức tin, thế hệ đi trước đã phải lưu lạc
suốt bốn mươi năm rồi chết đi trong sa mạc. Họ đã bỏ lại sau lưng xứ Ai-
cập, nhưng chẳng bao giờ biết được đất hứa. Rồi tại bờ phía Đông sông Giô-
đanh, Môi-se đã chuẩn bị cho các con trai con gái của thế hệ không có đức
tin kia chiếm lấy xứ ấy. Sau một bài học lịch sử vắn tăt, nhấn mạnh các hành
động quyền năng mà Đức Chúa Trời đã làm vì dân sự ngài, Môi-se duyệt lại
phần luật pháp. Rồi ông tái thiết lập giao ước - điều mà Đức Chúa Trời giao
kết với dân Ngài.
Các bài học thật rõ ràng. Vì những gì Đức Chúa Trời đã làm dân Y-sơ-ra-ên
phải hi vọng và theo Ngài, vì điều Ngài đang kỳ vọng nơi họ, họ phải lắng
nghe và vâng lời Ngài, vì cớ Ngài là ai, họ phải toàn tâm toàn ý yêu mến
Ngài. Học thuộc các bài dạy này của ông, họ sẽ được chuẩn bị đầy đủ để
chiếm lấy xứ.
Trong khi bạn lắng nghe bức thông điệp của sách Phục truyền, nên nhớ cách
thức Đức Chúa Trời đã bày tỏ tình yêu của Ngài đối với đời sống bạn, để tự
tận hiến cho Ngài một cách mới mẻ, và tin cậy yêu mến, vâng lời Ngài.
Bố cục
A. Bài giảng thứ nhất của Môi-se: Đức Chúa Trời đã làm gì cho chúng ta
(1:1-4:43)
Môi-se duyệt lại các hành động quyền năng Đức Chúa Trời đã làm cho dân
Y-sơ-ra-ên. Nhớ lại những trường hợp đặc biệt Đức Chúa Trời đã dấn thân
can thiệp vào đời sống chúng ta sẽ ban cho chúng ta thêm hy vọng và sự
khích lệ trong tương lai.
B.Bài giảng thứ hai của Môi-se: các nguyên tắc cho một đời sống tin kính
(4:44-28:68)
1. Mười Điều Răn
2. Yêu mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi
3. Luật về sự thờ phượng phải lẽ
4. Luật để cai trị dân
5. Luật về các mối liên hệ giữa người và người
6. Các kết quả của việc vâng lời và không vâng lời
Vâng lời Đức Chúa Trời đã đem đến phước hạnh cho dân Y-sơ-ra-ên, còn
không vâng lời thì dẫn đến điều bất hạnh. Đây là một phần đã được viết ra
của hoà ước mà Đức Chúa Trời đã ký với dân sự Ngài. Tuy chúng ta không
có phần gì trong giao ước này nguyên tắc của nó vẫn có hiệu lực: vâng lời
hoăc không vâng lời đều dẫn đến các hậu quả không tránh né vào đâu được
ngay trong đời này lẫn cho đời sau.
C. Bài giảng thứ ba của Môi-se: một lời kêu gọi hãy tận hiến cho Đức Chúa
Trời (29:1-30:20)
Môi-se kêu gọi dân sự hãy tận hiến cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời vẫn
còn kêu gọi chúng ta hãy tận hiến để hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và
hết sức yêu mến Ngài.
D. Những ngày tàn của Môi-se: vấn đề thay đổi lãnh tụ (31:1-34:12)
Tuy Môi-se có phạm vài lầm lỗi lớn, ông đã sống ngay thẳng để thực hiện
các mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Ông đã chết thật thanh liêm. Chúng ta
cũng có thể phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhưng điều đó không ngăn
được chúng ta tận hiến, sống thanh liêm và tin kính.
Các đại đề mục
Luận đề: Lịch sử
Lời giải thích Môi-se duyệt lại các hành động quyền năng của Đức Chúa
Trời, bởi đó Ngài đã giải thoát dân Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô lệ tại Ai-cập. Ông
kể lại thế nào Đức Chúa Trời đã giúp đỡ họ, và thế nào dân sự đã không
vâng lời Ngài.
Tầm quan trọng Nhờ ôn lại các lời hứa và những hành động quyền năng
trong lịch sử, chúng ta có thể học biết được cá tính của Đức Chúa Trời.
Chúng ta biết được Đức Chúa Trời càng mật thiết hơn nhờ hiểu rõ trong quá
khứ Ngài từng hành động như thế nào. Chúng ta cũng có thể tránh được sai
lầm trong chính đời sống mình nhờ học tập từ các thất bại của dân Y-sơ-ra-
ên.
Luận đề: Luật pháp
Lời giải thích Đức Chúa Trời ôn lại các luật lệ của Ngài cho dân sự Ngài.
Hợp đồng pháp lý giữa Đức Chúa Trời với dân sự Ngài đã được tái lập với
một thế hệ mới sắp vào đất hứa.
Tầm quan trọng Không nên cứ đinh ninh rằng ta đã tận hiến cho Đức Chúa
Trời và chân lý Ngài rồi. Mỗi thế hệ và từng người một đều phải đáp ứng lại
một cách mới mẻ với tiếng gọi hãy vâng lời Đức Chúa Trời.
Luận đề: Tình yêu
Lời giải thích Tình yêu thành tín và kiên trì của Đức Chúa Trời thường được
tả vẽ nhiều hơn là sự trừng phạt của Ngài. Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu
của Ngài bằng cách tỏ lòng thành tín với dân sự Ngài và các lời hứa của
Ngài. Để đáp lại, Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải yêu Ngài bằng tấm
lòng, chứ không phải chỉ giữ luật pháp Ngài cho đúng luật mà thôi.
Tầm quan trọng Tình yêu Đức Chúa Trời chính là nền tảng của lòng tin cậy
Ngài của chúng ta. Sở dĩ chúng ta tin cậy Ngài, là vì chúng ta yêu mến Ngài.
Vì Đức Chúa Trời yêu chung ta, chúng ta phải sống công bằng và kính trọng
Ngài.
Luận đề: Lựa chọn
Lời giải thích Đức Chúa Trời nhắc nhở dân sự Ngài rằng muốn phê chuẩn
hoà ước của Ngài với họ, họ phải chọn con đường vâng lời Ngài. Người nào
biết vâng lời, sẽ đem đến nhiều lợi ích cho đời sống mình; nổi loạn chống lại
Ngài sẽ chỉ đem đến tàn hại nghiêm trọng mà thôi.
Tầm quan trọng Chính sự lựa chọn của chúng ta làm thay đổi cuộc đời
chúng ta. Chọn vâng lời Đức Chúa Trời sẽ có lợi cho chúng ta và cải thiện
được các mối liên hệ giữa chúng ta với tha nhân. Chọn lìa bỏ đường lối Đức
Chúa Trời gây thiệt hại cho cả chúng ta lẫn tha nhân.
Luận đề: Dạy dỗ
Lời giải thích Đức Chúa Trời truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải dạy lại cho con
cháu họ các đường lối của Ngài. Họ phải dùng nghi lễ, lời giáo huấn và học
thuộc lòng để chắc chắn rằng con cháu họ thông suốt các nguyên tắc của
Đức Chúa Trời để truyền lại cho thế hệ tiếp theo.
Tầm quan trọng Phải dành ưu tiên cho việc dạy dỗ các đức tính cho con
cháu. Truyền lại cho thế hệ sau chân lý của Đức Chúa Trời và các truyền
thống của chúng ta là điều rất quan trọng. Nhưng Đức Chúa Trời muốn cho
chân lý của Ngài phải nằm ngay trong lòng trong trí chúng ta, chứ không
phải chỉ có trong truyền thống mà thôi.

Dẫn nhập Giô-suê


Các niên đại
Xuất Ai-cập 1446 TC (1280TC)
Chinh phục xứ Ca-na-an
- Dân Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an 1406 (1240)
- Các quan xét bắt đầu cai trị 1375 (1220)
Thời đại các quan xét
Vương quốc thống nhất dưới thời Sau-lơ 1050 (1045)
Đa-vít lên ngôi vua 1010
Lời giới thiệu
Bạn có còn nhớ trò chơi trẻ con “theo người lãnh đạo” hay không? Vấn đề là
phải bắt chước các điệu bộ khôi hài của người đi trước bạn trong đường dây
gồm các bé trai bé gái để đi quanh quẩn đó đây. Làm kẻ theo người khác thì
tốt thôi, nhưng làm người lãnh đạo thì thú hơn nhiều, vì phải có óc sáng tạo
để tạo ra những con đường mới và những nhiệm vụ mới cho mọi người bắt
chước theo.
Trong đời sống thực tế, các đại lãnh tụ rất hiếm hoi. Nhiều nhân vật nam nữ
được bầu chọn hay chỉ định vào các chức vụ lãnh đạo, nhưng rồi bị thất bại
hay chẳng làm gì được. Nhiều người khác thì lạm quyền để thoả mãn cái ta
ích kỷ của họ, giày đạp những người dưới quyền và làm thất thoát các nguồn
tài nguyên. Nhưng nếu không có các lãnh tụ trung tín, đạo đức và hoạt động
có hiệu quả, thì dân chúng bị ly tán.
Dân Y-sơ-ra-ên đã đi lưu lạc quanh quẩn trong sa mạc suốt bốn mươi năm,
nhưng không phải là vì họ đã đi theo vị lãnh tụ của họ. Mà sự thật trái ngược
hẳn - vì không có đức tin, họ đã không chịu vâng lời Đức Chúa Trời để
chinh phục xứ Ca-na-an, cho nên họ cứ lưu lạc vòng quanh. Cuối cùng, một
thế hệ mới đã sẵn sàng vượt sông Giô-đanh để chiếm lấy xứ. Sau khi đã tự
khiến cho mọi người thấy mình là một người có đức tin và can đảm (khi ông
cùng với Ca-lép thuộc nhóm thiểu số các điệp viên đã trình lên bản báo cáo
của mình trong Dan Ds 13:30-14:9), Giô-suê đã được chọn làm người kế vị
cho Môi-se. Quyển sách này ghi lại việc Giô-suê đã lãnh đạo dân sự của
Đức Chúa Trời kêu gọi họ tiến vào đánh chiếm đất hứa.
Giô-suê là một lãnh tụ quân sự xuất sắc và là một người gây được ảnh
hưởng thuộc linh mạnh mẽ Nhưng bí quyết của sự thành công của ông là
việc ông biết đầu phục Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời phán dạy thì
Giô-suê biết lắng nghe và vâng lời. Sự vâng lời của ông đã được dùng làm
gương mẫu cho chúng ta. Hệ quả là dân Y-sơ-ra-ên cứ giữ lòng tận trung với
Đức Chúa Trời suốt cả đời sống của Giô-suê.
Sách Giô-suê được chia làm hai phần chính: các phần thuật sự thứ nhất các
biến cố xoay quanh cuộc chinh phục xứ Ca-na-an. Sau khi vượt sông Giô-
đanh như đi trên đất khô, dân Y-sơ-ra-ên đã đóng trại gần thành phố Giê-ri-
cô. Đức Chúa Trời truyền lịnh cho dân sự phải chiếm thành Giê-ri-cô bằng
cách đi vòng quanh nó mười ba lần, vừa đi vừa thổi kèn vừa hò hét. Nhờ họ
noi theo chiến thuật giao tranh độc nhất vô nhị đó của Đức Chúa Trời, họ đã
thắng trận (chương 6). Sau khi hủy diệt Giê-ri-cô, họ lại bắt tay tiến đánh
thành phố A-hi nhỏ bé. Lần tấn công đầu tiên của họ bị đẩy lui vì một người
trong dân Y-sơ-ra-ên (A-can) đã phạm tội (chương 7). Sau khi dân Y-sơ-ra-
ên đã ném đá A-can và gia đình ông ta - thanh tẩy toàn thể cộng đồng khỏi
tội - dân Y-sơ-ra-ên chiếm được A-hi (chương 8). Trong trận đánh dân A-
mô-rít tiếp theo đó thậm chí Đức Chúa Trời đã khiến cho mặt trời dừng lại
để giúp họ chiến thắng (chương 10). Cuối cùng, sau khi đánh bại các liên
minh của dân Ca-na-an do Gia-bin cầm đầu (chương 11), họ đã chiếm được
phần lớn xứ Ca-na-an.
Phần thứ hai của sách Giô-suê ghi lại việc chia đất và định cứ cho dân Y-sơ-
ra-ên trong vùng lãnh thổ họ đã chiếm được (chương 13-22). Quyển sách kết
thúc với bài giảng từ biệt của Giô-suê và cái chết của ông (chương 23,24).
Giô-suê đã tận hiến để vâng lời Đức Chúa Trời, và quyển sách này viết về sự
vâng lời. Dù là trong việc chinh phục kẻ thù hay định cư trong xứ, dân sự
của Đức Chúa Trời đều bị đòi hỏi phải làm việc ấy theo phương pháp của
Đức Chúa Trời. Trong bài giảng cuối cùng của ông cho dân sự, Giô-suê đã
nhấn mạnh trên tầm quan trọng của việc phải vâng lời Đức Chúa Trời Gios
Gs 23:11; 24:15). hãy đọc sách Giô-suê và tự nguyện tận hiến để vâng lời
Đức Chúa Trời ngay hôm nay. Hãy quyết định đi theo Chúa của bạn, bất cứ
Ngài dẫn bạn đi đâu và phải trả giá như thế nào.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Ghi lại cuộc chinh phục đất hứa của dân Y-sơ-ra-ên thành sử ký
Trước giả: Giô-suê, ngoại trừ phần chót, có lẽ do thầy tế lễ thượng phẩm
Phi-nê-a viết, vì là người chứng kiến tận mắt các biến cố đã được kể ra đây.
Bối cảnh: Xứ Ca-na-an, còn được gọi là đất hứa, là vùng lãnh thổ có cùng
phần địa lý tổng quát với quốc gia Y-sơ-ra-ên ngày nay.
Câu gốc: Gios Gs 1:1
Các nhân vật chính: Giô-suê, Ra-háp, A-can, Phi-nê-a, Ê-lê-a-sa.
Các địa danh chính: Giê-ri-cô, A-hi, núi Ê-banh, núi Ga-ri-xim, Ghi-bê-ôn,
Ghinh-ganh, Si-lô, Si-chem.
Những nét đặc trưng: Từ trên một triệu người, chỉ có Giô-suê và Ca-lép là
hai nhân vật đã lìa khỏi Ai-cập là được vào xứ Ca-na-an mà thôi.
BỐ CỤC
A. Vào đất hứa 1:1-5:12
1. Giô-suê lãnh đạo dân sự
2. Vượt sông Giô-đanh
Giô-suê chứng minh đức tin của ông vào Đức Chúa Trời khi nhận lời thách
thức để lãnh đạo dân sự. Dân sự Y-sơ-ra-ên tái xác nhận sự tận hiến của họ
cho Đức Chúa Trời bằng việc vâng lời Ngài, vượt sông Giô-đanh để đánh
chiếm xứ Ca-na-an. Sống cuộc đời Cơ-đốc nhân, chúng ta cũng cần vượt
khỏi lối sống cũ để đến với nếp sống mới, cởi bỏ các ham muốn vị kỷ, và
bươn tới để chiếm lấy tất cả những gì Đức Chúa Trời dành sẵn cho cúng ta.
Như Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên, chúng ta cần có đức tin để can đảm sống
cuộc đời mới của mình.
B. Chinh phục đất hứa 5:13-12:24
1. Giô-suê tấn công vùng trung tâm của xứ Ca-na-an
2. Giô-suê tấn công các vua miền Nam
3. Giô-suê tấn công các vua miền Bắc
4. Tóm tắt các cuộc chinh phạt
Giô-suê và đạo quân của ông chuyển từ thành phố này đến thành phố khác,
quét sạch điều gian ác trong xứ bằng cách tiêu diệt mọi dấu vết của việc thờ
thần tượng. Chiến đấu với điều ác là điều không thể tranh né vào đâu được,
và chúng ta cũng phải thẳng tay không chút xót thương như dân Y-sơ-ra-ên
khi tận diệt tội lỗi trong đời sống chúng ta.
C. Chia đất hứa 13:1-24:33)
1. Các chi phái nhận phần đất dành cho họ
2. Các thành phố đặc biệt được biệt riêng
3. Các chi phái ở phía Đông hồi hương
4. Giô-suê từ biệt các cấp lãnh đạo
Giô-suê khuyến cáo dân Y-sơ-ra-ên phải tiếp tục đi theo Đức Giê-hô-va và
chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi. Dân sự từng thấy Đức Chúa Trời
giải cứu họ khỏi tay kẻ thù, và làm nhiều phép lạ để cung cấp mọi nhu cầu
cho họ, nhưng họ lại tẻ tách lạc xa Ngài. Tuy chúng ta từng kinh nghiệm
việc Đức Chúa Trời hành động trong đời sống mình, chúng ta cũng phải tiếp
tục tái tận hiến cho Ngài để vâng lời Ngài hơn bất kỳ một uy quyền nào
khác, và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi.
Các đại đề mục
Luận đề: Thành công
Lời giải thích Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên thành công khi họ vâng
theo kế hoạch chủ đạo của Ngài, chứ không phải khi họ đi theo các ham
muốn riêng của họ. Chiến thắng là khi họ tin cậy Ngài, chứ không phải là tin
cậy vào năng lực quân sự, tiền bạc, cơ bắp hay tài năng của họ.
Tầm quan trọng Công việc của Đức Chúa Trời thực hành theo đúng đường
lối Ngài sẽ đem thành công về cho Ngài. Tuy nhiên, chuẩn mực của sự thành
công vốn không do xã hội chung quanh chúng ta quy định mà do Lời Đức
Chúa Trời đặt định. Chúng ta phải điều chỉnh tâm trí mình cho phù hợp với
cách suy nghĩ Đức Chúa Trời muốn, để thấy mình đạt được chuẩn mực của
Ngài.
Luận đề: Đức tin
Lời giải thích Dân Y-sơ-ra-ên chứng minh đức tin của họ bằng cách vâng lời
Đức Chúa Trời hằng ngày, để Ngài cứu rỗi và hướng dẫn họ. Nhờ lưu ý cách
thức Đức Chúa Trời đã làm trọn các lời hứa của Ngài trong quá khứ, họ đã
phát triển được lòng tin quyết mạnh mẽ rằng Ngài cũng sẽ thành tín trong
tương lai.
Tầm quan trọng Sức lực của chúng ta để làm việc cho Đức Chúa Trời đến từ
việc chúng ta tin cậy Ngài. Các lời hứa của Ngài tái bảo đảm cho chúng ta
về tình yêu của Ngài và Ngài sẽ có mặt để hướng dẫn chúng ta trong các
quyết định và những cuộc chiến đấu mà chúng ta phải đương đầu. Đức tin
bắt đầu bằng việc tin rằng Ngài đáng cho chúng ta tin cậy.
Luận đề: Hướng dẫn
Lời giải thích Đức Chúa Trời chỉ giáo cho dân Y-sơ-ra-ên về mọi phương
diện của đời sống. Luật pháp Ngài hướng dẫn cho sinh hoat hằng ngày của
họ, còn các lệnh truyền ra đi đặc thù của Ngài đưa họ đến chiến thắng.
Tầm quan trọng Có thể tìm thấy lời hướng dẫn cho sinh hoạt hằng ngày
trong Lời của Đức Chúa Trời. Bằng cách luôn luôn được liên lạc tiếp xúc
với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ được sự khôn ngoan cần thiết để đối phó với
các thách thức quan trọng của đời sống.
Luận đề: Quyền lãnh đạo
Lời giải thích: Giô-suê là thí dụ về một lãnh tụ tuyệt vời. Ông tin vào sức lực
của Đức Chúa Trời, can đảm khi trực diện với kẻ thù, và sẵn sàng tìm cầu
lời khuyên của Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng Muốn thành một lãnh tụ tài ba như Giô-suê, chúng ta phải
sẵn sàng lắng nghe rồi hành động thật nhanh chóng khi Đức Chúa Trời chỉ
dạy chúng ta. Một khi đã có lời chỉ giáo của Ngài rồi, chúng ta phải thận
trọng thực hiện chúng. Các lãnh tụ tài ba đều do Đức Chúa Trời hướng dẫn.
Luận đề: Chinh phục
Lời giải thích Đức Chúa Trời đã truyền dạy dân Ngài phải chinh phục dân
Ca-na-an và chiếm lấy xứ của họ. Hoàn thành sứ mạng ấy, tức là làm ứng
nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời cho Áp-ra-ham và giáng sự phán xét của
Ngài trên một dân tộc gian ác đang sinh sống tại đó. Tai hại thay, dân Y-sơ-
ra-ên đã chẳng bao giờ hoàn thành công việc ấy.
Tầm quan trọng Dân Y-sơ-ra-ên thoạt đầu đã trung tín hoàn thành sứ mạng
của họ nhưng rồi họ không tận hiến nữa? Yêu mến Đức Chúa Trời có ý
nghĩa sâu sắc hơn là chỉ có lòng nhiệt thành đối với Ngài mà thôi. Chúng ta
phải hoàn thành mọi công tác Ngài giao, và áp dụng lời chỉ giáo của Ngài
vào mọi sinh hoạt của đời sống chúng ta.

Dẫn nhập Các Quan Xét


Các niên đại
Xuất Ai Cập 1446 TC (1280TC)
Dân Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an 1406 (1240)
Giai đoạn các quan xét bắt đầu 1375 (1220)
Ốt-ni-ên 1367-1327 (1202-1162)
Ê-hút 1309-1229 (1184-1104)
Đê-bô-ra 1209-1169 (1192-1152)
Ghê-đê-ôn 1162-1122 (1146-1106)
Sa-mu-ên ra đời 1105 (1083)
Sam-sôn 1075-1055 (1083-1063)
Sau-lơ được xức dầu làm vua 1050 (1045)
Đa-vít lên ngôi vua 1010
Lời giới thiệu
Thời bấy giờ, bậc anh hùng thật sự rất khó tìm. Những công trình sưu tầm
nghiên cứu và báo chí, các phương tiện thông tin hiện đại đang vạch trần các
nhược điểm của các cấp lãnh đạo chúng ta, chúng ta đang phí công vô ích để
đi tìm những người nam người nữ mà mình có thể bắt chước. Các kỹ nghệ
âm nhạc, phim ảnh và thể thao tạo ra cả một lô các “ngôi sao” để đẩy lên tột
đỉnh, để rồi nhanh chóng biến mất khỏi tầm nhìn.
Các quan xét là một quyển sách viết về các bậc anh hùng - 12 nhân vật cả
nam lẫn nữ đã giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi những kẻ áp bức bóc lột họ.
Thật ra thì các quan xét này không phải là toàn thiện, mà gồm cả người từng
phạm tội sát nhân, loạn dâm, và một người vi phạm tất cả các luật lệ về tiếp
đãi khách lạ. Nhưng họ đã biết thuận phục Đức Chúa Trời nên Ngài đã dùng
họ.
Các quan xét còn là một quyển sách bàn về tội lỗi và các hậu quả của nó
nữa. Giống như một vết đứt hay xây xát nhỏ bị nhiễm trùng nếu cứ bỏ mặc
không chịu chữa trị, tội lỗi phát triển và chẳng bao lâu khiến cho toàn thân
thể bị nhiễm độc. Sách Giô-suê kết thúc bằng việc toàn dân đã chọn một lập
trường là đứng vững cho Đức Chúa Trời, sẵn sàng để được hưởng mọi
phước hạnh của đất hứa. Tuy nhiên, sau khi định cư trong xứ Ca-na-an, dân
Y-sơ-ra-ên đã đánh mất lòng tận hiến và phần động cơ thúc đẩy thuộc linh
của họ. Sau khi Giô-suê và các trưởng lão qua đời rồi, dân sự đã trải nghiệm
một khoảng trống về quyền lãnh đạo, bỏ mặc họ chẳng có một chính quyền
trung ương vững mạnh. Thay vì được hưởng cảnh tự do, thịnh vượng trong
đất hứa, họ đã bước vào những ngày đen tối của lịch sử dân tộc.
Nói cách đơn giản, lý do của sự sa sút nhanh chóng ấy là tội - tội lỗi cá nhân
và tập thể. Bước đầu tiên xa lìa Đức Chúa Trời, là tội hoàn toàn không chịu
vâng lời (1:11-2:5); dân Y-sơ-ra-ên đã không chịu tận diệt kẻ thù của họ
khỏi xứ. Điều này dẫn tới tội kết hôn lẫn lộn và thờ thần tượng (2:6-3:7) để
rồi ai nấy đều làm theo điều mà “ý mình tưởng là phải” (17:6). Chẳng bao
lâu, dân Y-sơ-ra-ên đã bị bắt cầm tù. Trong cơn tuyệt vọng, họ đã kêu cầu
Đức Chúa Trời cứu vớt họ. Do lòng thành tín đối với lời hứa và lòng nhân từ
thương xót của Ngài, Đức Chúa Trời đã dấy lên một quan xét để giải thoát
dân sự, và họ tạm thời được sống hoà bình ít lâu. Rồi thói tự phụ tự mãn và
không vâng lời lại xen vào, và cái chu kỳ ấy lại bắt đầu.
Sách Các quan xét choán một giai đoạn hơn 325 năm, ghi lại các thời kỳ bị
áp bức rồi được giải thoát liên tiếp nhau, và công nghiệp của 12 nhà giải
phóng. Những dân tộc bắt bớ hà hiếp họ gồm có các dân Mê-sô-bô-ta-mi,
Mô-áp, Phi-li-tin, Ca-na-an, Ma-đi-an và Am-môn. nhiều nhà giải phóng
thuộc nhiều hạng người khác nhau - từ Ốt-ni-ên đến Sam-sôn - đã được Đức
Chúa Trời dùng để lãnh đạo dân Ngài đến với tự do và sự thờ phượng chân
chính. Việc Đức Chúa Trời nhờ các quan xét giải thoát cho họ là một chứng
minh hùng hồn cho tình yêu và lòng nhân từ khoan dung của Ngài đối với
dân sự Ngài.
Trong khi bạn đọc sách Các quan xét, hãy có cách nhìn thật đúng vào các vị
anh hùng này từ quan điểm sử ký Do Thái. Hãy ghi nhận việc họ đã lệ thuộc
vào Đức Chúa Trời và vâng theo các lệnh truyền của Ngài. Cần quan sát
những lần tuột dốc theo hình trôn ốc vào tội lỗi cứ lặp đi lặp lại của họ, việc
họ từ chối không chịu học hỏi từ lich sử, nhưng chỉ biết sống cho khoảnh
khắc hiện tại mà thôi. Nhưng trên hết tất cả, là hãy có lòng kính sợ Đức
Chúa Trời, Đấng đầy lòng nhân từ thương xót đã nhiều lần giải phóng cho
dân Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để chứng minh rằng việc Đức Chúa Trời trừng phạt tội lỗi là chắc
chắn, và sự tha tội cũng như vãn hồi mối liên hệ cũng chắc chắn như vậy đối
với những ai biết ăn năn.
Trước giả: Rất có thể là Sa-mu-ên
Bối cảnh: Xứ Ca-na-an, về sau gọi là Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời đã trợ giúp
để dân Y-sơ-ra-ên đánh chiếm xứ Ca-na-an, trước đó vốn do nhiều dân tộc
gian ác chiếm ngụ. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên có nguy cơ bị mất nước vì mất
lòng tin và không vâng lời Đức Chúa Trời.
Câu gốc: Cac Tl 17:6
Các nhân vật chính: Ốt-ni-ên, Ê-hút, Đê-bô-ra, Ghê-đê-ôn, A-bi-mê-léc,
Giép-thê, Sam-sôn, Đa-li-la.
Những nét đặc trưng: Ghi lại trận nội chiến đầu tiên của dân Y-sơ-ra-ên.
Bố cục
A. Thất bại về quân sự của dân Y-sơ-ra-ên (1:1-3:6)
1. Không chinh phục được toàn xứ
2. Không vâng lời và bị thua trận
Các chi phái đã bất tuân lệnh của Đức Chúa Trời về vấn đề phải đuổi tất cả
các cư dân của xứ ấy ra khỏi đó. Việc không cất đi trọn vẹn điều ác thường
có nghĩa là sẽ phải chịu cảnh tàn hại về sau. Chúng ta phải đề cao cảnh giác,
đừng bao giờ thỏa hiệp với điều xấu xa gian ác.
B. Dân Y-sơ-ra-ên được các quan xét cứu vớt (3:7-16:31)
1. Giai đoạn thứ nhất: Ốt-ni-ên
2. Giai đoạn thứ hai: Ê-hút và Sam-ga
3. Giai đoạn thứ ba: Đê-bô-ra và Ba-rác
4. Giai đoạn thứ tư: Ghê-đê-ôn, Thô-la và Giai-rơ
5. Giai đoạn thứ năm: Giép-thê, Iếp-san, Ê-lôn, và Áp-đôn
6. Giai đoạn thứ sáu: Sam-sôn
Chúng ta thấy dân Y-sơ-ra-ên phạm tội với Đức Chúa Trời nhiều lần, nên
Ngài cho phép sự đau khổ giáng trên xứ Ca-na-an và dân sự. Tội lỗi bao giờ
cũng tạo hậu quả. Hễ nơi nào có tội lỗi, thì chúng ta có thể trông mong là sẽ
có sự trừng phạt nối gót theo sau. Thay vì cứ sống mãi trong cái chu kỳ bất
tận là từ bỏ Đức Chúa Trời để rồi sau đó lại kêu cầu Ngài cứu vớt, chúng ta
phải tìm cách sống một cuộc đời tận trung, trước sau như một.
C. Thất bại về luân lý đạo đức của dân Y-sơ-ra-ên (17:1-21:25)
1. Vấn đề thờ thần tượng trong chi phái Đan
2. Chiến tranh với chi phái Bên-gia-min
Bất chấp nỗ lực của các quan xét trong dân Y-sơ-ra-ên, dân sự vẫn không
chịu hết lòng quay lại với Đức Chúa Trời. Mọi người đều làm theo điều họ
tự cho là đúng nhất. Hệ quả là có sự sa sút thuộc linh, luân lý đạo đức và
chính trị của toàn dân. Đời sống chúng ta cũng sẽ sa sút và suy tàn nếu
chúng ta không sống theo các đường hướng chỉ đạo mà Đức Chúa Trời đã
dạy chúng ta.
Các đại đề mục
Luận đề: Sa sút / Quên đi
Lời giải thích Hễ khi nào một quan xét qua đời thì dân sự gặp sa sút và thất
bại vì họ quên đi chủ đích thuộc linh cao quí theo nhiều phương diện. Họ
quên mất sứ mạng phải đuổi tất cả các dân khác ra khỏi xứ, nhưng lại theo
các tập tục của các dân sống chung quanh họ.
Tầm quan trọng Xã hội có nhiều phần thưởng để tặng cho những người từ
bỏ đức tin của họ: của cải, hoan nghênh, đề cao, thế lực, ảnh hưởng. Khi nào
Đức Chúa Trời giao cho chúng ta một sứ mạng, xin đừng để cho ước muốn
được xã hội hoan nghênh tán thưởng làm ô nhiễm nó. Chúng ta phải nhìn
chăm vào Chúa Cứu Thế, là quan xét và là Đấng Giải Phóng chúng ta.
Luận đề: Suy tàn / Bội đạo
Lời giải thích Sự sa sút về luân lý đạo đức của dân Y-sơ-ra-ên bắt nguồn từ
lòng thiết tha với nền độc lập của từng chi phái. Nó đưa mọi người tới chỗ
làm bất cứ việc gì tự mình cho là phải. Chẳng hề có sự hợp nhất trong chính
quyền hay trong sự thờ phượng. Luật pháp và luật lệ bị đạp đổ. Cuối cùng
thần tượng và tôn giáo nhân tạo dẫn tới việc từ bỏ hoàn toàn đức tin vào Đức
Chúa Trời.
Tầm quan trọng Chúng ta có thể chờ đợi cảnh suy tàn khi đánh giá bất kỳ
một vật gì cao hơn Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta đánh giá cao quyền độc lập
của mình hơn việc tận hiến cho Đức Chúa Trời, là chúng ta đã đặt một thần
tượng vào trong lòng mình rồi. Chẳng bao lâu, đời sống chúng ta sẽ trở
thành đền thờ cho vị thần đó. Chúng ta phải luôn luôn đặt Đức Chúa Trời lên
hàng đầu của đời sống và mọi ước muốn của chúng ta.
Luận đề: Thua trận / Bị áp bức
Lời giải thích Đức Chúa Trời dùng sự áp bức của Ngài để trừng phạt tội lỗi
của dân Y-sơ-ra-ên, đưa họ đến chỗ phải ăn năn, và để thử nghiệm sự đầu
phục của họ đối với Ngài.
Tầm quan trọng Nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời dẫn tới cảnh tàn hại. Đức
Chúa Trời có thể lợi dụng sự thất bại để đưa những tấm lòng xa cách trở về
với Ngài. Khi mọi sự đều đã bị tước đoạt, chúng ta sẽ nhận thấy tầm quan
trọng của việc chỉ phục vụ một mình Ngài mà thôi.
Luận đề: Ăn năn
Lời giải thích Sa sút, suy tàn và bại trận khiến dân sự cầu cứu với Đức Chúa
Trời. Họ thề nguyện xây bỏ thần tượng để quay về với Đức Chúa Trời hầu
được Ngài thương xót và giải thoát cho. Khi họ chịu ăn năn, thì Đức Chúa
Trời giải cứu họ.
Tầm quan trọng Thần tượng đặt chân được vào lòng chúng ta khi chúng ta
xem một điều gì đó là quan trọng hơn Đức Chúa Trời. Chúng ta phải nhận
diện các thần tượng hiện đại trong lòng mình, từ bỏ chúng, và quay lại với
tình yêu và lòng nhân từ của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Giải phóng / Anh hùng
Lời giải thích Vì dân Y-sơ-ra-ên ăn năn. Đức Chúa Trời đã dấy lên các anh
hùng để giải thoát dân sự khỏi nẻo đường tội lỗi của họ và sự áp bức bóc lột
mà nó đã đem đến. Ngài dùng nhiều loại người để hoàn tất chủ đích ấy bằng
cách đổ đầy Thánh Linh Ngài cho họ.
Tầm quan trọng Thánh Linh của Đức Chúa Trời được dành cho tất cả mọi
người. Bất cứ ai tận hiến cho Đức Chúa Trời đều có thể được Ngài dùng cho
công việc Ngài. Các bậc anh hùng đích thực biêt rõ nỗ lực của loài người chỉ
là vô ích nếu không có sự hướng dẫn và quyền năng của Đức Chúa Trời.

Dẫn nhập Ru-tơ


Lời giới thiệu
Khi có người nói: “Tôi xin kể cho bạn nghe câu chuyện của mẹ vợ (chồng)
tôi”, chắc chúng ta đều mong một số giai thoại tiêu cực hay khôi hài, vì bức
ký hoạ vẽ bà gia (mẹ chồng) là một giai phẩm tập trung vào chuyện giễu cợt
hay bi hài. Tuy nhiên, sách Ru-tơ kể lại một truyện tích khác hẳn. Ru-tơ yêu
mến mẹ chồng mình, là Na-ô-mi. Vừa mới goá chồng, Ru-tơ đã xin được ở
lại với mẹ chồng bất cứ bà đi đâu, cho dù điều đó có nghĩa là nàng phải xa
lìa quê hương xứ sở. Bằng những lời lẽ xuất phát tự đáy lòng: “Ru-tơ thưa
rằng: Xin chớ nài tôi phân rẽ họ; vì mẹ đi đâu, tôi sẽ đi đó; mẹ ở nơi nào, tôi
sẽ ở nơi đó. Dân sự của mẹ, tức là dân sự của tôi; Đức Chúa Trời của mẹ,
tức là Đức Chúa Trời của tôi” (Ru R 1:16). Na-ô-mi đã đồng ý, và Ru-tơ đã
cùng mẹ chồng nàng trở về Bết-lê-hem.
Quyển sách đã chẳng nói gì nhiều đến Na-ô-mi ngoại trừ việc bà yêu mến và
chăm lo săn sóc cho Ru-tơ. Rõ ràng cuộc đời của Na-ô-mi là một lời chứng
hùng hồn cho sự thực hữu của Đức Chúa Trời mà bà thờ phượng. Vào
những tháng năm được mùa, Đức Chúa Trời đã đưa người quả phụ trẻ vốn là
dân Mô-áp này đến với một người tên là Bô-ô và cuối cùng ông này đã cưới
nàng. Hệ quả là Ru-tơ đã trở thành tổ mẫu của Đa-vít và là một tiên tổ của
dòng dõi Đấng Mê-si-a. Cuộc đời của Na-ô-mi đã tạo được một ảnh hưởng
sâu xa thâm nhập lòng người ta!
Sách Ru-tơ cũng là truyện tích về ân điển của Đức Chúa Trời giữa những
hoàn cảnh tình hình khó khăn. Câu chuyện của Ru-tơ đã xảy ra vào thời các
quan xét, một giai đoạn mà dân Y-sơ-ra-ên không vâng lời Đức Chúa Trời,
thờ thần tượng và đầy bạo động. Cả trong những thời kỳ khủng hoảng, tuyệt
vọng nhất vẫn còn có những người đi theo Đức Chúa Trời để Ngài hành
động qua trung gian của họ. Cho dù thế gian này có gây chán nản và đầy
mâu thuẫn như thế nào, luôn luôn vẫn có người trung tín theo Đức Chúa
Trời. Ngài sẽ dùng bất cứ ai sẵn sàng mở lòng ra cho Ngài để thực hiện các
chủ đích của Ngài. Ru-tơ là một người nữ Mô-áp, còn Bô-ô là một hậu duệ
của Ra-háp, nghĩa là một gái mại dâm tại Giê-ri-cô. Tuy nhiên, con cháu của
các vị ấy vẫn tiếp tục thuộc về dòng dõi mà qua đó, Đấng Mê-si-a đã ra đời.
Hãy đọc sách này để được khích lệ. Đức Chúa Trời đang hành động trong
thế gian này và Ngài muốn sử dụng bạn. Đức Chúa Trời có thể dùng bạn
như đã đại dụng Na-ô-mi để đưa gia đình và bè bạn đến với Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để chứng minh thế nào đã có ba người vẫn giữ được cá tính mạnh
mẽ và tận trung với Đức Chúa Trời cả khi xã hội chung quanh đang suy sụp.
Trước giả: Khuyết danh. Một số người gợi ý đó là Sa-mu-ên, nhưng phần
nội chứng gợi ý sách đã được viết sau khi Sa-mu-ên đã qua đời.
Niên đại viết sách: Có thể sau giai đoạn các quan xét (1375-1050 TC)
Bối cảnh: Một thời kỳ đen tối trong lịch sử của dân Y-sơ-ra-ên khi dân sự
chỉ sống để tự làm đẹp lòng mình, chứ không phải là để làm đẹp lòng Đức
Chúa Trời (Cac Tl 17:6)
Câu gốc: Ru R 1:16
Các nhân vật chính: Ru-tơ, Na-ô-mi, Bô-ô
Các địa danh chính: Mô-áp, Bết-lê-hem
Bố cục
1. Ru-tơ vẫn giữ lòng trung tín với Na-ô-mi (1:1-22)
2. Ru-tơ mót lúa trong đồng lúa của Bô-ô (2:1-23)
3. Ru-tơ theo kế hoạch của Na-ô-mi (3:1-18)
4. Ru-tơ và Bô-ô thành vợ chồng (4:1-22)
Khi chúng ta gặp Na-ô-mi lần đầu tiên, nàng là một quả phụ bần cùng.
Chúng ta theo dõi và thấy nàng nhập tịch dân sự Đức Chúa Trời, mót lúa
trong đồng ruộng, và liều lĩnh đến mức có thể bị mất danh dự tại sân đạp lúa
của Bô-ô. Cuối cùng, chúng ta thấy Ru-tơ trở thành vợ Bô-ô. Thật là một
bức tranh tuyệt vời về cách thức để chúng ta có thể đặt đức tin vào Chúa
Cứu Thế. Thoạt đầu, chúng ta hoàn toàn tuyệt vọng, chỉ là những kẻ xa lạ
phản loạn, và chẳng có phần gì trong Nước Trời cả. Rồi chúng ta đã liều bỏ
mọi sự khi đặt đức tin vào Chúa Cứu Thế. Đức Chúa Trời đã cứu chúng
ta,tha tội cho chúng ta, xây dựng lại đời sống chúng ta và ban phước sẽ tồn
tại đời đời cho chúng ta. Bô-ô chuộc lại Ru-tơ là bức tranh về Chúa Cứu Thế
mua chuộc, cứu rỗi chúng ta.
Các đại đề mục
Luận đề: Lòng trung tín
Lời giải thích Ru-tơ trung tín với Na-ô-mi ở cương vị con dâu và bạn thân là
một gương tốt về tình yêu và lòng trung tín. Ru-tơ, Na-ô-mi và Bô-ô cùng
trung tín với Đức Chúa Trời và luật pháp Ngài. Qua cả câu chuyện, chúng ta
thấy lòng thành tín của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài.
Tầm quan trọng Cuộc đời của Ru-tơ được lòng trung tín đối với Đức Chúa
Trời hướng dẫn tự nó đã chứng minh được lòng trung tín của nàng đối với
những người nàng biết rõ. Muốn trung tín và yêu thương trong các mối liên
hệ, chúng ta phải bắt chước lòng thành tín của Đức Chúa Trời trong các mối
liên hệ với tha nhân của chúng ta.
Luận đề: Lòng nhân ái
Lời giải thích Ru-tơ đã tỏ lòng nhân ái với Na-ô-mi. Đến lượt mình, Bô-ô tỏ
lòng nhân ái đối với Ru-tơ, một phụ nữ Mô-áp chẳng có tiền bạc gì, lại còn
bị khinh dể nữa. Đức Chúa Trời đã bày tỏ lòng nhân ái đối với Ru-tơ, Na-ô-
mi và Bô-ô bằng cách đưa cả ba người nào trong chủ đích của Ngài.
Tầm quan trọng Như Bô-ô đã bày tỏ lòng nhân ái bằng việc mua lại đất để
bảo đảm cho quyền thừa kế của Ru-tơ và Na-ô-mi thể nào, thì Chúa Cứu
Thế cũng bày tỏ lòng nhân ái bằng cách chịu chết thay để bảo đảm cho
chúng ta được sự sống vĩnh hằng. Lòng nhân ái của Đức Chúa Trời phải là
động cơ thúc đẩy chúng ta yêu mến và tôn vinh Ngài.
Luận đề: Thanh liêm, trung thực
Lời giải thích Ru-tơ chứng minh cá tính đạo đức cao bằng cách trung thành
với Na-ô-mi, bằng việc từ bỏ quê hương và các tập tục của xứ sở mình, và
bằng việc lao động gian khổ ngoài đồng. Bô-ô tỏ ra trung thực trong các
chuẩn mực đạo đức của ông, bằng sự thành thật và giữ đúng các lời cam kết
của mình.
Tầm quan trọng: Một khi chúng ta đã trải nghiệm lòng thành tín và nhân ái
của Đức Chúa Trời rồi chúng ta phải đáp lại bằng cách cũng tỏ ra thanh liêm
trung thực. Như các giá trị mà Ru-tơ và Bô-ô đã noi theo để sống tương
phản rõ rệt với nền văn hoá đã được mô tả trong sách Các quan xét thế nào,
đời sống chúng ta cũng phải vượt lên trên thế gian chung quanh y như thế.
Luận đề: Sự bảo vệ
Lời giải thích Chúng ta thấy sự quan tâm chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa
Trời trên cuộc đời của Na-ô-mi và Ru-tơ. Quyền tể trị tối cao của Ngài trên
hoàn cảnh tình hình đã đem sự bảo đảm và an ninh cho họ. Ngài hướng dẫn
tâm trí và các hoạt động của người ta để hoàn thành chủ đích của Ngài.
Tầm quan trọng Cho dù hoàn cảnh hiện tại của chung ta có tàn hại đến đâu,
chúng ta vẫn hy vọng vào Đức Chúa Trời. Các nguồn tài nguyên của Ngài
vốn vô hạn. Chúng ta phải tin là Ngài có quyền vận hành trong đời sống của
bất cứ một người nào - dù người ấy là một ông vua hay một người ngoại
quốc. Hãy tin cậy vào sự bảo vệ của Ngài.
Luận đề: Sự thịnh vượng / Phước hạnh
Lời giải thích Ru-tơ và Na-ô-mi đã trở về Bết-lê-hem như hai quả phụ
nghèo, nhưng chẳng bao lâu, họ được thịnh vượng nhờ việc Bô-ô cưới Ru-
tơ. Ru-tơ đã trở thành tổ mẫu của vua Đa-vít. Thế nhưng phước hạnh lớn
nhất không phải là tiền bạc, hôn nhân, hay con cái, mà là phẩm chất của tình
yêu và sự tôn trọng lẫn nhau giữa Ru-tơ, Bô-ô và Na-ô-mi.
Tầm quan trọng Chúng t a có xu hướng nghĩ về phước hạnh là sự thịnh
vượng thay vì là các mối liên hệ có phẩm chất cao mà Đức Chúa Trời giúp
chúng ta thực hiện. Cho dù địa vị kinh tế của chúng ta có như thế nào, chúng
ta đều có thể yêu mến và tôn trọng những người mà Đức Chúa Trời đã đưa
vào trong đời sống chúng ta. Làm như thế là chúng ta vừa ban ra vừa nhận
vào nhiều phước hạnh. Yêu là phước hạnh lớn nhất.

Dẫn nhập I Sa-mu-ên


Các niên đại:
Các quan xét bắt đầu cai trị năm 1375 (1220 TC)
Sa-mu-ên ra đời năm 1105 (1083)
Sau-lơ ra đời năm 1080
Sam-sôn làm quan xét năm 1075 (1083)
Đa-vít lên ngôi vua năm 1040
Đa-vít được xức dầu, Gô-li-át bị giết 1025
Đa-vít làm vua trên xứ Giu-đa 1010
Đa-vít làm vua trên xả Y-sơ-ra-ên 1003
Sa-lô-môn lên ngôi vua 970
Vương quốc bị chia đôi 930
Lời giới thiệu:
“Các đấu thủ đứng vào mức khởi hành”, người cầm cờ lệnh phất lên ra hiệu,
đám đông im lặng tập trung chú ý vào đám lực sĩ đang tiến tới mức khởi
hành. “Chuẩn bị”... tất cả đều đứng vào đúng vị trí của mình, các bắp thịt
căng thẳng, chờ đợi tiếng súng lệnh. Nó vang lên! Và thế là cuộc đua bắt
đầu. Trong bất kỳ một cuộc tranh đua nào, điểm khởi hành cũng là quan
trọng, nhưng đích đến càng quan trọng hơn. Người chạy đầu thường bị mất
sức, phải nhường chỗ cho người chạy ở giữa đoàn. Và có cả tấn thảm kịch là
kẻ bắt đầu thật xuất sắc, dẫn đầu cuộc đua một chặng dài, nhưng lại không
thể theo trọn cuộc thi tài vì nhiều lý do khác nhau như đuối sức, chấn
thương…
Sách Sa-mu-ên thứ nhất là một sách về những khởi điểm quan trọng... và
những kết thúc bi thảm. Nó bắt đầu với thầy tế lễ cả Hê-li vào thời các quan
xét. Là một lãnh tụ tôn giáo, Hê-li chắc phải bắt đầu cuộc đời mình bằng
một mối liên hệ mật thiết với Đức Chúa Trời. Trong việc ông tiếp xúc với
An-ne và huấn luyện cho con trai bà là Sa-mu-ên, ông đã chứng tỏ mình là
một người thông hiểu rõ ràng các chủ đích và tiếng gọi của Đức Chúa Trời
(ISa1Sm 1:1-54; 3:1-24). Nhưng cuộc đời của ông lại kết thúc trong ô nhục
vì hai đứa con trai phạm thượng của ông đã bị Đức Chúa Trời đoán phạt, và
chiếc hòm giao ước sa vào tay các kẻ thù (4:43). Cái chết của Hê-li đánh dấu
sự suy tàn ảnh hưởng của chức vụ tế lễ và sự dấy lên của các nhà tiên tri
trong xứ Y-sơ-ra-ên.
Sa-mu-ên được mẹ ông là bà An-ne tận hiến cho việc phục vụ Đức Chúa
Trời. Ông đã trở thành một trong những nhà tiên tri vĩ đại nhất của dân Y-
sơ-ra-ên. Ông là người cầu nguyện, đã kết thúc công tác của các quan xét,
bắt đầu trường phái của các nhà tiên tri, và xức dầu cho nhà vua đầu tiên của
dân Y-sơ-ra-ên. Thế nhưng, cả đến Sa-mu-ên cũng không được miễn trừ
việc phải kết thúc cuộc đời mình thật hẩm hiu. Cũng như gia đình của Hê-li,
các con trai của Sa-mu-ên đã xây bỏ Đức Chúa Trời; chúng nhận hối lộ để
làm sai lệch các cân công lý. Dân sự đã khước từ quyền lãnh đạo của các
quan xét và các thầy tế lễ và kêu gào xin một nhà vua, “y như các dân tộc
khác đã có rồi” (8:5).
Sau-lơ đã bắt đầu thật nhanh chóng. Là một nhân vật gây kinh ngạc cho mọi
người, chàng thanh niên đẹp trai (9:3) và khiêm hạ (9:21; 10:22) này đã
được Đức Chúa Trời chọn để làm nhà vua đầu tiên cho dân Y-sơ-ra-ên
(10:24). Đầu đời trị vì của ông đã được đánh dấu bằng tài lãnh đạo (11:1-47)
và lòng dũng cảm (14:46-48). Nhưng rồi ông lại không chịu vâng lời Đức
Chúa Trời (15:1-35), trở thành kẻ ghen tị và tự thần thánh hoá (18:1-19:24),
nên cuối cùng đã bị Đức Chúa Trời thu hồi vương quyền (16:1-43). Cuộc
đời của Sau-lơ cứ tiếp tục đi xuống mãi. Bị ám ảnh ước muốn sát hại Đa-vít
(20:1-29:31), Sau-lơ đã cầu vấn một bà bóng (28:1-21), và cuối cùng đã
phạm tội tự sát (31:1-13).
Giữa các biến cố của cuộc đời Sau-lơ là khởi điểm của một nhân vật vĩ đại
khác: Đa-vít. Là một người theo Đức Chúa Trời (13:24; 16:7), Đa-vít đã
phục vụ cho Sau-lơ (16:1-23), giết Gô-li-át (17:1-58),và trở thành một dũng
sĩ. Nhưng chúng ta phải chờ sang quyển thứ nhì của sách Sa-mu-ên mới biết
được kết thúc của Đa-vít như thế nào.
Trong khi bạn đọc sách ISa-mu-ên, hãy lưu ý đến việc chuyển tiếp từ chế độ
thần chủ sang quân chủ,với niềm hoan hỉ trong các câu chuyện cổ điển về
Đa-vít với Gô-li-át, và Đa-vít với Giô-na-than. Nhưng trong lúc đọc cả phần
sử ký lẫn những cuộc phiêu lưu, hãy quyết định chạy cuộc đua của mình với
tư cách một người của Đức Chúa Trời từ đầu chí cuối.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm ghi lại cuộc đời của Sa-mu-ên là vị quan xét cuối cùng, thời
trị vì và sự suy tàn của Sau-lơ là nhà vua đầu tiên, và phần tuyển chọn,
chuẩn bị cho Đa-vít, nhà vua vĩ đại nhất của dân Y-sơ-ra-ên.
Trước giả: Có thể là Sa-mu-ên nhưng còn được bổ sung bằng các văn phẩm
của hai nhà tiên tri Na-than và Gát (ISu1Sb 29:29)
Bối cảnh: Quyển sách bắt đầu vào thời các quan xét và mô tả giai đoạn
chuyển tiếp từ chế độ thần chủ (do Đức Chúa Trời lãnh đạo) sang chế độ
quân chủ (do nhà vua lãnh đạo) trong dân Y-sơ-ra-ên.
Các nhân vật chính: Hê-li, An-ne, Sa-mu-ên, Sau-lơ, Giô-na-than, Đa-vít.
Bố cục:
A. Hê-li và Sa-mu-ên: (1:1-7:17)
1. Sự ra đời và thuở ấu thời của Sa-mu-ên
2. Chiến tranh với dân Phi-li-tin
Chúng ta thấy một sự tương phản sinh động giữa chàng thiếu niên Sa-mu-ên
với các con trai của Hê-li. Các con trai của Hê-li thì ích kỷ, còn Sa-mu-ên lại
sẵn sàng giúp đỡ. Các con trai của Hê-li gian lận đối với dân chúng, nhưng
Sa-mu-ên thì lớn lên trong sự khôn ngoan và truyền lại cho dân sự các bức
thông điệp từ Đức Chúa Trời. Khi đã trưởng thành, Sa-mu-ên là một nhà tiên
tri, một thầy tế lễ và là một quan xét trên dân Y-sơ-ra-ên. Hành động của
một người phản ảnh cá tính của người ấy. Điều đó đã được nghiệm đúng đối
với Sa-mu-ên và các con trai của Hê-li. Nó cũng nghiệm đúng cho chúng ta
nữa. Hãy phấn đấu như Sa-mu-ên, để giữ cho lòng bạn trong sạch trước mặt
Đức Chúa Trời.
B. Sa-mu-ên và Sau-lơ : (8:1-15:35)
1. Sau-lơ làm vua Y-sơ-ra-ên
2. Đức Chúa Trời từ bỏ Sau-lơ vì ông không vâng lời
Sau-lơ tỏ ra có nhiều hứa hẹn. Ông khoẻ mạnh, cao lớn, và khiêm tốn. Thần
của Đức Thánh Linh ngự trên ông, và Sa-mu-ên làm cố vấn cho ông. Nhưng
Sau-lơ cố ý không vâng lời Đức Chúa Trời, và trở thành một bạo chúa.
Chúng ta không nên căn cứ vào phần tiềm năng mình có để xây lên các kỳ
vọng hoặc tương lai cho mình. Trái lại, chúng ta phải luôn luôn vâng lời Đức
Chúa Trời trong mọi lãnh vực của đời sống mình. Đức Chúa Trời đánh giá
cao sự vâng lời, chứ không phải là phần tiềm lực.
C. Sau-lơ và Đa-vít: (16:1-31:13)
1. Sa-mu-ên xức dầu cho Đa-vít
2. Đa-vít và Giô-na-than kết bạn với nhau
4. Sau-lơ rượt đuổi Đa-vít
5. Sau-lơ thất bại và tử trận
Đa-vít đã giết Gô-li-át thật nhanh chóng, nhưng phải kiên trì chờ đợi Đức
Chúa Trời để đối phó với Sau-lơ. Tuy Đa-vít đã được xức dầu để làm vua Y-
sơ-ra-ên tiếp sau đó, ông phải chờ nhiều năm, lời hứa dành cho ông mới
được thực hiện. Hoàn cảnh khó khăn trong đời sống cũng như thì giờ chờ
đợi thường tinh luyện, dạy dỗ và chuẩn bị chúng ta cho các trách nhiệm mà
Đức Chúa Trời dành cho chúng ta trong tương lai.
Các đại đề mục:
Luận đề: Vua
Lời giải thích: Vì dân Y-sơ-ra-ên bị các thầy tế lễ và quan xét tham lam gây
khổ sở, nên họ muốn có một vua. Họ muốn được tổ chức giống như các lân
bang vậy. Tuy điều đó trái với chủ đích nguyên thủy của Đức Chúa Trời
Ngài vẫn chọn cho họ một vua.
Tầm quan trọng: Thiết lập chế độ quân chủ không giải quyết được các vấn
đề của dân Y-sơ-ra-ên. Điều Đức Chúa Trời muốn là sự tận hiến đích thực
tâm trí và tấm lòng của từng người cho Ngài. Chẳng có chính quyền hay bộ
luật nào thay thế được quyền cai trị của Đức Chúa Trời trong tấm lòng và
cuộc đời của bạn.
Luận đề: Sự kiểm soát của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Bao lâu dân Y-sơ-ra-ên xem Đức Chúa Trời là vua đích thực
của họ, thì họ được hưng thịnh. Khi các cấp lãnh đạo xa lìa luật pháp Đức
Chúa Trời, Ngài can thiệp vào đời sống cá nhân của họ và cai trị trên các
hành động của họ. Nhờ vậy, mà Đức Chúa Trời nắm được quyền kiểm soát
tối hậu trên lịch sử dân Y-sơ-ra-ên.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời luôn luôn vận hành trong thế gian này, cả
khi chúng ta không thấy được việc Ngài làm, dù chúng ta bị loại áp lực nào
hay phải thay đổi nhiều đến đâu, cuối cùng Đức Chúa Trời vẫn kiểm soát
được tình hình của chúng ta. Hãy tin quyết vào quyền tể trị của Đức Chúa
Trời, chúng ta sẽ mạnh dạn đương đầu với mọi tình hình khó khăn trong đời
sống chúng ta.
Luận đề: Quyền lãnh đạo
Lời giải thích: Đức Chúa Trời dùng nhiều hình thức lãnh đạo khác nhau để
hướng dẫn dân sự Ngài. Các quan xét, các thầy tế lễ, các nhà tiên tri, các
vua. Những nhân vât được Ngài chọn vào nhiều chức vụ khác nhau, như Hê-
li, Sa-mu-ên, Sau-lơ và Đa-vít, thể hiện nhiều lề lối lãnh đạo khác nhau. Thế
nhưng sự thành công của mỗi nhà lãnh đạo đều tùy thuộc vào sự tận hiến của
vị ấy cho Đức Chúa Trời, chứ không phải là vào địa vị, lề lối lãnh đạo, sự
khôn ngoan, tuổi tác hay sức lực của riêng họ.
Tầm quan trọng: Khi Hê-li, Sa-mu-ên, Sau-lơ và Đa-vít không vâng lời Đức
Chúa Trời, họ đã gặp nhiều hậu quả bi thảm. Tội lỗi ảnh hưởng đến những
gì họ thực hiện cho Đức Chúa Trời và cách thức mà một số người đã trưởng
dưỡng con cái họ. Làm một nhà lãnh đạo chân chính có nghĩa là phải để cho
Đức Chúa Trời điều khiển mọi phương diện của các hoạt động, giá trị, và
mục tiêu của bạn, kể cả cách bạn trưởng dưỡng con cái nữa.
Luận đề: Sự vâng lời
Lời giải thích: Với Đức Chúa Trời thì “sự vâng lời tốt hơn của tế lễ” (15:22).
Ngài muốn người thuộc về Ngài phải vâng lời, phục vụ và hết lòng theo
Ngài thay vì chỉ có sự dấn thân mặt ngoài trên cơ sở là truyền thống hay các
hệ thống nghi lễ mà thôi.
Tầm quan trọng: Tuy chúng ta được tự do không phải tuân thủ hệ thống tế lễ
theo luật Do Thái nữa, chúng ta vẫn có thể còn trông cậy vào phần tuân thủ
nghi lễ bề ngoài để thay thế cho sự tận hiến nội tâm. Đức Chúa Trời muốn
mọi công tác và sự thờ phượng của chúng ta đều được thúc đẩy bởi động cơ
đích thực là thái độ hết lòng tận hiến cho Ngài.
Luận đề: Sự thành tín của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Đức Chúa Trời vẫn thành tín giữ các lời hứa của Ngài với dân
Y-sơ-ra-ên. Ngài đã đáp lại với dân mình bằng lòng nhân từ thương xót âu
yếm và công lý nhanh nhạy. Khi tỏ lòng nhân từ thương xót, Ngài hành
động thành tín để dân Ngài được điều lợi ích nhất. Khi chứng minh công lý,
Ngài thành tín với lời phán và bản tính đạo đức trọn vẹn của mình.
Tầm quan trọng: Vì Đức Chúa Trời vốn thành tín, chúng ta có thể trông cậy
Ngài tỏ lòng nhân từ khoan dung đối với chúng ta. Thế nhưng Đức Chúa
Trời cũng công bằng, nên Ngài sẽ không thể dung thứ kẻ phản loạn chống
lại Ngài. Lòng thành tín và yêu thương bất vị kỷ của Ngài phải cảm động
được chúng ta để chúng ta sẵn sàng tận hiến cho Ngài. Đừng bao giờ quyết
đoán rằng lòng nhân từ thương xót của Chúa sẽ còn mãi cho chúng ta mà
không quan tâm đến thái độ của chúng ta đối với Ngài.

Dẫn nhập II Sa-mu-ên


Các niên đại
Các quan xét bắt đầu cai trị 1375 TC (1220 TC)
Sau-lơ lên ngôi vua, năm 1050 TC (1045 TC)
Sau-lơ thăng hà; Đa-vít làm vua Giu-đa, năm 1010 TC
Đa-vít làm vua trên cả xứ Y-sơ-ra-ên, năm 1003 TC
Đa-vít phạm tội với Bát-sê-ba, năm 997 TC
Sa-lô-môn ra đời, năm 991 TC
Cuộc kiểm tra dân số của Đa-vít năm 980 TC
Đa-vít thăng hà, Sa-lô-môn được tôn làm vua, năm 970 TC
Vương quốc bị chia đôi, năm 930 TC
Lời giới thiệu
Cô bé bước vào phòng với chiếc áo dài lượt thượt kéo lê sau đôi giày cao
gót. Chiếc mũ rộng vành chụp hờ trên đầu nàng, hơi lệch sang phía tay phải,
và xâu chuỗi hạt nơi cổ lắc lư theo mỗi bước chân nàng. Bước sát theo sau là
“người chồng”. Những chiếc móng tay dài của “chàng” vượt khỏi hai tay áo
dài và rộng thùng thình, cùng với đôi chân kéo lê trong đôi giày quá khổ, các
bước đi chập choạng của chàng phản lại nụ cười làm ra vẻ tự tin. Đám trẻ
con tham gia vở kịch đều ăn mặc chỉnh tề - rập mẫu Mẹ và Cha chồng - đang
theo dõi họ chưng diện và bước đi. Thời trang... tất cả bọn họ đều có những
bộ xiêm y hợp thời trang... là những người mà thiên hạ đang bắt chước,
những con người lý tưởng cho chúng ta. Và có lẽ chúng ta đều đang vô tình
rập mẫu các hành động của họ và tiếp thu các ý kiến của họ nữa. (xxxĐoạn
này chưa rõ nghĩa nên không biết sửa thế nàoxxx)
Trong số các khuôn mẫu về con người tin kính được đề cập trong Thánh
Kinh, có lẽ đã chẳng ai vượt trội hơn vua Đa-vít. Ra đời vào khoảng giữa
Áp-ra-ham và Chúa Giê-xu, ông đã trở thành nhà lãnh đạo của toàn dân Y-
sơ-ra-ên và là tổ phụ của Đấng Mê-si-a. Đa-vít là người “theo lòng của Đức
Chúa Trời” (ISa1Sm 1:13,14). Đâu là các đức tính cá nhân của Đa-vít, khiến
ông được đẹp lòng Đức Chúa Trời như thế?
Sách IISamuên kể lại truyện tích của Đa-vít. Trong khi đọc sách ấy, bạn sẽ
cảm thấy vô cùng phấn khởi lúc ông được tin làm vua trên xứ Giu-đa rồi
trên cả xứ Y-sơ-ra-ên (IISa 2Sm 5:1-5) lúc ông ca ngợi tán tụng khi rước
hòm giao ước trở vào đền tạm (IISa 2Sm 6:1-23) và reo mừng khi ông cầm
đầu các đạo quân của mình chiến thắng các kẻ thù và hoàn tất việc chinh
phục đất hứa đã được Giô-suê bắt đầu (8-10). Đa-vít là một nhân vật rất
thành đạt.
Nhưng Đa-vít cũng chỉ là một con người, và cũng đã gặp những thời kỳ đen
tối khiến ông va vấp và phạm tội. Phần ký thuật về lòng tham dục, tội ngoại
tình và sát nhân của ông thật chẳng dễ đọc chút nào (11-13) nhưng đã cho
chúng ta một bài học, ngay đến các nhân vật vĩ đại sống đẹp lòng Đức Chúa
Trời vẫn có thể bị cám dỗ sa vào tội lỗi.
Nếp sống tin kính đạo đức không bảo đảm được cho người ta một cuộc đời
dễ dãi và vô tư. Đa-vít có nhiều vấn đề về gia đình - chính con trai ông đã
khích động cả nước phản lại ông và tự xưng vương (IISa 2Sm 14:1-18:33).
Và tính cách cao trọng có thể làm nảy sinh thói kiêu ngạo, như chúng ta sẽ
thấy trong hành động tội lỗi của Đa-vít là lập một cuộc kiểm tra dân số nhằm
đề cao sự hùng cường của dân tộc mình (IISa 2Sm 24:1-25). Nhưng câu
chuyện về vị anh hùng sa ngã này vẫn chưa kết thúc tấn thảm kịch. Nhờ biết
ăn năn, mối giao hảo và sự bình an với Đức Chúa Trời tuy đã được vãn hồi,
nhưng ông vẫn phải trực diện với các hậu quả của những tội lỗi đã vi phạm
(12-20). Các hậu quả này đã theo đuổi ông suốt cuộc đời còn lại như để nhắc
nhở ông về các hành vi tội lỗi của mình và nhu cầu về Đức Chúa Trời của
ông.
Trong khi bạn đọc sách IISa-mu-ên, hãy tìm cầu các đặc điểm giống như
Đức Chúa Trời của Đa-vít - lòng trung tín, đức nhẫn nại, can đảm, hào hiệp,
tận hiến và chân thành của ông - cũng như các đặc điểm rất được Đức Chúa
Trời coi trọng, như đức khiêm tốn và lòng đau thương thống hối. Nhiều bài
học có giá trị có thể được rút ra từ các tội lỗi và sự ăn năn của ông. Cũng
như Đa-vít, bạn có thể trở thành một con người “theo lòng Đức Chúa Trời”.
Các đặc điểm quan trọng:
Các chủ đích:
1. Nhằm ghi lại lịch sử thời trị vì của Đa-vít
2. Để chứng minh quyền lãnh đạo có kết quả khi người ta chịu đầu phục Đức
Chúa Trời.
3. Để nêu rõ một người có thể hành động khác đi
4. Để chứng minh các đặc tính cá nhân đẹp lòng Đức Chúa Trời
5. Để tả vẽ Đa-vít như một lãnh tụ lý tưởng của một vương quốc bất toàn, để
chỉ bóng về Chúa Cứu thế, Đấng sẽ là lãnh tụ lý tưởng của một vương quốc
hoàn toàn (chương 7).
Trước giả: Khuyết danh, một số người gợi ý rằng Na-than con trai Xa-lút có
lẽ là trước giả sách này (dc IVua 4:5;). Sách này cũng gồm luôn các văn
phẩm của Na-than và Gót nữa (ISu1Sb 29:29).
Niên đại viết sách: Năm 930 TC, được viết ngay sau thời trị vì của Đa-vít,
1050-970 TC
Bối cảnh: Xứ Y-sơ-ra-ên dưới thời trị vì của Đa-vít
Câu chìa khoá: “Bấy giờ, Đa-vít nhìn biết rằng Đức Giê-hô-va đã lập mình
làm va trên Y-sơ-ra-ên, và khiến nước mình được thạnh vượng vì cớ dân Y-
sơ-ra-ên của Ngài” (5:2).
Những nét đặc trưng: Sách này được đặt tên theo nhà tiên tri đã xức dầu cho
Đa-vít (làm vua) và hướng dẫn ông để biết sống cho Đức Chúa Trời.
Bố cục:
A. Những thành công của Đa-vít (1:1-10:19)
1. Đa-vít lên ngôi vua Giu-đa
2. Đa-vít lên ngôi vua Y-sơ-ra-ên
3. Đa-vít chinh phục các lân bang
Đa-vít tiếp thu vương quốc đã bị biến thành nhiều mảnh vụn mà Sau-lơ để
lại để gây dựng thành một thế lực hùng cường và thống nhất. Bốn mươi năm
sau, Đa-vít sẽ giao vương quốc này lại cho con trai mình là Sa-lô-môn. Đa-
vít dâng tấm lòng mình cho Đức Chúa Trời. Ông là một nhà vua đã cai trị
dân sự của Đức Chúa Trời theo các đường lối của Đức Chúa Trời, và Ngài
đã ban nhiều phước hạnh cho ông. Có lẽ chúng ta sẽ không được nhiều
thành công trên đời này như Đa-vít, nhưng suy cho cùng, thì theo Đức Chúa
Trời là quyết định thành công nhất mà một người có thể có được.
B. Những cuộc chiến đấu của Đa-vít (11:1-24:25)
1. Đa-vít và Bát-sê-ba
2. Náo loạn trong gia đình Đa-vít
3. Các cuộc nội loạn chống Đa-vít
4. Những năm trị vì cuối cùng của Đa-vít.
Đa-vít đã phạm tội với Bát-sê-ba, rồi tìm cách lấp liếm tội lỗi của mình bằng
việc bày mưu sát hại luôn chồng bà ta. Tuy nhà vua đã được tha tội, các hậu
quả vẫn còn - nhà vua đã phải gặp hoạn nạn rắc rối, cả với gia đình lẫn đất
nước dân tộc. Đức Chúa Trời bao giờ cũng sẵn lòng tha thứ, nhưng chúng ta
vẫn phải gánh lấy hậu quả do hành động của mình. Che giấu tội lỗi mình, chỉ
khiến hậu quả được nhân lên gấp bội mà thôi.
Các đại đề mục
Luận đề: Vương quốc phát triển
Lời giải thích: Dưới quyền lãnh đạo của Đa-vít, vương quốc của Y-sơ-ra-ên
đã nhanh chóng phát triển. Cùng với sự phát triển là nhiều biến chuyển: từ
nền độc lập của một chi phái đến một chính phủ tập quyền, từ quyền lãnh
đạo của một quan xét đến chế độ quân chủ, từ việc thờ phượng lương tâm
đến sự thờ phượng tại Giê-ru-sa-lem.
Tầm quan trọng: Cho dù chúng ta từng trải được bao nhiêu sức phát triển
hay thay đổi. Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục cung ứng cho chúng ta nếu chúng
ta yêu mến và tôn trọng các nguyên tắc của Ngài. Công việc của Đức Chúa
Trời được thực thi theo đường lối Ngài, thì Ngài không bao giờ để chúng ta
thiếu khôn ngoan và năng lực.
Luận đề: Tính cách cao trọng cá nhân
Lời giải thích: Danh tiếng và ảnh hưởng của Đa-vít đã tăng lên rất nhiều.
Ông nhận thức được rằng có Đức Chúa Trời ẩn phía sau sự thành công của
ông, vì Ngài muốn dốc đổ đức nhân từ khoan dung của Ngài trên dân Y-sơ-
ra-ên. Đa-vít xem các mối bận tâm của Đức Chúa Trời là quan trọng hơn các
lợi ích của riêng mình.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời dốc đổ rời rộng các đặc ân của Ngài trên
chúng ta vì những gì Chúa Cứu Thế đã làm. Ngài không xem tích cách cao
trọng cá nhân như điều có thể đem ra sử dụng một cách ích kỷ mà phải là
công cụ để chuyển tải công tác của Ngài đến cho dân sự (những người thuộc
về) Ngài. Sự cao trọng mà chúng ta nên ao ước, là yêu người khác như Đức
Chúa Trời đã yêu chúng ta vậy.
Luận đề: Công lý
Lời giải thích: Vua Đa-vít chứng minh đức công bằng, khoan dung và ưu ái
với gia đình Sau-lơ, các kẻ thù kẻ phản loạn các liên minh và bạn bè thân
thiết với mình y như nhau. Cách cai trị công minh của nhà vua có cơ sở là
đức tin và sự nhận biết Đức Chúa Trời của mình. Bản tính đạo đức trọn vẹn
của Đức Chúa Trời là định chuẩn cho công lý.
Tầm quan trọng: Tuy Đa-vít là nhà vua công minh nhất trong các vua Y-sơ-
ra-ên, ông vẫn còn bất toàn. Cách sử dụng công lý của nhà vua đem đến cho
mọi người niềm hi vọng và một vương quốc lý tưởng trên thiên đàng. Niềm
hi vọng sẽ chẳng bao giờ thoả mãn được trong lòng người ta, trước khi Chúa
Cứu Thế, là hậu duệ của Đa-vít sẽ đến để cai trị miên viễn bằng công lý trọn
vẹn của Ngài.
Luận đề: Các hậu quả của tội lỗi
Lời giải thích: Đa-vít đã từ bỏ chủ đích của nhà lãnh đạo và nhà vua trong
thời chiến của mình. Ông muốn được thịnh vượng và an nhàn nên từ chỗ
chiến thắng, ông đã gặp hoạn nạn. Vì Đa-vít phạm tội ngoại tình với Bát-sê-
ba, nhà vua đã phải gánh chịu nhiều hậu quả của nó, đã gây tàn hại cho cả
gia đình lẫn đất nước của mình.
Tầm quan trọng: Cám dỗ thường đến khi một người sống vô mục đích. Lắm
khi chúng ta tưởng rằng hưởng các lạc thú và quyền tự do, thoát khỏi sự
kiềm chế của Đức Chúa Trời, sẽ đem đến cho chúng ta cảm giác về sinh lực,
nhưng tội lỗi tạo ra một chu kỳ đau khổ hoàn toàn không tương xứng với các
lạc thú phù du mà nó đem đến.
Luận đề: Bàn chân bằng đất sét
Lời giải thích: Chẳng những Đa-vít đã phạm tội với Bát-sê-ba mà còn sát hại
một người vô tội nữa. Vua đã không sửa trị các con trai khi chúng tham gia
các tội cưỡng dâm và giết người. Vị anh hùng vĩ đại này đã tỏ ra thiếu cá
tính trong một số các quyết định quan trọng nhất cho cuộc đời mình. Con
người sắt lại chỉ có đôi bàn chân bằng đất sét
Tầm quan trọng: Chẳng bao giờ nên xem tội lỗi chỉ là một nhược điểm hay
môt sơ xuất. Tội lỗi vô cùng tai hại và cần phải được xoá sạch khỏi đời sống
chúng ta. Cuộc đời của Đa-vít dạy chúng ta phải nhân ái đối với mọi người,
kể cả những kẻ mà bản tính tội lỗi đưa họ đến chỗ có hành động phạm tội.
Nó được dùng làm một lời cảnh cáo chúng ta đừng biện bạch cho tội lỗi
trong chính đời sống của chúng ta, cả khi chúng ta thành công.

Dẫn nhập I Các Vua


Các niên đại
Đa-vít làm vua năm 1010 TC
Sa-lô-môn làm vua năm 970 TC
Đền thờ được hoàn tất năm 959 TC
Vương quốc chia đôi năm 930 TC
Si-sắc xâm lăng Giê-ru-sa-lem năm 925 TC
A-sa làm vua Giu-đa năm 910 TC
Ê-li bắt đầu chức vụ năm 875 TC
A-háp làm vua Y-sơ-ra-ên năm 874 TC
Giô-sa-phát làm vua Giu-đa năm 872 TC
Bên-ha-đát tấn công Sa-ma-ri năm 857 TC
A-háp tử trận năm 853 TC
Lời giới thiệu
“Con bất chấp người khác nói gì, con sẽ bắt tay vào việc đây!”, hắn ta thét
lên với mẹ mình như thế, vừa thoát như giông như gió ra khỏi nhà. Đây là
một màn kịch quen thuộc trong xã hội của chúng ta. Nhiều lời lẽ đã được
thay đổi, nhưng bức thông điệp vẫn y nguyên... con người vẫn không chịu
mở lòng ra để nghe lời khuyên bảo vì tâm trí họ đã đóng chặt rồi. Một vài lời
khuyên có lẽ cũng được suy nghĩ, nhưng nó chỉ được chú ý nếu nó tăng
cường thêm cho các quyết định mà người ta đã có rồi hoặc là một nẻo đường
dễ đi hơn. Bản tính của con người là từ chối sự trợ giúp và làm mọi việc theo
ý riêng.
Còn có một phương pháp khôn ngoan hơn, là tìm cầu lắng nghe, và để ý đến
lời khuyên của một mưu sĩ (cố vấn) giỏi. Sa-lô-môn, người khôn ngoan nhất
trên đời, đã khuyên như thế trong sách Châm ngôn (ChCn 11:14; 15:22;
24:6). Thật mỉa mai biết bao khi con trai và là người kế vị vua ấy là Rô-bô-
am lại chỉ nghe những lời khuyên dại dột, dẫn tới nhiều hậu quả tàn hại. Vào
ngày đăng quang của Rô-bô-am, dân sự đã nài xin vua hãy là một nhà vua tử
tế và hào hiệp. Các trưởng lão thì khuyên nhà vua làm như người đầy tớ của
dân sự này, phục vụ họ, đáp lời, trò chuyện tử tế cùng họ” ( IVua 1V 7).
Nhưng Rô-bô-am lại nhất trí với những lời lẽ tàn bạo của các bạn đồng trang
lứa với mình, thúc giục nhà vua tỏ ra tàn bạo. Hậu quả là Rô-bô-am đã khiến
cho vương quốc của mình chia đôi. Hãy học tập từ sự sai lầm của Rô-bô-am.
Hãy dấn thân tìm cầu và noi theo lời khuyên khôn ngoan. Các biến cố chủ
yếu xảy ra trong sách IVua là sự thăng hà của Đa-vít, thời trị vì của Sa-lô-
môn, vương quốc bị chia đôi, và chức vụ của Ê-li. Lúc Sa-lô-môn lên ngôi,
Đa-vít đã nghiêm khuyến vua ấy là phải vâng theo luật pháp của Đức Chúa
Trời và bước đi “trong đường lối Ngài” ( IVua 1V 2:3). Đó là điều Sa-lô-
môn đã làm theo, nên khi chọn các ân tứ Chúa ban, nhà vua đã khiêm tốn
cầu xin khả năng biết biện biệt ( IVua 1V 3:9). Kết quả là thời trị vì của Sa-
lô-môn đã bắt đầu với thật nhiều thành công, kể cả việc xây cất đền thờ - là
thành tựu vĩ đại nhất của nhà vua. Tai hại thay, Sa-lô-môn cưới nhiều vợ
ngoại đạo, để rồi đến cuối cùng, đã khiến lòng vua xây khỏi Đức Giê-hô-va
mà hướng về các tà thần ( IVua 1V 11: 1- 4).
Rô-bô-am nối ngôi Sa-lô-môn và có cơ hội để trở thành minh quân, làm một
nhà vua nhân ái và công bằng. Nhưng thay vào đó, vua ấy lại nghe những lời
sàm tấu của đám bạn bè trẻ tuổi của mình và cố tìm cách trị vì bằng một bàn
tay sắt. Và dân sự đã nổi loạn, vương quốc bị chia đôi với mười chi phái ở
miền Bắc (Y-sơ-ra-ên) do Giê-rô-bô-am ở lại với Rô-bô-am mà thôi. cả hai
vương quốc đều noi theo nẻo đường gian ác và thờ thần tượng của nhiều thời
trị vì của các nhà vua, chỉ có tiếng nói rõ ràng của các nhà tiên tri là còn tiếp
tục để cảnh cáo và kêu gào cả dân tộc hãy quay lại với Đức Chúa Trời. Ê-li
quả thật là một trong số các nhà tiên tri vĩ đại nhất, và các IVua 1V 17:1-
22:54 mô tả những nét đặc trưng của cuộc tranh chấp giữa ông với kẻ ác, tức
là A-háp và Giê-sa-bên trong xứ Y-sơ-ra-ên. Nhưng một trong những cuộc
đối đầu đầy kịch tích vào bậc nhất lịch sử, là Ê-li đã đánh bại các tiên tri của
Ba-anh trên núi Cạt-mên. Mặc dù bị chống đối dữ dội, Ê-li đã đứng vững với
Đức Chúa Trời để chứng minh rằng một người cộng với Đức Chúa Trời tức
là đa số. Nếu Đức Chúa Trời đứng về phía chúng ta, thì chẳng có ai chống
nổi chúng ta cả (RoRm 8: 31).
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm ghi lại sự tương phản trong cuộc đời của những người sống
cho Đức Chúa Trời, với những kẻ không đi theo đường lối Ngài qua sử ký
của các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
Trước giả: Khuyết danh. Có lẽ là Giê-rê-mi hoặc một nhóm các nhà tiên tri.
Bối cảnh: Quốc gia Y-sơ-ra-ên đã từng hùng cường, nay biến thành một đất
nước bị phân đôi, không chỉ về mặt hình thể mà thôi, mà cả về mặt thuộc
linh nữa.
Các câu chìa khoá: “Còn ngươi, nếu ngươi đi trước mặt ta, như Đa-vít, cha
ngươi đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng mà làm theo các điều mà ta đã
phán dặn ngươi, giữ các mạng lịnh và luật lệ của ta, bấy giờ ta sẽ làm cho
ngôi nước ngươi kiên cố đến đời đời trên Y-sơ-ra-ên, y như ta đã hứa cùng
Đa-vít, mà rằng: Ngươi sẽ chẳng hề thiếu kẻ hậu tự ngươi ngồi trên ngôi Y-
sơ-ra-ên” ( IVua 1V 9: 4,5).
Các nhân vật chính: Đa-vít, Sa-lô-môn, Rô-bô-am, Giê-rô-bô-am, Ê-li, A-
háp, Giê-sa-bên.
Những nét đặc trưng: Hai sách I và II Vua nguyên chỉ là một.
Bố cục:
A. Vương quốc thống nhất (IVua 1V 1:1-11:43)
1. Sa-lô-môn lên ngôi
2. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn
3. Sa-lô-môn xây đền thờ
4. Sự cao trọng rồi suy sụp của Sa-lô-môn
Sa-lô-môn là một nhà thảo mộc học, động vật học kiến trúc sư, thi sĩ, và triết
gia. Vua ấy là nhà vua khôn ngoan nhất trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên, nhưng
vợ (hoàng hậu, cung phi) của vua đã đưa nhiều tà thần và việc thờ phượng
các tà thần ấy vàoY-sơ-ra-ên. Kiên trì nhẫn nhục vâng lời Đức Chúa Trời
phải là đặc điểm của đời sống chúng ta. Mục tiêu cao nhất của đời sống
người ta là vâng lời Đức Giê-hô-va. Có sự khôn ngoan là điều ích lợi cho
chúng ta, nhưng chỉ có chừng đó thôi thì chưa đủ.
B. Vương quốc bị phân đôi (IVua 1V 12:1-22:53)
1. Cuộc nổi loạn của các chi phái miền Bắc
2. Các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa
3. Chức vụ của Ê-li
4. Các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
Khi vương quốc miền Bắc là nước Y-sơ-ra-ên bị các nhà vua gian ác lãnh
đạo, Đức Chúa Trời đã dấy lên một tiên tri để rao truyền các thông điệp của
Ngài. Với đôi bàn tay trắng, Ê-li đã thách thức cả giới thầy tế lễ của một
quốc giáo và diệt trừ họ chỉ trong một ngày. Nhờ việc chia đôi vương quốc
và sai Ê-li đến, Đức Chúa Trời đã đối phó với tội lỗi của dân sự theo nhiều
cách thức đầy quyền năng. Tội lỗi trong đời sống chúng ta đều được Đức
Chúa Trời lấy ân điển để tha thứ khi chúng ta ăn năn. Tuy nhiên, tội của một
kẻ không chịu ăn năn sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Chúng ta phải xây bỏ tội lỗi
và quay trở về với Đức Chúa Trời để được cứu khỏi bị phán xét.
Các đại đề mục
Luận đề: Vua
Lời giải thích: Sự khôn ngoan quyền thế và các thành tựu của Sa-lô-môn
đem vinh dự về cho dân Y-sơ-ra-ên và cho Đức Chúa Trời. Tất cả các vua
của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều được truyền bảo phải vâng lời Đức Chúa Trời
và cai trị theo luật pháp của Ngài. Nhưng khuynh hướng muốn từ bỏ các
mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và thờ lạy các thần khác đã dẫn họ đến chỗ
thay đổi tôn giáo và chính quyền, để thoả mãn các dục vọng riêng của họ.
Chính việc từ bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời đó, đã đưa họ đến chỗ bị sụp
đổ.
Tầm quan trọng: Khôn ngoan, quyền thế và thành tựu, suy cho cùng, đều
không do bất kỳ một nguồn gốc nào từ loài người mà có; chúng đều bắt
nguồn từ Đức Chúa Trời. Cho dù chúng ta có cai trị hay lãnh đạo như thế
nào, chúng ta sẽ không thể làm được tốt nếu bỏ các nguyên tắc chỉ đạo của
Đức Chúa Trời. Cho dù chúng ta có là cấp lãnh đạo hay không, thành công
của chúng ta lệ thuộc vào việc chúng ta lắng nghe và vâng lời Đức Chúa
Trời. Đừng để cho các dục vọng cá nhân xuyên tạc lời Đức Chúa Trời.
Luận đề: Đền thờ
Lời giải thích: Đền thờ do Sa-lô-môn xây là một nơi đẹp đẽ để thờ phượng
và cầu nguyện. Nơi thánh này là trung tâm của Do Thái giáo. Đó là nơi hiện
diện đặc biệt của Đức Chúa Trời và là nơi đặt hòm giao ước bên trong có
Mười Điều Răn.
Tầm quan trọng: Một nơi thờ phượng đẹp đẽ không luôn luôn bảo đảm cho
những phước hạnh người ta nhận được trong khi thờ phượng Đức Chúa
Trời. Tạo cơ hội cho sự thờ phượng thật không bảo đảm được cho việc ấy
xảy ra. Đức Chúa Trời muốn sống trong lòng chúng ta, chứ không phải chỉ
trong thánh đường mà thôi.
Luận đề: Các thần khác
Lời giải thích: Tuy dân Y-sơ-ra-ên có luật pháp của Đức Chúa Trời và từng
trải việc Ngài hiện diện giữa họ, họ vẫn bị các thần khác lôi kéo. Khi việc ấy
xảy ra lòng họ trở thành nguội lạnh đối với luật pháp Đức Chúa Trời mà hậu
quả là gia đình, chính quyền của họ bị tàn hại, và cuối cùng dẫn đến việc cả
dân tộc bị tiêu diệt.
Tầm quan trọng: Qua nhiều năm, dân sự nhiễm lấy các thói xấu của các tà
thần mà họ thờ lạy. Họ trở thành tàn ác, tham quyền, và sai lệch về tình dục.
Chúng ta có xu hướng trở thành điều mà chúng ta thờ lạy. Nếu không phục
vụ Đức Chúa Trời chân chính chúng ta sẽ trở thành nô lệ cho bất kỳ điều gì
chiếm lấy chỗ của Ngài.
Luận đề: Thông điệp của nhà tiên tri
Lời giải thích: Trách nhiệm của nhà tiên tri là đối diện để sửa sai bất cứ việc
nào lệch khỏi luật pháp của Đức Chúa Trời. Ê-li là nhân vật chủ chốt để rao
truyền sự phán xét chống lại dân Y-sơ-ra-ên. Các bức thông điệp bằng phép
lạ của ông là lời cảnh cáo đối với các vua và những kẻ gian ác, phản loạn.
Tầm quan trọng: Thay đổi đời sống để vâng lời Đức Chúa Trời và quay lại
với đường đi đúng thường đòi hỏi phải chịu sửa phạt đau đớn và làm việc
gian khổ.
Luận đề: Tội lỗi và ăn năn
Lời giải thích: Mỗi nhà vua đều có các mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, một
thầy tế lễ hoặc một nhà tiên tri, và các bài học trong quá khứ để kéo mình
quay về với Đức Chúa Trời. Mọi người đều có cùng phương cách như nhau.
Khi nào họ ăn năn tội và quay trở về với Đức Chúa Trời, thì Ngài nghe lời
cầu nguyện và tha tội cho họ.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời nghe và tha tội cho chúng ta khi chúng ta
cầu nguyện - nếu chúng ta sẵn sàng tin cậy Ngài và xây bỏ tội lỗi. Ước muốn
xa lánh tội của chúng ta phải thành thật và xuất phát tự đáy lòng. Như thế,
Ngài sẽ ban cho chúng ta một điểm bắt đầu mới và một ước vọng sống cho
Ngài.

Dẫn nhập II Các Vua


Các niên đại
Vương quốc bị phân đôi năm 930 TC
A-háp tử trận năm 853
Chức vụ cua Ê-li được chuyển sang cho Ê-li-sê, năm 848
Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên năm 841
Giô-ách làm vua Giu-đa năm 835
Chức vụ của Ê-li-sê kết thúc năm 797
Giê-rô-bô-am II làm vua Y-sơ-ra-ên năm 793
Chức vụ của A-mốt bắt đầu năm 760
Chức vụ của Ô-sê bắt đầu năm 753
Chức vụ của Mi-chê bắt đầu năm 742
Chức vụ của Ê-sai bắt đầu năm 740
Y-sơra-ên (vương quốc miền Bắc) thất thủ năm 722
Ê-xê-chia làm vua Giu-đa năm 715
Giô-si-a làm vua Giu-đa năm 640
Chức vụ của Giê-rê-mi bắt đầu năm 627
Sách luật pháp được tìm thấy trong đền thờ năm 622
Cuộc lưu đày lần thứ nhất của Giu-đa, Đa-ni-ên bị bắt đi năm 605
Cuộc lưu đày lần thứ hai của Giu-đa, Ê-xê-chi-ên bị bắt đi năm 597
Giu-đa (vương quốc miền Nam) thất thủ năm 586
Lời giới thiệu
Lấp lánh sáng lên khi va mạnh vào những tảng đá dọc theo hai bên bờ, dòng
sông cuốn nhanh như thác đổ hướng về phía biển. Dòng nước như vồ chụp
như xô đẩy nào là các cành cây, lá khô và những khúc gỗ vừa to vừa nhỏ,
đun đẩy chúng dọc theo dòng chảy. Chỗ này chỗ nọ một vài vận động viên
thể thao nổi bật hẳn lên rải rác trên một chiếc thuyền hay tam bản, trôi xuôi
theo dòng nước. Luật hấp lực đẩy nước, và dòng sông thì đẩy những vật còn
lại ... trôi xuống phía dưới. Thình lình một chiếc hoả tiễn màu bạc xé mặt
nước và tiến như tên bắn ngược dòng rồi một chiếc khác nữa. Rõ ràng là
đang vùng vẫy lội ngược, con cá hồi lấp lánh muốn bơi ngược dòng nước.
Chúng phải trở về vùng thượng nguồn, và sẽ chẳng có gì ngăn được chúng
đến nơi chúng muốn đến.
Dòng sông của xã hội đang chảy xiết và giận dữ, đẩy mọi vật trên đường đi
của nó trôi theo.Thật là dễ trôi theo dòng nước. Nhưng Đức Chúa Trời kêu
gọi chúng ta phải lội ngược dòng. Sự việc sẽ không dễ dàng, và có lẽ chúng
ta rất cô đơn, nhưng đó là cách sống đúng.
Trong sách II Các vua, chúng ta đọc về các nhà vua làm điều ác, việc thờ
thần tượng lan tràn, và một đám quần chúng tự phụ tự mãn - chắc chắn là
đang bị đẩy xuống dốc. Bất chấp áp lực muốn rập mẫu với nếp sống của thế
gian xây bỏ Đức Chúa Trời để chỉ phục vụ cho “cái ta” mà thôi, một thiểu số
người được chọn cũng biết hướng về chiều ngược lại, nghĩa là về phía Đức
Chúa Trời. Các nhà tiên tri tại Bê-tên và nhiều người khác nữa, cũng như hai
nhà vua công chính, vẫn truyền dạy lời của Đức Chúa Trời và đứng vững
cho Ngài. Trong khi bạn đọc sách II Các vua, hãy theo dõi các cá nhân can
đảm ấy. Hãy tìm cầu sức lực và sự mạnh dạn của Ê-li với Ê-li-sê sự tận hiến
của Ê-xê-chia và Giô-si-a, để nhất định làm một người dám lội ngược dòng!
Sách Các Vua thứ hai tiếp tục sử ký của dân Y-sơ-ra-ên, ở khoảng giữa ngày
thăng hà của Đa-vít với cái chết của dân tộc ấy. Xứ Y-sơ-ra-ên đã bị chia đôi
(IVua 1V 12:1-33) và cả hai vương quốc đều bắt đầu sa vào sự thờ thần
tượng và tham nhũng thối nát hướng tới chỗ sụp đổ và bị lưu đày. Sách Các
Vua thứ hai kể lại những câu chuyện bẩn thỉu của 12 ông vua của vương
quốc miền Bắc (gọi là Y-sơ-ra-ên) và 16 ông vua của vương quốc miền Nam
(gọi là Giu-đa). Suốt 130 năm, dân Y-sơ-ra-ên đã phải chịu đựng việc các
nhà vua gian ác ấy nối ngôi nhau cho đến khi họ bị Sanh-ma-na-se vua A-sy-
ri chinh phục và bắt đi đày năm 722 TC (17:6). Trong số tất cả các nhà vua
của cả hai miền Nam Bắc ấy, chỉ có hai vị - là Ê-xê-chia và Giô-si-a - là có
thể được gọi là làm điều thiện. Nhờ sự vâng lời Đức Chúa Trời của họ và
những cơn phục hưng thuộc linh dưới thời trị vì của các vua ấy, Giu-đa mới
đứng thêm được 136 năm nữa cho đến khi sa vào tay Nê-bu-cát-nết-sa và
người Ba-by-lôn năm 586 TC.
Qua suốt giai đoạn đen tối này, Thánh Kinh đề cập 30 nhà tiên tri đã rao
truyền thông điệp của Đức Chúa Trời cho dân sự và các lãnh tụ của họ.
Đáng chú ý nhất trong số các nhà tiên tri bất khuất ấy của Đức Chúa trời, có
Ê-li và Ê-li-sê. Lúc Ê-li sắp kết thúc chức vụ trên đất này của ông, thì Ê-li-sê
còn cầu xin gấp đôi phần thần linh của người thầy yêu dấu của mình (2:9).
Chẳng bao lâu sau đó. Ê-li được cất lên trời trong một cơn lốc (2:11), và Ê-
li-sê trở thành người phát ngôn của Đức Chúa Trời cho vương quốc miền
Bắc. Cuộc đời của Ê-li-sê đầy dẫy các dấu lạ, phép lạ, những lời công bố,
cảnh cáo. Bốn phép lạ trong số đáng ghi nhớ nhất, là bình dầu cứ tuôn chảy
mãi (4:1-7), việc chữa lành cho con trai người phụ nữ Su-nem (4:8-37) việc
chữa lành bệnh phung cho Na-a-man (5:1-27) và chiếc lưỡi rìu nổi (6:1-7)
Ngay giữa nhiều khó khăn khủng khiếp, Đức Chúa Trời sẽ vẫn có thiểu số
người tận trung, - những người còn sót lại - của Ngài (19:31). Ngài muốn có
những người nam người nữ can đảm rao truyền chân lý của Ngài
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm chứng minh số phận đang chờ đợi những kẻ chối bỏ Đức
Chúa Trời không thừa nhận Ngài làm người lãnh đạo thật sự của họ.
Trước giả: Khuyết danh. Có lẽ là Giê-rê-mi hoặc một nhóm các nhà tiên tri
Bối cảnh: Quốc gia Y-sơ-ra-ên thống nhất giờ đây đã chia thành hai vương
quốc, Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, suốt hơn một thế kỷ
Các câu chìa khoá: IIVua 2V 17:13,14
Các nhân vật chính: Ê-li, Ê-li-sê, người phụ nữ Su-nem, Na-a-man, Giê-sa-
bên, Giê-hu, Giô-ách, Ê-xê-chia, San-chê-ríp. Ê-sai, Ma-na-se, Giô-si-a,
Giê-hô-gia-kim, Sê-đê-kia, Nê-bu-cát-nết-sa.
Những nét đặc trưng: Mười bảy sách tiên tri ở phần cuối Cựu ước cho chúng
ta nhiều cái nhìn xuyên suốt quan trọng vào giai đoạn của sách II Các Vua.
Bố cục:
A. Vương quốc bị chia đôi (1:1-17:41)
1. Chức vụ của Ê-li-sê
2. Các vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa
3. Dân Y-sơ-ra-ên bị đày sang A-sy-ri
Tuy dân Y-sơ-ra-ên đã có lời làm chứng và quyền phép của Ê-li-sê họ vẫn
xây bỏ Đức Chúa Trời và bị lưu đày sang A-sy-ri. A-sy-ri lấp đầy vương
quốc miền Bắc bằng những người của các nước khác. Số dân bị đưa đi đày
đã không hề trở lại - họ đã bị lưu đày vĩnh viễn. Đó là phần kết thúc của tất
cả những ai xua đuổi Đức Chúa Trời ra khỏi cuộc đời mình.
B. Vương quốc còn tồn tại (18:1-25:30)
1. Các vua Giu-đa
2. Dân Giu-đa bị đày sang Ba-by-lôn
Vương quốc miền Bắc đã bị tiêu diệt, và các nhà tiên tri đã tiên báo cùng
một số phận như thế cho xứ Giu-đa. Có điều gì khác hơn đã khiến được dân
sự ăn năn? Ê-xê-chia và Giô-si-a đã chận đứng được ngọn thủy triều của sự
gian ác. Cả hai vị đều xây sửa lại đền thờ và tập họp dân sự cho kỳ lễ Vượt
Qua. Giô-si-a đã xoá sạch tệ nạn thờ thần tượng khỏi xứ, nhưng ngay sau khi
các minh quân ấy ra đi, dân sự lại quay trở lại với nếp sống cũ, thay vì noi
theo đường lối của Đức Chúa Trời. Mỗi cá nhân phải tin và sống cho Đức
Chúa Trời ngay trong gia đình, Hội thánh và đất nước dân tộc mình.
Các đại đề mục:
Luận đề: Ê-li-sê
Lời giải thích: Chủ đích của chức vụ của Ê-li-sê là phục hồi lòng tôn trọng
đối với Đức Chúa Trời và bức thông điệp của Ngài, và ông đã đứng vững để
chống lại các nhà vua gian ác của Y-sơ-ra-ên. Bởi đức tin lòng can đảm và
lời cầu nguyện, ông đã cho mọi người thấy rằng chẳng những Đức Chúa
Trời đoán phạt tội lỗi, mà lòng nhân ái, tình yêu, và sự dịu dàng âu yếm của
Ngài cũng được bày tỏ cho những người trung tín với Ngài nữa.
Tầm quan trọng: Các phép lạ đầy quyền năng của Ê-li-sê đã chứng minh
rằng Đức Chúa Trời chẳng những chỉ nắm quyền kiểm soát các đạo quân
đông đảo, mà cả đến các biến cố hằng ngày nữa. Khi nào chúng ta lắng nghe
và vâng lời Đức Chúa Trời thì Ngài cho chúng ta thấy quyền năng làm thay
đổi bất kỳ một tình huống nào. Đức Chúa Trời chăm sóc lo lắng cho tất cả
những ai sẵn sàng đi theo Ngài. Ngài có thể làm phép lạ trong đời sống
chúng ta.
Luận đề: Thờ thần tượng
Lời giải thích: Tất cả vua gian ác của cả Y-sơ-ra-ên lẫn Giu-đa đều khuyến
khích thờ thần tượng. Các tà thần đó đại diện cho chiến tranh, sự tàn bạo,
quyền thế và dâm dục. Tuy có luật pháp của Đức Chúa Trời, các thầy tế lễ
và các nhà tiên tri hướng dẫn, các vua này vẫn tìm thêm các thầy tề lễ và nhà
tiên tri mà họ có thể điều khiển để chính họ được lợi thế.
Tầm quan trọng: Một thần tượng là bất kỳ một tư tưởng, tài năng, tài sản hay
người nào mà chúng ta xem là cao hơn Đức Chúa Trời. Chúng ta kết án dân
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa vì đã dại dột thờ lạy thần tượng, nhưng chính chúng ta
cũng thờ lạy nhiều thần khác - thế lực, tiền bạc, sự hấp dẫn của phần thể xác.
Những ai tin Đức Chúa Trời phải chống lại lưới bẫy của các thần tượng đầy
quyến rũ này.
Luận đề: Các vua ác, các vua thiện
Lời giải thích: Chỉ có hai mươi phần trăm nhà vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa
theo Đức Chúa Trời mà thôi. Các vua ác vốn thiển cận, họ tưởng họ có thể
kiểm soát địa phận của đất nước bằng cách du nhập các tôn giáo, lập nhiều
liên minh với các quốc gia ngoại đạo, và làm giàu cho mình. Các vua thiện
đã phải dành nhiều thì giờ hơn để hoá giải điều ác mà các vua tiền nhiệm đã
làm.
Tầm quan trọng: Tuy các vua dẫn dân sự sa vào tội lỗi, các thầy tế lễ, các
quan trưởng và các chủ gia đình và lãnh tụ quân sự đều đã cộng tác với các
kế hoạch và cách làm gian ác của họ để thực hiện chúng. Chúng ta không thể
thoái thác trách nhiệm phải vâng lời của chúng ta bằng cách đổ tội cho
những người lãnh đạo chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm phải biết Lời Đức
Chúa Trời và vâng theo.
Luận đề: Sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Đức Chúa Trời phán bảo với dân sự Ngài rằng nếu họ vâng
lời Ngài, họ sẽ sống thành công, còn nếu họ không vâng lời, họ sẽ bị đoán
phạt và bị tiêu diệt. Đức Chúa Trời rất kiên nhẫn đối với dân Ngài qua nhiều
thế kỷ. Ngài đã sai nhiều nhà tiên tri đến để chỉ dẫn cho họ. Và Ngài đưa ra
rất nhiều lời cảnh cáo về sự hủy diệt hầu đến. Nhưng cả đến sự kiên nhẫn
của Đức Chúa Trời cũng có giới hạn.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời rất kiên nhẫn đối với chúng ta. Ngài ban
cho chúng ta nhiều cơ may để được nghe thông điệp của Ngài, để xây bỏ tội
lỗi, và tin Ngài. Ngài kiên nhẫn không có nghĩa là Ngài dửng dưng đối với
cách sống của chúng ta, cũng không có nghĩa là chúng ta có thể bỏ qua
những lời cảnh cáo của Ngài. Sự kiên nhẫn của Ngài phải khiến chúng ta
muốn đến với Ngài ngay bây giờ.
Luận đề: Sự phán xét
Lời giải thích: Sau thời trị vì của Sa-lô-môn, dân Y-sơ-ra-ên hãy còn 209
năm nữa trước khi người A-sy-ri đến tiêu diệt họ. Giu-đa thì còn 345 năm
nữa trước khi người Ba-by-lôn chiếm Giê-ru-sa-lem. Sau nhiều lần cảnh cáo
dân Ngài, Đức Chúa Trời đã dùng nhiều dân tộc gian ác làm công cụ để thực
thi công lý của Ngài.
Tầm quan trọng: Hậu quả của việc chối bỏ các lệnh truyền và chủ đích của
Đức Chúa Trời cho đời sống chúng ta rất nghiêm trọng. Ngài sẽ chẳng bỏ
qua thói vô tín hoặc phản loạn của chúng ta đâu. Chúng ta phải tin Ngài và
tiếp nhận sự chết hi sinh của Chúa Cứu Thế thay cho chúng ta, bằng không,
chúng ta cũng sẽ bị phán xét.

Dẫn nhập I Sử ký
Các niên đại
Sau-lơ làm vua, năm 1050 TC (1045TC)
Sau-lơ tử trận; Đa-vít làm vua trên xứ Giu-đa năm 1010
Đa-vít làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên năm 1003
Đa-vít chinh phục Giê-ru-sa-lem năm 1.000
Đa-vít chinh phục Ráp-ba năm 997
Đa-vít kiểm tra dân số năm 980
Sa-lô-môn lên ngôi năm 970
Vương quốc Y-sơ-ra-ên chia đôi năm 930
Lời giới thiệu
Dưới bóng râm của cây sồi cổ thụ, bà mẹ ngồi trông chừng đứa con mới biết
đi chập chững, nhặt những trái, những lá sồi rụng và những nhánh bồ công
anh. Gần đó, bà nội, các cô, bác, chú đang trải khăn trên những chiếc bàn rồi
bày lên đĩa nào là gà rán, khoai chiên, đậu hầm và nhiều món ăn mà gia đình
ưa thích. Tiếng vó ngựa của ông nội và người cha, nhịp đều trong không khí,
hoà lẫn với tiếng reo vui, hò hét của đám thiếu niên đang đá bóng, Một buổi
họp gia đình - một buổi chiều nắng đẹp tập họp đủ bốn thế hệ với đông đủ
ông bà, cha mẹ, cô bác, và cháu chắt.
Những buổi họp mặt như thế này rất quan trọng... vì nó liên quan và kết hợp
nhiều chi nhánh khác nhau của một bộ tộc, nhìn về quá khứ của một người
trong thời gian và nền văn hoá, cho người ta được thấy những nét phản chiếu
về hình thể (mắt, mũi...) nhắc người ta nhớ lại các truyền thống ấm cúng.
Biết được tông tích và các mối liên hệ thân tộc của mình, tạo được cho
người ta một ý thức về lý lịch, di sản, và vận mệnh của mình.
Chính là nhằm vào cùng một chủ đích cao cả ấy mà trước giả các sách Sử ký
đã bắt đầu tác phẩm của mình bằng một bảng gia phả thật dài. Ông vẽ lại các
nguồn gốc của một dân tộc bằng một cuộc họp mặt gia đình theo đúng nghĩa
đen của nó kể từ A-đam trở về sau, ghi lại dòng dõi vương giả của nó và
phần kế hoạch đầy tình yêu thương của một Đức Chúa Trời có thân vị hẳn
hoi. Chúng ta đọc ISử ký để có được một cái nhìn thoáng qua vào một Đức
Chúa Trời đang vận hành trên dân Ngài trải nhiều thế hệ. Nếu bạn là một tín
hữu, thì những nhân vật này cũng chính là tổ tiên của bạn nữa. Khi bạn tiếp
cận với phần này của Lời Đức Chúa Trời, hãy đọc tên của họ với thái độ vừa
sợ sệt vừa tôn kính, để có được sự an toàn và một lý lịch mới trong mối liên
hệ giữa bạn với Đức Chúa Trời.
Quyển sách đi trước tức là IICác Vua, kết thúc với việc cả hai dân tộc Y-sơ-
ra-ên và Giu-đa đều bị bắt đi đày, tất nhiên là một thời đại đen tối cho dân sự
của Đức Chúa Trời. Tiếp theo đây là sách Sử ký (hai sách I và II Sử ký
nguyên chỉ là một quyển). Được viết sau cuộc lưu đày, bộ sách này tóm tắt
lịch sử dân Y-sơ-ra-ên nhấn mạnh phần di sản thuộc linh của dân Do Thái
trong nỗ lực thống nhất toàn thể dân tộc. Trước giả sách Sử ký cố ý chọn lọc
khi kể lại lịch sử trong quyển sách của mình. Thay vì viết ra một tác phẩm
thật đầy đủ, ông đã thận trọng chọn lọc cách trần thuật, nhấn mạnh các bài
học thuộc linh để chỉ truyền dạy các chân lý đạo đức mà thôi. Trong sách Sử
ký, rõ ràng là vương quốc miền Bắc đã bị bỏ qua, các chiến thắng khải hoàn
của Đa-vít - chứ không phải là các tội lỗi của vua ấy - đã được nhắc lại, và
đền thờ được dành cho một địa vị nổi bật như là trung tâm sinh động của
sinh hoạt quốc gia.
Sách Sử ký thứ nhất bắt đầu với A-đam, và qua chín chương, trước giả đã
cung cấp cho chúng ta tiểu sử của các nhân vật quan trọng trong sử ký của
dân Y-sơ-ra-ên, với điểm nhấn mạnh đặc biệt trên dòng dõi của vua Đa-vít.
Phần còn lại của quyển sách kể lại câu chuyện Đa-vít - là nhân vật vĩ đại của
Đức Chúa Trời và là vua dân Y-sơ-ra-ên - đã phục vụ Đức Chúa Trời và
soạn thảo các kế hoạch cho việc xây cất và thờ phượng trong đền thờ.
Sách Sử ký thứ nhất là một bộ sử ký vô giá bổ sung cho sách IISa-mu-ên và
là một sách giúp trí nhớ tuyệt vời, nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải
vạch lại các nguồn gốc cội rễ của mình để nhờ đó tái khám phá phần nền
móng của chúng ta. Trong khi đọc sách ISử ký, bạn hãy vẽ lại phần di sản
tin kính đạo đức của riêng mình, rồi hãy tạ ơn Đức Chúa Trời về các tổ tiên
thuộc linh của bạn, và tái tận hiến chính mình cho công tác truyền lại chân lý
của Đức Chúa Trời cho thế hệ tiếp theo.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm thống nhất dân sự của Đức Chúa Trời, vẽ lại dòng dõi của
Đa-vít và truyền dạy cách thờ phượng chân chính đúng ra phải là trung tâm
của sinh hoạt cá nhân và quốc gia dân tộc.
Trước giả: E-xơ-ra theo truyền khẩu Do Thái.
Đọc giả: Cho toàn dân Y-sơ-ra-ên
Niên đại viết sách: Khoảng năm 430 TC, ghi lại các biến cố đã xảy ra từ
năm 1.000 - 960 TC.
Bối cảnh: Sách Sử ký thứ nhất song hành với sách Sa-mu-ên thứ hai, và
được dùng để bình giải sách ấy. Được viết sau thời kỳ lưu đày theo quan
điểm của một thầy tế lễ; ISử ký nhấn mạnh sử ký tôn giáo của dân Giu-đa và
Y-sơ-ra-ên.
Câu chìa khoá: ISu1Sb 14:2
Các nhân vật chính: Đa-vít, Sa-lô-môn
Các địa điểm chính: Hếp-rôn, Giê-ru-sa-lem, đền thờ.
Bố cục:
A. Các sách gia phả của dân Y-sơ-ra-ên (1:1-9:44)
1. Tổ tiên của dân Y-sơ-ra-ên
2. Các chi phái trong dân Y-sơ-ra-ên
3. Những kẻ bị đày sang Ba-by-lôn hồi hương
Bảng danh sách dài sau đây trình bày phần sử ký của công việc mà Đức
Chúa Trời đã làm trên thế gian này kể từ A-đam cho đến Xô-rô-ba-bên. Một
số tên trong danh sách này nhắc nhở chúng ta về nhiều câu chuyện đức tin vĩ
đại và sự thất bại của nhiều người khác. Tuy nhiên, trong phần lớn các tên
được nêu, chúng ta chẳng được biết gì cả. Nhưng những người đã chết mà
chúng ta không biết, thì Đức Chúa Trời đều biết rõ. Đức Chúa Trời cũng sẽ
nhớ đến chúng ta, khi chúng ta qua đời.
B. Thời trị vì của Đa-vít (10:1-29:30)
1. Đa-vít làm vua trên cả xứ Y-sơ-ra-ên
2. Đa-vít rước hòm giao ước vào Giê-ru-sa-lem
3. Các chiến công của Đa-vít
4. Đa-vít thu xếp việc xây cất đền thờ
Đa-vít yêu mến Đức Giê-hô-va, muốn xây cho Ngài một ngôi đền thờ để
thay thế cho đền tạm, nhưng Đức Chúa Trời từ chối đề nghị đó của vua.
Phần đóng góp quan trọng nhất của Đa-vít cho ngôi đền thờ sẽ không phải là
xây cất nó, nhưng chỉ là việc chuẩn bị mà thôi. Có lẽ chúng ta sẽ không
được nhìn thấy kết quả của các công lao gian khổ của mình cho Đức Chúa
Trời ngay trong đời sống chúng ta, nhưng tấm gương của Đa-vít giúp chúng
ta hiểu rằng sở dĩ chúng ta phục vụ Đức Chúa Trời, là để chính Ngài được
thấy các kết quả của Ngài, chứ không phải là để chúng ta nhìn thấy các kết
quả của chúng ta.
Các đại đề mục:
Luận đề: Lịch sử dân Y-sơ-ra-ên
Lời giải thích: Bằng việc kể lại sử ký nước Y-sơ-ra-ên trong các bảng gia
phả và các câu chuyện về các nhà vua, trước giả đã đặt nền móng thuộc linh
đích thực cho dân ấy. Đức Chúa Trời giữ đúng các lời hứa của Ngài, còn
chúng ta thì được nhắc nhở về chúng trong sử ký của dân Ngài, các cấp lãnh
đão nhà tiên tri, thầy tế lễ và các vua của họ.
Tầm quan trọng: Quá khứ của dân Y-sơ-ra-ên cấu thành một nền tảng đáng
tin cậy cho việc tái xây dựng dân tộc ấy sau thời kỳ bị lưu đày. Vì các lời
hứa của Đức Chúa Trời đã được mặc khải trong Thánh Kinh, chúng ta có thể
biết và tin cậy rằng Ngài sẽ giữ lời của mình. Cũng như dân Y-sơ-ra-ên
chúng ta không thể có một chủ đích nào cho đời sống cao hơn là tận hiến để
phục vụ Đức Chúa Trời.
Luận đề: Dân sự của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Bằng cách kể tên của những người Y-sơ-ra-ên trong quá khứ,
Đức Chúa Trời xác lập phần di sản đích thực của dân Y-sơ-ra-ên. Họ đều có
chung một gia tộc trong A-đam là một dân tộc trong Áp-ra-ham, có một thầy
tế lễ trong Lê-vi, và một vương quốc dưới quyền cai trị của Đa-vít. Sự thống
nhất quốc gia thuộc linh của họ, rất quan trọng cho việc tái xây dựng đất
nước.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời luôn luôn thành tín với dân Ngài. Ngài bảo
vệ họ qua mọi thế hệ và cung cấp các lãnh tụ để hướng dẫn họ. Vì Đức Chúa
Trời đã hành động qua nhiều thế kỷ rồi, dân Ngài có thể tin cậy Ngài vẫn
hành động trong hiện tại. Ngày nay, bạn vẫn có thể tin cậy vào sự hiện diện
của Ngài.
Luận đề: Vua Đa-vít
Lời giải thích: Câu chuyện về cuộc đời của Đa-vít và mối liên hệ giữa vua
ấy với Đức Chúa Trời chứng minh rằng vua ấy là vị lãnh tụ đã được Ngài
chỉ định. Sự tận hiến của Đa-vít cho Đức Chúa Trời, luật pháp, đền thờ, sự
thờ phượng thật, dân Y-sơ-ra-ên, và công lý, quy định phần chuẩn mực cho
biết một nhà vua do Đức Chúa Trời chọn phải như thế nào.
Tầm quan trọng: Chúa Cứu Thế Giê-xu đã đến thế gian như một hậu duệ của
Đa-vít. Có một ngày, Ngài sẽ trị vì với tư cách là vua cả thế gian. Sức lực và
công lý của Ngài sẽ làm ứng nghiệm thế nào là một nhà vua lý tưởng của
Đức Chúa Trời. Ngài là niềm hi vọng của chúng ta. Chúng ta có thể kinh
nghiệm, được Nước Trời ngay bây giờ bằng cách để cho Chúa Cứu Thế
hoàn toàn làm chủ cuộc đời mình.
Luận đề: Sự thờ phượng thật
Lời giải thích: Đa-vít đưa chếc hòm giao ước đến Giê-ru-sa-lem để vãn hồi
sự thờ phượng thật cho dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã cho các bản đồ để
xây cất đền thờ, còn Đa-vít thì tổ chức các thầy tế lễ để biến nó thành trung
tâm thờ phượng cho toàn dân Y-sơ-ra-ên.
Tầm quan trọng: Đền thờ tiêu biểu cho ngôi của Đức Chúa Trời đặt trên thế
gian này, là nơi thật sự dành cho việc thờ phượng. Ngôi thật của Đức Chúa
Trời là ở trong lòng những người thuộc về Ngài. Khi nào chúng ta nhìn nhận
Ngài là vua đích thực trên đời sống chúng ta, thì sự thờ phượng thật diễn ra.
Luận đề: Các thầy tế lễ
Lời giải thích: Đức Chúa Trời bổ nhiệm các thầy tế lễ và người Lê-vi để
hướng dẫn dân sự lấy đức tin thờ phượng Ngài, đúng theo luật pháp. trong
việc hướng dẫn dânY-sơ-ra-ên thờ phượng theo đúng kế hoạch của Đức
Chúa Trời, các thầy tế lễ và người Lê-vi là những người quan trọng để bảo
toàn đức tin cho dân Y-sơ-ra-ên.
Tầm quan trọng: Vì sự thờ phượng thật phải là tâm điểm của đời sống chúng
ta, người thuộc về Đức Chúa Trời cần phải có một lập trường vững chắc đối
với đường lối mà Đức Chúa Trời đã ghi lại trong Thánh Kinh. Ngày nay,
toàn thể các tín hữu đều là thầy tế lễ, nên chúng ta cần khích lệ tất cả mọi
người phải trung tín thờ phượng Ngài.

Dẫn nhập II Sử-ký


Các niên đại
Sa-lô-môn lên ngôi năm 970 TC.
Đền thờ được xây dựng năm 966-959 TC.
Vương quốc phân đôi, năm 930 TC
A-sa làm vua Giu-đa, năm 910 TC
Giô-sa-phát làm vua Giu-đa, năm 872 TC.
A-háp tử trận năm 853 TC
A-tha-li cướp ngôi năm 841 TC
Ô-xia làm vua Giu-đa năm 792 TC
Y-sơ-ra-ên (vương quốc miền Bắc) thất thủ, năm 722 Tc
Ê-xê-chia làm vua Giu-đa năm 715 TC
San-chê-ríp chế nhạo Ê-xê-chia năm 701 TC
Giô-si-a lên ngôi năm 640 TC
Tìm thấy quyển sách Luật pháp năm 622 TC
Giu-đa (vương quốc miền Nam) thất thủ năm 586 TC
Chiếu chỉ của Si-ru, năm 538 TC
Lời giới thiệu
Chiếc máy chiếu hình phát ra một tiếng động nhỏ và chúng ta nhìn vào bức
ảnh được chiếu lên tấm màn trong ngôi thánh đường có phần mờ tối. Vị giáo
sĩ giải thích: “Thần tượng này được chế tác bằng đá và được thờ lạy hằng
ngày. Dân bản xứ tin rằng điều đó sẽ bảo đảm cho họ một mùa gặt thật
trúng, và con cái họ được mạnh giỏi”. Bằng những nụ cười mỉm tỏ lòng
thương hại, chúng ta rất ngạc nhiên về sự dốt nát của họ. Làm thế nào lại có
người đi thờ lạy một đồ vật? Thần tượng chỉ dành riêng cho những kẻ ngây
thơ và mê tín mà thôi! Nhưng sau buổi trình chiếu đó, chúng ta trở về nhà
với các thần tượng là của cải, uy tín, hoặc thái độ tự thị tự mãn của chính
chúng ta. Nếu chúng ta đặt bất luận vật gì thay vào chỗ của Đức Chúa Trời,
tức là chúng ta thờ lạy nó, cho dù môi miệng của chúng ta có xưng nhận hay
không. Kinh nghiệm của chúng ta rất giống với từng trải của dân Y-sơ-ra-ên.
Họ đã được Đức Chúa Trời tuyển chọn để thay mặt cho Ngài trên thế gian
này. Nhưng họ lại quá thường quên mất cái chân lý và tiếng gọi ấy, để mù
quáng vấp ngã trước nhiều thần tượng, như các lân bang của họ vậy. Rồi
nhiều nhà tiên tri, thầy tế lễ và sự đoán phạt sẽ thình lình đẩy họ quay trở lại
với Đức Chúa Trời, là Chân Thần duy nhất. Sách Sử ký thứ hai ghi lại đoạn
sử ký bẩn thỉu của sự băng hoại và thờ thần tượng đó của các vua xứ Giu-đa.
Thỉnh thoảng một minh quân cũng dấy lên trong xứ, và tạm thời có một cuộc
phục hưng, nhưng rồi cuộc xuống dốc theo hình trôn ốc vẫn tiếp diễn - mà
kết thúc là cảnh hỗn độn, hủy diệt và lưu đày.
Sử gia sở dĩ viết quyển sách này là để đưa dân sự quay trở lại với Đức Chúa
Trời bằng cách nhắc nhở họ về quá khứ của họ. Chỉ nhờ đi theo Đức Chúa
Trời, họ mới được thạnh vượng mà thôi! Trong khi đọc IISử ký, bạn sẽ có
được một cái nhìn bao quát sinh động về sử ký của nước Giu-đa (phần sử ký
của Y-sơ-ra-ên, tức vương quốc miền Bắc, gần như bị bỏ qua) và sẽ thấy các
hậu quả thảm hại của việc thờ thần tượng. Hãy noi gương bài học của quá
khứ: quyết định vứt bỏ bất luận một thần tượng nào trong đời sống của bạn,
và chỉ thờ phượng một mình Đức Chúa Trời mà thôi.
Sử ký thứ hai nối tiếp phần lịch sử của ISử ký con trai của Đa-vít là Sa-lô-
môn, được tôn vương. Sa-lô-môn xây ngôi đền thờ tráng lệ tại Giê-ru-sa-
lem, và như thế là chu toàn nguyện vọng đồng thời cũng là lời trăn trối cuối
cùng của cha mình IISu 2Sb 2:1-5:14) . Sa-lô-môn được hưởng một thời trị
vì thái bình và thịnh vượng suốt 40 năm, khiến vua ấy được nổi tiếng khắp
thế giới. Sau khi Sa-lô-môn thăng hà, con trai vua ấy là Rô-bô-am lên nối
ngôi và tình trạng ấu trĩ của vua ấy đã khiến vương quốc bị chia đôi.
Trong xứ Giu-đa, chỉ có một vài minh quân mà nhiều bạo chúa. Trước giả
Sử ký đã trung thực ghi lại các thành tựu và thất bại của họ, lưu ý cách đánh
giá từng vị vua đã được Đức Chúa Trời đánh giá như thế nào so với chuẩn
mực về sự thành công của Ngài. Rõ ràng là các minh quân thì vâng theo luật
pháp Đức Chúa Trời, trừ bỏ những nơi thờ thần tượng, và không liên minh
với các dân tộc khác. Các minh quân của Giu-đa gồm có A-sa, Giô-sa-phát,
Ô-xia (A-xa-ria), Ê-xê-chia, và Giô-si-a. Trong số các bạo chúa, A-cha và
Ma-na-se có lẽ là tệ hại hơn hết. Cuối cùng đất nước đã bị các cường quốc
chiếm lấy, dân tộc bị đưa đi đày, và đền thờ bị phá hủy.
Chủ đích của trước giả là muốn đoàn kết toàn dân chung quanh việc thật
lòng thờ phượng Đức Chúa Trời sau cuộc lưu đày. Trong những trang sách
này, ông nhắc nhở dân sự về quá khứ của họ. Ông quảng bá thật rõ ràng bức
thông điệp của mình qua một trong những câu được nhiều người biết trong
Kinh thánh: “và nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình
xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên
trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ” (IISu 2Sb 7:14) .
Trong khi đọc IISử ký bạn cần lắng nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời và
vâng lời Ngài, hãy tiếp nhận Ngài để được cứu chuộc và chữa lành.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm thống nhất toàn dân chung quanh việc thật lòng thờ phượng
Đức Chúa Trời bằng cách vạch rõ tiêu chuẩn của Ngài để phán xét các vua.
Các nhà vua công chính của Giu-đa và những cuộc phục hưng tôn giáo dưới
thời trị vì của họ được đề cao, còn tội lỗi của các vua gian ác thì bị vạch trần.
Trước giả: E-xơ-ra, theo truyền thuyết Do Thái.
Đọc giả: Cho toàn dân Y-sơ-ra-ên
Niên đại viết sách: Trước sau năm 430 TC, ghi lại các biến cố từ lúc bắt đầu
thời trị vì của Sa-lô-môn (930 TC) cho đến lúc bắt đầu cuộc lưu đày Ba-by-
lôn (586 TC).
Bối cảnh: Sử ký thứ hai song hành với phần lịch sử của hai sách I và II Các
vua, và được dùng như một sách để bình luận về hai quyển sách ấy. Hai sách
I và II Các vua nguyên chỉ là một. Nó được viết ra sau cuộc lưu đày theo
quan điểm của chức vụ tế lễ, đề cao tầm quan trọng của đền thờ và các cuộc
phục hưng tôn giáo trong xứ Giu-đa. Vướng quốc miền Bắc, tức là nước Y-
sơ-ra-ên, hầu như chẳng được bàn đến trong sách này.
Câu chìa khoá: “và nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình
xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên
trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó và cứu xứ họ khỏi tai vạ” (IISu 2Sb 7:14)
Các nhân vật chính: Sa-lô-môn, nữ vương Sê-ba, Rô-bô-am, A-sa, Giô-sa-
phát, Giô-ram, Giô-ách, Ô-xia (A-xê-rua) A-cha, Ê-xê-chia, Ma-na-se, Giô-
si-a.
Các địa điểm chính: Giê-ru-sa-lem, đền thờ.
Những nét đặc trưng: Ghi lại chi tiết việc xây cất đền thờ.
Bố cục:
A. Thời trị vì của Sa-lô-môn IISu 2Sb 1:1-9:31)
1. Sa-lô-môn cầu xin được khôn ngoan
2. Sa-lô-môn xây cất đền thờ
3. Sa-lô-môn cung hiến ngôi đền thờ
4. Sự giàu có và khôn ngoan của Sa-lô-môn
Sa-lô-môn có nhiều thành tựu trong công việc và chính quyền, nhưng quan
trọng nhất là người đã được dùng để xây lên ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ.
Ngôi đền thờ đẹp đẽ này là trung tâm tôn giáo của cả nước. Nó tượng trưng
cho tinh thần đoàn kết của toàn thể các chi phái, sự hiện diện của Đức Chúa
Trời giữa họ, và tiếng gọi cao cả dành cho cả dân tộc. Trong đời sống, chúng
ta có thể thực hiện được nhiều việc lớn, nhưng không nên bỏ qua bất kỳ một
nỗ lực nào có thể góp phần nuôi dưỡng dân sự Đức Chúa Trời hoặc đưa
nhiều người khác vào Nước Trời. Chúng ta rất dễ tự tạo cho mình một cách
nhìn sai lầm về điều gì là quan trọng trong đời sống.
B. Vương quốc Giu-đa (IISu 2Sb 10:1-36:23)
1. Các chi phái miền Bắc nổi loạn
2. Sử ký của việc bội đạo và cải cách
3. Dân Giu-đa bị đày sang Ba-by-lôn
Qua thời trị vì của 20 đời vua, dân Giu-đa bước đi chao đảo giữa việc vâng
lời Đức Chúa Trời và bội đạo. Cách đáp ứng của nhà vua đang trị vì xác
định bầu không khí thuộc linh của đất nước dân tộc, và chẳng quan tâm Đức
Chúa Trời có đưa sự trừng phạt đến trên dân Ngài hay không. Lịch sử cá
nhân của chúng ta cũng do cách chúng ta đáp ứng với Đức Chúa Trời định
đoạt. Cũng như việc người Giu-đa không chịu ăn năn đưa đến việc họ bị lưu
đày sang Ba-by-lôn, việc chúng ta lạm dụng tiếng gọi cao cả của mình bằng
cách sống theo tội lỗi, cuối cùng sẽ đem tai hoạ và sự hủy diệt đến cho mình.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Đền thờ
Lời giải thích Đền thờ là biểu tượng về sự hiện diện của Đức Chúa Trời và
là nơi được biệt riêng để thờ phượng và cầu nguyện. Do Sa-lô-môn xây cất
theo kế hoạch Đức Chúa Trời đã tiết lộ cho Đa-vít, đền thờ là trung tâm
thuộc linh cho toàn dân.
Tầm quan trọng Khi các Cơ Đốc nhân nhóm nhau lại để thờ phượng Đức
Chúa Trời, là họ được từng trải sự hiện diện của Đức Chúa Trời theo cách
mà chẳng một cá nhân tín hữu nào có thể có được. Vì nơi ngự của Đức Chúa
Trời là giữa những người thuộc về Ngài. Thân thể Chúa Cứu Thế là đền thờ
của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Hoà bình
Lời giải thích Khi Sa-lô-môn và các hậu duệ của vua ấy tận trung với Đức
Chúa Trời, họ đánh đâu thắng đấy, thành công trong việc cai trị và được hoà
bình với các dân tộc khác. Hoà bình là kết quả của việc một dân tộc biết
đoàn kết và trung thành với Đức Chúa Trời và với luật pháp Ngài.
Tầm quan trọng Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới đem được sự hoà bình
thật đến. Ngài vốn vĩ đại hơn bất kỳ một kẻ thù, đạo quân hay dân tộc nào.
Như sự tận trung của dân Y-sơ-ra-ên là bí quyết để được hoà bình và tồn tại
với tư cách một dân tộc thể nào, lòng tin cậy của chúng ta vào Đức Chúa
Trời với tư cách là những cá nhân, những dân tộc cũng thiết yếu cho hoà
bình ngày nay y như thế
Luận đề: Cầu nguyện
Lời giải thích Sau khi Sa-lô-môn thăng hà, vương quốc của Đa-vít đã bị chia
đôi. Khi có một ông vua đưa dân Y-sơ-ra-ên vào chỗ thờ thần tượng, toàn
dân sẽ phải đau khổ. Khi nhà vua và toàn dân cầu xin Đức Chúa Trời giải
thoát và xây khỏi các đường lối tội lỗi của họ, thì Đức Chúa Trời giải cứu
họ.
Tầm quan trọng Ngày nay, Đức Chúa Trời vẫn còn nhận lời cầu nguyện.
Chúng ta có lời hứa của Đức Chúa Trời rằng nếu chúng ta tự hạ mình, tìm
cầu Ngài, từ bỏ tội lỗi mình và cầu nguyện, thì Đức Chúa Trời sẽ nhậm lời,
chữa lành và tha thứ cho chúng ta. Nếu chúng ta biết cảnh giác, chúng ta có
thể cầu xin Đức Chúa Trời hướng dẫn mình trước khi sa chân vào hoạn nạn.
Luận đề: Cải cách
Lời giải thích Tuy thờ thần tượng và bất công vốn phổ biến, một số các vua
đã biết quay lại với Đức Chúa Trời và đưa dân sự đến một cơn phục hưng
thuộc linh - cách tân sự tận hiến của họ cho Đức Chúa Trời và canh tân xã
hội của họ. Phục hưng gồm có việc phá hủy các thần tượng, vâng giữ luật
pháp, và vãn hồi chức vụ tế lễ.
Tầm quan trọng Chúng ta phải thường xuyên tận hiến để vâng lời Đức Chúa
Trời. Chúng ta chẳng bao giờ được an toàn nhờ những gì người khác đã làm
trước chúng ta. Mỗi một thế hệ tín hữu đều phải tái tận hiến cho công tác
thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời trong chính đời sống mình cũng như
trong xã hội.
Luận đề: Sự sụp đổ toàn quốc
Lời giải thích Năm 586 TC, người Ba-by-lôn phá hủy hoàn toàn ngôi đền
thờ nguy nga của Sa-lô-môn. Sự thờ phượng Đức Chúa Trời bằng hình thức
đã kết thúc. Dân Y-sơ-ra-ên đã từ bỏ Đức Chúa Trời. Hậu quả là Đức Chúa
Trời đã phán xét dân Ngài, và họ đã bị bắt đi đày.
Tầm quan trọng Tuy sự không vâng lời của chúng ta có lẽ không rõ rệt bằng
dân Y-sơ-ra-ên, nhưng sự cống hiến của chúng ta cho Đức Chúa Trời
thường là không thành thật và ngẫu nhiên mà thôi. Khi nào chúng ta quên
rằng tất cả quyền thế, sự khôn ngoan, và giàu có của chúng ta đều từ Đức
Chúa Trời đến chứ không phải là của riêng chúng ta, là chúng ta đang gặp
nguy cơ sa vào cũng một tình trạng suy sụp thuộc linh và đạo đức y như
từng trải của dân Y-sơ-ra-ên vậy.

Dẫn nhập E-xơ-ra


Các niên đại
Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ, những kẻ bị lưu đày sang Ba-by-lôn năm 586 TC.
Ba-by-lôn bị Si-ru lật đổ năm 539 TC.
Những kẻ bị lưu đày hồi hương về Giê-ru-sa-lem năm 538 TC.
Việc xây cất đền thờ bắt đầu năm 536 TC.
Công tác xây cất đền thờ bị đình chỉ năm 530 TC.
Đa-ri-út I lên ngôi vua Ba-tư, năm 522 TC.
Công tác xây dựng đền thờ được tái tục / các bức thông điệp của A-ghê, Xa-
cha-ri năm 520TC
Đền thờ được hoàn thành, năm 516 TC
E-xơ-ra về đến Giê-ru-sa-lem năm 458 TC
Nê-hê-mi về đến Giê-ru-sa-lem năm 445 TC.
Lời giới thiệu
Hãy thử kể tên những nhân vật vĩ đại, cả nam lẫn nữ, trong thời đại của bạn.
Các nhân vật lừng danh kể cả các chính trị gia, các anh hùng trong chiến
trận, các nhân vật thuộc giới thể thao, và có lẽ cả cha mẹ và bạn thân của bạn
cũng xuất hiện trong tâm trí của bạn nữa. Sở dĩ bạn nhớ đến họ là vì một vài
hành động hay đức tính nào đó. Bây giờ hãy nêu tên vài vị anh hùng trong
Thánh Kinh - các nhân vật đã có ấn tượng sâu sắc trong đời sống của bạn
qua vô số các bài giảng và các bài học trong nhà trường của Hội thánh. Chắc
chắn là danh sách này sẽ gồm có nhiều người từng tận trung và can đảm
phục vụ Đức Chúa Trời. Bảng liệt kê của bạn có tên E-xơ-ra không? Tuy
không phải là một nhân vật nổi tiếng lắm, người của Đức Chúa Trời nầy
chẳng được đề cao mấy lại rất xứng đáng được đề cập trong bất kỳ một cuộc
thảo luận nào liên hệ đến tính cách vĩ đại.
E-xơ-ra là một thầy tế lễ, một thầy thông giáo (Scribe) và là một đại lãnh tụ.
Tên ông có nghĩa là “giúp đỡ” và cả cuộc đời ông đã được tận hiến để phục
vụ Đức Chúa Trời và dân sự Ngài. Truyền thuyết bảo rằng E-xơ-ra đã viết
phần lớn các sách I và IISử-ký, E-xơ-ra, Nê-hê-mi, và Thi Tv 119:1-176, và
rằng ông là người lãnh đạo hội đồng gồm 120 nhân vật họp thành Uỷ ban
điển chế Cựu ước kinh. Ông tập trung phần thuật sự của sách E-xơ-ra xoay
quanh Đức Chúa Trời và lời hứa của Ngài rằng dân Do-thái sẽ hồi hương,
như Giê-rê-mi đã hứa (xem chú thích ở Exo Er 1:1). Bức thông điệp này là
phần cốt lõi của cuộc đời E-xơ-ra. Nửa phần của quyển sách đưa ra một cái
nhìn bao quát về chính con người của E-xơ-ra. Kiến thức về Kinh điển và sự
khôn ngoan do Đức Chúa Trời ban cho ông là điều hiển nhiên đối với nhà
vua đã bổ nhiệm E-xơ-ra lãnh đạo cuộc di dân thứ hai trở về Giê-ru-sa-lem,
để dạy Lời Dức Chúa Trời cho dân sự, và để quản trị sinh hoạt quốc gia
(Exo Er 7:14-26).
E-xơ-ra chẳng những thông hiểu Lời Đức Chúa Trời, mà ông còn tin tưởng
và vâng theo lời ấy nữa. Ngay khi biết được tội của dân Y-sơ-ra-ên là cưới
gả xô bồ và thờ thần tượng, E-xơ-ra đã hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa
Trời để cầu nguyện cho dân tộc mình (Exo Er 9:1-15). Sự không vâng lời
của họ đã khiến ông đau đớn sâu xa (Exo Er 10:1). Cách đáp ứng của ông đã
giúp đưa dân sự quay trở lại với Đức Chúa Trời.
Sách Sử ký thứ hai kết thúc với việc Si-ru, vua Ba-tư kêu gọi những người
tình nguyện về Giê-ru-sa-lem để xây cho Đức Chúa Trời một ngôi nhà. Sách
E-xơ-ra tiếp tục phần ký thuật này (Exo Er 1:1-3 gần như giống hệt IISu 2Sb
36:22,23) khi hai đoàn người của dân sự Đức Chúa Trời đang trở về Giê-ru-
sa-lem. Xô-rô-ba-bên, người cầm đầu chuyến đi thứ nhất với 42.360 người
hồi hương (Exo Er 2:1-70). Sau khi về đến nơi, họ đã bắt đầu dựng lại bàn
thờ và nền của đền thờ (Exo Er 3:1-13). Nhưng nhiều chống đối đã nảy sinh
từ đám cư dân địa phương, và một chiến dịch tố cáo và tung tin đồn nhảm đã
tạm thời làm đình chỉ dự án (Exo Er 4:1-24). Trong thời gan này, các nhà
tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri đã khích lệ dân chúng (Exo Er 5:1-17). Cuối
cùng, Đa-ri-út ban hành chiếu chỉ rằng công tác phải được tiến hành, chẳng
ai được phép cản trở (Exo Er 6:1-22).
Sau một khoảng cách là 58 năm, E-xơ-ra dẫn đầu một nhóm người Do-thái
từ Ba-tư trở về. Được vũ trang bằng các chiếu chỉ và uy quyền của At-ta-xét-
xe I, nhiệm vụ của E-xơ-ra là quản trị mọi công việc trong xứ (các Exo Er
7:1-8:36). Vừa đến nơi, ông được biết việc cứơi gả giữa dân sự của Đức
Chúa Trời với những người láng giềng ngoại đạo của họ. Ông đã khóc lóc và
cầu nguyện cho dân sự (Exo Er 9:1-15). Gương khiêm hạ xưng tội của E-xơ-
ra đã dẫn tới cơn phục hưng toàn quốc (Exo Er 10:1-44). E-xơ-ra một con
người của Đức Chúa Trời và là một bậc anh hùng là một gương mẫu cho dân
Y-sơ-ra-ên; và ông cũng là một mẫu mực thích hợp cho chúng ta nữa.
Hãy đọc sách E-xơ-ra và ghi khắc vào tâm trí con người tên E-xơ-ra - một
người khiêm hạ, vâng lời Đức Chúa Trời và sẵn sàng trợ giúp mọi người.
Hãy tận hiến để phục vụ Đức Chúa Trời như ông đã làm, bằng cả cuộc đời
của bạn.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để chứng minh đức thành tín của Đức Chúa Trời và cách thức
Ngài giữ các lời hứa của mình để phục hồi địa vị cho dân Ngài trên quê
hương của họ.
Trước giả: Không được nêu tên nhưng có lẽ là E-xơ-ra.
Niên đại viết sách: Trước sau năm 450 TC, ghi lại các biến cố xảy ra từ
khoảng năm 538-450 TC (thiếu giai đoạn 516-458 TC); có lẽ bắt đầu từ rất
sớm tại Ba-by-lôn và kết thúc tại Giê-ru-sa-lem.
Bối cảnh: Sách E-xơ-ra tiếp theo IISử ký như một quyển sử của dân Do-thái,
ghi lại việc hồi hương của họ sau thời kỳ bị lưu đày.
Các câu chìa khoá: “Những người Y-sơ-ra-ên đã bị bắt làm phu tù được về,
bèn ăn lễ Vượt qua, luôn với những người tự phân rẽ khỏi sự ô uế của các
dân tộc trong xứ, đến theo dân Y-sơ-ra-ên, đặng tìm kiếm Giê-hô-va Đức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Trong bảy ngày chúng giữ lễ bánh không men
cách vui vẻ; vì Đức Giê-hô-va đã làm cho lòng chúng được khoái lạc, và
cảm động lòng vua A-si-ri đoái xem chúng, đặng giúp đỡ trong cuộc xây cất
đền của Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (Exo Er
6:21,22)
Các nhân vật chính: Si-ru, Xô-rô-ba-bên, A-ghê, Xa-cha-ri, Đa-ri-út, At-ta-
xét-xe I, E-xơ-ra.
Các địa điểm chính: Ba-by-lôn, Giê-ru-sa-lem
Những nét đặc trưng: Trong bộ Thánh Kinh Hy-bá-lai văn, E-xơ-ra và Nê-
hê-mi chỉ là một sách, và cùng với E-xơ-tê, đó là những sách sử ký về thời
kỳ hậu lưu đày. Các sách tiên tri của thời kỳ hậu lưu đày là A-ghê, Xa-cha-
ri, và Ma-la-chi. Hai sách A-ghê và Xa-cha-ri phải được nghiên cứu chung
với sách E-xơ-ra, vì các vị này đã nói tiên tri trong giai đoạn tái xây dựng
đất nước Y-sơ-ra-ên.
Bố cục:
A.Cuộc hồi hương do Xô-rô-ba-bên lãnh đạo (Exo Er 1:1-6:22)
1. Nhóm người bị lưu đày đầu tiên hồi hương
2. Dân sự xây lại đền thờ.
Cuối cùng khi được cơ may hồi hương, dân sự đã bắt đầu xây lại đền thờ,
chỉ để bị sự chống đối của các kẻ thù khiến phải đình chỉ mà thôi. Công việc
của Đức Chúa Trời trên thế gian không phải là không bị chống đối. Chúng ta
không nên ngã lòng mà bỏ việc, như dân sự được hồi hương đã làm ngay từ
đầu, mà phải mạnh dạn tiếp tục trước mọi khó khăn, như họ đã làm sau đó,
nhờ lời khích lệ của các nhà tiên tri.
B.Cuộc hồi hương do E-xơ-ra lãnh đạo (Exo Er 7:1-10:44)
1. Nhóm người bị lưu đày thứ hai hồi hương
2. E-xơ-ra chống việc kết hôn xô bồ
E-xơ-ra hồi hương gần 80 năm sau Xô-rô-ba-bên chỉ để khám phá ra rằng
dân chúng đã kết hôn xô bồ với những người ngoại đạo hoặc ngoại quốc.
Việc làm này gây ô uế cho tôn giáo thuần khiết của dân sự, và tạo nguy cơ
cho tương lai của dân tộc. Các tín hữu ngày nay cũng phải thận trọng, đừng
đe dọa bước đi của mình với Đức Chúa Trời bằng cách noi theo các tập tục
của những người không tin Chúa.
Các đại đề mục:
Luận đề: Dân Do-thái hồi hương
Lời giải thích: Việc từ Ba-by-lôn trở về xứ Y-sơ-ra-ên của người Do-thái
chứng tỏ đức tin mà họ đặt vào lời hứa của Đức Chúa Trời là sẽ phục hồi địa
vị cho họ với tư cách một dân tộc. Chẳng những họ chỉ trở về quê cha đất tổ,
mà cả với nơi mà tổ tiên họ đã hứa sẽ noi theo Đức Chúa Trời
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời tỏ lòng nhân từ thương xót của Ngài với tất
cả các thế hệ, Ngài đã ưu ái phục hồi địa vị cho dân sự Ngài. Cho dù “cuộc
lưu đày của chúng ta hiện nay có khó khăn đến đâu, chúng ta cũng không hề
bị tách rời khỏi tình yêu và lòng thương xót của Ngài. Ngài sẽ phục hồi địa
vị cho chúng ta khi chúng ta trở về với Ngài.
Luận đề: Tái tận hiến
Lời giải thích: Năm 536 TC, Xô-rô-ba-bên lãnh đạo dân sự trong việc lập lại
bàn thờ và đặt nền cho đền thờ. Họ tái lập các của lễ hằng ngày và các kỳ lễ
hằng năm và tái tận hiến chính họ cho việc thờ phượng thuộc linh đối với
Đức Chúa Trời một cách mới mẻ.
Tầm quan trọng: Bằng việc tái cung hiến bàn thờ, dân sự đã tái tận hiến
chính họ cho Đức Chúa Trời và cho công việc Ngài. Muốn tăng trưởng
thuộc linh, việc tận hiến của chúng ta phải thường được làm mới lại luôn.
Khi chúng ta tái tận hiến cho Đức Chúa Trời, đời sống chúng ta sẽ trở thành
những bàn thờ dành cho Ngài.
Luận đề: Sự chống đối
Lời giải thích: Chống đối đã đến ngay sau khi chiếc bàn thờ được dựng lại,
và nền đền thờ được thiết đặt. Các kẻ thù của người Do-thái đã dùng sự lừa
dối để ngăn trở việc xây dựng hơn sáu năm. Cuối cùng, đã có một chiếu chỉ
ra lệnh đình chỉ hoàn toàn việc xây dựng. Sự chống đối này đã thử thách
nghiêm trọng đức tin vốn đã có phần rúng động của họ
Tầm quan trọng: Sẽ luôn luôn có những kẻ thù chống lại công việc của Đức
Chúa Trời. Đời sống người có đức tin (đạo) thì chẳng bao giờ là dễ dàng cả.
Nhưng Đức Chúa Trời có thể cai trị trên mọi ngăn trở đối với công việc
Ngài. Khi gặp chống đối, chúng ta không nên nao núng hoặc rút lui, mà phải
tỏ ra tích cực và kiên nhẫn.
Luận đề: Lời Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Khi dân sự trở về xứ, là họ cũng trở về dưới ảnh hưởng của
Lời Đức Chúa Trời. Các nhà tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri tiếp tay khuyến
khích họ, trong khi E-xơ-ra truyền giảng Kinh điển để gây dựng họ. Lời Đức
Chúa Trời đem đến cho họ những gì họ cần để làm việc cho Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Chúng ta cũng cần được sự khuyến khích và chỉ dẫn của
Lời Đức Chúa Trời. Chúng ta phải lấy đó làm nền tảng cho đức tin và các
hành động của mình để hoàn thành công việc của Đức Chúa Trời và các bó
buộc đối với chúng ta chẳng bao giờ nao núng trong sự tận hiến để lắng
nghe và vâng lời Đức Chúa Trời
Luận đề: Đức tin và hành động
Lời giải thích: Lời khuyến giục dân Y-sơ-ra-ên của các cấp lãnh đạo là động
lực thúc đẩy dân sự hoàn thành việc xây cất đền thờ. Qua nhiều năm, họ đã
cưới gả xô bồ với những kẻ thờ thần tượng và theo các tập tục ngoại đạo.
Đức tin của họ qua thử thách đã hồi sinh, đưa họ tới chỗ cất đi tội lỗi khỏi
đời sống họ.
Tầm quan trọng: Đức tin đã dẫn họ tới chỗ hoàn thành đền thờ và cất tội lỗi
khỏi xã hội của họ. Khi chúng ta hết lòng tin cậy Đức Chúa Trời, thì cũng
phải hành động để hoàn thành các trách nhiệm hằng ngày. Chỉ nói tin thì
chưa đủ chúng ta còn phải thực hiện những thay đổi mà Đức Chúa Trời đòi
hỏi nữa.

Dẫn nhập Nê-hê-mi


Các niên đại
Giê-ru-sa-lem bị phá hủy, dân lưu đày bị đưa sang Ba-by-lôn năm 586 TC
Những dân lưu đày đầu tiên trở về Giê-ru-sa-lem năm 538 TC
Đền thờ được hoàn thành năm 516 TC
Xét-xe lên ngôi vua Ba-tư năm 465 TC
At-ta-xét-xe I lên ngôi vua Ba-tư năm 465 TC
E-xơ-ra về đến Giê-ru-sa-lem năm 458 TC
Nê-hê-mi về đến Giê-ru-sa-lem, vách thành được hoàn tất năm 445 TC
Nê-hê-mi trở lại Ba-by-lôn năm 433 TC
Nê-hê-mi trở về Giê-ru-sa-lem năm 432 TC
Ma-la-chi bắt đầu chức vụ năm 430 TC
Lời giới thiệu
“Điều Hội thánh đang cần là...” Tôi không tin được các quan chức chính
phủ... Nếu tôi là họ, tôi sẽ...!” “Thật ra thì các trường học của chúng ta đang
có tình hình xấu. Phải có ai làm một điều gì đó!”.
Số người tránh né, than phiền, tự xưng ta đây là thầy đời, và các “chính
khách xa-lông” đang lan tràn. Chẻ sợi tóc làm tư, bới lông tìm vết, và ba hoa
đủ chuyện trên trời dưới đất, thì dễ. Nhưng chúng ta đang thât sự cần đến
những người không chỉ thảo luận về một tình hình, mà còn sẵn sàng dấn
thân để làm một việc gì đó cho tình hình ấy nữa!
Nê-hê-mi thấy có một vấn đề khiến ông vô cùng bối rối. Thay vì phàn nàn
oán trách vì tủi hổ và đau buồn, ông đã ra tay hành động. Nê-hê-mi biết rằng
Đức Chúa Trời muốn ông thúc giục dân Do-thái xây lại các vách thành cho
Giê-ru-sa-lem, tất cả mọi người đều biết rõ ai là người đang phụ trách. Ông
tổ chức, quản trị, giám sát, khích lệ, trực diện với sự chống đối, đương đầu
với mọi bất công và cứ tiến tới cho đến khi các vách thành được xây xong.
Nê-hê-mi là một con người hành động.
Khi câu chuyện bắt đầu, Nê-hê-mi đang nói chuyện với các đồng bào người
Do-thái của ông đã báo cáo với ông rằng các vách và cửa thành của Giê-ru-
sa-lem vẫn chưa được sửa chữa lại. Đây là những tin tức bất thường, và gánh
nặng đối với Nê-hê-mi là phải xây lại các tường thành đó. Nhân cơ hội thuận
tiện, Nê-hê-mi đã xin phép vua At-ta-xét-xe để đi Giê-ru-sa-lem, xây lại các
vách thành đã bị sụp đổ ấy. Và nhà vua đã phê chuẩn.
Trang bị bằng các sắc chỉ của nhà vua, Nê-hê-mi đã du hành đến Giê-ru-sa-
lem. Ông tổ chức dân sự lại thành nhiều nhóm và giao cho họ những đoạn
tường thành cụ thể của bức tường (NeNe 3:1-31). Tuy nhiên dự án xây dựng
không phải là đã không bị chống đối. San-ba-lát, Tô-bi-gia và nhiều người
khác nữa, đã tìm cách gây trở ngại cho công tác bằng cách nhục mạ, nhạo
cười, đe doạ và phá hoại. Một số công nhân đã hoảng sợ; một số khác bị mất
tinh thần. Trong mỗi trường hợp, Nê-hê-mi đều sử dụng một chiến lược
nhằm khiến cho kẻ thù phải thất bại bằng cách cầu nguyện, khích lệ, tổ chức
việc canh giữ, và an ủi (NeNe 4:1-23). Nhưng rồi một vấn đề khác lại nảy
sinh - một vấn đề nội bộ. Những người Do-thái giàu có đang lạm dụng các
đồng bào nghèo khó của họ đang phục vụ cho công tác ấy. Sau khi nghe
được việc họ áp bức và tham lam như thế, Nê-hê-mi đã trực diện với bọn
người bóc lột kia (NeNe 5:1-19). Rồi với các vách thành gần như đã hoàn
tất, San-ba-lát, Tô-bi-gia và đồng bọn lại cố tìm cách ngăn chặn Nê-hê-mi
một lần cuối cùng nữa. Nhưng Nê-hê-mi vẫn đứng vững, và vách thành đã
hoàn tất sau 52 ngày. Đây quả thật là một công trình phi thường một tượng
đài để ca ngợi tình yêu và sự thành tín của Đức Chúa Trời. Cả các kẻ thù lẫn
bè bạn đều biết rằng Đức Chúa Trời đã phù trợ (NeNe 6:1-19).
Sau khi hoàn tất vách thành, Nê-hê-mi tiếp tục tổ chức dân sự, lập sổ sách
đăng ký và chỉ định các toán người canh gác, người Lê-vi và cả quan chức
khác nữa (NeNe 7:1-73). E-xơ-ra hướng dẫn việc thờ phượng và giáo huấn
Thánh Kinh trong thành phố (NeNe 8:1-9:38). Điều này đã dẫn tới một cơn
phục hưng tôn giáo, tái xác nhận đức tin của dân sự khi họ hứa sẽ trung tín
phục vụ Đức Chúa Trời (NeNe 10:1-11:56).
Sách Nê-hê-mi kết thúc bằng việc lập sổ bộ cho các chi phái và các cấp lãnh
đạo họ, lễ khánh thành vách thành mới của Giê-ru-sa-lem, và việc thanh tẩy
tội lỗi khỏi xứ (NeNe 12:1-13:31). Trong khi đọc sách này, bạn nên theo dõi
quan sát một Nê-hê-mi đang hành động - để quyết định mình sẽ là người mà
Đức Chúa Trời có thể trông cậy để hành động cho Ngài trong thế gian này.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nê-hê-mi là quyển sách sử ký cuối cùng của Cựu ước. Nó ghi lại
lịch sử của lần trở về Giê-ru-sa-lem thứ ba của người Do-thái sau cuộc lưu
đày, kể lại thế nào các vách thành đã được xây lại và dân sự đã được phục
hưng trong đức tin.
Trước giả: Phần lớn sách này đã được viết theo ngôi thứ nhất, gợi ý rằng
chính Nê-hê-mi là trước giả. Có lẽ Nê-hê-mi đã cùng viết sách này với E-xơ-
ra, là người chấp bút.
Niên đại viết sách: Trước năm 445-432 TC
Bối cảnh: Xô-rô-ba-bên cầm đầu chuyến hồi hương về Giê-ru-sa-lem đầu
tiên vào năm 538 TC. Đến năm 458 TC, E-xơ-ra đã hướng dẫn chuyến hồi
hương thứ hai. Cuối cùng, vào năm 445 TC, Nê-hê-mi hồi hương với nhóm
dân lưu đày thứ ba để xây lại các vách thành.
Câu chìa khoá: “Vậy, ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, vách thành sửa xong,
hết năm mươi hai ngày. Khi những thù nghịch chúng tôi hay điều đó, thì các
dân tộc chung quanh chúng tôi đều sợ hãi và lấy làm ngã lòng; vì chúng nó
nhìn biết rằng công việc này thành được bởi Đức Chúa Trời của chúng tôi”
(6:15,16)
Các nhân vật chính: Nê-hê-mi, E-xơ-ra, San-ba-lát, Tô-bi-gia.
Địa điểm chính: Giê-ru-sa-lem
Những nét đặc trưng: Sách này chứng minh việc ứng nghiệm của các lời tiên
tri của Xa-cha-ri và Đa-ni-ên, liên quan với việc xây lại các vách thành của
Giê-ru-sa-lem.
Bố cục:
A. Xây lại tường thành (1:1-7:73)
1. Nê-hê-mi trở về Giê-ru-sa-lem
2. Nê-hê-mi lãnh đạo dân sự
Cuộc đời của Nê-hê-mi là một tấm gương về công tác lãnh đạo và tổ chức.
Từ bỏ một địa vị vững vàng và giàu có tại Ba-tư, ông hồi hương trở về xứ sở
đã bị chia cắt thành nhiều mảnh vụn của tổ tiên mình để tập họp dân sự và
xây lại bức tường của thành Giê-ru-sa-lem. Trước sự chống đối, ông đã dùng
các biện pháp tự vệ khôn ngoan để chăm lo cho dân sự và giữ cho dự án cứ
tiến hành. Muốn thực hiện được càng nhiều việc hơn cho Nước Trời, chúng
ta phải cầu nguyện kiên trì nhẫn nhục và chịu hi sinh, như Nê-hê-mi vậy.
B. Cải tạo dân sự (8:1-13:31)
1. E-xơ-ra tái lập giao ước
2. Nê-hê-mi thiết lập các chính sách
Sau khi bức tường thành đã xây xong. E-xơ-ra đọc Luật pháp cho dân sự
nghe, dẫn đến chỗ toàn dân đã ăn năn. Nê-hê-mi và E-xơ-ra là hai nhân vật
rất khác nhau, thế nhưng Đức Chúa Trời đã dùng cả hai ông để lãnh đạo dân
sự. Nên nhớ là trong công tác của Đức Chúa Trời bao giờ cũng có một chỗ
dành cho bạn, cả khi bạn khác với phần đông người khác. Đức Chúa trời
dùng mỗi người một cách độc đáo, có một không hai, để hoàn thành các chủ
đích của Ngài.
Các đại đề mục
Luận đề: Khải tượng
Lời giải thích: Tuy người Do-thái đã hoàn thành đền thờ vào năm 516 TC,
các vách thành vẫn còn xiêu đổ suốt 70 năm tiếp theo đó. Các vách thành ấy
tiêu biểu cho thế lực, sự bảo vệ, và vẻ đẹp cho thành phố Gie-ru-sa-lem.
Chúng cũng đang rất cần để bảo vệ cho đền thờ khỏi bị tấn công và bảo đảm
cho việc thờ phượng được tiếp tục. Đức Chúa Trời đã đặt hoài bão xây lại
các vách thành trong lòng Nê-hê-mi, rồi ban cho ông một khải tượng để thực
hiện công tác ấy.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời có khải tượng nào cho chúng ta không?
Ngày nay có những vách thành “nào cần được xây lại không? Đức Chúa
Trời vẫn muốn cho những người thuộc về Ngài hợp nhất nhau lại và được
huấn luyện để thi hành công tác của Ngài. Nếu chúng ta nhận thức được các
nhu cầu sâu xa của thế gian này, thì Đức Chúa Trời có thể ban cho chúng ta
một khải tượng và hoài bão “xây dựng”. Với khải tượng đó, chúng ta có thể
động viên nhiều người khác nữa và cầu nguyện để cùng nhau thực hiện một
kế hoạch hành động.
Luận đề: Cầu nguyện
Lời giải thích: Cả Nê-hê-mi lẫn E-xơ-ra đều đối phó với các vấn đề bằng
cách cầu nguyện. Lúc Nê-hê-mi bắt đầu công tác, ông đã nhận ra vấn đề nên
đã lập tức cầu nguyện, rồi mới hành động để giải quyết nó.
Tầm quan trọng: Cầu nguyện vẫn còn là một lực lượng mạnh mẽ để giải
quyết các vấn đề của ngày hôm nay. Cầu nguyện và hành động vốn song
hành với nhau. Bằng sự cầu nguyện Đức Chúa Trời hướng dẫn phần chuẩn
bị, công tác tập thể và các nỗ lực chăm chỉ của chúng ta để thực hiện ý chỉ
Ngài.
Luận đề: Quyền lãnh đạo
Lời giải thích: Nê-hê-mi chứng minh tài lãnh đạo tuyệt vời của ông. Ông sẵn
sàng về mặt thuộc linh để chú ý đến tiếng gọi của Đức Chúa Trời. Ông biết
lập kế hoạch cẩn thận, sắp xếp cách làm việc tập thể, giải quyết các vấn đề,
và can đảm thực hiện cho xong công tác. Tuy ông có đức tin phi thường, ông
chẳng bao giờ trốn tránh những công việc phụ trội cần thiết cho người lãnh
đạo giỏi.
Tầm quan trọng: Làm người lãnh đạo của công việc Chúa không phải chỉ là
để được danh tiếng, địa vị hay làm ông chủ. Nó đòi hỏi phải có kế hoạch, lao
động gian khổ, lòng can đảm và kiên trì. Trông đợi tích cực chẳng bao giờ
thay thế được cho việc chịu khó làm việc. Muốn lãnh đạo người khác bạn
cần lắng nghe sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời trong chính đời sống của bạn.
Luận đề: Các vấn đề
Lời giải thích: Sau khi công tác được bắt đầu, Nê-hê-mi đã phải đương đầu
với lời gièm chê, chế nhạo, và đe doạ của kẻ thù, cũng như sợ hãi, tranh
chấp và thất vọng từ chính những người làm việc cho ông. Tuy các vấn đề
này đều khó giải quyết, chúng vẫn không ngăn trở được Nê-hê-mi hoàn
thành công tác.
Tầm quan trọng: Khi gặp khó khăn, người ta có khuynh hướng muốn chống
đối và chán nản. Chúng ta phải nhận thức rằng nếu không gặp hoạn nạn rắc
rối, thì cũng chẳng bao giờ có chiến thắng khải hoàn. Khi các vấn đề nảy
sinh, chúng ta phải thẳng thắn trực diện với chúng và khẩn trương lên để
hoàn thành công tác của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Ăn năn và phấn hưng
Lời giải thích: Tuy Đức Chúa Trời giúp họ xây lại tường thành, công tác vẫn
chưa xong trước khi dân sự xây dựng lại cuộc đời họ về mặt thuộc linh. E-
xơ-ra giáo huấn dân sự về Lời của Đức Chúa Trời. Trong lúc lắng nghe, họ ý
thức được tội lỗi trong đời sống mình, thừa nhận chúng, và có biện pháp để
cất chúng đi.
Tầm quan trọng: Biết và nhận tội thì chưa đủ, sự phấn hưng phải đi đến kết
quả là cải tạo, nếu không, nó sẽ chỉ là một cách bộc lộ thái độ nhiệt tình mà
thôi. Đức Chúa Trời không muốn chỉ có các biện pháp nửa vời. Chúng ta
không những chỉ phải cất hết tội lỗi khỏi mình đi, mà còn phải cầu xin Đức
Chúa Trời cất tội lỗi khỏi tâm điểm của tất cả những gì chúng ta làm nữa.

Dẫn nhập Ê-xơ-tê


Các niên đại
Giê-ru-sa-lem bị phá hủy; dân Y-sơ-ra-ên bị đày sang Ba-by-lôn năm 586
TC
Những dân lưu đày trở về Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất, vào năm 538 TC
Đền thờ được hoàn thành năm 516 TC
Xét-xe lên ngôi vua Ba-tư năm 486 TC
Ê-xơ-tê lên ngôi hoàng hậu năm 479 TC
Chiếu chỉ của Ha-man nhằm tiêu diệt người Do-thái được ban hành năm 474
TC
Lễ Phu-rim đầu tiên năm 473 TC.
Lời giới thiệu
Khúc mắc, quyền lực,lãng mạn, âm mưu - là những yếu tố chính cấu thành
các quyển tiểu thuyết bán chạy nhất. Nhưng khác xa với một tác phẩm do óc
hư cấu hiện tại, những lời lẽ sau đây mô tả một câu chuyện có thật, sinh
động, đã được viết lại nhiều thế kỷ trước đây. Vượt hẳn một tác phẩm chỉ
đọc để tiêu khiển suông, đây là một câu chuyện sâu nhiệm về quyền tể trị
của Đức Chúa Trời đan xen với ý chí của con người. Đức Chúa Trời chuẩn
bị nơi chốn và cơ hội, còn những người của Ngài, Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê,
thì chọn phần hành động.
Sách Ê-xơ-tê bắt đầu với hoàng hậu Vả-thi không chịu tuân lệnh của chồng
là vua Xét-xe. Bà này đột ngột bị thất sủng và nhà vua khởi tìm một tân
hoàng hậu. Nhà vua giáng chiếu triệu tập toàn thể các mỹ nhân trong vương
quốc để đưa vào cung cấm. Ê-xơ-tê một thiếu nữ Do-thái, là một trong số
người đã được chọn đó. Vua Xét-xe rất đẹp lòng về Ê-xơ-tê nên đã chọn
nàng làm hoàng hậu.
Tiếp theo đó, Mạc-đô-chê, anh họ của Ê-xơ-tê vì là một quan chức của chính
phủ và trong khi thi hành nhiệm vụ, đã phát giác được một âm mưu ám sát.
Nhưng Ha-man một kẻ có nhiều tham vọng và ích kỷ lại được bổ nhiệm vào
chức vị đứng hàng thứ hai trong chính phủ. Vì Mạc-đô-chê không chịu quỳ
xuống để tỏ lòng tôn kính hắn, Ha-man vô cùng giận dữ và nhất định tiêu
diệt Mạc-đô-chê cùng với toàn thể dân Do-thái.
Nhằm thực hiện hành vi báo thù của mình, Ha-man đã lừa dối nhà vua và
thuyết phục nhà vua ban một chiếu chỉ kết án tử hình toàn thể người Do-thái.
Mạc-đô-chê báo cho Ê-xơ-tê biết sắc chỉ này, và bà đã quyết định liều mạng
để cứu dân tộc mình. Ê-xơ-tê mời vua Xét-xe và Ha-man đến dự một dạ tiệc
của bà. Trong bữa tiệc, nhà vua hỏi Ê-xơ-tê bà thật sự thích gì, và hứa sẽ ban
cho bà bất luận điều gì. Ê-xơ-tê chỉ đơn giản mời hai vị khách lại tham dự
một dạ tiệc khác vào ngày hôm sau.
Đêm ấy, do bị mất ngủ, nhà vua tình cờ đọc được mấy bản báo cáo trong văn
khố hoàng gia về vụ âm mưu ám sát mà Mạc-đô-chê đã phát giác. Nhà vua
rất ngạc nhiên khi biết rằng Mạc-đô-chê đã chẳng hề được ban thưởng gì vì
hành động đó, nên hỏi Ha-man phải làm thế nào để cám ơn vị anh hùng ấy
cho xứng đáng. Ha-man tưởng chắc nhà vua muốn nói về chính hắn ta, nên
đã đề nghị một phần thưởng hết sức rộng rãi. Nhà vua đồng ý, nhưng trước
sự kinh ngạc và là một điều sỉ nhục đối với Ha-man, hắn được biết chính
Mạc-đô-chê lại là người được cái vinh dự đó.
Trong bữa dạ tiệc thứ hai, nhà vua lại hỏi Ê-xơ-tê là bà thích điều gì. Bà tâu
rằng có một kẻ đang âm mưu tiêu diệt bà và cả dân tộc bà nữa, và nêu tên
Ha-man chính là thủ phạm. Nhà vua lập tức kết án xử tử Ha-man trên mộc
hình mà hắn ta đã dựng lên cho Mạc-đô-chê. Trong màn chót của tấn kịch về
cuộc đời thật này, Mạc-đô-chê đã được bổ nhiệm vào địa vị của Ha-man,
còn dân Do-thái thì được bảo đảm sẽ được bảo vệ sinh mạng trong toàn xứ.
Để ăn mừng cơ hội lịch sử này, lễ Phu-rim đã được thiết lập.
Nhờ hành động can đảm của Ê-xơ-tê, cả một dân tộc đã được cứu sống. Khi
nhìn thấy cơ hội tốt Chúa ban, bà đã biết nắm ngay lấy! Và cuộc đời bà đã
được thay đổi hẳn. Hãy đọc sách Ê-xơ-tê và trông mong cơ hội Đức Chúa
Trời sẽ hành động ngay trong đời sống của bạn. Có lẽ Ngài đã chuẩn bị bạn
để hành động “trong lúc này đây” (EtEt 4:14) .
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm chứng minh quyền tể trị và tình yêu chăm sóc của Đức
Chúa Trời đối với dân Ngài, những người thuộc về Ngài.
Trước giả: Khuyết danh. Có thể là chính Mạc-đô-chê (EtEt 9:29) một số
người gợi ý E-xơ-ra hoặc Nê-hê-mi vì bút pháp rất giống với bút pháp của
hai ông.
Niên đại viết sách: Trước sau 483-471 TC (Ê-xơ-tê được phong hoàng hậu
năm 479 TC)
Bối cảnh: Tuy sách Ê-xơ-tê được xếp sau sách Nê-hê-mi trong bộ Thánh
Kinh, các biến cố trong đó đã xảy ra 30 năm trước các biến cố đã được chép
lại trong sách Nê-hê-mi. Câu chuyện có bối cảnh là trong đế quốc Ba-tư, và
phần lớn các hành động đều đã diễn ra trong cung vua tại Su-sơ, là thủ đô
của Ba-tư.
Câu chìa khoá: “Các nàng hầu bà Ê-xơ-tê và những hoạn quan bà đều đến
thuật lại sự ấy cho bà; hoàng hậu bèn buồn rầu lắm, gởi quần áo cho Mạc-
đô-chê mặc, để lột bao khỏi mình người; nhưng người không khứng nhận”
(EtEt 4:14)
Các nhân vật chính: Ê-xơ-tê, Mạc-đô-chê, Vua Xét-xe I, Ha-man.
Địa điển chính: Cung điện hoàng gia Su-sơ, Ba-tư.
Những nét đặc trưng: Ê-xơ-tê là một trong hai sách trong Thánh Kinh có
nhan đề là tên của phụ nữ (sách kia là Ba-tư). Có một điểm bất thường, là
trong nguyên bản, đã không thấy có tên, tước hiệu hay đại danh từ chỉ Đức
Chúa Trời (xem chú thích ở EtEt 4:14) . Điều này đã khiến một số giáo phụ
thắc mắc đối với việc đưa văn phẩm này vào toàn bộ Kinh điển. Nhưng sự
hiện diện của Đức Chúa Trời thì quá rõ ràng từ đầu chí cuối quyển sách.
Bố cục:
Ê-xơ-tê được ngôi hoàng hậu (EtEt 1:1-2:23)
Dân Do-thái bị đe doạ (EtEt 3:1-4:17)
Ê-xơ-tê cầu thay cho dân Do-thái (EtEt 5:1-8:17)
Dân Do-thái được giải cứu (EtEt 9:1-10:3)
Sách Ê-xơ-tê là một thí dụ về sự hướng dẫn và chăm sóc của Đức Chúa Trời
cho đời sống chúng ta. Quyền tể trị và quyền năng của Đức Chúa Trời được
thấy rõ từ đầu chí cuối quyển sách này. Tuy chúng ta có thể thắc mắc đặt
vấn đề nhân một số hoàn cảnh xảy ra trong cuộc đời mình, chúng ta phải có
đức tin rằng Đức Chúa Trời đang nắm quyền cai trị kiểm soát, vận hành qua
cả các thời kỳ thuận tiện lẫn khó khăn để chúng ta đều có thể phục vụ Ngài
có kết quả.
Các đại đề mục:
Luận đề: Quyền tể trị của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Sách Ê-xơ-tê kể lại các hoàn cảnh chủ yếu cho sự tồn tại của
dân Chúa tại Ba-tư. Các “tình hình” đó vốn không phải là hậu quả của sự
may rủi, nhưng là kế hoạch lớn của Đức Chúa Trời. Ngài đang cầm quyền tể
trị trên mọi lãnh vực của đời sống chúng ta.
Tầm quan trọng: Với Đức Chúa Trời đảm trách mọi sự, chúng ta có thể cứ
can đảm lên. Ngài có quyền hướng dẫn chúng ta vượt mọi hoàn cảnh phải
đương đầu trong đời sống. Bạn có thể trông mong Đức Chúa Trời phô bày
quyền năng Ngài để thực hiện ý chỉ Ngài. Một khi chúng ta đã thống nhất
chủ đích của mình với chủ đích của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ được hưởng
lợi từ sự chăm sóc tể trị của Ngài.
Luận đề: Oán thù chủng tộc
Lời giải thích: Dân Do-thái tại Ba-tư chỉ là một thiểu số vì họ đã đưa từ Giu-
đa đến để chịu cảnh lưu đày từ 100 năm trước. Ha-man là một hậu duệ của
vua A-ga, một kẻ thù của dân Do-thái. Thói tham quyền và kiêu ngạo đã đưa
Ha-man đến chỗ thù ghét Mạc-đô-chê, anh họ của Ê-xơ-tê. Ha-man đã
thuyết phục nhà vua tận diệt người Do-thái.
Tầm quan trọng: Oán thù chủng tộc bao giờ cũng là tội ác. Chúng ta không
nên nhượng bộ nó bất kỳ dưới hình thức nào. Mỗi một con người trên thế
gian này đều có giá trị nội tại, vì Đức Chúa Trời đã sáng tạo ra nhân loại
theo hình tượng Ngài. Do đó người thuộc về Đức Chúa Trời phải chống lại
chủ nghĩa (kỳ thị) chủng tộc bất cứ lúc nào nơi nào nó xuất hiện.
Luận đề: Sự giải thoát
Lời giải thích: Đến ngày 28 tháng Hai dl., người Do-thái ăn mừng lẫ Phu-
rim, biểu tượng của quyền năng giải cứu của Đức Chúa Trời. Phu-rim có
nghĩa là “thăm”, những lá thăm mà Ha-man đã dùng để định ngày tiêu diệt
toàn thể dân Do-thái khỏi xứ Ba-tư. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng tể trị, sử
dụng hoàng hậu Ê-xơ-tê cầu thay cho dân Do-thái.
Tầm quan trọng: Vì Đức Chúa Trời đang kiểm soát lịch sử, Ngài không hề
bị một biến chuyển nào của các biến cố hay hành động nào của loài người
đánh bại được. Ngài có quyền cứu chúng ta khỏi điều ác của thế gian này và
giải cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Vì tin cậy Đức Chúa Trời, chúng ta
chẳng sợ những gì thiên hạ nói hoặc làm cho chúng ta; trái lại, chúng ta phải
tin quyết vào quyền cai trị kiểm soát của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Hành động
Lời giải thích: Trực diện với cái chết, Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê đã gạt qua một
bên nỗi sợ hãi của riêng họ để bắt tay hành động. Ê-xơ-tê đã liều mạng để
yêu cầu vua Xét-xe cứu dân Do-thái. Họ không để cho nỗi sợ hãi khiến mình
bị tê liệt.
Tầm quan trọng: Khi thuộc thiểu số và thiếu năng lực thì lẽ tự nhiên là
chúng ta cảm thấy bất năng. Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê đã chống lại cám dỗ này
bằng cách can đảm hành động. Biết Đức Chúa Trời nắm quyền kiểm soát thì
chưa đủ, chúng ta còn phải hành động hi sinh và can đảm nữa theo sự hướng
dẫn của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Khôn ngoan
Lời giải thích: Dân Do-thái thuộc thiểu số trong một thế gian thù ghét họ.
Mạc-đô-chê phải hết sức khôn ngoan mới tồn tại được. Phục vụ nhà vua như
một quan chức trung tín, Mạc-đô-chê đã tìm cách hiểu rõ và hành động đúng
luật pháp Ba-tư. Thế nhưng lòng trung thực của ông đã không bị “pha
loãng” để thoả hiệp với thế gian.
Tầm quan trọng: Phải thật khôn ngoan mới tồn tại được trong một thế gian
vô tín. Trong một môi trường sống phần lớn là thù ghét Cơ-đốc giáo, chúng
ta có thể chứng minh sự khôn ngoan bằng cách tôn trọng những gì là đúng,
là tốt, và bằng cách khiêm tốn giữ vững lập trường chống lại điều sai quấy.

Dẫn nhập Gióp


Lời giới thiệu
Cây cối gãy đổ nằm ngổn ngang như những cây tăm xỉa răng vung vãi,
chỏng chơ trên mặt đất. Nhiều mái nhà nguyên vẹn tung lên như những cánh
buồm va vào nhau như những món đồ chơi, các vách tường đổ sập, và từng
núi nước nhảy chồm lên bờ, tràn ngập cả mặt đất. Một trận bão lốc đốn,
chặt, xé nát bao công trình và chỉ có các nền móng vững chắc mới có thể tồn
tại trước cơn thịnh nộ chẳng có gì kiềm hãm được của nó mà thôi.
Với bất luận một công trình xây dựng nào, phần nền móng là tối quan trọng.
Nó phải sâu và vũng chắc đủ thì mới đứng vững được dưới sức nặng của
ngôi nhà và những cuộc day động rung chuyển khác. Đời sống cũng giống
như những ngôi nhà, và phẩm chất của phần nền tảng của nó sẽ quyết định
cho tính bền vững của toàn thể. Việc quá thường xảy ra, là người ta lại sử
dụng các vật liệu có phẩm chất kém, nên khi thử thách đến, thì nhiều cuộc
đời đã sụp đổ.
Gióp đã bị thử thách. Với một cuộc đời đầy uy tín, nhiều của cải và đông
người, ông thình lình bị tấn công từ mọi phía, bị tàn hại, bị lột trần san
phẳng đến tận nền móng. Nhưng cuộc đời ông vốn được xây trên Đức Chúa
Trời, cho nên ông vẫn kiên trì chịu đựng và tồn tại.
Sách Gióp kể lại truyện tích của Gióp, là người của Đức Chúa Trời. Đây là
một vở kịch được bố cục chặt chẽ về cảnh “lên voi xuống chó” của một
người đang “giàu nứt đố đổ vách” bỗng nhiên trở thành kẻ “nghèo rớt mồng
tơi” nhưng rồi lại trở nên giàu có, một sách khảo luận thần học bàn về sự
đau khổ và quyền tể trị của Đức Chúa Trời, và một bức tranh vẽ cảnh đức tin
biết kiên trì nhẫn nhục. Trong khi đọc sách Gióp, nên phân tích đời sống
kiểm điểm lại phần nền móng của chính mình. Và có lẽ bạn sẽ có thể nói
rằng khi mọi sự đều bỏ đi ngoại trừ chính Đức Chúa Trời, thì chỉ một mình
Ngài cũng là đủ rồi.
Gióp là một trại chủ giàu có sống trong xứ Út-xơ. Ông có nhiều ngàn chiên,
lạc đà và gia súc khác nữa, một gia đình đông người và nhiều tôi tớ. Thình
lình kẻ hay cáo kiện là quỉ Sa-tan ra mắt Đức Chúa Trời, bảo rằng sở dĩ
Gióp tin cậy Đức Chúa Trời chỉ vì ông giàu có và mọi sự đều diễn tiến tốt
đẹp cho ông mà thôi. Thế là cuộc thử thách đức tin của Gióp bắt đầu.
Sa-tan được cho phép hủy diệt các con cái tôi tớ, gia súc, những kẻ chăn
bầy, và ngôi nhà của Gióp, nhưng Gióp vẫn tiếp tục tin cậy Đức Chúa Trời.
Tiếp đến, Sa-tan tấn công thân thể của Gióp, khiến toàn thân ông đầy ghẻ
độc và gây đau đớn. Vợ Gióp bảo ông hãy nguyền rủa Đức Chúa Trời rồi
chết đi (2:9), nhưng Gióp vẫn âm thầm chịu khổ.
Ba người trong số các bạn của Gióp là Ê-li-pha, Binh-đát và Sô-pha đến
thăm ông. Thoạt đầu họ im lặng cùng chia sẻ đau buồn với Gióp. Nhưng rồi
khi họ bắt đầu bàn về nguyên nhân các tấn thảm kịch của Gióp, họ bảo rằng
chính tội lỗi đã gây ra đau khổ. Họ bảo Gióp phải xưng tội mình và quay trở
lại với Đức Chúa Trời. Nhưng Gióp vẫn giữ vững lập trường là ông vô tội.
Vì không thuyêt phục nổi Gióp, cả ba người kia đều im lặng (32:1). Đến đây
thì một giọng nói khác của chàng thanh niên Ê-li-hu tham gia cuộc tranh
luận. Tuy luận cứ của ông cũng không thuyêt phục được Gióp, nó đã dọn
đường để Đức Chúa Trời lên tiếng.
Cuối cùng, Đức Chúa Trời truyền phán từ một cơn lốc lớn. Bị đặt trực diện
với quyền năng và vẻ uy nghi lớn lao của Đức Chúa Trời, Gióp đã chịu hạ
mình xuống, tỏ vẻ tôn kính trước mặt Đức Chúa Trời - và chẳng nói được lời
nào. Đức Chúa Trời đã quở trách các bạn của Gióp, và vở kịch kết thúc với
việc Gióp được phục hồi cả hạnh phúc lẫn sự giàu có.
Thật là dễ tưởng rằng chúng ta đã giải đáp được mọi thắc mắc. Thật ra thì
chỉ một mình Đức Chúa Trời mới biết chính xác tại sao mọi việc đã xảy ra
như chúng đang xảy ra, cho nên chúng ta phải đầu phục Ngài với cương vị
Đấng Cầm Quyền Tể trị. Khi đọc sách này, bạn nên noi gương Gióp để
quyết định tin cậy Đức Chúa Trời, cho dù có việc gì xảy ra đi chăng nữa.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để chứng minh quyền tể trị của Đức Chúa Trời và ý nghĩa của
đức tin thật. Nó trả lời cho câu hỏi: “Tại sao người ngay lại mắc nạn?”
Trước giả: Khuyết danh, có lẽ là Gióp. Có người từng gợi ý là Môi-se, Sa-
lô-môn, hoặc Ê-li-hu.
Niên đại viết sách: Không rõ. Các biến cố được ghi lại có lẽ đã xảy ra vào
thời của các tộc trưởng, khoảng 2000-1800 TC
Bối cảnh: Xứ Út-xơ, có lẽ nằm tại vùng cực Bắc xứ Palestine, gần vùng sa
mạc giữa Đa-mách và sông Ơ-phơ-rát
Câu gốc: Giop G 2:3
Các nhân vật chính: Gióp, Ê-li-pha người Thê-man, Binh-đát người Su-a,
Sô-pha người Na-a-man, Ê-li-hu người Bu-xi.
Những nét đặc trưng: Gióp là sách đầu tiên trong các sách thi ca của bộ
Thánh Kinh Hy-bá-lai. Có người tin rằng đây là quyển sách đã được viết ra
đầu tiên trong toàn bộ Thánh Kinh. Quyển sách cho chúng ta một cái nhìn
xuyên suốt vào công việc của Sa-tan. Exe Ed 14:14,20; Gia Gc 5:11 có đề
cập Gióp như một nhân vật lịch sử.
Bố cục
A. Gióp bị thử thách (1:1-2:13)
Gióp, một người giàu có và ngay lành, bị mất cả tài sản, con cái và sức khoẻ.
Ông không hiểu tại sao mình lại gặp khổ nạn như thế. Tại sao Đức Chúa
Trời lại để cho các con cái Ngài chịu khổ?
Tuy vẫn có một lời giải thích, nhưng có lẽ lúc hãy còn sống trên đời này,
chúng ta vẫn chưa được biết rõ. Trong khi chờ đợi, chúng ta phải luôn luôn
sẵn sàng đối với mọi thử thách xảy đến cho đời sống mình.
B. Ba bạn thân giải đáp cho Gióp (3:1-31:40)
1. Vòng thảo luận thứ nhất
2. Vòng thảo luận thứ hai
3. Vòng thảo luận thứ ba
Các bạn thân của Gióp đã sai lầm khi cho rằng đau khổ bao giờ cũng là hậu
quả của tội lỗi. Do in trí như thế, nên họ cố thuyết phục Gióp ăn năn tội.
Nhưng cả ba đều sai lầm.
Đau khổ không phải bao giờ cũng là hậu quả của tội lỗi cá nhân. Khi chúng
ta gặp đau khổ nghiêm trọng, điều đó có thể không phải là do lỗi lầm của
chúng ta, cho nên chúng ta chớ nên thêm vào cho nỗi đau đớn của mình cái
mặc cảm rằng chắc một tội lỗi kín giấu nào đó đã gây ra rắc rối cho chúng
ta.
C. Một thanh niên trả lời cho Gióp (32:1-37:24)
Một thanh niên tên Ê-li-hu đã nghe đầu đuôi câu chuyện, chê bai người bạn
kia của Gióp là đã không trả lời đúng cho Gióp. Ông nói rằng tuy Gióp là
một người tốt, ông đã tự lên mặt kiêu căng, và sở dĩ Đức Chúa Trời trừng
phạt ông là để ông biết tự hạ mình. Câu trả lời này có một phần đúng, vì đau
khổ thanh lọc đức tin chúng ta. Nhưng Đức Chúa Trời vượt ra ngoài tầm
lãnh hội của chúng ta, cho nên chúng ta không thể biết được tại sao Ngài lại
cho phép sự đau khổ đến với đời sống chúng ta trong từng trường hợp một.
Phần của chúng ta chỉ đơn giản là cứ tận trung với Ngài.
D. Đức Chúa Trời trả lời cho Gióp (38:1-41:34)
Cuối cùng thì chính Đức Chúa Trời đã giải đáp thắc mắc của Gióp. Ngài
đang cầm quyền cai trị kiểm soát cả thế gian này, nên chỉ một mình Ngài
mới hiểu rõ tại sao người ngay được cho phép phải gặp nạn. Điều này sẽ chỉ
trở thành rõ ràng cho chúng ta khi nào chúng ta thấy được Đức Chúa Trời là
ai, và Ngài là Đấng như thế nào. Chúng ta phải can đảm chấp nhận những gì
Đức Chúa Trời cho phép xảy đến cho đời sống chúng ta, và cứ vững lòng
tận hiến cho Ngài.
E. Gióp được phục hồi địa vị (42:1-17)
Cuối cùng, Gióp đã học biết được rằng khi ông chẳng còn lại chi cả, thì ông
vẫn còn có Đức Chúa Trời, và như thế đã là đủ lắm rồi. Qua đau khổ, chúng
ta học biết được rằng Đức Chúa Trời là đầy đủ cho đời sống và tương lai của
chúng ta. Chúng ta phải yêu mến Đức Chúa Trời bất chấp Ngài ban phước
hay cho phép sự đau khổ đến với chúng ta. Thử thách vốn khó chịu, nhưng
kết quả thường là một mối liên hệ sâu nhiệm hơn với Đức Chúa Trời. Những
ai kiên trì để đức tin mình chịu đựng nổi thử thách, thì cuối cùng sẽ được
nhiều phần thưởng lớn.
Các đại đề mục
Luận đề: Đau khổ
Lời giải thích Tuy Gióp chẳng có lầm lỗi gì, ông đã bị mất hết của cải, con
cái, và sức khoẻ. Tuy các bạn của Gióp tin quyết rằng sở dĩ Gióp phải gặp
đau khổ là do chính ông gây ra, theo Gióp, thử thách lớn nhất không phải là
nỗi đau bị mất mát, nhưng là vì không hiểu nổi tại sao Đức Chúa Trời lại để
cho ông chịu khổ.
Tầm quan trọng Đau khổ có thể, nhưng không phải luôn luôn là sự trừng
phạt đối với tội lỗi. Cũng thế, sự hưng thịnh không phải bao giờ cũng là
phần thưởng vì ta đã sống ngay lành. Những người yêu mến Đức ChúaTrời
không hề được miễn trừ để khỏi phải chịu khổ. Tuy có lẽ chúng ta không
luôn luôn hiểu thật đầy đủ nỗi đau mà mình phải chịu, điều đó có thể giúp
chúng ta tái khám phá về Đức Chúa Trời.
Luận đề: Những cuộc tấn công của Sa-tan
Lời giải thích Sa-tan đã tìm cách đóng một cây nêm giữa Gióp và Đức Chúa
Trời, để khiến Gióp tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng đang cai trị thế gian này
không phải bao giờ cũng công bằng, thiện hảo. Sa-tan đã phải xin phép Đức
Chúa Trời để cướp đi của cải, sức khoẻ, và con cái của Gióp. Sa-tan bị giới
hạn trong những gì Đức Chúa Trời cho phép mà thôi.
Tầm quan trọng Chúng ta phải học tập để biết và không sợ các cuộc tấn
công của Sa-tan, vì nó không thể vượt quá các giới hạn mà Đức Chúa Trời
đặt ra cho nó. Đừng để cho bất cứ một từng trải nào đóng nêm, gây bế tắc
cho mối liên hệ giữa bạn với Đức Chúa Trời. Tuy bạn không nắm vững
được tại sao Sa-tan tấn công, bạn luôn luôn có thể chọn cách đối phó với nó
khi việc ấy xảy ra.
Luận đề: Sự thiện hảo của Đức Chúa Trời
Lời giải thích Đức Chúa Trời vốn toàn tri, toàn năng. Ý chỉ Ngài vốn trọn
vẹn, nhưng Ngài không luôn luôn hành động theo trí hiểu của chúng ta. Sở
dĩ nỗi đau khổ của Gióp gây khó hiểu vì mọi người đều cho rằng hễ ở hiền
thì phải gặp lành. Lúc Gióp sắp tuyệt vọng, Đức Chúa Trời đã phải dạy ông,
chứng minh cho ông thấy quyền năng và sự khôn ngoan lớn lao của Ngài.
Tầm quan trọng Tuy Đức Chúa Trời có mặt khắp nơi, thỉnh thoảng Ngài có
vẻ như đang ở rất xa. Điều này có thể khiến chúng ta cảm thấy cô đơn và
nghi ngờ sự chăm sóc mà Ngài vẫn dành cho chúng ta. Chúng ta phải phục
vụ Đức Chúa Trời vì chính Ngài, chứ không phải tuỳ theo cảm xúc của
chúng ta. Ngài chẳng bao giờ vô cảm đối với nỗi đau khổ của chúng ta. Vì
Đức Chúa Trời là Đấng đầy đủ trọn vẹn, cho nên chúng ta phải bám chặt lấy
Ngài.
Luận đề: Kiêu ngạo
Lời giải thích Các bạn của Gióp tin chắc rằng họ đúng khi phán đoán về ông.
Đức Chúa Trời đã quở trách họ vì thói kiêu ngạo và tự phụ tự mãn của họ.
Sự khôn ngoan của loài người luôn luôn có giới hạn và tạm thời, cho nên
thói kiêu ngạo không phải là khi chúng ta đưa ra một câu kết luận, là tội lỗi.
Tầm quan trọng Chúng ta phải thận trọng, đừng “đoán xét” những người
khác đang đau khổ. Chúng ta có thể tự chứng tỏ là mình phạm tội kiêu ngạo
đấy! Chúng ta phải thận trọng khi đưa ra các kết luận riêng về cách thức Đức
Chúa Trời đang đối xử với mình. Khi nào chúng ta tự khen mình là phải, là
đúng, là chúng ta trở thành kẻ kiêu ngạo.
Luận đề: Lòng tin cậy
Lời giải thích Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới biết rõ chủ đích ẩn phía sau
sự đau khổ của Gióp, thế nhưng Ngài đã chẳng giải thích cho Gióp. Mặc dù
vậy, Gióp đã chẳng bao giờ từ bỏ Đức Chúa Trời - cả giữa cơn đau khổ. Ông
đã không đặt hy vọng vào từng trải, sự khôn ngoan bạn bè hay của cải của
mình. Gióp chỉ nhìn chăm vào một mình Đức Chúa Trời mà thôi.
Tầm quan trọng Gióp cho thấy loại lòng tin cậy mà chúng ta cần phải có.
Khi mọi sự đã bị tước đoạt cả rồi, chúng ta mới nhận thức được rằng Đức
Chúa Trời mới là tất cả những gì chúng ta thật sự có. Chúng ta không nên
đòi hỏi Đức Chúa Trời phải giải thích mọi việc. Ngài đã tự ban chính Ngài
cho chúng ta, nhưng không phải là mọi chi tiết của các kế hoạch của Ngài.
Chúng ta phải nhớ rằng đời này với tất cả sự đau khổ của nó, vẫn chưa phải
là số phận cuối cùng của chúng ta.

Dẫn nhập Thi Thiên


Lời giới thiệu
“Chào, bạn mạnh giỏi chứ?”. “Khoẻ, cám ơn”. Đúng ra thì cuộc trao đổi
ngắn ngủi này không phải là một cuộc thảo luận “theo chiều sâu” mà chỉ là
những câu trao đổi bình thường giữa các bạn bè và người quen biết, chuyển
cho nhau để tiếp xúc với nhau chớp nhoáng theo thói quen xã giao. Thật ra
các thói quen “khách sáo” vốn là một cách sống, là những câu nói, những
phân đoạn có sức lắng đọng, thấm sâu. Nhưng vốn đây là yếu tính của việc
giao lưu tiếp xúc, mối liên hệ sẽ chỉ dừng lại ở bình diện nông cạn trên bề
mặt mà thôi. Các sự kiện và ý kiến riêng vốn cũng đầy dẫy trong những câu
nói để trao đổi của chúng ta. Những từ này đi sâu hơn, nhưng con người thật
vẫn ẩn mình phía sau chúng. Thật ra, chỉ khi nào các cảm thức và tình cảm
chân thành được người ta chia sẻ cho nhau, thì những con người thật mới
được biết rõ, yêu thương và giúp đỡ.
Thường thường thì những khuôn sáo của việc giao lưu tiếp xúc cạn cợt tự
nhiên nhảy vào trong các câu chuyện giữa chúng ta với Đức Chúa Trời.
Chúng ta rất dễ lướt nhanh qua những dòng chữ hoa mỹ đã được đọc thuộc
lòng qua nhiều thập niên, hoặc vội vàng thốt ra một hai câu khách sáo cho
Đức Chúa Trời và gọi đó là một bài cầu nguyện. Chẳng có gì để nghi ngờ là
Đức Chúa Trời vẫn nghe và hiểu những cố gắng gượng gạo đó, nhưng bằng
cách giới hạn chiều sâu của việc giao lưu tiếp xúc của mình như thế, mối
liên hệ giữa chúng ta với Ngài sẽ trở thành nông cạn. Nhưng Đức Chúa Trời
vốn biết rõ chúng ta, và Ngài muốn chúng ta có được sự thông công, sự
tương giao thật sự với Ngài.
Sách Thi thiên là tâm điểm của toàn bộ Thánh Kinh. Bộ sưu tập vĩ đại các
bài ca và bài cầu nguyện này diễn tả tấm lòng và tâm hồn của nhân loại.
Trong bộ sưu tập này, mọi từng trải của con người đều đã được biểu hiện.
Trong sách này chẳng có gì là khuôn sáo cả. Trái lại, Đa-vít và các trước giả
khác đã chân thành dốc đổ các cảm thức của mình ra, phản ảnh một tình bạn
năng động, mãnh liệt và làm thay đổi cuộc đời với Đức Chúa Trời. Các tác
giả Thi thiên xưng tội, bộc lộ các nỗi nghi ngờ sợ hãi của họ, cầu xin Đức
Chúa Trời phù hộ khi gặp hoạn nạn, và ca tụng, thờ phượng Ngài.
Khi đọc sách Thi thiên, bạn sẽ được nghe các tín hữu từ những nơi sâu thẳm
của nỗi tuyệt vọng kêu cầu Đức Chúa Trời, bạn sẽ được nghe họ ca hát cho
Ngài trong những lễ hội vui mừng. Nhưng dù thất vọng hay vui mừng, bao
giờ bạn cũng được nghe họ chia sẻ những cảm thức chân thành nhất với Đức
Chúa Trời. Vì lòng chân thành mà các tác giả Thi thiên đã bộc lộ đó, nhiều
người nam người nữ xuyên suốt lịch sử đã đến, và đến nhiều lần với sách
Thi thiên để tìm an ủi trong những lúc phải chiến đấu và gặp hoạn nạn. Và
cùng với các tác giả Thi thiên, họ đã chổi dậy từ những nơi sâu thẳm của
tuyệt vọng để vượt lên đến các đỉnh cao của niềm vui và sự ca tụng khi họ
tìm được tình yêu và sự tha thứ tồn tại mãi của Đức Chúa Trời. Hãy để cho
lòng chân thành của các tác giả Thi thiên hướng dẫn bạn đi sâu vào mối liên
hệ chân thành với Đức Chúa Trời.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để cung cấp những bài thơ nhằm biểu lộ sự ca ngợi tán tụng, thái
độ thờ phượng và thú tội với Đức Chúa Trời.
Trước giả: Đa-vít đã viết 73 Thi thiên; A-sáp 12 bài, con cáu Cô-rê 9 bài;
Sa-lô-môn 2 bài; Hê-mon (cùng với con cháu Cô-rê), Ê-than, và Môi-se mỗi
người một bài, còn 51 bài khác là do các tác giả khuyết danh. Tân ước gán 2
trong số các Thi thiên khuyết danh (các Thi thiên đoạn 2 và 95) cho Đa-vít
(xem Cong Cv 4:25; HeDt 4:7).
Niên đại trước tác: Giữa thời của Môi-se (khoảng 1.440TC) và cuộc lưu đày
sang Ba-by-lôn (586 TC)
Bối cảnh: Phần lớn các thi thiên không có ý định ký thuật các sự kiện lịch
sử. Tuy nhiên, chúng thường có các biến cố lịch sử song hành, như việc Đa-
vít chạy trốn Sau-lơ, và tội vua phạm với Bát-sê-ba.
Câu chìa khoá: Thi Tv 150:6)
Nhân vật chính: Đa-vít
Địa điểm chính: Đền thánh của Đức Chúa Trời
Bố cục
Quyển I. Thi Tv 1:1-41:13
Do các Thi thiên được tổ chức theo đề mục, cho nên chúng ta sẽ được giúp
ích khi đem các luận đề nổi bật trong từng đoạn các thi thiên để đối chiếu
với năm quyển sách của Môi-se. Bộ sưu tập các thi thiên đầu tiên này, phần
lớn do Đa-vít sáng tác, tương tự với Sáng thế ký. Như Sáng thế ký cho biết
loài người đã được tạo dựng như thế nào, sa vào tội lỗi làm sao rồi được hứa
sẽ được cứu chuộc như thế nào, nhiều thi thiên trong quyển I này thảo luận
về các vấn đề nhân loại đã được phước, sa ngã, rồi được Đức Chúa Trời cứu
chuộc.
Quyển II. Thi Tv 42:1-72:20
Bộ sưu tập các thi thiên này, phần lớn do Đa-vít và con cháu Cô-rê sáng tác,
tương tự với Xuất Ê-díp-tô ký. Như Xuất Ê-díp-tô ký mô tả dân Y-sơ-ra-ên
thể nào, nhiều thi thiên trong quyển II này cho thấy việc dân tộc ấy đã lụn
bại rồi được phục hồi địa vị. Cũng như Đức Chúa Trời đã cứu vớt dân Y-sơ-
ra-ên, Ngài cũng cứu vớt chúng ta nữa Việc đầu tiên chúng ta phải làm
không phải là tự tìm các giải pháp, mà có thể đến với Đức Chúa Trời, mang
theo các vấn đề của chúng ta và xin Ngài giúp cho.
Quyển III. Thi Tv 73:1-89:52
Bộ sưu tập các thi thiên này, phần lớn do A-sáp hoặc các hậu duệ của A-sáp
sáng tác, cũng tương tự như Lê-vi ký. Như Lê-vi ký thảo luận về Đền tạm và
sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, nhiều thi thiên trong quyển III này thảo
luận về Đền thờ và Đức Chúa Trời ngự trên ngôi Ngài. Vì Đức Chúa Trời là
Đấng Toàn Năng, chung ta có thể quay sang với Ngài để được giải cứu. Các
thi thiên này ca tụng Đức Chúa Trời vì Ngài thánh khiết, và sự thanh khiết
trọn vẹn của Ngài đáng cho chúng ta thờ phượng mà sùng kính.
Quyển IV. 90:1-106:48
Bộ sưu tập các thi thiên này, phần lớn do các trước giả khuyết danh sáng tác,
tương tự với Dân số ký. Như Dân số ký mô tả mối liên hệ của dân Y-sơ-ra-
ên với các lân bang, các thi thiên này thường đề cập mối liên hệ giữa vương
quốc được Đức Chúa Trời tể trị với các quốc gia khác. Vì chúng ta là công
dân Nước Trời, chúng ta có thể nhìn vào các biến cố xảy ra trên thế gian này
theo đúng viễn cảnh của chúng.
Quyển V. 107:1-150:6
Bộ sưu tập các thi thiên này, phần lớn do Đa-vít sáng tác, tương tự với Phục
truyền luật lệ ký. Như sách Phục truyền quan tâm đến Đức Chúa Trời và Lời
Ngài, các thi thiên này là tuyển tập những bài ca tụng và cảm tạ dành cho
Đức Chúa Trời và Lời Ngài. Phần lớn các thi thiên này nguyên được phổ
nhạc vàsử dụng cho việc thờ phượng. Ngày nay, chúng ta có thể dùng các thi
thiên như chúng vốn đã được sử dụng trong quá khứ, như một sách sưu tập
các bài thánh ca nhằm ca tụng và thờ phượng Đức Chúa Trời. Đây phải là
quyển sách tạo thành bài ca vang mãi trong lòng chúng ta.
Các đại đề mục
Luận đề: Ca tụng.
Phần giải thích: Thi thiên là các bài hát để ca ngợi tán tụng Đức Chúa Trời
với tư cách Đấng Tạo Hoá, Đấng Bảo Tồn và Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Ca
tụng là nhìn nhận, tán thưởng và diễn tả tính cách vĩ đại của Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Tập trung tư tưởng vào Đức Chúa Trời khiến chúng ta ca
ngợi tán tụng Ngài. Càng được biết Ngài nhiều bao nhiêu, chúng ta càng có
thể tán thưởng những gì Ngài đã làm cho chúng ta nhiều bấy nhiêu.
Luận đề: Quyền năng của Đức Chúa Trời
Phần giải thích: Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, và Ngài luôn luôn hành
động đúng lúc kịp thời. Ngài tể trị trên mọi hoàn cảnh. Quyền năng của Đức
Chúa Trời được chứng tỏ trong các cách thức Ngài tự bày tỏ mình ra (mặc
khải) trong công trình sáng tạo vũ trụ này, trong lịch sử và trong Lời Ngài.
Tầm quan trọng: Khi nào chúng ta tự thấy bất năng bất lực, thì Đức Chúa
Trời có thể giúp đỡ chúng ta. Năng lực của ngài có thể chiến thắng nỗi tuyệt
vọng của bất kỳ một đau khổ hoặc thử thách nào. Chúng ta có thể luôn luôn
cầu nguyện xin Ngài giải thoát bảo vệ, và nâng đỡ mình.
Luận đề: Sự tha tội
Phần giải thích: Nhiều thi thiên là những bài cầu nguyện khẩn thiết xin Đức
Chúa Trời tha tội. Ngài tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xưng tội mình và
từ bỏ nó.
Tầm quan trọng: Vì Đức Chúa Trời tha tội cho chúng ta, chúng ta có thể cầu
nguyện với Ngài thật thành khẩn và trực tiếp. Khi đã được tha thứ, chúng ta
được chuyển từ địa vị người xa lạ trở thành người thân thiết từ phạm tội
sang yêu thương.
Luận đề: Cảm tạ
Phần giải thích: Chúng ta biết ơn Đức Chúa Trời về mối quan tâm, sự giúp
đỡ, và lòng nhân từ thương xót cá nhân của Ngài. Chẳng những Ngài bảo vệ,
hướng dẫn và tha tội cho chúng ta, mà cõi thọ tạo của Ngài còn cung cấp cho
chúng ta tất cả những gì chúng ta có cần nữa.
Tầm quan trọng: Một khi biết mình đã được hưởng lợi như thế nào nhờ nhận
biết Đức Chúa Trời, chúng ta có thể bộc lộ thật đầy đủ lời tạ ơn Ngài. Nhờ
thường cảm tạ Ngài, chúng ta phát triển được tính hồn nhiên tự phát trong
sinh hoạt cầu nguyện của mình.
Luận đề: Tin cậy
Phần giải thích: Đức Chúa Trời vốn thành tín và công bằng. Khi nào chúng
ta đặt lòng tin cậy nơi Ngài, Ngài vỗ về, an ủi chúng ta. Vì Ngài vốn thành
tín xuyên suốt dòng lịch sử, chúng ta có thể tin cậy Ngài khi gặp hoạn nạn.
Tầm quan trọng: Thiên hạ có thể bất công, và bạn thân có thể từ bỏ chúng ta.
Nhưng chúng ta có thể tin cậy Đức Chúa Trời. Nhận biết Đức Chúa Trời thật
mật thiết sẽ xua tan mọi nghi ngờ, sợ hãi và cô đơn.

Dẫn nhập Châm ngôn


Lời giới thiệu
Các mẫu tự, nguyên âm và phụ âm họp thành từ ngữ, câu cú, phân đoạn, và
những quyển sách được đọc lên, thuyết giảng bằng cử điệu, thì thào, viết ra
giấy và in ấn. Từ một lời khuyên giữa bạn bè đến những bài diễn thuyết gây
cảm xúc, và từ những bộ sách dày cộm bám đầy bụi bặm đến những tờ báo
lá cải hằng ngày, nhiều bức thông điệp đã được truyền đi và tiếp nhận mà
mỗi người truyền đi đều cố tìm cách chia sẻ kiến thức và sự khôn ngoan.
Hoà quyện trong thể chất con người, là hoài bảo muốn học hỏi để thông
hiểu. Tâm trí chúng ta phân biệt chúng ta với thú vật, vì chúng ta biết phân
tích, tiếp thu các ý niệm, đặt giả thuyết, thảo luận và tranh luận từ những
điều được xem là khoa học đến những gì được kể là siêu nhiên. Và chúng ta
xây dựng trường học, học viện, các trường đại học, là nơi các giáo sư thông
thái có thể truyền dạy cho chúng ta về thế giới và cuộc đời. Kiến thức vốn
tốt, nhưng có chỗ khác nhau rất lớn giữa “kiến thức” (hiểu biết các sự kiện)
với “khôn ngoan” (ứng dụng các sự kiện ấy vào đời sống). Chúng ta có thể
thu thập kiến thức, mà không khôn ngoan, khiến cho kiến thức đó của mình
trở thành vô dụng. Chúng ta còn phải học hỏi để biết sống bằng những gì
mình đã biết nữa.
Con người khôn ngoan nhất từng sống trên đời này là vua Sa-lô-môn, để lại
cho chúng ta một di sản về minh triết thành văn gồm ba bộ sách. Các sách
Châm ngôn, Truyền đạo và Nhã ca. Trong ba bộ sách này, do Đức Thánh
Linh hướng dẫn, ông đưa ra những cái nhìn thông tuệ và đường hướng chỉ
đạo cho đời sống.
Trong bộ thứ nhất của ba bộ sách vừa kể, vua Sa-lô-môn truyền lại lời
khuyên thực tiễn của ông bằng hình thức những câu châm ngôn. Châm ngôn
là một câu nói ngắn gọn, hàm súc, nói lên một chân lý đạo đức. Sách Châm
ngôn là một bộ sưu tập những câu nói khôn ngoan ấy. Như điều chúng ta có
thể trông mong, luận đề chủ yếu của sách Châm ngôn là bản tính của sự
khôn ngoan thật. Sa-lô-môn viết (ChCn 1:7). Rồi ông tiếp tục đưa ra mấy
trăm thí dụ thực tiễn về cách phải sống sao cho phù hợp với sự khôn ngoan
tin kính.
Sách Châm ngôn bao quát nhiều loại đề mục, gồm tuổi thanh xuân, kỷ luật,
sinh hoạt gia đình, đức tự chủ,và các vấn đề chống lại cám dỗ, kinh doanh,
cách nói năng, giữ gìn miệng lưỡi, nhận biết Đức Chúa Trời, hôn nhân, tìm
kiếm chân lý, giàu nghèo, cách sống vô luân vô đạo, và lẽ tất nhiên, là cả
vấn đề minh triết. Các châm ngôn này là những bài thơ ngắn (thường có
hình thức của một khổ thơ) hàm chứa một sự pha lẫn thánh khiết của lương
tri lương thức với những lời cảnh cáo hợp thời. Tuy chúng không ngụ ý
muốn truyền dạy một giáo lý, nhưng người nào noi theo các lời khuyên này
sẽ bước đi trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Từ ngữ “châm ngôn” vốn
do một ngữ căn Hy-bá-lai có nghĩa là “để cai trị” nên những câu tục ngữ,
những lời nhắc nhở và khuyên răn này cung cấp một lời khuyên sâu nhiệm
để chúng ta “cai trị” đời sống của mình.
Trong khi bạn đọc sách Châm ngôn, nên hiểu rằng chính Đức Chúa Trời là
chiếc chìa khoá, là bí quyết của sự khôn ngoan. Hãy lắng nghe các tư tưởng
và những bài học từ con người khôn ngoan nhất trên đời này, rồi ứng dụng
chúng cho đời sống của bạn. Đừng chỉ đọc suông các châm ngôn này, mà
hãy theo đó để hành động nữa.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để dạy người ta cách đạt được sự khôn ngoan và kỷ luật, một đời
sống thận trọng, và cách thức để làm điều phải, việc đúng và công bằng
(xem 1:2,3) - tóm lại, để áp dụng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời vào
sinh hoạt hằng ngày và để có được những lời truyền dạy đạo đức.
Trước giả: Sa-lô-môn đã viết phần lớn quyển sách này, với A-gu-rơ và Lê-
mu-ên đóng góp vài đoạn ở phần cuối sách
Niên đại viết sách: Vua Sa-lô-môn viết và dúc kết phần lớn những châm
ngôn này vào thời rất sớm trong đời trị vì của vua ấy.
Bối cảnh: Đây là quyển sách về những câu nói khôn ngoan, một sách giáo
khoa để dạy dỗ người ta cách sống tin kính bằng cách cứ nhắc đi nhắc lại
các tư tưởng về minh triết.
Câu chìa khoá: ChCn Ch1:7)
Những nét đặc trưng: Quyển sách này luân phiên sử dụng các thể văn: thi ca,
ẩn dụ ngắn, câu hỏi sâu sắc, và các khổ thơ. Còn một vài dụng ý văn chương
khác nữa, như các phản đề, ví von và nhân cách hoá.
Bố cục:
A. Minh triết cho thanh thiếu niên (1:1-9:18)
Vua Sa-lô-môn giáo huấn các thanh thiếu niên trong thời đại của mình, cũng
như một người cha khuyên dạy con mình vậy. Trong khi có nhiều châm
ngôn trong số này trực tiếp hướng vào các thanh thiếu niên, các nguyên tắc
hậu thuẫn cho chúng cũng giúp ích được cho toàn thể các tín hữu cả nam lẫn
nữ, cả trẻ lẫn già. Hễ ai bắt đầu hành trình khám phá càng hơn về sự khôn
ngoan, sẽ được những lời khôn ngoan, thông tuệ này giúp ích cho.
B. Minh triết cho tất cả mọi người (10:1-24:34)
Vua Sa-lô-môn muốn chia sẻ sự khôn ngoan của mình cho tất cả mọi người,
bất chấp tuổi tác, giới tính, hoặc địa vị xã hội. Những câu nói ngắn gọn,
khôn ngoan này nêu ra cho chúng ta sự khôn ngoan thực tiễn hằng ngày.
Chúng ta phải chăm chỉ nghiên cứu và biến chúng thành một phần chính
thức trong đời sống mình
C. Minh triết cho các cấp lãnh đạo (25:1-31:31)
Thêm vào số châm ngôn mà Sa-lô-môn sưu tập, thì những nhân vật như vua
Ê-xê-chia còn sưu tập nhiều châm ngôn do vua Sa-lô-môn và nhiều người
khác đã viết ra. Nếu phần lớn các châm ngôn ấy về đại thể có giống nhau,
nhiều câu đã được hướng đặc biệt vào các vua và những người có liên quan
với nhà vua. Những câu như thế đặc biệt hữu ích cho các cấp lãnh đạo hoặc
những người đang mong ước trở thành cấp lãnh đạo.
Các đại đề mục:
Luận đề: Khôn ngoan
Lời giải thích: Đức Chúa Trời muốn người thuộc về Ngài được khôn ngoan.
Có hai loại người với hai cách sống tương phản nhau. Kẻ dại là kẻ ác, là
người ngoan cố, thù ghét và chẳng đếm xỉa gì đến Đức Chúa Trời. Người
khôn thì tìm kiếm và yêu mến Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Khi chúng ta chọn nẻo đường của Đức Chúa Trời, thì Ngài
ban cho chúng ta sự khôn ngoan. Lời Ngài là Thánh Kinh, dẫn dắt chúng ta
để sống ngay lành, có được những mối liên hệ phải lẽ và đưa ra những quyết
định đúng.
Luận đề: Các mối liên hệ.
Lời giải thích: Sách Châm ngôn cho chúng ta lời khuyên để phát triển các
mối liên hệ với bạn bè, với các thành viên trong gia đình,và các bạn đồng
công. Trong mọi mối liên hệ, chúng ta đều phải tỏ ra yêu thương, tận tuỵ, và
có định chuẩn đạo đức cao.
Tầm quan trọng: Muốn liên hệ với tha nhân chúng ta cần trước sau như một,
lịch lãm, có kỷ luật để sử dụng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời ban cho
mình. Nếu chúng ta không đối xử với người khác theo như sự khôn ngoan
mà Đức Chúa Trời đã ban cho, các mối liên hệ của chúng ta sẽ bị tổn hại.
Luận đề: Lời nói
Lời giải thích: Điều chúng ta nói ra, phơi bày thái độ thật sự của mình đối
với tha nhân. Cách nói của chúng ta vạch trần con người thật của mình. Lời
nói của chúng ta là bảng trắc nghiệm cho thấy chúng ta đã trở thành khôn
ngoan như thế nào.
Tầm quan trọng: Muốn khôn ngoan trong lời nói, chúng ta phải biết tự chủ.
Lời nói của chúng ta phải thành thật và chọn lựa thật kỹ trước khi nói ra.
Luận đề: Việc làm.
Lời giải thích: Đức Chúa Trời kiểm soát kết quả cuối cùng mọi việc chúng ta
làm. Chúng ta có trách nhiệm thực hiện công tác đã được giao thật chăm chỉ
và có kỷ luật, không lười biếng.
Tầm quan trọng: Vì Đức Chúa Trời đánh giá cách sống của chúng ta, chúng
ta phải làm việc có mục đích. Chúng ta chẳng bao giờ nên lơi lỏng hay tự hài
lòng trong việc sử dụng các kỹ năng của mình.
Luận đề: Thành công
Lời giải thích: Tuy người ta lao động thật gian khổ vì tiền bạc hoặc danh
vọng, Đức Chúa Trời xem thành công là có được tiếng tốt, cá tính đạo đức,
và tận hiến thuộc linh để vâng lời Ngài.
Tầm quan trọng: Một mối liên hệ thành công với Đức Chúa Trời sẽ có giá trị
đời đời. Mọi việc khác đều hư hoại. Mọi nguồn tài nguyên, thì giờ và tài
năng đều do Đức Chúa Trời mà có. Chúng ta phải phấn đấu tận dụng chúng
thật khôn ngoan.

Dẫn nhập Truyền Đạo


Lời giới thiệu:
Chiếc bánh mẫu nằm trong hộp, với đám “cỏ” bằng giấy màu xanh lục bao
quanh. Bằng đôi mắt mở to nhiều kỳ vọng của buổi sáng sớm lễ Phục sinh,
cậu bé cẩn thận nâng chiếc bánh sô-cô-la lên và cắn một miếng. Những vị
ngọt tan biến nhanh chóng, và cậu bé nhìn trân trối vào chiếc bánh ngọt
trong tay mình. Chỉ là chiếc bánh giả!
Trống rỗng, phù du, giả dối, chẳng có gì cả... những từ ngữ nói lên nỗi thất
vọng và ảo tưởng. Thế nhưng, đó lại là kinh nghiệm sống của rất nhiều
người. Họ đang vơ vét được nhiều điều họ từng tưởng là tuyệt vời - tài sản,
từng trải, quyền lực và lạc thú - để rồi nhận ra rằng bên trong đó chẳng có gì
cả. Cuộc đời chỉ trống rỗng, vô nghĩa... và họ vô cùng thất vọng.
Gần 3.000 năm trước đây, vua Sa-lô-môn đã đề cập nan đề này của nhân
loại, nhưng những cái nhìn xuyên suốt thông tuệ và việc ứng dụng bức thông
điệp đó của ông vẫn còn thích hợp cho thời đại của chúng ta. Sách Truyền
đạo - bài giảng được ghi chép lại của Sa-lô-môn là một bảng phân tích các
kinh nghiệm sống và là một thiên tiểu luận nhằm mục đích phê bình ý nghĩa
của nó. Trong quyển sách sâu nhiệm này. Sa-lô-môn đưa chúng ta vào một
chuyến du hành tinh thần xuyên suốt đời sống của ông, và cố giải thích để
mọi người cùng hiểu thế nào mọi việc mình từng thử nghiệm hoặc nếm thử
đều “vô nghĩa” - vô dụng, vô lý, vô mục đích, dại dột và rỗng tuếch - một
việc làm phù du. Điều nên nhớ là lời lẽ ở đây vốn là của một con người đã
có được “tất cả mọi điều đó” - đã có trí tuệ, quyền thế và sự giàu có phi
thường. Sau chuyến du hành và kể lại tiểu sử của mình này, Sa-lô-môn đã
đưa ra một câu kết luận như một tiếng reo là chiến thắng của ông: “Chúng ta
hãy nghe lời kết của lý thuyết này: Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các
điều răn Ngài; ấy là trọn phận sự của ngươi. Vì Đức Chúa Trời sẽ đem đoán
xét các công việc, đến đỗi việc kín nhiệm hơn hết, hoặc thiện hoặc ác cũng
vậy” (TrGv 12:13,14)
Lúc mới lên ngôi, Sa-lô-môn đã cầu xin Đức Chúa Trời ban cho mình sự
khôn ngoan (IISu 2Sb 1:7-12) và đã trở thành con người khôn ngoan nhất
trên thế gian này (IVua 1V 4:29-34). Nhà vua đã học hỏi nghiên cứu, dạy
dỗ, phán xét và viết sách. Nhiều nhà vua và lãnh tụ từ nhiều nước khác đã
đến Giê-ru-sa-lem để học hỏi với Sa-lô-môn. Nhưng với toàn thể cách nhìn
thông tuệ thực tế vào cuộc đời đó, Sa-lô-môn đã không thực hiện được chính
lời khuyên bảo của mình, và nhà vua đã bắt đầu tuột dốc. Đến gần cuối đời
mình, Sa-lô-môn đã nhìn lui bằng một thái độ khiêm hạ và ăn năn. Ông lập
một bảng kiểm kê tất cả những gì đang có trên thế gian này mà mình đã từng
trải, mong tránh được cho các độc giả của mình nỗi cay đắng mà ông đã học
hỏi được qua kinh nghiệm bản thân rằng ngoài Đức Chúa Trời ra, thì mọi sự
đều rỗng tuếch, giả dối và vô nghĩa.
Tuy giọng điệu của sách Truyền đạo vốn tiêu cực và bi quan, chúng ta
không nên kết luận rằng chương sách duy nhất đáng đọc và ứng dụng là
chương cuối cùng, trong đó ông đưa ra các kết luận của mình. Thật ra, cả
quyển sách đều đầy dẫy sự khôn ngoan thực tiễn (cách thức để thành công
và đứng ngoài mọi rắc rối trong đời này) và sự khôn ngoan thuộc linh (cách
đi tìm và nhận biết các giá trị vĩnh cửu). Sa-lô-môn đã có một cách tiếp cận
với cuộc đời hết sức chân thành. Sở dĩ ông đưa ra tất cả các nhận định của
mình liên quan đến tính cách phù du của cuộc đời là chỉ nhằm một chủ đích
- hướng dẫn để mọi người biết tìm kiếm hạnh phúc thật, vốn chỉ có nơi một
mình Đức Chúa Trời mà thôi. Ông đã không tìm cách triệt tiêu mọi hi vọng,
mà hướng dẫn các kỳ vọng của chúng ta để chỉ nhìn chăm vào Đấng duy
nhất có thể thật sự hoàn thành chúng. Sa-lô-môn khẳng định giá trị của kiến
thức, các mối liên hệ, việc lao động và lạc thú, nhưng chỉ với điều kiện là
chúng phải được đặt đúng chỗ. Tất cả những điều tạm thời đó trong đời này
phải được nhìn dưới làn ánh sáng của cõi vĩnh hằng.
Hãy đọc sách Truyền đạo để học hỏi về cuộc đời. Hãy lắng nghe những lời
cảnh cáo nghiêm trọng và những lời tiên báo khốc liệt này, để tận hiến cả
cuộc đời mình tưởng nhớ Đấng Tạo Hoá mình ngay bây giờ (TrGv 12:1).
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm giúp các thế hệ tương lai tránh được nỗi cay đắng bằng
cách học hỏi từ từng trải của chính học giả rằng cuộc đời này là vô nghĩa
nếu người ta sống ngoài Đức Chúa Trời.
Trước giả: Vua Sa-lô-môn
Đọc giả: Riêng cho các thần dân của Sa-lô-môn và cho tất cả mọi người nói
chung.
Niên đại trước tác: Có lẽ trước sau năm 935 TC, trong giai đoạn cuối đời của
Sa-lô-môn.
Bối cảnh: Sa-lô-môn đang nhìn lại cuộc đời mình, phần lớn đã sống ngoài
Đức Chúa Trời.
Câu chìa khoá: “Chúng ta hãy nghe lời kết của lý thuyết này: Khá kính sợ
Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài; ấy là trọn phận sự của ngươi”
(TrGv 12:13)
Bố cục:
1. Kinh nghiệm bản thân của Sa-lô-môn: (TrGv 1:1-2:26)
2. Các nhận định của Sa-lô-môn (TrGv 3:1-5:20)
3. Lời khuyên thực tiễn của Sa-lô-môn (TrGv 6:1-8:17)
4. Kết luận cuối cùng của Sa-lô-môn (TrGv 9:1-12-14)
Sách Truyền đạo chỉ ra một số các nẻo đường đời dẫn đến hư vô. Quyển
sách sâu nhiệm này cũng giúp chúng ta khám phá ra chủ đích thật sự của
cuộc đời. Một sự khôn ngoan như thế có thể giúp chúng ta tránh được cái
cảm thức rỗng tuếch, hậu quả của một cuộc đời sống không có Đức Chúa
Trời. Sa-lô-môn dạy rằng mọi người sẽ chẳng tìm được ý nghĩa cho cuộc đời
mình trong kiến thức tiền bạc, lạc thú hoặc thanh danh. Người ta chỉ thật sự
mãn nguyện khi được biết rằng những gì mình đang làm là một phần của
chủ đích mà Đức Chúa Trời muốn cho đời sống mình phải thực hiện. Đây là
một quyển sách có thể giúp giải phóng chúng ta khỏi các bon chen nhằm
tranh giành, đoạt lợi, mưu tìm thế lực, và kéo chúng ta đến càng gần với Đức
Chúa Trời hơn.
Các đại đề mục
Luận đề: Sự tìm kiếm
Phần giải thích: Sa-lô-môn đi tìm điều khiến ông mãn nguyện gần như người
cầm đầu một công trình thí nghiệm khoa học vậy. Qua tiến trình này, ông
khám phá ra rằng một cuộc đời không có Đức Chúa Trời là một cuộc tìm
kiếm niềm vui, ý nghĩa và sự thành công dai dẳng và không có kết quả.
Hạnh phúc thật không có trong năng lực tích luỹ hoặc sự thành đạt của
chúng ta, vì chúng ta luôn luôn muốn có nhiều hơn điều chúng ta hiện có.
Hơn nữa, có nhiều hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, có thể
cướp đi các tài sản hoặc thành tựu của chúng ta.
Tầm quan trọng: Thiên hạ vẫn tìm kiếm. Thế nhưng càng được nhiều bao
nhiêu họ càng nhận thấy rằng mình chỉ mới có được quá ít mà thôi. Nếu
không có Đức Chúa Trời thì không thể có thú vui hay hạnh phúc gì cả. Nếu
không có Ngài thì sự mãn nguyện chỉ là một cuộc tìm kiếm vô vọng. Trên
hết mọi sự, chúng ta phải phấn đấu để nhận biết và yêu mến Đức Chúa Trời.
Ngài ban cho chúng ta sự khôn ngoan, kiến thức và niềm vui.
Luận đề: Sự trống rỗng
Phần giải thích: Sa-lô-môn chứng minh cái vô vọng, rỗng tuếch của việc
theo đuổi lạc thú mà đời này có thể ban cho chúng ta, thay vì mối liên hệ với
một Đức Chúa Trời đời đời. Việc tìm kiếm lạc thú, của cải, và thành công
cuối cùng sẽ chỉ còn là tuyệt vọng. Chẳng có gì trong đời này lắp đầy được
cái rỗng tuếch và thoả mãn được các hoài bão sâu xa của những tấm lòng
không bao giờ chịu yên nghỉ của chúng ta
Tầm quan trọng: Cách chữa lành cho cảm thức rỗng tuếch là tập trung chú ý
vào Đức Chúa Trời. Tình yêu của Ngài cũng có thể lắp đầy sự trống rỗng
của từng trải làm người. Hãy kính sợ Đức Chúa Trời suốt cuộc đời bạn và đổ
đầy nó bằng việc phục vụ Đức Chúa Trời và tha nhân thay vì bằng các lạc
thú ích kỷ.
Luận đề: Lao động
Phần giải thích: Sa-lô-môn cố tìm cách cảnh tỉnh mọi người về niềm tin của
họ vào các nỗ lực, tài năng và sự khôn ngoan riêng của mình, và hướng dẫn
họ hãy đặt đức tin vào Đức Chúa Trời như phần nền tảng phải lẽ duy nhất
cho đời sống. Nếu không có Đức Chúa Trời, sẽ chẳng có phần thưởng hoặc
tồn tại mãi hoặc lợi ích cho lao động gian khổ của chúng ta.
Tầm quan trọng: Lao động với thái độ sai lầm sẽ bỏ mặc chúng ta cảm thấy
rỗng tuếch. Nhưng lao động được tiếp nhận như một công tác được Đức
Chúa Trời giao phó có thể được xem như một ân tứ. Hãy xét xem bạn đang
nỗ lực để trông mong được gì. Đức Chúa Trời ban cho bạn tài năng và cơ
hội làm việc để bạn sử dụng đúng thì giờ của mình.
Luận đề: Sự chết
Phần giải thích: Cái chết chắc chắn khiến mọi thành tựu vô mục đích của
loài người thành vô ích. Đức Chúa Trời có một kế hoạch cho số phận loài
người vượt ra ngoài sự sống và cái chết. Thực tại của tuổi thọ và sự chết
nhắc nhở mỗi người về một kết cuộc khi Đức Chúa Trời sẽ phán xét đời
sống của từng người.
Tầm quan trọng: Vì đời sống ngắn ngủi, chúng ta có sự khôn ngoan lớn hơn
sự khôn ngoan mà thế gian này có thể đem đến. Chúng ta cần có Lời của
Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta chịu nghe Ngài, sự khôn ngoan của Ngài sẽ
giúp chúng ta tránh được nỗi cay đắng của từng trải phù du của loài người và
ban cho chúng ta một hi vọng vượt xa hơn cõi chết.
Luận đề: Sự khôn ngoan
Phần giải thích: Sự khôn ngoan của loài người không trả lời được mọi câu
hỏi. Kiến thức và giáo dục có giới hạn của nó. Muốn hiểu về cuộc đời,
chúng ta cần đến sự khôn ngoan chỉ có trong Lời Đức Chúa Trời phán dạy
chúng ta - là Kinh Thánh mà thôi.
Tầm quan trọng: Khi chúng ta nhận thức được rằng Đức Chúa Trời sẽ đánh
giá mọi việc ta làm, chúng ta phải học tập để biết sống khôn ngoan, nhớ rằng
Ngài hiện diện mỗi ngày để chúng ta học tập vâng theo các hướng dẫn của
Ngài cho đời sống. Nhưng muốn có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời,
trước hết chúng ta phải nhận biết và tôn trọng Ngài.

Dẫn nhập Nhã Ca


Lời giới thiệu
Sau khi đã chán chê với những cuộc phiêu lưu tình ái, hẹn hò lén lút, những
vụ tai tiếng ngoài hôn nhân, ngành thông tin đại chúng hiện nay lại rao giảng
rằng hoang dâm vô đạo đồng nghĩa với tự do, lang chạ, là việc làm tự nhiên,
còn vợ chồng sống chung thủy với nhau thì đã lỗi thời rồi! Tình dục vốn do
Đức Chúa Trời sáng tạo ra, đã được Ngài tuyên bố là tốt lành trong vườn Ê-
đen, đã bị xuyên tạc, khai thác để biến thành một hoạt động cấp thiết, bất
hợp pháp, ngẫu nhiên và tự thoả mãn dục vọng. Tình yêu đã bị biến thành
tham dục, việc cống hiến bị biến thành chiếm đoạt, và vấn đề sống chung
thủy bền chặt giữa vợ chồng thì bị biến thành “chuyện chẳng có gì ràng buộc
cả”.
Thật ra, đáng lẽ việc liên hệ tình dục, sự kết hợp cả thể xác lẫn tình cảm của
người nam và người nữ, phải là một phương tiện thánh khiết để đề cao tình
yêu, việc sinh con đẻ cái, và hưởng lạc thú, đã được lời thề nguyện tận hiến
cho nhau trong hôn nhân bảo vệ cho.
Đức Chúa Trời cho rằng tình dục là quan trọng, và trong Kinh điển có nhiều
chỉ dẫn về công dụng của nó và nhiều lời cảnh cáo đối với việc sử dụng nó
một cách sai lầm. Mà tình dục thì bao giờ cũng được đề cập trong một mối
liên hệ tình yêu giữa vợ chồng. Có lẽ đỉnh cao của vấn đề này là sách Nhã
ca, là chuyện mật thiết giữa nam và nữ, tình yêu của họ, chuyện tán tỉnh và
kết hôn với nhau. Có lẽ Sa-lô-môn đã viết sách Nhã ca này lúc hãy còn trẻ,
trước khi bị phụ nữ, tình dục và lạc thú ám ảnh.
Là một câu chuyện tình, một tấn kịch, một bài thơ thật cảm động, sách Nhã
ca diễn tả các nét đặc trưng của cuộc đối thoại diễm tình giữa một thiếu nữ
Do-thái (người Su-la-mít) ngây thơ chất phác với người yêu của mình (vua
Sa-lô-môn). Các bài ca này mô tả chi tiết các cảm thức thầm kín thiết thân
giữa họ và các ước mơ của họ muốn được chung sống với nhau. Qua cuộc
đối thoại của họ, tình dục và hôn nhân đã được đặt theo viễn cảnh mà Đức
Chúa Trời đã ban truyền.
Người ta đã tranh luận nhiều về ý nghĩa của bài Nhã ca này. Có người cho
rằng nó ám chỉ tình yêu của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên và / hoặc
đối với Hội thánh. Nhiều người khác bảo đây là một câu chuyện thật về tình
yêu vợ chồng. Nhưng thật ra, đây là cả hai trường hợp đó - một câu chuyện
lịch sử có đủ cả hai lớp ý nghĩa vừa nêu. Trên một bình diện chúng ta được
học hỏi về tình yêu, hôn nhân, về tình dục; còn trên một bình diện khác,
chúng ta lại thấy được tình yêu đầy trọn của Đức Chúa Trời đối với những
người thuộc về Ngài. Nhưng khi bạn đọc sách Nhã ca, hãy nhớ rằng bạn
đang được Đức Chúa Trời yêu mến, cho nên hãy tự dấn thân để nhìn cuộc
đời, tình dục, và hôn nhân theo đúng quan điểm của Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để nói lên tình yêu giữa một người đang yêu (vua Sa-lô-môn) với
người yêu của mình, nhằm khẳng định tính cách thánh khiết, thiêng liêng
của hôn nhân, và để tả vẽ tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho người thuộc
về Ngài.
Tác giả: Sa-lô-môn
Niên đại viết sách: Có lẽ vào đầu đời trị vì của Sa-lô-môn.
Bối cảnh: Xứ Y-sơ-ra-ên - trong vườn của thiếu nữ Su-la-mít và cung điện
của nhà vua.
Câu chìa khoá: “Tôi thuộc về lương nhơn tôi, và lương nhơn tôi thuộc về tôi;
Người chăn bầy mình giữa đám hoa huệ” (Nha Dc 6:3)
Các nhân vật chính: Vua Sa-lô-môn, thiếu nữ Su-la-mít, và các bạn thân của
họ.
Bố cục:
1. Ngày thành hôn (Nha Dc 1:1-2:7)
2. Hồi ức về giai đoạn tán tỉnh (Nha Dc 2:8-3:5)
3. Hồi ức về giai đoạn hứa hôn (Nha Dc 3:6-5:1)
4. Một cơn ác mộng (Nha Dc 5:2-6:3)
5. Ca tụng vẻ đẹp của tân phụ (Nha Dc 6:4-7:9a)
6. Vẻ quyến rủ thùy mị của tân phụ (Nha Dc 7:9b-8:4)
7. Năng lực của tình yêu (Nha Dc 8:5-14)
Sách Nhã ca là một bài ca hôn lễ nhằm tôn vinh hôn nhân. Trong sách này
có những câu phát biểu minh nhiên nhất liên hệ đến tình dục trong toàn bộ
Thánh Kinh. Qua nhiều thế kỷ, nó thường bị chỉ trích vì có ngôn ngữ thật
“đa tình”. Tuy nhiên sự thuần khiết và thiêng liêng của tình yêu được trình
bày ở đây rất cấn thiết cho thời đại của chúng ta, khi mà các thái độ đối với
tình yêu và hôn nhân bị xuyên tạc đã trở thành phổ biến. Đức Chúa Trời đã
tạo ra tình dục và sinh hoạt thân mật thầm kín, và chúng đều thánh khiết,
hữu ích nếu được thụ hưởng bên trong các ranh giới của hôn nhân. Đời sống
vợ chồng tôn vinh Đức Chúa Trời khi cả hai người yêu nhau và cùng mãn
nguyện về nó.
Các đại đề mục:
Luận đề: Tình dục
Phần giải thích: Tình dục là quà tặng của Đức Chúa Trời cho các tạo vật.
Ngài “chuyển giao” tình dục, nhưng hạn chế cách bộc lộ nó trong phạm vi
hai con người dấn thân trong hôn nhân mà thôi.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời muốn tình dục có động cơ thúc đẩy là tình
yêu và sự dấn thân, chứ không phải là do tham dục. Nó là một lạc thú hai
chiều, chứ không phải là sự hưởng lạc ích kỷ.
Luận đề: Tình yêu
Phần giải thích: Khi mối liên hệ phát triển giữa Sa-lô-môn và người tình của
vua, thì vẻ đẹp lãng mạn cũng nảy nở. Năng lực mãnh liệt của tình yêu ảnh
hưởng đến cả tấm lòng, tâm trí, lẫn thân thể của cả hai người yêu nhau.
Tầm quan trọng: Vì tình yêu là việc bộc lộ cảm thức và dấn thân mãnh liệt
như thế giữa hai người, nó không thể bị xem là chuyện ngẫu nhiên. Chúng ta
không thể ép người khác yêu mình, và tình yêu không thể được khuyến
khích quá sớm để bước vào một mối liên hệ.
Luận đề: Dấn thân
Phần giải thích: Mãnh liệt của tình yêu đòi hỏi nhiều hơn là ngôn ngữ của
cảm thức để bảo vệ cho nó. Việc bộc lộ tình dục là một phần chính thức của
bản ngã, đến độ chúng ta cần các ranh giới là hôn nhân để bảo toàn cho tình
yêu của mình. Hôn nhân là việc cử hành hằng ngày phần nghi lễ về việc dấn
thân, tận hiến của hai người cho nhau.
Tầm quan trọng: Nếu tính cách lãng mạn giữ được điều kỳ thú cho đời sống
vợ chồng, thì sự tận hiến cho nhau giữ cho tính cách lãng mạn kia khỏi tàn
lụi. Quyết định chỉ dấn thân tận hiến cho vợ (chồng) bạn mà thôi bắt đầu tại
bàn thờ khi cử hành hôn lễ. Nó phải được duy trì hằng ngày.
Luận đề: Vẻ đẹp
Phần giải thích: Hai người yêu nhau ca tụng vẻ đẹp mà họ nhìn thấy trong
nhau. Ngôn ngữ họ sử dụng chứng tỏ tính cách hồn nhiên tự phát và huyền
nhiệm của tình yêu. Lời ca tụng của chúng ta không nên chỉ giới hạn trong
vẻ đẹp thuộc thể mà thôi; nhân cách đẹp đẽ và sự thuần khiết đạo đức cũng
phải được ca ngợi nữa.
Tầm quan trọng: Tình yêu của chúng ta khiến cho vợ (chồng) ta trở thành
đẹp đẽ. Chính vẻ đẹp bên trong mới giữ được cho tình yêu sống mãi. Đừng
chỉ tìm vẻ hấp dẫn thuộc thể nơi người vợ (chồng) mà thôi. Hãy tìm những
đức tính không phai mờ theo thời gian - tức là sự dấn thân trung thực, nhạy
cảm và chân thành thuộc linh.
Luận đề: Các vấn đề
Phần giải thích: Với thời gian, các cảm thức cô đơn, dửng dưng và cô độc
chen vào giữa Sa-lô-môn và người tình của vua. Trong thời gian ấy, tình yêu
ngày càng lạnh nhạt, và nhiều chướng ngại vật đã nảy sinh.
Tầm quan trọng: Qua việc giao tiếp thận trọng, những người yêu nhau có thể
giải hoà với nhau, việc dấn thân cho nhau có thể được làm mới lại, và tính
cách lãng mạn được tái lập. Đừng để cho các bức tường ngăn cách mọc lên
giữa bạn với người bạn đời. Phải thận trọng coi chừng các vấn đề khi chúng
hãy còn bé nhỏ.

Dẫn nhập Ê-sai


Các niên đại
A-mốt thành nhà tiên tri 760 TC
Ô-sê thành nhà tiên tri 753 TC
Mi-chê thành nhà tiên tri 742 TC
Ê-sai thành nhà tiên tri 740 TC
A-cha làm vua Giu-đa 735 TC
Ô-sê làm vua Y-sơ-ra-ên 732 TC
Y-sơ-ra-ên sa vào tay A-sy-ri 722 TC
Ê-xê-chia làm vua Giu-đa 715 TC
San-chê-ríp vây Giê-ru-sa-lem 701 TC
Ma-na-se làm vua Giu-đa 697 TC
Chức vụ của Ê-sai kết thúc: 681 TC
Giô-si-a làm vua Giu-đa 640 TC
Lời giới thiệu
Ông từ từ đứng dậy, và đám quần chúng im lặng. Những người ở phía sau
chồm tới, cố lắng tai nghe. Bầu không khí ngột ngạt. Ông cất tiếng, và
những lời lẽ đã được chọn lọc cẩn thận bay nhanh ra như những mũi tên lao
thẳng đến đích. Con người vĩ đại, người phát ngôn của Đức Chúa Trời, đang
cảnh cáo... và lên án. Đám đông bỗng nhốn nháo -thay đổi vị trí, đưa cao
nắm đấm, và lầu bầu. Một số người nhất trí với bức thông điệp của ông, gục
gặc đầu, và lặng lẽ khóc. Nhưng số đông lộ vẻ tức giận, và bắt đầu hò hét,
thốt ra những lời nhục mạ đe doạ.
Đó là cuộc đời của một nhà tiên tri.
“Chức vụ” tiên tri đã được thiết lập trong thời của Sa-mu-ên, là vị quan xét
cuối cùng. Các nhà tiên tri đã đứng bên cạnh các thầy tế lễ, với tư cách
những người đại diện cho Đức Chúa Trời. Vai trò của nhà tiên tri là thay mặt
Đức Chúa Trời để lên tiếng, trực diện với dân chúng và các lãnh tụ của họ
bằng các mệnh lệnh và lời hứa của Đức Chúa Trời. Do tư thế đối đầu này và
xu hướng bất tuân lệnh Đức Chúa Trời của dân chúng, các nhà tiên tri chân
chính thường không mấy được lòng người ta. Nhưng qua bức thông điệp của
các vị, vốn thường chẳng được ai để ý, các vị đã trung tín và mạnh dạn tuyên
rao chân lý (sự thật).
Sách Ê-sai là quyển đầu tiên trong số nhiều tác phẩm của các nhà tiên tri
trong Thánh Kinh, còn Ê-sai, trước giả sách ấy, đã đươc mọi người xem là
nhà tiên tri vĩ đại nhất. Có lẽ ông được sinh ra từ một gia đình quý tộc và đã
cưới một nữ tiên tri. Lúc bắt đầu chức vụ, ông vốn được mọi người yêu
thích. Nhưng cũng như phần đông các nhà tiên tri, chẳng bao lâu, ông lại bị
dân chúng oán ghét vì các thông điệp của ông trở thành khó nghe. ông kêu
gọi dân sự hãy xây khỏi cuộc đời tội lỗi của họ và cảnh cáo họ về sự phán
xét, trừng phạt của Đức Chúa Trời. Ê-sai đã có một chức vụ tích cực suốt 60
năm trước khi bị hành quyết dưới thời trị vì của Ma-na-se (theo truyền
thuyết). Là sứ giả đặc biệt của Đức Chúa Trời cho xứ Giu-đa, Ê-sai đã nói
tiên tri qua nhiều đời trị vì của các vua xứ ấy. Nhiều bức thông điệp của ông
đã được ghi lại trong sách của ông dưới thời Ô-xia và Giô-tham, các chương
1-6, dưới thời A-cha, các chương 7-14, và dưới thời Ê-xê-chia các chương
15-39.
Nửa phần đầu của sách Ê-sai (các chương 1-34) là những lời tố giác và công
bố cháy bỏng khi ông kêu gọi dân Giu-đa, dân Y-sơ-ra-ên và các dân tộc
chung quanh hãy ăn năn tội. Tuy nhiên, 27 chương cuối từ 40-66 lại đầy dẫy
lời an ủi và hi vọng khi Ê-sai tiết lộ lời hứa của Đức Chúa Trời về các phước
hạnh tương lai qua Đấng Mê-si-a của Ngài.
Trong khi bạn đọc sách Ê-sai, hãy tưởng tượng về con người mạnh dạn và
can đảm này của Đức Chúa Trời đang rao truyền Lời Ngài mà không chút sợ
hãi, và hãy lắng nghe bức thông điệp của ông trong mối liên hệ với chính
cuộc đời của bạn - về các vấn đề hồi tâm, ăn năn, và được đổi mới. Rồi hãy
tin cậy vào sự cứu chuộc qua trung gian Chúa Cứu Thế, hãy vui mừng vì
Cứu Chúa của bạn đã đến, và Ngài sẽ tái lâm.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để kêu gọi dân Giu-đa hãy quay về với Đức Chúa Trời và nói về
sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua trung gian Đấng Mê-si-a.
Trước giả: Nhà tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt
Niên đại viết sách: Các biến cố từ chương 1 đến 39 xảy ra trong giai đoạn Ê-
sai thi hành chức vụ, do đó, có lẽ chúng đã được viết ra vào khoảng trước
sau năm 700 TC. Tuy nhiên các chương 40-66 có lẽ đã được viết ra vào gần
cuối cuộc đời ông, khoảng trước sau năm 681 TC
Bối cảnh: Ê-sai đã nói tiên tri và viết sách chủ yếu là tại Giê-ru-sa-lem.
Câu chìa khoá: EsIs 53:5
Các nhân vật chính: Ê-sai, hai con trai ông là Sê-a-gia-súp và Ma-he-sa-la-
hát-bát.
Những nét đặc trưng: Sách Ê-sai được viết vừa bằng văn xuôi vừa bằng thơ,
và dùng phương pháp nhân cách hoá (gán các phẩm chất của con người cho
các thần linh hoặc các đồ vật bất động, vô tri vô giác). Nhiều lời tiên tri của
Ê-sai còn là những lời tiên báo, cho biết trước một biến cố sắp xảy đến, đồng
thời cũng là một biến cố của một tương lai hãy còn xa.
Bố cục:
A. Những lời phán xét (1:1-39:8)
1. Tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa
2. Lời phán xét chống lại các dân tộc ngoại đạo
3. Chủ đích của Đức Chúa Trời trong việc phán xét
4. Các niềm hi vọng đúng và sai của Giê-ru-sa-lem
5. Các biến cố trong đời trị vì của Ê-xê-chia
Trong số 39 chương sách thuộc nửa phần đầu của sách Ê-sai nói chung,
mang bức thông điệp về sự phán xét đối với tội lỗi. Ê-sai đem bức thông
điệp phán xét đến cho các nước Giu-đa, Y-sơ-ra-ên, và các dân tộc ngoại
đạo chung quanh. Giu-đa có một hình thức tin kính đạo đức, nhưng lòng họ
thì đã bị băng hoại. Những lời cảnh cáo của Ê-sai có ý định thanh tẩy dân sự
bằng cách giúp họ hiểu rõ bản tính chân chính của Đức Chúa Trời và thông
điệp của Ngài. Tuy nhiên, họ đã bỏ qua, chẳng đếm xỉa gì đến những lời
cảnh cáo cứ được nhắc đi nhắc lại mà Ê-sai đã đem đến. Chúng ta không cần
phải tái phạm các sai lầm của họ mà trái lại, phải quan tâm lắng nghe tiếng
nói tiên tri.
B. Những lời an ủi (40:1-66:24)
1.Dân Y-sơ-ra-ên được giải thoát khỏi cảnh lưu đày
2. Đấng cứu chuộc trong tương lai
3. Vương quốc tương lai
Trong 27 chương thuộc nửa phần thứ hai của sách Ê-sai nói chung, đem đến
một bức thông điệp về sự tha tội an ủi, và hi vọng. Bức thông điệp về hi
vọng này hướng tới Đấng Mê-si-a sắp giáng lâm. Ê-sai nói về Đấng Mê-si-a
nhiều hơn bất cứ một nhà tiên tri nào khác của Cựu ước. Ông mô tả Đấng
Mê-si-a vừa là một người đầy tớ thống khổ, đồng thời cũng là một vị Chúa
tể. Sự kiện Đấng Mê-si-a sẽ vừa là một đầy tớ thống khổ vừa là một vị Chúa
tể rât khó có thể được quán triệt trước thời Tân ước. Căn cứ vào những gì
Chúa Cứu Thế Giê-xu đã làm, Đức Chúa Trời đã ban sự tha tội vô điều kiện
cho tất cả những ai lấy đức tin quay về với Ngài. Đây là bức thông điệp đầy
an ủi cho chúng ta, vì những người chú ý đến nó sẽ tìm được sự bình an và
được thông công đời đời với Ngài.
Các đại đề mục:
[td Luận đề: Sự thánh khiết
Phần giải thích: Đức Chúa Trời vốn được tôn cao trên mọi loài thọ tạo của
Ngài. Sự toàn thiện toàn hảo của Ngài tương phản rõ rệt với thói gian ác của
các dân các nước. Đức Chúa Trời vốn toàn thiện và vô tội trong mọi động cơ
và hành động của Ngài, cho nên Ngài nắm trọn quyền cai trị kiểm soát
quyền năng, sự phán xét, tình yêu và đức khoan hồng của mình. Bản tính
thánh khiết của Ngài là thước đo tính đạo đức của chúng ta.
Tầm quan trọng: Vì Đức Chúa Trời vô tội, chỉ một mình Ngài mới có thể
giúp được cho chúng ta - vốn đầy tội lỗi. Chúng ta xem Ngài là Đấng cầm
quyền tối cao và toàn thiện toàn hảo, là điều phải lẽ mà thôi. Chúng ta không
bao giờ nên đối xử với Đức Chúa Trời như với một người ngang hàng hay
tầm thường. Chỉ một mình Ngài mới đáng cho chúng ta hiến thân phục vụ và
ca ngợi tán tụng. Ngài bao giờ cũng thành tín, tốt bụng và công bằng.
Luận đề: Sự hình phạt
Phần giải thích: Vì Đức Chúa Trời thánh khiết, Ngài đòi hỏi người thuộc về
Ngài phải đối xử công bằng với người khác. Ngài đã phán sẽ trừng phạt dân
Y-sơ-ra-ên, dân Giu-đa, và các dân tộc khác vì tội bất trung, vô đạo và thờ
thần tượng. Đức tin thật đã thánh hoá thành thói kiêu ngạo dân tộc và các
nghi lễ tôn giáo rỗng tuếch.
Tầm quan trọng: Chúng ta chỉ phải tin cậy vào một mình Đức Chúa Trời mà
thôi, và thi hành trọn vẹn các mệnh lệnh của Ngài. Chúng ta không thể quên
mất công lý, cũng không thể nhượng bộ thói vị kỷ. Nếu chúng ta tự làm cho
mình cứng lòng đối với thông điệp của Đức Chúa Trời, chắc chắn Ngài sẽ
trừng phạt chúng ta.
Luận đề: Sự cứu rỗi
Phần giải thích: Vì sự phán xét đã sắp đến của Đức Chúa Trời, chúng ta cần
một vị cứu tinh (Cứu Chúa). Nếu không có sự trợ giúp của Đức Chúa Trời,
sẽ chẳng có một người nào hoặc dân nào có thể được cứu rỗi cả. Sinh tế (sự
hi sinh) trọn vẹn của Chúa Cứu Thế vì tội lỗi chúng ta đã được sách Ê-sai
báo trước và tả vẽ. Tất cả những người tin cậy Đức Chúa Trời đều có thể đã
được giải thoát khỏi tội lỗi mình và được Ngài phục hồi địa vị cho.
Tầm quan trọng: Chúa Cứu Thế đã chịu chết để cứu chúng ta khỏi tội.
Chúng ta vốn không thể tự cứu lấy mình. Ngài sẵn sàng cứu rỗi tất cả những
người xây bỏ tội lỗi mình và đến với Ngài. Sự cứu rỗi chỉ đến từ một mình
Đức Chúa Trời mà thôi. Cho dù có bao nhiêu công đức cũng không thể
chiếm đoạt, mua chuộc được nó.
Luận đề: Đấng Mê-si-a
Phần giải thích: Đức Chúa Trời sẽ sai Đấng Mê-si-a đến để cứu dân Ngài.
Ngài sẽ thiết lập vương quốc cho riêng mình với tư cách Chúa Bình An
thành tín, cai trị bằng sự công chính. Ngài sẽ đến với tư cách Chúa tể, nhưng
Ngài cũng sẽ làm như thế với tư cách một tên đầy tớ chịu chết đi để cất hết
mọi tội lỗi.
Tầm quan trọng: Chúng ta phải đặt lòng tin vào Đấng Mê-si-a chứ không
phải là vào chính mình hay bất kỳ một dân tộc hoặc thế lực nào, ngoài việc
tin Ngài ra thì chẳng còn có hi vọng nào khác. Hãy tin cậy trọn vẹn vào
Chúa Cứu Thế, và để Ngài cai trị đời sống bạn với tư cách vị Chúa tể.
Luận đề: Hi vọng
Phần giải thích: Đức Chúa Trời hứa an ủi, giải cứu và phục hồi địa vị cho
chúng ta trong vương quốc tương lai của Ngài. Đấng Mê-si-a sẽ cai trị trên
những người tận trung theo Ngài trong đời hầu đến. Chúng ta sở dĩ có thể hi
vọng vì Chúa Cứu Thế sắp tái lâm.
Tầm quan trọng: Chúng ta có thể được trở nên mới vì có sự khoan hồng cho
những người biết ăn năn. Cho dù tình trạng của chúng ta có tuyệt vọng đến
đâu, hay thế giới của chúng ta có gian ác tới đâu, chúng ta vẫn phải tiếp tục
sống như những người tận trung với Đức Chúa Trời, hi vọng vào sự tái lâm
của Ngài.

Dẫn nhập Giê-rê-mi


Các niên đại
Sô-phô-ni thành nhà tiên tri năm 640 TC
Giê-rê-mi thành nhà tiên tri năm 627 TC
Vua Giô-si-a tử trận năm 609 TC
Đa-ni-ên bị bắt đi đày năm 605 TC
Ê-xê-chi-ên bắt đầu nói tiên tri tại Ba-by-lôn năm 593 TC
Giu-đa sụp đổ: Giê-ru-sa-lem bị phá hủy, chức vụ của Giê-rê-mi kết thúc
năm 586 TC
Những người bị lưu đày hồi hương về Giu-đa lần thứ nhất năm 538 TC
Lời giới thiệu
Thành công là gì? Phần lớn các câu định nghĩa đều đề cập việc đạt được các
mục đích, trở nên giàu có, được uy tín, đặc ân và thế lực. Người “thành
công” được hưởng một đời sống sung sướng - được bảo đảm về các phương
diện tiền tài và tình cảm, được nhiều người ái mộ vây quanh, và được hưởng
các thành quả của công lao mình. Họ là các lãnh tụ, người tạo ra dư luận
quần chúng, và dàn xếp những vụ căng thẳng. gương tốt của họ được noi
theo, các thành tựu của họ được chú ý. Họ biết mình là ai và mình đang đi
đâu, và họ vẫn tự tin thẳng tiến để đạt các mục đích của mình.
Nếu theo các định chuẩn này, thì Giê-rê-mi là một người thất bại thảm hại.
Ông đã phuc vụ suốt 40 năm với tư cách phát ngôn nhân của Đức Chúa Trời
cho xứ Giu-đa, nhưng khi Giê-rê-mi nói, đã chẳng có ai chịu lắng nghe. Ông
vẫn kiên trì và nồng nhiệt khuyến giục họ hãy hành động, nhưng đã chẳng
có ai chịu nhúc nhích, và điều chắc chắn là ông đã không thành công về mặt
vật chất. Ông vốn nghèo và phải chịu thiếu thốn nghiêm trọng để rao truyền
các lời tiên tri của mình. Ông đã bị bỏ tù (37:1-21) nhốt vào một hồ nước
(38:1-28), và bị bắt đưa sang Ai-cập trái với ý muốn của ông (43:1-13). Ông
bị những người láng giềng (11:19-21), gia đình (12:6), các thầy tế lễ và tiên
tri giả (20:1; 2:28:1-17), bạn bè (20:10) cử toạ (26:18) và các vua (36:23)
chối bỏ. Giê-rê-mi đã đứng một mình suốt đời, công bố các bức thông điệp
định mệnh của Đức Chúa Trời, thông báo về giao ước mới, và khóc cho số
phận của quê hương yêu dấu của mình. Dưới mắt người thế gian, Giê-rê-mi
không phải là một người thành công.
Nhưng dưới mắt của Đức Chúa Trời, Giê-rê-mi là một trong số những người
thành công nhất trong cả lịch sử. Sự thành công theo cách của Đức Chúa
Trời, gồm có thái độ vâng lời và trung tín. Bất chấp chông đối và cái giá mà
cá nhân ông phải trả, Giê-rê-mi đã can đảm và tận trung truyền giảng Lời
Đức Chúa Trời. Ông đã vâng theo tiếng gọi mình. Sách Giê-rê-mi bắt đầu
với việc ông được gọi làm một nhà tiên tri, 38 chương tiếp theo đó là những
lời tiên tri về xứ Y-sơ-ra-ên (quốc gia thống nhất) và xứ Giu-đa (vương quốc
miền Nam). Các chương 2:1-20:18 có tính cách tổng quát và không định
được niên đại, còn các chương 21:1-39:18 là riêng biệt và được biết niên đại.
Luận đề căn bản của sách Giê-rê-mi rất đơn giản: “Hãy ăn năn và trở lại với
Đức Chúa Trời, bằng không, Ngài sẽ trừng phạt”. Thế nhưng sau đó, vì dân
sự chối bỏ lời cảnh cáo này, nên Giê-rê-mi chuyển sang nói tiên tri, đặc biệt
cho việc phá hủy Giê-ru-sa-lem. Biến cố khủng khiếp này đã được mô tả ở
39:1-18. Mấy chương 40:1-45:5 mô tả các biến cố sau khi Giê-ru-sa-lem thất
thủ. Quyển sách kết thúc bằng những lời tiên tri liên quan đến nhiều quốc
gia dân tộc (46:1-52:34).
Trong khi đọc sách Giê-rê-mi, bạn hãy đồng cảm với ông khi ông “hấp hối”
trước bức thông điệp mình sắp phải truyền rao, hãy cùng cầu nguyện với ông
cho những người không chịu đáp lại với chân lý, và hãy noi gương đức tin
và can đảm của ông. Rồi hãy dấn thân tận hiến để được thành công dưới mắt
của Đức Chúa Trời.
Các đăc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm khuyến giục dân sự của Đức Chúa Trời xây bỏ tội lỗi và
quay trở lại với Ngài
Trước giả: Giê-rê-mi
Đọc giả: Cho Giu-đa (vương quốc miền Nam) và thành phố thủ đô, là Giê-
ru-sa-lem
Niên đại viết sách: Trong giai đoạn Giê-rê-mi thi hành chức vụ, khoảng 625-
586 TC
Bối cảnh: Giê-rê-mi thi hành chức vụ dưới thời trị vì của năm nhà vua cuối
cùng của Giu-đa - Giô-si-a, Giô-a-cha, Giê-hô-gia-kim, Giê-hô-gia-kin, và
Sê-đê-kia. Đất nước đang trượt nhanh đến sự huỷ diệt và cuối cùng bị Ba-
by-lôn chinh phục năm 586 TC (xem IIVua 2V 21:1-25:30). Nhà tiên tri Sô-
phô-ni đến trước Giê-rê-mi, còn Ha-ba-cúc là người đồng thời với Giê-rê-
mi.
Câu chìa khoá: “Tội ác ngươi sẽ sửa phạt ngươi, sự bội nghịch ngươi sẽ
trách ngươi, nên ngươi khá biết và thấy rằng lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa
Trời ngươi, và chẳng có lòng kính sợ ta, ấy là một sự xấu xa cay đắng, Chúa,
là Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (Gie Gr 2:19).
Các nhân vật chính: Các vua Giu-đa (vừa kể trên), Ba-rúc, Ê-bết Mê-lết, vua
Nê-bu-cát-nết-sa, người Rê-cáp.
Các địa danh chính: A-na-tốt, Giê-ru-sa-lem, Ra-ma, Ai-cập.
Những nét đặc trưng: Sách này là một kết hợp của sử ký, thi ca, và tiểu sử.
Giê-rê-mi thường dùng nghĩa bóng (biểu tượng) để truyền rao thông điệp
của mình
Bố cục:
A. Sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với Giu-đa (1:1-45:5)
1. Việc kêu gọi Giê-rê-mi
2. Giê-rê-mi lên án Giu-đa vì tội lỗi nó
3. Những lời tiên tri về sự hủy diệt của Giê-rê-mi
4. Giê-rê-mi tố cáo các cấp lãnh đạo của Giu-đa
5. Lời hứa về việc phục hưng
6. Sự đoán phạt mà Đức Chúa Trời đã hứa đến.
Giê-rê-mi thẳng thắn trực diện nhiều người về tội lỗi họ: các vua, các tiên tri
giả, những người ở trong các đền miếu của họ, và những người ngoài các
cửa thành. Việc chẳng ai sẵn sàng đáp ứng khiến Giê-rê-mi ngạc nhiên tự
hỏi việc mình làm có chút lợi ích gì không. Ông thường cảm thấy chán nản
và lắm khi cay đắng nữa. Truyền giảng những bức thông điệp đen tối như
thế cho những người này quả thật là một nhiệm vụ gay go. Chúng ta cũng có
trách nhiệm đem các tin tức này đến cho thế giới đang sa bại này, tức là
những kẻ cứ tiếp tục theo các đường lối tội lỗi đã bị dành cho số phận khủng
khiếp đời đời của họ. Tuy có lẽ chúng ta cũng đang chán nản vì không được
hưởng ứng, chúng ta phải tiếp tục bảo cho người khác biết về hậu quả của
tội lỗi và niềm hi vọng mà Đức Chúa Trời đang dành cho họ. Những người
chỉ nói cho thiên hạ những gì họ thích nghe, thì bất trung với của Đức Chúa
Trời.
B. Sự phán xét của Đức Chúa Trời trên quốc gia dân tộc (46:1-52:34)
1. Những lời tiên tri về các dân ngoại
2. Giê-ru-sa-lem thất thủ
Giê-ru-sa-lem vẫn còn sống để nhìn thấy các lời tiên tri của ông ứng nghiệm
- đáng lưu ý nhất là Giê-ru-sa-lem bị thất thủ. Việc lời tiên tri này và nhiều
lời tiên tri khác nữa chống lại các ngoại bang ứng nghiệm chính là hậu quả
do tội lỗi gây nên. Những ai không chịu xưng tội, đều tự đưa sự đoán xét đến
cho mình.
Các đại đề mục:
Luận đề: Tội
Lời giải thích: Cuộc cải cách của Giô-si-a đã thất bại vì dân sự chỉ ăn năn
qua loa mà thôi. Họ cứ tiếp tục sống ích kỷ và thờ thần tượng. Toàn thể các
cấp lãnh đạo đều chối bỏ luật pháp và ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với dân
sự. Giê-rê-mi liệt kê tất cả các tội lỗi của họ, báo trước sự trừng phạt của
Đức Chúa Trời, và van nài họ ăn năn.
Tầm quan trọng: Giu-đa tan rã và gặp đại họa là vì họ cứng lòng chẳng xem
Đức Chúa Trời ra gì và không vâng lời Ngài. Khi nào chúng ta xem thường
tội lỗi và không chịu nghe lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời, tức là mời gọi sự
tàn hại đến. Đừng chỉ cất đi một nửa các tội lỗi mà thôi.
Luận đề: Sự trừng phạt
Lời giải thích: Vì cớ tội lỗi, Giê-ru-sa-lem đã bị huỷ diệt, đền thờ bị tàn phá,
còn dân chúng thì bị bắt đưa đi đày tận Ba-by-lôn. Dân sự phải chịu trách
nhiệm về việc lo bụ huỷ diệt và đưa đi đày, vì không chịu nghe lời cảnh cáo
của Đức Chúa Trời.
Tầm quan trong: Tội lỗi không chịu xưng ra đưa đến việc bị Đức Chúa Trời
trừng phạt nặng nề. Đổ tội mình cho người khác chỉ là vô ích - chúng ta phải
chịu trách nhiệm với Đức Chúa Trời trước hơn bất kỳ ai khác. Chúng ta phải
trả lời về cách sống của mình
Luận đề: Đức Chúa Trời là Chúa tể tất cả.
Lời giải thích: Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá công chính. Ngài chẳng phải
chịu trách nhiệm khai trình với ai cả. Ngài điều khiển thật khôn ngoan và
bằng tình yêu toàn thể công trình thọ tạo nhằm hoàn thành các kế hoạch của
Ngài, khiến mọi biến cố chuyển biến theo thời biểu của Ngài. Ngài là Chúa
tể cả thế gian.
Tầm quan trọng: Vì quyền năng oai nghiêm và tình yêu của Đức Chúa Trời,
bổn phận duy nhất của chúng ta là vâng lời Ngài, đầu phục uy quyền của
Ngài. Nhờ theo các kế hoạch của Ngài chứ không phải của riêng chúng ta,
chúng ta có được mối liên hệ bằng tình yêu thương với Ngài và tận tâm phục
vụ Ngài.
Luận đề: Những tấm lòng mới
Lời giải thích: Giê-rê-mi nói tiên tri rằng sau khi quốc gia Y-sơ-ra-ên bị tiêu
diệt, Đức Chúa Trời sẽ sai một Đấng Chăn Chiên mới là Đấng Mê-si-a đến.
Ngài sẽ đưa họ vào một tương lai mới, một giao ước mới, và một ngày hi
vọng mới. Ngài thực hiện việc ấy bằng cách thay đổi những tấm lòng tội lỗi
của họ thành những tấm lòng biết yêu mến Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời vẫn phục hưng dân Ngài bằng cách tái tạo
tấm lòng của họ, khiến chúng trở nên mới. Tình yêu của Ngài có thể thay đổi
các vấn đề do tội lỗi gây ra. Chúng ta được bảo đảm rằng Đức Chúa Trời sẽ
ban cho chúng ta một tấm lòng mới nhờ chúng ta biết yêu mến Đức Chúa
Trời và tin rằng Chúa Cứu Thế có thể cứu rỗi chúng ta để biết ăn năn tội.
Luận đề: Trung tín phục vụ
Lời giải thích: Giê-rê-mi đã trung tín phục vụ Đức Chúa Trời suốt 40 năm.
Trong thời gian ấy, dân sự chẳng đếm xỉa gì tới, mà còn chối bỏ, ngược đãi
ông. Chức vụ truyền giảng của Giê-rê-mi đã không thành công theo định
chuẩn của loài người, thế nhưng ông đã không xao lãng nhiệm vụ. Ông vẫn
tận trung với Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Thiên hạ có tiếp nhận hay chối bỏ chúng ta thì không phải
là thước đo của sự thành công. Chỉ có sự tán thành của Đức Chúa Trời mới
là chuẩn mực phục vụ của chúng ta mà thôi. Chúng ta phải đưa thông điệp
của Đức Chúa Trời đến cho tha nhân cả khi bị họ chối bỏ. Chúng ta phải làm
công việc của Đức Chúa Trời cả khi điều đó có nghĩa là phải chịu khổ.
Dẫn nhập Ca Thương
Lời giới thiệu
Nước mắt chỉ được định nghĩa đơn giản là “những giọt nước mặn từ đôi mắt
chảy ra”. Nguyên nhân tạo ra chúng có thể là bị chọc tức hay cười to, nhưng
nó thường thường đi kèm với tiếng khóc, nỗi đau buồn, sầu muộn. Khi
chúng ta khóc, bạn bè chúng ta sẽ ngạc nhiên tự hỏi đã có gì bất ổn, và cố
tìm cách an ủi chúng ta. Trẻ con thì khóc vì đói, các thiếu nhi thì khóc vì bị
mất một món đồ chơi yêu thích; người trưởng thành thì khóc khi bị tổn
thương hoặc phải trực diện với cái chết.
Nỗi buồn của Giê-rê-mi thật sâu xa nên có biệt danh là “nhà tiên tri của sự
than khóc”, những giọt lệ của ông đã tuôn trào ra từ một tấm lòng bị tan vỡ.
Với tư cách người phát ngôn của Đức Chúa Trời, ông vốn biết rõ những gì
đang nằm ở phía trước để chờ đợi xứ Giu-đa là quê hương ông, và Giê-ru-
sa-lem, là thủ đô và là “thành phố của Đức Chúa Trời”. Sự phán xét của Đức
Chúa Trời sẽ giáng xuống và sự tàn diệt sẽ đến. Cho nên Giê-rê-mi đã khóc.
Những giọt lệ của ông không do thói vị kỷ, than khóc cho nỗi đau khổ, mất
mát của riêng mình. Sở dĩ ông khóc là vì dân sự đã chối bỏ Đức Chúa Trời
mình - là Đức Chúa Trời đã tạo dựng ra họ, yêu thương họ, và đã nhiều lần
tìm cách ban phước cho họ. Tấm lòng của Giê-rê-mi sở dĩ đã vỡ tan, là vì
ông biết rằng thói vị kỷ và tội lỗi của dân sự sẽ đem đến cho họ nhiều khổ
đau và một cuộc lưu đày lâu dài. Những giọt lệ của Giê-rê-mi là những giọt
nước mắt thông cảm và ưu ái. Lòng ông đã vỡ tan vì những điều đã làm tan
vỡ tấm lòng của Đức Chúa Trời.
Hai bộ sách của Giê-rê-mi đều tập trung vào cùng một biến cố - sự hủy phá
Giê-ru-sa-lem. Sách Giê-rê-mi tiên báo biến cố ấy, và sách Ca thương thì
nhìn lui vào biến cố đó. Được mọi người biết với tư cách là tác phẩm của
những giọt lệ, cho tang lễ, được sáng tác vì sự sụp đổ của thành phố Giê-ru-
sa-lem.
Điều khiến cho một người phải khóc nói lên rất nhiều điều về con người ấy -
chẳng hay người đó chỉ biết nghĩ đến chính mình hay tập trung tất cả vào
Đức Chúa Trời. Sách Ca thương cho chúng ta thấy điều gì đã khiến cho Giê-
rê-mi đau buồn. Là một trong số các tôi tớ chọn lọc của Đức Chúa Trời, ông
đơn độc đứng giữa vực sâu của các cảm xúc, mối bận tâm của ông đối với
dân sự, lòng yêu nước, và sự tận hiến cho Đức Chúa Trời của ông. Điều gì
khiến bạn đổ lệ? Bạn đã khóc vì thói kiêu ngạo vị kỷ của mình bị tổn
thương, hay vì những người chung quanh bạn đang phạm tội chống lại Đức
Chúa Trời và chối bỏ Ngài, là Đấng vẫn thiết tha yêu mến họ? Bạn đã khóc
vì bị mất một điều gì đó mà bạn rất yêu thích, hay vì những người chung
quanh bạn sẽ phải chịu đau khổ vì tội lỗi họ? Thế giới của chúng ta đang đầy
dẫy bất công, nghèo đói, chiến tranh và phản loạn chống lại Đức Chúa Trời,
tất cả những điều đó đáng lẽ phải gây xúc động đến nỗi chúng ta phải khóc
lóc và hành động. Hãy đọc sách Ca thương và học tập vấn đề cùng đau buồn
với Đức Chúa Trời có ý nghĩa gì.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để dạy dân sự rằng không vâng lời Đức Chúa Trời tức là mời gọi
sự tàn hại, và chứng minh rằng Đức Chúa Trời cùng đau khổ khi dân sự
Ngài chịu khổ.
Trước giả: Giê-rê-mi
Niên đại viết sách: Ngay sau khi Giê-ru-sa-lem thất thủ năm 586 TC.
Bối cảnh: Giê-ru-sa-lem đã bị Ba-by-lôn phá hủy và cư dân nó bị tàn sát, tra
tấn, hoặc bắt đi đày.
Câu chìa khoá: “Mắt ta hao mòn vì chảy nước mắt, lòng ta bối rối; Gan ta đổ
trên đất, vì sự hủy diệt con gái dân ta. Vì con trẻ và các con đương bú, ngất
đi nơi các đường phố trong thành” (CaAc 2:11)
Các nhân vật chính: Giê-rê-mi, cư dân Giê-ru-sa-lem.
Địa điểm chính: Giê-ru-sa-lem
Những nét đặc trưng: Có ba đầu mối của tư tưởng Hy-bá-lai đã gặp nhau
trong sách Ca thương: lời tiên tri, nghi lễ và sự khôn ngoan. Sách Ca thương
được sáng tác theo nhịp điệu và văn thể của những bài ai ca cổ Do Thái. Nó
gồm năm bài thơ tương ứng với năm chương sách (xem chú thích ở CaAc
3:1 và tt)
Bố cục
1. Giê-rê-mi than khóc cho Giê-ru-sa-lem (CaAc 1:1-22)
2. Đức Chúa Trời nổi giận vì cớ tội lỗi (CaAc 2:1-22)
3. Hi vọng giữa cơn bối rối (CaAc 3:1-66)
4. Cơn giận của Đức Chúa Trời được thoả mãn (CaAc 4:1-22)
5. Giê-rê-mi cầu khẩn cho đất nước phục hưng (CaAc 5:1-22)
Giê-rê-mi đau buồn sâu sắc vì Giê-ru-sa-lem bị phá hủy và đất nước ông bị
tàn phá. Nhưng đến giữa quyển sách trong cơn sầu muộn sâu sắc, đã có một
tia hi vọng. Lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời vốn vô sở bất tại.
Lòng thành tín của Ngài thật bao la. Giê-rê-mi nhận thức được rằng chỉ có
lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời mới ngăn chận được tình trạng
bị tiêu diệt hoàn toàn. Sách này cho chúng ta biết các hậu quả nghiêm trọng
của tội lỗi loài người và thế nào chúng ta vẫn còn hi vọng giữa tấn thảm
kịch, vì Đức Chúa Trời có thể biến đổi mọi sự để trở thành tốt lành, lợi ích.
Chúng ta hiểu rằng thời gian không ảnh hưởng đến tầm quan trọng của việc
cầu nguyện và xưng tội. Tất cả chúng ta đều đang trực diện với tấn thảm
kịch của đời sống. Nhưng giữa những cơn bối rối hoang mang đó, vẫn còn
có hi vọng nơi Đức Chúa Trời.
Các đại đề mục
Luận đề: Giê-ru-sa-lem bị phá hủy
Lời giải thích: Ca thương là một bài ai ca dành cho tang lễ của thành phố
Giê-ru-sa-lem vĩ đại, thủ đô của dân Do Thái. Đền thờ đã bị san bằng, nhà
vua bị bắt đi, còn dân chúng thì phải lưu đày. Đức Chúa Trời từng cảnh cáo
rằng Ngài sẽ tiêu diệt họ nếu họ từ bỏ Ngài. Giờ đây, nghĩa là chỉ sau đó,
dân sự mới nhận ra tình trạng của họ và xưng nhận tội lỗi mình.
Tầm quan trọng: Lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời đã được chứng minh là
đúng. Ngài luôn luôn làm điều mà Ngài bảo là Ngài sẽ làm. Sự trừng phạt
tội lỗi là điều chắc chắn. Chỉ nhờ xưng nhận và thôi phạm tội, chúng ta mới
có thể quay trở về với Ngài và được giải cứu. Làm như thế trước khi những
lời cảnh cáo của Ngài ứng nghiệm thì tốt hơn biết bao nhiêu!
Luận đề: Sự nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Lòng thương xót của Đức Chúa Trời vẫn vận hành cả lúc dân
Y-sơ-ra-ên phải chịu hoạn nạn dưới tay những người Ba-by-lôn đang chinh
phục họ. Tuy dân sự bất trung với Ngài, sự thành tín của Đức Chúa Trời vẫn
là lớn lao. Ngài lợi dụng các hoạn nạn này để đưa dân sự quay trở lại với
Ngài.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời luôn luôn thành tín với dân Ngài. Công việc
tinh luyện đầy khoan dung của Ngài thật là rõ ràng, cả trong hoạn nạn khó
khăn. Trong những trường hợp như thế, chúng ta phải cầu xin để được tha
thứ, quay lại với Ngài để được giải cứu.
Luận đề: Các hậu quả của tội lỗi
Lời giải thích: Đức Chúa Trời buồn giận vì dân Ngài cứ kéo dài tình trạng
phản loạn. Tội lỗi là nguyên nhân cảnh khổ của họ, còn sự hủy diệt là hậu
quả dành cho tội lỗi của họ. Đất nước dân tộc bị hủy diệt chứng minh rằng
vinh quang và thói kiêu ngạo của loài người chỉ là hư không.
Tầm quan trọng: Tiếp tục phản loạn cùng Đức Chúa Trời là tự chuốc lấy tai
hoạ. Chúng ta đừng bao giờ để lòng tin cậy vào tài lãnh đạo, các nguồn tài
nguyên, trí thông minh hay năng lực của mình hơn là tin cậy Đức Chúa Trời.
Nếu làm như thế, chúng ta sẽ gặt hái những hậu quả tương tự như thành phố
Giê-ru-sa-lem vậy
Luận đề: Hi vọng
Lời giải thích: Lòng thương xót của Đức Chúa Trời khi chừa lại một số
người ban cho họ niềm hi vọng về những ngày tốt đẹp hơn. Sẽ có một ngày
dân Y-sơ-ra-ên được đưa trở lại để có được một mối liên hệ thật sự thắm
thiết với Đức Chúa Trời
Tầm quan trọng: Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới cứu được chúng ta thoát
khỏi tội lỗi. Nếu không có Ngài, sẽ chẳng có an ủi hi vọng gì cho tương lai
cả. Nhờ sự chết của Chúa Cứu Thế thay cho chúng ta, và lời hứa sẽ tái lâm
của Ngài, chúng ta có được niềm hi vọng tươi sáng cho tương lai.

Dẫn nhập Ê-xê-chi-ên


Các niên đại
Giê-rê-mi trở thành nhà tiên tri cho Giu-đa năm 627 TC.
Đa-ni-ên bị bắt và đày sang Ba-by-lôn năm 605 TC.
Ê-xê-chi-ên bị bắt và đày sang Ba-by-lôn năm 507 TC.
Giu-đa thất thủ, Giê-ru-sa-lem bị há huỷ năm 586 TC.
Chức vụ của Ê-xê-chi-ên kết thúc năm 571 TC.
Ba-by-lôn bị Si-ru lật đổ năm 539 TC.
Những người lưu đày đầu tiên hồi hương về Giu-đa năm 538 TC.
Lời giới thiệu
Một máy vi tính có thể được ”lập trình” để đáp lại lệnh truyền của bạn. Và
bằng cách dạy một con chó “theo điều kiện” là thưởng và phạt, bạn có thể
khiến nó vâng lời. Nhưng như tất cả các bậc làm cha mẹ đều biết, trẻ con
không phải là dễ dạy như thế. Con người ta có ý chí và phải lựa chọn để đầu
phục, để noi theo lời chỉ giáo của cha mẹ và các cấp lãnh đạo. Sửa trị chắc
chắn là một phần của tiến trình ấy - các bé trai bé gái cần phải biết hậu quả
của sự không chịu vâng lời - nhưng phải có một sự lựa chọn. Chúng không
phải là những người máy hay những con vật.
Con cái Đức Chúa Trời phải học tập vâng lời Cha trên trời của mình. Do
được tạo dựng theo hình tượng của Ngài, họ được quyền chọn lựa, và Đức
Chúa Trời cho phép họ lựa chọn.
Ê-xê-chi-ên là một người chọn vâng lời Đức Chúa Trời. Tuy là một thầy tế
lễ (Exe Ed 1:3), ông lại phục vụ với tư cách một “nhà truyền đạo của đường
phố” người Do-thái tại Ba-by-lôn suốt 22 năm, báo cho tất cả mọi người biết
về sự phán xét và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, kêu gọi họ hãy ăn năn và
vâng lời. Và Ê-xê-chi-ên đã sống theo những gì mình truyền giảng. Suốt
cuộc đời thi hành chức vụ của ông, Đức Chúa Trời đã dạy ông minh hoạ các
bức thông điệp của mình bằng những bài học cụ thể đầy kịch tính. Một số
trong các hành động đó gồm có: 1. Nằm nghiêng chỉ một bên suốt 390 ngày;
mỗi ngày chỉ ăn hai mươi siếc-lơ (khoảng ¼ ký lô) lương thực nấu chín bằng
phân người, 2. Cạo sạch tóc và râu, và 3. Không bộc lộ đau buồn lúc vợ ông
chết. Ông đã vâng lời và trung tín rao giảng Lời Đức Chúa Trời.
Có lẽ Đức Chúa Trời không kêu gọi bạn làm bất cứ một việc gì đầy kịch tính
hoặc khó khăn như thế, nhưng nếu Ngài dạy như thế, bạn sẽ làm không?
Sách Ê-xê-chi-ên chép lại cuộc đời và chức vụ của Ê-xê-chi-ên theo thứ tự
thời gian. Bắt đầu với tiếng gọi ông làm nhà tiên tri rồi được sai phái với tư
cách “người canh giữ nhà Y-sơ-ra-ên” (chương 1-3), Ê-xê-chi-ên đã tức
khắc bắt đầu truyền giảng và chứng minh chân lý của Đức Chúa Trời, như
khi ông tiên báo cuộc vây hãm và huỷ diệt sắp tới đối với Giê-ru-sa-lem
(chương 4-24). Sự tàn phá này là Đức Chúa Trời trừng phạt tội thờ thần của
dân sự. Ê-xê-chi-ên thách thức họ hãy xây bỏ các đường lối xấu xa gian ác.
Trong đoạn kế tiếp, ông đề cập các lân quốc của Y-sơ-ra-ên, nói tiên tri rằng
Đức Chúa Trời cũng sẽ phán xét họ vì cớ tội lỗi của họ nữa (chương 25-32).
Quyển sách được kết thúc bằng một bức thông điệp đầy hi vọng, khi Ê-xê-
chi-ên rao truyền đức thành tín của Đức Chúa Trời và báo trước các phước
hoạ cho dân sự của Đức Chúa Trời trong tương lai (chương 33-48).
Trong khi bạn đọc phần ký thuật đầy phấn khởi này, hãy theo dõi Ê-xê-chi-
ên trong khi ông truyền giảng lời Đức Chúa Trời cho những người Do-thái
đang bị lưu đày trên các đường phố Ba-by-lôn mà không chút sợ hãi, và hãy
lắng nghe chân lý về tình yêu và quyền năng phi thời gian của Đức Chúa
Trời. Hãy suy nghĩ về trách nhiệm của từng người trong vấn đề tin cậy Đức
Chúa Trời và về cuộc phán xét không tránh né vào đâu được của Đức Chúa
Trời chống lại các tội thờ thần tượng, phản loạn và lãnh đạm dửng dưng. Rồi
hãy dấn thân vâng lời Đức Chúa Trời trong bất cứ việc gì, bất luận lúc nào
và nơi nào Ngài yêu cầu.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để thông báo sự phán xét của Đức Chúa Trời trên dân Y-sơ-ra-ên
và các dân tộc khác, và báo trước sự cứu rỗi cuối cùng dành cho dân sự
Ngài.
Trước giả: Ê-xê-chi-ên, con trai Bu-xi, một thầy tế lễ thuộc dòng dõi Xa-
đốc.
Đọc giả: Cho những người Do-thái bị lưu đày tại Ba-by-lôn, và dân sự của
Đức Chúa Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Khoảng trước sau năm 571 TC.
Bối cảnh: Ê-xê-chi-ên là một người đồng thời nhưng trẻ hơn Giê-rê-mi.
Trong khi Giê-rê-mi thi hành chức vụ cho số dân chúng vẫn còn ở lại trong
xứ Giu-đa, thì Ê-xê-chi-ên nói tiên tri cho những người đã bị lưu đày sang
Ba-by-lôn sau khi Giê-hô-gia-kin bị đánh bại. Ông đã bị bắt đưa sang đó
năm 597 TC.
Câu chìa khoá: “Ta sẽ thâu lấy các ngươi khỏi giữa các dân; ta sẽ nhóm các
ngươi lại từ mọi nước, và đem về trong đất riêng của các ngươi. Ta sẽ rưới
nước trong trên các ngươi, và các ngươi sẽ trở nên sạch; ta sẽ làm sạch hết
mọi sự ô uế và mọi thần tượng của các ngươi. Ta sẽ ban lòng mới cho các
ngươi, và đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ cất lòng bằng đá khỏi thịt các
ngươi, và ban cho các ngươi lòng bằng thịt” (Exe Ed 24-26)
Các nhân vật chính: Ê-xê-chi-ên, các cấp lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên, vợ của Ê-
xê-chi-ên, Nê-bu-cát-nết-sa, “nhà vua”.
Các địa điểm chính: Giê-ru-sa-lem, Ba-by-lôn, và Ai-cập
Bố cục:
A. Các bức thông điệp định mệnh (Exe Ed 1: 1-24:27)
1. Ê-xê-chi-ên được kêu gọi và sai phái.
2. Các khải tượng về tội lỗi và sự phán xét.
3. Sự trừng phạt chắc chắn.
Trong lúc Giê-rê-mi nói tiên tri tại Giê-ru-sa-lem rằng thành phố này chẳng
bao lâu nữa sẽ bị sa vào tay người Ba-by-lôn, thì Ê-xê-chi-ên cũng rao
truyền một bức thông điệp y như thế cho những tù binh đã có mặt tại Ba-by-
lôn. Cũng như những người còn ở lại Giê-ru-sa-lem, nhưng tù binh đã bị đưa
đi đày rồi này vẫn ngoan cố tin tưởng rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không thất thủ,
và rằng chẳng bao lâu nữa, họ sẽ được hồi hương. Ê-xê-chi-ên cảnh cáo rằng
sự trừng phạt là chắc chắn vì cớ tội lỗi của họ, và rằng Đức Chúa Trời đang
luyện lọc dân sự Ngài. Đức Chúa Trời sẽ luôn luôn trừng phạt tội lỗi, cho dù
chúng ta có tin như thế hay không.
B. Các bức thông điệp chống các ngoại bang (Exe Ed 32:1-32)
Ê-xê-chi-ên kết án các hành động tội lỗi của bảy nước. Các dân tộc trong các
quốc gia này bảo rằng Đức Chúa Trời rõ ràng là quá yếu đuối, không bảo vệ
được cho dân mình và thành phố Giê-ru-sa-lem. Nhưng Đức Chúa Trời đã
để cho dân Ngài bị đánh bại hầu trừng phạt họ vì tội lỗi họ. Tuy nhiên các
quốc gia ngoại đạo này cũng sẽ phải đương đầu với cùng một số phận tương
tự, và chừng đó, họ sẽ biết rằng Đức Chúa Trời vốn toàn năng. Những ai
dám chê cười Đức Chúa Trời hôm nay cũng sẽ phải đối đầu với cùng một số
phận khủng khiếp y như thế.
C. Các bức thông điệp về hi vọng (Exe Ed 48:35)
1. Phục hưng dân sự Đức Chúa Trời
2. Phục hưng việc thờ phượng Đức Chúa Trời.
Sau khi Giê-ru-sa-lem thất thủ, E-xê-chi-ên truyền rao các bức thông điệp về
sự phục hồi địa vị cho họ trong tương lai và niềm hi vọng cho dân sự. Đức
Chúa Trời là thánh, nhưng Giê-ru-sa-lem và đền thờ đã bị ô uế. Dân sự phải
được thanh tẩy qua 70 năm lưu đày. Ê-xê-chi-ên đưa ra một bức tranh sống
động về sự thánh khiết bất biến của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng phải có
được một khải tượng về vinh quang của Đức Chúa Trời, một ý thức tươi mới
về tính cách vĩ đại của Ngài trong khi trực diện với những cuộc chiến đấu
trong sinh hoạt hằng ngày.
Các đại đề mục:
Luận đề: Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời
Phần giải thích: Ê-xê-chi-ên thấy một khải tượng tiết lộ sự trọn vẹn đạo đức
tuyệt đối của Đức Chúa Trời. Về các phương diện thuộc linh và đạo đức,
Đức Chúa Trời vốn cao hơn các thành viên trong xã hội băng hoại và thích
thoả hiệp của dân Y-sơ-ra-ên. Ê-xê-chi-ên viết sách để cho dân Y-sơ-ra-ên
biết rằng Đức Chúa Trời cũng đang hiện diện tại Ba-by-lôn chứ không phải
chỉ có mặt tại Giê-ru-sa-lem mà thôi.
Tầm quan trọng: Vì Đức Chúa Trời vốn trọn vẹn về mặt đạo đức, Ngài có
thể giúp chúng ta sống vượt trên xu hướng muốn thoả hiệp với thế gian của
chúng ta. Khi nào chúng ta tập trung chú ý vào tính cách vĩ đại của Ngài,
Ngài sẽ ban cho chúng ta năng lực để thắng hơn tội lỗi và phản chiếu vinh
quang Ngài.
Luận đề: Tội lỗi
Phần giải thích: Dân sự đã phạm tội, và sự phán xét của Đức Chúa Trời sẽ
đến. Việc Giê-ru-sa-lem thất thủ và cuộc lưu đày sang Ba-by-lôn được Đức
Chúa Trời sử dụng để sửa trị những kẻ phản loạn và kéo họ ra khỏi nếp sống
tội lỗi. Ê-xê-chi-ên cảnh cáo họ rằng không những toàn dân phải chịu trách
nhiệm về tội lỗi, mà từng cá nhân cũng có trách nhiệm trước mặt Đức Chúa
Trời.
Tầm quan trọng: Chúng ta không thể chối bỏ trách nhiệm của mình trước
mặt Đức Chúa Trời. Chúng ta phải chịu trách nhiệm đối với Đức Chúa Trời
về các chọn lựa của mình. Thay vì chẳng đếm xỉa gì đến Ngài, chúng ta phải
thừa nhận tội lỗi y như nó vốn có - tức là sự phản loạn chống lại Đức Chúa
Trời - để chọn phải thay vào đó bằng việc noi theo Ngài
Luận đề: Phục hưng
Phần giải thích: Ê-xê-chi-ên an ủi dân sự bằng cách bảo với họ rằng Đức
Chúa Trời sẽ có ngày phục hồi địa vị cho những người chịu xây bỏ tội lỗi.
Đức Chúa Trời sẽ làm Vua và là Đấng Chăn giữ họ. Ngài sẽ ban cho dân sự
Ngài một tấm lòng mới để thờ phượng Ngài, và Ngài sẽ thiết lập một chính
quyền và một ngôi đền thờ mới.
Tầm quan trọng: Tính cách chắc chắn của sự phục hưng trong tương lai
khích lệ cho các tín hữu trong thời gian gặp thử thách. Nhưng chúng ta phải
trung tín với Đức Chúa Trời và yêu mến Ngài, chứ không phải chỉ vì những
gì Ngài có thể làm cho chúng ta. Đức tin của chúng ta là đặt vào chính Ngài
hay chỉ vì các lợi lộc tương lai của riêng chúng ta?
Luận đề: Các cấp lãnh đạo
Phần giải thích: Ê-xê-chi-ên lên án những kẻ chăn (các thầy tế lễ và cấp lãnh
đạo bất trung) đã dẫn dân sự đi lạc. Trái lại ông phục vụ như một người chăn
hay chăm sóc và người canh giữ trung tín để cảnh cáo dân sự về tội lỗi họ.
Có ngày Đấng Chăn Chiên trọn vẹn của Đức Chúa Trời là Đấng Mê-si-a sẽ
đến để chăn dắt dân sự Ngài.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu là lãnh tụ trọn vẹn của chúng ta. Nếu chúng ta
thật sự mong Ngài hướng dẫn mình, sự cống hiến của chúng ta phải nhiều
hơn là lời nói suông. Nếu chúng ta được giao trách nhiệm hướng dẫn người
khác, phải quan tâm chăm sóc họ cả khi việc làm đó có nghĩa là phải hi sinh
thú vui, hạnh phúc, thì giờ, hoặc tiền bạc cá nhân. Chúng ta có trách nhiệm
đối với những người mà mình hướng dẫn.
Luận đề: Sự thờ phượng
Phần giải thích: Một thiên sứ cho Ê-xê-chi-ên thấy một khải tượng về ngôi
đền thờ với đầy đủ chi tiết. Sự hiện diện thánh khiết của Đức Chúa Trời đã
lìa khỏi dân Y-sơ-ra-ên và đền thờ vì cớ tội lỗi. Việc xây lên một ngôi đền
thờ trong tương lai tả vẽ việc vinh quang và hiện diện của Đức Chúa Trời sẽ
quay lại. Có ngày Đấng Chăn Chiên trọn vẹn của Đức Chúa Trời, là Đấng
Mê-si-a sẽ thanh tẩy dân sự Ngài và vãn hồi sự thờ phượng chân chính.
Tầm quan trọng: Tất cả các lời hứa của Đức Chúa Trời đều sẽ ứng nghiệm
dưới thời trị vì của Đấng Mê-si-a. Những người tận trung theo Đức Chúa
Trời sẽ phục hồi mối tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời và với
nhau.Muốn chuẩn bị cho thời kỳ đó, chúng ta phải tập trung chú ý vào Đức
Chúa Trời. Chúng ta thực hiện việc ấy nhờ thờ phượng đều đặn. Qua sự thờ
phượng chúng ta học về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và những thay
đổi phải có trong cách sống mỗi ngày của chúng ta.

Dẫn nhập Đa-ni-ên


Các niên đại
Đa-ni-ên bị bắt đày sang Ba-by-lôn năm 605 TC.
Ex-ê-chi-ên trở thành nhà tiên tri cho những kẻ bị lưu đày năm 593 TC.
Giu-đa thất thủ, Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ; chức vụ của Giê-rê-mi kết thúc
năm 586 TC.
Khải tượng thứ nhất của Đa-ni-ên năm 553 TC.
Ba-by-lôn bị lật đổ, Đa-ni-ên bị ném cho sư tử, năm 539 TC.
Những kẻ bị lưu đày đầu tiên trở về xứ Giu-đa, năm 538 TC.
Chức vụ của Đa-ni-ên kết thúc năm 536 TC.
Lời giới thiệu
Một cơn động đất làm rung chuyển phần nền móng của sự an ninh của
chúng ta; một cơn bão lốc cuốn đi tài sản thu thập cả một đời người; một quả
lựu đạn của kẻ sát nhân làm thay đổi cả lịch sử; một tài xế say rượu giết chết
một nạn nhân vô tội; một cuộc ly dị phá tan cả một gia đình. Những tấn
thảm kịch quốc tế và cá nhân biến thế giới của chúng ta thành một nơi đáng
sợ, đầy dẫy những điều xấu xa gian ác và có vẻ như vượt quá mọi kiểm soát
và bài kinh cầu nguyện dâng lên vì những vụ nổ bom, đảo chính, sát nhân,
và tai hoạ thiên nhiên có thể khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang
vắng mặt hoặc bất năng vô quyền. Chúng ta gào lên: “Đức Chúa Trời ở
đâu?”, vì bị chìm ngập trong đau buồn, thất vọng.
Hai mươi lăm thế kỷ trước đây, chắc Đa-ni-ên cũng đã thất vọng. Ông cùng
với hằng ngàn đồng bào mình đã bị đày sang một xứ lạ sau khi Giu-đa bị
chinh phục. Đa-ni-ên tự thấy mình phải trực diện với một vị vua độc tài ích
kỷ, bị những kẻ thờ thần tượng vây quanh. Thay vì đầu hàng hoặc bỏ cuộc,
chàng thanh niên can đảm này đã bám chặt lấy đức tin đặt vào Đức Chúa
Trời của mình. Đa-ni-ên biết rằng bất chấp mọi hoàn cảnh, Đức Chúa Trời
vẫn đang cầm quyền tể trị và đang thực hiện kế hoạch của Ngài đối với các
dân tộc và từng cá nhân. Sách Đa-ni-ên tập trung chung quanh chân lý sâu
nhiệm này: quyền tể trị của Đức Chúa Trời.
Sau một phần ký thuật vắn tắt việc Nê-bu-cát-nết-sa vây hãm và đánh bại
Giê-ru-sa-lem khung cảnh chuyển nhanh sang Đa-ni-ên và ba bạn thân của
ông là Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria (Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết Nê-gô).
Các nhân vật này đang giữ địa vị quan trọng trong chính phủ Ba-by-lôn. Cá
biệt là Đa-ni-ên sở dĩ được địa vị như thế là nhờ tài giải mộng của ông cho
nhà vua, là những giấc mơ đã tiết lộ kế hoạch của Đức Chúa Trời (DaDn
2:1-49 và DaDn 4:1:37). Nằm giữa các giấc mơ đó là phần ký thuật hấp dẫn
về ba người bạn thân của Đa-ni-ên với lò lửa hực (DaDn 3:1-30). Do không
chịu quỳ gối trước một pho tượng bằng vàng, họ đã bị kết án phải nhận lấy
một cái chết dữ dội. Nhưng Đức Chúa Trời đã can thiệp và cứu mạng họ.
Bên-xát-sa cai trị Ba-by-lôn sau Nê-bu-cát-nết-sa, và DaDn 5:1-31 kể lại
cuộc chạm trán của vua ấy với bức thông điệp của Đức Chúa Trời được viết
trên tường. Đa-ni-ên được vời đến để lý giải bức thông điệp ấy, tiên báo rằng
Ba-by-lôn sẽ sa vào tay người Mê-đi và Ba-tư. Lời tiên báo ấy ứng nghiệm
ngay trong đêm đó, và Đa-ri-út người Mê-đi chiếm được vương quốc Ba-by-
lôn.
Đa-ni-ên trở thành một trong những cố vấn tín cẩn nhất của Đa-ri-út. Địa vị
được nhiều đặc quyền của ông khiến cho các đại thần khác tức giận và họ đã
âm mưu sát hại ông bằng cách thuyết phục nhà vua ban hành một chiếu chỉ
đặt người cầu nguyện ra ngoài vòng pháp luật. Bất chấp sắc luật ấy, Đa-ni-
ên vẫn tiếp tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời là Đấng đang cầm quyền tể
trị của mình. Hệ quả là ông bị kết án tử hình và bị xử bằng cách ném vào
hang của những con sư tử đang đói. Một lần nữa, Đức Chúa Trời lại can
thiệp và cứu ông; bầy sư tử dường như bị bịt miệng nên chẳng hại ông được
(DaDn 6:1-28).
Sách Đa-ni-ên kết thúc bằng một loạt các khải tượng của Đa-ni-ên dưới thời
trị vì của Bên-xát-sa (DaDn 7:1-8:27), Đa-ri-út (DaDn 9:1-27) và Si-ru (các
DaDn 10:1-12:13). Các giấc mơ ấy đã phác hoạ kế hoạch tương lai đầy kịch
tính của Đức Chúa Trời bắt đầu với Ba-by-lôn, và tiếp tục cho đến kỳ sau
rốt. Chúng đưa ra một cái nhìn tiên tri về sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời
và được gọi là chiếc chìa khoá cho toàn thể lời tiên tri trong Thánh Kinh.
Đức Chúa Trời đang cầm quyền tể trị, Ngài đang cai trị trên Ba-by-lôn và
đang vận hành trong lịch sử, kiểm soát số phận của mọi người từ ấy đến nay.
Và Ngài vẫn hiện diện ngay lúc này đây! Bất chấp các bài phóng sự trên báo
chí hay sự căng thẳng trăn trở cá nhân, chúng ta có thể tin quyết rằng Đức
Chúa Trời đang nắm quyền kiểm soát. Trong khi đọc sách Đa-ni-ên, bạn hãy
theo dõi công việc mà Đức Chúa Trời đang làm để cảm nhận được sự an
toàn của mình trong quyền tể trị của Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để đưa ra một phần ký thuật về số người Do-thái trung tín đã sống
lưu đày, và để chứng minh cách thức Đức Chúa Trời đang cầm quyền kiểm
soát cả trên trời lẫn dưới đất này, thế nào Ngài đang điều khiển các lực
lượng thiên nhiên, số phận của các dân các nước, và vẫn chăm sóc cho
những người thuộc về Ngài.
Trước giả: Đa-ni-ên
Đọc giả: Cho các tù binh khác tại Ba-by-lôn và cho những người thuộc về
Đức Chúa Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Trước sau năm 535 TC ghi lại các biến cố đã xảy ra
khoảng từ các năm 605-535 C.
Bối cảnh: Đa-ni-ên bị Nê-bu-cát-nết-sa bắt làm tù binh và đày sang Ba-by-
lôn năm 605 TC. Tại đó, ông phục vụ trong chính quyền khoảng 60 năm
dưới thời trị vì của các vua Nê-bu-cát-nết-sa, Bên-xát-sa, Đa-ri-út và Si-ru.
Câu chìa khoá: “Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín nhiệm; Ngài biết
những sự ở trong tối tăm, và sự sáng ở với ngài” (DaDn 2:22)
Các nhân vật chính: Đa-ni-ên, Nê-bu-cát-nết-sa, Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết
Nê-gô, Bên-xát-sa, Đa-ri-út.
Các địa điểm chính: Cung điện của Nê-bu-cát-nết-sa, lò lửa hực, bữa đại yến
của Bên-xát-sa, hang sư tử.
Những nét đặc trưng: Các khải tượng khải huyền của Đa-ni-ên (các DaDn
8:1-12:13) đưa một cái nhìn sơ lược vào kế hoạch của Đức Chúa Trời cho
các thời đại, kể cả một lời tiên tri trực tiếp về Đấng Mê-si-a.
Bố cục:
A. Cuộc đời của Đa-ni-ên (DaDn 1:1-6:28)
Đa-ri-út và ba người bạn thân của ông được chọn để được ăn các thức ăn của
nhà vua. Nhưng họ đã không chịu quỳ lạy pho tượng của vua, dù phải nhận
sự trừng phạt là án tử hình. Đa-ni-ên vẫn tiếp tục cầu nguyện dù biết rằng
ông có thể bị rình mò và chịu xử tử. Các nhân vật này đã nêu gương cho
chúng ta về một cuộc đời tận trung với Đức Chúa Trời giữa thế gian đầy tội
lỗi. Khi gặp thử thách, chúng ta có thể trông mong Đức Chúa Trời cứ hiện
diện với chúng ta qua những thử thách đó. Nguyện Đức Chúa Trời ban cho
chúng ta cùng một lòng can đảm như thế để cứ giữ trung tín khi bị áp lực.
B.Các khải tượng của Đa-ni-ên (DaDn 7:1-12:13)
Các khải tượng này thêm vào cho những người bị bắt đi đày niềm tin quyết
rằng Đức Chúa Trời đang nắm quyền kiểm soát lịch sử. Họ phải kiên nhẫn
chờ đợi và lấy đức tin mà sống, không thờ lạy các thần tượng của Ba-by-lôn
hay chấp nhận nếp sống của họ. Đức Chúa Trời vẫn cai trị trên mọi hoạt
động của loài người. Điều ác rồi sẽ bị đánh bại, cho nên chúng ta phải kiên
trì chờ đợi, không nhượng bộ trước các cám dỗ và áp lực của nếp sống tội lỗi
quanh mình.
Các đại đề mục:
[td Luận đề: Đức Chúa Trời cầm quyền kiểm soát
Lời giải thích: Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri, và Ngài chịu trách nhiệm về
mọi biến cố xảy ra trên thế gian. Đức Chúa Trời thống trị và truất quyền các
lãnh tụ phản loạn, thách thức Ngài. Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng kẻ ác,
chẳng trừ một ai. Nhưng Ngài sẽ giải cứu người trung tín theo Ngài
Tầm quan trọng: Tuy hiện nay các dân các nước đang tranh nhau kiểm soát
thế gian này, nhưng có một ngày vương quốc của Chúa Cứu Thế sẽ thay thế
họ và vượt trên các vương quốc của đời này. Đức tin của chúng ta được bảo
đảm, vì tương lai của chúng ta được bảo đảm an toàn trong Chúa Cứu thế.
Chúng ta phải can đảm và đặt đức tin vào Đức Chúa Trời, là Đấng đang cai
trị kiểm soát mọi sự
Luận đề: Chủ đích của đời sống
Lời giải thích: Đa-ni-ên và ba người bạn của ông là những thí dụ về sự tận
hiến và dấn thân. Họ quyết định phục vụ Đức Chúa Trời bất chấp mọi hậu
quả. Họ không nhượng bộ các áp lực của một xã hội bất kính vô đạo vì họ
vốn có một chủ đích rõ ràng cho đời sống.
Tầm quan trọng: Chỉ tin cậy và vâng lời một mình Đức Chúa Trời mà thôi,
xem đó là chủ đích cho đời sống mình, là một quyết định khôn ngona. Điều
này sẽ hướng dẫn và ban bình an cho đời sống chúng ta, bất chấp mọi hoàn
cảnh và hậu quả. Chúng ta phải không tuân phục bất cứ ai bảo chúng ta
không vâng lời Đức Chúa Trời. Điều mà chúng ta đầu phục trước tiên phải
là Đức Chúa Trời.
Luận đề: Kiên trì nhẫn nhục
Lời giải thích: Đa-ni-ên phục vụ 70 năm trên một xứ xa lạ, thù địch với Đức
Chúa Trời, thế nhưng ông đã không “pha loãng” đức tin đặt vào Đức Chúa
Trời của mình. Ông trung tín, kiên trì cầu nguyện mà chẳng màng thế lực và
sự vinh hiển cho riêng mình.
Tầm quan trọng: Muốn đạt chủ đích của đời sống mình, bạn cần có năng lực
bền vững. Đừng để cho điều phân biệt bạn là một Cơ-đốc nhân bị xoá nhoà
đi. Phải cầu nguyện không thôi, giữ vững thái độ trung thực và vui vẻ, phục
vụ Đức Chúa Trời bất cứ Ngài đặt bạn tại đâu.
Luận đề: Sự thành tín của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Đức Chúa Trời thành tín với Đa-ni-ên qua suốt cuộc đời ông.
Ngài giải cứu ông khỏi nhà tù, khỏi hang sư tử, và khỏi các kẻ thù ghen ghét
ông. Đức Chúa Trời lo lắng chăm sóc cho người thuộc về Ngài và nhẫn nhục
trong cách đối xử với họ.
Tầm quan trọng: Chúng ta có thể tin cậy rằng Đức Chúa Trời sẽ ở cùng
chúng ta qua mọi thử thách vì Ngài đã hứa là sẽ có mặt tại đó. Vì Ngài thành
tín với chúng ta, chúng ta phải tận trung với Ngài.

Dẫn nhập Ô-sê


Các niên đại
Giê-rô-bô-am II lên ngôi vua Y-sơ-ra-ên năm 793 TC.
A-mốt trở thành một nhà tiên tri năm 760 TC.
Ô-sê trở thành một nhà tiên tri; Xa-cha-ri, vua Y-sơ-ra-ên, bị giết năm 753
TC.
Vua Sa-lem, của Y-sơ-ra-ên bị giết năm 752 TC.
Tiếc-la Phi-lê-se xâm lăng Y-sơ-ra-ên năm 743 TC
Mi-chê trở thành một nhà tiên tri cho Giu-đa năm 742 TC.
Ê-sai trở thành một nhà tiên tri cho Giu-đa năm 740 TC.
Y-sơ-ra-ên (vương quốc miền Bắc) sụp đổ năm 722 TC.
Chức vụ của Ô-sê kết thúc năm 715 TC.
Lời giới thiệu
Chú rể đứng chăm chú trong tiếng nhạc tràn lan, và cô dâu khoác tay cha
mình bắt đầu những bước chầm chậm trên lối đi dài giữa hai hàng ghế trong
nhà thờ. Nụ cười có hơi sốt ruột của người chuẩn bị làm chồng theo dõi từng
bước đi của nàng, đôi mắt tràn ngập tình yêu. Rồi những giọt lệ hạnh phúc,
những lời hứa nguyện được thốt ra, và gia đình hoà hợp. Hôn lễ là một lễ
mừng của tình yêu. Đó là huyền nhiệm thánh khiết của việc hai người trở
thành một, là việc bắt đầu một cuộc sống chung, một sự dấn thân, tận hiến
cho nhau. Hôn nhân do Đức Chúa Trời thiết lập, và minh hoạ cho mối liên
hệ giữa Ngài với những người thuộc về Ngài. Cho nên có lẽ chẳng còn có
thảm kịch nào kinh khủng hơn là việc vi phạm những lời hứa nguyện thiêng
liêng đó. Đức Chúa Trời bảo Ô-sê cưới một người vợ và báo trước với ông
rằng nàng sẽ chẳng chung thủy với ông đâu. Tuy nàng sẽ sinh nhiều con cái,
nhưng một số trong đó sẽ là con của những người khác. Vì vâng lời Đức
Chúa Trời Ô-sê đã cưới Gô-me. Mối liên hệ giữa ông với nàng, tội ngoại
tình của nàng, và con cái họ đã trở thành những thí dụ sinh động, có tính
cách tiên tri, về dân Y-sơ-ra-ên.
Sách Ô-sê là một câu chuyện tình - hiện thực, bi thảm và có thật. Siêu vượt
trên câu chuyện về một thanh niên với vợ mình, nó nói lên tình yêu của Đức
Chúa Trời đối với dân Ngài là cách đáp lại của “vợ” Ngài. Một giao ước đã
được thiết lập, và Đức Chúa Trời vốn thành tín. Tình yêu của Ngài thật bền
vững, và lời giao kết của Ngài không bị vi phạm. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên -
giống như Gô-me - đã phạm tội ngoại tình và không chung thủy, cự tuyệt
tình yêu của Đức Chúa Trời và thay vào đó bằng cách quay sang với các tà
thần. Rồi sau khi cảnh cáo và trừng phạt, Đức Chúa Trời lại tái khẳng định
tình yêu của Ngài và đề nghị giải hoà. Tình yêu và lòng khoan dung của
Ngài vốn tràn đầy, nhưng công lý cần phải được phục vụ đúng mức.
Quyển sách bắt đầu bằng những lời chỉ giáo về hôn lễ của Đức Chúa Trời
với Ô-sê. Sau hôn lễ của Ô-sê, nhiều con cái đã ra đời, mỗi đứa đều được đặt
một cái tên có ý nghĩa là một bức thông điệp của Đức Chúa Trời (OsHs 1:1-
11). Rồi như đã được báo trước, Gô-me đã bỏ Ô-sê để theo đuổi các tham
dục của nàng (OsHs 2:1-23). Nhưng Ô-sê (mà tên ông có nghĩa là “sự cứu
rỗi”) đi tìm nàng, chuộc nàng, và đưa nàng trở lại nhà, sau khi đã giải hoà
với nhau trọn vẹn (OsHs 3:1-19). Những hình ảnh về tình yêu, sự phán xét,
ân điển và lòng khoan dung của Đức Chúa Trời đan xen vào nhau trong mối
liên hệ giữa họ. Tiếp theo đó, Đức Chúa Trời đã phác hoạ trường hợp của
Ngài với dân Y-sơ-ra-ên - tội lỗi họ, cuối cùng, đã gây ra sự hủy diệt của họ
(OsHs 4:1-19; OsHs 6:1-11; OsHs 7:1-16; OsHs 12:1-15) và đã chọc giận
Ngài, mà hậu quả là họ đã bị trừng phạt (OsHs 5:1-15; OsHs 8:1-10:15;
OsHs 12:1-15; OsHs 13:1-16). Nhưng ngay giữa cảnh sống vô đạo đó của
dân Y-sơ-ra-ên Đức Chúa Trời vẫn khoan dung và ban cho họ hi vọng, bày
tỏ tình yêu vô hạn của Ngài đối với dân Ngài (OsHs 11:1-11) và sự ăn năn
của họ sẽ đem phước hạnh đến (OsHs 14:1-9).
Sách Ô-sê tả vẽ đầy kịch tích tình yêu kiên trì và trước sau như một của Đức
Chúa Trời chúng ta. Khi đọc sách này, bạn hãy theo dõi việc nhà tiên tri đã
sẵn sàng đầu phục sự chỉ dẫn của Chúa mình, cùng đau buồn với ông về sự
bất trung của vợ ông và của dân tộc ông; và lắng nghe lời cảnh cáo thật rõ
ràng về sự phán xét, sau đó, hãy tái khẳng định sự dấn thân tận hiến của bạn
để trở thành người của Đức Chúa Trời, thủy chung trong tình yêu và trung
tín với những lời hứa nguyện của bạn.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm minh hoạ tình yêu của Đức Chúa Trời đối với dân sự đầy
tội lỗi của Ngài.
Trước giả: Ô-sê con trai Bê-ê-ri (Ô-sê có nghĩa là “sự cứu rỗi”)
Đọc giả: Cho dân Y-sơ-ra-ên (vương quốc miền Bắc) và người thuộc về Đức
Chúa Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Khoảng 715 TC, ghi lại các biến cố trước sau 753-715
TC.
Bối cảnh: Ô-sê bắt đầu chức vụ vào giai đoạn cuối thời trị vì hưng thịnh
nhưng sa sút về phương diện đạo đức của Giê-rô-bô-am II của Y-sơ-ra-ên
(giai cấp thượng lưu còn sống khá tốt, nhưng đang áp bức người nghèo).
Ông nói tiên tri mãi đến ngay sau khi Sa-ma-ri thất thủ năm 722 TC.
Câu chìa khoá: “Đức Giê-hô-va bảo ta rằng: Hãy đi, lại yêu một người đờn
bà tà dâm đã có bạn yêu mình, theo như Đức Giê-hô-va vẫn yêu con cái Y-
sơ-ra-ên, dầu chúng nó xây về các thần khác, và ưa bánh ngọt bằng trái nho”
(OsHs 3:1)
Các nhân vật chính: Vương quốc miền Bắc (Y-sơ-ra-ên), Sa-ma-ri, Ép-ra-
im.
Những nét đặc trưng: Ô-sê dùng nhiều hình ảnh từ đời sống hằng ngày - Đức
Chúa Trời được tả vẽ như người chồng, người cha, con sư tử, con beo, con
gấu, sương mù, mưa, con mọt và nhiều điều khác nữa; Y-sơ-ra-ên được tả vẽ
như người vợ, người bệnh, cây nho, trái nho, trái đầu mùa, cây ô-liu, người
đàn bà sinh con, bếp lò, sương sớm, rơm rác, và khói, đó là chỉ kể một số ít
mà thôi.
Bố cục:
A. Người vợ lạc lầm của Ô-sê (OsHs 1:1-3:5).
Ô-sê được Đức Chúa Trời truyền dạy phải cưới một người vợ không chung
thủy, sẽ gây nhiều đau khổ cho ông. Như Gô-me chán Ô-sê và chạy theo các
tình nhân khác thể nào, chúng ta cũng dễ dàng chán chê mối liên hệ của
mình với Đức Chúa Trời để theo đuổi các giấc mơ và những mục tiêu không
có Ngài trong đó. Một khi chúng ta đã pha loãng nếp sống Cơ-đốc nhân để
thoả hiệp và noi theo cách sống của thế gian, là chúng ta đã bất trung với
Đức Chúa Trời.
B. Dân sự lầm lạc của Đức Chúa Trời (OsHs 4:1-14:9)
1. Tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên
2. Sự trừng phạt dân Y-sơ-ra-ên
3. Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên.
Đức Chúa Trời muốn cho dân sự Ngài trong vương quốc miền Bắc xây bỏ
tội lỗi của họ và quay trở lại để chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi,
nhưng họ vẫn miệt mài trong sự gian ác của họ. Xuyên suốt quyển sách này,
dân Y-sơ-ra-ên đã được mô tả là chẳng đếm xỉa gì đến Đức Chúa Trời,
không muốn sống đẹp lòng Ngài. Dân Y-sơ-ra-ên đã chẳng hiểu gì về Đức
Chúa Trời cả, như Gô-me đã không thông cảm với Ô-sê. Như một người
chồng yêu vợ, một người cha kiên trì yêu con, Đức Chúa Trời muốn dân sự
Ngài biết rõ Ngài và hướng về Ngài hằng ngày.
Các đại đề mục
Luận đề: Tội lỗi của dân sự
Lời giải thích: Cũng như vợ của Ô-sê, là Gô-me đã không chung thủy với
ông, dân Y-sơ-ra-ên đã bất trung với Đức Chúa Trời. Tội thờ thần tượng của
dân Y-sơ-ra-ên cũng giống như tội ngoại tình. Họ đi tìm những mối liên hệ
bất hợp pháp với A-sy-ri và Ai-cập chạy theo quân lực và pha lẫn sự thờ
phượng Đức Chúa Trời với việc thờ lạy Ba-anh.
Tầm quan trọng: Như Gô-me, chúng ta có thể theo đuổi nhiều mối tình khác
- tham quyền, ham vui, tham tiền hay danh vọng. Các cám dỗ trong thế gian
này vốn đầy quyến rủ. Chúng ta có tận trung với Đức Chúa Trời, giữ lòng
chung thủy trọn vẹn với Ngài, hay đang có những mối tình khác chiếm lấy
chỗ của Ngài?
Luận đề: Sự phán xét của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Ô-sê nghiêm chỉnh cảnh cáo Giu-đa trong việc họ đang noi
gương của Y-sơ-ra-ên. Vì Giu-đa vi phạm giao ước, xây bỏ Đức Chúa Trời
và quên mất Đấng Tạo Hoá mình, nó sẽ phải trải nghiệm một cuộc xâm lăng
và lưu đày tàn hại. Tội lỗi vốn tạo nhiều hậu quả khủng khiếp.
Tầm quan trọng: Tiếp sau sự bội ơn và phản loạn chống lại Đức Chúa Trời
thì chắc chắn phải là cảnh tàn hại. Đức Giê-hô-va mới là chỗ trú ẩn đích thực
và duy nhất của chúng ta. Nếu chúng ta cứng lòng đối với Ngài sẽ chẳng còn
có chỗ an toàn nào khác nữa cả. Chúng ta không thể nào thoát được sự phán
xét của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Tình yêu của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Như Ô-sê đã đi tìm người vợ không chung thủy của ông để
đưa nàng trở về thể nào, Chúa cũng yêu thương và theo đuổi chúng ta. Tình
yêu của Ngài thật âu yếm, trung thực, bất biến và bất tử bất diệt. Cho dù có
việc gì xảy ra, Đức Chúa Trời vẫn yêu chúng ta.
Tầm quan trọng: Bạn có quên Đức Chúa Trời và bất trung với Ngài không?
Đừng để cho sự hưng thịnh làm suy giảm tình yêu của bạn đối với Ngài,
hoặc để cho sự thành công của bạn che mắt để bạn không còn thấy tình yêu
của Ngài là cần thiết nữa.
Luận đề: Sự phục hưng
Lời giải thích: Tuy Đức Chúa Trời sửa phạt dân Ngài vì tội lỗi họ, Ngài vẫn
khuyến khích và phục hồi địa vị cho những người chịu ăn năn. Sự ăn năn
thật mở đường cho một sự bắt đầu mới. Đức Chúa Trời tha thứ và phục hồi
địa vị cho những ai chịu ăn năn.
Tầm quan trọng: Hãy còn hi vọng cho những ai chịu quay trở lại với Đức
Chúa Trời. Chẳng có một sự trung thành, thành tựu hay vinh dự nào lại có
thể so sánh được với việc yêu mến Ngài. Hãy quay lại với Đức Chúa Trời
trong khi đề nghị của Ngài hãy còn hiệu lực cho dù bạn có lạc xa đến đâu
Đức Chúa Trời vẫn sẵn sàng đưa bạn trở lại.
Dẫn nhập Giô-ên
Các niên đại
Vua A-háp tử trận năm 853 TC.
Ê-li-sê trở thành nhà tiên tri năm 848 TC.
Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên, A-tha-li cướp ngôi Giu-đa, năm 841 TC.
Giô-ên trở thành nhà tiên tri? Giô-ách làm vua Giu-đa năm 835 TC.
Giô-a-cha làm vua Y-sơ-ra-ên, năm 814 TC.
Giô-ách làm vua Y-sơ-ra-ên, năm 798 TC.
Chức vụ của Giô-ên chấm dứt năm 796 TC.
Lời giới thiệu
Chỉ một quả bom tàn phá cả một thành phố, và thế giới đã bước vào thời đại
hạt nhân. Một nguyên tử bị phân hạch... thế là chúng ta có được một năng
lượng và một sức mạnh chưa từng thấy.
Tại một bãi phóng hoả tiễn các tên lửa gào thét, và một khối nặng đắt giá
được ném vào không gian. Những phát minh mà chúng ta từng mơ ước từ
nhiều thế kỷ nay đã thuộc về chúng ta, và người ta đang bắt đầu thám hiểu
những phần chưa biết của vũ trụ.
Núi lửa, động đất, sóng thần, bão lốc và dông tố vẫn tung hoành vô phương
kiểm soát, như những lực lượng không gì ngăn chận nổi. Chúng ta chỉ có thể
tránh né chúng rồi đi góp nhặt những mảnh vỡ vụn mà thôi.
Năng lượng, sức mạnh, thế lực - chúng ta sợ hãi đứng nhìn cõi thiên nhiên
và loài người phô trương uy lực. Nhưng các lực lượng ấy không thể chạm
đến quyền năng của Đức Chúa Trời vốn là Đấng vô sở bất năng, Đấng Tạo
Hoá dựng nên các thiên hà, các nguyên tử, các định luật thiên nhiên là Chúa
Tể đang cai trị tất cả những gì đang có và sẽ có. Sống mà không có Ngài thật
là ngu dại biết bao; chạy trốn Ngài thật xuẩn ngốc biết bao; còn không vâng
lời Ngài quả là điều quái dị. Thế nhưng chúng ta lại đang làm như thế đấy!
Từ thời có vườn Ê-đen, chúng ta đã tìm cách để được độc lập đối với quyền
kiểm soát của Ngài, dường như chúng ta là các vị thần có thể nắm lấy vận
mệnh của mình vậy. Và Ngài đã cho phép chúng ta nổi loạn. Nhưng chẳng
bao lâu, ngày của Chúa (Đức Giê-hô-va) sẽ đến.
Nhà tiên tri Giô-ên đang nói về ngày đó, và đó là luận đề của quyển sách này
của ông. Đến ngày đó, Đức Chúa Trời sẽ phán xét tất cả những gì có liên hệ
với sự không công chính và không vâng lời - mọi sổ sách sẽ được khai trình
để giải quyết và điều cong vạy sẽ được khiến thành ngay thẳng.
Chúng ta được biết rất ít về nhà tiên tri Giô-ên - chỉ biết rằng ông là một nhà
tiên tri, và là con trai của Phê-thu-ên. Có lẽ ông từng sinh sống tại Giê-ru-sa-
lem vì thính giả của ông là người Giu-đa, thuộc về vương quốc miền Nam.
Cho dù ông là ai, Giô-ên đã nói thẳng và nói mạnh trong quyển sách tuy
ngắn ngủi nhưng đầy quyền năng này. Bức thông điệp của ông là dấu hiệu
và là một lời cảnh cáo báo trước, nhưng cũng tràn đầy hi vọng. Giô-ên vạch
rõ rằng Đấng Tạo Hoá chúng ta, cũng là Đấng Thẩm Phán vô sở bất năng,
vốn cũng là Đấng Thương Xót khoan dung, và Ngài muốn ban phước cho tất
cả những ai tin cậy Ngài.
Giô-ên bắt đầu bằng việc mô tả một tai vạ khủng khiếp là cào cào phủ đầy
mặt đất và cắn phá mùa màng. Sự tàn phá do các sinh vật thọ tạo này gây ra
chỉ là điềm báo trước sự phán xét hầu đến của Đức Chúa Trời, tức là “ngày
của Đức Giê-hô-va”. Do đó Giô-ên khuyến giục dân sự hãy xây bỏ tội lỗi
mình để quay lại với Đức ChúaTrời. Đan xen vào trong bức thông điệp phán
xét này và sự cần thiết phải ăn năn, là lời khẳng định về lòng nhân từ và các
phước hạnh mà Ngài hứa ban cho tất cả những người theo Ngài. Thật vậy,
“ai cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va (Chúa) thì sẽ được cứu” (Gio Ge 2:32).
Trong khi đọc sách Giô-ên bạn cần “bắt lấy khải tượng của ông về quyền
phép và năng lực của Đức Chúa Trời về sự phán xét tội lỗi sau cùng của
Ngài. Rồi hãy chọn noi theo, vâng lời, và thờ phượng chỉ một mình Đức
Chúa Trời mà thôi, và tôn Ngài làm Chúa Tể của mình.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để cảnh cáo người Giu-đa về cơn phán xét của Đức Chúa Trời
treo trên đầu họ vì cớ tội lỗi của họ, và để giục họ quay về với Ngài.
Trước giả: Giô-ên, con trai Phê-thu-ên.
Đọc giả: Cho dân Giu-đa, là vương quốc miền Nam, và cho những người
thuộc về Đức Chúa Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Có lẽ trong giai đoạn Giô-ên nói tiên tri, khoảng từ năm
835 đến 796 TC.
Bối cảnh: Dân Giu-đa bấy giờ đã trở nên cường thịnh và tự phụ tự mãn.
Xem Đức Chúa Trời như chỉ là chuyện đương nhiên, họ trở thành vị kỷ, đi
thờ lạy các thần tượng và phạm tội. Giô-ên cảnh cáo họ rằng lối sống ấy sẽ
đem sự phán xét của Đức Chúa Trời đến, không tránh né vào đâu được.
Các câu chìa khoá: “Đức Giê-hô-va phán: bây giờ cũng hãy hết lòng trở về
cùng ta, kiêng ăn khóc lóc, và buồn rầu. Hãy xé lòng các ngươi, đừng xé áo
các ngươi. Khá trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi; vì Ngài là
nhân từ và hay thương xót, chậm giận và giàu ơn, đổi ý về sự tai vạ” (Gio
Ge 2:12,13).
Các nhân vật chính: Giô-ên, dân Giu-đa
Địa điểm chính: Giê-ru-sa-lem.
Bố cục
1. Ngày của cào cào (Gio Ge 1:1-2:27)
2. Ngày của Đức Giê-hô-va (Gio Ge 2:28-3:21)
Nạn cào cào chỉ là dấu hiệu báo trước cơn phán xét sẽ đến trong ngày của
Đức Giê-hô-va. Đây là một lời kêu gọi phi thời gian, khuyên mọi người phải
ăn năn, kèm theo lời hứa ban phước. Như dân sự đang trực diện với thảm
cảnh mùa màng của họ bị phá hủy, chúng ta rồi cũng sẽ phải đối đầu với
cuộc phán xét thảm khốc nếu chúng ta sống trong tội lỗi. Nhưng ơn của Đức
Chúa Trời vẫn dành cho chúng ta, cả hiện nay và trong ngày sắp tới đó.
Các đại đề mục
Luận đề: Sự sửa phạt
Lời giải thích: Cả một đạo quân cào cào đem sự hủy diệt đến, sự trừng phạt
tội lỗi của Đức Chúa Trời sẽ tràn lan, đáng sợ, và không tránh né vào đâu
được. Khi nó đến, sẽ chẳng còn lương thực, nước uống, sự bảo vệ mà cũng
chẳng có lối thoát. Ngày phải tính sổ với Đức Chúa Trời về cách chúng ta đã
sống sẽ đến thật nhanh chóng.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời là Đấng mà mọi người chúng ta đều sẽ phải
khai trình tính sổ - chứ không phải là cõi thiên nhiên, chế độ, hay một người
ngoại quốc xâm lăng. Chúng ta không thể cứ làm ngơ hay xúc phạm đến
Đức Chúa Trời mãi. Chúng ta phải chú ý đến bức thông điệp của Ngài ngay
bây giờ, bằng không thì sau này sẽ phải trực diện với cơn thịnh nộ của Ngài.
Luận đề: Sự tha tội
Lời giải thích: Đức Chúa Trời đang sẵn sàng tha thứ và phục hồi địa vị cho
tất cả, những ai xây bỏ tội lỗi để đến với Ngài. Ngài muốn đổ tình yêu trên
dân sự Ngài và phục hồi cho họ mối liên hệ phải lẽ với Ngài.
Tầm quan trọng: Sự tha tội đến bằng cách xây bỏ tội lỗi và quay về với Đức
Chúa Trời. Chẳng bao giờ là quá muộn để tiếp nhận sự tha tội của Đức Chúa
Trời cả. Ước muốn quan trọng nhất của Đức Chúa Trời là bạn hãy đến với
Ngài.
Luận đề: Lời hứa ban Đức Thánh Linh
Lời giải thích: Giô-ên báo trước thời kỳ mà Đức Chúa Trời sẽ đổ Thánh
Linh Ngài xuống trên tất cả mọi người. Đó sẽ là điểm bắt đầu cho một sự
thờ phượng Đức Chúa Trời thật mới mẻ của những người tin Ngài, nhưng
cũng là bắt đầu sự phán xét đối với tất cả những ai chối bỏ Ngài.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời đang nắm quyền kiểm soát công lý và việc
phục hồi địa vị vốn ở trong tay Ngài. Đức Thánh Linh xác nhận tình yêu của
Đức Chúa Trời đối với chúng ta y như Ngài từng làm cho các Cơ-đốc nhân
đầu tiên (Công 2). Chúng ta phải tận trung với Đức Chúa Trời và đặt đời
sống mình dưới sự hướng dẫn và quyền năng của Đức Thánh Linh.

Dẫn nhập A-mốt


Các niên đại
Giê-rô-bô-am II làm vua Y-sơ-ra-ên năm 793 TC.
A-mốt trở thành nhà tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên năm 760 TC.
Ô-sê trở thành nhà tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên năm 753 TC.
Vua Sa-lum của Y-sơ-ra-ên bị ám sát năm 752 TC.
Chức vụ của A-mốt kết thúc năm 750 TC.
Ê-sai trở thành nhà tiên tri cho xứ Giu-đa năm 740 TC.
Lời giới thiệu
Khi chúng ta nghe nói “vị ấy là một người của Đức Chúa Trời” thì những
hình ảnh thường hiện ra trong tâm trí của chúng ta nhất, là một nhà truyền
đạo, một vị mục sư, một giáo sĩ, một vị tuyên úy cho các sinh viên đại học...
nổi tiếng nào đó - tóm lại là những nhà chuyên nghiệp, những cán bộ Cơ
Đốc giáo, những nhân vật truyền giảng Lời Đức Chúa Trời như một nghề
chuyên môn.
Chắc chắn A-mốt là một người của Đức Chúa Trời - một người đã tận hiến
cả đời mình để phục vụ Chúa và nếp sống của ông phản ảnh đúng thái độ tận
hiến đó - nhưng ông chỉ là một người thường. A-mốt hành nghề chăn chiên
và trồng cây vả trong vùng quê Giu-đê, và không phải là con của một nhà
tiên tri, cũng không phải con của một thầy tế lễ. Là một người chăn chiên
khiêm tốn, đáng lẽ ra ông đã phải cứ phải ở lại Thê-cô-a hành nghề của
mình, chu cấp cho gia đình, và thờ phượng Đức Chúa Trời. Thế nhưng Đức
Chúa Trời đã cho A-mốt thấy một khải tượng về tương lai (1:2), và bảo ông
hãy mang bức thông điệp của Ngài đến xứ Y-sơ-ra-ên, là vương quốc miền
Bắc (AmAm 7:15). A-mốt đã vâng lời, và do đó, tự chứng tỏ mình là một
người của Đức Chúa Trời.
Bức thông điệp của A-mốt đã tạo được ảnh hưởng trên những người thuộc
về Đức Chúa Trời qua nhiều thế kỷ, và cần cho nhiều cá nhân và nhiều quốc
gia dân tộc được nghe hôm nay. Tuy bị chia cách với các anh chị em mình ở
phía Nam là xứ Giu-đa, người Y-sơ-ra-ên ở phương Bắc cũng vẫn còn là dân
sự của Đức Chúa Trời. Nhưng họ đang sống dưới một tôn giáo bề ngoài có
vẻ sùng bái nhưng lại thờ lạy nhiều thần tượng và áp bức bóc lột người
nghèo. A-mốt vốn là một người chăn chiên mạnh dạn, bất khuất và chơn
chất đến từ miền Nam, đã phải trực diện với họ để chỉ ra tội lỗi của họ, và
cảnh cáo họ về sự phán xét đang sẵn dành cho họ.
Sách A-mốt bắt đầu với người chăn chiên khiêm tốn này đang chăn giữ
chiên mình. Bấy giờ Đức Chúa Trời cho ông thấy một khải tượng về những
gì sắp xảy đến cho nước Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã cảnh cáo tất cả các
dân các nước nào chống lại Ngài và làm hại dân sự Ngài. Bắt đầu với A-
ram, Ngài nhanh chóng chuyển sang tất cả các nước Phi-li-tin, Ty-rơ, Ê-
đôm, Am-môn và Mô-áp. Tất cả đều bị lên án và chúng ta hầu như nghe
được dân Y-sơ-ra-ên reo hò “A-men”. Và rồi cả đến Giu-đa là đất tổ của A-
mốt cũng bị đưa luôn vào trong lời tố giác mạnh mẽ của Đức Chúa Trời
(AmAm 2:4,5). Những người nghe A-mốt chắc đã vui mừng biết bao khi
nghe những lời ấy! Nhưng bỗng nhiên A-mốt đã quay lại với người Y-sơ-ra-
ên và tuyên bố sự phán xét của Ngài trên họ. Bốn chương sách tiếp theo đó
kể ra và mô tả các tội lỗi của họ. Chẳng có gì lạ khi A-ma-xia là thầy tế lễ đã
can thiệp và tìm cách ngăn trở việc truyền giảng (AmAm 7:10-13). Nhưng
A-mốt đã chẳng chút sợ hãi, tiếp tục kể lại các khải tượng về sự phán xét
trong tương lai mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông (AmAm 8:1- 9:15). Sau
tất cả các chương về phán xét đó, quyển sách được kết thúc bằng một thông
điệp đầy hi vọng. Cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ phục hồi địa vị cho dân
Ngài, và lại khiến họ trở thành vĩ đại (AmAm 9:8-15).
Trong khi đọc sách A-mốt, bạn hãy tự đặt mình vào địa vị của những người
Y-sơ-ra-ên này để lắng nghe bức thông điệp của Đức Chúa Trời. Phải chăng
bạn cứ ngày càng tự phụ tự mãn? Phải chăng có nhiều mối quan tâm khác đã
chiếm chỗ của Đức Chúa Trời trong đời sống bạn. Phải chăng bạn đang bỏ
qua chẳng nghĩ gì đến những kẻ nghèo thiếu hay những kẻ đang áp bức bóc
lột người nghèo? Hãy tự hình dung mình là A-mốt, để trung tín làm công
việc mà Đức Chúa Trời kêu gọi bạn làm. Chính bạn cũng có thể là một
người của Đức Chúa Trời. Hãy lắng nghe tiếng gọi rõ ràng của Ngài và làm
điều Ngài phán dạy cho dù việc ấy có đưa bạn tới đâu.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để tuyên rao sự phán xét của Đức Chúa Trời trên xứ Y-sơ-ra-ên,
là vương quốc miền Bắc, vì thói tự phụ tự mãn, tội thờ thần tượng và việc họ
áp bức bóc lột kẻ nghèo.
Trước giả: A-mốt.
Đọc giả: Cho xứ Y-sơ-ra-ên là vương quốc miền Bắc và cho những người
thuộc về Đức Chúa trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Có lẽ là trong các đời trị vì của Giê-rô-bô-am II của xứ
Y-sơ-ra-ên và của Ô-xia (A-xa-ria) xứ Giu-đa (khoảng 760 - 750 TC).
Bối cảnh: Những kẻ giàu có trong dân Y-sơ-ra-ên đang được hưởng hoà
bình và thịnh vượng. Họ rất tự phụ tự mãn và áp bức bóc lột kẻ nghèo, thậm
chí bán họ để làm nô lệ nữa. Tuy nhiên, chẳng bao lâu nữa, xứ Y-sơ-ra-ên sẽ
bị A-sy-ri chinh phục, và chính những kẻ giàu có kia sẽ trở thành nô lệ.
Câu chìa khoá: “Thà hãy làm cho sự chánh trực chảy xuống như nước,và sự
công bình như sóng lớn cuồn cuộn” (AmAm 5:24)
Các nhân vật chính: A-mốt, A-ma-xia, Giê-rô-bô-am II
Các điạ danh chính: Bê-tên, Sa-ma-ri
Những nét đặc trưng: A-mốt đã sử dụng những cách ví von rõ ràng từ từng
trải chăn chiên và làm nông nghiệp của ông - như một chiếc xe bò chở nặng
(AmAm 2:13), một con sư tử đang gầm thét (AmAm 3:8), một con chiên bị
thương (AmAm 3:12), những con bò cái kênh kiệu (AmAm 4:1) và một giỏ
trái cây (AmAm 8:1,2).
Bố cục:
1. Thông báo về sự phán xét (AmAm 1:1-2:16)
2. Các lý do của sự phán xét (AmAm 3:1-6:14)
3. Các khải tượng về sự phán xét (AmAm 7:1-9:15)
A-mốt nói bằng một giọng chân thành nhưng táo bạo để tố giác tội lỗi. Ông
chạm trán với các lãnh tụ tôn giáo giả dối của thời đại mình mà không chút e
dè trước thầy tế lễ hoặc chính nhà vua, ông cứ tiếp tục truyền giảng bức
thông điệp của mình thật mạnh dạn. Đức Chúa Trời đòi hỏi chân lý và sự
thánh thiện cùng sự công chính của tất cả mọi người và mọi quốc gia dân tộc
ngày nay nữa. Nhiều điều kiện sinh sống trong xứ Y-sơ-ra-ên vào thời của
A-mốt cũng được thấy rõ trong các xã hội ngày nay. Chúng ta cần có lòng
can đảm của A-mốt để bất chấp nguy hiểm mà đứng vững để chống lại tội
lỗi.
Các đại đề mục:
Luận đề: Mỗi người phải trả lời với Đức Chúa Trời
Lời giải thích A-mốt công bố sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với tất cả
các lân bang. Rồi ông kể luôn cả Giu-đa và Y-sơ-ra-ên vào trong số đó. Đức
Chúa Trời đang cầm quyền tối cao trên mọi quốc gia dân tộc. Mọi người đều
có trách nhiệm tính sổ với Ngài
Tầm quan trọng Mọi người đều phải chịu trách nhiệm về tội lỗi mình. Khi
những kẻ chối bỏ Đức Chúa Trời dường như chiếm hàng đầu, đừng ghen tị
với sự thịnh vượng của họ hay tự than thân trách phận. Nên nhớ rằng tất cả
mọi người đều phải trả lời với Đức Chúa Trời về cách sống của mình.
Luận đề: Tự phụ tự mãn
Lời giải thích Mọi người đều lạc quan, công việc làm ăn đều phát đạt, ai nấy
đều cảm thấy hạnh phúc (ngoại trừ người nghèo khó và bị áp bức bóc lột).
Tiện nghi và nếp sống xa hoa thường đi đôi với thói tự phụ tự mãn và ý thức
an ninh giả tạo. Nhưng đời sống thịnh vượng thường đưa đến sự băng hoại
và tàn hại.
Tầm quan trọng Một hiện tại tự phụ tự mãn dẫn tới một tương lai tàn hại.
Đừng tự cao vì các phước hạnh và lợi lộc mà bạn đang được hưởng. Chúng
đều đến từ Đức Chúa Trời. Nếu bạn tự hài lòng về mình hơn là vì cớ Đức
Chúa Trời thì khá nhớ rằng mọi sự đều vô nghĩa nếu không có Ngài. Một
thái độ tự phụ tự mãn có thể gây suy sụp cho bạn.
Luận đề: Áp bức kẻ nghèo
Lời giải thích Những kẻ giàu có, thế lực của Sa-ma-ri, thủ đô xứ Y-sơ-ra-ên,
đã trở thành thịnh vượng, tham lam, bất công. Hậu quả của sưu cao thuế
nặng và cướp bóc đất đai sẽ dẫn tới hậu quả là nhiều người trở thành nô lệ
một cách bất hợp pháp và vô đạo đức. Cũng sẽ có sự tàn bạo và dửng dưng
với kẻ nghèo. Đức Chúa Trời đã chán chê với thói tham lam và sẽ không
dung dưỡng sự bất công.
Tầm quan trọng Đức Chúa Trời đã tạo nên mọi người, do đó chẳng đếm xỉa
gì đến người nghèo tức là chẳng đếm xỉa gì đến những người mà Đức Chúa
Trời yêu mến và Chúa Cứu Thế đã đến để cứu họ. Chúng ta phải đi xa hơn
là chỉ thương hại người nghèo khó và bị áp bức. Phải hành động do lòng
nhân từ thương xót để ngăn chận bất công và góp phần lo lắng cho những
người đang nghèo thiếu
Luận đề: Tôn giáo nông cạn
Lời giải thích Tuy nhiều người đã từ bỏ đức tin chân chính vào Đức Chúa
Trời, họ vẫn tự cho là họ đạo đức. Họ làm những việc có tiếng là đạo đức
thay vì có thái độ trung thực thuộc linh và thật lòng làm việc vì vâng lời Đức
Chúa Trời.
Tầm quan trọng Chỉ tham dự lễ lạc theo nghi thức mà thôi, thì không phải là
con cái thật của Chúa. Đức Chúa Trời muốn người ta lấy lòng đơn sơ tin cậy
Ngài, chứ không phải là phô trươnghình thức. Đừng tạo ấn tượng trên người
khác bằng nghi lễ bề ngoài, trong khi Đức Chúa Trời muốn sự vâng lời và
tận hiến hết lòng của bạn.

Dẫn nhập Áp-đia


Lời giới thiệu
Với gương mặt có phần nhăn nheo với hai bàn tay nhỏ có móng trơn bóng,
với làn da non và đôi mắt, cái mũi, cái miệng bé xíu - cô là một em bé sơ
sinh. Sau nhiều tháng hình thành, cô đã chào đời và gia nhập một gia đình.
“Nó có đôi mắt của mẹ nó!” Tôi dám nói chắc cha mẹ của nó là ai...”. “Coi
cái mũi của anh (chị) kìa...” Bà con và bè bạn nhìn chăm vào gương mặt bé
nhỏ kia, và hình dung ra cha mẹ nó. Cha mẹ nó thì vui mừng về con gái
mình. Đó là một phép mầu, một thành viên mới của gia đình. Là những bậc
làm cha làm mẹ yêu con, họ sẽ bảo vệ nuôi dưỡng hướng dẫn và dạy dỗ nó.
Đó là nhiệm vụ và niềm vui của họ.
Đức Chúa Trời cũng có con cái - những người nam người nữ mà Ngài đã
chọn cho riêng mình. Đã từng có nhiều cá nhân mang dấu vết của Ngài,
nhưng với Áp-ra-ham Ngài đã hứa là từ ông Ngài sẽ làm nên một dân tộc.
Xứ Y-sơ-ra-ên là quê hương của Đức Chúa Trời, và dân xứ ấy, người Do
Thái chính là các con trai con gái Ngài. Qua nhiều thế kỷ tiếp theo đó, đã có
sự sửa trị và trừng phạt, nhưng bao giờ cũng có tình yêu là lòng nhân từ và
khoan dung.
Áp-đia là sách ngắn nhất trong Kinh Thánh, là một tấm gương đầy kịch tính
về câu trả lời của Đức Chúa trời cho bất cứ ai muốn làm hại con cái Ngài, Ê-
đôm là một quốc gia thuộc vùng có nhiều núi non, chiếm phần Đông Nam
của Tử Hải gồm luôn Petra, là thành phố ngoạn mục mới được các khảo cổ
học phát giác mấy thập kỷ gần đây. Là hậu duệ của Ê-sau (SaSt 25:19-
27:45), người Ê-đôm vốn là bà con cùng huyết thống với dân Y-sơ-ra-ên, và
cũng như cha họ, họ vốn thô lỗ, dữ tợn, và là những chiến sĩ ngang tàng với
một quê hương núi non hiểm trở có vẻ bất khả xâm phạm. Trong tất cả các
dân các nước, đáng lẽ họ phải nhanh chóng lao vào tiếp cứu các anh em
thuộc vương quốc miền Bắc của mình. Tuy nhiên, thay vì làm như thế, họ lại
nhìn vào các vấn đề của dân Y-sơ-ra-ên với thái độ thèm thuồng, bỏ mặc họ
bị bắt làm tù binh, bắt những người tẩu thoát nộp cho kẻ thù của họ, và thậm
chí, cướp bóc cả vùng thôn quê của xứ Y-sơ-ra-ên nữa.
Áp-đia truyền giảng bức thông điệp của Đức Chúa Trời cho Ê-đôm. Vì thái
độ dửng dưng và thách đố Đức Chúa Trời của họ, thói hèn nhát và kiêu ngạo
của họ, và sự gian lận của họ đối với anh em trong xứ Giu-đa, họ đã bị lên
án và sẽ bị tiêu diệt. Quyển sách bắt đầu bằng hồi thông báo rằng sự tàn phá
sắp giáng trên Ê-Đôm (ApOv 1:1-9). Bất chấp các ghềnh đá và núi non cheo
leo “bất khả xâm phạm” của họ, họ sẽ không thể nào thoát được sự phán xét
của Đức Chúa Trời. Rồi Áp-đia đưa ra các lý do của sự hủy diệt ấy (ApOv
1:10-14) - thái độ ngạo mạn rõ ràng của họ đối với Đức Chúa Trời và việc
họ bách hại các con cái của Đức Chúa Trời. Lời tiên tri ngắn gọn này kết
thúc bằng phần mô tả “ngày của Đức Giê-hô-va” lúc sự phán xét sẽ giáng
trên tất cả những ai đã làm hại những người thuộc về Đức Chúa Trời (ApOv
1:15-21).
Ngày nay, dân thánh của Đức Chúa Trời là Hội thánh - tức là tất cả những
người tin cậy Đấng Christ để được cứu rỗi và đã tận hiến đời sống cho Ngài.
Những người nam người nữ này đã được Đức Chúa Trời tái sinh và nhận
làm con cái Ngài. Trong khi bạn đọc sách Áp-đia, hãy nhìn lướt qua để lãnh
hội ý nghĩa của việc được làm con cái Đức Chúa Trời, được ở trong tình yêu
và dưới quyền bảo vệ Ngài. Hãy chú ý xem Đức Chúa Cha ở trên trời đáp lại
như thế nào với tất cả những kẻ dám tấn công vào những người mà Ngài
yêu.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để chứng minh rằng Đức Chúa Trời phán xét những kẻ làm hại
người thuộc về Ngài.
Trước giả: Áp-đia. Chúng ta biết rất ít về nhân vật này, một con người mà
tên ông có nghĩa là “tôi tớ (hay người thờ phượng) Đức Giê-hô-va”.
Đọc giả: Cho dân Ê-đôm, cho những người Do Thái trong xứ Giu-đa, và cho
người thuộc về Đức Chúa Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Có lẽ là dưới thời trị vì của Giô-ram vua Giu-đa, 853 -
841 TC, hoặc có thể là trong thời Giê-rê-mi thi hành chức vụ, 627 -586 TC.
Bối cảnh: Về lịch sử, dân Ê-đôm lúc nào cũng hục hặc với người Do Thái.
Trước thời quyển sách này được viết ra, họ từng tham gia nhiều cuộc tấn
công vào xứ Giu-đa. Theo các niên đại được nêu ra trên đây, thì lời tiên tri
này được ban truyền sau khi quốc gia bị phân đôi, thành vương quốc miền
Bắc và vương quốc miền Nam, và trước khi Nê-bu-cát-nết-sa chinh phục
Giu-đa năm 586 TC.
Câu chìa khoá: “Vì ngày của Đức Giê-hô-va đã gần kề hết thảy các nước:
bấy giờ người ta sẽ làm cho ngươi như chính mình ngươi đã làm; những việc
làm của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi!” (c.15)
Các nhân vật chính: Dân Ê-đôm
Các địa danh chính: Xứ Ê-đôm, Giê-ru-sa-lem
Những nét đặc trưng: Sách Áp-đia dùng ngôn ngữ thi ca táo bạo và được
viết theo hình thức một bài truy điệu dành cho một số phận không may.
Bố cục:
1. Ê-đôm bị huỷ diệt (ApOv 1:16)
2. Y-sơ-ra-ên được phục hưng (ApOv 1:7-21)
Sách Áp-đia nêu rõ hậu quả của mối cựu thù giữa Ê-đôm và Y-sơ-ra-ên. Ê-
đôm vốn tự cao tự đại vì vị trí ở trên cao của nó, nhưng Đức Chúa Trời sẽ hạ
nó xuống. Những kẻ đang ngồi trên cao và có nhiều quyền thế ngày nay
không nên quá tự tin, cho dù đó là một quốc gia, một tập đoàn, một Hội
thánh, hay một dòng họ. Như Ê-đôm đã bị tiêu diệt vì thói kiêu ngạo của nó
thế nào, bất cứ kẻ nào sống với thái độ thách đố Đức Chúa Trời cũng sẽ phải
cùng chung số phận với nó y như thế.
Các đại đề mục:
Luận đề: Công lý
Lời giải thích Áp-đia tiên báo rằng Đức Chúa Trời sẽ huỷ diệt Ê-đôm để
trừng phạt lập trường của nó lúc Ba-by-lôn xâm chiếm Giu-đa. Vì sự gian
lận của nó, xứ Ê-đôm sẽ được ban cho người Giu-đa trong ngày Đức Chúa
Trời phục hoà với dân sự sai lạc của Ngài
Tầm quan trọng Đức Chúa Trời sẽ phán xét và trừng phạt nặng nề tất cả
những kẻ làm hại người thuộc về Ngài. Chúng ta có thể tin quyết vào chiến
thắng sau cùng của Đức Chúa Trời. Ngài là nhà vô địch của chúng ta cho
nên chúng ta có thể tin cậy Ngài sẽ đem công lý đích thực đến
Luận đề: Thói kiêu ngạo
Lời giải thích Nhờ các thành lũy có vẻ như bất khả xâm phạm của họ; dân Ê-
đôm rất kiêu ngạo và tự tin. Nhưng Đức Chúa Trời làm nhục họ và đất nước
họ bị xoá khỏi bản đồ thế giới
Tầm quan trọng Tất cả những kẻ dám thách đố Đức Chúa Trời sẽ cùng
chung số phận với Ê-đôm. Bất cứ quốc gia dân tộc nào tin cậy vào thế lực,
sự giàu có hoặc sự khôn ngoan của mình hơn là vào Đức Chúa Trời, đều sẽ
bị triệt hạ. Tất cả những kẻ kiêu ngạo sẽ có ngày phải ngạc nhiên khám phá
ra rằng chẳng hề có ai được miễn trừ đối với công lý của Đức Chúa Trời.

Dẫn nhập Giô-na


Các niên đại
Giê-rô-bô-am II lên ngôi, Giô-na trở thành nhà tiên tri năm 793 TC.
Ô-xia (A-xa-ria) lên ngôi vua Giu-đa năm 792 TC.
Giô-na truyền giảng cho thành phố Ni-ni-ve 785 TC
Sanh-ma-na-se IV lên ngôi vua A-sy-ri 783 TC.
Ashur-dan III lên ngôi vua A-sy-ri 772 TC.
A-mốt trở thành nhà tiên tri, năm 760 TC.
Ashur-Nirari V lên ngôi vua A-sy-ri năm 754 TC.
Chức vụ của Giô-na kết thúc năm 753 TC.
Y-sơ-ra-ên thua A-sy-ri năm 722 TC.
Lời giới thiệu
Tội lỗi leo thang trong xã hội - các tin tức hàng đầu hằng ngày và số nhà tù
tràn lan là những chứng nhân đáng buồn cho sự kiện này. Với những vụ lạm
dụng trẻ em, sách báo khiêu dâm, giết người hàng loạt, khủng bố, vô chính
phủ, và các chế độ độc tài tàn bạo, thế giới dường như đang tràn đầy bạo lực,
hận thù, và băng hoại thối nát. Đọc, nghe, và chứng kiến tấn thảm kịch ấy,
chúng ta bắt đầu hiểu được sự cần thiết phải có sự phán xét của Đức Chúa
Trời. Có lẽ chúng ta còn nhận thấy chính mình mong muốn trả thù những kẻ
phạm tội bạo động bằng bất cứ phương tiện nào. Chắc chắn là những kẻ như
thế đã không còn có thể được cứu chuộc nữa. Nhưng giả sử giữa lúc bạn suy
nghĩ như thế ma Đức Chúa trời lại bảo bạn hãy đem Phúc âm đến cho những
kẻ phạm tội tồi tệ nhất - thì bạn sẽ đáp lại như thế nào?
Giô-na đã được giao cho một nhiệm vụ như thế, A-sy-ri - một đế quốc vĩ đại
nhưng gian ác - vốn là kẻ thù đáng sợ nhất của Y-sơ-ra-ên. Dân A-sy-ri phô
trương thế lực của họ trước mặt Đức Chúa Trời và cả thế gian bằng nhiều
hành động tàn bạo gây đau lòng. Cho nên khi nghe Đức Chúa Trời bảo ông
hãy đến xứ A-sy-ri và kêu gọi dân chúng ăn năn, Giô-na đã bỏ chạy về
hướng ngược lại.
Sách Giô-na kể lại câu chuyện của nhà tiên tri chạy trốn này, và thế nào Đức
Chúa Trời đã ngăn chận ông và khiến ông quay trở lại. Nhưng đây còn hơn
cả một truyện tích về một con người và một con cá lớn - câu chuyện của
Giô-na là một thí dụ minh họa sâu nhiệm về lòng nhân từ thương xót và ân
điển của Đức Chúa Trời. Chẳng hề có ai lại không xứng đáng được đặc ân
của Đức Chúa Trời hơn dân chúng thành phố Ni-ni-ve, thủ đô của A-sy-ri.
Giô-na vốn biết như thế. Nhưng ông cũng biết rằng Đức Chúa Trời sẽ tha tội
và chúc phước cho họ nếu họ chịu ăn năn xây bỏ tội lỗi để thờ phượng Ngài.
Giô-na cũng biết rõ quyền năng trong bức thông điệp của Đức Chúa Trời,
rằng qua lời truyền giảng yếu ớt của ông, họ sẽ đáp ứng và thoát được sự
phán xét của Đức Chúa Trời. Nhưng Giô-na thù ghét người A-sy-ri và muốn
báo thù, chứ không phải là thương xót họ. Cho nên ông đã chạy trốn. Cuối
cùng Giô-na cũng phải vâng lời Đức Chúa Trời để truyền giảng trên các
đường phố Ni-ni-ve, và dân chúng đã ăn năn thoát được cơn phán xét. Thế là
Giô-na phiền muộn và phàn nàn với Đức Chúa Trời: “Bởi tôi biết rằng Ngài
là Đức Chúa Trời nhơn từ, thương xót, chậm giận, giàu ơn và đổi ý không
xuống tai vạ” (Gion Gn 4:2). Cuối cùng Đức Chúa Trời đã trực diện với
Giô-na, vì định kiến ích kỷ và thiếu nhân từ thương xót của ông. Ngài phán:
“Còn ta, há không đoái tiếc thành lớn Ni-ni-ve, trong đó có hơn mười hai
vạn người không biết phân biệt tay hữu và tay tả, lại với một số thú vật rất
nhiều hay sao?” (4:11).
Trong khi bạn đọc sách Giô-na, hãy bao quát toàn thể bức tranh về tình yêu
và lòng nhân từ khoan dung của Đức Chúa Trời để nhận thức được rằng
chẳng hề có ai bị nằm ngoài kế hoạch cứu chuộc cả. Phúc âm được dành cho
tất cả những ai chịu ăn năn và tin. Hãy bắt đầu cầu nguyện cho những người
dường như đang xa cách nhất với Nước Trời, để tìm cách nói cho họ biết về
Đức Chúa Trời. Hãy học tập câu chuyện về nhà tiên tri “bất đắc dĩ” này và
quyết định vâng lời Đức Chúa Trời, làm bất kỳ việc gì Ngài yêu cầu, và đi
bất cứ nơi nào Ngài chỉ dẫn cho chúng ta.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để vạch rõ tầm hạn rộng lớn của ân điển Đức Chúa Trời - rằng
bức thông điệp cứu rỗi của Ngài là dành cho tất cả mọi người.
Trước giả: Giô-na, con trai A-mi-tai.
Đọc giả: Cho dân Y-sơ-ra-ên và những người thuộc về Đức Chúa Trời khắp
nơi.
Niên đại viết sách: Trước năm 785 -760 TC.
Bối cảnh: Giô-na phục vụ trước A-mốt và dưới thời trị vì của Giê-rô-bô-am
II, nhà vua hùng cường nhất của Y-sơ-ra-ên (793 - 753 TC; xem IIVua
14:23-25). A-sy-ri là kẻ thù quan trọng nhất của Y-sơ-ra-ên, và Y-sơ-ra-ên
đã bị họ chinh phục năm 722 TC. Sự ăn năn của Ni-ni-ve có lẽ chỉ xảy ra
trong một thời gian ngắn, vì nó đã bị huỷ diệt năm 612 TC.
Câu chìa khoá: “Còn ta, há không đoái tiếc thành lớn Ni-ni-ve, trong đó có
hơn mười hai vạn người không biết phân biệt tay hữu và tay tả, lại với một
số rất nhiều thú vật hay sao” (Gion Gn 4:11)
Các nhân vật chính: Giô-na, viên thuyền trưởng, và thủy thủ đoàn.
Những nét đặc trưng: Quyển sách này khác với các sách tiên tri khác, vì nó
kể lại câu chuyện của nhà tiên tri mà không chú trọng vào các lời tiên tri.
Thật vậy, chỉ có một câu tóm tắt bức thông điệp của ông cho dân chúng
thành phố Ni-ni-ve (3:4). Sách Giô-na là một trần thuật lịch sử. Nó đã được
Chúa Giê-xu đề cập như một bức tranh về sự chết và sống của Ngài (Math
12:38-42).
Bố cục:
1. Giô-na làm ngơ đối với sứ mạng được giao (1:1-2:10)
2. Giô-na hoàn thành sứ mạng được giao (3:1-4:11)
Giô-na là một nhà tiên tri “bất đắc dĩ”, được giao cho một sứ mạng mà ông
nhận thấy chẳng mấy thích thú. Ông đã chọn thà chạy trốn Đức Chúa Trời
còn hơn phải miễn cưỡng vâng lời Ngài. Cũng như Giô-na, có lẽ chúng ta
cũng phải làm nhiều việc mà mình không muốn làm trong đời sống. Nhiều
khi chúng ta cũng cảm thấy mình muốn quay lưng lại và chạy trốn. Nhưng
thà vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là thách thức Ngài hay chạy trốn.
Thường thường mặc dù chúng ta có thách thức Ngài, Đức Chúa Trời vẫn lấy
lòng nhân từ khoan dung dành cho chúng ta một cơ may khác để phục vụ
Ngài khi chúng ta chịu trở lại với Ngài.
Các đại đề mục:
Luận đề: Quyền tể trị của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Tuy nhà tiên tri Giô-na tìm cách chạy trốn Đức Chúa Trời,
Ngài vẫn nắm quyền kiểm soát cơn bão biển và một con cá lớn, Đức Chúa
Trời đã bày tỏ quyền hướng dẫn tuyệt đối trong tình yêu thương của Ngài
Tầm quan trọng: Thay vì chạy trốn Ngài, hãy phó thác cho Đức Chúa Trời
cả quá khứ, hiện tại, và tương lai của bạn. Nói không với Đức Chúa Trời sẽ
nhanh chóng dẫn đến tai họa. Nói vâng với Ngài sẽ giúp chúng ta nhận biết
Đức Chúa Trời cách mới mẻ và hiểu được mục đích của Ngài cho thế giới
này.
Luận đề: Bức thông điệp của Đức Chúa Trời cho cả thế gian
Lời giải thích: Đức Chúa Trời đã có một chủ đích cho Giô-na: ông phải
truyền giảng cho thành phố lớn Ni-ni-ve của A-sy-ri. Giô-na thù ghét Ni-ni-
ve , cho nên ông đã đáp ứng bằng thái độ giận dữ và dửng dưng. Do đó ông
đã phải học tập để biết được rằng Đức Chúa Trời yêu thương tất cả mọi
người. Qua Giô-na, Đức Chúa Trời nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên về chủ đích
truyền giáo của họ
Tầm quan trọng: Chúng ta không nên chỉ tập trung chú ý quá hạn chế vào
chính dân tộc mình mà thôi. Đức Chúa Trời muốn người thuộc về Ngài phải
truyền giảng tình yêu của Ngài bằng cả lời nói lẫn việc làm cho cả thế gian.
Ngài muốn chúng ta làm giáo sĩ cho Ngài tại bất cứ nơi nào chúng ta sinh
sống, bất kỳ nơi nào Ngài đưa chúng ta đến.
Luận đề: Sự ăn năn
Lời giải thích: Khi nhà truyền đạo của chúng ta miễn cưỡng đến Ni-ni-ve, đã
có nhiều người đáp ứng. Dân chúng ăn năn và quay lại với Đức Chúa Trời.
Đây là một lời quở trách nặng nề đối với dân Y-sơ-ra-ên, vì họ vẫn tưởng
mình tốt hơn, nhưng lại khước từ bức thông điệp của Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời sẵn sàng tha thứ cho tất cả những ai chịu xây khỏi tội lỗi.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời không đề cao sự xấu hổ hoặc khoe khoang.
Ngài muốn mỗi người phải chân thành tận hiến. Chỉ được dự phần các đặc
quyền của Cơ-đốc giáo mà thôi thì chưa đủ; chúng ta còn phải xin Ngài tha
thứ và cất đi mọi tội lỗi của chúng ta nữa. Từ chối ăn năn thì chẳng khác gì
yêu mến tội lỗi mình
Luận đề: Lòng thương xót của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Bức thông điệp yêu thương và tha thứ của Đức Chúa Trời
không phải chỉ dành cho dân Do-thái mà thôi. Đức Chúa Trời yêu tất cả mọi
người trên thế gian này. Người A-sy-ri quả không xứng đáng được đối xử
như thế, nhưng Đức ChúaTrời vẫn tha thứ cho họ nếu họ chịu ăn năn. Do
lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời, Ngài không từ bỏ Giô-na vì
ông đã bỏ qua sứ mạng của mình. Đức Chúa Trời có tình yêu, sự nhẫn nại và
sự tha thứ lớn lao.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời yêu tất cả chúng ta. Cả khi chúng ta bất
trung với Ngài. Nhưng Ngài cũng yêu những người khác nữa, kể cả những
người không thuộc nhóm thiểu số, giai cấp xã hội, chủng tộc, hoặc hệ phái
của chúng ta. Một khi đã tiếp nhận tình yêu của Ngài, chúng ta cũng phải
học tập để tiếp nhận tất cả những người được Ngài yêu mến. Khi yêu thương
Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thấy dễ dàng yêu thương người khác hơn.

Dẫn nhập Mi-chê


Các niên đại
Ô-sê trở thành nhà tiên tri, năm 753 TC.
Giô-tham làm vua Giu-đa năm 750 TC.
Tiếc-la Phi-lê-se III xâm lăng Y-sơ-ra-ên năm 743 TC.
Mi-chê trở thành nhà tiên tri; Phê-ca-lia lên ngôi, năm 742 TC.
Ê-sai trở thành nhà tiên tri, năm 740 TC.
A-cha lên ngôi vua Giu-đa năm 735 TC.
Y-sơ-ra-ên (vương quốc miền Bắc) sụp đổ, năm 722 TC.
Chức vụ của Ô-sê chấm dứt, Ê-xê-chia làm vua Giu-đa 715 TC.
San-chê-ríp vây Giê-ru-sa-lem năm 701 TC.
Chức vụ của Ô-sê kết thúc, năm 687 TC.
Lời giới thiệu
“Tao ghét mày” cô bé gào lên, và chạy ra khỏi phòng. Đó là lời lẽ của một
đứa bé, thốt ra do bị xúc động mạnh. Có lẽ em đã học nó từ cha hay mẹ em,
hoặc có lẽ nó chỉ vọt ra từ phần nội tâm vẫn được gọi là “bản tính tội lỗi”.
Cho dù là trường hợp nào thì yêu và ghét cũng đã trở thành những lời lẽ phổ
cập trong xã hội, hầu như là những sáo ngữ đã cũ mòn, được tung ra một
cách vô tâm hướng về hoàn cảnh, và cả con người nữa.
Cách dùng ngẫu nhiên những từ ngữ như “yêu” và “ghét” đã làm mất hết ý
nghĩa đích thực của chúng. Chúng ta không còn hiểu đúng những câu mô tả
một Đức Chúa Trời yêu thương nhưng lại ghen ghét tội lỗi. Cho nên chúng
ta đã hình dung ra Đức Chúa Trời là một Đấng hiền lành và tử tế - một nhân
vật “dễ dãi” thuộc cấp bậc vũ trụ; và ý niệm của chúng ta về những gì bị
Ngài ghét chịu ảnh hưởng của các quan niệm và tư tưởng đầy thiện ý của
chúng ta.
Lời lẽ của các nhà tiên tri đều tương phản rõ rệt với những quan niệm như
thế. Lòng thù ghét của Đức Chúa Trời vốn có thật; nó cháy bỏng, thiêu hủy
và tiêu diệt. Ngài ghét tội lỗi, và Ngài đứng lên như một vị thẩm phán công
minh, sẵn sàng dành những hình phạt thật công bằng cho tất cả những ai
dám thách thức quyền cai trị của Ngài. Nhưng tình yêu của Đức Chúa Trời
cũng thực hữu nữa. Nó có thật đến độ Ngài đã sai Con Ngài, là Đấng Mê-si-
a tức Chúa Cứu Thế đến để cứu rỗi và nhận lấy sự đoán phạt thay cho tội
nhân. Yêu và ghét vốn đi đôi với nhau - cả hai đều bất diệt, bất khả kháng và
vô bờ bến.
Trong bảy chương sách ngắn ngủi, Mi-chê trình bày bức tranh trung thực
này về Đức Chúa Trời - Đấng Chúa Tể toàn năng, ghét tội lỗi nhưng yêu tội
nhân. Phần lớn quyển sách được dành để mô tả sự phán xét của Đức Chúa
Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên (vương quốc miền Bắc), đối với dân Giu-đa
(vương quốc miền nam), và đối với cả thế gian. Sự phán xét này sẽ đến “vì
cớ sự phạm pháp của Gia-cốp, và vì cớ tội lỗi của nhà Y-sơ-ra-ên” (1:5) .
Rồi nhà tiên tri liệt kê các tội đáng khinh bỉ của họ, kể cả gian lận (2:2) ,
trộm cướp (2:8) , tham lam (2:9) , gian dối (2:11) , áp bức (3:3) , đạo đức giả
(3:4) , bội đạo (3:5) , bất công bất chính (3:9), bóc lột và nói dối (6:12) , sát
nhân (7:2) và nhiều tội phạm khác nữa. Cho nên sự phán xét của Đức Chúa
Trời sẽ đến.
Giữa lời tiên báo hủy diệt tràn ngập đó, Mi-chê đưa ra một tia hi vọng và an
ủi vì ông cũng mô tả cả tình yêu của Đức Chúa Trời nữa. Sự thật là sự phán
xét chỉ đến sau vô số cơ hội có thể ăn năn, để quay trở lại với sự thờ phượng
và vâng lời thật - “làm sự công bình, ưa sự nhơn từ và bước đi cách khiêm
nhường với Đức Chúa Trời ngươi” (6:8) . Nhưng ngay giữa sự phán xét,
Đức Chúa Trời vẫn hứa giải cứu cho một thiểu số đã tiếp tục bước theo
Ngài. Ngài vạch rõ: “Vua chúng nó đi qua trước mặt chúng nó, và Đức Giê-
hô-va đi đầu chúng nó” (2:13) . Lẽ dĩ nhiên, nhà vua ở đây chính là Chúa
Giê-xu; và chúng ta đọc thấy trong 5:2) là Ngài sẽ ra đời như một hài nhi tại
Bết-lê-hem, một ngôi làng xa xôi hẻo lánh của xứ Giu-đê.
Trong khi bạn đọc sách Mi-chê, hãy nhìn vào cơn thịnh nộ của Đức Chúa
Trời được biến thành hành động khi Ngài phán xét và trừng phạt tội lỗi.
Cũng hãy nhìn vào tình yêu của Đức Chúa Trời biến thành hành động khi
Ngài đề nghị ban sự sống vĩnh hằng cho toàn thể những ai chịu ăn năn và tin
Ngài. Rồi hãy quyết định gia nhập đám người tận trung còn sót lại của dân
sự Đức Chúa Trời đang sống theo đúng ý chỉ của Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để cảnh cáo dân sự của Đức Chúa Trời rằng sự phán xét đã gần
đến, và Ngài đang đề nghị tha thứ cho tất cả những người chịu ăn năn.
Trước giả: Mi-chê, một nhân vật quê quán ở Mô-rê-sết, gần Gát, khoảng 20
dặm về phía Tây Nam Giê-ru-sa-lem.
Đọc giả: Cho dân Y-sơ-ra-ên (vương quốc miền Bắc) và dân Giu-đa (vương
quốc miền Nam).
Niên đại viết sách: Có lẽ dưới thời trị vì của các vua Giô-tham, A-cha, và Ê-
xê-chia ( 742 - 687 TC).
Bối cảnh: Tình hình chính trị được mô tả trong IIVua 2V 15:1-20:11 và IISu
2Sb 26:1-30:27.Mi-chê sống đồng thời với Ê-sai và Ô-sê.
Câu chìa khoá: “Hỡi người! Ngài đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; cái điều
mà Đức Giê-hô-va đòi ngươi há chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhơn
từ và bước đi cách khiêm nhường vói Đức Chúa Trời ngươi sao?” (6:8)
Các nhân vật chính: Dân chúng hai thành phố Sa-ma-ri và Giê-ru-sa-lem
Các điạ danh chính: Sa-ma-ri, Giê-ru-sa-lem, Bết-lê-hem.
Những nét đặc trưng: Đây là một thí dụ đẹp đẽ của thi ca cổ điển Hy-bá-lai.
Sách gồm ba phần, mỗi phần đều bắt đầu bằng “Hãy nghe” (1:2;3:1; 6:1) và
kết thúc bằng một lời hứa.
Bố cục:
1. Sự thử thách đối với hai thủ đô (1:1-2:13)
2. Sự thử thách đối với các cấp lãnh đạo (3:1-5:15)
3. Sự thử thách đối với dân sự (6:1-7:20) .
Mi-chê nhấn mạnh trên sự cần thiết của công lý và hoà bình. Như một luật
gia, ông trình bày vụ kiện của Đức Chúa Trời chống lại Y-sơ-ra-ên và Giu-
đa, các cấp lãnh đạo và dân của hai nước ấy. Xuyên suốt quyển sách là nhiều
lời tiên tri về Chúa Giê-xu, tức là Đấng Mê-si-a, sẽ tập họp dân sự lại thành
một quốc gia thống nhất. Ngài sẽ làm vua và là người cai trị họ, hành động
nhân từ khoan dung đối với họ. Mi-chê vạch rõ rằng Đức Chúa Trời ghét
thói bất nhân, việc thờ thần tượng, và các lễ nghi rỗng tuếch - và ngày nay,
Ngài cũng ghét những điều đó. Nhưng Đức Chúa Trời rất sẵn lòng tha tội
cho bất cứ ai ăn năn.
Các đại đề mục
Luận đề: Đức tin lệch lạc
Lời giải thích: Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt các tiên tri giả, các cấp lãnh đạo
bất lương và các thầy tế lễ ích kỷ trong xứ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Trong khi
họ vẫn công khai thực hiện các nghi lễ tôn giáo, họ lại tìm cách thu thập tiền
bạc và thế lực riêng tư. Pha lẫn các động cơ thúc đẩy vị kỷ với một cách phô
trương tôn giáo rỗng tuếch, là làm lệch lạc đức tin.
Tầm quan trọng: Đừng tìm cách pha lẫn các ham muốn ích kỷ của bạn với
đức tin thật đặt vào Đức Chúa Trời. Có ngày Đức Chúa Trời sẽ phanh phui
cho thấy thay thế bất cứ điều gì cho lòng trung thành với Ngài là dại dột như
thế nào. Pha lẫn tư lợi với tôn giáo sẽ khiến cho đức tin của bạn bị lệch lạc.
Luận đề: Ap bức
Lời giải thích: Mi-chê tiên báo sự tàn hại cho tất cả các dân tộc và các cấp
lãnh đạo nào đang áp bức kẻ khác. Giai cấp thượng lưu áp bức và bóc lột
người nghèo. Thế nhưng đã chẳng có ai nói gì chống lại họ cả để ngăn chận
họ lại. Đức Chúa Trời sẽ không bỏ qua sự bất công đó.
Tầm quan trọng: Chúng ta không thể cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ mình
trong khi chúng ta lại chẳng đếm xỉa gì đến những người đang thiếu thốn và
bị áp bức, hoặc trong khi chúng ta bỏ qua hành động của những kẻ áp bức
họ.
Luận đề: Đấng Mê-si-a - Nhà Vua hoà bình
Lời giải thích: Đức Chúa Trời hứa ban một nhà vua mới để đem sự hùng
cường và hoà bình đến cho dân Ngài. Từ nhiều trăm năm trước ngày Chúa
Cứu Thế ra đời, Đức Chúa Trời đã hứa rằng nhà vua đời đời đó sẽ được sinh
ra tại Bết-lê-hem. Đó chính là kế hoạch lớn của Đức Chúa Trời để nhờ Đấng
Mê-si-a phục hồi địa vị cho dân Ngài.
Tầm quan trọng: Chúa Cứu Thế là vua của chúng ta đang dẫn dắt chúng ta
đúng y như Đức Chúa Trời đã hứa. Nhưng trước ngày phán xét cuối cùng,
sự lãnh đạo của Ngài chỉ được những người tán thành uy quyền của Ngài
thấy được mà thôi. Chúng ta có thể được sự bình an của Đức Chúa Trời
ngay bây giờ nhờ từ bỏ tội lỗi mình và hoan nghênh Ngài làm vua.
Luận đề: Làm đẹp lòng Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Mi-chê truyền giảng rằng ước muốn quan trọng nhất của Đức
Chúa Trời không phải là việc người ta dâng nhiều của lễ tại đền thờ. Đức
Chúa Trời thích những người có đức tin để làm điều công bằng, yêu thương
tha nhân và vâng lời Ngài.
Tầm quan trọng: Đức tin thật vào Đức Chúa Trời làm nảy sinh lòng nhân ái,
thương xót, sự công bằng và thái độ khiêm hạ. Chúng ta có thể làm đẹp lòng
Đức Chúa Trời bằng cách tìm cầu những điều đó trong công tác, gia đình
Hội thánh và hàng xóm của chúng ta.
Dẫn nhập Na-hum
Các niên đại
Ma-na-se làm vua Giu-đa năm 697 TC.
Ashurbanipal làm vua A-sy-ri năm 669 Tc.
Thê-bết thất thủ, Na-hum trở thành nhà tiên tri, năm 663 TC.
Giô-si-a làm vua Giu-đa, Sô-phô-ni trở thành nhà tiên tri năm 640 TC.
Giê-rê-mi trở thành nhà tiên tri, năm 627 TC.
Ni-ni-ve sụp đổ, năm 612 TC.
A-sy-ri bị chinh phục hoàn toàn, năm 609 TC.
Người Ba-by-lôn với trận đánh Cạt-kê-mít năm 605 TC.
Giu-đa sa vào tay Ba-by-lôn năm 586 TC.
Lời giới thiệu
Tiếng còi ré lên xé không khí, và mọi hoạt động trên sân bóng đều đột ngột
dừng lại. Chỉ vào vận động viên phạm lỗi, viên trọng tài thét lên “Lỗi!”.
Luật lệ, lỗi lầm và những quả phạt là một phần của bất cứ trò chơi thể thao
nào, và chúng được các trọng tài, thẩm phán và nhiều quan chức khác nữa
điều chỉnh và áp dụng chặt chẽ. Tất cả những người tham dự đều biết rằng
các ranh giới phải được xác lập, cách chơi phải được điều khiển, bằng
không, cuộc thi tài sẽ thoái hoá để chỉ còn là một cảnh hỗn loạn.
Trong thế gian này cũng có các quy luật nũa, tức là các ranh giới và quy luật
cho cách sống, được Đức Chúa Trời xác lập. Nhưng loài người - cả nam lẫn
nữ - vẫn thường xuyên vi phạm các quy tắc ấy bằng cách che giấu các lỗi
lầm của họ hoặc phóng đại các vi phạm của người khác và tuyên bố rằng
mọi sự cần phải được thực hiện cho phải phép. Đức Chúa Trời gọi đó là tội -
tức là việc cố ý không tuân thủ, chống lại quyền cai trị kiểm soát của Ngài
hoặc lạnh nhạt dửng dưng. Và thỉnh thoảng mọi sự việc có vẻ như những kẻ
vi phạm lại thành công - chẳng có tiếng còi thổi, chẳng có lời tuyên bố vi
phạm nào cả, và những cá nhân độc tài độc đoán lại cầm quyền cai trị. Tuy
nhiên, sự thật là cuối cùng thì rồi công lý cũng sẽ được phục vụ trong thế
gian. Đức Chúa Trời sẽ sắp xếp mọi kết toán.
A-sy-ri là cường quốc hùng mạnh nhất trên đất này. Kiêu ngạo, tự thị tự mãn
về lực lượng quân sự của mình, nó đã cướp phá đàn áp, tàn sát các nạn nhân
của mình. Mới một trăm năm trước đây, Giô-na đã truyên giảng trên các
đường phố của đô thị lớn Ni-ni-ve; dân chúng đã được nghe bức thông điệp
của Đức Chúa Trời và đã xây bỏ tội lỗi. Nhưng chỉ một thế hệ sau đó - điều
ác lại ngự trị, và nhà tiên tri Na-hum đã phải công bố sự phán xét đối với
dân tộc xấu xa gian ác ấy. Ni-ni-ve được gọi là một “thành đổ máu” (NaNk
3:1), một thành phố hung ác (NaNk 3:19), còn dân A-sy-ri thì bị phán xét vì
thói tự phụ tự mãn (NaNk 1:1), thờ thần tượng (NaNk 1:14), giết người, nói
dối, gian lận, và bất công xã hội (NaNk 3:1-19). Do tội lỗi của họ, Na-hum
đã tiên báo rằng dân tộc hùng cường và kiêu ngạo đó sẽ bị hoàn toàn tiêu
diệt. Và kết thúc đã đến trong vòng 50 năm.
Trong việc phán xét A-sy-ri và thành phố thủ đô của nó là Ni-ni-ve này, Đức
Chúa Trời cũng phán xét cả một thế gian tội lỗi. Và bức thông điệp thì thật
là rõ ràng - sự không vâng lời, phản loạn, và bất công sẽ không thể nào
thắng được, mà sẽ bị một Đức Chúa Trời công chính và thánh khiết đang cai
trị trên cả đất này, trừng phạt nghiêm khắc.
Trong khi đọc sách Na-hum, hãy nhận thức cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời
trong khi Ngài báo thù tội lỗi và đưa công lý đến. Sau đó bạn hãy quyết định
sống dưới sự chỉ dẫn của Ngài và trong các luật lệ, lệnh truyền, và hướng
dẫn của Ngài cho đời sống.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để công bố sự phán xét của Đức Chúa Trời trên A-sy-ri và để an
ủi Giu-đa với chân lý này.
Trước giả: Na-hum
Đọc giả: Cho dân chúng Ni-ni-ve và Giu-đa.
Niên đại viết sách: Đâu đó trong giai đoạn thi hành chức vụ tiên tri của Na-
hum (có lẽ giữa những năm 663 và 612 TC)
Bối cảnh: Lời tiên tri riêng biệt này được công bố sau khi Thê-lết thất thủ
năm 663 TC (NaNk 3:8-10).
Câu chìa khoá: “Đức Giê-hô-va là tốt lành, làm đồn lũy trong ngày hoạn
nạn, và biết những kẻ ẩn náu nơi Ngài. Ngài dùng nước lụt hủy diệt chỗ nó,
và đuổi kẻ thù nghịch mình vào sự tối tăm. Các ngươi sẽ lập mưu gì nghịch
cùng Đức Giê-hô-va? Ngài sẽ diệt hết cả sẽ chẳng có tai nạn dậy lên lần thứ
hai” (NaNk 1:7-9).
Địa điểm chính: Ni-ni-ve
Bố cục:
1. Ni-ni-ve bị phán xét (NaNk 1:1-15)
2. Ni-ni-ve bị đoán phạt (NaNk 2:1-3:19)
Ni-ni-ve thủ đô của đế quốc A-sy-ri, là đề tài cho lời tiên tri của Na-hum.
Tin tức về việc nó sắp bị tiêu diệt là một lời an ủi cho Giu-đa, vốn đang bị
A-sy-ri đô hộ. Giu-đa sẽ không còn bị bắt buộc phải cống nộp để bảo đảm là
mình sẽ không bị tấn công nữa. Giu-đa được an ủi khi biết rằng Đức Chúa
Trời vẫn còn nắm quyền kiểm soát. Ni-ni-ve là một tấm gương cho tất cả các
nhà cầm quyền và các dân các nước trên thế giới hiện nay. Đức Chúa Trời
cầm quyền tể trị trên tất cả, kể cả những kẻ trông có vẻ như bất khả chiến
bại. Chúng ta có thể tin quyết rằng quyền năng và công lý của Đức Chúa
Trời có ngày sẽ chinh phục mọi xấu xa gian ác.
Các đại đề mục:
Luận đề: Đức Chúa Trời phán xét
Lời giải thích: Đức Chúa Trời sẽ phán xét thành phố Ni-ni-ve vì các tội thờ
thần tượng, tự phụ tự mãn và áp bức bóc lột của nó. Tuy A-sy-ri là một thế
lực quân sự hàng đầu thế giới, Đức Chúa Trời sẽ hoàn toàn tiêu diệt dân tộc
“bất khả chiến bại” này. Đức Chúa Trời không cho phép một người nào hay
thế lực nào tiếm quyền hay chế nhạo uy quyền của Ngài.
Tầm quan trọng: Bất cứ ai cứ giữ thái độ tự phụ tự mãn và chống lại uy
quyền của Đức Chúa Trời đều sẽ phải trực diện với cơn thịnh nộ của Ngài.
Chẳng hề có một nhà cầm quyền hay dân tộc nào có thể thoát được bằng
cách chối bỏ Ngài. Chẳng hề có môt cách nào trốn tránh được sự phán xét
của Ngài. Còn những ai giữ lòng tin cậy Đức Chúa Trời sẽ được bảo vệ an
toàn mãi mãi.
Luận đề: Đức Chúa Trời cai trị
Lời giải thích: Đức Chúa Trời cai trị trên cả đất này, kể cả trên những kẻ
không nhìn nhận Ngài. Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, nên chẳng có ai
phá hỏng được các kế hoạch của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng bất cứ
kẻ nào thách đố Ngài. Quyền năng của loài người chống lại Đức Chúa Trời
chỉ là phí công vô ích.
Tầm quan trọng: Nếu bạn có lo âu sợ hãi những loại vũ khí, đạo quân hay
con người có thế lực nào, khá nhớ rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có
thể thật sự cứu vớt bạn khỏi sự lo sợ hoặc áp bức. Chúng ta phải đặt lòng tin
vào Đức Chúa Trời vì chỉ một mình Ngài mới là Đấng cai trị mọi sự trong
lịch sử, trên đất này và đời sống chúng ta.

Dẫn nhập Ha-ba-cúc


Các niên đại
Giê-rê-mi trở thành nhà tiên tri năm 627 TC
Ha-ba-cúc trở thành nhà tiên tri năm 612 TC
Vua Giô-si-a tử trận, năm 609 TC
Đa-ni-ên bị bắt đi đày sang Ba-by-lôn năm 605 TC
Ê-xê-chi-ên bị đày sang Ba-by-lôn, Sê-đê-kia lên ngôi năm 597 TC.
Chức vụ của Ha-ba-cúc kết thúc, năm 588 TC
Giu-đa thất thủ, Giê-ru-sa-lem bị phá hủy năm 586 TC.
Lời giới thiệu
Từ những tìm tòi ngây thơ của trẻ con, cho đến những cuộc tranh luận phức
tạp trong trường đại học, cuộc đời vốn đã đầy dẫy những thắc mắc được đặt
thành vấn đề. Đặt các câu hỏi thế nào, tại sao và khi nào, là chúng ta muốn
thăm dò bên dưới lớp mặt để tìm những câu trả lời thoả đáng. Nhưng không
phải tất cả các câu hỏi đều có lời đáp đã được gói ghém và buộc chặt gọn
gàng. Những nghi vấn chưa giải đáp đó tạo ra càng nhiều thắc mắc dai dẳng,
nhiều nghi ngờ phá hoại tinh thần hơn nữa. Một số người đã chọn cứ sống
với những mối hoài nghi của họ, chẳng đếm xỉa gì đến chúng, và cứ lao vào
cuộc sống. Nhiều người khác lại trở thành cay cú và cứng cỏi. Nhưng có
nhiều người từ chối cách chọn lựa đó, cứ tiếp tục thắc mắc tra hỏi, mong tìm
những câu trả lời thỏa đáng cho tâm linh.
Ha-ba-cúc là một người đi tìm những lời giải đáp. Thắc mắc trước những gì
mình thấy, ông đã đặt ra nhiều câu hỏi khó. Các câu hỏi này không phải chỉ
là những bài tập rèn luyện trí tuệ hay những lời phàn nàn cay đắng. Ha-ba-
cúc đã thấy môt thế giới đang hấp hối khiến lòng ông như bị vỡ tan. Tại sao
lại có điều ác trong thế gian này? Tại sao kẻ ác dường như vẫn chiến thắng?
Ông đã mạnh dạn và tin tưởng dâng trực tiếp những lời phàn nàn của mình
cho Đức Chúa Trời. Và Ngài đã giải đáp... bằng một loạt chứng cứ và lời
tiên báo tràn ngập như một trận tuyết lở vậy.
Các thắc mắc của nhà tiên tri và lời giải đáp của Đức Chúa Trời đã được ghi
lại trong sách này. Khi lật qua các trang sách, chúng ta lập tức trực diện với
những tiếng kêu gào cấp bách của ông: “Hỡi Đức Giê-hô-va! Tôi kêu van
mà Ngài không nghe tôi cho đến chừng nào? Tôi vì cớ sự bạo ngược kêu van
cùng Ngài, mà Ngài chẳng khứng giải cứu tôi!” (HaKb 1:2). Thật vậy, phần
lớn của chương sách đầu tiên đã được dành cho các câu hỏi của ông. Khi
chương thứ hai bắt đầu, Ha-ba-cúc tuyên bố ông sẽ chờ để được nghe Đức
Chúa Trời trả lời cho những than phiền của ông. Và rồi Đức Chúa Trời bắt
đầu lên tiếng, bảo nhà tiên tri hãy viết lại lời giải đáp của Ngài thật rõ ràng
để mọi người đều sẽ thấy và hiểu. Đức Chúa Trời phán sự việc có vẻ như kẻ
ác vẫn thắng, nhưng cuối cùng rồi chúng sẽ bị phán xét, và sự công chính sẽ
thắng hơn. Có lẽ sự phán xét sẽ không đến nhanh chóng, nhưng rồi nó chắc
chắn sẽ đến. Lời giải đáp của Đức Chúa Trời đã được ghi đầy cả chương thứ
hai. Và Ha-ba-cúc đã kết thúc quyển sách của ông bằng một bài cầu nguyện
khải hoàn. Với những thắc mắc đã đươc giải đáp và một sự thông hiểu mới
mẻ về quyền năng và tình yêu của Đức Chúa Trời, Ha-ba-cúc vui mừng về
Đức Chúa Trời là ai, và những gì Ngài sẽ làm “Dầu vậy, tôi sẽ vui mừng
trong Đức Giê-hô-va, tôi sẽ hớn hở trong Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi tôi,
Đức Giê-hô-va là Chúa, là sức mạnh của tôi, Ngài làm cho chơn tôi giống
như chơn con hươu, khiến tôi đi trên các nơi cao của mình” ( HaKb 3: 18,
19)
Hãy lắng nghe những câu hỏi sâu sắc mà Ha-ba-cúc đã mạnh dạn dâng lên
cho Đức Chúa Trời để nhận thức được rằng chính bạn cũng có thể dâng
những lời phàn nàn và thắc mắc của mình lên cho Ngài nữa. Hãy lắng nghe
những lời giải đáp của Đức Chúa Trời và vui mừng về công tác của Ngài
trên thế gian và trong đời sống của bạn.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để minh chứng Đức Chúa Trời vẫn còn cầm quyền cai trị kiểm
soát thế gian này bất chấp việc dường như điều ác đang thắng thế.
Trước giả: Ha-ba-cúc
Đọc giả: Cho xứ Giu-đa (vương quốc miền Nam) và những người thuộc về
Đức Chúa Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Giữa các năm 612 và 588 TC.
Bối cảnh: Ba-by-lôn đã trở thành cường quốc áp đảo cả thế giới và chẳng
bao lâu nữa, Giu-đa sẽ nhận thấy lực lượng hủy diệt của Ba-by-lôn.
Câu chìa khoá: “Hỡi Đức Giê-hô-va tôi đã nghe danh tiếng Ngài thì tôi sợ
hãi. Hỡi Đức Giê-hô-va! Xin Ngài lại khiến công việc Ngài dấy lên giữa các
năm, tỏ ra cho biết giữa các năm; khi Ngài đương giận, xin hãy nhớ lại sự
thương xót” ( HaKb 3: 2)
Các nhân vật chính: Ha-ba-cúc, người Ba-by-lôn.
Địa điểm chính: Xứ Giu-đa
Bố cục:
1. Lời phàn nàn của Ha-ba-cúc (HaKb 1:1-2:20)
2. Lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc ( HaKb 3: 1-19)
Khi Ha-ba-cúc có thắc mắc ông đã trực tiếp trình các mối bận tâm của ông
lên cho Đức Chúa Trời. Sau khi nhận được lời đáp của Ngài, ông đã đáp lại
bằng một bài cầu nguyện bởi đức tin. Gương của Ha-ba-cúc đáng là một
khích lệ để chúng ta phấn đấu đi từ chỗ nghi ngờ đạt đến đức tin. Chúng ta
chẳng cần chi phải sợ đặt câu hỏi với Đức Chúa Trời. Vấn đề vốn không
phải là Đức Chúa Trời hay các đường lối của Ngài, nhưng là sự hiểu biết
hạn chế của chúng ta về Ngài.
Các đại đề mục
Luận đề: Phấn đấu với nghi ngờ
Lời giải thích: Ha-ba-cúc đã hỏi Đức Chúa Trời tại sao những kẻ gian ác
trong xứ Giu-đa lại không bị trừng phạt vì tội lỗi của họ. Ông đã không hiểu
tại sao một Đức Chúa Trời công bằng lại để cho điều gian ác như thế cứ tồn
tại. Đức Chúa Trời sử dụng người Ba-by-lôn để trừng phạt xứ Giu-đa. Lúc
Ha-ba-cúc kêu gào xin Đức Chúa Trời trả lời trong thì giờ phấn đấu của ông.
Ngài đã đáp lại ông bằng những lời lẽ đầy hi vọng.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời muốn chúng ta đến gần Ngài với những
trăn trở nghi ngờ của chúng ta. Nhưng câu trả lời của Ngài có thể không phải
là lời đáp mà chúng ta trông đợi. Đức Chúa Trời nâng đỡ chúng ta bằng cách
tự tỏ mình ra cho chúng ta. Tin cậy Ngài dẫn tới hi vọng trấn an chúng ta,
chứ không phải là sự phản kháng cay đắng.
Luận đề: Quyền tể trị của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Ha-ba-cúc đã chất vấn Đức Chúa Trời tại sao Ngài lại dùng
người Ba-by-lôn gian ác để trừng phạt dân sự Ngài. Đức Chúa Trời dạy rằng
rồi đây Ngài cũng sẽ trừng phạt người Ba-by-lôn sau khi họ đã hoàn thành
chủ đích của Ngài.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời vẫn cầm quyền cai trị kiểm soát thế gian
này bất chấp việc kẻ ác dường như đang chiến thắng. Đức Chúa Trời không
bỏ qua tội lỗi đâu. Sẽ đến ngày Ngài cai trị cả đất này bằng công lý trọn vẹn.
Luận đề: Hi vọng
Lời giải thích: Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá, Ngài có toàn quyền. Ngài
có kế hoạch riêng và sẽ hoàn tất nó. Ngài sẽ trừng phạt tội lỗi. Ngài là sức
mạnh và là nơi trú ẩn an toàn cho chúng ta. Chúng ta có thể tin quyết rằng
Ngài Ngài sẽ yêu thương và gìn giữ mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài mãi
mãi.
Tầm quan trọng: Hi vọng có nghĩa là vượt trên các từng trải hằng ngày
chẳng mấy thích thú của chúng ta, để có được niềm vui vì được biết Đức
Chúa Trời. Chúng ta sống bằng cách tin cậy Ngài chứ không phải bằng lợi
lộc, hạnh phúc hay thành công có thể có được trong đời này. Nhờ Đức Chúa
Trời mà chúng ta có hi vọng.

Dẫn nhập Sô-phô-ni


Các niên đại
Sô-phô-ni trở thành nhà tiên tri; Giô-si-a làm vua Giu-đa năm 640 TC
Giê-rê-mi trở thành nhà tiên tri năm 627 TC
Sách Luật pháp được tìm thấy trong đền thờ năm 622 TC
Chức vụ của Sô-phô-ni kết thúc, năm 612 TC
Giô-si-a tử trận năm 609 TC
Các tù binh đầu tiên bì đày sang Ba-by-lôn, năm 605 TC.
Ba-by-lôn tấn công xứ Giu-đa lần thứ hai năm 597 TC
Giu-đa (vương quốc miền Nam) sụp đổ 586 TC.
Lời giới thiệu
Nỗi buồn khổ tràn ngập, sự lo âu dai dẳng, bị lạm dụng không ngừng, bị
bách hại liên tục, và sự trừng phạt gần kề đưa người ta đến chỗ chán nản,
tuyệt vọng. “Phải chi”, chúng ta kêu lên như thế khi kiểm điểm lại tâm trí để
tìm một lối thoát và nhìn lên trời để trông mong sự cứu vớt. Bằng một tia hi
vọng mong manh mà thôi, chúng ta phải can đảm lên và bắt tay vào việc, sẵn
sàng chịu đựng cho đến cuối cùng.
Hi vọng là tia nắng bạc của mặt trời xuyên thẳng bầu trời tối tăm đầy giông
bão, là những lời an ủi trong cơn nguy khốn ngặt nghèo, là một bức thư vượt
qua một vùng biển, là con chim đầu tiên báo hiệu mùa xuân đậu trên một
cành cây còn đầy tuyết, và là dòng chữ cuối cùng còn được nhìn thấy. Nó là
một chiếc cầu vồng, một bài ca, một cái vuốt ve bằng tình thương. Hi vọng
là nhận biết Đức Chúa Trời và cứ ở trong tình yêu của Ngài.
Là một tiên tri của Đức Chúa Trời, Sô-phô-ni bị bắt buộc phải nói thật - đó
là việc mà ông làm thật rõ ràng, rao ra một sự phán xét và trừng phạt đáng
ghê tởm như tiếng sấm cho tất cả những ai dám thách đố Đức Giê-hô-va.
Cơn thịnh nộ đáng sợ của Đức Chúa Trời sẽ tràn ngập trên tất cả những gì
đang có trên đất và hủy diệt đi. “Ta sẽ diệt loài người và loài thú, chim trời
và cá biển, cùng mọi sự ngăn trở với kẻ dữ; và ta sẽ trừ tiệt loài người khỏi
mặt đất, Đức Giê-hô-va phán vậy” (SoXp 1:3) sẽ chẳng có sinh vật nào trên
đất thoát được. Và cái ngày khủng khiếp đó chẳng bao lâu nữa, sẽ đến.
“Ngày lớn của Đức Giê-hô-va đã gần, đã gần rồi; nó đến rất kíp. Ngày của
Đức Giê-hô-va có tiếng động; bấy giờ người mạnh dạn sẽ kêu khóc đắng
cay. Ngày ấy là ngày thạnh nộ, ngày hoạn nạn và buồn rầu, ngày hủy phá và
hoang vu, ngày tối tăm và mờ mịt, ngày mây và sương mù” (SoXp 1:14,15).
Chúng ta có thể cảm thấy cảm giác ngột ngạt và suy sụp của các thính giả
của ông. Họ đã bị phán xét và buộc tội; số phận của họ đã bị định đoạt rồi.
Nhưng giữa lời công bố khủng khiếp này, vẫn còn có hi vọng. Chương một
của sách tiên tri Sô-phô-ni vốn đầy dẫy nỗi kinh hoàng. Tuy nhiên, trong
chương hai, một tiếng thì thầm của lời hứa đã xuất hiện. “Hỡi các ngươi là
kẻ nhu mì của đất, làm theo mạng lịnh của Chúa, hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-
va, tìm kiếm sự nhu mì, hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong
ngàythạnh nộ của Đức Giê-hô-va” (SoXp 2:3). Và chỉ mấy câu sau đó thôi,
chúng ta đọc thấy một “phần sót lại của nhà Giu-đa” (SoXp 2:7) sẽ được
phục hồi địa vị.
Cuối cùng trong chương ba, điệp khúc tĩnh lặng ấy từ từ được trổi lên ngày
càng cao giọng hơn, khi sự cứu rỗi và giải phóng của Đức Chúa Trời đối với
những người tận trung với Ngài được công bố: “Hỡi con gái Si-ôn, hãy hát!
Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy kêu la! Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, hãy hết lòng mừng
rỡ và vui thích! Đức Giê-hô-va đã trừ bỏ sự phán xét ngươi, khiến kẻ thù
nghịch cách xa ngươi; Vua của Y-sơ-ra-ên, tức là Đức Giê-hô-va ở giữa
ngươi, ngươi sẽ không tai vạ nữa” (SoXp 3:14,15). Đây là hi vọng đích thực,
đặt nền trên kiến thức về công lý của Đức Chúa Trời và trong tình yêu của
Ngài đối với dân Ngài.
Trong khi bạn đọc sách Sô-phô-ni, hãy cẩn thận lắng nghe những lời phán
xét. Đức Chúa Trời không xem nhẹ tội lỗi đâu, mà nó sẽ phải bị trừng phạt.
Nhưng hãy can đảm lên, căn cứ vào các lời lẽ ban hi vọng - Đức Chúa Trời
của chúng ta đang trị vì, và Ngài sẽ cứu vớt dân Ngài. Hãy quyết định để
được dự phần trong số những linh hồn tận trung còn sót lại, vẫn khiêm hạ
thờ phượng và vâng lời Chúa hằng sống.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để lay tỉnh dân Giu-đa khỏi thói tự phụ tự mãn và khuyến giục họ
quay trở lại với Đức Chúa Trời.
Trước giả: Sô-phô-ni
Đọc giả: Cho Giu-đa và tất cả các dân các nước.
Niên đại viết sách: Có lẽ vào gần cuối giai đoạn thi hành chức vụ của Sô-
phô-ni (640-621 TC), lúc vua Giô-si-a là nhà đại cải cách, bắt đầu trị vì.
Bối cảnh: Vua Giô-si-a của Giu-đa đang tìm cách đảo ngược các giềng mối
gian ác do hai nhà vua tiền nhiệm của Giu-đa là Ma-na-se và A-môn thiết
đặt. Giô-si-a sở dĩ mở rộng được ảnh hưởng là nhờ lúc ấy, đã không có một
siêu cường quốc nào đang thống trị thế giới cả (bấy giờ A-sy-ri đang suy tàn
nhanh cóng). Lời tiên tri của Sô-phô-ni có lẽ là yếu tố chủ yếu đã thúc đẩy
cuộc cải cách của Giô-si-a. Sô-phô-ni là một nhân vật đồng thời với Giê-rê-
mi.
Câu chìa khoá: “Hỡi các ngươi là mọi kẻ nhu mì của đất, làm theo mạng lịnh
của Chúa, hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình, tìm kiếm sự
nhu mì, hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức
Giê-hô-va” (SoXp 2:3)
Địa danh chính: Giê-ru-sa-lem.
Bố cục:
1. Ngày thịnh nộ (SoXp 1:1-3:7)
2. Ngày hi vọng (SoXp 3:8-20)
Sô-phô-ni cảnh cáo dân Giu-đa rằng nếu họ không chịu ăn năn, toàn xứ kể
cả thành phố Giê-ru-sa-lem yêu dấu sẽ bị tiêu vong. Dân sự vốn biết rằng
đến cuối cùng thì rồi Đức Chúa Trời cũng sẽ ban phước cho họ, nhưng Sô-
phô-ni vạch rõ rằng trước hết phải có sự phán xét, rồi mới có việc ban
phước. Sự phán xét này không phải chỉ là sự trừng phạt vì cớ tội lỗi, mà còn
là một tiến trình thanh lọc dân sự nữa. Tuy chúng ta đang sống trong một thế
giới sa bại, bị điều ác vây quanh, chúng ta vẫn còn hi vọng nơi vương quốc
trọn vẹn của Đức Chúa Trời sẽ đến, và có thể cứ để cho bất cứ một sự trừng
phạt nào chạm đến chúng ta lúc này, sẽ thanh lọc chúng ta khỏi tội lỗi.
Các đại đề mục
Luận đề: Ngày phán xét
Lời giải thích: Sở dĩ dân Giu-đa sắp bị tiêu diệt vì họ đã quên mất Đức Giê-
hô-va. Dân sự thờ lạy Ba-anh, Mo-lóc, và các đạo thiên binh. Cả đến các
thầy tế lễ cũng pha lẫn cách hành đạo của ngoại giáo với đức tin đặt vào Đức
Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang sắp trừng phạt tội lỗi.
Tầm quan trọng: Muốn thoát khỏi sự phán xét của Đức Chúa Trời, chúng ta
phải lắng nghe Ngài, chấp nhận sự sửa trị của Ngài, tin cậy Ngài và tìm cầu
sự hướng dẫn của Ngài. Nếu chúng ta nhận Ngài làm Chúa mình, thì có thể
thoát được sự định tội của Ngài.
Luận đề: Dửng dưng đối với Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Tuy thỉnh thoảng đã có vài nỗ lực canh tân, dân Giu-đa đã
không có sự hối tiếc về tội lỗi mình. Dân sự được giàu có, nhưng chẳng còn
quan tâm đến Đức Chúa Trời nữa. Việc Đức Chúa Trời đòi hỏi người ta phải
sống công chính dường như không thích hợp với người Giu-đa, khi sự an
ninh và giàu có đã khiến họ tự phụ tự mãn
Tầm quan trọng: Đừng để cho tiện nghi vật chất gây trở ngại cho việc bạn
tận hiến cho Đức Chúa Trời. Sự thịnh vượng có thể làm nảy sinh thái độ tự
cao tự mãn. Phương thuốc chữa trị duy nhất, là phải thừa nhận rằng tiền bạc
không cứu được chúng ta, mà chúng ta cũng không thể tự cứu. Chỉ Đức
Chúa Trời mới cứu được chúng ta và chữa căn bệnh dửng dưng đối với các
vấn đề thuộc linh của chúng ta mà thôi.
Luận đề: Ngày hoan hỉ
Lời giải thích: Ngày phán xét cũng sẽ là một ngày hoan hỉ. Đức Chúa Trời
sẽ phán xét tất cả những kẻ ngược đãi dân Ngài.Ngài sẽ thanh lọc dân Ngài,
tẩy sạch mọi tội lỗi và gian ác. Ngài sẽ phục hưng dân sự Ngài và ban hi
vọng cho họ
Tầm quan trọng: Một khi dân sự đã được tẩy sạch tội lỗi, sẽ có sự an ủi và hi
vọng lớn. Cho dù hiện nay chúng ta có phải trải nghiệm khó khăn như thế
nào, chúng ta vẫn có thẻ hướng tới ngày lễ mừng, khi Đức Chúa Trời sẽ
phục hồi địa vị cho chúng ta. Đó sẽ thật là ngày hoan hỉ cho chúng ta.

Dẫn nhập A-ghê


Các niên đại
Ba-by-lôn bị Si-ru lật đổ, năm 539TC
Chiếu chỉ của Si-ru cho phép dân bị lưu đày hồi hương năm 538 TC
Bắt đầu xây lại đền thờ năm 536 TC.
Công tác xây lại đền thờ đình chỉ năm 530 TC
A-ghê và Xa-cha-ri trở thành nhà tiên tri, công tác xây lại đền thờ tiếp tục,
năm 520TC
Đền thờ hoàn thành năm 516 TC.
Lời giới thiệu
Áp-lực, yêu sách, chờ trông, và công việc từ mọi phía xô đẩy, tấn công thời
biểu của chúng ta. Hãy làm việc này! Phải có mặt đằng kia! Hãy làm cho
xong phần này đi! Phải đốc thúc họ nhanh lên đi chứ! Mọi người dường như
đều muốn ở chúng ta một điều gì đó - cả gia đình, bè bạn, chủ nhân, trường
học, Hội thánh, các câu lạc bộ... Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ chẳng còn
gì để cống hiến cho họ, chúng ta đã sắp sức cùng lực kiệt, hết cả thì giờ.
Chúng ta tự cảm thấy mình lao đầu vào cuộc sống, chăm lo cho cái cần thiết,
cái cận tiếp, cái cấp bách. Điều quan trọng là việc quá thường xảy ra, ấy là
mọi sự rồi sẽ đều bị bỏ mặc cho bụi đất. Vấn đề của chúng ta không phải là
số lượng các yêu sách hay thiếu tài năng sắp xếp thời biểu nhưng là vấn đề
về các giá trị - điều gì mới là thật sự quan trọng đối với chúng ta đây?
Quan điểm về các giá trị và những gì chúng ta phải dành quyền ưu tiên cho,
cho thấy cách thức chúng ta sử dụng các nguồn tài nguyên của mình - tức là
thì giờ, tiền bạc, sức lực và tài năng của chúng ta. Lắm khi hành vi của
chúng ta đi ngược lại, chỉ dành cho Ngài một con số kém hơn nhiều trong
các bảng liệt kê “những việc phải làm” của chúng ta.
Hai mươi hai thế kỷ trước đây, một tiếng nói đã vang lên, kêu gọi những
người nam người nữ hãy sắp xếp cho thật đúng các quyền ưu tiên cho công
việc làm của mình. A-ghê biết rõ việc gì là quan trọng và việc gì mà chúng
ta phải làm, nên ông đã thách thức dân sự của Đức Chúa Trời hãy đáp ứng.
Vào năm 586 TC các đạo quân của Ba-by-lôn đã phá hủy đền thờ tại Giê-ru-
sa-lem - tức là nhà của Đức Chúa Trời, biểu tượng của sự hiện diện Ngài
giữa họ. Đến năm 538 TC, vua Si-ru ban hành chiếu chỉ cho dân Do Thái
hồi hương, trở về với thành phố yêu dấu của họ để xây lại đền thờ. Do đó họ
đã trở về Giê-ru-sa-lem và bắt đầu công tác ấy. Nhưng rồi họ lại quên mất
chủ đích của mình và đánh mất ý thức về các quyền ưu tiên phải dành cho
các công việc của họ, khi sự chống đối và thái độ lãnh đạm khiến cho công
tác bị đình chỉ (Exo Er 4:4,5). Bấy giờ A-ghê đã lên tiếng kêu gọi họ hãy
quay lại với các giá trị của Đức Chúa Trời. “Nay có phải là thì giờ các ngươi
ở trong nhà có trần ván, khi nhà này hoang vu sao?” (AgKg 1:4). Dân sự đã
quan tâm đến các nhu cầu của chính họ hơn là chú ý đến việc làm theo ý chỉ
Đức Chúa Trời và hậu quả là họ đã gặp nhiều khổ nạn. A-ghê đã kêu gọi họ
hãy bắt tay hành động “Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Các ngươi
khá xem xét đường lối mình. Hãy lên núi, đem gỗ về, và xây nhà này, thì ta
sẽ lấy nó làm vui lòng, và ta sẽ được sáng danh, Đức Giê-hô-va phán vậy”
(AgKg Ag1:7,8), bức thông điệp của Đức Chúa Trời qua tôi tớ Ngài là A-
ghê đã trở thành chất xúc tác khiến họ hoàn thành công việc.
Tuy A-ghê chỉ là một sách ngắn, nó lại đầy dẫy nhưng thách đố và lời hứa,
nhắc nhở chúng ta điều Đức Chúa Trời đòi hỏi đối với đời sống và các
quyền ưu tiên của chúng ta. Trong khi bạn đọc sách A-ghê, hãy tưởng tượng
là ông đang bước đi trên các đường phố lớn cũng như mọi ngỏ hẻm của
thành phố Giê-ru-sa-lem, hô hào dân chúng hãy quay lại với việc của Đức
Chúa Trời. Và hãy lắng nghe A-ghê ngỏ lời với chính bạn, thúc giục bạn hãy
sắp xếp lại thứ tự cho các quyền ưu tiên của mình sao cho phù hợp với ý chỉ
của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã dạy bạn phải làm gì? Hãy xếp mọi
việc khác qua một bên và vâng lời Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để kêu gọi dân sự hoàn thành công tác xây lại đền thờ.
Trước giả: A-ghê
Đọc giả: Cho dân chúng đang sinh sống tại Giê-ru-sa-lem và những người
đã được hồi hương từ cuộc lưu đày.
Niên đại viết sách: Năm 520 TC.
Bối cảnh: Ngôi đền thờ tại Giê-ru-sa-lem đã bị phá hủy vào năm 586 TC. Si-
ru cho phép dân Do Thái hồi hương để xây lại ngôi đền thờ của họ năm 538
TC. Họ đã bắt đầu công việc, nhưng không hoàn tất được. Qua chức vụ của
A-ghê và Xa-cha-ri, đền thờ đã được hoàn tất (520-525 TC).
Câu chìa khoá: “Nay có phải là thì giờ các ngươi ở trong nhà có trần ván, khi
nhà này hoang vu sao?” (1:4)
Các nhân vật chính: A-ghê; Xô-rô-ba-bên; Giê-hô-sua.
Địa danh chính: Giê-ru-sa-lem.
Những nét đặc trưng: A-ghê là nhà tiên tri đầu tiên của thời kỳ hậu lưu đày.
Hai vị khác nữa là Xa-cha-ri và Ma-la-chi. Bút pháp của sách này thật đơn
giản và bộc trực.
Bố cục:
1. Lời kêu gọi hãy xây lại đền thờ (1:1-15)
2. Lời khích lệ hãy hoàn tất đền thờ (2:1-21)
Lúc những kẻ bị lưu đày vừa từ Ba-by-lôn hồi hương, họ đã bắt tay ngay vào
việc xây lại đền thờ. Tuy họ bắt đầu bằng thái độ đứng đắn, họ đã rơi vào
tình trạng sai lầm, và công việc bị đình chỉ. Cũng thế, chúng ta phải cẩn thận
giữ đúng các quyền ưu tiên mà chúng ta phải dành cho công việc. Phải luôn
luôn tích cực trong công tác phục vụ Đức Chúa Trời của bạn, và tiếp tục đặt
những công việc nào phải làm trước lên hàng đầu.
Các đại đề mục:
Luận đề: Các quyền ưu tiên phải lẽ
Lời giải thích: Đức Chúa Trời đã giao cho dân Do Thái hoàn thành ngôi đền
thờ tại Giê-ru-sa-lem khi họ từ cuộc lưu đày hồi hương. Sau 15 năm, họ vẫn
chưa hoànt ất được. Họ vốn quan tâm lo xây nhà riêng cho họ, hơn là hoàn
thành công tác của Đức Chúa Trời giao. A-ghê bảo họ phải sắp xếp lại các
quyền ưu tiên của họ cho thật phải lẽ.
Tầm quan trọng: Thật là dễ dành quyền ưu tiên để làm nhiều công việc khác,
xem chúng là quan trọng hơn là công việc của Đức Chúa Trời. Nhưng Đức
Chúa Trời muốn chúng ta phải theo dõi xuyên suốt và lo xây dựng vương
quốc của Ngài. Xin đừng đình chỉ, cũng đừng viện lý do để trì hoãn. Hãy
chú tâm vào việc phải làm để hoàn tất nó. Hãy sắp xếp các quyền ưu tiên của
bạn cho thật đúng thứ tự.
Luận đề: Lời khích lệ của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: A-ghê khuyến khích dân sự trong khi họ làm việc. Ông bảo
đảm với họ về sự hiện diện của Thánh Linh Đức Chúa Trời và về chiến
thắng sau cùng, và thêm vào cho họ niềm hi vọng rằng rồi đây Đấng Mê-si-a
sẽ trị vì.
Tầm quan trọng: Nếu Đức Chúa Trời giao cho bạn một nhiệm vụ gì, xin
đừng sợ phải bắt đầu thực hiện nó. Các nguồn tài nguyên của Ngài vốn vô
tận. Đức Chúa Trời sẽ giúp bạn hoàn tất nó, và ban cho bạn những lời khích
lệ từ nhiều người khác suốt con đường bạn đi.

Dẫn nhập Xa-cha-ri


Các niên đại
Đa-ni-ên bị đày sang Ba-by-lôn năm 605 TC
Ê-xê-chi-ên bị đày sang Ba-by-lôn năm 597 TC
Giê-ru-sa-lem thất thủ, năm 586 TC
Ba-by-lôn bị Si-ru lật đổ năm 539 TC
Si-ru ban hành chiếu chỉ cho phép những kẻ bị lưu đày hồi hương năm 538
TC
Bắt đầu xây dựng đền thờ năm 536 TC
Công tác xây dựng đền thờ bị đình chỉ năm 530 TC
A-ghê, Xa-cha-ri trở thành nhà tiên tri; công tác xây lại đền thờ được tái tục,
năm 520 TC
Đền thờ được hoàn thành năm 516 TC
E-xơ-ra đến Giê-ru-sa-lem năm 458 TC
Nê-hê-mi đến Giê-ru-sa-lem năm 445 TC
Lời giới thiệu
Tương lai - vùng biển bao la không có sơ đồ của những điều chẳng ai biết,
nắm giữ cả niềm vui lẫn nỗi kinh hoàng, cả sự an ủi lẫn nỗi đau khổ, cả tình
yêu lẫn nỗi cô đơn. Một số người sợ những ngày sắp đến tự hỏi chẳng hay
có những điều xấu xa gian ác nào đang mai phục trong bóng tối; nhiều người
khác lại tham vấn các thầy bói, các nhà lý số chuyên tán chuyện tương lai,
cố tìm cách khám phá các bí mật trong đó một cách tuyệt vọng. Nhưng câu
chuyện của tương lai thì chỉ có một mình Đức Chúa Trời biết rõ mà thôi, và
Ngài cũng chỉ tiết lộ một phần nào cho các sứ giả đặc biệt, các nhà tiên tri
được kêu gọi, mà Ngài đã mặc khải cho một vài chương sách.
Nhiệm vụ đầu tiên của một nhà tiên tri là tuyên rao lời Chúa, vạch rõ tội lỗi,
giải thích các hậu quả của nó, và kêu gọi những người nam người nữ hãy ăn
năn và vâng lời Đức Chúa Trời. Ê-li, Ê-li-sê, Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên,
Ô-sê và A-mốt đang đứng lên với hàng chục nhân vật khác nữa đã trung tín
truyền giảng bức thông điệp của Đức Chúa Trời bất chấp bị khước từ, chế
nhạo và bắt bớ bách hại. Và thỉnh thoảng họ được ban cho các khải tượng
tiên tri, báo trước các biến cố hầu đến.
Chiếm vị trí vào gần cuối Cựu ước kinh giữa số các văn phẩm được biết là
các sách “tiểu tiên tri”, là sách Xa-cha-ri. Là một trong ba nhà tiên tri của
thời kỳ hậu lưu đày, cùng với A-ghê và Ma-la-chi, Xa-cha-ri phục vụ cho số
ít dân Do-thái còn sót lại đã hồi hương về xứ Giu-đa để xây lại đền thờ và
đất nước họ. Cũng như A-ghê, ông khích lệ dân sự hoàn tất việc xây lại đền
thờ, nhưng bức thông điệp của ông còn vượt xa hơn các vách thành vật thể
và các vấn đề đương đại rất nhiều. Bằng óc tưởng tượng khải huyền ngoạn
mục và những chi tiết như khắc hoạ, Xa-cha-ri đã nói về Đấng Mê-si-a,
Đấng mà Đức Chúa Trời sẽ sai đến để cứu vớt dân Ngài và để cai trị trên cả
thế gian này. Xa-cha-ri là một trong số các sách tiên tri quan trọng nhất của
chúng ta, cung cấp nhiều tài liệu chi tiết để tham khảo về Đấng Mê-si-a, vốn
đã ứng nghiệm hết sức rõ ràng trong cuộc đời của Đấng Christ. Ông nói việc
xây lại đền thờ mới chỉ là hồi thứ nhất trong vở kịch về thời kỳ cuối cùng để
mở màn cho kỷ nguyên của Đấng Mê-si-a. Xa-cha-ri tuyên rao một bức
thông điệp và những kẻ bị lưu đày: Nhà Vua của họ sắp đến rồi!
Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, “Đấng giải phóng vĩ đại” của dân Y-sơ-ra-ên.
Khác với các thính giả của Xa-cha-ri, chúng ta có thể nhìn lui trở vào chức
vụ và sứ mạng của Đấng Christ . Trong khi nghiên cứu chi tiết trong cuộc
đời của Chúa Giê-xu, đã được viết ra 500 năm trước khi chúng được ứng
nghiệm. Hãy đọc và sửng sốt lo sợ trước một Đức Chúa Trời của chúng ta,
là Đấng đã giữ đúng các lời hứa của Ngài. Nhưng ông còn có một bức thông
điệp cho tương lai vẫn chưa ứng nghiệm - sự tái lâm của Đấng Christ vào
cuối kỷ nguyên này. Cho nên, khi bạn đọc sách Xa-cha-ri, hãy suy nghĩ cho
thật thấu đáo các hàm ý của biến cố đã hứa này. Vua của bạn sắp đến rồi, và
Ngài sẽ trị vì mãi mãi.
Đức Chúa Trời biết rõ và kiểm soát tương lai. Có lẽ chúng ta sẽ chẳng được
thấy gì nhiều hơn là một khoảnh khắc trước người khác, nhưng chúng ta có
thể an tâm nếu chúng ta tin cậy vào Ngài. Hãy đọc sách Xa-cha-ri để củng
cố đức tin mà bạn đặt nơi Đức Chúa Trời, chỉ một mình Ngài mới là niềm hi
vọng và là sự an toàn cho bạn.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để ban hi vọng cho dân sự Đức Chúa Tròi bằng cách mặc khải sự
giải phóng tương lai của Ngài, qua trung gian Đấng Mê-si-a.
Trước giả: Xa-cha-ri
Đọc giả: Cho người Do-thái tại Giê-ru-sa-lem vừa hồi hương từ cuộc lưu
đày tại Ba-by-lôn, và cho những người thuộc về Đức Chúa Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Các TrGv 1:1-8:17 đã được viết ra trong khoảng những
năm 520-518 TC. Các TrGv 9:1-14 được viết trước sau năm 480 TC.
Bối cảnh: Những kẻ bị lưu đày đã từ Ba-by-lôn hồi hương để xây lại đền
thờ, nhưng công tác ấy bị ngăn trở và phải đình chỉ, A-ghê và Xa-cha-ri đã
trực diện với dân chúng về vấn đề công tác của họ và khuyến khích họ hãy
hoàn tất nó.
Câu chìa khoá: “Hỡi con gái Si-ôn, hãy mừng rỡ cả thể! Hỡi con gái Giê-ru-
sa-lem, hãy trổi tiếng reo vui! Này, Vua ngươi đến cùng ngươi, Ngài là công
bình và ban sự cứu rỗi, nhu mì và cỡi lừa, tức là con của lừa cái. Ta sẽ trừ
tiệt xe cộ khỏi Ép-ra-im, và ngựa khỏi Giê-ru-sa-lem; cung của chiến trận
cũng sẽ bị trừ tiệt, và Ngài sẽ phán sự bình an cho các nước; quyền thế Ngài
sẽ trải từ biển này đến biển kia, từ Sông cái cho đến các đầu cùng đất”
(9:9,10)
Các nhân vật chính: Xô-rô-ba-bên, Giê-hô-sua
Địa điểm chính: Giê-ru-sa-lem
Những nét đặc trưng: Trong các sách được gọi là tiểu tiên tri thì đây là tác
phẩm có đặc tính khải huyền và đề cập Đấng Mê-si-a nhiều nhất.
Bố cục:
A.Những bức thông điệp trong lúc xây lại đền thờ (1:1-8:23)
1. Các khải tượng ban đêm của Xa-cha-ri
2. Những lời khích lệ của Xa-cha-ri
Xa-cha-ri khuyến khích dân sự dứt bỏ tội lỗi trong đời sống của họ, và tiếp
tục xây lại đền thờ. Các khải tượng của ông mô tả sự phán xét đối với các kẻ
thù của dân Y-sơ-ra-ên, các phước hạnh dành cho Giê-ru-sa-lem và điều cần
thiết là dân sự của Đức Chúa Trời phải giữ mình trong sạch - tránh thói đạo
đức giả, chỉ sống theo mặt ngoài, và tội lỗi. Các khải tượng của Xa-cha-ri
đem đến cho dân sự một hi vọng. Chúng ta cũng cần phải cẩn thận noi theo
những lời chỉ giáo để cứ giữ mình thanh sạch cho đến ngày Đấng Christ tái
lâm.
B. Các bức thông điệp sau khi đền thờ được hoàn thành (9:1-14:21)
Ngoài việc khích lệ và đem hi vọng đến, các bức thông điệp của Xa-cha-ri
còn cảnh cáo rằng Nước của Đấng Mê-si-a sẽ không bắt đầu ngay sau khi
đền thờ được hoàn tất. Các kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị phán xét, và Nhà
Vua sẽ đến, nhưng dân chúng phải đương đầu với nhiều hoàn cảnh khó khăn
trước khi nhận được các phước hạnh vương quốc của Đấng Mê-si-a. Chúng
ta cũng phải gặp nhiều đau buồn, thất vọng, và hoạn nạn trước khi được vào
Nước của Đấng Christ .
Các đại đề mục:
Luận đề: Lòng ghen tuông của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Đức Chúa Trời buồn lòng vì dân Ngài chẳng đếm xỉa gì đến
các nhà tiên tri của Ngài qua nhiều năm, và Ngài quan tâm không muốn họ
noi theo các cấp lãnh đạo vô tâm và giả dối, chỉ muốn khai thác họ. Không
vâng lời là nguồn gốc của các vấn đề, và là nguyên nhân của sự khổ sở của
họ. Đức Chúa Trời ghen tuông đối với vấn đề tận hiến của họ cho Ngài.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời ghen tuông vì vấn đề tận hiến của chúng ta.
Muốn tránh sự tàn hại của Y-sơ-ra-ên, đừng noi theo các dấu chân của họ.
Đừng chối bỏ Đức Chúa Trời, noi theo các giáo sư giả, hoặc dẫn người khác
đi sai lạc. Hãy quay lại với Đức Chúa Trời, trung tín vâng theo các mệnh
lệnh của Ngài, và chắc chắn rằng bạn đang dẫn dắt người khác theo con
đường đúng.
Luận đề: Xây lại đền
Lời giải thích: Dân Do-thái bị thất vọng. Họ đã được giải thoát khỏi tù đày,
nhưng đền thờ vẫn chưa hoàn tất. Xa-cha-ri khích lệ họ hãy tiếp tục xây lại
nó. Đức Chúa trời sẽ vừa bảo vệ vừa thêm năng lực cho các công nhân (cán
bộ) nhờ Thánh Linh Ngài, để thực hiện công tác của Ngài.
Tầm quan trọng: Vấn đề quan trọng ở đây còn hơn cả việc xây lại đền thờ -
dân sự đang lảo đảo bước vào hồi thứ nhất của vở kịch kỳ diệu của Đức
Chúa Trời về các thời kỳ sau rốt. Những ai trong chúng ta tin vào Đức Chúa
Trời, cần phải hoàn thành công tác Ngài giao. Muốn làm như thế, chúng ta
phải được sự trợ giúp của Đức Thánh Linh. Đức Chúa Trời sẽ ban Đức
Thánh Linh cho chúng ta.
Luận đề: Nhà vua sắp giáng lâm
Lời giải thích: Đấng Mê-si-a sẽ đến, vừa để cứu vớt dân Ngài ra khỏi tội,
vừa để trị vì như một nhà vua. Ngài sẽ lập nước Ngài, chinh phục tất cả các
kẻ thù, và cai trị trên đất này. Sẽ có ngày mọi sự đều được đặt dưới quyền
kiểm soát đầy tình thương và quyền năng của Ngài.
Tầm quan trọng: Đấng Mê-si-a dã đến như một đầy tớ để chịu chết thay cho
chúng ta. Ngài sẽ trở lại với tư cách một nhà vua chiến thắng. Lúc ấy Ngài
sẽ đem hoà bình đến cho cả thế giới. Hãy đầu phục quyền lãnh đạo của Ngài
ngay bây giờ để chuẩn bị sẵn sàng cho ngày trở lại khải hoàn của nhà Vua.
Luận đề: Sự bảo vệ của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Vào thời của Xa-cha-ri, đã có kẻ chống lại kế hoạch của Đức
Chúa Trời và nhà tiên tri đã báo trước về những ngày hoạn nạn trong tương
lai. Nhưng Lời Đức Chúa Trời vẫn còn mãi. Ngài vẫn nhớ các hoà ước Ngài
từng lập với dân Ngài. Ngài chăm lo săn sóc cho họ, và sẽ giải cứu họ khỏi
mọi thế lực của thế gian này đang áp bức họ.
Tầm quan trọng: Tuy điều ác vẫn hiện diện, thì tình yêu vô hạn của Đức
Chúa Trời và sự lo lắng chăm sóc của Ngài đã được chứng tỏ qua nhiều thế
kỷ. Đức Chúa Trời vẫn giữ lời hứa của Ngài. Tuy thân thể chúng ta có thể bị
hủy hoại, chúng ta chẳng bao giờ sợ cho số phận tối hậu của mình, nếu
chúng ta yêu mến và tin cậy Ngài.
Dẫn nhập Ma-la-chi
Các niên đại
Những kẻ bị lưu đày đầu tiên trở về Giê-ru-sa-lem, năm 538 TC
Bắt đầu xây lại đền thờ năm 536 TC
A-ghê, Xa-cha-ri trở thành nhà tiên tri năm 520 TC
Đền thờ được hoàn tất năm 516 TC
E-xơ-ra về đến Giê-ru-sa-lem năm 458 TC
Nê-hê-mi về đến Giê-ru-sa-lem năm 445 TC
Ma-la-chi trở thành nhà tiên tri năm 430 TC.
Lời giới thiệu
Một chiếc bình vỡ tan vì một chiếc cùi chỏ vô ý chạm phải, một món đồ
chơi bị hỏng vì bị những ngón tay bé bỏng ép buộc nó làm việc quá sức, một
tấm vải bị rách vì bị những bàn tay quá khoẻ mạnh nhưng nóng nảy lôi kéo.
Các vật dụng, vải vóc bị hư rách thì có thể được sửa chữa hoặc bỏ tiền ra
mua lại, nhưng các mối liên hệ bị tổn thương thì phải trả giá đắt hơn nhiều.
Thái độ bất trung, không chân thật, những lời nói đầy thù hận và những lời
thề nguyện bị quên đi, cắt đứt các mối dây liên hệ tế nhị giữa những cá nhân
với nhau và gây ra những vết thương không phải là dễ chữa lành. Tuy nhiên,
càng thê thảm hơn nữa, là mối liên hệ với Đức Chúa Trời lại bị gián đoạn.
Tình yêu của Đức Chúa Trời trọn vẹn, tuyệt đối. Và tình yêu của Ngài là
một tình yêu bằng hành động - ban cho hướng dẫn và giữ gìn. Ngài thành tín
tuyệt đối, luôn luôn trung thực với những lời hứa với tuyển dân của Ngài.
Nhưng họ thì luôn luôn chối bỏ Đức Chúa Trời đầy tình yêu đó, vi phạm
giao ước của Ngài, theo các thần khác, và tự sống theo ý riêng. Cho nên mối
liên hệ đã bị tan vỡ.
Nhưng vết rạn nứt ấy không phải là vô phương sửa chữa, mọi hi vọng chưa
phải là đã tan biến. Đức Chúa Trời vẫn còn có thể chữa trị, hàn gắn, và dệt
lại một tấm vải. Sự tha tội bao giờ cũng có sẵn. Và đó là ân điển.
Đây là bức thông điệp của Ma-la-chi, nhà tiên tri của Đức Chúa Trời tại Giê-
ru-sa-lem. Lời lẽ của ông nhắc lại cho người Do-thái, là tuyển dân của Đức
Chúa Trời, về thái độ cố ý không vâng lời của họ, bắt đầu là giới các thầy tế
lễ (MaMl 1:2-9), rồi bao gồm tất cả mọi người (MaMl 10:3-15). Họ đã tỏ ra
thù địch với danh Đức Chúa Trời (MaMl 1:6), giả dối trong việc thờ phượng
(MaMl 7:14), dẫn người khác phạm tội (MaMl 7:9); vi phạm luật pháp của
Đức Chúa Trời (MaMl 11:16), gọi dữ là lành (MaMl 11:17), giữ lại các phần
mười và các của lễ cho riêng mình (MaMl 8:12) và tự phụ tự mãn (MaMl
13:15). Mối liên hệ đã bị cắt đứt, và sự phán xét, trừng phạt đang chờ đợi họ.
Tuy nhiên, giữa cảnh xấu xa gian ác đó, vẫn còn một số ít người trung tín -
một số còn sót lại - vẫn yêu mến và tôn trọng Đức Chúa Trời. Ngài sẽ giáng
phước trên những người nam, người nữ đó (MaMl 16:18).
Ma-la-chi vẽ ra một bức tranh đáng kinh ngạc về sự bất trung của dân Y-sơ-
ra-ên, chứng minh rằng họ đáng bị trừng phạt, nhưng đan xen giữa cả bức
thông điệp ấy là hi vọng - việc họ có thể được tha thứ. Điều đó đã được diễn
tả thật đẹp đẽ trong (MaMl 4:2) “Nhưng về phần các ngươi là kẻ kính sợ
danh ta, thì mặt trời công bình sẽ mọc lên cho, trong cánh nó có sự chữa
bệnh; các ngươi sẽ đi ra và nhảy nhót như bò tơ của chuồng”.
Ma-la-chi kết thúc bằng một lời hứa về sự giáng lâm của “nhà tiên tri Ê-li”
sẽ đem sự tha tội của Đức Chúa Trời đến cho tất cả mọi người nếu họ chịu
ăn năn và có đức tin (MaMl 4: 5,6)
Sách Ma-la-chi là chiếc cầu bắc ngang Cựu ước và Tân ước. Trong khi bạn
đọc sách Ma-la-chi, hãy xem mình là người được nhận lời này của Đức
Chúa Trời cho dân sự Ngài. Hãy thẩm định chiều sâu của sự dấn thân của
bạn, mức chân thành của sự thờ phượng của bạn, và hướng đi của đời sống
bạn. Rồi hãy để cho Đức Chúa Trời vãn hồi mối liên hệ giữa bạn với Ngài
bằng tình yêu và sự tha thứ của Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để đặt dân sự trực diện với tội lỗi họ hầu vãn hồi mối liên hệ giữa
họ với Đức Chúa Trời.
Trước giả: Ma-la-chi
Đọc giả: Cho người Do-thái tại Giê-ru-sa-lem và người thuộc về Đức Chúa
Trời ở khắp nơi.
Niên đại viết sách: Trước sau năm 430 TC
Bối cảnh: Ma-la-chi, A-ghê và Xa-cha-ri là các nhà tiên tri của thời kỳ hậu
lưu đày cho xứ Giu-đa (vương quốc miền Nam). A-ghê và Xa-cha-ri quở
trách dân sự về việc họ không hoàn tất việc xây lại đền thờ. Ma-la-chi thì đặt
họ trực diện với việc bỏ bê đền thờ và cách thờ phượng giả dối, dung tục của
họ.
Các câu chìa khoá: “Nhưng về phần các ngươi là kẻ kính sợ danh ta, thì mặt
trời công bình sẽ mọc lên cho, trong cánh nó có sự chữa bệnh, các ngươi sẽ
đi ra và nhảy nhót như bò tơ của chuồng” (MaMl 4:1,2)
Các nhân vật chính: Ma-la-chi, các thầy tế lễ.
Các địa điểm chính: Giê-ru-sa-lem, đền thờ.
Những nét đặc trưng: Ma-la-chi dùng bút pháp viết kịch đặt ra các câu hỏi
của Đức Chúa Trời cho dân sự Ngài (chẳng hạn, xem MaMl 3:7,8).
Bố cục:
1. Các thầy tế lễ tội lỗi (MaMl 1:29)
2. Dân sự tội lỗi (MaMl 10:3-15)
3. Số ít người trung tín (MaMl 16:4-6)
Ma-la-chi quở trách dân sự và các thầy tế lễ vì tội chểnh mãng trong việc thờ
phượng Đức Chúa Trời và không sống theo ý chỉ Đức Chúa Trời. Nếu các
thầy tế lễ đã bất trung, thì làm thế nào họ lãnh đạo được dân sự? Họ đã trở
thành những tảng đá vấp chân, thay vì là các lãnh tụ thuộc linh. Nếu dân sự
ly dị vợ để cưới các phụ nữ ngoại đạo, làm thế nào họ dạy dỗ được cho con
cái? Mối liên hệ giữa họ với Đức Chúa Trời đã trở thành tầm thường. Một
khi mối liên hệ với Đức Chúa Trời trở thành kém quan trọng hơn điều đáng
ra phải có, chúng ta có thể củng cố nó bằng cách bỏ đi các thói quen tội lỗi
của mình thường suy nghĩ về Chúa, và dành cho Ngài số thì giờ tốt nhất của
chúng ta hằng ngày.
Các đại đề mục
Luận đề: Tình yêu của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Đức Chúa Trời yêu dân Ngài cả khi họ chẳng đếm xỉa gì đến,
hoặc không vâng lời Ngài. Ngài có sẵn nhiều phước hạnh lớn lao dành cho
những ai trung tín với Ngài. Tình yêu của Ngài vốn vô cùng.
Tầm quan trọng: Vì Đức Chúa Trời yêu chúng ta nhiều như thế, Ngài rất
ghét thói đạo đức giả và lối sống bất cần tất cả. Cách sống này phủ nhận mối
liên hệ giữa Ngài với chúng ta. Cách chúng ta dâng cho Ngài và cách sống
của chúng ta phản ảnh lòng trung thành của chúng ta vào tình yêu của chúng
ta dành cho Đức Chúa Trời.
Luận đề: Tội lỗi của các thầy tế lễ
Lời giải thích: Ma-la-chi vạch rõ các lý do khiến các thầy tế lễ phải bị lên án.
Họ biết điều Đức Chúa Trời đòi hỏi, thế nhưng các của lễ của họ không
thành thật; họ lười biếng, tự phụ, và chai đá. Họ có thái độ lãnh đạm đối với
việc thờ phượng Đức Chúa Trời và tuân thủ các chuẩn mực của Ngài.
Tầm quan trọng: Nếu các lãnh tụ tôn giáo mà sai lầm, thì làm sao họ lãnh
đạo dân chúng? Tất cả chúng ta đều là cấp lãnh đạo theo một phương diện
nào đó. Đừng bê trễ các trách nhiệm của bạn hay chỉ cai trị tuỳ nghi mà thôi.
Bê trễ và vô cảm là những hành động không vâng lời. Đức Chúa Trời cần
các lãnh tụ trung tín và thành thật.
Luận đề: Tội lỗi của dân sự
Lời giải thích: Dân sự đã không thuộc bài học của cuộc lưu đày, cũng chẳng
chịu nghe các nhà tiên tri. Đàn ông thì chai đá, ly dị những người vợ chung
thủy với họ để cưới các phụ nữ ngoại đạo trẻ đẹp hơn. Điều này chống lại
luật pháp của Đức Chúa Trời, vì nó vi phạm điều luật về hôn nhân và đe doạ
việc huấn luyện đạo giáo cho con cái. Nhưng thói kiêu ngạo đã làm lòng họ
chai lì.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời đáng được chúng ta tôn trọng, kính sợ và
giữ lòng trung tín. Nhưng tội lỗi biến lòng chúng ta chai lì, vô cảm đối với
thực trạng của chúng ta. Thói kiêu ngạo khiến chúng ta tự đánh giá cao vô
căn cứ, đặt cách phê phán của chúng ta trên cả Đức Chúa Trời và xem
thường người khác. Đừng để cho thói kiêu ngạo giữ lại sự dấn thân, tiền bạc,
đời sống vợ chồng và gia đình, mà đáng lẽ bạn phải dâng hết cho Đức Chúa
Trời.
Luận đề: Chúa tái lâm
Lời giải thích: Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với những người tận trung
với Ngài được chứng minh bằng sự tái lâm của Đấng Mê-si-a. Đấng Mê-si-a
sẽ dẫn người ta đến chỗ hoàn thiện mọi kỳ vọng tha thiết nhất của họ. Ngày
Chúa tái lâm sẽ là ngày an ủi và chữa lành cho số ít người tận trung, nhưng
là ngày phán xét cho những kẻ chối bỏ Ngài.
Tầm quan trọng: Sự giáng lâm lần đầu của Đấng Christ thanh lọc và tinh
luyện toàn thể những người tin Ngài. Ngài sẽ tái lâm để vạch trần và lên án
những kẻ kiêu ngạo, vô cảm hoặc chểnh mảng không chuẩn bị. Thế nhưng
Đức Chúa Trời có thể chữa lành và hàn gắn. Sự tha tội đang được dành cho
tất cả những ai chịu đến với Ngài.

Dẫn nhập Ma-thi-ơ


Các niên đại:
-Hê-rốt Đại-đế bắt đầu trị vì năm 37 TC.
-Chúa Giê-xu giáng sinh năm 6/5 TC.
-Đào thoát sang Ai-cập, 5/4 TC.
- Hê-rốt Đại-đế thăng hà năm 4TC.
-Trở về Na-xa-rét, 4/3 TC.
-Xứ Giu-đê trở thành một tỉnh của La-Mã năm 6 SC.
-Hoàng đế Thi-be lên ngôi năm 6/7.
-Bôn-xơ Phi-lát được bổ nhiệm tổng trấn năm 26.
-Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ Ngài năm 26/27.
-Chúa Giê-xu chọn mười hai môn đệ năm 28.
-Chúa Giê-xu hóa bánh cho năm ngàn người ăn năm 29.
-Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá, sống lại và thăng thiên, năm 30.
Lời giới thiệu
Trong lúc đoàn xe cơ giới từ từ lướt qua thành phố, hằng ngàn người chen
chúc nhau trên lề đường, mong được có một cái nhìn thoáng qua. Nhiều
đoàn người với kèn trống tưng bừng thông báo đoàn xe sắp đến, các nhân
viên cảnh vệ vẹt đám đông và kè sát chiếc xe hòm. Những cuộc lễ lạc, nghi
thức ngoại giao- Các biểu tượng hiện đại tỏ lòng kính trọng và chứng minh
cho điạ vị quan trọng của các quan khách ngồi trong xe- báo hiệu một vị
nguyên thủ quốc gia sắp đến. Dù họ là những lãnh tụ được truyền chức hay
được bầu cử, chúng ta đều đề cao, tôn trọng họ.
Dân Do-thái đang chờ đợi một lãnh tụ đã được nhiều nhà tiên tri, là những
nhân vật được linh cảm của Thượng Đế, hứa với họ từ nhiều thế kỷ trước.
Họ tin rằng nhà lãnh tụ này - là Đấng Mê-si-a, Đấng được Thượng Đế xức
dầu - sẽ cứu họ thoát khỏi ách áp bức của người La-mã và thiết lập một
vương quốc mới. Với cương vị là vua họ, Ngài sẽ cai trị thế giới thật công
bằng. Tuy nhiên, nhiều người Do-thái lại bỏ qua sự kiện rằng những lời tiên
tri đó cũng bảo rằng nhà vua ấy là một người đầy tớ thống khổ, sẽ bị thiên hạ
chối bỏ và giết đi. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi bấy giờ, có rất ít
người nhận ra được Chúa Giê-xu chính là Đấng Mê-si-a. Làm thế nào con
trai của bác thợ mộc nghèo nàn, xuất thân từ làng Na-xa-rét kia, lại có thể là
vua của họ được? Thế nhưng, Chúa Giê-xu lại chính là Vua của cả thế gian
này!
Ma-thi-ơ (Lê-vi) là một trong mười hai môn đệ của Chúa Giê-xu. Trước kia,
ông vốn là một người thu thuế bị khinh dể, nhưng cuộc đời ông đã được con
người quê quán xứ Ga-li-lê ấy làm thay đổi hẳn. Ma-thi-ơ đã viết sách Phúc
âm này cho đồng bào người Do-thái của ông để chứng minh Chúa Giê-xu
quả thật là Đấng Mê-si-a, và để giải thích về vương quốc của Ngài.
Ma-thi-ơ bắt đầu phần ký thuật của ông bằng cách đưa ra bảng gia phả của
Chúa Giê-xu. Sau đó, ông kể lại việc Chúa Giê-xu ra đời và những năm thơ
ấu của Ngài, kể cả việc gia đình Ngài phải đào thoát sang Ai-cập, dưới thời
trị vì của vua Hê-rốt vốn là một bạo chúa giết người không gớm tay, rồi cả
nhà lại trở về Na-xa-rét. Sau khi Giăng Báp-tít làm phép báp-tem cho Chúa
Giê-xu (3:17) và Ngài đánh bại Sa-tan trong sa mạc, Chúa Giê-xu bắt đầu
chức vụ của Ngài bằng việc gọi các môn đệ đầu tiên, và công bố Bài Giảng
Trên Núi (5:1-7:29). Ma-thi-ơ chứng minh uy quyền của Chúa Giê-xu bằng
cách tường thuật, lại các phép lạ chữa bệnh và đuổi quỉ, thậm chí khiến cả
người chết sống lại nữa của Ngài.
Bất chấp sự chống đối của các Thầy biệt lập và nhiều lãnh tụ tôn giáo đương
thời khác (12:1-15:39), Chúa Giê-xu cứ tiếp tục truyền dạy về Nước Trời
(16:1-20:34). Trong thời gian này, Chúa Giê-xu phán dạy các môn đệ Ngài
về cái chết gần kề và sự sống lại của Ngài (16:21), và tiết lộ lai lịch đích
thực của Ngài với các sứ đồ Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng (Mat Mt 17:1-5).
Lúc chức vụ Ngài sắp kết thúc, Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem trong
một cuộc diễu hành dành cho nhân vật đã chiến thắng khải hoàn (21:1-11).
Nhưng ngay sau đó, làm sóng chống đối dâng cao, nên Chúa Giê-xu biết
ngày Ngài phải chịu chết đã gần kề. Ngài bèn truyền dạy cho các môn đệ về
những ngày tương lai - những gì họ có thể trông đợi trước khi Ngài trở lại
(24:1-51) và cách thức họ phải sống cho đến ngày ấy (25:1-46).
Trong phần cuối của sách Ma-thi-ơ (27:1-28:20), ông tập trung chú ý vào
những ngày cuối cùng của Chúa Giê-xu trên thế gian này - Bữa Tiệc Tối,
Bài cầu nguyện của Ngài trong vườn Ghết-sê-ma-nê, việc Ngài bị Giu-đa
phản nộp, việc các môn đệ Ngài chạy trốn, việc Phi-e-rơ chối Ngài, những
cuộc xét xử trước Cai-phe và Phi-lát, những lời phán cuối cùng của Chúa
Giê-xu trên thập tự giá, và việc Ngài được chôn cất trong một phần mộ vay
mượn. Nhưng câu chuyện đã không chấm dứt ở đó, vì Đấng Mê-si-a đã sống
lại - chinh phục sự chết và sau đó, phán bảo các môn đệ Ngài hãy cứ tiếp tục
công tác của Ngài và khiến tất cả các dân các nước trở thành môn đệ Ngài.
Trong lúc bạn đọc sách phúc âm này, xin hãy lắng nghe bức thông điệp thật
rõ ràng của Ma-thi-ơ, Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế, là Vua các vua, và
Chúa các chúa. Hãy kỷ niệm mừng chiến thắng của Ngài trên điều ác và sự
chết, và nhận Chúa Giê-xu làm Chúa của đời sống mình.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để chứng minh rằng Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, là Vua đời
đời.
Trước giả: Ma-thi-ơ(Lê-vi)
Đọc giả: Ma-thi-ơ viết đặc biệt cho người Do-thái.
Niên đại trước tác: Có lẽ là giữa những năm 60-65 SC.
Bối cảnh: Ma-thi-ơ vốn là một nhân viên thu thuế người Do-thái, đã trở
thành một trong số nhiều môn đệ của Chúa Giê-xu. Sách Phúc âm này là
chiếc vòng liên kết nối liền Cựu ước với Tân ước, vì điểm nhấn mạnh của nó
trên việc lời tiên tri được ứng nghiệm.
Câu chìa khoá: ”Các ngươi đừng tưởng ta đến đặng phá luật pháp hay là lời
tiên-tri; ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn.” Mat Mt 5:17
Các nhân vật chính: Chúa Giê-xu, Bà Ma-ri, Ông Giô-sép, Giăng Báp-tít,
các môn đệ Chúa, các lãnh tụ tôn giáo,Cai-phe, Phi-lát, Ma-ri Ma-đơ-len.
Các địa điểm chính: Bê-liêm, Giê-ru-sa-lem, Ca-bê-nam, Ga-li-lê, Giu-đê.
Những nét đặc trưng: Sách Ma-thi-ơ đầy dẫy ngôn ngữ đề cập Đấng Mê-si-a
(“Con trai vua Đa-vít” được dùng từ đầu chí cuối) và những câu tham chiếu
Cựu ước ( 53 câu trích dẫn và 76 câu tham khảo khác). Sách Phúc âm này
không được viết theo lối ký thuật biên niên sử; chủ đích của nó là trình bày
chứng cứ rõ ràng rằng Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, là Cứu Chúa.
Bố cục:
A. Sự giáng sinh và dọn đường cho Nhà Vua Giê-xu (1:1-4:11)
Dân Y-sơ-ra-ên đang trông đợi Đấng Mê-si-a, là vua họ. Ma-thi-ơ bắt đầu
quyển sách của ông bằng cách chứng minh thế nào Chúa Cứu Thế Giê-xu
vốn là hậu duệ của vua Đa-vít. Nhưng Ma-thi-ơ còn tiếp tục chứng minh
rằng Thượng Đế đã không chỉ sai Chúa Giê-xu để trở thành một nhà vua trên
thế gian này, nhưng còn để làm Vua của cả thiên đàng nữa. Vương quốc của
Ngài sẽ lớn hơn cả nước của Đa-vít, vì nó vốn vô cùng vô tận. Ngay từ lúc
Chúa Giê-xu mới ra đời, nhiều người đã nhìn nhận Ngài là vua. Nhà vua lúc
ấy là Hê-rốt, cũng như chính Sa-tan, đều sợ vương quyền của Chúa Giê-xu
nên cố tìm cách ngăn chận Ngài, nhưng nhiều người khác lại thờ phượng
Ngài và dâng lên cho Ngài các tặng phẩm vốn chỉ dành cho bậc đế vương
mà thôi. Chúng ta phải sẵn sàng nhìn nhận Chúa Giê-xu trong cương vị vốn
có của Ngài, và thờ phượng như nhà vua của đời sống chúng ta.
B. Bức thông điệp và chức vụ của Nhà Vua Giê-xu (4:12-25:46)
1. Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ
2. Chúa Giê-xu giảng Bài Giảng Trên Núi
3. Chúa Giê-xu làm nhiều phép lạ
4. Chúa Giê-xu truyền dạy về Nước Trời
5. Chúa Giê-xu gặp nhiều phản ứng chống lại chức vụ của Ngài
6. Chúa Giê-xu trực diện với các lãnh tụ tôn giáo đối đầu với Ngài
7. Chúa Giê-xu truyền dạy trên núi Ô-liu
Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-xu là những lời chỉ dẫn của Ngài về một
cuộc đời sống trong Nước Ngài. Ngài cũng đưa ra nhiều ẩn dụ về chỗ khác
nhau giữa nước Ngài với các vương quốc trên thế gian này. Vài đặc điểm sẽ
khiến cho một người trở thành quan trọng trong vương quốc hầu đến của
Thượng Đế, là sự tha thứ, tinh thần hoà nhã để kiến tạo hoà bình, và đặt tha
nhân lên hàng đầu. Muốn trở thành các chuẩn mực của Thượng Đế ngay từ
bây giờ. Chúa Giê-xu đã đến để chứng minh cho chúng ta thấy phải sống
như thế nào để chứng tỏ rằng mình là những thần dân tận trung trong Nước
Ngài.
C. Sự chết và sống lại của Nhà Vua Giê-xu (26:1-28:20)
Chúa Giê-xu được giới thiệu với dân Y-sơ-ra-ên, nhưng đã bị họ chối bỏ.
Thật là lạ lùng cho một nhà vua mà lại bị tố cáo, bắt giữ và đóng đinh vào
thập tự giá. Nhưng Chúa Giê-xu đã chứng minh quyền phép Ngài cả trên sự
chết qua sự sống lại của Ngài, nên đã mở đường cho chúng ta vào Nước
Trời. Với tất cả các chứng cứ rằng Chúa Giê-xu chính là Con Thượng Đế
như thế, ngay đến chúng ta cũng phải tin nhận Ngài làm Chúa mình.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Chúa Cứu Thế Giê-xu là Vua
Lý giải: Chúa Giê-xu đã tự bày tỏ mình là Vua các vua. Sự ra đời của Ngài,
cuộc đời và lời truyền dạy của Ngài, các phép lạ của Ngài và chiến thắng
khải hoàn của Ngài trên sự chết chứng minh lai lịch đích thực của Ngài.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu không thể bị đặt ngang hàng với bất kỳ một
người nào hay một quyền lực nào khác. Ngài là nhà vua tối cao của thời gian
và vĩnh cửu, trời và đất, loài người và thiên sứ. Chúng ta phải dành cho Ngài
địa vị xứng đáng, là làm Vua của đời sống chúng ta.
Luận đề: Đấng Mê-si-a
Lý giải: Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, Đấng mà dân Do-thái vẫn trông đợi
để giải phóng họ khỏi ách áp bức của người La-mã. Thế nhưng thảm hại
thay, họ đã không nhận ra Ngài khi Ngài đến vì vương quyền của Ngài
không đúng với điều trông mong của họ. Chủ đích thực sự của Đấng Giải
Phóng được Thượng Đế xức dầu là chịu chết thay cho mọi người để giải
thoát họ khỏi ách áp bức của tội lỗi.
Tầm quan trọng: Vì Chúa Giê-xu do Thượng Đế sai đến, cho nên ta phải phó
thác cuộc đời mình cho Ngài. Chúng ta có thể sẵn sàng trả bằng mọi giá để
nhìn nhận Ngài và tự hiến thân cho Ngài, vì Ngài sở dĩ đã đến là để làm
Đấng Mê-si-a, làm Cứu Chúa chúng ta,
Luận đề: Nước Trời
Lý giải: Chúa Giê-xu đã đến thế gian để thiết lập vương quốc của Ngài.
vương quốc trọn vẹn của Ngài sẽ được thực hiện khi Ngài tái lâm và bao
gồm tất cả những ai đã tận trung theo Ngài.
Tầm quan trọng: Con đường để vào Nước Trời là bởi đức tin - tin rằng Chúa
Cứu Thế đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi và biến đổi cuộc đời của chúng ta. Để
chuẩn bị cho sự tái lâm của Ngài, chúng ta cần phải làm việc cho nước Ngài.
Luận đề: Những lời truyền dạy
Lý giải: Chúa Giê-xu truyền dạy dân chúng qua những bài giảng, những thí
dụ minh hoạ và ẩn dụ. Bằng những lời truyền dạy ấy, Ngài chứng minh đâu
là các thành tố thật sự của đức tin và làm thế nào để giữ mình khỏi sống một
cuộc đời vô bổ và đạo đức giả.
Tầm quan trọng:Những lời truyền dạy của Chúa Giê-xu chỉ cho chúng ta
một phương pháp để chuẩn bị cuộc đời mình cho vương quốc đời đời của
Ngài, tức là phải sống cho phải lẽ, đứng đắn ngay bây giờ. Ngài đã sống
đúng y như điều Ngài dạy, nên chúng ta cũng phải thực hành những gì mình
truyền giảng.
[td Luận đề: Sự sống lại
Lý giải: Lúc Chúa Giê-xu từ chết sống lại, Ngài đã sống lại bằng quyền phép
của một nhà vua đích thực. Bằng chiến thắng của mình trên sự chết, Ngài đã
lập thành tích xứng đáng với một nhà vua, có quyền phép và quyền uy trên
điều xấu, điều ác.
[mtc Tầm quan trọng: Sự sống lại chứng minh rằng Chúa Giê-xu có toàn
quyền trên đời sống chúng ta - cả đến sự chết cũng không ngăn trở được kế
hoạch dâng hiến sự sống vĩnh hằng của Ngài. Những ai tin Chúa Giê-xu có
thể hi vọng cũng được sống lại giống như Ngài vậy. Nhiệm vụ của chúng ta
là phải kể lại câu chuyện của Ngài cho tất cả mọi người trên thế gian này
được nghe để cùng chia sẻ với chiến thắng của Ngài.
Các địa điểm chính trong sách Ma-thi-ơ: Câu chuyện về đời sống tại thế của
Chúa Giê-xu bắt đầu tại thị trấn Bết-lê-hem trong tỉnh Giu-đê dưới thời đô
hộ của đế quốc La-mã (2:1). Việc ấu vương bị doạ giết đã khiến ông Giô-sép
đưa cả gia đình sang Ai-cập (2:14). Lúc họ hồi hương Thượng Đế đã đưa họ
đến định cư tại Na-xa-rét trong xứ Ga-li-lê (2:22,23). Lúc được khoảng 30
tuổi, Chúa Giê-xu chịu phép báp-tem tại sông Giô-đanh và chịu cho ma quỉ
cám dỗ trong sa mạc Giu-đê (3:13; 4:1). Chúa Giê-xu đặt căn cứ hành quân
của Ngài tại Ca-bê-na-um (4:12,13) và từ đó, Ngài thi hành chức vụ khắp xứ
Y-sơ-ra-ên, kể các ẩn dụ, truyền giảng về Nước Trời, và chữa bệnh. Ngài du
hành đến tận vùng Ga-đa-ren để chữa lành cho hai người bị quỉ ám (8:28 và
tt) hoá bánh cho hơn 5.000 người ăn chỉ với năm ổ bánh mì nhỏ và hai con
cá tại bờ biển Ga-li-lê gần Bết-sai-đa (14:5 và tt), chữa bệnh tại Ghê-nê-xa-
rết (14:34 và tt), thi hành chức vụ giữa những người ngoại quốc tại Ty-rơ và
Si-đôn (15:21 và tt) viếng Sê-sa-rê Phi-líp nơi Phi-e-rơ công bố Ngài là
Đấng Mê-si-a (16:13 và tt) giảng dạy tại Bê-rê vượt sông Giô-đanh (19:1).
Khi bắt đầu chuyến đi cuối cùng lên Giê-ru-sa-lem Ngài đã bảo trước với
các môn đệ về những gì sẽ xảy đến với Ngài tại đó (20:17 và tt). Ngài dành
ít thì giờ cho Giê-ri-cô (20:29) rồi đến nghỉ đêm tại Bê-tha-ni suốt tuần lễ
cuối cùng để đi và về tại Giê-ru-sa-lem, Ngài đã bị đóng đinh vào thập tự
giá, nhưng rồi Ngài đã sống lại.

Dẫn nhập Mác


Lời giới thiệu
Chúng ta là số một!... Chúng ta là những... nhà vô địch vĩ đại nhất, mạnh mẽ
nhất, đẹp đẽ nhất. Hằng ngày, chúng ta vẫn thường nghe những lời công bố
táo bạo như thế, khẳng định tính cách vượt trội của mình. Mọi người đều
muốn mình là kẻ chiến thắng, muốn đứng về phía chiến thắng. Những kẻ bại
trận thì chịu thua thiệt mà thôi. Điều này tương phản rõ rệt với mấy lời sau
đây của Chúa Giê-xu: “Còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi
mọi mọi người. Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình,
song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều
người” (10:44,45). Chúa Giê-xu vốn quan trọng, vĩ đại nhất - Ngài là Đức
Chúa Trời nhập thể, là Đấng Mê-si-a của chúng ta - nhưng đã đi vào lịch sử
như một tôi tớ. Đó là bức thông điệp của Mác. Được viết ra nhằm khich lệ
các Cơ-đốc nhân người La-mã và nhằm chứng minh để chẳng còn ai nghi
ngờ gì được rằng Chúa Giê-xu chính là Đấng Mê-si-a, sách Mác giới thiệu
một số các bức tranh sống động nối tiếp nhanh chóng về một Chúa Giê-xu
đang hành động, tự biểu hiện lý lịch đích thực của mình bằng những việc
Ngài làm, chứ không nhất thiết chỉ bằng lời nói suông. Đây là một Chúa
Giê-xu đang hoạt động.
Mác bỏ qua việc giáng sinh của Chúa Giê-xu, và bắt đầu bằng công tác
truyền đạo của Giăng Báp-tít. Rồi lướt nhanh qua phép báp-tem của Chúa
Giê-xu, việc Ngài chịu cám dỗ trong sa mạc và gọi các môn đệ, sách Mác
đưa thẳng chúng ta vào chức vụ công khai của Chúa Giê-xu. Chúng ta gặp
Chúa Giê-xu trực diện với một con quỉ, chữa lành một người cùi, và vừa tha
tội đồng thời chữa lành cho một người bại được bạn bè trổ nóc nhà thả
xuống trước mặt Chúa Giê-xu.
Tiếp theo đó, Chúa Giê-xu gọi Ma-thi-ơ (Lê-vi), dùng bữa với ông cùng với
các bạn bè nhiều tai tiếng của ông. Việc này bắt đầu cuộc va chạm với người
Pha-ri-si và các lãnh tụ tôn giáo khác là những kẻ tố cáo Chúa Giê-xu cùng
ngồi ăn chung với những người tội lỗi và vi phạm luật ngày Sa-bát.
Trong chương 4, Mác dừng lại để đưa ra một kiểu mẫu về cách truyền dạy
của Chúa Giê-xu - ẩn dụ về người gieo giống và thí dụ minh hoạ về hột cải -
để rồi ông lại lao vào các hành động của Chúa Giê-xu. Ngài quở yên các
lượn sóng nhận chìm cả bầy quỉ và chữa lành cho con gái Giai-ru.
Sau khi trở về Na-xa-rét vài hôm để bị chính thành phố quê hương Ngài chối
bỏ, Chúa Giê-xu phái các môn đệ Ngài đi truyền bá Phúc âm khắp nơi. Sự
chống đối từ phía Hê-rốt và người Pha-ri-si cứ ngày càng tăng, và Giăng
Báp-tít bị chém đầu. Nhưng Chúa Giê-xu cứ tiếp tục di chuyển hoá bánh cho
5.000 người ăn, đến với một phụ nữ Si-rô Phê-ni-xi, chữa lành cho một
người điếc, và hoá bánh lần này là cho 4.000 người ăn.
Cuối cùng, đã đến lúc Chúa Giê-xu phải tiết lộ lai lịch đích thực của Ngài
cho các môn đệ. Họ có thật sự biết Ngài là ai không? Phi-e-rơ tuyên bố Ngài
là Đấng Mê-si-a, nhưng ngay sau đó là chứng tỏ ông chẳng hiểu gì về sứ
mạng của Chúa Giê-xu cả. Sau cuộc hoá hình, Chúa Giê-xu tiếp tục truyền
dạy và chữa bệnh, đối đầu với người Pha-ri-si về vấn đề ly dị và gặp chàng
thanh niên với vấn đề sự sống vĩnh hằng. Người mù Ba-ti-mê được chữa
lành.
Các biến cố diễn tiến dồn dập hướng đến một tuyệt đỉnh. Bữa Tiệc Tối Cuối
Cùng, Chúa Giê-xu bị phản nộp, chịu đóng đinh vào thập tự giá và sống lại
đã được tả vẽ đầy kịch tính cùng với nhiều thí dụ hơn về những lời truyền
dạy của Chúa Giê-xu. Mác vạch rõ cho chúng ta thấy một Chúa Giê-xu luôn
luôn di chuyển, phục vụ mọi người, đầy lòng hi sinh và đầy ơn cứu rỗi! Lúc
đọc sách Mác, bạn cần sẵn sàng để hành động, mở lòng mình ra để Đức
Chúa Trời ngự vào đời sống bạn, và hãy sẵn sàng nhận lời thách thức để dấn
thân phục vụ cho thế giới của bạn.
Các niên đại.
- Hê-rốt Đại đế bắt đầu trị vì, năm 37 TC
- Chúa Giê-xu ra đời năm 6/5 TC
- Đào thoát sang Ai-cập năm 5/4 TC
- Hê-rốt Đại đế thăng hà năm 4 TC
- Trở về Na-xa-rét năm 4/3 TC
- Chàng thiếu niên Giê-xu viếng đền thờ năm 6/7 TC
- Sê-sa Thi-be-rơ lên ngôi hoàng đế năm 14 TC
- Chức vụ của Giăng Báp-tít bắt đầu năm 26 TC
- Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ năm 26/27 C
- Chúa Giê-xu chọn mười hai môn đệ năm 28 TC
- Chúa Giê-xu hoá bánh cho 5.000 người ăn năm 29 TC
- Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá, sống lại và thăng thiên năm 30
TC
Những đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm giới thiệu con người, công tác và những lời truyền dạy của
Chúa Giê-xu.
Trước giả: Giăng Mác. Ông không phải là một trong 12 môn đệ Chúa,
nhưng từng tháp tùng Phao-lô trong vòng lưu hành truyền giáo đầu tiên của
ông (Cong Cv 13:13)
Đọc giả: Cho các Cơ-đốc nhân ở Rô-ma, nơi ông viết sách Phúc âm này.
Niên đại trước tác: Giữa năm 55 và 65 SC
Bối cảnh: Đế quốc La-mã dưới thời Sê-sa Thi-be-rơ. Với một ngôn ngữ phổ
thông, các phương tiện chuyên chở và các hệ thống giao thông tuyệt vời, đế
quốc La-mã lúc ấy đang chín muồi để được nghe bức thông điệp của Chúa
Giê-xu, được lan truyền nhanh chóng từ nước này sang nước khác.
Câu chìa khoá: “Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình,
song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều
người” (10:45)
Các nhân vật chính: Chúa Giê-xu, 12 môn đệ Ngài, Phi-lát, các lãnh tụ Do-
thái giáo.
Các địa điển chính: Ca-bê-na-um, Na-xa-rét, Sê-sa-rê Phi-líp, Giê-ri-cô, Bê-
tha-ni, Núi Ô-li-ve, Giê-ru-sa-lem, Gô-gô-tha.
Những nét đặc trưng: Có lẽ sách Mác là sách Phúc âm đã được viết đầu tiên.
Các sách Phúc âm khác trích dẫn trên dưới 31 câu của sách Mác. Sác Mác
ghi lại nhiều phép lạ hơn bất kỳ một sách Phúc âm nào.
Bố cục:
A. Sự giáng sinh và phần chuẩn bị cho Chúa Giê-xu người đầy tớ (1:1-13)
Chúa Giê-xu đã không âm thầm đến thế gian mà chẳng có lời báo trước, hay
chẳng được ai trông đợi, mong chờ. Các nhà tiên tri Cựu ước từng tiên báo
rõ ràng về sự giáng lâm của Một Nhân Vật Vĩ Đại, được chính Đức Chúa
Trời sai phái, sẽ ban sự cứu rỗi và hoà bình miên viễn cho cả dân Y-sơ-ra-ên
lẫn toàn thể thế giới. Rồi Giăng Báp-tít đã đến, thông báo rằng cuối cùng thì
Đấng Mê-si-a mà từ lâu mọi người đều mong đợi đã giáng thế, và chẳng bao
lâu nữa, sẽ có mặt giữa mọi người. Trong công việc của Đức Chúa Trời làm
cho thế giới hiện nay, Chúa Giê-xu đã không đến mà không có thông báo
trước, hay chẳng được ai trông đợi, mong chờ. Thế nhưng nhiều người vẫn
chối bỏ Ngài. Chúng ta có lời chứng của Thánh Kinh, nhưng một số người
lại chẳng cần biết tới bộ sách ấy, y như nhiều người đã xem thường chẳng
thèm biết tới Giăng Báp-tít trong thời của ông vậy.
B. Bức thông điệp và chức vụ của Chúa Giê-xu, là người đầy tớ (1:14-
13:37).
1. Chức vụ của Chúa Giê-xu trong xứ Ga-li-lê
2. Chức vụ của Chúa Giê-xu ngoài xứ Ga-li-lê
3. Chức vụ của Chúa Giê-xu tại Giê-ru-sa-lem
Chúa Giê-xu có đầy đủ quyền phép của Đức Chúa Trời toàn năng - Ngài
khiến kẻ chết sống lại, cho người mù sáng mắt, phục hồi các thân thể đã bị
biến dạng, và quở yên cả những vùng biển đầy bão tố. Nhưng với tất cả
quyền năng của mình, Chúa Giê-xu đã đến với nhân loại như một người đầy
tớ. Chúng ta có thể dùng cuộc đời Ngài để làm mẫu mực cho cách chúng ta
phải sống hôm nay. Như Chúa Giê-xu đã phục vụ Thượng Đế và tha nhân
thế nào, chúng ta cũng phải hành động y như thế.
C. Sự chết và sống lại của Chúa Giê-xu, người đầy tớ (14:1-16:20).
Chúa Giê-xu đã đến như một người đầy tớ, cho nên nhiều người đã không
nhận ra hoặc không chịu thừa nhận Ngài là Đấng Mê-si-a. Cả đến chúng ta
cũng phải thận trọng để khỏi chối bỏ Đức Chúa Trời hay ý chỉ Ngài, vì Ngài
không hoàn toàn khớp đúng với phần hình ảnh mà chúng ta tự vẽ ra là Đức
Chúa Trời phải như thế nào.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Chúa Cứu Thế Giê-xu
Phần lý giải: Chỉ một mình Chúa Cứu Thế Giê-xu mới là Con Đức Chúa
Trời. Trong sách Mác, Chúa Giê-xu chứng minh thần tánh Ngài bằng cách
chiến thắng bệnh tật, các quỉ, và sự chết. Tuy Ngài có quyền làm vua địa
cầu, Chúa Giê-xu đã vâng lời Cha Ngài để chịu chết thay cho chúng ta.
Tầm quan trọng: Lúc Chúa Giê-xu từ chết sống lại, Ngài đã chứng minh
Ngài là Đức Chúa Trời, có quyền tha tội, và có quyền thay đổi cuộc đời
chúng ta, bằng việc tin Ngài để được tha tội, chúng ta có thể bắt đầu một
cuộc đời mới, có Ngài làm người hướng dẫn mình.
Luận đề: Đầy tớ
Phần lý giải: Là Đấng Mê-si-a, Chúa Giê-xu làm ứng nghiệm những lời tiên
tri trong Cựu ước bằng cách đến thế gian. Ngài đã không đến với tư cách
một nhà vua đi chinh phục. Ngài đến như một tên đầy tớ. Ngài giúp nhân
loại bằng cách nói cho họ biết về Đức Chúa Trời và chữa lành cho họ. Hơn
nữa, bằng việc dâng mạng sống mình làm sinh tế chuộc tội, Ngài đã hoàn tất
hành động phục vụ tối hậu.
Tầm quan trọng: Do gương tốt của Chúa Giê-xu, chúng ta phải sẵn sàng
phục vụ Đức Chúa Trời và tha nhân. Sự cao trọng thật trong vương quốc của
Chúa Cứu Thế đã được chứng minh là bằng việc phục vụ và hi sinh. Tham
vọng hoặc tham quyền the, địa vị… không thể là động cơ thuc đẩy chúng ta
hành động; trái lại, chúng ta phải làm công việc Chúa vì yêu mến Ngài.
Luận đề: Phép lạ
Phần lý giải: Mác chép lại nhiều phép lạ hơn là các bài giảng của Chúa Giê-
xu. Rõ ràng Chúa Giê-xu là một con người của quyền năng và hành động,
chứ không phải chỉ nói suông. Chúa Giê-xu làm phép lạ để thuyết phục
người ta về Ngài là ai, và để dạy cho các môn đệ Ngài về lý lịch đích thực
của Ngài là chính Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Càng tin chắc Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ
càng thấy rõ quyền năng và tình yêu của Ngài. Các công việc quyền năng
của Ngài chứng minh cho chúng ta thấy Ngài có quyền cứu rỗi bất cứ ai, bất
chấp quá khứ của người ấy. Các phép lạ về sự tha tội của Ngài đem đến sự
chữa bệnh, lành lặn và làm thay đổi đời sống người tin cậy Ngài.
Luận đề: Truyền bá Phúc âm
Phần lý giải: Chúa Giê-xu hướng chức vụ trước nhất vào dân Do-thái. Lúc
các lãnh tụ Do-thái giáo chống lại Ngài, Chúa Giê-xu cũng đến với thế giới
không phải Do-thái, để chữa bệnh và giảng đạo. Các binh sĩ La-mã, người
Sy-ri và nhiều người ngoại quốc khác đã được nghe Tin Lành. Nhiều người
đã tin và theo Ngài. Bức thông điệp cuối cùng của Chúa Giê-xu cho các môn
đệ thách thức họ đi khắp thế gian để truyền giảng Phúc âm cứu rỗi.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu đã vượt các ranh giới quốc gia, chủng tộc và
kinh tế để truyền bá Tin Lành. Bức thông điệp về đức tin và sự tha tội của
Ngài được dành cho cả thế gian chứ không phải chỉ riêng cho Hội thánh,
hàng xóm hay quốc gia dân tộc chúng ta mà thôi. Chúng ta phải đến với
những người đang có nhu cầu ngoài chính dân tộc chúng ta để hoàn thành
khải tượng toàn cầu của Chúa Cứu Thế Giê-xu để mọi người ở khắp nơi đều
được nghe bức thông điệp quan trọng này, và được cứu khỏi tội lỗi và sự
chết.
Những địa điểm chính trong sách Mác: Trong cả bốn sách Phúc âm, cách
thuật sự trong sách Mác theo đúng thứ tự thời gian hơn cả - nghĩa là phần
lớn các câu chuyện đều được đặt vào các vị trí đúng theo thứ tự chúng đã
thật sự xảy ra. Tuy là sách ngắn nhất trong cả bốn sách Phúc âm, Mác hàm
chứa phần lớn các biến cố quan trọng; nó gói ghém phần hành động. Phần
lớn hành động này tập trung trong xứ Ga-li-lê, nơi Chúa Giê-xu bắt đầu chức
vụ. Ca-bê-na-um đã được Ngài dùng làm căn cứ hành quân (1:21; 2:1; 9:33)
để từ đó Ngài đi ra các thành phố khác như Bết-sai-đa - nơi Ngài chữa lành
cho một người mù (8:22 và tt), Ghê-nê-xa-rết nơi Ngài làm nhiều phép lạ
chữa bệnh (6:53 và tt). Ty-rơ và Si-đôn (ở xa về phía Bắc) - nơi Ngài chữa
lành cho nhiều người đuổi nhiều quỉ và gặp người phụ nữ Sy-rô Phê-ni-xi
(3:8; 7:24 và tt), và Sê-sa-rê Phi-líp nơi Phi-e-rơ tuyên bố Ngài là Đấng Mê-
si-a (8:27 và tt). Sau chức vụ tại Ga-li-lê và các vùng phụ cận của Ngài,
Chúa Giê-xu hướng về Giê-ru-sa-lem (10:1). Trước khi đến đó, Chúa Giê-xu
đã bảo trước với các môn đệ Ngài ba lần là Ngài sẽ phải bị đóng đinh vào
thập tự giá tại đây, nhưng rồi Ngài sẽ sống lại (8:31; 9:31; 10:33,34).

Dẫn nhập Lu-ca


Lời giới thiệu
Mỗi một lần sinh nở là một phép lạ, và mỗi một đứa con sinh ra, là một tặng
phẩm, một ân tứ của Đức Chúa Trời ban. Nhưng gần 20 thế kỷ trước đây, đã
có một phép lạ kỳ diệu nhất của các phép lạ. Một em bé đã ra đời, nhưng em
bé đó lại là Con Đức Chúa Trời. Các sách Phúc âm đều kể lại sự ra đời ấy,
nhưng với tư cách một bác sĩ phụ sản, Lu-ca đã cung cấp nhiều chi tiết nhất
chung quanh cơ hội có phần đáng sợ này. Với cha là Đức Chúa Trời còn mẹ
là người phàm, Chúa Giê-xu đã bước vào lịch sử: Đức Chúa Trời mang hình
hài thân xác con người.
Lu-ca khẳng định thần tánh của Chúa Giê-xu, nhưng điểm nhấn mạnh thật
sự trong quyển sách của ông lại là chứng minh phần nhơn tánh của Ngài -
Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, nhưng Ngài cũng là Con Người nữa. Là
bác sĩ, Lu-ca là một nhà khoa học và với tư cách một người Hi-lap, ông là
một con người tỉ mỉ, chi tiết. Cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên khi ông bắt
đầu phác hoạ công trình nghiên cứu sâu rộng của mình bằng cách giải thích
rằng ông sắp tường trình các sự kiện (1:1-4). Lu-ca là một bạn thân và là bạn
đồng hành của Phao-lô, cho nên ông có thể phỏng vấn nhiều môn đệ khác
của Chúa, đọc được nhiều phần ký thuật có giá trị sử ký khác, và là người
chứng kiến tận mắt sự ra đời và tăng trưởng của Hội thánh nguyên thủy.
Sách Phúc âm và sách Công vụ các sứ đồ của ông đều là tài liệu lịch sử đáng
tin.
Câu chuyện của Lu-ca bắt đầu với các thiên sứ hiện ra cùng Xa-cha-ri, rồi
với bà Ma-ri, báo tin về sự ra đời sắp tới của các con trai họ. Từ Xa-cha-ri và
Ê-li-sa-bét, Giăng Báp-tít, người dọn đường cho Chúa Cứu Thế sẽ ra đời.
Còn bà Ma-ri sẽ bởi Đức Thánh Linh mà mang thai Chúa Giê-xu, là Con
Đức Chúa Trời. Ngay sau khi Giăng ra đời, Sê-sa Au-gút-tơ đã ban hành
một lệnh kiểm tra dân số, nên bà Ma-ri và ông Giô-sép đã phải đến Bết-lê-
hem là thị trấn của Đa-vít, một ông tổ nhiều đời của họ. Tại đây, con trẻ đã
ra đời. Các thiên sứ đã thông báo biến cố vui mừng này cho những người
chăn chiên, và họ đã tức tốc tìm đến máng cỏ là nơi Chúa Cứu Thế đang
nằm. Khi các người chăn chiên từ giã ra về, họ lớn tiếng ca ngợi tán tụng
Đức Chúa Trời và loan truyền tin ấy. Tám ngày sau đó, Chúa Giê-xu chịu
phép cắt bì rồi được dâng cho Đức Chúa Trời trong đền thờ, nơi Si-môn và
An-ne xác nhận lý lịch của Chúa Giê-xu là Cứu Chúa, Đấng Mê-si-a của họ.
Lu-ca cung cấp cho chúng ta một cái nhìn lướt qua về Chúa Giê-xu năm
Ngài 12 tuổi - Ngài tranh luận về thần học với các giáo sư dạy luật tại đền
thờ (2:41-52). Biến cố xảy ra tiếp theo đó là nhiều năm về sau, khi chúng ta
được đọc về Giăng Báp-tít đang truyền giảng trong sa mạc. Chúa Giê-xu đã
đến với Giăng để chịu phép báp-tem trước khi bắt đầu chức vụ công khai
của Ngài (3:1-38). Tại đây, Lu-ca vẽ ra bảng gia phả của Chúa Giê-xu từ
phía cha nuôi Ngài là Giô-sép, qua Đa-vít, và Áp-ra-ham để trở về tận A-
đam, nhấn mạnh lý lịch của Chúa Giê-xu với tư cách Con người.
Sau khi chịu cám dỗ (4:1-13) Chúa Giê-xu đã trở về xứ Ga-li-lê để giảng
đạo, dạy dỗ và chữa bệnh (4:14-21:38). Trong giai đoạn này, Ngài bắt đầu
tập họp nhóm 12 môn đệ của mình (5:1-10,27-29). Về sau Chúa Giê-xu sai
phái các môn đệ ấy đi ra truyền giảng Nước Trời. Khi các vị trở về, Chua
Giê-xu đã tiết lộ cho họ về sứ mạng của Ngài, lý lịch đích thực của Ngài, và
vấn đề làm môn đệ thì có ý nghĩa gì (9:18-62). Sứ mạng của Ngài sẽ đưa
Ngài đến Giê-ru-sa-lem (9:51-55), nơi Ngài bị chối bỏ, bị xét xử, và đóng
đinh vào thập tự giá.
Trong khi Chúa Giê-xu vác thập tự giá của Ngài đến Gô-gô-tha, có nhiều
phụ nữ tại Giê-ru-sa-lem, đã vì Ngài mà khóc, nhưng Ngài bảo họ hãy khóc
vì chính họ và con cái họ (23:28). Nhưng sách Phúc âm Lu-ca đã không kết
thúc trong âu sầu. Nó chấm dứt bằng phần ký thuật đầy phấn khởi về việc
Chúa Giê-xu đã từ chết sống lại, về việc Ngài đã hiện ra với các môn đệ
Ngài, và lời hứa Ngài sẽ sai Đức Thánh Linh đến (24:1-53). Xin bạn hãy đọc
phần ký thuật chính xác mà Lu-ca đã viết thật đầy đủ về cuộc đời của Chúa
Giê-xu, là Con Người mà đồng thời cũng là Con Đức Chúa Trời. Rồi hãy ca
ngợi tán tụng Đức Chúa Trời vì đã sai Cứu Chúa đến với tất cả mọi người -
Ngài là Chúa đã sống lại và chiến thắng khải hoàn của chúng ta.
A. Những địa điểm chính trong sách Lu-ca:
Lu-ca bắt đầu phần ký thuật của ông trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, cho ta
phần bối cảnh về sự ra đời của Giăng Báp-tít, sau đó, chuyển sang thị trấn
Na-xa-rét và câu chuyện về bà Ma-ri, người đã được chọn làm mẹ của Chúa
Giê-xu (1:26 và tt). Do hậu quả của chiếu chỉ truyền lệnh kiểm tra dân số
của Sê-sa, bà Ma-ri và ông Giô-sép phải đến Bết-lê-hem, là nơi Chúa Giê-xu
phải ra đời để ứng nghiệm lời tiên tri (2:1 và tt). Chúa Giê-xu lớn lên ở Na-
xa-rét và bắt đầu chức vụ bằng việc chịu cho Giăng làm phép báp-tem
(3:21,22), và chịu ma quỉ cám dỗ (4:1 và tt). Phần lờn chức vụ Ngài tập
trung tại Ga-li-lê - Ngài xem Ca-bê-na-um là “quê hương” mình (4:3 và tt)
để từ đó Ngài giảng dạy cho cả khu vực ấy (8:1 và tt). Về sau Ngài đến thăm
vùng Ghê-ra-sê nơi Ngài đã chữa lành cho một người bị quỉ ám (8:36 và tt).
Ngài hoá bánh cho hơn 5.000 người ăn trong một bữa ăn trên bờ biển Ga-li-
lê gần Bết-sai-đa (9:10 và tt). Chúa Giê-xu luôn luôn đến Giê-ru-sa-lem để
dự các kỳ lễ lớn, và Ngài vui vẻ đi thăm các bạn thân trong làng Bê-tha-ni
gần đó (10:38 và tt). Ngài từng chữa lành cho một người cùi tại vùng biên
giới giữa xứ Ga-li-lê và xứ Sa-ma-ri (17:11) và giúp một nhân viên thu thuế
bất lương tại Giê-ri-cô làm thay đổi cuộc đời (19:1 và tt). Hai ngôi làng nhỏ
là Bê-pha-giê và Bê-tha-ni trên núi Ô-li-ve vốn là những nơi nghỉ ngơi của
Chúa Giê-xu trong những ngày cuối cùng Ngài còn tại thế. Ngài bị đóng
đinh vào thập tự giá phía ngoài các tường thành Giê-ru-sa-lem, nhưng Ngài
đã sống lại. Trong số các môn đệ đầu tiên được nhìn thấy Chúa Cứu Thế
phục sinh, có hai người trên con đường dẫn đến Em-ma-út (24:13 và tt).
B. Các niên đại
-Hê-rốt Đại-đế bắt đầu trị vì năm 37 TC.
-Chúa Giê-xu giáng sinh năm 6/5 TC.
-Đào thoát sang Ai-cập, 5/4 TC.
- Hê-rốt Đại-đế thăng hà năm 4TC.
-Trở về Na-xa-rét, 4/3 TC.
-Xứ Giu-đê trở thành một tỉnh của La-Mã năm 6 SC.
-Hoàng đế Thi-be lên Ngôi năm 6/7.
-Bôn-xơ Phi-lát được bổ nhiệm tổng trấn năm 26.
-Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ Ngài năm 26/27.
-Chúa Giê-xu chọn mười hai môn đệ năm 28.
-Chúa Giê-xu hóa bánh cho năm ngàn người ăn năm 29.
-Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá, sống lại và thăng thiên, năm 30.
C. Những đặc điểm quan trọng
Chủ đích: Để trình bày một phần ký thuật chính xác về cuộc đời của Chúa
Cứu Thế, và để giới thiệu Chúa Cứu Thế vừa là một con người vừa là Đấng
Cứu Thế trọn vẹn.
Trước giả: Lu-ca một thầy thuốc (CoCl 4:14), một Cơ-đốc nhân người Hi-
lạp và là người ngoại quốc. Ông là người ngoại quốc duy nhất được biết là
một trước giả viết Tân ước. Lu-ca là một bạn thân và bạn đồng hành của
Phao-lô. Ông cũng viết sách Công vụ các sứ đồ, và hai quyển sách này đi
đôi với nhau.
Đọc giả: Cho Thê-ô-phi-lơ ("một người yêu mến Đức Chúa Trời"), những
người ngoại quốc, và mọi người ở khắp nơi.
Niên đại trước tác: Khoảng năm 60 SC
Bối cảnh: Lu-ca viết sách này tại Rô-ma hoặc cũng có thể là tại Sê-sa-rê.
Câu chìa khoá: “Đức Chúa Giê-xu bèn phán rằng: Hôm nay sự cứu đã vào
nhà này, vì người này cũng là con cháu Áp-ra-ham. Bởi Con người đã đến
tìm và cứu kẻ bị mất” (LuLc 19:9,10)
Các nhân vật chính: Chúa Gê-xu, Ê-li-sa-bét, Xa-cha-ri, Giăng Báp-tít, bà
Ma-ri, các môn đệ Chúa, Hê-rốt Đại đế, Phi-lát, Ma-ri Ma-đơ-len.
Các địa điểm chính: Bết-lê-hem, Ga-li-lê, Giu-đê, Giê-ru-sa-lem.
Những nét đặc trưng: Đây là sách Phúc âm toàn diện nhất. Từ vựng và dụng
ngữ phổ cập chứng minh trước giả là một người có học vấn. Ông thường đề
cập các chứng bệnh và chẩn bệnh. Lu-ca nhấn mạnh việc Chúa Giê-xu giao
du với mọi người. chú trọng vào việc cầu nguyện, các phép lạ và các thiên
sứ; ghi lại những bài thánh ca tán tụng được linh cảm và dành một vị trí nổi
bật cho phụ nữ. Phần lớn đoạn từ 9:51-18:43 không thấy có trong bất kỳ một
sách Phúc âm nào khác.
Bố cục
A. Sự giáng sinh và phần chuẩn bị cho Chúa Giê-xu là Cứu Chúa (1:1-4:13
Từ một em bé tự mình chẳng làm được gì, Chúa Giê-xu đã lớn lên để trở
thành một con người có đầy đủ tài năng để hoàn thành sứ mạng của mình
trên đất này. Ngài là một con người trọn vẹn tự phát triển về mọi phương
diện y như chúng ta. Thế nhưng Ngài cũng vẫn là Đức Chúa Trời trọn vẹn.
Ngài đã không chọn lấy những lối đi tắt và không hề tự cô lập hoá khỏi mọi
áp lực và cám dỗ của cuộc đời. Với chúng ta cũng chẳng có lối đi tắt nào cả
khi chuẩn bị cuộc đời mình để phục vụ Đức Chúa Trời.
B. Bức thông điệp và chức vụ của Cứu Chúa Giê-xu (4:14-21-38)
1. Chức vụ của Chúa Giê-xu trong xứ Ga-li-lê
2. Chức vụ của Chúa Giê-xu trên đường đến Giê-ru-sa-lem.
3. Chức vụ của Chúa Giê-xu tại Giê-ru-sa-lem.
Chúa Giê-xu dạy dỗ nhiều đám quần chúng đông đảo, đặc biệt là bằng ẩn dụ,
là những câu chuyện kể hàm chứa nhiều chân lý quan trọng. Nhưng chỉ có
những ai chịu chú ý lắng nghe thì mới hiểu mà thôi. Chúng ta hãy cầu xin
Thánh Linh của Đức Chúa Trời giúp chúng ta thấu hiểu các hàm ý của
những chân lý này đối với đời sống chúng ta, để chúng ta có thể cứ ngày
càng giống Chúa Giê-xu hơn.
C. Sự chết và sống lại của Chúa Giê-xu, là Cứu Chúa (22:1-24:53).
Cứa Chúa của thế gian đã bị bắt và xử tử. Nhưng sự chết đã không hủy diệt
được Ngài, và Chúa Giê-xu đã sống lại và thăng thiên. Trong bộ sách ký
thuật tỉ mỉ, đầy giá trị sử ký của Lu-ca, chúng ta nhận được nhiều sự kiện về
sự sống lại của Chúa Giê-xu. Chúng ta chẳng những phải tin rằng các sự
kiện ấy là thật mà còn phải tin Chúa Cứu Thế làm Cứu Chúa của mình nữa.
Thật là thiển cận nếu chúng ta bỏ qua sự kiện này, nhưng cũng đáng buồn
biết bao nếu chúng ta chấp nhận các sự kiện ấy, nhưng lại bỏ qua sự tha tội
mà Chúa Giê-xu dành cho mỗi người chúng ta.
D. Các đại đề mục:
Luận đề: Chúa Cứu Thế Giê-xu là Cứu Chúa.
Phần lý giải: Lu-ca mô tả thế nào Con Đức Chúa Trời đã đi vào lịch sử nhân
loại. Chúa Giê-xu đã sống như một tấm gương về một con người trọn vẹn.
Sau chức vụ trọn vẹn, Ngài cung cấp một sinh tế trọn vẹn vì tội lỗi của
chúng ta, để chúng ta có thể được cứu.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu là người lãnh đạo và Cứu Chúa trọn vẹn của
chúng ta. Ngài ban sự tha tội cho tất cả những ai chịu tiếp nhận Ngài làm
Cứu Chúa cuộc đời họ và tin rằng điều Ngài phán đó là thật.
Luận đề: Sử ký
Phần lý giải: Lu-ca là một y sĩ và là sử gia. Ông chú trọng nhiều vào các
niên đại và chi tiết, kết hợp Chúa Giê-xu với các biến cố và nhiều con người
trong lịch sử.
Tầm quan trọng: Lu-ca ghi lại nhiều chi tiết để chúng ta có thể tin rằng cuộc
đời của Chúa Giê-xu là đáng tin. Càng quan trọng hơn nữa, là chúng ta có
thể tin chắc rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời.
Luận đề: Con người
Phần lý giải: Chúa Giê-xu quan tâm sâu sắc đến con người và các mối liên
hệ giữa họ. Ngài chứng tỏ thái độ quan tâm nồng ấm đến những người theo
Ngài và các bạn thân của Ngài - người nam, người nữ và trẻ con.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu yêu thương mọi người là tin mừng cho tất cả.
Bức thông điệp của Ngài dành cho tất cả mọi người thuộc mọi quốc gia dân
tộc. Mỗi người chúng ta đều được cơ hội để đáp lại với Ngài bằng đức tin.
Luận đề: Lòng nhân ái
Phần lý giải: Là một con người trọn vẹn, Chúa Giê-xu bày tỏ thiện cảm và
thương xót với người nghèo khổ, bị khinh dể tổn thương và tội lỗi. Ngài
không khước từ hay bỏ quên một ai cả.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu vượt xa một ý niệm hay một giáo sư - Ngài lo
lắng chăm sóc cho bạn. Chỉ có loại tình yêu sâu sắc đó mới thoả mãn được
nhu cầu của bạn mà thôi.
Luận đề: Đức Thánh Linh
Phần lý giải: Đức Thánh Linh hiện diện khi Chúa Giê-xu ra đời, chịu phép
báp-tem thi hành chức vụ và sống lại, Chúa Giê-xu đã sống lệ thuộc vào
Đức Thánh Linh để nêu gương trọn vẹn cho chúng ta.
Tầm quan trọng: Đức Thánh Linh đã được Đức Chúa Trời sai xuống để xác
nhận uy quyền của Chúa Giê-xu. Đức Thánh Linh được ban xuống là để
giúp mọi người có thể sống cho Chúa Cứu Thế. Bởi đức tin, chúng ta có thể
được sự hiện diện và quyền năng của Đức Thánh Linh để làm chứng và phục
vụ.
Dẫn nhập Giăng
Lời giới thiệu
Khi lời Ngài phán ra, thì các thiên hà vận chuyển đến vị trí của chúng, các vì
sao bùng lên trên các từng trời, và các hành tinh bắt đầu xoay theo quỹ đạo
chung quanh mặt trời - thật là những lời phán đáng sợ, vô hạn, đầy năng lực.
Rồi Ngài lại cất tiếng, thì trong nước và trên đất có đầy dẫy thảo mộc và sinh
vật chạy nhảy, bơi lội, tăng trưởng, và nhân bội lên - thật là những lời sinh
động, đầy sinh khí, đầy sức sống rộn rã Rồi Ngài lại lên tiếng, thì người nam
và người nữ thành hình, biết suy nghĩ, nói năng, và yêu thương - thật là
những lời lẽ đầy vinh quang cá nhân và sáng tạo. Đấng Tạo Hoá và là Chúa
Tể của tất cả những gì đang hiện hữu vốn là Đấng đã, đang và sẽ vĩnh viễn
hiện hữu đời đời vô hạn, vô biên.
Rồi Ngài lại đến bằng hình hài thân xác con người với một mảnh vụn trong
vũ trụ gọi là hành tinh địa cầu. Đấng Tạo Hoá toàn năng đã trở thành một
phần của cõi thọ tạo, chịu cho thời gian và không gian giới hạn mình, sẵn
sàng chịu sự chi phối của tuổi tác, bệnh tật và sự chết. Nhưng tình yêu
thương đã thúc giục Ngài, nên Ngài đã đến để cứu vớt những ai đang hi
vọng để ban cho họ quà tặng là cõi vĩnh hằng. Ngài chính là Ngôi Lời, là
Chúa Giê-xu, Đấng Cứu Thế.
Trong sách này, sứ đồ Giăng đã đem đến cho chúng ta chân lý ấy. Sách Phúc
âm của Giăng không phải là một quyển sách viết về cuộc đời của Chúa Giê-
xu; nó là một luận cứ mạnh mẽ cho sự nhập thể, một phần chứng minh dứt
khoát rằng Chúa Giê-xu vốn là, và hiện là chính Con Đức Chúa Trời được
thiên đàng sai xuống, và là nguồn mạch duy nhất của sự sống vĩnh hằng.
Giăng tiết lộ ngay lý lịch của Chúa Giê-xu bằng những chữ đầu tiên của ông:
“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức
Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời” (1:1,2) và phần còn lại của
quyển sách tiếp tục luận đề ấy. Giăng là người được chứng kiến tận mắt, đã
chọn ra tám trong số rất nhiều phép lạ (hay dấu lạ theo cách gọi của ông) để
phô bày bản tính vừa là Đức Chúa Trời mà cũng vừa là người của Chúa Cứu
Thế và sứ mạng làm sinh tế của Ngài. Các dấu lạ đó là 1. hoá nước thành
rượu (2:1-11). 2. chữa lành con trai quan thị vệ (4:46-54). 3. chữa lành người
bại tại ao Bê-tết-đa (5:1-9), 4. hoá bánh cho 5.000 người ăn chỉ bằng mấy ổ
bánh với vài con cá (6:1-14), 5. đi bộ trên mặt nước (6:15-21), 6. chữa cho
người mù được sáng mắt (9:1-41), 7. khiến La-xa-rơ từ chết sống lại (11:1-
44), và sau khi sống lại, 8. ban cho các môn đệ Ngài một mẻ lưới lạ lùng
(21:1-14).
Trong từng chương sách, thần tánh của Chúa Giê-xu đã được phơi bày. Và
lý lịch đích thực của Chúa Giê-xu đã được nhấn mạnh bằng các danh hiệu
dành cho Ngài - Ngôi Lời, Đấng có Một và Duy nhất, Chiên Con của Đức
Chúa Trời, Con Đức Chúa Trời, bánh (mì) thật, sự sống, sự sống lại, cây nho
và công thức là “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu”. Khi Chúa Giê-xu dùng
mệnh đề này, là Ngài xác nhận sự hiện hữu ngay từ trước và thần tánh đời
đời của mình. Chúa Giê-xu phán: Ta là bánh hằng sống (6:35); Ta là người
chăn chiên hiền lành (10:11,14); Ta là sự sống lại và sự sống (11:25); Ta là
đường đi, chân lý và sự sống (14:6); và Ta là gốc nho thật (15:1).
Lẽ dĩ nhiên, dấu lạ lớn nhất là sự sống lại, nên Giăng cung ứng một trong
những ký thuật sinh động nhất được chứng kiến tận mắt là việc tìm thấy
phần mộ trống. Rồi ông ghi thêm nhiều lần xuất hiện khác nhau của Chúa
Giê-xu sau khi Ngài đã sống lại.
Giăng là người hết lòng theo Chúa Cứu Thế đã trình bày cho chúng ta chính
cái nhìn cá nhân và sáng suốt của ông về Chúa Giê-xu, là Con đời đời của
Đức Chúa Trời. Sau khi đọc truyện tích của ông, mong rằng bạn cũng sẽ tự
hiến thân để tin Ngài và bước theo Ngài.
Các niên đại quan trọng
-Hê-rốt Đại-đế bắt đầu trị vì năm 37 TC.
-Chúa Giê-xu giáng sinh năm 6/5 TC.
-Đào thoát sang Ai-cập, 5/4 TC.
- Hê-rốt Đại-đế thăng hà năm 4TC.
-Trở về Na-xa-rét, 4/3 TC.
-Xứ Giu-đê trở thành một tỉnh của La-Mã năm 6 SC.
-Hoàng đế Thi-be lên Ngôi năm 6/7.
-Bôn-xơ Phi-lát được bổ nhiệm tổng trấn năm 26.
-Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ Ngài năm 26/27.
-Chúa Giê-xu chọn mười hai môn đệ năm 28.
-Chúa Giê-xu hóa bánh cho năm ngàn người ăn năm 29.
-Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá, sống lại và thăng thiên, năm 30.
Các đặc điểm quan trọng
Chủ đích: Để chứng minh dứt khoát rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa
Trời, và rằng tất cả những ai tin Ngài đều sẽ được sự sống vĩnh hằng.
Trước giả: Sứ đồ Giăng, con trai Xê-bê-đê, em Gia-cơ còn được gọi là “Con
trai của sấm sét”.
Đọc giả: Cho các Cơ-đốc nhân mới tin, và những người không phải Cơ-đốc
nhân nhưng muốn tìm hiểu.
Niên đại trước tác: Có thể vào 85-90 SC.
Bối cảnh: Được viết sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ vào năm 70 SC
và trước khi Giăng bị đày sang đảo Bát-mô.
Câu chìa khóa: GiGa 20:30,31 “Đức Chúa Giê-xu đã làm trước mặt môn đồ
Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách này. Nhưng các
việc này đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Giê-xu là Đấng
Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài
mà được sự sống”.
Các nhân vật chính: Chúa Giê-xu, Giăng Báp-tít, các môn đệ Chúa, Ma-ri,
Ma-thê, La-xa-rơ, mẹ Chúa Giê-xu, Phi-lát, Ma-ri Ma-đơ-len.
Các địa điểm chính: Miền quê xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, xứ Ga-li-lê, Bê-tha-
ni, Giê-ru-sa-lem.
Những nét đặc trưng: Trong số tám phép lạ đựơc ghi lại, có đến sáu là chỉ
được một mình Giăng ghi chép (so với các sách Phúc âm khác) như “Bài
thuyết giảng tại Phòng cao” (các chương 14-17). Hơn 90% những gì Giăng
chép lại là độc đáo cho sách Phúc âm của ông - sách Giăng không có bảng
gia phả hay bất kỳ một phần ký thuật nào về sự ra đời, thuở ấu thời, sự cám
dỗ, hoá bánh, chỉ định các môn đệ của Chúa Giê-xu, cũng chẳng có phần ký
thuật nào liên hệ đến các ẩn dụ, sự thăng thiên hay Lời ủy thác Trọng đại của
Ngài.
Bố cục
A. Sự giáng sinh và chuẩn bị của Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời (1:1-
2:11)
Giăng vạch rõ rằng Chúa Giê-xu không phải chỉ là một con người, mà Ngài
còn là Con đời đời của Đức Chúa Trời nữa. Ngài là ánh sáng cho thế giới vì
đã ban ân tứ (quà tặng) là sự sống vĩnh hằng cho cả nhân loại. Chỉ gọi Chúa
Giê-xu là một giáo sư thánh thiện hay đạo đức hiếm thấy, thì chẳng có gì mù
quáng và dại dột bằng. Thế nhưng lắm khi chúng ta vẫn hành động dường
như nhận xét đó là đúng khi thỉnh thoảng chúng ta chỉ trôi dạt chung quanh
các lời phán dạy của Ngài và cứ tiếp tục sống theo ý riêng. Nếu Chúa Giê-xu
chính là Con đời đời của Đức Chúa Trời, chúng ta phải chú ý đến lai lịch của
Ngài vốn là từ trời xuống, và bức thông điệp ban sự sống của Ngài.
B. Thông điệp và chức vụ của Chúa Giê-xu, là Con Đức Chúa Trời (2:12-
12:50).
1. Chúa Giê-xu đối phó với những người tin và không tin trong dân chúng.
2. Chúa Giê-xu đối đầu với các lãnh tụ tôn giáo.
3. Chúa Giê-xu đối phó với các biến cố tại Giê-ru-sa-lem. Chúa Giê-xu đã
chạm mặt với nhiều cá nhân truyền giảng cho nhiều đám quần chúng đông
đảo, huấn luyện các môn đệ Ngài, và tranh luận với các lãnh tụ tôn giáo.
Bức thông điệp thông báo Ngài là Con Đức Chúa Trời đã nhận được đủ loại
phản ứng phức tạp. Một số người đã tôn thờ Ngài, một số thì hoang mang,
một số khác thối lui, và một số khác nữa lại quyết tâm khiến cho Ngài phải
im lặng. Ngày nay, chúng ta cũng thấy có nhiều phản ứng khác nhau y như
thế. Thời gian có thay đổi, nhưng lòng người thì vẫn cứng cỏi. Nguyện
chúng ta được thấy rõ bản thân trong những cuộc chạm mặt của Chúa Giê-
xu với dân chúng, và nguyện chúng ta sẽ đáp lại với Ngài bằng việc thờ
phượng và noi theo dấu chân Ngài.
C. Sự chết và sống lại của Chúa Giê-xu, là Con Đức Chúa Trời (13:1-21:25).
1. Chúa Giê-xu dạy dỗ các môn đệ Ngài.
2. Chúa Giê-xu hoàn thành sứ mạng.
Chúa Giê-xu đã cẩn thận dạy bảo các môn đệ Ngài phương pháp để cứ tiếp
tục giữ lòng tin, cả sau khi Ngài đã chết, thế nhưng các vị đã không lãnh hội
được. Sau khi Ngài chịu chết, và có những báo cáo đầu tiên phản hồi rằng
Ngài vẫn còn sống, các môn đệ Ngài đã không tin điều đó. Người ta đặc biệt
nhớ lại Thô-ma như một người không chịu tin, cả khi ông được nghe nhiều
môn đệ khác của Chúa kể lại những điều tai nghe mắt thấy của mình.
Nguyện chúng ta đừng như Thô-ma, cứ đòi phải có việc mặt đối mặt thuộc
thể, nhưng xin chúng ta tin nhận lời chứng của các môn đệ khác đã được
mục kích mọi sự việc, mà Giăng đã ghi lại trong sách Phúc âm của ông.
Các đại đề mục
Luận đề: Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con Đức Chúa Trời.
Phần lý giải: Giăng chứng minh cho chúng ta thấy rằng Chúa Giê-xu là Con
Một đặc biệt của Đức Chúa Trời, thế nhưng Ngài vẫn hoàn toàn là Đức
Chúa Trời. Vì Ngài là Đức Chúa Trời trọn vẹn, nên Chúa Giê-xu có thể bày
tỏ cho chúng ta thật rõ ràng và chính xác về Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Vì Chúa Giê-xu là Con đời đời của Đức Chúa Trời, chúng
ta có thể tin cậy trọn vẹn những gì Ngài phán dạy. Nhờ tin cậy Ngài, chúng
ta được mở tâm trí để thấu hiểu thông điệp của Đức Chúa Trời và hoàn
thành ý định của Ngài cho đời sống chúng ta.
Luận đề: Sự sống vĩnh hằng.
Phần lý giải: Vì Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời. Ngài sống miên viễn. Trước
khi có thế gian, Ngài đã cùng sống với Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ trị vì mãi
mãi với Đức Chúa Trời. Trong sách Giăng, chúng ta thấy Chúa Giê-xu tự
bày tỏ mình ra bằng quyền năng và vẻ oai nghiêm ngay trước khi Ngài từ kẻ
chết sống lại.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu ban sự sống vĩnh hằng cho chúng ta. Chúng ta
được mời gọi hãy bắt đầu sống trong mối liên hệ cá nhân và vĩnh hằng với
Ngài, được bắt đầu ngay từ bây giờ. Tuy chúng ta lớn lên và chết đi, nhờ tin
cậy Ngài chúng ta có thể có được sự sống mới sẽ tồn tại mãi mãi.
Luận đề: Tin.
Phần lý giải: Giăng chép lại tám dấu lạ hay phép lạ đặc thù, chứng minh cho
bản tính quyền năng và tình yêu của Chúa Giê-xu. Chúng ta được thấy
quyền năng của Ngài trên muôn loài thọ tạo, và thấy tình yêu của Ngài đối
với tất cả mọi người. Các dấu hiệu ấy khích lệ chúng ta tin nơi Ngài.
Tầm quan trọng: Tin là tin cậy tích cực, sống động và liên tục rằng Chúa
Giê-xu chính là Đức Chúa Trời. Khi nào chúng ta tin cuộc đời, lời phán dạy,
sự chết và sự sống lại của Ngài, chúng ta được tẩy sạch tội lỗi và được
quyền đi theo Ngài. Nhưng chúng ta phải đáp lại Ngài bằng cách tin Ngài.
Luận đề: Đức Thánh Linh.
Phần lý giải: Chúa Giê-xu dạy các môn đệ Ngài rằng sau khi Ngài lên trời,
thì Đức Thánh Linh sẽ đến. Chừng đó, Ngài sẽ ngự trong lòng họ, hướng
dẫn, khuyên dạy và an ủi nhiều người theo Chúa Giê-xu. Qua Đức Thánh
Linh hiện diện và quyền năng của Chúa Giê-xu được nhân bội trong tất cả
những người tin.
Tầm quan trọng: Qua Thánh Linh của Đức Chúa Trời, chúng ta được kéo
đến gần Ngài bởi đức tin. Muốn thông hiểu mọi điều Chúa Giê-xu dạy,
chúng ta phải biết rõ Đức Thánh Linh. Chúng ta có thể từng trải tình yêu và
sự chỉ dẫn của Chúa Giê-xu khi để Đức Thánh Linh thực hiện công tác của
Ngài trong chúng ta.
Luận đề: Sống lại.
Phần lý giải: Đến ngày thứ ba sau khi chịu chết. Chúa Giê-xu đã từ chết
sống lại. Việc này đã được các môn đệ Ngài và nhiều người tai nghe mắt
thấy, kiểm chứng. Việc này đã thật sự thay đổi các môn đệ Chúa, từ chỗ sợ
hãi chạy trốn thành những lãnh tụ năng động trong Hội thánh mới được
thành lập. Sự kiện này là nền tảng của Cơ-đốc giáo theo Ngài hằng ngày.
Tầm quan trọng: Chúng ta có thể thay đổi như các môn đồ ngày xưa, để tin
cậy rằng thân thể chúng ta sẽ sống lại để sống với Đấng Christ đời đời. Cũng
như năng lực từ sự sống lại của Đấng Christ có thể giúp chúng ta theo Ngài
mỗi ngày.

Dẫn nhập Công Vụ Các Sứ Đồ


Những địa danh chủ chốt trong sách Công vụ các Sứ Đồ
Các chuyến du hành truyền giáo của sứ đồ Phao-lô được ghi lại trong phần
lớn quyển sách này. Ông từng du hành trên nhiều tuyến đường dài gian nan
để truyền bá Phúc Âm không mệt mỏi khắp phần lớn La-mã đế quốc. Tất cả
các chuyến đi của ông, cả bằng đường bộ lẫn đường biển cộng lại, đã dài
hơn 13.000 dặm theo đường chim bay.
1. Giu-đê: Chúa Giê-xu thăng thiên tại núi Ô-li-ve, ngoài thành Giê-ru-sa-
lem, và các môn đệ Ngài trở vào thành phố để chờ được đổ đầy Đức Thánh
Linh, là việc đã xảy ra vào ngày lễ Ngũ Tuần. Phi-e-rơ đã giảng một bài đầy
quyền năng cho người Do Thái từ khắp nơi của đế quốc về dự lễ đều được
nghe. Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem tăng trưởng, nhưng Ê-tiên đã tử đạo do
các lãnh tụ Do Thái giáo không tin Chúa Giê-xu (Cong Cv 1:1-7:59) .
2. Sa-ma-ri: Sau cái chết của Ê-tiên, việc bắt bớ bách hại gia tăng cường độ,
nhưng biến cố ấy khiến các tín hữu rời khỏi Giê-ru-sa-lem để truyền bá Phúc
Âm cho nhiều thành phố khác trong đế quốc. Phi-líp đem Phúc Âm đến cho
dân Sa-ma-ri, và cả cho một người từ Ê-thi-ô-bi đến nữa (8:1-40) .
3. Sy-ri: Phao-lô (Sau-lơ) bắt đầu truyện tích của ông như một người bắt bớ
bách hại các Cơ Đốc nhân, chỉ để rồi phải trực diện với chính Chúa Giê-xu
trên con đường đi Đa-mách. Ông trở thành một tín hữu, nhưng đức tin mới
của ông đã gây nhiều chống đối, nên ông phải trở về quê quán là Tạt-sơ để
được an toàn. Ba-na-ba đã tìm gặp Phao-lô tại Tạt-sơ và đưa ông đến Hội
thánh An-ti-ốt, xứ Sy-ri, nơi hai vị cùng cộng tác với nhau. Trong thời gian
ấy, Phao-lô thấy một khải tượng đã đưa ông đến Sê-sa-rê, nơi ông giới thiệu
Phúc Âm cho một gia đình người ngoại quốc khiến họ trở thành Cơ Đốc
nhân (9:1-12:25) .
4. Chíp-rơ và Ga-la-ti: Phao-lô và Ba-na-ba được Hội thánh tại An-ti-ốt xứ
Sy-ri biệt riêng ra cho công việc của Đức Chúa Trời là truyền bá Phúc Âm
cho các thành phố khác. Hai vị đã thực hiện chuyến du hành truyền giáo đầu
tiên đến đảo Chíp-rơ và Ga-la-ti (13:1-14:28) .
5. Giê-ru-sa-lem: Ý kiến trái ngược nhau giữa các Cơ Đốc nhân người Do
Thái với các Cơ Đốc nhân người ngoại quốc về vấn đề giữ luật pháp đã dẫn
tới một giáo hội nghị đặc biệt, có các ủy viên từ các Hội thánh ở An-ti-ốt và
Giê-ru-sa-lem cùng họp nhau tại Giê-ru-sa-lem. Hội nghị cùng giải quyết
cuộc tranh chấp và tin tức được đưa về An-ti-ốt (15:1-35) .
6. Ma-xê-đoan: Ba-na-ba du hành đến Chíp-rơ, trong khi Phao-lô thực hiện
chuyến lưu hành truyền giáo thứ hai của mình. Ông thăm lại các Hội thánh
tại Ga-la-ti và hướng về Ê-phê-sô, nhưng Đức Thánh Linh đã ngăn trở ông.
Ông bàn chuyển sang hướng Bắc để đến Bi-thi-ni và Bông, nhưng một lần
nữa, ông đã được bảo là không nên đi. Sau đó, ông nhận được “tiếng gọi của
một người Ma-xê-đoan”, nên theo sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh để vào
các thành phố của xứ Ma-xê-đoan (15:36-17:14)
7. A-chai:Phao-lô du hành từ Ma-xê-đoan đến A-then và Cô-rinh-tô trong xứ
A-chai, rồi đi tàu đến Ê-phê-sô trước khi quay trở lại Sê-sa-rê, Giê-ru-sa-
lem, và cuối cùng là trở về An-ti-ốt (17:15-18:22) .
8. Ê-phê-sô: Chuyến du hành truyền giáo thứ ba của Phao-lô đưa ông trở lại
Si-li-si và Ga-la-ti và lần này thì ông đến thẳng Ê-phê-sô thuộc A-si. Ông
viếng thăm nhiều thành phố khác nữa trong tỉnh A-si trước khi trở lại Ma-
xê-đoan và A-chai. Rồi ông trở về Giê-ru-sa-lem, bằng tàu, dù biết rằng
người ta đang chờ để bắt giữ ông ở đó (18:23-23:30)
9. Sê-sa-rê: Phao-lô bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và giải sang An-ti-ba-tri, rồi đến
Sê-sa-rê do một toán quân La-mã. Phao-lô luôn luôn lợi dụng bất luận một
cơ hội nào để chia xẻ Phúc Âm, và ông đã làm như thế trước mặt nhiều lãnh
tụ người ngoại quốc. Vì Phao-lô khiếu nại lên hoàng đế La-mã (Sê-sa), nên
ông đã bắt đầu chuyến đi dài đến Rô-ma (23:31-36:32) .
10. Rô-ma: Sau nhiều trận bão, nhiều lần đổ bộ lên đảo Cơ-rết và bị đắm tàu
tại đảo Man-tơ, Phao-lô đã đến được Si-si-lơ, và cuối cùng là nước Ý, nơi
ông du hành bằng đường bộ, có lính canh, đến địa chỉ phải đến mà từ lâu
ông đã chờ đợi, là Rô-ma, thủ đô của đế quốc (27:1-28:31) .
Các niên đại
- Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá; lễ Ngũ tuần; Hội thánh khai sinh
30SC
- Ê-tiên tử đạo; Sau-lơ ăn năn quy đạo 35 SC
- Phao-lô trở lại Tạt-sơ 38 SC
- Ba-na-ba đi tìm Phao-lô 43 SC
- Gia-cơ tử đạo; Phi-e-rơ bị tù 44 SC
- Chuyến du hành truyền giáo thứ nhất của Phao-lô 46-48 SC
- Giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem 50 SC
- Chuyến du hành truyền giáo thứ hai của Phao-lô 50-52 SC
- Chuyến du hành truyền giáo thứ ba của Phao-lô 53-57 SC
- Nero lên ngôi hoàng đế 54 SC
- Phao-lô bị cầm tù tại Sê-sa-rê 57-59 SC
- Chuyến du hành đến Rô-ma của Phao-lô 59 SC
- Phao-lô được trả tự do 62 SC
- Phao-lô tuận đạo 67 SC
- La-mã phá hủy Giê-ru-sa-lem 70 SC
Các đặc điểm quan trọng
Chủ đích: Trình bày một phần ký thuật chính xác về sự ra đời và tăng trưởng
của Hội thánh Chúa Cứu Thế.
Trước giả: Lu-ca (một y sĩ người ngoại quốc).
Đọc giả: Thê-ô-phi-lơ và toàn thể những người theo Đức Chúa Trời.
Niên đại sách được viết ra: Giữa 63 và 70 SC.
Bối cảnh: Sách Công vụ là mắc xích nối liền đời sống của Chúa Cứu Thế
với đời sống của Hội thánh, nối liền các sách Phúc Âm với các Thư tín.
Câu chìa khóa: “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các
ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem,
cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri cho đến cùng trái đất” (Cong Cv 1:8)
Các nhân vật chính: Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Ê-tiên, Phi-líp, Phao-lô, Ba-na-
ba, đại đội trưởng Cọt-nây, Gia-cơ (em Chúa Giê-xu), Ti-mô-thê, Ly-đi, Si-
la, Tít, A-bô-lô, A-ga-bút, A-na-nia, Phê-lít, Phê-tu, Ạc-ríp-ba, Lu-ca.
Các địa danh chính: Giê-ru-sa-lem, Sa-ma-ri, Ly-đa, Giốp-bê, An-ti-ốt,
Chíp-rơ, Bi-si-đi, Y-cô-ni, Lít-trơ, Đẹt-bơ, Phi-líp, Tê-sa-lô-ni-ca, Bê-rê, A-
then, Cô-rinh-tô, Ê-phê-sô, Sê-sa-rê, Man-tơ, Rô-ma.
Những nét đặc trưng: Sách Công vụ là phần tiếp theo sách Phúc Âm Lu-ca.
Vì sách Công vụ kết thúc đột ngột, có lẽ Lu-ca có kế hoạch viết một sách
thứ ba nữa để tiếp tục câu chuyện.
Lời giới thiệu
Bằng một cử động của các ngón tay, sự ma sát xảy ra, và một tia lửa phụt lên
từ chiếc diêm quẹt bén sang mảnh bùi nhùi. Một ngọn lửa nhỏ đốt cháy các
phần ngoài và tăng trưởng, được gỗ và không khí cung cấp phần nhiên liệu.
Sức nóng nảy sinh và và chẳng bao lâu, từ nơi nhóm lửa xuất hiện những
lưỡi lửa màu đỏ cam. Lửa càng dâng cao và càng lan rộng, thiêu hủy nhiều
củi. Ngọn lửa nhỏ đã trở thành một đám lửa.
Gần 2.000 năm trước đây, một cây diêm quẹt đã được đánh lên tại xứ
Palestine. Thoạt tiên, chỉ có vài người trong cái gác nhỏ bé đó của thế giới
đã được chạm đến và làm cho nóng lên; nhưng ngọn lửa đã tràn lan, vượt
khỏi Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đê ra cả thế gian cho tất cả mọi người. Sách
Công vụ cung cấp một phần ký thuật được chứng kiến tận mắt về ngọn lửa
và đám lửa ấy - là sự ra đời và bành trướng của Hội thánh. Bắt đầu từ Giê-
ru-sa-lem với một nhóm nhỏ các môn đệ của Chúa, bức thông điệp ấy đã du
hành xuyên qua La-mã đế quốc. Được Đức Thánh Linh ban quyền năng cho,
nhóm người can đảm này đã truyền giảng, dạy dỗ, chữa bệnh, và chứng
minh tình yêu trong các hội trường, trường học, trên núi, trên tàu, và trên các
con đường của sa mạc - khắp nơi nào mà Đức Chúa Trời phái họ đến và sinh
hoạt tại đó, và thế là lịch sử thế giới đã được thay đổi.
Được Lu-ca viết như phần tiếp theo sách Phúc Âm của ông, sách Công là
một quyển sử ký chính xác của Hội thánh nguyên thủy. Nhưng sách Công vụ
còn là một sách thần học nữa, với những bài học và những tấm gương sinh
động về công tác của Đức Thánh Linh, của các mối liên hệ và sự tổ chức
Hội thánh, các hàm ý của ân điển, và quy luật của tình yêu. Và sách Công vụ
cũng là một tác phẩm biện giải học, xây dựng một vỏ bọc vững chắc cho
những lời tuyên xưng và hứa hẹn có giá trị của Cơ Đốc giáo.
Sách Công vụ bắt đầu với việc Đức Thánh Linh đã hứa được đổ xuống và
xuất phát điểm của công tác truyền bá Phúc Âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Phúc Âm được Thánh Linh cảm ứng này bắt đầu tại Giê-ru-sa-lem và sau
đó, đã lan tràn đến Rô-ma, phủ trùm phần lớn La-mã đế quốc. Thoạt tiên,
Phúc Âm đến với dân Do Thái; nhưng họ đã chối bỏ. Lẽ dĩ nhiên là có một
phần sót lại của dân Do Thái đã vui vẻ tiếp nhận Tin Lành. Nhưng việc phần
lớn dân Do Thái vẫn tiếp tục chối bỏ khiến Tin mừng ấy cứ ngày càng được
truyền bá sâu rộng hơn cho người ngoại quốc. Đây chính là kế hoạch của
Chúa Giê-xu: Phúc Âm phải từ Giê-ru-sa-lem xuất phát, rồi truyền ra trong
xứ Giu-đê, truyền sang xứ Sa-ma-ri, và cho đến tận các địa cực (1:8) . Thật
vậy, đây quả đúng là khuôn mẫu mà phần ký thuật của sách Công vụ noi
theo. Cuộc truyền bá quang vinh bắt đầu tại Giê-ru-sa-lem (các chương 1-7)
rồi truyền sang xứ Giu-đê và Sa-ma-ri (chương 8 và các chương tiếp theo),
và các xứ xa hơn Giu-đê nữa (11:19; 13:4, và cho đến cuối sách Công vụ).
Nửa phần sau của sách Công vụ chú trọng trước hết vào các chuyến du hành
truyền giáo của Phao-lô cho nhiều quốc gia ở miền Bắc Địa Trung hải. Ông
cùng các bạn đồng hành đã đem Phúc Âm đến trước nhất là cho người Do
Thái, rồi sau đó mới đến người ngoại quốc. Một số người Do Thái đã tin, và
nhiều người ngoại quốc cũng vui mừng tin nhận Phúc Âm. Nhiều Hội thánh
mới đã mọc lên, và nhiều tín hữu mới bắt đầu tăng trưởng trong sinh hoạt Cơ
Đốc nhân.
Khi bạn đọc sách Công vụ hãy tự đặt mình vào địa vị của các môn đệ Chúa -
đồng cảm với họ trong việc được đổ đầy Đức Thánh Linh và cùng rung động
với họ khi thấy hằng ngàn người đáp lại thông điệp Phúc Âm. Hãy cảm nhận
sự tận hiến của họ khi họ dâng tất cả cả tài năng và tài sản cho Chúa Cứu
Thế. Và khi bạn đọc sách ấy, hãy theo dõi thái độ mạnh dạn do được Thánh
Linh hướng dẫn của số tín hữu hồi thế kỷ thứ nhất này, là những người từng
vượt qua đau khổ và trực diện với cái chết để tận dụng mọi cơ hội nói về
Chúa đã chịu đóng đinh vào thập tự giá rồi sống lại cho họ. Sau đó, hãy
quyết định trở thành những người nam người nữ mang khải tượng từ Đức
Chúa Trời đến cho thế kỷ này.
Bố cục
A. Chức vụ của Phi-e-rơ
(1:1-12:25)
1. Thành lập Hội thánh
2. Bành trướng Hội thánh
Sau khi Chúa Cứu Thế Giê-xu phục sinh, Phi-e-rơ đã mạnh dạn truyền giảng
đạo và thực hiện nhiều phép lạ. Các hành động của ông đã chứng minh thật
sinh động nguồn gốc và tác dụng của quyền năng của Cơ Đốc giáo. Nhờ có
Đức Thánh Linh, những người thuộc về Đức Chúa Trời được ban cho quyền
năng của Cơ Đốc giáo và năng lực để hoàn thành nhiệm vụ. Hiện nay Đức
Thánh Linh vẫn sẵn sàng ban quyền năng cho các tín hữu. Chúng ta phải
trông chờ vào Đức Thánh Linh để được ban cho sức lực, lòng can đảm, và
cái nhìn thông tuệ hầu hoàn tất công tác vì Đức Chúa Trời của chúng ta.
B. Chức vụ của Phao-lô (13:1-2:31)
1. Chuyến du hành truyền giáo thứ nhất
2. Giáo hội nghị tại Giê-ru-sa-lem
3. Chuyến du hành truyền giáo thứ hai
4. Chuyến du hành truyền giáo thứ ba
5. Phao-lô bị xét xử
Những cuộc phiêu lưu truyền giáo của Phao-lô vạch rõ cho chúng ta thấy sự
tiến bộ của Cơ Đốc giáo. Phúc Âm không thể bị giữ chặt trong một góc nhỏ
của thế giới. Đây là một đạo đem hi vọng đến cho toàn thể nhân loại. Chúng
ta cũng phải mạo hiểm tiến lên dự phần vào nhiệm vụ anh hùng này để làm
chứng về Chúa Cứu Thế cho cả thế giới.
Các đại đề mục
Luận đề: Thời khai sinh của Hội thánh.
Phần giải thích: Sách Công vụ là sử ký về giai đoạn Cơ Đốc giáo được thành
lập cũng như đã giải quyết các vấn đề trong tổ chức Hội thánh đầu tiên.
Cộng đồng các tín hữu đã bắt đầu bởi đức tin đặt vào Chúa Cứu Thế phục
sinh và vào quyền năng của Đức Thánh Linh, Đấng ban cho họ tài năng để
làm chứng, giúp họ yêu thương và phục vụ.
Tầm quan trọng: Nhiều Hội thánh cứ liên tục được thiết lập. Bởi đức tin đặt
vào Chúa Cứu Thế và nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh, Hội thánh có
thể trở thành một tác nhân sinh động làm thay đổi. Khi nào chúng ta gặp
những vấn đề mới, sách Công vụ cung cấp cho chúng ta những phương
thuốc quan trọng để giải quyết.
Luận đề: Đức Thánh Linh
Phần giải thích: Hội thánh đã không tự khai sinh hoặc tăng trưởng bằng
quyền năng hay hăng say của riêng mình. Các môn đệ Chúa đã được Thánh
Linh của Đức Chúa Trời ban cho quyền năng. Ngài là Đấng An Ủi và hướng
dẫn đã được Chúa Giê-xu hứa là Ngài sẽ sai đến lúc Ngài về trời.
Tầm quan trọng: Công tác của Đức Thánh Linh chứng minh rằng Cơ Đốc
giáo là siêu nhiên. Như thế, Hội thánh càng ý thức về Đức Thánh Linh nhiều
hơn là ý thức về vấn đề xảy ra. Bởi đức tin, bất cứ tín hữu nào cũng có thể
cầu xin quyền năng của Đức Thánh Linh để làm công việc Chúa.
Luận đề: Sự tăng trưởng của Hội thánh
Phần giải thích: Sách Công vụ trình bày sử ký của một cộng đồng tín hữu
luôn luôn năng động, tăng trưởng, bành trướng từ Giê-ru-sa-lem sang Sy-ri,
Phi châu, Á châu và Âu châu. Trong thế kỷ thứ nhất, Cơ Đốc giáo đã lan
truyền từ người Do Thái tin Chúa sang cho những người không phải là Do
Thái trong 39 thành phố và 30 quốc gia, hải đảo hoặc tỉnh.
Tầm quan trọng: Khi Đức Thánh Linh hành động thì có sự chuyển động,
phấn khởi và tăng trưởng. Ngài ban cho chúng ta động lực thúc đẩy, năng
lực và tài năng để đưa Phúc Âm đến cho toàn thế giới. Bạn thích hợp như
thế nào cho kế hoạch bành trướng của Cơ Đốc gáo? Đâu là vai trò của bạn
trong phong trào đang biến chuyển này?
Luận đề: Làm chứng đạo
Phần giải thích: Các sứ đồ Phi-e-rơ, Giăng, Phi-líp, Phao-lô, Ba-na-ba và
nhiều người khác nữa đã làm chứng cho đức tin mới mẻ đặt vào Chúa Cứu
Thế của họ. Bằng phương pháp cá nhân chứng đạo, truyền giảng hoặc tự bào
chữa trước các nhà cầm quyền, họ đã kể lại câu chuyện đổi thay của đời
mình thật mạnh dạn và can đảm cho nhiều nhóm người đủ mọi thành phần
xã hội.
Tầm quan trọng: Chúng ta là dân của Đức Chúa Trời, được tuyển chọn để
tham dự kế hoạch đến với thế gian. Bằng tình yêu và đức tin, chúng ta được
sự trợ giúp của Đức Thánh Linh để làm chứng đạo hoặc truyền giảng Phúc
Âm. Làm chứng đạo cũng lợi ích cho chúng ta vì nó củng cố đức tin cho
chúng ta khi phải đối đầu với mọi thách thức.
Luận đề: Chống đối
Phần giải thích: Qua tù đày, đánh đập, âm mưu giết hại và biểu tình phản
đối, Cơ Đốc nhân đã bị cả người Do Thái, kẻ vô tín lẫn ngoại quốc bắt bớ
bách hại. Nhưng sự chống đối chỉ trở thành lò luyện để Cơ Đốc giáo bành
trướng mà thôi. Sự tăng trưởng qua cơn chống đối đã chứng minh Cơ Đốc
giáo không phải là công việc của loài người, nhưng là của Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời có thể hành động qua bất cứ cách chống đối
nào. Khi những kẻ vô tín đối xử khắc nghiệt với bạn, khá biết rằng nó sở dĩ
đến vì bạn là một chứng nhân trung tín và đã biết lợi dụng cơ hội để giới
thiệu Phúc Âm về Chúa Cứu Thế. Hãy tận dụng các cơ hội mà sự chống đối
đưa đến.

Dẫn nhập Rô-ma


Lời giới thiệu
Vốn là một người giàu kiến thức và kinh nghiệm, Uỷ viên công tố của toà án
khu vực trình bày vụ án của mình. Gọi các nhân chứng chủ chốt ra trước
vành móng ngựa, ông ta đưa ra phần chứng cứ hiển nhiên. Sau khi bài bác
lời biện hộ của các chứng nhân bằng cách khéo léo duyệt xét qua tất cả, ông
ta đưa ra một bản tóm tắt đã được đúc kết thật chặt chẽ và một lời thách thức
đầy phấn khởi cho hội đồng xét xử. Bản án được tuyên rao chẳng làm cho ai
phải ngạc nhiên cả. Viên chánh án tuyên bố: “Phạm nhân đã phạm tội...”; và
thế là công lý đã được phục vụ.
Sứ đồ Phao-lô là một người thông minh, nói năng khúc chiết rõ ràng, và là
người tận hiến đời mình cho tiếng gọi thiêng liêng. Như một luật gia tài giỏi,
ông đã trình bày vụ án của Phúc âm thật rõ ràng và thẳng thắn trong bức thư
ông gởi cho các tín hữu tại Rô-ma.
Phao-lô từng nghe nói về Hội thánh tại Rô-ma, nhưng ông chưa bao giờ ở
đó, cũng như chưa từng có vị sứ đồ nào khác đã từng đến đó. Rõ ràng là Hội
thánh đã được bắt đầu do số người Do-thái đã theo đạo trong ngày lễ Ngũ
tuần (Cong Cv 2:1-47). Khi trở về Rô-ma, họ đã tuyên bố đạo mà họ đã tin,
và Hội thánh đã tăng trưởng.
Tuy có nhiều chướng ngại vật phân cách họ, Phao-lô cảm thấy mình bị ràng
buộc với những người Rô-ma này. Họ là các anh chị em của ông trong Chúa
Cứu Thế, và ông ao ước được nhìn thấy họ mặt đối mặt. Ông chưa từng góp
phần lớn các tín hữu tại đó, thế nhưng ông yêu mến họ. Ông đã gởi bức thư
này để tự giới thiệu và đưa ra một bản tuyên ngôn rõ ràng của đạo.
Sau phần dẫn nhập ngắn gọn, Phao-lô trình bày các sự kiện về Phúc âm
(RoRm 1:3) và tuyên bố về việc ông đầu phục Chúa Giê-xu (RoRm
1:16,17). Ông tiếp tục bằng cách xây dựng một hồ sơ chặt chẽ về vụ án nhân
loại bị diệt vong và sự cần thiết của việc Đức Chúa Trời phải can thiệp vào
(1:18-3:20).
Phao-lô trình bày Tin Lành - sự cứu rỗi dành cho tất cả mọi người, bất chấp
lý lịch, tội lỗi hay quyền thừa kế của người ấy. Chúng ta được cứu là nhờ ân
điển (đặc ân của Thượng Đế mà chúng ta chẳng thể chiếm đoạt, cũng không
xứng đáng để được nhận lãnh) bởi đức tin (lòng tin cậy trọn vẹn) vào Chúa
Cứu Thế và công lao đã được hoàn tất của Ngài. Nhờ Ngài, chúng ta có thể
đứng trước mặt Đức Chúa Trời và được kể là công chính “không có tội”
(3:21-5:21). Với phần nền tảng này, Phao-lô chuyển thẳng sang phần thảo
luận về sự tự do nhận được vì đã được cứu - quyền tự do đối với quyền năng
của tội lỗi (6:1-23), quyền tự do đối với ách thống trị của luật pháp (7:1-25)
quyền tự do để trở thành người giống như Chúa Cứu Thế và phát giác được
tình yêu vô hạn của Đức Chúa Trời (8:1-39).
Nói thẳng với các đồng bào Do-thái của ông, Phao-lô chia sẻ mối quan tâm
của ông dành cho họ, và giải thích họ có thể thích nghi với kế hoạch của
Đức Chúa Trời như thế nào (9:1-11:12).
Đức Chúa Trời đã mở đường cho người Do-thái và ngoại quốc cùng hợp
nhất trong thân thể của Chúa Cứu Thế - cả hai nhóm người đó đều có thể ca
ngợi tán tụng Đức Chúa Trời về sự khôn ngoan và tình yêu của Ngài (11:13-
36).
Phao-lô giải thích sống hoàn toàn đầu phục Chúa Cứu Thế có nghĩa gì - nó
có nghĩa là tận dụng các ân tứ thuộc linh để phục vụ tha nhân (12:3-8), thế
nào là thật lòng yêu tha nhân (12:9-21) và trở thành những công dân tốt
(13:1-14). Tự do phải được tình yêu hướng dẫn khi chúng ta cùng xây dựng
lẫn nhau trong đức tin, nhạy cảm và giúp đỡ những người yếu đuối (14:1-
15:4). Phao-lô nhấn mạnh trên sự hợp nhất, nhất là giữa người ngoại quốc và
người Do-thái (15:5-13). Ông kết luận bằng cách ôn lại các lý do khiến ông
phải viết bức thư này, vạch ra sơ lược các kế hoạch của ông (15:22-33), chào
thăm các bạn thân của ông, và đưa ra những ý nghĩ cuối cùng và những lời
chào thăm của các bạn đồng hành của ông (16:2-27).
Trong khi bạn đọc thư Rô-ma hãy xét lại vấn đề đã tận hiến cho Chúa Cứu
Thế và tái xác nhận các mối liên hệ giữa bạn với các tín hữu khác trong thân
thể của Chúa Cứu Thế.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Giới thiệu Phao-lô với người Rô-ma và đưa ra một kiểu mẫu của
bức thông điệp của ông trước khi ông đến Rô-ma.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho các Cơ-đốc nhân ở Rô-ma và các tín hữu khắp nơi.
Niên đại sách được viết ra: Khoảng năm 57 SC, từ Cô-rinh-tô, lúc Phao-lô
chuẩn bị chuyến viếng thăm Giê-ru-sa-lem của ông.
Bối cảnh: Rõ ràng là Phao-lô vừa hoàn tất công tác ở phía Đông, nên ông
định ghé thăm Rô-ma trên đường đi Tây-ban-nha sau lần đầu tiên ông đến
Giê-ru-sa-lem đem số tiền quyên trợ cho các Cơ-đốc nhân ở đó (15:23-28).
Hội thánh tại Rô-ma gồm phần đông là người Do-thái, nhưng cũng có một
số lớn người ngoại quốc.
Câu chìa khoá: “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được
hoà thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta” (5:1)
Các nhân vật chính: Phao-lô, bà Phê-bê.
Địa điểm chính: Rô-ma
Những nét đặc trưng: Phao-lô viết sách Rô-ma như một bản tuyên ngôn
được tổ chức và trình bày cẩn thận về đức tin (đạo) của ông - nó không có
hình thức của một bức thư điển hình. Tuy nhiên, ông vẫn dành nhiều thì giờ
để chào thăm nhiều người ở Rô-ma trong phần cuối của bức thư.
Bố cục:
A. Tin gì (1:1-11:31)
1. Loài người vốn đầy tội lỗi
2. Sự tha tội nhờ công lao của Chúa Cứu Thế
3. Được tự do đối với tội lỗi
4. Quá khứ, hiện tại và tương lai của dân Y-sơ-ra-ên
Rõ ràng là Phao-lô đang trình bày phần nền móng của Cơ-đốc giáo. Mọi
người đều phạm tội; Chúa Cứu Thế đã chịu chết để tha tội; chúng ta được
phục hoà với Đức Chúa Trời bởi đức tin; điều này bắt đầu một cuộc đời mới
và một mối liên hệ mới với Đức Chúa Trời. Cũng như một đội thể thao luôn
luôn tập dượt các động tác cơ bản, chúng ta sẽ được ích lợi rất nhiều trong
đức tin (đạo) nhờ bám sát vào các nền móng đó. Nếu chúng ta học tập
nghiên cứu thư Rô-ma thật cẩn thận, chúng ta sẽ không bị thiếu kiến thức
trong vấn đề phải tin gì.
B. Ăn ở cư xử như thế nào (12:1-16:27)
1. Trách nhiệm cá nhân
2. Những dặn dò riêng tư
Phao-lô đưa ra cho các tín hữu người Rô-ma các chỉ dẫn rõ ràng và thực
tiễn. Cuộc đời làm Cơ-đốc nhân không phải là thần học trừu tượng chẳng
liên quan gì với sinh hoạt hằng ngày, nhưng có nhiều hàm ý thực tiễn, ảnh
hưởng đến việc chọn cách ăn ở cư xử mỗi ngày của chúng ta. Chỉ biết Phúc
âm mà thôi thì chưa đủ; chúng ta còn phải để cho nó biến đổi cuộc đời của
chúng ta, và để Đức Chúa Trời thâm nhập từng phương diện của đời sống
chúng ta.
Các đại đề mục
Luận đề: Tội
Phần giải thích: Không vâng theo ý chỉ Đức Chúa Trời và không làm theo
những gì Đức Chúa Trời muốn là phạm tội. Vì A-đam đã phản loạn chống
lại Đức Chúa Trời, nên bản tính của chúng ta là không vâng lời Ngài. Tội lỗi
chúng ta khiến chúng ta bị phân rẽ, cách biệt với Đức Chúa Trời. Tội lỗi
khiến chúng ta muốn sống theo ý riêng thay vì noi theo đường lối của Đức
Chúa Trời. Vì Đức Chúa Trời vốn trọn vẹn, công chính và công bằng về
phương diện luân lý đạo đức, nên Ngài kết án tội lỗi là đúng.
Tầm quan trọng: Mỗi người đều đã phạm tội, hoặc vì phản loạn chống lại
Đức Chúa Trời, hoặc vì không biết ý chỉ Ngài. Cho dù bối cảnh của chúng ta
là gì, hay chúng ta đã khổ công cố tìm cách sống thánh thiện và đạo đức như
thế nào, chúng ta không thể nào chiếm đoạt hay được trả bằng sự cứu rỗi hay
tự cất tội lỗi của mình đi. Chỉ một mình Chúa Cứu Thế mới cứu được chúng
ta mà thôi.
Luận đề: Sự cứu rỗi
Phần giải thích: Tội lỗi của chúng ta cần phải được tha thứ và thanh tẩy. Tuy
chúng ta không xứng đáng để được như thế, bởi lòng nhân từ Ngài, Đức
Chúa Trời đã lấy tình thương và sự tha thứ để đến với chúng ta. Ngài cung
cấp cho chúng ta một phương pháp (con đường, đạo) để có thể được cứu rỗi.
Sự chết của Chúa Cứu Thế đã trả xong phần trừng phạt dành cho tội lỗi
chúng ta.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời cứu chúng ta khỏi tội lỗi, là Tin Lành, Tin
Mừng, là Phúc âm. Chúng ta phải tin Chúa Cứu Thế Giê-xu, và tin rằng
Ngài đã tha tội cho chúng ta để chúng ta bước vào một mối liên hệ mới mẻ
và kỳ diệu với Đức Chúa Trời.
Luận đề: Sự tăng trưởng
Phần giải thích: Nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời, các tín hữu được thánh
hoá - nghĩa là được khiến nên thánh. Điều này có nghĩa là chúng ta được biệt
riêng ra để không còn vương vấn với tội lỗi nữa, và có thể vâng lời để trở
thành ngày càng giống với Chúa Cứu Thế hơn. Lúc chúng ta tăng trưởng
trong mối liên hệ với Chúa Cứu Thế, thì Đức Thánh Linh giải thoát chúng ta
khỏi các đòi hỏi của luật pháp và sự sợ hãi bị phán xét.
Tầm quan trọng: Vì chúng ta đã được tự do không còn bị tội lỗi các đòi hỏi
của luật pháp và sự sợ hãi bị Đức Chúa Trời đoán phạt cai trị kiểm soát nữa,
chúng ta có thể tăng trưởng trong mối liên hệ với Chúa Cứu Thế. Nhờ tin
cậy vào Đức Thánh Linh và để cho Ngài giúp mình, chúng ta có thể thắng
hơn tội lỗi và sự cám dỗ.
Luận đề: Quyền tể trị
Phần giải thích: Đức Chúa Trời giám sát và chăm sóc cho người thuộc về
Ngài - cả trong quá khứ, hiện tại, lẫn tương lai. Đức Chúa Trời luôn luôn đối
xử tốt với mọi người. Vì Đức Chúa Trời cầm quyền trên toàn cõi thọ tạo,
Ngài có thể cứu bất cứ ai tuỳ ý.
Tầm quan trọng: Do lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời, cả người
Do-thái lẫn ngoại quốc đều có thể được cứu. Mọi người chúng ta đều phải
đáp lại lòng nhân từ thương xót của Ngài và tin nhận để được tha tội vô điều
kiện (miễn phí cho không) đó. Vì Ngài là Đấng cầm quyền tể trị tối cao, hãy
để cho Ngài ngự trị trong lòng bạn.
Luận đề: Sự phục vụ
Phần giải thích: Khi chủ đích của chúng ta là tin cậy Đức Chúa Trời vì tình
yêu, quyền năng Ngài, và Ngài có thể giúp chúng ta làm mọi sự đều đạt mức
trọn vẹn, chúng ta có thể phục vụ Ngài thật phải lẽ. Phục vụ Ngài khiến toàn
thể các tín hữu hợp nhất và giúp họ chứng tỏ tình yêu thương và sự nhạy
cảm của mình đối với tha nhân.
Tầm quan trọng: Chẳng một ai trong chúng ta có thể tự làm cho mình trở
thành giống như Chúa Cứu Thế được - điều này đòi hỏi cả thân thể của Chúa
Cứu Thế (Hội thánh) phải biểu hiện Chúa Cứu Thế thật trọn vẹn. Nhờ tích
cực và cật lực gây dựng nhiều tín hữu khác, các Cơ-đốc nhân có thể hoà hợp
với nhau trong việc phục vụ Đức Chúa Trời.

Dẫn nhập I Cô-rinh-tô


Lời giới thiệu
Trên một thảm cỏ, da con kỳ nhông chuyển thành màu xanh lục. Trên mặt
đất thì nó màu nâu. Con vật thay đổi cho phù hợp với môi trường sống.
Nhiều loài thọ tạo hoà mình trong cõi thiên nhiên bằng bộ áo nguỵ trang
Chúa cho để giúp chúng tồn tại. Thích nghi hoá và hoà mình vào trong môi
trường sống là điều tự nhiên. Nhưng những người theo Chúa là những con
người (đã được tạo nên) mới, được sinh ra từ trên cao và được biến đổi từ
bên trong, với các giá trị và nếp sống tương phản với thế gian và va chạm
với các quan niệm luân lý đạo đức đã được mọi người chấp nhận. Các tín
hữu chân chính không thể dễ dàng hoà mình vào đó.
Các Cơ Đốc nhân tại Cô-rinh-tô đang chiến đấu với môi trường sống vây
quanh họ. Bị sự băng hoại và đủ mọi thứ tội lỗi mà người ta có thể quan
niệm được bao vây, họ cảm thấy có áp lực buộc phải thích nghi hoá. Họ biết
trong Chúa Cứu Thế, họ đã được tự do nhưng sự tự do đó có nghĩa gì? Họ
phải nhìn các thần tượng hay tình dục như thế nào? Họ phải có thái độ như
thế nào đối với hôn nhân, với phụ nữ trong Hội Thánh, và các ân tứ của Đức
Thánh Linh? Những vấn đề này vượt hẳn những câu hỏi, những thắc mắc có
tính cách thần học - Hội Thánh đang bị thói vô luân vô đạo và sự ấu trĩ thuộc
linh phá hoại ngầm. Đức tin của người tín hữu đang bị thử thách trong môi
trường luyện lọc, và nhiều người trong số họ đã không qua nổi cuộc trắc
nghiệm này.
Phao-lô được nghe về những cuộc chiến đấu của họ, nên viết bức thư này để
đề cập các vấn đề, hàn gắn các mối chia rẽ, và giải đáp các thắc mắc của họ.
Ông đặt họ trực diện với các tội lỗi của mình và nhu cầu phải có hành động
sửa sai và tận hiến rõ ràng cho Chúa Cứu Thế.
Sau một nhập đề ngắn gọn (ICo1Cr 1:1-8), Phao-lô lập tức quay sang các
câu hỏi liên hệ đến sự hợp nhất (1:10-4:31). Ông nhấn mạnh bức thông điệp
rõ ràng và đơn giản của Phúc âm mà toàn thể các tín hữu phải đoàn kết lại
chung quanh đó; ông giải thích vai trò của các cấp lãnh đạo Hội Thánh; và
ông khuyến giục họ tăng trưởng trong đức tin của mình.
Rồi Phao-lô đề cập thói vô luân vô đạo của một số thành viên của Hội Thánh
và các vấn đề kiện cáo nhau giữa các Cơ Đốc nhân (5:1-6:8). Ông dạy họ
phải thực thi kỷ luật (sửa trị) trong Hội Thánh và tự dàn xếp lấy các vấn đề
nội bộ. Vì có nhiều vấn đề trong Hội Thánh Cô-rinh-tô có liên hệ với tình
dục, Phao-lô tố giác tội dâm dục bằng những lời lẽ nặng nề nhất có thể có
(6:9-20).
Tiếp theo đó, Phao-lô giải đáp một số các câu hỏi của người Cô-rinh-tô. Vì
nạn mại dâm và vô luân vô đạo cứ thâm nhập dai dẳng, sinh hoạt hôn nhân
tại Cô-rinh-tô lại trì trệ, và nhiều Cơ Đốc nhân không biết chắc phải phản
ứng ra sao. Phao-lô đã đưa ra nhiều giải đáp sắc sảo và thực tiễn (7:1-40).
Về vấn đề thịt đã cúng cho các thần tượng, Phao-lô gợi ý chúng ta phải
chứng tỏ thái độ tận hiến cho Chúa Cứu Thế, mà nhạy cảm đối với các tín
hữu khác, nhất là với các anh chị em yếu đuối hơn (8:1-11:2).
Phao-lô tiếp tục dạy về việc thờ phượng, và ông giải thích vai trò của phụ
nữ, Tiệc thánh, và các ân tứ thuộc linh (11:3-14:39). Xen vào giữa đoạn sách
này, là phần mô tả tuyệt vời về ân tứ quan trọng là tình yêu thương (chương
13). Rồi Phao-lô kết thúc bằng một phần thảo luận về sự sống lại (15:1-58),
một số các ý nghĩ, những lời chào thăm và một lời chúc phước sau cùng
(16:1-24).
Trong bức thư này, Phao-lô đã trực diện với người Cô-rinh-tô về các tội lỗi
và thuyết nhược điểm của họ. Và Thư ICô-rinh-tô kêu gọi toàn thể các Cơ
Đốc nhân phải cẩn thận chớ có hoà mình sống lẫn lộn với người thế gian và
chấp nhận các giá trị cũng như các nếp sống của họ. Chúng ta phải sống tập
trung vào Chúa Cứu Thế, không chỗ chê trách, có lối sống đầy tình yêu
thương để vì Đức Chúa Trời mà được phân biệt với người thế gian. Trong
khi bạn đọc ICô-rinh-tô, hãy tự xét lại các quan niệm về giá trị của mình
trong làn ánh sáng là sự tận hiến cho Chúa Cứu Thế.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để nhận diện các vấn đề trong Hội Thánh Cô-rinh-tô nhằm đưa ra
các giải pháp và để dạy các tín hữu cách phải sống cho Chúa Cứu Thế trong
một xã hội băng hoại.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Hội Thánh tại Cô-rinh-tô và Cơ Đốc nhân ở khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng 55 SC, gần cuối giai đoạn ba năm thi hành chức
vụ của Phao-lô tại Ê-phê-sô, trong vòng lưu hành truyền giáo thứ ba của
ông.
Bối cảnh: Cô-rinh-tô là một thành phố quốc tế lớn, một hải cảng và là một
trung tâm giao thương quan trọng - là thành phố quan trọng nhất trong xứ
(tỉnh) A-chai. Nó cũng đầy các thần tượng và nếp sống vô luân vô đạo. Hội
Thánh gồm phần lớn người ngoại quốc. Phao-lô đã lập Hội Thánh này trong
vòng lưu hành truyền giáo thứ hai của ông.
Câu chìa khoá: “Hỡi anh em, tôi nhơn danh Đức Chúa Giê-xu Christ chúng
ta, khuyên anh em thảy đều phải đồng một tiếng nói với nhau, chớ phân rẽ
nhau ra, nhưng phải hiệp một ý một lòng cùng nhau” (ICo1Cr 1:10)
Các nhân vật chính: Phao-lô, Ti-mô-thê, các thành viên trong gia đình Cơ-
lô-ê.
Những nét đặc trưng: Đây là một bức thư có lời lẽ mạnh mẽ, bộc trực.
Bố cục:
[td A. Phao-lô đề cập các vấn đề của Hội Thánh (ICo1Cr 1:1-6:20)
1. Các phe đảng trong Hội Thánh
2. Tình trạng hỗn loạn trong Hội Thánh
Vì Phao-lô vắng mặt, Hội Thánh Cô-rinh-tô đã sa vào tình trạng chia rẽ và
mất trật tự. Đây là hậu quả của nhiều vấn đề mà Phao-lô thẳng thắn đề cập.
Chúng ta phải quan tâm đến sự hợp nhất và trật tự trong các chi hội địa
phương của chúng ta, nhưng không nên lầm lẫn tình trạng im lìm bất động
để duy trì trật tự, với thái độ thân thiện đã đoàn kết với nhau. Chúng ta cũng
phải thẳng thắn đề cập các vấn đề trong Hội Thánh của chúng ta.
B. Phao-lô giải đáp các câu hỏi của Hội Thánh (7:1-16:24)
1. Lời chỉ giáo về hôn nhân theo Cơ Đốc giáo
2. Lời chỉ giáo về quyền tự do của Cơ Đốc nhân
3. Lời chỉ giáo về sự thờ phượng công cộng
4. Lời chỉ giáo về sự sống lại
Người Cô-rinh-tô đã gởi cho Phao-lô một loạt câu hỏi, và ông đã trả lời họ
theo một phương pháp nhằm sửa sai các lạm dụng trong Hội Thánh để
chứng minh đời sống của họ với những gì họ tin vốn quan trọng như thế nào.
Phao-lô đưa ra cho chúng ta một phương pháp để giải quyết các vấn đề của
Cơ Đốc giáo. Ông phân tích vấn đề thật thấu đáo để khám phá ra các vấn đề
ẩn giấu, rồi đề cao các giá trị của Cơ Đốc giáo phải áp dụng để hướng dẫn
các hành động của chúng ta.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Lòng trung thành
Phần lý giải: Người Cô-rinh-tô đua nhau “về phe” với nhiều lãnh tụ Hội
Thánh và giáo sư khác nhau - Phi-e-rơ, Phao-lô và A-bô-lô. Sự trung thành
như thế dẫn tới thái độ kiêu ngạo tri thức và tạo tinh thần chia rẽ trong Hội
Thánh.
Tầm quan trọng: Lòng trung thành của chúng ta với các lãnh tụ hay người
khôn ngoan (chỉ là con người) không bao giờ nên dẫn tới việc chia bè kết
đảng. Chúng ta phải lo lắng chăm sóc cho các tín hữu bạn, chứ không phải là
đấu tranh với họ. Chúng ta đều phải đầu phục Chúa Cứu Thế. Hãy để Ngài
lãnh đạo bạn.
Luận đề: Vô luân vô đạo (tà dâm)
Phần lý giải: Phao-lô được báo cáo về tội tà dâm trong Hội Thánh Cô-rinh-
tô. Người ta đã tỏra dửng dưng đối với tội ấy. Nhiều người khác lại quan
niệm sai lầm về hôn nhân. Chúng ta phải sống đạo đức, giữ cho thân thể
mình sẵn sàng để lúc nào cũng có thể phục vụ Đức Chúa Trời
Tầm quan trọng: Cơ Đốc nhân không bao giờ nên thoả hiệp với các ý niệm
và việc làm tội lỗi. Chúng ta không nên sống lẫn lộn với những người tội lỗi
quanh mình. Bạn phải sống theo chuẩn mực đạo đức của Đức Chúa Trời và
không buông thả theo cách ăn ở vô luân vô đạo cho dù xã hội có chấp nhận
chúng.
Luận đề: Tự do
Phần lý giải: Phao-lô dạy về quyền tự do. Chúng ta được tự do trong Chúa
Cứu Thế, nhưng để chọn thực hành những điều mà Kinh điển không cấm
đoán. Một số tín hữu cảm thấy một vài hành động - như ăn thịt các con thú
đã cúng lễ theo ngoại đạo - là xấu do mối liên hệ của chúng với các thần
tượng. Nhiều người khác cảm thấy họ được tự do tham dự các hành động
như thế mà không hề có mặc cảm phạm tội.
Tầm quan trọng: Chúng ta được tự do trong Chúa Cứu Thế, nhưng không
nên lạm dụng quyền tự do làm Cơ Đốc nhân của mình mà không tôn trọng
và tỏ ra vô cảm đối với người khác. Chúng ta không bao giờ nên khuyến
khích người khác làm quấy vì một điều gì đó mà chúng ta đã làm. Hãy để
cho tình yêu thương hướng dẫn cách ăn ở cư xử của chúng ta.
Luận đề: Thờ phượng
Phần lý giải: Phao-lô đề cập tình trạng mất trật tự trong giờ thờ phượng.
Nhiều người cứ dự Tiệc thánh mà trước đó không chịu xưng tội. Trong Hội
Thánh có việc lạm dụng các ân tứ thuộc linh và không nhất trí về vai trò của
phụ nữ.
Tầm quan trọng: Sự thờ phượng phải được thực hiện phải phép và trong
vòng trật tự. Mọi việc chúng ta làm để thờ phượng Đức Chúa Trời đều phải
thực hiện thật xứng đáng và hết sức cung kính. Phải chắc chắn là việc thờ
phượng rất hài hoà, hữu ích, và gây dựng toàn thể các tín hữu.
Luận đề: Sống lại
Phần lý giải: Một số người phủ nhận là Chúa Cứu Thế đã từ chết sống lại.
Nhiều người khác cho rằng thân thể người ta không thể sống lại được. Sự
sống lại của Chúa Cứu Thế bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta sẽ có những
thân thể mới mẻ, hằng sống sau khi đã chết. Hi vọng sống lại là huyền
nhiệm của lòng tin Cơ Đốc nhân.
Tầm quan trọng: Vì chúng ta sẽ được khiến sống lại sau khi chết, đời sống
của chúng ta sẽ chẳng phải là vô ích. Chúng ta phải tận trung với Đức Chúa
Trời trong sinh hoạt đạo đức và phục vụ. Chúng ta phải sống hôm nay với sự
hiểu biết là chúng ta sẽ sống đời đời với Chúa Cứu Thế.

Dẫn nhập II Cô-rinh-tô


Lời giới thiệu
Len lỏi qua các thời đại, con rắn dùng giọng lưỡi ngọt ngào đầy dối trá,
lường gạt, và cám dỗ của nó để đưa ra nhiều lời hứa hẹn khuyến giục những
người nam người nữ chối bỏ Đức Chúa Trời để theo quỉ Sa-tan. Các sứ giả
của Sa-tan thì có nhiều - các tiên tri giả nói ngược lại với các phát ngôn nhân
xưa kia của Đức Chúa Trời, các cấp lãnh đạo tự xưng là “ngoan đạo” hò hét
những lời tố cáo phạm thượng, và các giáo sư tà giáo thâm nhập nhiều Hội
thánh. Và sự lừa dối cứ tiếp tục. Thế giới của chúng ta đầy dẫy các đạo giáo,
các chủ nghĩa và các ý thức hệ, tất cả đều rêu rao là mình đang cung cấp con
đường dẫn đến với Đức Chúa Trời.
Phao-lô luôn luôn chống lại những kẻ muốn dẫn dụ dân Chúa đến chỗ sai
lầm, và đã dốc đổ cả sinh mạng mình ra để truyền bá Phúc Âm đến tận các
địa cực. Qua ba vòng lưu hành truyền giáo và nhiều chuyến du hành khác,
ông đã truyền giảng Chúa Cứu Thế, đem nhiều người ăn năn quy đạo và
thành lập nhiều Hội thánh. Nhưng các tín hữu non trẻ thường là mồi ngon
cho các giáo sư giả. Họ vốn là mối đe doạ thường xuyên cho Phúc Âm và
Hội thánh nguyên thủy. Cho nên Phao-lô đã phải dành nhiều thì giờ để cảnh
cáo và sửa sai các Cơ Đốc nhân mới tin này.
Hội thánh tại Cô-rinh-tô hãy còn mới mẻ. Bị việc thờ lạy thần tượng và thói
hoang dâm vô độ vây quanh, các Cơ Đốc nhân đã phải lấy đức tin và nếp
sống của mình chống lại chúng. Bằng những lần thăm viếng và những bức
thư riêng, Phao-lô cố tìm cách dạy bảo họ trong đức tin, giải quyết các tranh
chấp và một số các vấn đề của họ. Thư ICô-rinh-tô đã được gởi đến nhằm
giải quyết các vấn đề đạo đức đặc thù trong Hội thánh và trả lời các thắc
mắc về tình dục, hôn nhân, và lương tâm mẫn cảm. Bức thư ấy trực diện với
các vấn đề và được phần đông tín hữu tiếp thu tốt. Nhưng còn có nhiều giáo
sư giả phủ nhận uy quyền của Phao-lô và gièm pha ông. Phao-lô viết IICô-
rinh-tô để bảo vệ lập trường của ông và tố giác những kẻ đã xuyên tạc sự
thật.
Thư IICô-rinh-tô chắc là một bức thư khó viết đối với Phao-lô, vì ông phải
liệt kê các thành tích làm sứ đồ của mình. Phao-lô phải miễn cưỡng làm việc
này, vì ông vốn là một tôi tớ khiêm hạ của Chúa Cứu Thế, nhưng ông biết
làm như thế là cần thiết. Ông cũng biết đa số tín hữu người Cô-rinh-tô đã ghi
khắc những lời chỉ dạy của ông trước đây vào lòng, và đang bắt đầu tăng
trưởng trong đức tin. Ông xác nhận tinh thần tận hiến cho Chúa Cứu Thế của
họ.
Thư IICô-rinh-tô bắt đầu bằng lời Phao-lô nhắc nhở độc giả của ông về (1)
mối liên hệ giữa ông với họ - ông luôn luôn thành thật và bộc trực với họ
(IICo 2Cr 1:12-14), (2) hành trình của ông - ông đang dự định đến thăm họ
một lần nữa (1:15-2:3), và (3) bức thư trước của ông (2:4-11). Rồi Phao-lô
chuyển thẳng sang đề tài về các giáo sư giả (2:17) và duyệt xét lại chức vụ
của ông giữa họ để chứng minh giá trị của bức thông điệp của ông, và
khuyến giục họ đừng xây bỏ chân lý (3:1-7:16).
Tiếp theo đó, Phao-lô quay sang vấn đề quyên tiền cho các Cơ Đốc nhân
nghèo thiếu tại Giê-ru-sa-lem, ông kể cho họ nghe về nhiều người khác đã
quyên trợ như thế nào, và khuyến giục họ cũng hãy bày tỏ tình yêu thương
của họ thật thiết thực nữa (8:1-9:15). Rồi Phao-lô đưa ra một phần bênh vực
mạnh mẽ cho uy quyền của ông với cương vị một sứ đồ chân chính, đồng
thời vạch rõ ảnh hưởng của những lời dối trá của các giáo sư giả (10:1-
13:13).
Trong khi bạn đọc bức thư riêng tha thiết này của Phao-lô, hãy lắng nghe
những lời lẽ yêu thương và khuyến giục của ông để tận hiến cho Lời Đức
Chúa Trời và chuẩn bị để phản bác mọi lời truyền dạy sai lầm.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để khẳng định chức vụ của Phao-lô, bảo vệ uy quyền sứ đồ của
ông và phản bác các giáo sư giả tại Cô-rinh-tô.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Hội thánh tại Cô-rinh-tô và các Cơ Đốc nhân ở khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng 55 SC, từ Ma-xê-đoan
Bối cảnh: Phao-lô đã viết ba bức thư cho người Cô-rinh-tô rồi (hai bức đã bị
thất lạc). Trong ICô-rinh-tô (là bức thư thứ hai trong số vừa kể trên), ông đã
dùng nhiều lời lẽ nặng nề để sửa trị và truyền dạy. Phần đông người trong
Hội thánh đã đáp ứng bằng tinh thần đúng đắn; tuy nhiên, vẫn còn nhiều kẻ
phủ nhận thẩm quyền của Phao-lô và thắc mắc đặt vấn đề về các động cơ đã
thúc đẩy ông.
Câu chìa khóa: “Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng
như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhơn danh
Đấng Christ mà nài xin anh em: hãy hoà thuận lại với Đức Chúa Trời” (IICo
2Cr 5:20)
Các nhân vật chính: Phao-lô, Ti-mô-thê, Tít, các giáo sư giả.
Các địa danh chính: Cô-rinh-tô, Giê-ru-sa-lem.
Những nét đặc trưng: Đây là một bức thư riêng thật tha thiết, và là một bức
thư tự thuật.
Bố cục:
1. Phao-lô giải thích các hành động của mình (1:1-2:11)
2. Phao-lô bảo vệ chức vụ của mình (2:12-7:16)
3. Phao-lô biện hộ cho cuộc quyên trợ (8:1-9:15)
4. Phao-lô bảo vệ cho uy quyền của mình (10:1-13:14)
Nhằm đáp lại những lời công kích cá tính và uy quyền của mình, Phao-lô
giải thích bản tính chức vụ của một Cơ Đốc nhân, và để đưa ra một thí dụ,
ông công khai nói về chức vụ của mình. Đây là một bức thư quan trọng cho
tất cả những ai muốn dấn thân vào bất luận một loại chức vụ nào trong Cơ
Đốc giáo, vì nó có rất nhiều điều dạy dỗ chúng ta về cách thức chúng ta phải
thực thi các chức vụ của mình hiện nay. Cũng như Phao-lô, những người dấn
thân vào chức vụ phải không chỗ chê trách, thành thật, tin quyết, biết chăm
sóc người khác, cởi mở, và sẵn sàng chịu khổ vì danh Chúa Cứu Thế.
Các đại đề mục.
Luận đề: Thử thách
Phần giải thích: Phao-lô từng trải qua nhiều đau khổ, bị bắt bớ bách hại và
gặp chống đối quan trọng trong chức vụ của mình. Ông còn phải chiến đấu
cả với nhược điểm cá nhân - một “cây giằm xóc vào thịt” nữa. Qua tất cả
mọi điều đó, Phao-lô đã tự khẳng định lòng tận trung của mình với Đức
Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời vốn thành tín. Sức lực Ngài hoàn toàn đầy
đủ để chống lại mọi thử thách. Khi thử thách đến, là để ngăn ngừa thói kiêu
ngạo của chúng ta và dạy chúng ta biết sống lệ thuộc vào Đức Chúa Trời.
Ngài an ủi chúng ta, để chúng ta có thể an ủi nhiều người khác.
Luận đề: Kỷ luật của Hội thánh.
Phần giải thích: Phao-lô bênh vực vai trò của ông trong việc sửa trị Hội
thánh. Ta không thể bỏ qua cả thói hoang dâm vô độ lẫn tà giáo. Hội thánh
không nên quá lỏng lẻo cũng như quá nghiêm khắc trong việc sửa trị. Hội
thánh phải phục hồi địa vị cho người chịu sửa trị nếu người ấy biết ăn năn.
Tầm quan trọng: Mục đích của mọi công tác sửa trị trong Hội thánh đều phải
là sửa sai chứ không phải báo thù. Muốn thành công, Hội thánh phải trực
diện và giải quyết mọi vấn đề, chứ không phải bỏ qua chúng. Trong mọi sự,
chúng ta phải hành động bằng tình yêu thương.
Luận đề: Hi vọng
Phần giải thích: Để khích lệ người Cô-rinh-tô lúc họ gặp thử thách. Phao-lô
nhắc nhở rằng trên thiên đàng, họ sẽ nhận được những thân thể mới. Đây là
một chiến thắng vĩ đại so với nỗi đau khổ hiện tại của họ.
Tầm quan trọng: Biết rằng chúng ta sẽ nhận được những thân thể mới, sẽ
đem hi vọng đến cho chúng ta. Bất chấp phải đối đầu với nghịch cảnh nào,
chúng ta đều có thể vựơt qua cả. Sự phục vụ trung tín của chúng ta sẽ đưa
đến kết quả là chiến thắng khải hoàn.
Luận đề: Quyên trợ
Phần giải thích: Phao-lô tổ chức một cuộc lạc quên để gây quỹ cho những
người nghèo trong Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem. Nhiều Hội thánh tại A-si đã
quyên tiền. Phao-lô giải thích và biện minh cho các niềm tin về vấn đề
quyên trợ, và ông khuyến giục Hội thánh Cô-rinh-tô phải noi theo gương tận
hiến trước đây của họ.
Tầm quan trọng: Cũng như người Cô-rinh-tô, chúng ta phải thực hiện việc
tận hiến về mặt tài chính. Chúng ta phải quyên trợ hào hiệp, do tinh thần hi
sinh, có kế hoạch, và căn cứ trên nhu cầu. Lòng hào hiệp của chúng ta chẳng
những giúp đỡ được cho những người đang nghèo thiếu, mà còn khiến họ tạ
ơn Đức Chúa Trời nữa.
Luận đề: Giáo lý thuần chánh.
Phần giải thích: Các giáo sư giả đang thách thức chức vụ của Phao-lô và uy
quyền làm sứ đồ của ông. Phao-lô khẳng định uy quyền của mình là nhằm
duy trì giáo lý thuần chánh, đúng đắn của Cơ Đốc giáo. Lòng chân thành của
ông, tình yêu của ông đối với Chúa Cứu Thế, và sự quan tâm ông dành cho
mọi người, là lời biện minh của ông.
Tầm quan trọng: Chúng ta phải thông cảm với mối quan tâm của Phao-lô
trong vấn đề phải có cách truyền dạy đúng đắn trong các Hội thánh của
chúng ta. Mà muốn làm như thế, chúng ta phải có cùng một động cơ thúc
đẩy như ông - tình yêu Chúa Cứu Thế và mọi người - và lòng chân thành của
ông.

Dẫn nhập Ga-la-ti


Lời giới thiệu
Một gia đình thực hiện cẩn thận kế hoạch đào thoát của họ lúc nửa đêm,
đang vượt qua biên giới... một người đang đứng phía ngoài các bức tường
nhà tù, ưỡn ngực hít thở không khí trong lành, tắm mình dưới ánh nắng
mai... một thiếu nữ đầy vết hằn của chất ma tuý tàn hại vừa từ bỏ tật nghiện
ngập của mình để dứt khoát ra đi... họ đã được tự do! Với lời hứa hẹn về một
cuộc đời mới thật tươi sáng, họ có thể bắt đầu lại đời mình.
Cho dù đó là chạy trốn áp bức bóc lột, vừa bước ra khỏi cảnh ngục tù, hay
đập tan một thói quen trói buộc bóp chẹt mình, tự do đều có nghĩa là sự
sống. Chẳng có gì khiến được người ta thở phào nhẹ nhõm hơn là quên đi
quá khứ, hướng về những chọn lựa mới đang chờ trước mặt. Mọi người đều
mong ước được tự do.
Sách Ga-la-ti là bản tuyên ngôn tự do của Cơ-đốc nhân. Trong bức thư sâu
nhiệm này, Phao-lô công bố thực tại về quyền tự do của chúng ta trong Chúa
Cứu Thế - tự do khỏi luật pháp và quyền lực của tội lỗi, và tự do để phục vụ
Chúa hằng sống của chúng ta.
Phần đông những người ăn năn quy đạo và lãnh tụ đầu tiên của Hội thánh là
các Cơ-đốc nhân người Do-thái, công bố Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a của
họ. Là các Cơ-đốc nhân người Do-thái, họ đã chiến đấu với hai lý lịch: lý
lịch Do-thái giáo của họ bắt buộc họ phải triệt để vâng giữ luật pháp, và đức
tin họ mới đặt vào Chúa Cứu Thế mời gọi họ ăn mừng một quyền tự do
thánh khiết. Họ ngạc nhiên tự hỏi người ngoại quốc (không phải Do-thái)
làm thế nào lại có thể dự phần vào Nước Trời.
Cuộc tranh luận này gây chia rẽ trong Hội thánh nguyên thủy. Những Cơ-
đốc nhân người Do-thái cực đoan gây chia rẽ trong Hội thánh dạy rằng các
Cơ-đốc nhân người ngoại quốc phải tuân thủ luật pháp Do-thái và các truyền
thống thêm vào với việc tin Chúa Cứu Thế. Là một nhà truyền giáo cho
người ngoại quốc. Phao-lô đã phải trực diện với vấn đề này nhiều lần.
Do đó, thư Ga-la-ti đã được viết ra để phản bác các Cơ-đốc nhân người Do-
thái cực đoan, và kêu gọi các tín hữu quay trở lại với Phúc âm thuần túy. Tin
lành được dành cho cả người Do-thái lẫn ngoại quốc như nhau. Sự cứu rỗi là
ân điển của Đức Chúa Trời, được ban cho những ai đặt đức tin vào Chúa
Cứu Thế Giê-xu, ngoài ra chẳng còn đòi hỏi gì khác nữa. Đức tin đặt vào
Chúa Cứu Thế có nghĩa là tự do thật sự.
Sau một phần dẫn nhập ngắn gọn (GaGl 1:1-5), Phao-lô ngỏ lời với số người
chấp nhận Phúc âm đã bị các Cơ-đốc nhân người Do-thái cực đoan xuyên
tạc (1:6-9). Ông tóm tắt cuộc tranh luận, kể cả lần bản thân ông phải trực
diện với Phi-e-rơ vá các lãnh tụ khác nữa của Hội thánh (1:10-2:16). Rồi ông
chứng minh rằng sự cứu rỗi là chỉ nhờ có đức tin mà thôi bằng cách viện dẫn
chính trường hợp ăn năn quy đạo của ông (2:17-21), kêu gọi các tín hữu nhớ
lại chính từng trải về Phúc âm của riêng họ (3:1-5), và chỉ rõ Cựu ước từng
truyền dạy về ân điển như thế nào (3:6-20). Tiếp theo đó, ông giải thích chủ
đích của luật pháp Đức Chúa Trời và mối liên hệ giữa luật pháp, các lời hứa
của Đức Chúa Trời, với Chúa Cứu Thế (3:21-4-31).
Sau khi đã đặt xong nền móng, Phao-lô xây dựng trên đó trường hợp của
quyền tự do làm Cơ-đốc nhân. Chúng ta được cứu là nhờ có đức tin, chứ
không phải là nhờ giữ luật pháp (5:1-12); chúng ta được tự do có nghĩa là
chúng ta được tự do yêu mến và phục vụ lẫn nhau, chứ không phải là để làm
điều sai trái (5:13-26); và Cơ-đốc nhân phải mang gánh nặng cho nhau, đối
xử tử tế với nhau (6:1-10). Trong 6:11-18, Phao-lô tự tay viết ra những tư
tưởng cuối cùng của mình.
Trong khi bạn đọc sách Ga-la-ti, hãy cố gắng tìm hiểu cuộc tranh chấp giữa
ân điển và luật pháp, đức tin với việc làm hồi thế kỷ thứ nhất, nhưng cũng
phải cảnh giác với những điểm tương tự như thế trong thời hiện đại. Cũng
như Phao-lô, hãy bảo vệ cho Phúc âm chân chính và phản bác tất cả những
ai muốn thêm thắt hoặc xuyên tạc chân lý này. Bạn được tự do trong Chúa
Cứu Thế - hãy bước vào ánh sáng và ăn mừng!
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm phản bác các Cơ-đốc nhân người Do-thái cực đoan (dạy
rằng các tín hữu người ngoại quốc phải vâng giữ luật pháp Do-thái mới được
cứu), và kêu gọi các Cơ-đốc nhân hãy sống trong Chúa Cứu Thế bằng đức
tin và quyền tự do của mình.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Các Hội thánh tại khu vực phía Nam xứ Ga-la-ti, được thành lập
trong vòng lưu hành truyền giáo thứ nhất của Phao-lô (gồm các thành phố
Y-cô-ni, Lít-trơ, Đẹt-bơ) và các Cơ-đốc nhân ở khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 49 SC, từ An-ti-ốt, trước giáo hội nghị Giê-
ru-sa-lem (50 SC).
Bối cảnh: Cuộc tranh luận cấp bách nhất trong Hội thánh nguyên thủy là mối
liên hệ giữa các tín hữu mới, nhất là người ngoại quốc, với luật pháp Do-
thái. Đặc biệt, đây là một vấn đề của những người mới ăn năn quy đạo và
cho các Hội thánh non trẻ mà Phao-lô vừa thiết lập trong vòng lưu hành
truyền giáo đầu tiên của ông. Phao-lô đã kết bức thư này để sửa sai vấn đề
đó. Về sau, tại giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem, cuộc tranh chấp đã được các cấp
lãnh đạo Hội thánh chính thức giải quyết.
Câu chìa khoá: “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy
đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa” (GaGl 5:1)
Các nhân vật chính: Phao-lô, Phi-e-rơ, Ba-na-ba, Tít, Áp-ra-ham, các giáo sư
giả.
Các địa danh chính: Ga-la-ti, Giê-ru-sa-lem
Những nét đặc trưng: Bức thư này đã không được gởi cho bất kỳ một tổ
chức tín hữu đặc thù nào, và có lẽ được luân lưu cho nhiều Hội thánh trong
xứ Ga-la-ti.
Bố cục:
1. Tính cách chân thật của Phúc âm (1:1-2:21)
2. Tính cách vượt trội của Phúc âm (3:1-4:31)
3. Quyền tự do của Phúc âm (5:1-6:18)
Để đáp lại lời công kích của các giáo sư giả, Phao-lô đã viết bức thư này để
bảo vệ chức sứ đồ của mình và uy quyền của Phúc âm. Người Ga-la-ti đang
bắt đầu chuyển từ đức tin sang luật pháp chủ nghĩa. Cuộc chiến đấu giữa
Phúc âm và luật pháp chủ nghĩa vẫn còn là một cơn khủng hoảng. Nhiều
người hiện nay vẫn muốn chúng ta quay lại nhờ việc cố gắng chiếm đoạt đặc
ân của Đức Chúa Trời bằng cách vâng giữ nhiều nghi lễ và tuân thủ hằng
loạt luật lệ. Là Cơ-đốc nhân chúng ta không còn bị nhốt chặt, mà đã được trả
tự do rồi. Muốn bảo vệ quyền tự do đó, chúng ta phải bám chặt vào Chúa
Cứu Thế để chống lại bất cứ kẻ nào đề nghị những phương pháp tế nhị là cố
gắng tu đức lập công để mua sự cứu rỗi của mình.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Luật pháp
Phần lý giải: Một nhóm giáo sư người Do-thái nằng nặc đòi các tín hữu
không phải người Do-thái phải vâng giữ luật pháp và các luật lệ truyền
thống. Họ tin rằng một người được cứu là nhờ giữ luật pháp Môi-se (nhấn
mạnh trên phép cắt bì) để thêm vào cho đức tin đặt nơi Chúa Cứu Thế.
Phao-lô chống lại họ bằng cách chứng minh rằng luật pháp chẳng cứu được
ai cả.
Tầm quan trọng: Chúng ta không được cứu nhờ giữ luật pháp Cựu ước, kể
cả Mười Điều Răn. Luật pháp được dùng như một người hướng dẫn chỉ cho
chúng ta thấy sự cần thiết phải được tha tội. Chúa Cứu Thế đã thoả mãn đầy
đủ những bó buộc của luật pháp thay cho chúng ta. Chúng ta phải quay sang
với Ngài để được cứu. Chỉ một mình Ngài mới có thể giải hoà chúng ta với
Đức Chúa Trời.
Luận đề: Đức tin
Phần lý giải: Chúng ta được cứu khỏi bị Đức Chúa Trời phán xét và khỏi
hình phạt dành cho tội lỗi nhờ món quà tặng không của Đức Chúa Trời ban
cho chúng ta. Chúng ta tiếp nhận sự cứu rỗi bằng đức tin - tin cậy nơi Ngài -
chớ chẳng nhờ gì khác nữa. Trở thành Cơ-đốc nhân không phải nhờ căn cứ
trên việc chủ động đi bước trước của chúng ta, sự chọn lựa khôn ngoan, hay
đức hạnh riêng của chúng ta. Chúng ta chỉ có thể được phục hoà với Đức
Chúa Trời nhờ tin Ngài mà thôi.
Tầm quan trọng: Việc bạn được Đức Chúa Trời vui vẻ tiếp nhận chỉ nhờ bạn
tin Chúa Cứu Thế mà thôi. bạn không nên thêm gì vào hoặc xuyên tạc chân
lý này. Chúng ta được cứu bởi đức tin, chứ không phải bởi việc tốt chúng ta
làm. Bạn có đặt lòng tin cậy trọn vẹn và chắc chắn vào Chúa Cứu Thế
không? Chỉ một mình Ngài mới có thể tha tội cho bạn và đặt bạn vào trong
mối liên hệ với Đức Chúa Trời.
Luận đề: Tự do
Phần lý giải: Sách Ga-la-ti là bản tuyên ngôn về quyền tự do của chúng ta.
Chúng ta không còn ở dưới quyền xét xử của luật pháp và truyền thống Do-
thái giáo nữa, cũng chẳng ở dưới quyền của Giê-ru-sa-lem. Đức tin vào
Chúa Cứu Thế đem đến quyền tự do thật sự đối với tội lỗi và cố gắng vô ích
để giải hoà với Đức Chúa Trời nhờ giữ luật pháp.
Tầm quan trọng: Chúng ta được tự do trong Chúa Cứu Thế, mà tự do là một
đặc ân, đặc quyền. Chúng ta không được tự do để không vâng lời Chúa Cứu
Thế hay làm điều vô luân vô đạo, mà được tự do để phục vụ Chúa Cứu Thế
đã phục sinh. Hãy tận dụng quyền tự do của mình để yêu thương và phục vụ,
chứ không phải làm điều sai trái.
Luận đề: Đức Thánh Linh
Phần lý giải: Chúng ta trở thành Cơ-đốc nhân nhờ công tác của Đức Thánh
Linh. Ngài đem đến đời sống mới; cả đức tin để tin của chúng ta cũng là một
ân tứ (quà tặng) của Ngài. Đức Thánh Linh chỉ dạy, hướng dẫn, lãnh đạo, và
ban quyền năng cho chúng ta. Ngài kết thúc ách nô lệ đối với các dục vọng
xấu xa gian ác của chúng ta, Ngài tạo ra trong chúng ta tình yêu, niềm vui,
sự bình an, và nhiều thay đổi diệu kỳ khác nữa.
Tầm quan trọng: Khi Đức Thánh Linh lãnh đạo chúng ta Ngài sản sinh ra
trái của Ngài trong chúng ta, như chúng ta đã được cứu nhờ đức tin chứ
không phải nhờ việc làm thể nào chúng ta cũng sẽ tăng trưởng nhờ đức tin y
như thế. Nhờ tin, chúng ta có thể được Đức Thánh Linh ngự vào lòng mình,
giúp chúng ta sống vì Chúa Cứu Thế. Vâng lời Chúa Cứu Thế là nhờ sự chỉ
đạo của Đức Thánh Linh.

Dẫn nhập Ê-phê-sô


Lời giới thiệu
Các Hội thánh của chúng ta đã ra đời theo đủ các kiểu dáng - những buổi
họp bí mật trong các nhà riêng ; những buổi nhóm lại công khai trong các hí
viện, những buổi nhóm thờ phượng, với hàng ngàn người chen chúc nhau
trong ngôi thánh đường, trong khi đám quần chúng đông đảo theo dõi trên
các máy thu hình; những nhóm người ít ỏi quỳ gối trước những nhà kho ở
thành thị. Các công trình xây dựng có khác nhau, nhưng Hội thánh không hề
bị giới hạn bên trong bốn bức tường mà thôi. Hội thánh của Chúa Cứu Thế
Giê-xu là người ta, là dân Ngài, thuộc mọi chủng tộc, mọi quốc gia - những
con người yêu mến Chúa Cứu Thế và tận hiến để phục vụ Ngài. “Thời đại
của Hội thánh” bắt đầu vào ngày lễ Ngũ tuần (Cong Cv 2:1-29) . Được khai
sinh tại Giê-ru-sa-lem Hội thánh đã lan tràn nhanh chóng nhờ chức vụ của
các sứ đồ và tín hữu đầu tiên. Cơn bắt bớ bách hại đã “quạt” lên ngọn lửa
truyền giáo phúc âm, và bởi đó ngọn lửa Phúc âm tiếp tục tràn sang nhiều
thành phố và quốc gia khác. Trong ba vòng lưu hành truyền giáo đầy can
đảm, Phao-lô và những cộng sự đã thiết lập nhiều Hội thánh địa phương
trong nhiều thành phố ở ngoài quốc gia Do Thái.
Một trong số những Hội thánh nổi bật nhất, là hội thánh tại Ê-phê-sô. Nó
được thiết lập năm 53 SC trong chuyến trở về Giê-ru-sa-lem của Phao-lô.
Nhưng rồi Phao-lô đã trở lại đó một năm sau, trong vòng lưu hành truyền
giáo thứ ba của ông, rồi ở lại đó ba năm liền, giảng dạy rất thành công (Cong
Cv 1:1-20) . Có một lần khác Phao-lô đã gặp các trưởng lão người Ê-phê-sô,
và ông phái Ti-mô-thê đến để phục vụ với tư cách lãnh đạo của họ (ITi1Tm
1:3) . Chỉ vài năm sau đó, Phao-lô bị giải đi Rô-ma như một tội nhân. Tại
Rô-ma, ông được nhiều sứ giả từ nhiều Hội thánh đến thăm, kể cả Ti-chi-cơ
của Hội thánh Ê-phê-sô. Phao-lô đã viết bức thư này cho Hội thánh và Ti-
chi-cơ mang về. Thư Ê-phê-sô không được viết nhằm chống lại một tà giáo
hay trực diện với một vấn đề đặc thù nào cả, mà là một bức thư khích lệ.
Trong đó, Phao-lô mô tả bản tính và dáng vẻ của Hội thánh, rồi ông thách
thức các tín hữu hãy hoạt động với tư cách một thân thể sống động của Chúa
Cứu Thế trên đất này.
Sau lời chào thăm nồng ấm (1:1,2) Phao-lô khẳng định bản tính của Hội
thánh - một sự kiện quang vinh là các tín hữu trong Chúa Cứu Thế đã được
lòng nhân từ của Đức Chúa Trời nhuần gội (1:3-8), được chọn để trở nên
cao trọng (1:9-12), được Đức Thánh Linh ấn chứng (1:13,14), được đổ đầy
quyền năng Thánh Linh (1:15-23), được giải phóng khỏi sự nguyền rủa và
ách nô lệ của tội lỗi (2:1-10), và được đưa đến gần Đức Chúa Trời (2:11-17).
Là một thành phần trong “nhà của Đức Chúa Trời”, chúng ta cùng đứng
chung với các nhà tiên tri, sứ đồ, người Do-thái, người ngoại quốc, và chính
Chúa Cứu Thế (2:19-3:13) . Rồi như bị cảm xúc vì nhớ lại tất cả những gì
Đức Chúa Trời đã làm xâm chiếm, Phao-lô thách thức người Ê-phê-sô hãy
sống mật thiết với Chúa Cứu Thế, ông reo lên thành một bài ca tụng hồn
nhiên tự phát (3:14-21) .
Tiếp đó Phao-lô chuyển mối quan tâm của ông sang các hàm ý của việc
được ở trong thân thể của Chúa Cứu Thế, là Hội thánh. Các tín hữu phải hợp
nhất trong việc tận hiến cho Chúa Cứu Thế và việc sử dụng các ân tứ thuộc
linh của họ (4:1-16). Họ phải đạt được các chuẩn mực đạo đức cao nhất
(4:17-6:8). Đối với từng cá nhân, điều này có nghĩa là phải từ bỏ các tập tục
ngoại đạo (4:17-5:20), còn đối với gia đình, thì điều này có nghĩa là mọi
người đều phải thuận phục và yêu thương nhau (5:21-6:9) .
Rồi ông nhắc nhở họ rằng Hội thánh là một mặt trận thường xuyên chống trả
các lực lượng của bóng tối, nên họ phải tận dụng mọi loại vũ khí thuộc linh
sẵn có (6:10-17). Ông kết luận bằng cách yêu cầu họ cầu nguyện, sai phái
Ti-chi-cơ, và đọc một lời chúc phước (6:18-24) .
Trong khi bạn đọc phần mô tả chủ yếu về Hội thánh này, hãy cảm tạ Đức
Chúa Trời về tính cách vừa đa dạng vừa hợp nhất trong gia đình Ngài, cầu
nguyện cho các anh chị em mình trên khắp thế giới, và càng sống gần gũi
mật thiết hơn với các tín hữu trong chi hội địa phương của bạn.
Các đặc điểm quan trọng:
Để giúp các tín hữu tại Ê-phê-sô củng cố đức tin đặt vào Chúa Cứu Thế
bằng cách giải thích bản tính và chủ đích của Hội thánh, là thân thể của
Chúa Cứu Thế.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Hội thánh tại Ê-phê-sô và toàn thể tín hữu ở khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng 60 SC, từ Rô-ma, trong thời gian Phao-lô bị tù tại
đó.
Bối cảnh:
Bức thư này đã không được viết nhằm trực diện với bất kỳ một tà giáo hay
vấn đề nào trong Hội thánh. Nó đã được gởi đến cùng với Ti-chi-cơ, nhằm
củng cố và khích lệ các Hội thánh trong khu vực ấy. Phao-lô từng sống hơn
ba năm với Hội thánh Ê-phê-sô. Kết quả là ông đã trở thành hết sức thân
thiết với họ. Phao-lô vừa gặp các trưởng lão của Hội thánh Ê-phê-sô tại Mi-
lê (Cong Cv 20:17-38) - một buổi họp đầy dẫy nỗi buồn vì ông sắp từ giã họ
mà ông nghĩ là lần cuối cùng. Vì không thấy có câu nào đề cập riêng về hội
chúng hay các vấn đề của Hội thánh tại Ê-phê-sô, và vì mấy chữ “ở thành Ê-
phê-sô” (1:1) vốn không thấy có trong một số cổ bản, có lẽ ý định của Phao-
lô là dùng bức thư này làm một thư luân lưu để đọc cho tất cả các Hội thánh
trong khu vực ấy.
Câu chìa khoá: “Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức
phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; chỉ có một Chúa, một
đức tin, một phép báp-tem; chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi
người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người”
(Eph Ep 4:4-6)
Các nhân vật chính: Phao-lô, Ti-chi-cơ.
Những nét đặc trưng: Nhiều bức tranh về Hội thánh đã được trình bày: thân
thể, đền thờ, huyền nhiệm, con người mới, cô dâu, và chiến sĩ. Có lẽ bức thư
này đã được phân phát cho rất nhiều Hội thánh thời nguyên thủy.
Bố cục:
1. Sự hợp nhất trong Chúa Cứu Thế (1:1-3:2)
2. Sự hợp nhất trong thân thể Chúa Cứu Thế (4:1-6:24)
Trong bức thư này, Phao-lô giải thích những điều kỳ diệu mà chúng ta đã
nhận được nhờ có Chúa Cứu Thế, và đề cập Hội thánh như một thân thể,
môt ngôi đền thờ, một cô dâu, và một chiến sĩ. Tất cả những điều vừa kể đều
minh hoạ cho tính cách thống nhất về chủ đích, và chứng minh mỗi cá nhân
là thành viên của Hội thánh đều là một phần tử phải cùng cộng tác với tất cả
các thành phần phải làm việc để xoá bỏ mọi hành động “cắn trộm”, ngồi lê
đôi mách, chê bai chỉ trích, ghen tị, tức giận, và cay đắng, vì đó là những
chướng ngại vật ngăn trở sự hợp nhất của Hội thánh.
Các đại đề mục:
Luận đề: Chủ đích của Đức Chúa Trời
Phần giải thích: Theo kế hoạch đời đời do tình yêu thương của Đức Chúa
Trời, Ngài hướng dẫn thực hiện và bảo tồn sự cứu rỗi của chúng ta
Tầm quan trọng: Khi chúng ta đáp ứng lại tình yêu của Chúa Cứu Thế bằng
cách tin cậy Ngài, thì chủ đích của Ngài trở thành sứ mạng cho chúng ta.
Bạn có tận hiến để hoàn thành chủ đích của Đức Chúa Trời không?
Luận đề: Chúa Cứu Thế là tâm điểm
Phần giải thích: Chúa Cứu Thế đã được tôn làm ý nghĩa trung tâm của vũ
trụ, và là trọng điểm của lịch sử. Ngài là đầu của thân thể là Hội thánh Ngài,
là Đấng Tạo Hoá và Đấng Bảo Tồn cõi thọ tạo.
Tầm quan trọng: Vì Chúa Cứu Thế là tâm điểm của mọi sự, quyền năng
Ngài phải chiếm địa vị trung tâm trong chúng ta. Hãy bắt đầu để cho Ngài
cai trị kiểm soát mọi quyền ưu tiên của chúng ta.
Luận đề: Hội thánh hằng sống
Phần giải thích: Phao-lô mô tả bản tính của Hội thánh. Dưới quyền cai trị
kiểm soát của Chúa Cứu Thế, Hội thánh là một thân thể sống, một gia đình
một nơi cư trú. Đức Chúa Trời ban cho các tín hữu nhiều tài năng đặc biệt
bởi Thánh Linh Ngài để gây dựng Hội thánh.
Tầm quan trọng: Chúng ta là một phần của thân thể Chúa Cứu Thế, nên phải
sống trong mối liên hệ sinh động với Ngài. Cách ăn ở của chúng ta phải
được nhìn trong mối liên hệ sống động này. Hãy lợi dụng các tài năng Đức
Chúa Trời đã trang bị cho các tín hữu để phục vụ. Hãy làm trọn vai trò của
bạn trong Hôị thánh.
Luận đề: Gia đình mới
Phần giải thích: Vì nhờ Chúa Cứu Thế, Đức Chúa Trời đã trả xong phần
hình phạt dành cho chúng ta và tha tội cho chúng ta, chúng ta đã được phục
hoà - được đưa đến gần Ngài. Chúng ta là một xã hội mới, một gia đình mới.
Được hợp nhất với Chúa Cứu Thế có nghĩa là chúng ta phải đối xử với nhau
như các thành viên trong một gia đình vậy.
Tầm quan trọng: Trong Chúa Cứu Thế, chúng ta là một gia đình, cho nên
không thể có những rào cản, những mối chia rẽ, những cơ sở để kỳ thị. Tất
cả chúng ta đều thuộc về Ngài, nên phải sống hoà hợp nhau.
Luận đề: Cách ăn ở cư xử của Cơ-đốc nhân
Phần giải thích: Phao-lô khuyến khích toàn thể các Cơ-đốc nhân nên sống
khôn ngoan, năng động, vì đặc quyền đi đôi với trách nhiệm đối với gia
đình. Là một cộng đồng mới, chúng ta phải sống theo các chuẩn mực mới
của Chúa Cứu Thế.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời ban cho chúng ta Thánh Linh Ngài để giúp
chúng ta sống theo đường lối Ngài. Muốn sử dụng quyền năng của Đức
Thánh Linh, chúng ta phải dẹp qua một bên các dục vọng xấu xa và tiếp theo
quyền năng của sự sống mới của Ngài. Hãy đặt ý chí mình đầu phục Chúa
Cứu Thế, và tìm cách yêu thương tha nhân.

Dẫn nhập Phi-líp


Lời giới thiệu
Từ ngữ hạnh phúc gợi lên hình ảnh về việc mở các gói quà vào buổi sáng lễ
Giáng sinh, cái bắt tay với người mình yêu mến, được bất ngờ lý thú nhận
quà sinh nhật của bạn, đáp lại bằng tiếng cười không thể kềm giữ nổi với
một diễn viên hài, hay được một chuyến nghỉ hè tại hải ngoại. Tất cả mọi
người đều muốn được hạnh phúc; chúng ta thường biến việc săn đuổi cái lý
tưởng luôn luôn khéo lẩn tránh đó thành cuộc rượt đuổi của cả một đời
người: tiêu phí tiền bạc, thu thập tài vật, và tìm kiếm các kinh nghiệm mới.
Nhưng nếu hạnh phúc lệ thuộc vào hoàn cảnh của chúng ta thì chuyện gì sẽ
xảy ra khi các món đồ chơi bị rỉ sét, những người thân yêu chết đi, sức khoẻ
suy tàn, tiền bạc bị cướp mất, và buổi dạ hội đã tàn? Hạnh phúc thường trốn
biệt để thay vào đó là nỗi tuyệt vọng triền miên.
Khác biệt với hạnh phúc nêu trên là niềm vui. Sâu sắc hơn và đậm đà hơn,
niềm vui là lòng tin quyết thầm lặng có bảo đảm vào tình yêu và công việc
Đức Chúa Trời làm trong đời sống chúng ta - rằng Ngài vẫn có đó cho dù
bất cứ việc gì xảy ra! Hạnh phúc lệ thuộc vào những gì đang xảy ra, nhưng
niềm vui tùy thuộc vào Chúa Cứu Thế.
Sách Phi-líp là bức thư về niềm vui của Phao-lô, Hội thánh tại thành phố của
xứ Ma-xê-đoan này là một nguồn khích lệ lớn lao của Phao-lô. Các tín hữu
người Phi-líp vốn có một mối liên hệ đặc biệt với Phao-lô, cho nên ông đã
viết cho họ một bức thư riêng để bộc lộ tình yêu thương trìu mến của ông
đối với họ. Họ đã đem đến cho ông một niềm vui lớn (Phi Pl 4:1). Thư Phi-
líp cũng là một quyển sách của niềm vui vì nó nhấn mạnh niềm vui đích
thực của đời sống làm Cơ-đốc nhân. Ý niệm vui mừng hay niềm vui xuất
hiện mười sáu lần trong bốn chương, và các trang sách đều rạng ngời bức
thông điệp tích cực đó, mà tuyệt đỉnh là lời khuyến giục: “Hãy vui mừng
trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: Hãy vui mừng đi!” (4:4).
Trong cuộc đời tận hiến để phục vụ Chúa Cứu Thế, Phao-lô từng trực diện
với cảnh nghèo thiếu cùng cực cho đến lúc được tiếp trợ dư dật. Thậm chí,
ông còn viết bức thư đầy niềm vui này ngay trong nhà tù. Cho dù, hoàn cảnh
có như thế nào, Phao-lô vẫn học tập đã biết thỏa lòng (4:11,12), tìm kiếm
niềm vui đích thực khi ông tập trong mọi chú ý và năng lực để được thông
biết Chúa Cứu Thế (3:8), và vâng lời Ngài (13:12,13).
Mong ước của Phao-lô muốn được thông biết Chúa Cứu Thế trên tất cả
những điều gì khác đã được diễn tả thật tuyệt vời trong câu sau đây: “(Hơn
nữa) tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ vậy, vì sự nhận biết Đức Chúa
Giê-xu là quý hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều
lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ
và được ở trong Ngài... được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài,
và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài
trong sự chết Ngài” (3:8-10). Nguyện chúng ta cùng chia sẻ hoài bão của
Phao-lô và tìm cách nhận biết Chúa Cứu Thế ngày càng hơn. Hãy cùng vui
mừng với Phao-lô vì cớ người Phi-líp và tái tận hiến để tìm được niềm vui
trong Chúa Cứu Thế.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để cám ơn người Phi-líp về món quà họ đã gởi cho Phao-lô, và để
củng cố đức tin cho các tín hữu này bằng cách chỉ rõ cho họ thấy rằng niềm
vui đích thực chỉ đến từ Chúa Cứu Thế mà thôi.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho toàn thể các Cơ-đốc nhân tại Phi-líp và tất cả các tín hữu ở
khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 61 SC, từ Rô-ma, lúc Phao-lô bị cầm tù ở đó.
Bối cảnh: Phao-lô và các bạn đồng hành của ông đã mở Hội thánh tại Phi-líp
trong vòng lưu hành truyền giáo thứ hai của ông (Cong Cv 16:11-40). Đây là
Hội thánh đầu tiên đã được thiết lập trên lục địa Au châu. Hội thánh Phi-líp
đã nhờ Ep-ba-phô-đích (một thành viên của Hội thánh của họ) đem đến cho
Phao-lô một món quà của Hội thánh với cả sự chân thành (4:18). Lúc ấy
Phao-lô đang bị cầm tù tại Rô-ma. Ông viết bức thư này để cám ơn họ về
món quà ấy, và khích lệ họ trong đức tin.
Câu chìa khoá: “Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa:
hãy vui mừng đi” (Phi Pl 4:4).
Những nhân vật chính: Phao-lô, Ti-mô-thê, Ep-ba-phô-đích, Ê-vô-đi, và Sin-
ty-cơ.
Địa danh chính: Phi-líp
Bố cục:
1. Niềm vui trong đau khổ (Phi Pl 1:1-30)
2. Niềm vui trong khi phục vụ (2:1-31)
3. Niềm vui trong niềm tin (3:1-4:1)
4. Niềm vui trong việc ban tặng (4:2-23)
Tuy Phao-lô viết bức thư này trong nhà tù, luận đề nổi bật trong bức thư này
lại là niềm vui. Bí quyết của niềm vui được đặt trên nền tảng là mối liên hệ
giữa ông với Chúa Cứu Thế. Thiên hạ ngày nay đang đi tìm hạnh phúc trong
vô vọng, vì chỉ bị những thành công thất bại và những điều bất như ý dồi
dập đẩy họ cứ trôi dạt đi đây đi đó và chao đảo không ngừng. Cơ-đốc nhân
phải vui mừng trong mọi cảnh ngộ, cả khi tình hình biến chuyển xấu đi, khi
chúng ta có vẻ như muốn than phiền, khi chẳng còn có ai khác vui vẻ được.
Chúa Cứu Thế vẫn cầm quyền cai trị, và chúng ta vẫn còn nhận biết Ngài,
vậy thì chúng ta có thể luôn luôn vui mừng.
Các đại đề mục
Luận đề: Khiêm hạ
Lời giải thích: Chúa Cứu Thế chứng minh thái độ khiêm hạ đích thực khi
Ngài bỏ qua các quyền lợi và đặc quyền làm Đức Chúa Trời để trở thành
người. Ngài đã đổ sinh mạng ra để trả nợ cho sự hình phạt mà đáng lẽ chúng
ta phải chịu. Bỏ qua một bên các mối tư lợi là đều thiết yếu cho mọi mối liên
hệ của chúng ta.
Tầm quan trọng: Chúng ta phải có thái độ như của Chúa Cứu Thế trong khi
phục vụ tha nhân. Chúng ta phải tự chối mình và công lao thành tích của
mình. Khi nào chúng ta tự nguyện từ bỏ tư lợi, chúng sẽ có thể phục vụ với
niềm vui, tình yêu thương và thái độ tử tế, nhân hậu.
Luận đề: Tự hi sinh
Lời giải thích: Chúa Cứu Thế chịu đau khổ và chết đi, để chúng ta được sự
sống vĩnh hằng. Bằng thái độ can đảm và tận trung, Phao-lô tự hi sinh cho
chức vụ. Ông truyền giảng Phúc âm, cả khi đang ở trong tù.
Tầm quan trọng: Chúa Cứu Thế ban cho chúng ta năng lực để có thể bỏ qua
các nhu cầu và các mối quan tâm cá nhân. Muốn lợi dụng năng lực ấy,
chúng ta phải bắt chước các lãnh tụ đã tự chứng tỏ là biết tự chối mình để
quan tâm đến tha nhân. Chúng ta không nên vị kỷ.
Luận đề: Sự hợp nhất
Lời giải thích: Trong tất cả các Hội thánh thuộc mọi thế hệ, đều có tinh thần
chia rẽ (vấn đề, lòng trung thành, và những xung khắc, tranh chấp). Giữa
khó khăn gian khổ, thật là dễ quay lưng lại với nhau. Phao-lô khuyến khích
người Phi-líp đồng tâm nhất trí với nhau, thôi phiền trách, mà phải cộng tác
với nhau.
Tầm quan trọng: Là tín hữu, chúng ta phải cùng chống lại một kẻ thù chung,
chứ không phải là chống đối lẫn nhau. Khi chúng ta hợp nhất trong tình yêu
thương, Chúa Cứu Thế sẽ ban cho chúng ta sức lực dồi dào. Hãy giữ trước
mặt bạn các lý tưởng của công tác tập thể, coi trọng người khác, và bất vị
kỷ.
Luận đề: Nếp sống Cơ-đốc nhân
Lời giải thích: Phao-lô nêu rõ cho chúng ta phải sống cuộc đời làm Cơ-đốc
nhân như thế nào thì mới thành công. Chúng ta có thể thành người trưởng
thành bằng cách tự đồng nhất hoá với Chúa Cứu Thế đến độ khiêm hạ và sự
hi sinh của Ngài là mẫu mực cho đời sống chúng ta. Chúa Cứu Thế vừa là
nguồn năng lực vừa là người hướng dẫn chúng ta.
Tầm quan trọng: Cá tính của chúng ta bắt đầu phát triển khi Đức Chúa Trời
vận hành trong chúng ta. Những sự tăng trưởng còn đòi hỏi phải có kỷ luật
(sửa phạt), vâng lời, không ngừng tập trung riêng phần chúng ta nữa.
Luận đề: Niềm vui
Lời giải thích: Các tín hữu có thể có được sự thỏa lòng, thanh thản và bình
an sâu xa, bất chấp mọi việc xảy ra. Niềm vui này đến từ việc nhận biết
Chúa Cứu Thế cách riêng tư, và nhờ cậy vào sức lực của Ngài, chứ không
phải là của riêng chúng ta.
Tầm quan trọng: Chúng ta có thể được niềm vui cả trong gian khổ. Niềm vui
không đến từ hoàn cảnh bên goài, mà từ sức lực bên trong. Là Cơ-đốc nhân,
chúng ta không nên nương cậy vào những gì chúng ta có hoặc từng trải để
có được niềm vui, mà trông cậy vào Chúa Cứu Thế đang ngự trong lòng
chúng ta.

Dẫn nhập Cô-lô-se


Lời giới thiệu
Nếu bị mất huấn luyện viên trưởng, thì cả đội (bóng) sẽ sụp đổ; cứ đóng
khoá xăng lại, chiếc ô-tô sẽ ngừng; nếu không cắm dây vào ổ điện, toàn thể
hệ thống sẽ không có điện; nếu mất đi cái đầu, cả thân thể sẽ chết. Cho dù là
về mặt lãnh đạo, năng lượng hay sự sống, các mối dây liên kết, liên hệ, đều
vô cùng quan trọng!
Cô-lô-se là một quyển sách về các mối liên kết. Viết từ nhà tù tại Rô-ma,
Phao-lô bài bác các giáo sư giả, là những kẻ đang len lỏi thâm nhập Hội
thánh Cô-lô-se. Vấn đề là “hoà đồng chủ nghĩa” tức là việc kết hợp nhiều ý
niệm từ nhiều triết thuyết và tôn giáo khác (như ngoại giáo, các giáo phái
khác nhau trong Do Thái giáo, và tư tưởng Hi-lạp) với chân lý của Cơ Đốc
giáo. Hậu quả là tà giáo mà sau này được mọi người biết dưới cái tên Trí
Huệ phái, nhấn mạnh, trên kiến thức đặc biệt và phủ nhận Chúa Cứu Thế
chính là Đức Chúa Trời và là Cứu Chúa. Để chống lại sai lầm nghiêm trọng
này, Phao-lô nhấn mạnh trên thần tánh của Chúa Cứu Thế - mối liên hệ giữa
Ngài với Đức Chúa Cha - và sự chết hi sinh của Ngài trên thập tự giá vì cớ
tội lỗi. Chỉ nhờ được liên hết với Chúa Cứu Thế bởi đức tin, thì bất cứ ai
cũng được sự sống vĩnh hằng, và chỉ nhờ mối liên hệ liên tục với Ngài, thì
mới có được năng lực để sống. Chúa Cứu Thế là Đức Chúa Trời nhập thể và
là con đường duy nhất để được tha tội và được phục hoà với Đức Chúa Trời
là Cha. Phao-lô cũng nhấn mạnh mối liên kết giữa các tín hữu với nhau để
họp thành thân thể Chúa Cứu Thế trên thế gian này.
Phần dẫn nhập thư Cô-lô-se của Phao-lô gồm có một lời chào thăm, một
thanh âm cảm tạ, và một lời cầu nguyện để các tín hữu trong Chúa Cứu thế
được sự khôn ngoan thuộc linh (1:1-12). Rồi ông chuyển sang một phần thảo
luận giáo lý về con người (thân vị, nhân vị) và công tác của Chúa Cứu Thế
(1:13-23), vạch rõ Chúa Cứu thế là “hình ảnh của Đức Chúa Trời vô hình”
(1:15), là Đấng Tạo Hoá (1:16), và là “đầu của thân thể, tức là Hội thánh”
(1:180) và là “ban đầu, sanh trước nhứt từ trong những kẻ chết” (1:18). Sự
chết Ngài trên thập tự giá khiến chúng ta có thể “đứng trước mặt Đức Chúa
Trời” (1:22).
Rồi Phao-lô giải thích thế nào những lời truyền dạy của thế gian đều hoàn
toàn rỗng tuếch so với kế hoạch của Đức Chúa Trời và ông thách thức người
Cô-lô-se chối bỏ những cách giải đáp nông nổi để sống hợp nhất với Chúa
Cứu Thế (1:24-2:23). Trên bối cảnh thần học này, Phao-lô chuyển sang
những nhận xét thực tiễn - các tín hữu phải hiểu về thần tánh, sự chết và
sống lại của Chúa Giê-xu như thế nào (3:1-4:6). Về số phận tương lai của
chúng ta đã được đảm bảo tư tưởng của chúng ta phải đầy dẫy những điều
thuộc về trời (3:1-4), giữa vòng chúng ta, không nên nghe ai nói đến chuyện
dâm ô và những dục vọng khác nữa của đời (3:5-8), nói thật, tình yêu và sự
bình an phải là các dấu hiệu của đời sống chúng ta (3:9-15). Tình yêu của
chúng ta dành cho Chúa Cứu thế phải được chuyển thành tình yêu thương
người khác, như bạn bè, các tín hữu bạn, vợ chồng, con cái cha mẹ, nô lệ và
chủ nô đối với nhau (3:16-4:1). Chúng ta phải thường xuyên tương thông
tương giao với Đức Chúa Trời bằng sự cầu nguyện (4:2-4), và phải tận dụng
mọi cơ hội để nói cho người khác biết về Phúc Âm (4:5,6). Trong Chúa Cứu
Thế, chúng ta có đủ tất cả những điều cần thiết để được cứu rỗi và để sống
cuộc đời làm Cơ Đốc nhân.
Có lẽ Phao-lô đã chẳng bao giờ đến Cô-lô-se cho nên ông kết thúc bức thư
này bằng những lời dặn dò riêng tư về những mối liên hệ của họ với tư cách
là Cơ Đốc nhân, đưa ra một bài học sinh động về tính cách liên hệ của thân
thể Chúa Cứu Thế.
Hãy đọc thư Cô-lô-se như một bức thư gởi cho một Hội thánh đang chiến
đấu hồi thế kỷ thứ nhất, nhưng cũng phải đọc nó vì các chân lý vượt thời
gian trong đó. Hãy tiếp nhận một cách mới mẻ Chúa Cứu Thế như sự đầy đủ
trọn vẹn của Đức Chúa Trời và nguồn sự sống duy nhất để sống cuộc đời
làm Cơ Đốc nhân. Phải biết rằng Ngài chính là lãnh tụ, cái đầu và là nguồn
năng lực của bạn, và chắc chắn rằng bạn đang liên kết chặt chẽ với Ngài.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để chống lại các sai lầm trong Hội thánh và vạch rõ có tất cả
những điều cần thiết trong Chúa Cứu Thế.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Hội thánh tại Cô-lô-se, một thành phố thuộc Tiểu Á châu, và
toàn thể các tín hữu ở khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 60 SC, lúc Phao-lô bị cầm tù tại Rô-ma.
Bối cảnh: Phao-lô chưa từng đến Cô-lô-se bao giờ. Rõ ràng là Hội thánh này
đã được Ê-pháp-ra và những người đã ăn năn quy đạo qua các vòng lưu
hành truyền giáo của Phao-lô thiết lập. Tuy nhiên Hội thánh đã bị chủ nghĩa
tương đối về tôn giáo thâm nhập, với một số các tín hữu tìm cách pha trộn
các yếu tố ngoại giáo và triết học của đời vào giáo lý Cơ Đốc. Phao-lô trực
tiếp chống lại các tà giáo ấy và khẳng định tính cách đầy đủ trọn vẹn của
Chúa Cứu Thế.
Câu chìa khoá: “Vì sự đầy dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong
Đấng ấy như có hình. Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự, vì
Ngài là đầu của mọi quyền cai trị và mọi thế lực”. (CoCl 2:9,10).
Các nhân vật chính: Phao-lô, Ti-mô-thê, Ti-chi-cơ, Ô-nê-sim, A-ri-tạc, Mác,
Ê-pháp-ra.
Những địa danh chính: Cô-lô-se, Lao-đi-xê (4:15,16)
Những nét đặc trưng: Chúa Cứu Thế được giới thiệu là Đấng có quyền cao
cả tuyệt đối và là Đấng duy nhất có đầy đủ trọn vẹn mọi sự. Thư Cô-lô-se có
nhiều điểm tương đồng với thư Ê-phê-sô, có lẽ vì cả hai đã được viết gần
như đồng thời với nhau, nhưng có điểm nhấn mạnh khác nhau.
Bố cục:
1. Điều Chúa Cứu Thế đã làm (1:1-2:23)
2. Điều các Cơ Đốc nhân phải làm (3:1-4:18)
Trong bức thư này, Phao-lô dạy rõ rằng Chúa Cứu thế đã trả nợ cho tội lỗi,
rằng Ngài đã phục hoà chúng ta với Đức Chúa Trời, và Ngài đã ban cho
chúng ta phần kiểu mẫu và quyền năng để tăng trưởng thuộc linh. Vì Chúa
Cứu thế giống hệt Đức Chúa Trời, cho nên khi học tập để biết rõ Ngài là
người như thế nào, chúng ta sẽ thấy là mình cần phải trở thành người như
thế nào. Vì Chúa Cứu Thế là Chúa tể của công trình sáng tạo, chúng ta phải
tôn Ngài làm Chúa tể trên cuộc đời chúng ta. Vì Chúa Cứu thế là cái đầu của
thân thể, tức Hội thánh Ngài, chúng ta phải nuôi dưỡng mối liên hệ sinh tử
giữa chúng ta với Ngài.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Chúa Cứu Thế là Đức Chúa Trời
Phần giải thích: Chúa Cứu Thế là Đức Chúa Trời trong hình hài thân xác
con người, là Chúa tể cả công trình sáng tạo và cả công trình sáng tạo mới.
Ngài phản chiếu Ngài là phần thể hiện của Đức Chúa Trời vô hình. Ngài là
Đấng vĩnh hằng, đã hiện hữu từ trước vô cùng, vô sở bất năng, bình đẳng với
Đức Chúa Cha. Ngài là tối thượng và đầy đủ trọn vẹn.
Tầm quan trọng: Vì Chúa Cứu Thế là Đấng tối cao, cuộc đời chúng ta phải
tập trung vào Ngài. Nhận biết Ngài là Đức Chúa Trời có nghĩa là chúng ta
phải xem mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài là tối quan trọng và biến các
mối quan tâm của Ngài thành những công tác được quyền ưu tiên của chúng
ta.
Luận đề: Chúa Cứu Thế là đầu Hội thánh
Phần giải thích: Vì Chúa Cứu Thế là Đức Chúa Trời, Ngài là đầu Hội thánh,
là các tín hữu trung tín với Ngài. Chúa Cứu Thế là nhà sáng lập, là lãnh tụ và
là uy quyền cao nhất trên đất này. Ngài đòi hỏi địa vị đứng đầu trong mọi tư
tưởng và hoạt động của chúng ta.
Tầm quan trọng: Muốn thừa nhận Chúa Cứu thế là đầu, chúng ta phải hoan
nghênh quyền lãnh đạo của Ngài trong tất cả những gì chúng ta suy nghĩ hay
hành động. Chẳng hề có cá nhân, tập thể hay giáo hội nào lại có thể được
chúng ta giữ lòng trung thành hơn là phải trung thành với Chúa Cứu Thế.
Luận đề: Hợp nhất với Chúa Cứu Thế
Phần giải thích: Vì tội lỗi của chúng ta đã được tha và chúng ta đã được
phục hoà với Đức Chúa Trời, chúng ta được hợp nhất bất khả phân ly với
Chúa Cứu Thế. Trong đức tin được hợp nhất với Ngài, chúng ta tự đồng nhất
hoá với Ngài torng sự chết, bị chôn, và được khiến sống lại.
Tầm quan trọng: Chúng ta phải sống trong mối liên hệ và tương giao thường
xuyên với Đức Chúa Trời. Một khi đã làm như thế, tất cả chúng ta sẽ được
hợp nhất với Chúa Cứu Thế và với nhau.
Luận đề: Tôn giáo nhân tạo
Phần giải thích: Các giáo sư giả đưa ra một tà giáo nhấn mạnh trên các luật
lệ tự họ tạo ra (luật pháp chủ nghĩa). Họ cũng tìm cách tăng trưởng thuộc
linh bằng cách khép thân thể họ vào kỷ luật (khổ hạnh chủ nghĩa) và bằng
khải tượng (thần bí chủ nghĩa), Sự tìm cầu này tạo ra thái độ kiêu ngạo vì
các nỗ lực tập trung vào “cái ta” của họ.
Tầm quan trọng: Chúng ta không nên thiên về các ý riêng rồi cố tìm cách
pha lẫn chúng vào với Cơ Đốc giáo. Cũng đừng để cho lòng đói khát muốn
có đầy đủ từng trải Cơ Đốc giáo khiến chúng ta tin vào một vị giáo sư, một
phe nhóm hay một hệ thống tư tưởng nào, hơn là vào chính Chúa Cứu Thế.
Ngài là niềm hi vọng và là nguồn gốc đích thực của sự khôn ngoan.
Dẫn nhập I Tê-sa-lô-ni-ca
Lời giới thiệu
Họ từ từ tiến bước, từng người một nhặt từng chiếc lá và dẫm lên thảm cỏ
bên dưới bằng những bước chân đều đặn và nặng nề. Lời lẽ của vị mục sư
vẫn còn vang vọng trong tâm trí họ, họ nghe các công nhân mai táng di
chuyển hướng về vị trí khủng khiếp, chuẩn bị lấp chiếc quan tài trong đó có
người thân yêu của họ. Sự chết, kẻ thù, đã cắt đứt các mối dây liên hệ thân
tộc và bạn bè, chỉ còn để lại những ký ức... nước mắt, và sự cô đơn.
Nhưng như một tia nắng vàng xuyên thủng bầu trời mùa đông, một chân lý
đơn giản xua tan bức màn u ám nặng nề - chết chưa phải là hết! Chúa Cứu
Thế đã chiến thắng sự chết, và nhờ có Ngài, vẫn còn hi vọng về sự sống lại.
Cũng như tất cả mọi người trong gia đình nhân loại, các Cơ Đốc nhân
nguyên thủy đã phải chạm mặt với sự chết. Nhiều người trong vòng họ đã
phải chết dưới tay những kẻ thù ghét Ngài. Cho dù họ bị những người Do
Thái nhiệt cuồng (như Phao-lô trước khi ăn năn quy đạo) hay do những
người Hy Lạp giận dữ, hoặc do các nhà cầm quyền La Mã vô tâm, bắt bớ
bách hại nhiều cách như: ném đá, phạt đòn, đóng đinh vào thập tự giá, tra
tấn, và bị giết. Làm người theo Chúa Cứu Thế có nghĩa là phải từ bỏ mọi sự.
Phao-lô lập Hội thánh tại Tê-sa-lô-ni-ca trong vòng lưu hành truyền giáo thứ
hai của ông (khoảng năm 51 SC). Ông viết bức thư này một thời gian ngắn
sau đó để khích lệ các Cơ Đốc nhân non trẻ tại đấy. Ông muốn bảo đảm với
họ về tình yêu thương của ông, để khen ngợi lòng trung thành của họ trong
thời gian chịu bắt bớ bách hại, và để nhắc nhở họ về hi vọng của họ - sự tái
lâm chắc chắn của Chúa Giê-xu và là Cứu Chúa của họ.
Phao-lô bắt đầu bức thư của ông bằng một giọng điệu khẳng định, tạ ơn Đức
Chúa Trời về đức tin mạnh mẽ và tiếng tốt của người Tê-sa-lô-ni-ca (ITe1Tx
1:1-10). Rồi Phao-lô kiểm điểm lại các mối liên hệ giữa họ - thế nào ông và
các bạn đồng hành đã đem Phúc âm đến cho họ (2:1-12), thế nào họ tiếp
nhận bức thông điệp ấy (2:13-16), và thế nào ông đang mong muốn đến với
họ một lần nữa (2:17-20). Vì mối bận tâm đó, Phao-lô đã phái Ti-mô-thê đến
để khích lệ họ trong đức tin (3:1-13).
Rồi Phao-lô trình bày phần cốt lõi của bức thư - khuyến giục và an ủi. Ông
thách thức họ làm đẹp lòng Đức Chúa Trời trong nếp sống hằng ngày bằng
cách xa lánh thói hoang dâm vô độ (4:1-8), yêu thương nhau (4:9,10) và
sống như những công dân tốt trong một thế giới tội lỗi (4:11,12).
Phao-lô nhắc nhở người Tê-sa-lô-ni-ca nhiều điều liên quan đến cách tự
chuẩn bị để chờ ngày Chúa tái lâm - cảnh cáo kẻ ăn không ngồi rồi (5:14),
khích lệ kẻ rụt rè e lệ (5:14), giúp đỡ người yếu đuối (5:14), kiên nhẫn với
mọi người (5:14), tử tế với mọi người (5:15), luôn luôn vui mừng (5:16), cầu
nguyện không thôi (5:17), cầu nguyện không thôi (5:17), dâng lời cảm tạ
(5:18), thử nghiệm tất cả những gì mà người khác truyền dạy (5:20,21), và
tránh điều ác (5:22). Phao-lô kết thúc bức thư của ông bằng hai lời chúc
phước và một lời yêu cầu cầu nguyện.
Khi bạn đọc bức thư này hãy chăm chỉ lắng nghe lời khuyên thực tiễn của
Phao-lô về nếp sống Cơ Đốc nhân. Và khi nặng lòng về những nỗi buồn
phiền và ưu tư chồng chất, hãy hi vọng vào sự thật là Chúa Cứu Thế sẽ tái
lâm, vào sự sống lại, và sự sống vĩnh hằng!
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để củng cố cho các Cơ Đốc nhân người Tê-sa-lô-ni-ca trong đức
tin của họ, và bảo đảm với họ về sự tái lâm của Chúa Cứu Thế.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Hội thánh tại Tê-sa-lô-ni-ca, và toàn thể các Cơ Đốc nhân ở
khắp mọi nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 51 SC từ Cô-rinh-tô; một trong những bức
thư sớm nhất của Phao-lô.
Bối cảnh: Hội thánh tại Tê-sa-lô-ni-ca hãy còn rất non trẻ, chỉ mới được thiết
lập hai hoặc ba năm trước khi bức thư này được viết. Các Cơ Đốc nhân
người Tê-sa-lô-ni-ca cần trưởng thành trong đức tin của họ. Thêm vào đó,
lại có hiểu lầm về sự tái lâm của Chúa Cứu Thế - một số người tưởng Chúa
Cứu Thế sẽ tái lâm ngay, do đó, họ hoang mang khi những người thân yêu
của họ qua đời. Vì họ trông mong Chúa Cứu Thế tái lâm trước khi việc ấy
xảy ra. Các tín hữu lại đang bị bắt bớ bách hại.
Câu chìa khoá: “Vì nếu chúng ta tin Đức Chúa Giê-xu Christ đã chết và sống
lại, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời sẽ đem những kẻ ngủ trong Đức Chúa Giê-
xu cùng đến với Ngài” (4:14)
Các nhân vật chính: Phao-lô, Ti-mô-thê, Si-la
Địa danh chính: Tê-sa-lô-ni-ca
Những nét đặc trưng: Phao-lô nhận được của Ti-mô-thê một báo cáo thuận
lợi liên hệ đến người Tê-sa-lô-ni-ca. Tuy nhiên, ông viết thư này để sửa sai
các quan niệm nhầm lẫn của họ về sự sống lại và sự tái lâm của Chúa Cứu
Thế.
Bố cục:
1. Sự thành tín của Chúa (1:1-3:13)
2. Sự trông đợi Chúa (4:1-5:28)
Phao-lô và các bạn đồng hành của ông đã trung tín đem Phúc âm đến cho
người Tê-sa-lô-ni-ca giữa cơn bắt bớ bách hại. Người Tê-sa-lô-ni-ca chỉ mới
là những Cơ Đốc nhân non trẻ, nhưng họ sốt sắng giữ lòng trung thành với
Chúa, bất chấp sự kiện các sứ đồ không có mặt giữa họ. Nhiều người khác
đã trung tín đem Lời Đức Chúa Trời đến cho chúng ta. Chúng ta phải giữ
lòng trung tín và sống trong sự trông mong là Chúa Cứu Thế sẽ trở lại bất cứ
lúc nào.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Bắt bớ bách hại
Cách giải thích: Phao-lô và các Cơ-đốc nhân mới tin Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca
đang bị bắt bớ bách hại vì đức tin đặt vào Chúa Cứu Thế của họ. Chúng ta
cũng có thể trông đợi mình bị hoạn nạn thử thách nữa. Chúng ta cần đứng
vững trong đức tin giữa thử thách, nhờ Đức Thánh Linh thêm sức cho.
Tầm quan trọng: Đức Thánh Linh giúp chúng ta cứ vững mạnh trong đức
tin, có thể chứng tỏ tình yêu thương đối với tha nhân và giữ được đức tin đạo
đức cả khi chúng ta bị bắt bớ bách hại, gièm pha hoặc chống đối.
Luận đề: Chức vụ của Phao-lô
Cách giải thích: Phao-lô bày tỏ mối quan tâm dành cho Hội thánh cả khi
chính ông bị gièm pha. Sự tận hiến của Phao-lô để chia xẻ Phúc âm bất chấp
tình hình khó khăn, là một tấm gương cho chúng ta noi theo.
Tầm quan trọng: Phao-lô không những truyền rao bức thông điệp của mình
ra, mà còn tự hiểu thấu nữa. Trong chức vụ của mình chúng ta phải trở thành
người như Phao-lô - nghĩa là phải trung tín và mạnh dạn, nhưng cũng nhạy
cảm và biết quên mình.
Luận đề: Hi vọng
Cách giải thích: Sẽ có một ngày toàn thể các tín hữu cả những người hãy còn
sống lẫn những người đã chết đều sẽ được hợp nhất với Chúa Cứu Thế. Với
các Cơ Đốc nhân đã qua đời trước khi Chúa Cứu Thế trở lại, vẫn có hi vọng
- hi vọng có thân thể được sống lại.
Tầm quan trọng: Nếu chúng ta tin Chúa Cứu Thế, chúng ta sẽ cùng sống với
Ngài mãi mãi. Tất cả những người thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-xu - xuyên
suốt lịch sử -đều sẽ hiện diện cùng với Ngài khi Ngài tái lâm. Chúng ta có
thể tin chắc là sẽ được ở với những người thân yêu đã tin cậy Chúa Cứu Thế
Luận đề: Chuẩn bị cho sẵn sàng
Cách giải thích: Chẳng ai biết được khi nào thì Chúa Cứu Thế tái lâm.
Chúng ta phải sống đạo đức và thánh khiết, luôn luôn trông chờ ngày tái lâm
của Ngài. Các tín hữu không nên chểnh mảng các nhiệm vụ hằng ngày của
mình, mà phải luôn luôn làm việc và sống làm đẹp lòng Chúa.
Tầm quan trọng: Phúc âm không phải chỉ gồm có những gì chúng ta tin mà
thôi, nhưng còn gồm có cả những gì chúng ta phải sống nữa. Đức Thánh
Linh dẫn dắt để chúng ta biết sống trung tín, tránh xa dục vọng và gian lận.
Hãy sống dường như bạn đang trông đợi Chúa Cứu Thế tái lâm bất cứ lúc
nào. Đừng để bị bắt gặp bất ngờ, lúc bạn không chuẩn bị sẵn sàng.
Dẫn nhập II Tê-sa-lô-ni-ca
Lời giới thiệu
“Nhưng tôi tưởng là ông ta nói...”, “Tôi dám chắc là anh ta có ý muốn
nói...”. “Theo tôi thì rõ ràng là chúng ta phải...”, “Tôi không đồng ý, tôi nghĩ
là chúng ta phải...”
Truyền đạt có hiệu quả là một việc khó; thường thường thì bức thông điệp
được gởi đi, lại không phải là bức thông điệp được tiếp nhận tại nhà riêng,
ngoài chợ, nơi nhà người hàng xóm, hay tại ngôi nhà thờ mà nó được gởi
đến. Thậm chí khi đã được nói hoặc viết ra thật rõ ràng, lời lẽ lại thường bị
lý giải sai hoặc hiểu lầm, nhất là sau khi đã bị sàng lọc qua những thành kiến
và đoán mò.
Phao-lô đã trực diện để giải quyết vấn đề này với người Tê-sa-lô-ni-ca.
Trước đây, ông đã viết thư cho họ để giúp họ tăng trưởng trong đức tin, an
ủi và khích lệ họ bằng cách khẳng định sự tái lâm của Chúa Cứu Thế là thật.
Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau đó, có tin từ Tê-sa-lô-ni-ca đưa đến là một số
người đã hiểu lầm lời dạy của Phao-lô về sự tái lâm. Lời thông báo của ông
rằng Chúa Cứu Thế có thể tái lâm bất cứ lúc nào đã khiến một số người
ngưng làm việc để chỉ ngồi đó mà chờ, viện lẽ là Phao-lô đã truyền dạy như
thế. Còn thêm dầu vào đám lửa đó là việc Hội thánh cứ tiếp tục bị bắt bớ
bách hại. Do đó, nhiều người cảm thấy chắc quả thật”ngày của Chúa” đã gần
rồi.
Phao-lô đã đáp ứng hết sức nhanh chóng bằng cách gởi một bức thư thứ hai
cho Hội thánh non trẻ này. Trong thư, ông đưa ra những lời chỉ giáo cặn kẽ
hơn liên hệ đến sự tái lâm và ngày của Chúa (IITe 2:1,2;). Cho nên thư Tê-
sa-lô-ni-ca thứ hai là phần tiếp theo chủ đề của ITê-sa-lô-ni-ca và tiếng gọi
hãy tiếp tục can đảm và có cách ăn ở cư xử trước sau như một.
Bức thư được bắt đầu bằng “nhãn hiệu đã được cầu chứng” của Phao-lô, tức
là một lời chào thăm cá nhân và một câu nói lên lòng cảm tạ về đức tin của
họ (1:1-3). Ông ghi nhận thái độ kiên trì nhẫn nhục của họ bất chấp bị bắt bớ
bách hại và thử thách (1:4), và lợi dụng tình hình ấy để bàn thêm về chủ đề
Chúa Cứu Thế tái lâm. Lúc ấy, Chúa Cứu Thế sẽ ban thưởng cho người
công chính đã chịu đựng và sẽ trừng phạt kẻ gian ác (1:5-12).
Rồi Phao-lô trả lời thẳng cho những hiểu lầm liên hệ đến thời điểm của các
biến cố sẽ xảy ra trong những ngày sau rốt. Ông bảo họ chớ nên nghe theo
những tin đồn và những bản tường trình nói rằng ngày của Chúa đã bắt đầu
rồi (2:1,2), vì có môt số các biến cố sẽ phải xảy ra trước khi Chúa Cứu Thế
trở lại (2:3-12). Trong khi chờ đợi, họ phải đứng vững vì chân lý của Chúa
Cứu Thế (2:13-15), tiếp nhận lời khích lệ và niềm hy vọng của Đức Chúa
Trời (2:16,17), cầu nguyện để được ban thêm năng lực cho việc truyền bá
bức thông điệp của Chúa (3:1-5), và cảnh cáo những kẻ ăn không ngồi rồi
(3:6-15). Phao-lô kết thúc bức thư bằng những lời chào thăm cá nhân và lời
chúc phước (3:16-18).
Gần 2.000 năm sau, chúng ta hiện sống càng gần hơn với ngày Chúa Cứu
Thế tái lâm; nhưng chúng ta cũng sẽ có thể sai lầm nếu nhìn thấy ngày hiện
ra đã gần kề của Ngài như một lý do để bào chữa cho việc cứ ngồi ngóng lên
trời để chờ đợi mà chẳng chịu làm gì cả. Phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày
Chúa Cứu Thế tái lâm có nghĩa là phải truyền bá Phúc âm, đến với những
người đang nghèo thiếu, và gây dựng Hội thánh, là thân thể Ngài. Vậy trong
khi đọc IITê-sa-lô-ni-ca, bạn phải thấy sự thật rõ ràng về ngày tái lâm của
Ngài và trách nhiệm của mình là phải sống cho Ngài cho đến ngày ấy.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để làm sáng tỏ sự nhầm lẫn về ngày tái lâm của Chúa Cứu Thế.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Hội thánh tại Tê-sa-lô-ni-ca và toàn thể các tín hữu ở khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 51 hoặc 52 SC, vài tháng sau ITê-sa-lô-ni-ca,
từ Cô-rinh-tô.
Bối cảnh: Nhiều người trong Hội thánh đã nhằm lẫn về thời điểm liên hệ đến
sự tái lâm của Chúa Cứu Thế. Vì bắt bớ bách hại cứ tăng thêm, họ tưởng
ngày của Chúa chắc đã gần kế, nên giải thích bức thư thứ nhất của Phao-lô
dạy là Chúa sẽ tái lâm bất cứ lúc nào. Do sự hiểu lầm đó mà nhiều người cứ
ở dưng và sống vô trật tự, viện lẽ họ đang chờ Chúa Cứu Thế tái lâm.
Câu chìa khoá: “Nguyền xin Chúa soi dẫn lòng anh em tới đến sự yêu mến
Đức Chúa Trời, và sự nhịn nhục của Đấng Christ” (IITe 2Tx 3:5)
Các nhân vật chính: Phao-lô, Si-la, Ti-mô-thê.
Địa danh chính: Thành phố Tê-sa-lô-ni-ca.
Những nét đặc trưng: Đây là một bức thư tiếp nối ITê-sa-lô-ni-ca. Trong thư
này, Phao-lô chỉ ra nhiều biến cố khác nhau phải xảy ra trước ngày Chúa
Cứu Thế tái lâm.
Bố cục:
1. Niềm hy vọng tươi sáng về việc Chúa Cứu Thế tái lâm (1:1-2:17)
2. Sống trong ánh sáng Chúa Cứu Thế tái lâm (3:1-18)
Phao-lô viết thư này để khích lệ những người đang phải đương đầu với sự
bắt bớ bách hại và để sửa lại một hiểu lầm liên hệ đến thời điểm về ngày
Chúa Cứu Thế tái lâm. Lời truyền dạy về sự tái lâm của Chúa Cứu Thế đã
làm nảy sinh thói ở dưng trong Hội thánh non trẻ này. Sự tái lâm gần kề của
Chúa Cứu Thế chẳng bao giờ có thể khiến chúng ta trở thành kẻ ăn không
ngồi rồi, mà phải khiến mọi người càng bận rộn hơn nữa - phải sống trong
sạch, tận dụng thì giờ, và làm việc cho nước Ngài. Chúng ta chẳng những
phải làm việc trong lúc dễ dàng, khi có cơ hội thuận tiện, mà còn phải làm
việc cả trong những thời kỳ khó khăn nữa. Các Cơ Đốc nhân phải nhịn nhục
chờ đời Chúa Cứu Thế tái lâm, và làm việc cho Ngài trong khi chúng ta chờ
đợi.
Các đại đề mục #
Luận đề: Bắt bớ bách hại
Lời giải thích: Phao-lô khích lệ Hội thánh phải kiên trì nhẫn nhục bất chấp
hoạn nạn thử thách. Đức Chúa Trời sẽ đem chiến thắng về cho những người
tận trung theo Ngài và phán xét những kẻ bắt bớ bách hại họ.
Tầm quan trọng: Đức Chúa Trời ban thưởng cho sự trung tín của chúng ta
bằng cách ban quyền năng Ngài cho chúng ta và giúp chúng ta chịu đựng sự
bắt bớ bách hại. Chịu khổ vì đạo sẽ thêm sức lực để chúng ta phục vụ Chúa
Cứu Thế. Chúng ta phải tận trung với Ngài.
Luận đề: Chúa Cứu Thế tái lâm
Lời giải thích: Phao-lô đã nói Chúa có thể tái lâm bất cứ lúc nào, nên một số
tín hữu Tê-sa-lô-ni-ca đã ngưng làm việc để chờ Chúa đến.
Tầm quan trọng: Chúa Cứu Thế sẽ trở lại và đem chiến thắng trọn vẹn đến
cho tất cả những ai tin cậy Ngài. Nếu chúng ta chuẩn bị sẵn sàng thì chẳng
cần chi phải quan tâm đến vấn đề khi nào thì Ngài sẽ trở lại. Chúng ta phải
đứng vững, cứ tiếp tục làm việc và chờ đợi Chúa Cứu Thế.
Luận đề: Sự phản loạn lớn
Lời giải thích: Trước ngày Chúa Cứu Thế tái lâm sẽ có một cuộc phản loạn
lớn chống lại Đức Chúa Trời do con người bất chấp luật pháp (anti-Christ)
lãnh đạo. Đức Chúa Trời sẽ cất mọi hạn chế đối với điều ác trước khi phán
xét những kẻ phản loạn. Anti-Christ sẽ cố tìm cách lừa dối nhiều người.
Tầm quan trọng: Chúng ta đừng sợ khi thấy điều ác gia tăng. Đức Chúa Trời
đang cầm quyền kiểm soát, cho dù thế gian này có trở thành gian ác đến đâu.
Ngài bảo vệ chúng ta trong khi Sa-tan tấn công. Chúng ta có thể chiến thắng
điều ác bằng cách cứ tận trung với Đức Chúa Trời.
Luận đề: Kiên trì nhẫn nhục
Lời giải thích: Vì nhiều thành viên của Hội thánh bỏ công việc và sống vô
trật tự, không vâng lời, nên Phao-lô đã trừng phạt thói ở dưng của họ. Ông
kêu gọi họ hãy tỏ ra can đảm và có cách ăn ở của một Cơ Đốc nhân chân
chính.
Tầm quan trọng: Chúng ta chẳng bao giờ nên mỏi mệt trong việc làm lành .
Chúng ta có thể kiên trì bằng cách tận dụng thì giờ và tài năng của mình. Sự
kiên trì nhẫn nhục của chúng ta sẽ được ban thưởng.

Dẫn nhập I Ti-mô-thê


Lời giới thiệu
Chúng ta đang tự tác tạo ra các (nấc thang) giá trị cho mình mà chẳng cần
chi phải cố công gắng sức. Đặc biệt là những bậc làm cha mẹ đều đang
chứng minh cho con cái mình thấy là mình xem điều gì là quan trọng là có
giá trị. “Cha nào con nấy” không phải chỉ là một bức ảnh chụp khéo mà thôi;
nó là một sự thật luôn luôn được nhắc đi nhắc lại ngay trong nhà riêng của
chúng ta. Và kinh nghiệm chứng minh rằng con cái thường noi theo nếp
sống của cha mẹ chúng, lặp đi lặp lại các thành công và nhầm lẫn của họ.
Ti-mô-thê là một thí dụ tuyệt hảo về một người đã chịu ảnh hưởng của các
bà con thân thuộc tin kính, ngoan đạo. Mẹ ông là Ơ-nít và bà nội ông là Lô-
ít đều là những tín hữu người Do Thái đã góp phần tác tạo, hun đúc cuộc đời
ông và đẩy mạnh sự tăng trưởng thuộc linh của ông (IITi 2Tm 1:5; 3:15). Ti-
mô-thê là Cơ Đốc nhân đầu tiên thuộc “thế hệ thứ hai” được Tân Ước đề
cập, và ông là người được Phao-lô bảo trợ, và là vị mục sư của Hội thánh tại
Ê-phê-sô. Là một mục sư trẻ tuổi, Ti-mô-thê đã phải đương đầu với đủ thứ
áp lực, tranh chấp và thách thức từ trong Hội thánh và nền văn hoá đang vây
quanh ông. Để khuyên giúp và khích lệ Ti-mô-thê, Phao-lô đã gởi cho ông
bức thư riêng này.
Phao-lô viết ITi-mô-thê vào khoảng năm 64 SC có lẽ ngay trước khi ông bị
cầm tù lần cuối cùng tại Rô-ma. Vì ông đã khiếu nại lên Sê-sa, Phao-lô đã bị
áp giải như một tên tù đến Rô-ma (xem Cong Cv 25:1-28:31). Phần đông
các học giả tin rằng Phao-lô đã được tha ra vào khoảng năm 62 SC (có lẽ vì
kỳ hạn quản thúc đã mãn), và suốt mấy năm tiếp sau đó, ông đã đi đây đó
nhiều nơi. Trong thời gian ấy, ông đã viết ITi-mô-thê và sách Tít. Tuy nhiên,
chẳng bao lâu Hoàng đế Nero đã bắt đầu chiến dịch loại trừ Cơ Đốc giáo.
Người ta tin rằng vào cuối giai đoạn ấy, Phao-lô đã bị hành quyết. Trong
thời gian bị tù lần thứ hai tại Rô-ma, Phao-lô đã viết IITi-mô-thê. Sách Tít
và hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê nhập chung lại, đã được gọi là “Thư tín
giám mục”.
Bức thư đầu tiên của Phao-lô gởi cho Ti-mô-thê khẳng định mối liên hệ giữa
hai người (1:2). Phao-lô bắt đầu lời khuyên bảo với tư cách là một người
cha, cảnh cáo Ti-mô-thê về các giáo sư giả (1:3-11) và khuyến giục ông giữ
vững đức tin vào Chúa Cứu Thế (1:12-20). Tiếp theo, Phao-lô xét đến buổi
nhóm thờ phượng công cộng, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cầu nguyện
(2:1-7) và trật tự trong những buổi nhóm lại trong nhà thờ (2:8-15). Việc này
dẫn tới một phần thảo luận về các phẩm cách của cấp lãnh đạo trong Hội
thánh - tức là các giám mục và chấp sự. Ở đây Phao-lô liệt kê các chuẩn mực
đặc thù cho từng chức vụ (3:1-16).
Phao-lô lại đề cập các giáo sư giả, bảo cho Ti-mô-thê biết cách nhận ra họ và
đối đáp với họ (4:1-16). Tiếp theo, ông đưa ra lời khuyên thực tiễn về công
tác chăm sóc mục vụ dành cho người trẻ, người già (5:1,2) và các nô lệ
(6:1,2). Phao-lô kết thúc bằng việc khuyến giục Ti-mô-thê gìn giữ các động
cơ thúc đẩy mình (6:3-10), đứng vững trong đức tin (6:11-12). Sống không
chỗ chê trách (6:13-16) và trung tín phục vụ (6:17-20).
Sách Ti-mô-thê thứ nhất hàm chứa nhiều bài học. Nếu bạn là một cấp lãnh
đão Hội thánh, xin chú ý mối liên hệ của Phao-lô với người môn đệ trẻ tuổi
này - tức là việc khuyên bảo và chỉ dẫn thật cẩn thận, cặn kẽ. Hãy tự đo
mình bằng phẩm cách Phao-lô đã đưa ra cho các giám mục và chấp sự. Nếu
bạn hãy còn non trẻ trong đức in (bạn hãy noi gương các cấp lãnh đạo tin
kính như Ti-mô-thê. Nếu bạn có một thân nhân, hãy tự nhắc nhở về tác dụng
sâu sắc của một gia đình Cơ Đốc giáo có thể có trên một thành viên trong
gia đình - một người mẹ, một bà nội trung tín đã đưa Ti-mô-thê đến với
Chúa Cứu Thế và chức vụ của Ti-mô-thê đã góp phần làm thay đổi thế gian.
Các đặc điểm quan trọng: Để khuyến khích và chỉ dạy cho Ti-mô-thê, một
cấp lãnh đạo trẻ tuổi.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Ti-mô-thê, cho các cấp lãnh đạo trẻ tuổi của Hội thánh và toàn
thể tín hữu khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 64 SC, từ Rô-ma hoặc Ma-xê-đoan (có thể là
tại Phi-líp), có lẽ ngay trước khi Phao-lô bị cầm tù lần cuối cùng tại Rô-ma.
Bối cảnh: Ti-mô-thê là một trong những bạn đồng hành thân cận nhất với
Phao-lô. Ông đã sai Ti-mô-thê đến Ê-phê-sô để chống lại tà giáo vừa nảy
sinh tại đó (ITi1Tm 1:3,4). Có lẽ Ti-mô-thê đã phục vụ một thời gian với tư
cách lãnh tụ của Hội thánh tại Ê-phê-sô. Phao-lô mong được đến thăm Ti-
mô-thê (3:14,15; 4:13), nhưng trong khi chờ đợi, ông viết bức thư này để gởi
cho Ti-mô-thê lời khuyên thực tiễn liên hệ với chức vụ.
Câu chìa khoá: “Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, cho đến chừng ta đến”
(ITi1Tm 4:12).
Các nhân vật chính: Phao-lô, Ti-mô-thê.
Địa danh chính: Ê-phê-sô.
Những nét đặc trưng: Sách Ti-mô-thê thứ nhất là một bức thư riêng và là
một sách chỉ nam, hướng dẫn công tác quản trị và sửa trị Hội thánh.
Bố cục:
1. Những lời giáo huấn về giáo lý thuần chánh (1:1-20).
2. Những lời giáo huấn dành cho Hội thánh (2:1-3:16).
3. Những lời giáo huấn dành cho các cấp lãnh đạo (4:1-6:21).
Phao-lô khuyên Ti-mô-thê về các lãnh vực thực tiễn như phẩm cách của các
cấp lãnh đạo Hội thánh, sự thờ phượng công cộng, chống trả tà giáo, và cách
đối xử với nhiều nhóm người khác nhau trong Hội thánh. Giáo lý thuần
chánh và cách ăn ở phải lẽ là rất quan trọng cho bất cứ người nào muốn lãnh
đạo hay phục vụ thành công trong Hội thánh. Mọi người chúng ta phải tin
cách đúng đắn, tham gia tích cực các công tác trong Hội thánh, và phục vụ
lẫn nhau bằng tình yêu thương.
Các đại đề mục:
[td Luận đề: Giáo lý thuần chánh
Lời giải thích: Phao-lô hướng dẫn Ti-mô-thê gìn giữ đức tin Cơ Đốc giáo
bằng cách truyền dạy giáo lý thuần chánh và gương mẫu trong nếp sống tin
kính. Ti-mô-thê phải chống lại các giáo sư giả đang dẫn dụ tín hữu trong Hội
Thánh xa lìa niềm tin vào sự cứu rỗi, bằng cách chỉ đặt đức tin nơi Chúa
Cứu Thế Giê-xu mà thôi.
Tầm quan trọng: Muốn bảo vệ chân lý, chúng ta phải biết rõ nó. Chúng ta
phải bám chặt vào niềm tin rằng Chúa Cứu Thế đã đến là để cứu chúng ta.
Chúng ta phải tránh xa những kẻ xuyên tạc lời trong Thánh Kinh vì chủ đích
riêng của họ.
Luận đề: Sự thờ phượng công cộng
Lời giải thích: Cầu nguyện trong một buổi nhóm thờ phượng công cộng phải
có thái độ thích đáng đối với Đức Chúa Trời và các tín hữu cùng thờ
phượng.
Tầm quan trọng: Đặc tính Cơ Đốc giáo phải biểu hiện rõ ràng trong mọi
phương diện của việc thờ phượng. Chúng ta phải tự loại bỏ mọi giận dữ, thù
ghét hoặc cách ăn ở làm mất lòng người khác có thể làm gián đoạn sự thờ
phượng hay có hại cho sự hợp nhất của Hội thánh.
Luận đề: Quyền lãnh đạo Hội thánh
Lời giải thích: Phao-lô đưa ra những lời chỉ giáo đặc thù liên hệ đến các
phẩm cách của các cấp lãnh đạo Hội thánh, để Hội thánh có thể tôn vinh
Đức Chúa Trời và các hoạt động được thuận lợi.
Tầm quan trọng: Các cấp lãnh đạo Hội thánh phải tận hiến cho Chúa Cứu
Thế. Nếu bạn là một Cơ Đốc nhân mới tin Chúa hoặc trẻ tuổi, đừng nôn
nóng muốn trở thành một lãnh tụ của Hội thánh. Hãy tìm cách phát triển
nhân cách Cơ Đốc của bạn trước đã. Phải chắc chắn là bạn đang tìm cầu Đức
Chúa Trời, chứ không phải là đang theo đuổi tham vọng riêng.
Luận đề: Kỷ luật cá nhân
Lời giải thích: Muốn làm lãnh tụ Hội thánh phải biết tự khép mình vào kỷ
luật. Cũng như tất cả các vị mục sư khác, Ti-mô-thê đã phải giữ vững các
động cơ thúc đẩy mình, chức vụ của đức tin, ……(?) Mục sư nào cũng phải
giữ mình cho thích hợp về cả hai phương diện đạo đức và thuộc linh.
Tầm quan trọng: Muốn giữ mình luôn luôn đúng đắn về mặt thuộc linh, bạn
phải tự khép mình vào kỷ luật trong việc học hỏi nghiên cứu Lời Đức Chúa
Trời, và vâng theo Lời ấy. Hãy biến các tài năng thuộc linh của bạn thành
hành động!
Luận đề: Chăm sóc Hội thánh
Lời giải thích: Hội thánh có trách nhiệm lo lắng chăm sóc cho nhu cầu của
toàn thể các thành viên, nhất là những người bệnh tật, nghèo thiếu và quả
phụ. Sự chăm sóc này phải vượt xa các ý định tốt mà thôi.
Tầm quan trọng: Chăm sóc cho gia đình các tín hữu chứng minh cho thái độ
giống như Chúa Cứu Thế của chúng ta và bày tỏ cho người chưa tin tình yêu
thương chân thật của chúng ta.

Dẫn nhập II Ti-mô-thê


Lời giới thiệu
“Những lời trăn trối lừng danh” có giá trị hơn một câu khách sáo. Khi những
người nam người nữ nổi tiếng, có nhiều ảnh hưởng tốt sắp từ giã cõi đời, cả
thế gian đều chờ đợi để nghe những lời nói cuối cùng đầy khôn ngoan, thông
tuệ của họ. Sau đó, những lời ấy sẽ được trích dẫn và nhắc đi nhắc lại trên
khắp thế giới. Điều này cũng nghiệm đúng với một người thân yêu đang hấp
hối. Tập họp lại chung quanh người ấy, cả gia đình đều căng thẳng lắng
nghe từng tiếng thì thào một, từng lời chúc phước, khích lệ, khuyên bảo, vì
biết rằng đây sẽ là bức thông điệp cuối cùng.
Có một trong số nhiều nhân vật uyên bác, có nhiều ảnh hưởng, và được
nhiều người yêu mến nhất trong lịch sử, là sứ đồ Phao-lô. Và chúng ta đã có
được những lời trăn trối nổi tiếng của ông.
Phao-lô đang trực diện với cái chết. Ông không hấp hối vì bệnh tật trong một
bệnh viện quạnh quẽ với thân nhân vây quanh. Ông vẫn còn rất sinh động,
nhưng “phần số” (có thể nói như thế) của ông đã hết. Phao-lô là một người
từng tự xưng là môn đệ của Giê-xu người Na-xa-rét, hiện đang nằm trong
một nhà tù lạnh lẽo tại Rô-ma, cách ly với thế giới, với chỉ một hoặc hai
khách đến thăm, và những vật liệu để viết lách của ông. Phao-lô biết rõ
chẳng bao lâu nữa ông sẽ bị đưa đi hành quyết (IITi 2Tm 4:6), cho nên ông
viết những ý nghĩ cuối cùng của mình cho người “con trai” là Ti-mô-thê,
chuyển lại cho Ti-mô-thê ngọn đuốc lãnh đạo, nhắc nhở Ti-mô-thê về những
điều thật sự quan trọng, và khích lệ ông trong đức tin (đạo). Hãy tưởng
tượng xem Ti-mô-thê đã đọc, rồi đọc đi đọc lại từng lời từng chữ như thế
nào - đây là bức thông điệp cuối cùng từ người cố vấn thân yêu của ông, là
Phao-lô. Do hoàn cảnh và người nhận thư, đây là bức thư tha thiết và cảm
động nhất trong tất cả các thư của Phao-lô, mà cũng là bức thư cuối cùng
ông đã viết.
Phần dẫn nhập của Phao-lô thật âu yếm, và tình yêu của ông đối với Ti-mô-
thê toát ra qua mỗi câu (1:1-5). Rồi ông nhắc lại cho Ti-mô-thê về các đức
tính cần thiết cho một mục sư tận trung với Chúa Cứu Thế Giê-xu (1:6-
2:13). Ti-mô-thê phải nhớ lại tiếng gọi mình, và tận dụng các ân tứ của mình
thật mạnh dạn (1:6-12), bám sát chân lý (1:13-18), chuẩn bị nhiều người
khác cho chức vụ (2:1-2), phải khép mình vào kỷ luật và sẵn sàng chịu đựng
gian khổ (2:3-7), và đặt tâm trí mình chăm chú vào Chúa Cứu Thế (2:8-13).
Phao-lô thách thức Ti-mô-thê giữ vững đạo thuần chánh, bác bỏ sai lầm và
tránh lời vô ích bất kính, giữ cho lời của chân lý được ngay thẳng (2:14-19),
và giữ đời sống được trong sạch (2:20-26).
Tiếp theo, Phao-lô cảnh cáo Ti-mô-thê về sự chống đối mà ông và các tín
hữu khác sẽ phải gặp trong những ngày sau rốt, do những kẻ ích kỷ lạm
dụng Hội thánh cho lợi ích riêng và truyền dạy tà giáo (3:1-9). Phao-lô bảo
Ti-mô-thê phải chuẩn bị sẵn sàng đối với những kẻ bất trung bằng cách nhớ
lại gương của ông (3:10,11), thấu triệt nguồn gốc đích thực gây chống đối
(3:12,13) và tìm cầu sức lực quyền năng nơi Lời Đức Chúa Trời (3:14-17).
Rồi Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê một nhiệm vụ truyền giảng Phúc âm (4:1-
4) và hoàn thành chức vụ cho đến cuối cùng (4:5-8).
Phao-lô kết luận những yêu cầu cá nhân và một số tin tức. Trong những lời
cuối cùng này, ông cho thấy nỗi cô đơn và tình yêu mãnh liệt của mình đối
với các anh chị em trong Chúa Cứu Thế (4:9-22).
Chẳng hề có một người nào giống như Phao-lô, vị sứ đồ truyền giáo. Ông là
một người có đức tin sâu nhiệm, tình yêu bất tử, luôn luôn vui mừng, tin
tưởng kiên quyết, và có tầm nhìn xuyên suốt sâu xa. Và ông đã được linh
cảm để truyền lại cho chúng ta bức thông điệp của Đức Chúa Trời. Trong
khi bạn đọc II Ti-mô-thê nên biết rằng mình đang đọc lời trăn trối của một vĩ
nhân của Đức Chúa Trời - những lời trối trăn cho Ti-mô-thê và cho tất cả
những ai tự xưng là theo Chúa Cứu Thế. Hãy tự tái tận hiến để can đảm
đứng vững cho chân lý, thông suốt Lời Đức Chúa Trời và được Đức Thánh
Linh ban quyền năng cho.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để truyền những lời chỉ giáo và khích lệ cuối cùng cho Ti-mô-thê,
mục sư của Hội thánh tại Ê-phê-sô.
Trước giả: Phao-lô.
Đọc giả: Cho Ti-mô-thê và toàn thể Cơ Đốc nhân khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 66 hoặc 67 SC, từ nhà tù tại Rô-ma. Sau một
hoặc hai năm được tự do, Phao-lô lại bị bắt giữ rồi bị hành quyết dưới thời
Hoàng đế Nero.
Bối cảnh: Rõ ràng Phao-lô đang cô đơn trong tù; chỉ một mình Lu-ca đang ở
với ông. Phao-lô viết bức thư này để chuyển ngọn đuốc cho các cấp lãnh đạo
Hội thánh thuộc thế hệ mới. Ông cũng yêu cầu các bạn thân hãy đến thăm
ông, hãy gởi cho ông các cuộn sách nhất là cuộn sách chép trên da thuộc - có
lẽ là nhiều phần của Cựu ước Kinh, các sách Phúc âm và các Thánh Kinh
viết tay khác nữa.
Câu chìa khoá: “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời, như
người làm công không chỗ trách được, lầy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của
lẽ thật” (IITi 2Tm 2:15).
Các nhân vật chính: Phao-lô, Ti-mô-thê, Lu-ca, Mác và nhiều người khác.
Các địa danh chính: Rô-ma, Ê-phê-sô.
Những nét đặc trưng: Vì đây là bức thư cuối cùng của Phao-lô, ông đã bộc
lộ lòng mình và những vấn đề mà ông xếp vào hàng ưu tiên - giáo lý thuần
chánh, đức tin vững vàng, kiên trì tin quyết, và tình yêu tồn tại mãi.
Bố cục:
1. Các nền tảng cho sự phục vụ của Cơ Đốc nhân (1:1-2:26)
2. Những thời kỳ khó khăn cho việc phục vụ của Cơ Đốc nhân (3:1-4:22)
Phao-lô đưa ra lời khuyên hữu ích, giúp Ti-mô-thê cứ đâm rễ vững nền trong
việc phục vụ Chúa Cứu Thế và chịu đựng gian khổ trong những ngày hầu
đến. Thật quá dễ dàng để chúng ta phục vụ Chúa Cứu Thế vì nhiều lý do sai
lầm: vì phấn khởi, vì được ban thưởng, hoặc vì có thể làm giàu. Tuy nhiên,
nếu thiếu cơ sở phải lẽ, chúng ta sẽ rất dễ bỏ cuộc khi gặp thời kỳ khó khăn.
Toàn thể các Cơ Đốc nhân cần có một nền tảng vững chắc cho sự phục vụ
của mình, vì phục vụ Chúa Cứu Thế sẽ không dễ dàng hơn khi chúng ta cứ
ngày càng cao tuổi, và sẽ không dễ dàng hơn khi ngày tái lâm của Chúa Cứu
Thế cứ ngày càng gần hơn.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Mạnh dạn
Lời giải thích: Trước chống đối và bắt bớ bách hại, Ti-mô-thê phải thi hành
chức vụ mà không chút sợ hãi hoặc mạnh dạn tận dụng các ân tứ giảng dạy
mà Đức Thánh Linh đã ban cho ông.
Tầm quan trọng: Đức Thánh Linh giúp chúng ta được khôn ngoan và mạnh
mẽ. Đức Chúa Trời đề cao lời chứng kiên quyết của chúng ta ngay khi
chúng ta chịu khổ. Muốn thắng vượt nỗi sợ thiên hạ có thể nói gì hoặc làm
gì, chúng ta phải rời mắt khỏi họ, chỉ nhìm chăm vào một mình Đức Chúa
Trời mà thôi.
Luận đề: Trung tín
Lời giải thích: Chúa Cứu Thế thành tín với mọi người chúng ta khi chịu chết
vì tội lỗi chúng ta. Phao-lô là một mục sư tận trung cả khi phải ở tù. Phao-lô
khuyên Ti-mô-thê chẳng những phải duy trì giáo lý thuần chánh, mà còn
phải trung thực, chăm chỉ và kiên trì nhận nhục nữa.
Tầm quan trọng: Trong khi phục vụ Chúa Cứu thế, chúng ta có thể cầm chắc
là sẽ bị chống đối khổ sở và gặp khó khăn. Những điều đó chứng minh rằng
lòng tận trung của chúng ta đang có tác dụng trên người khác. Nếu chúng ta
tin cậy Chúa Cứu Thế để cứ đứng vững.
Luận đề: Giảng và dạy
Lời giải thích: Phao-lô và Ti-mô-thê rất tích cực giảng và dạy Phúc âm về
Chúa Cứu Thế. Phao-lô khích lệ Ti-mô-thê chẳng những phải nêu cao ngọn
đuốc chân lý, mà còn phải đào tạo nhiều người khác nữa, chuyển giao cho
họ giáo lý thuần chánh và lòng nhiệt thành vì sứ mạng mà Chúa Cứu Thế đã
giao cho.
Tầm quan trọng: Chúng ta phải chuẩn bị nhiều người khác để họ chuyển
giao Lời Chúa cho nhiều người khác nữa, rồi đến lượt họ, lại chuyển cho
nhiều người khác nữa... Hội thánh của bạn có huấn luyện đào tạo thật kỹ
nhiều người khác cho việc giảng dạy không?
Luận đề: Sai lầm
Lời giải thích: Trong những ngày sau rốt, trước khi Chúa Cứu Thế tái lâm,
sẽ có nhiều giáo sư giả, nhiều người bỏ đạo, nhiều kẻ theo tà giáo. Phương
thuốc để chống sai lầm là phải có một chương trình vững chắc để dạy dỗ các
Cơ Đốc nhân.
Tầm quan trọng: Vì có nhiều kẻ lường gạt và dạy tà giáo, chúng ta phải khép
mình vào kỷ luật và sẵn sàng phản bác điều sai lầm. Phảithông suốt Lời Đức
Chúa Trời để tự vệ an toàn và chống lại điều sai lầm gây rối.

Dẫn nhập Tít


Lời giới thiệu
Khoảng trống do một lãnh tụ vững mạnh ra đi tạo nên có thể hủy hoại cả
một phong trào, một tổ chức, một định chế. Vốn lệ thuộc vào tài năng,
phong cách và nhân cách của nhân vật ấy, những người cộng tác và thuộc
cấp bị choáng váng hoặc cùng tranh giành quyền lãnh đạo. Chẳng bao lâu,
tính hiệu quả và sinh động bị mất đi, và tiếp theo là suy tàn và mai một. Mẫu
mực này thường lặp đi lặp lại trong nhiều Hội thánh. Các diễn giả và giáo sư
nổi tiếng tập họp quanh mình nhiều môn đệ, và Hội thánh phát triển nhanh
chóng. Nó sống động, đầy sinh lực và kết quả. Đời sống nhiều người được
biến đổi, thiên hạ được đưa vào nước Trời. Nhưng khi nhân vật thủ vai chất
xúc tác lẫn trái tim của tổ chức rời xa hoặc chết , cùng với người ấy trung
tâm của tổ chức cũng nối gót theo sau.
Thiên hạ từng đổ xô đến để nghe Phao-lô dạy dỗ; là một người có học vấn,
lập luận khúc chiết, có động lực thúc đẩy và đầy dẫy Đức Thánh Linh, nhân
vật của đức tin này đã trung tín truyền bá Phúc âm khắp La-mã đế quốc - đời
sống nhiều người được thay đổi và nhiều Hội thánh được thiết lập. Nhưng
Phao-lô vốn biết rằng Hội thánh phải được xây dựng trên Chúa Cứu Thế,
chứ không phải là trên một người nào. Ông cũng biết rằng cuối cùng rồi ông
cũng sẽ chẳng còn ở đó nữa để mà gây dựng, khích lệ, sửa trị, và dạy bảo.
Cho nên ông đã huấn luyện nhiều mục sư trẻ để đảm trách việc lãnh đạo Hội
thánh sau khi ông đã ra đi. Phao-lô khuyến giục họ tập trung đời sống mình
vào công tác truyền giảng Lời Đức Chúa Trời (IITi 2Tm 3:16,17), cũng đào
tạo nhiều người khác nữa để thi hành chức vụ (2:2).
Tít là một tín hữu người Hi-lạp. Được Phao-lô dạy dỗ và trưởng dưỡng, ông
từng xuất hiện trước các cấp lãnh đạo Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem, như một
tấm gương sống động về những gì Chúa Cứu Thế đã làm giữa những người
ngoại quốc (GaGl 2:1-3). Cũng như Ti-mô-thê, ông là một trong những bạn
đồng hành tín cẩn và những bạn thân nhất của Phao-lô. Về sau, ông từng là
đặc sứ của Phao-lô (IICo 2Cr 7:5-16) và cuối cùng, là giám mục của Hội
thánh tại Cơ-rết (Tit Tt 1:5). Từ từ mà cẩn thận, Phao-lô đã phát triển Tít
thành một Cơ-đốc nhân trưởng thành và một lãnh tụ có trách nhiệm. Bức thư
ông gởi cho Tít là một bước trong tiến trình đào tạo môn đệ đó. Cũng như
với Ti-mô-thê, Phao-lô dạy bảo Tít cách tổ chức và lãnh đạo các Hội thánh.
Phao-lô bắt đầu bằng một lời chào thăm và nhập đề dài hơn thường lệ, tóm
tắt tiến trình của công tác lãnh đạo - là chức vụ của Phao-lô (1:1-3), các
trách nhiệm của Tít (1:4,5), và các cấp lãnh đạo mà Tít sẽ bổ nhiệm và huấn
luyện (1:5). Rồi Phao-lô liệt kê các phẩm cách của vị mục sư (1:6-9) và đặt
tương phản các giám mục trung tín với các cấp lãnh đạo và giáo sư giả
(1:10-16).
Tiếp theo, Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của những việc lành trong đời
sống Cơ-đốc nhân, dạy Tít cách liên hệ với các nhóm người có tuổi tác khác
nhau trong Hội thánh (2:2-6). Ông khuyến giục Tít phải nêu gương tốt của
một tín hữu trưởng hành (2:7,8), và giảng dạy bằng lòng can đảm và tin
quyết (2:9-15). Rồi ông thảo luận về các trách nhiệm tổng quát của các Cơ-
đốc nhân trong xã hội - Tít phải nhắc nhở mọi người về các trách nhiệm ấy
(3:1-8), và phải tránh những cuộc tranh luận gây chia rẽ (3:9-11). Phao-lô
kết thúc bằng vài vấn đề di chuyển và những lời chào thăm cá nhân (3:12-
15).
Bức thư của Phao-lô gởi cho Tít tuy vắn tắt nhưng là một vòng quan trọng
trong các mắt xích của tiến trình đào tạo môn đệ - giúp một thanh niên phát
triển trong công tác lãnh đạo Hội thánh. Trong khi bạn đọc bức giám mục
thư này, bạn sẽ có được cái nhìn xuyên suốt vào tổ chức và sinh hoạt của
Hội thánh nguyên thủy, và bạn sẽ nhận thấy các nguyên tắc để cấu trúc các
Hội thánh hiện đại. Nhưng bạn cũng sẽ thấy được phương pháp để trở thành
một lãnh tụ Cơ-đốc giáo có trách nhiệm. Hãy đọc bức thư gởi cho Tít này và
quyết tâm đào tạo nhiều người nam người nữ để lãnh đạo và dạy dỗ nhiều
người khác, như Phao-lô vậy.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để khuyên bảo Tít trong trách nhiệm quản lý các Hội thánh trên
đảo Cơ-rết.
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Tít, một người HI-lạp, có lẽ đã ăn năn quay về với Chúa Cứu
Thế nhờ chức vụ của Phao-lô (ông đã trở thành người đại diện đặc biệt cho
Phao-lô tại đảo Cơ-rết), và toàn thể các tín hữu khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 64 SC, trước sau lúc viết thư ITi-mô-thê, có
lẽ từ xứ Ma-xê-đoan, khi Phao-lô đến đó giữa hai lần ông bị cầm tù tại Rô-
ma.
Bối cảnh: Phao-lô phái Tít đến để tổ chức và quản lý các Hội thánh tại Cơ-
rết. Bức thư này dạy Tít cách thi hành nhiệm vụ ấy.
Câu chìa khoá: “Ta đã để con ở lại Cơ-rết đặng sắp đặt mọi việc chưa thu
xếp, và theo như ta đã răn bảo cho con mà lập những trưởng lão trong mỗi
thành” (1:5)
Các nhân vật chính: Phao-lô, Tít.
Các địa danh chính: Đảo Cơ-rét, thành phố Ni-cô-bô-li.
Những nét đặc trưng: Thư Tít rất giống với thư ITi-mô-thê với những lời
giáo huấn dành cho các cấp lãnh đạo Hội thánh.
Bố cục:
1. Quyền lãnh đạo trong Hội thánh (1:1-16)
2. Nếp sống đứng đắn trong Hội thánh (2:1-15)
3. Nếp sống đứng đắn ngoài xã hội (3:1-15)
Phao-lô kêu gọi Hội thánh phải sống có trật tự và đứng đắn trong một hải
đảo nổi tiếng là có nhiều người lười biếng, tham ăn, nói dối, và xấu xa gian
ác. Với tư cách cá nhân, các Cơ-đốc nhân phải tự chủ, còn với tư cách những
người họp thành một tổ chức (thân thể) là Hội thánh, họ phải sống có trật tự.
Ngày nay chúng ta cũng cần vâng theo bức thông điệp này, khi kỷ luật
không còn được tôn trọng hay ban thưởng trong xã hội của chúng ta. Tuy
nhiên người khác có lẽ không tán thưởng các nỗ lực của chúng ta, chúng ta
phải sống ngay lành, vâng lệnh chính phủ và giữ gìn lời ăn tiếng nói của
mình. Chúng ta phải sống hoà thuận với nhau trong Hội thánh để làm gương
sống về đức tin của mình cho xã hội đương đại.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Một nếp sống tốt đẹp
Lời giải thích: Phúc âm cứu rỗi là chúng ta không thể tự cứu bằng cách sống
một đời sống tốt lành; chúng ta chỉ được nhờ đức tin vào Chúa Cứu Thế
Giê-xu mà thôi. Nhưng Phúc âm làm thay đổi đời sống người ta, để cuối
cùng họ có thể làm nhiều việc lành. Sự phục vụ của chúng ta không cứu
được mình. Sự phục vụ của chúng ta không cứu được mình, nhưng chúng ta
đã được cứu là để phục vụ.
Tầm quan trọng: Một đời sống tốt đẹp là một lời chứng cho quyền phép của
Phúc âm. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta phải hiến thân và phục vụ theo kỷ luật.
Bạn có biến đức tin của mình thành hành động bằng cách phục vụ tha nhân
chưa?
Luận đề: Cá tính
Lời giải thích: Trách nhiệm của Tít tại Cơ-rết là bổ nhiệm các trưởng lão để
duy trì tổ chức và kỷ luật đứng đắn, cho nên Phao-lô đã liệt kê các đức tính
cần thiết cho việc lãnh đạo. Cách ăn ở của họ ngay trong gia đình cho thấy
họ xứng hợp để phục vụ trong Hội thánh.
Tầm quan trọng: Chỉ có học vấn hoặc trung thành theo Chúa Cứu Thế mà
thôi thì vẫn chưa đủ điều kiện để trở thành một cấp lãnh đạo Hội thánh. Bạn
còn phải tự chủ, xứng hợp cả về hai phương diện thuộc linh và đạo đức, và
có đặc tính của một Cơ-đốc nhân nữa. Bạn là ai (người như thế nào) cũng
quan trọng tương đương với khả năng của bạn (những gì bạn có thể làm)
Luận đề: Các mối liên hệ trong Hội thánh
Lời giải thích: Công tác giảng dạy phải liên hệ với nhiều nhóm người khác
nhau. Các Cơ-đốc nhân cao tuổi hơn phải dạy dỗ và nêu gương cho các
thanh niên thiếu nữ. Người thuộc mọi hạng tuổi, mọi nhóm đều phải học và
giúp nhau chu toàn các vai trò được giao.
Tầm quan trọng: Sống đứng đắn và liên hệ phải lẽ đi đôi với giáo lý thuần
chính. Hãy xem cách bạn liên hệ với các tín hữu khác của bạn như là kết quả
của đức tin bạn.
Luận đề: Bổn phận công dân
Lời giải thích: Các Cơ-đốc nhân phải là công dân tốt trong xã hội chứ không
phải chỉ là những người tốt trong Hội thánh mà thôi. Các tín hữu phải vâng
phục chính quyền và làm ăn lương thiện
Tầm quan trọng: Cách làm tròn các bổn phận công dân của bạn là một lời
chứng cho thế gian đang theo dõi bạn. Cách bạn sống trong cộng đồng phải
phản ảnh tình yêu của Chúa Cứu Thế thật nhiều, như sinh hoạt trong Hội
thánh của bạn vậy.

Dẫn nhập Phi-lê-môn


Lời giới thiệu
Theo hiệu lệnh của người đốc công, quả cầu khổng lồ được thả dây. Một
tiếng va chạm vang dội và bằng một sức mạnh phi thường, quả cầu chạm
vào bức tường, nghiền nát những miếng gạch và nó vỡ vụn ra như những
nhánh cây nhỏ khô mục, khiến vôi vữa bắn ra tung toé. “Quả lắc phá tường”
cứ mạnh mẽ làm đi làm lại công việc của nó nhiều lần như thế, nên chẳng
bao lâu, bức tường ngăn cách đã bị tan thành những mảnh vụn. Rồi nó được
chuyển đi nơi khác để việc xây dựng bắt đầu. Trên đời có rất nhiều bức
tường rào chia cách, phân rẽ, và ngăn ra thành nhiều ô phân biệt. Chúng
không phải bằng gỗ đá, mà là sự ngăn trở trong những con người, ngăn chận
người ta không cho tiếp xúc với nhau và với Đức Chúa Trời. Nhưng Chúa
Cứu Thế đã đến với tư cách con người vĩ đại phá tan những bức tường, triệt
hạ những vách ngăn tội lỗi phân cách chúng ta với Đức Chúa Trời và phá
tan những chướng ngại vật không cho mọi người tiếp xúc với nhau. Sự chết
và sống lại của Ngài mở đường vào sự sống vĩnh hằng để đưa tất cả những
ai bằng lòng tin Ngài vào trong gia đình của Đức Chúa Trời (xem Eph Ep
2:14-18).
Các nền văn hoá La-mã, Hi-lạp và Do-thái đều đầy dẫy những chướng ngại
vật, cũng như xã hội chia thiên hạ ra nhiều giai cấp và mong cho họ cứ đứng
yên tại chỗ - nam và nữ, nô lệ và tự do. Nhưng với bức thông điệp của Chúa
Cứu Thế, các bức thông điệp sụp đổ, khến Phao-lô đã có thể tuyên bố: ‘Tại
đây không còn phân biệt người Gờ-réc hoặc người Giu-đa, người chịu cắt bì
hoặc người không chịu cắt bì, người dã man hoặc người Sy-the, người tôi
mọi hoặc người tự chủ; nhưng Đấng Christ là mọi sự trong mọi sự” (CoCl
3:11).
Chân lý làm biến đổi cuộc đời này là điểm tựa cho bức thư gởi Phi-lê-môn.
Là một trong ba bức thư riêng trong Thánh Kinh, bức thư Phao-lô gởi cho
Phi-lê-môn là một lời khẩn xin cá nhân của Phao-lô cho một nô lệ tên Ô-nê-
sim “thuộc quyền sở hữu” của Phi-lê-môn một thành viên của Hội thánh tại
Cô-lô-se và là một bạn thân của Phao-lô. Nhưng tên nô lệ Ô-nê-sim này đã
trộm cắp của chủ mình và chạy trốn. Anh ta chạy đến Rô-ma, gặp Phao-lô ở
đó, và đáp lại tiếng gọi của Phúc âm đặt đức tin vào Chúa Cứu Thế (Phil
Plm 1:10). Cho nên Phao-lô viết thư này cho Phi-lê-môn để “tái giới thiệu”
Ô-nê-sim với ông, giải thích rằng anh ta nay được gởi về, không phải chỉ
như một tên nô lệ, mà với tư cách một người anh em (1:11,12,10,14,15,20).
Các rào cản của quá khứ cùng với những bức tường mới được dựng lên do
sự chạy trốn và trộm cắp của Ô-nê-sim không còn chia rẽ họ nữa - họ đã hợp
nhất trong Chúa Cứu Thế rồi.
Quyển sách nhỏ này là một tuyệt phẩm của ân điển và của tài ăn nói khôn
khéo, đồng thời cũng là một phần chứng minh sâu nhiệm cho quyền năng
của Chúa Cứu Thế và của sự thông công chân chính trong Cơ-đốc giáo đã
được biến thành hành động. Trong nhà riêng, trong hàng xóm láng giềng, và
trong Hội thánh của bạn, đang có những chiếc rào cản nào” Điều gì đang
ngăn cách bạn với các tín hữu khác - chủng tộc chăng? Địa vị chăng? Của
cải chăng? Học vấn chăng? Nhân cách chăng” Cũng như với Phi-lê-môn
Đức Chúa Trời kêu gọi ban hãy tìm cầu sự hợp nhất, triệt hạ các bức tường
ngăn cách đi và ôm choàng lấy các anh chị em của bạn trong Chúa Cứu Thế.
Những đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để thuyết phục Phi-lê-môn tha thứ cho người nô lệ đã bỏ trốn của
ông là Ô-nê-sim, và nhận lại anh ta như một người anh em trong đức tin
(đạo).
Trước giả: Phao-lô
Đọc giả: Cho Phi-lê-môn, có lẽ là một thành viên giàu có của Hội thánh Cô-
lô-se, và toàn thể các tín hữu.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 60 SC, trong thời gian Phao-lô bị tù lần đầu
tiên tại Rô-ma, trước sau thời gian hai bức thư gởi người Ê-phê-sô và Cô-lô-
se được trước tác.
Bối cảnh: Chế độ nô lệ vốn phổ biến trong La-mã đế quốc, nên rõ ràng là
một số Cơ-đốc nhân đã có nô lệ. Phao-lô không kết án chế độ nô lệ trong các
văn phẩm của ông, nhưng đưa ra một lời phát biểu cấp tiến bằng cách gọi
người nô lệ này của Phi-lê-môn là anh em trong Chúa Cứu Thế.
Câu chìa khóa: ”Vả, có lẽ người đã tạm xa cách anh, cốt để anh nhận lấy
người mãi mãi, không coi như tôi mọi nữa, nhưng coi hơn tôi mọi, coi như
anh em yêu dấu, nhất là yêu dấu cho tôi, huống chi cho anh, cả về phần xác,
cả về phần trong Chúa nữa!” (15,16).
Các nhân vật chính: Phao-lô, Phi-lê-môn, Ô-nê-sim.
Các địa danh chính: Cô-lô-se, Rô-ma.
Những nét đặc trưng: Đây là một thư riêng, một bức thư cá nhân viết cho
một bạn thân.
Bố cục:
1. Lời tán thưởng Phi-lê-môn của Phao-lô (1: 1-7)
2. Lời khẩn cầu cho Ô-nê-sim của Phao-lô (1:8-25).
Phao-lô khẩn xin thay cho Ô-nê-sim, một nô lệ đã bỏ chủ mà trốn đi. Việc
Phao-lô cầu thay cho anh ta minh hoạt cho điều Chúa Cứu Thế Giê-xu đã
làm cho chúng ta. Như Phao-lô đã cầu thay cho một nô lệ, Chúa Cứu Thế
cũng cầu thay cho chúng ta, là những nô lệ của tội lỗi. Như Ô-nê-sim đã
được phục hoà với Phi-lê-môn, chúng ta cũng đã được phục hoà với Đức
Chúa Trời nhờ có Chúa Cứu Thế Giê-xu. Như Phao-lô đề nghị trả nợ thay
cho một nô lệ, Chúa Cứu Thế cũng đã trả món nợ tội của chúng ta. Cũng
như Ô-nê-sim, chúng ta phải quay về với Đức Chúa Trời là Chủ của chúng
ta và phục vụ Ngài.
Các đại đề mục
Luận đề: Tha thứ (tội)
Phần giải thích: Phi-lê-môn là bạn thân của Phao-lô và là chủ hợp pháp của
người nô lệ tên Ô-nê-sim. Phao-lô xin Phi-lê-môn chớ có trừng phạt Ô-nê-
sim mà hãy tha thứ cho anh ta và phục hồi địa vị cho anh ta với tư cách một
anh em mới, là Cơ-đốc nhân.
Tầm quan trọng: Các mối liên hệ giữa các Cơ-đốc nhân với nhau phải đầy
dẫy lòng tha thứ và tiếp nhận. Bạn có thể tha thứ cho những người đã làm
điều sai trái với mình không?
Luận đề: Những rào cản
Phần giải thích: Chế độ nô lệ lan tràn khắp La-mã đế quốc, nhưng chẳng hề
có ai bị lạc mất đối với Đức Chúa Trời hoặc vượt khỏi tình yêu thương của
Ngài. Chế độ nô lệ là một bức rào cản giữa mọi người, nhưng tình yêu và sự
thông công trong Chúa Cứu Thế thắng hơn các bức rào cản đó.
Tầm quan trọng: Trong Chúa Cứu Thế chúng ta là một gia đình. Chẳng hề
có bức tường khác biệt về chủng tộc, kinh tế, hay chính trị mà chia cách
được chúng ta. Hãy để cho Chúa Cứu thế vận hành qua trung gian của bạn
để cất đi mọi rào cản giữa các anh chị em Cơ-đốc nhân với nhau.
Luận đề: Tôn trọng
Phần giải thích: Phao-lô là bạn thân của cả Phi-lê-môn lẫn Ô-nê-sim. Ông có
quyền của một vị sứ đồ để truyền bảo Phi-lê-môn việc phải làm. Thế nhưng
Phao-lô đã chọn khẩn xin bạn mình trong tình yêu thương giữa Cơ-đốc nhân
với nhau, chứ không phải là truyền lệnh cho ông phải tuân hành.
Tầm quan trọng: Thuyết phục bằng lời khôn khéo làm được nhiều việc quan
trọng hơn là truyền lệnh khi cần phải đối phó với người khác. Phải nhớ tỏ ra
lịch duyệt và tôn trọng tha nhân trong các mối liên hệ của bạn.

Dẫn nhập Hê-bơ-rơ


Lời giới thiệu
Những người kỹ tính bỏ tiền ra để tìm mua các sản phẩm có giá trị, có phẩm
chất tốt nhất. Các bậc làm cha làm mẹ khôn ngoan chỉ muốn điều tốt nhất
cho con cái mình, lo trưởng dưỡng chúng về cả thân thể, tâm trí và tinh thần.
Những con người trung thực tìm cách tốt nhất để đầu tư thì giờ, tài năng và
của cải của mình. Trong mọi lãnh vực, đầu tư vào cái kém cỏi đều là phung
phí, dại dột và vô trách nhiệm. Thế nhưng xu hướng muốn tìm sự thuận lợi,
dễ dàng vẫn là điều tự nhiên.
Do-thái giáo vốn không phải loại tôn giáo “hạng nhì” hay dễ dãi. Được
chính Đức Chúa Trời “thiết kế”, nó chính là tôn giáo tốt nhất, biểu lộ tinh
thần thờ phượng và tận hiến thật sự cho Đức Chúa Trời. Các điều răn, các lễ
nghi mà các nhà tiên tri đã mô tả các lời hứa của Đức Chúa Trời và mặc khải
con đường dẫn đến sự tha tội, được cứu rỗi. Nhưng rồi Chúa Cứu Thế đến,
làm trọn (ứng nghiệm) Luật pháp và lời truyền dạy của các nhà tiên tri,
chinh phục tội nhân, san bằng mọi rào cản, đưa người ta đến với Đức Chúa
Trời, và ban cho sự sống vĩnh hằng.
Bức thông điệp này thật khó cho dân Do-thái chấp nhận. Tuy họ từng tìm
cầu Đấng Mê-si-a qua nhiều thế kỷ, họ chỉ giam chặt mình trong việc suy
gẫm và thờ phượng theo các hình thức cổ truyền. Theo Chúa Giê-xu dường
như là điều ghê tởm đối với phần di sản diệu kỳ và các Thánh điển sâu
nhiệm của họ. Họ vừa thận trọng vừa thắc mắc lắng nghe Phúc âm, nhưng
nhiều người đã chối bỏ và tìm cách loại trừ “tà giáo” này. Những người chấp
nhận Chúa Gê-xu là Đấng Mê-si-a, thì tự thấy mình trượt chân sa trở vào các
lối mòn quen thuộc cũ, để rồi cố tìm cách sống với một thứ đạo lai căn.
Thư Hê-bơ-rơ là một tài liệu của bậc thầy viết cho người Do-thái đang cân
nhắc, đánh giá Chúa Giê-xu, hoặc đang chiến đấu với đạo mới này. Bức
thông điệp gởi cho người Hê-bơ-rơ này dạy rằng Chúa Giê-xu vượt trội hơn,
Cơ-đốc giáo cao siêu hơn, Chúa Cứu Thế là tối thượng và hoàn toàn đầy đủ
cho sự cứu rỗi.
Thư Hê-bơ-rơ bắt đầu bằng cách nhấn mạnh rằng đạo cũ (Do-thái giáo) và
đạo mới (Cơ-đốc giáo) đều là những tôn giáo được Đức Chúa Trời mặc khải
(HeDt 1:1-3). Trong đoạn luận về giáo lý tiếp theo đó (1:4-10:18), trước giả
chứng minh Chúa Cứu Thế cao hơn các thiên sứ (1:4-2:18), cao hơn các
lãnh tụ của họ (3:1-4:13, và cao hơn các thầy tế lễ của họ (4:14-7:28) như
thế nào. Cơ-đốc giáo vượt trội Do-thái giáo vì nó có một giáo ước tốt hơn
(8:1-13), một nơi thánh (đền thờ) tốt hơn (9:1-10), và một sinh tế chuộc tội
đầy đủ hơn (9:11-10:18).
Sau khi đã kiên lập tính cách vượt trội hơn của Cơ-đốc giáo, trước giả
chuyển sang các hàm ý thực tiễn của vấn đề bước theo Chúa Cứu Thế. Các
độc giả được khuyến giục bám chặt lấy đạo mới, khích lệ lẫn nhau, và
hướng về ngày tái lâm của Chúa Cứu Thế (10:19-25). Họ được cảnh báo về
các hậu quả của việc chối bỏ sự hi sinh (sinh tế) của Chúa Cứu thế (10:26-
31) và được nhắc nhở về các phần thưởng dành cho lòng tận trung (10:32-
39). Rồi trước giả giải thích sống bởi đức tin là thế nào, đưa ra nhiều thí dụ
minh hoạ về những người nam người nữ tận trung trong lịch sử dân Y-sơ-ra-
ên (11:1-40) và đưa ra lời khích lệ và khuyến giục về sinh hoạt hằng ngày
(12:1-17). Đoạn này được kết thúc bằng cách đem đối chiếu giao ước cũ với
giao ước mới (12:18-29). Trước giả kết luận bằng những lời khuyến giục
sống đạo đức (13:1-17), một lời yêu cầu cầu nguyện (13:18,19) và một lời
chúc phước và những lời chào thăm (13:20-25).
Dù bạn có xem điều gì là mục đích của cuộc đời, Chúa Cứu Thế vẫn trổi hơn
hết. Ngài là sự mặc khải trọn vẹn của Đức Chúa Trời, là sinh tế dứt khoát và
trọn vẹn, là người trung gian đầy lòng thương xót và thông cảm, và là con
đường (phương pháp) duy nhất dẫn đến sự sống vĩnh hằng. Hãy đọc thư Hê-
bơ-rơ và bắt đầu nhìn lịch sử và cuộc đời theo cách nhìn của Đức Chúa Trời,
thì bạn sẽ tận hiến không chút dè dặt và hoàn toàn cho Chúa Cứu Thế. Xin
đừng dừng lại ở bất cứ điêu gì kém hơn.
Những đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Nhằm trình bày tính cách đầy đủ và vượt trội của Chúa Cứu Thế.
Trước giả: Phao-lô, Lu-ca, Ba-na-ba, A-bô-lô, Si-la, Phi-líp, Bê-rít-sin và
nhiều người khác nữa đã được gợi ý vì tên trước giả đã không được nêu ra
trong chính văn bản của Thánh Kinh. Cho dù có là ai, trước giả cũng đã gọi
Ti-mô-thê là “người anh em” (13:23).
Đọc giả: Cho các Cơ-đốc nhân người Hê-bơ-rơ (có lẽ thuộc thế hệ các Cơ-
đốc nhân thứ hai, xem 2:3) từng nghĩ đến việc phải quay trở lại với Do-thái
giáo, có lẽ do chưa tăng trưởng, nảy sinh từ việc thiếu am hiểu các chân lý
của Thánh Kinh; nhưng tất cả đều tin Chúa Cứu Thế.
Niên đại viết thư: Có lẽ trước khi đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy vào năm
70 SC, vì các của lễ và lễ nghi tôn giáo đều được đề cập trong sách này, mà
chẳng nói gì đến việc đền thờ đã bị phá huỷ.
Bối cảnh: Những Cơ-đốc nhân người Do-thái này có lẽ đang gặp bắt bớ dữ
dội cả về hai phương diện xã hội và thuộc thể, từ cả người Do-thái lẫn người
La-mã, Chúa Cứu Thế vẫn chưa trở lại để thành lập vương quốc của Ngài,
và thiên hạ cần được trấn an rằng Cơ-đốc giáo là chánh đạo và Chúa Giê-xu
tất nhiên là Đấng Mê-si-a.
Câu chìa khoá: “Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và
hình bóng của bổn thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật;
sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở
trong nơi rất cao” (1:3).
Các nhân vật chính: Các nhân vật nam, nữ là những anh hùng đức tin trong
Cựu ước kinh (chương 11).
Những nét đặc trưng: Tuy sách Hê-bơ-rơ được gọi là thư (13:22, bản dịch
diễn ý) nó có hình thức và nội dung của một bài giảng.
Bố cục:
A. Tính cách vượt trội của Chúa Cứu Thế (1:1-10:18)
1. Chúa Cứu Thế cao trọng hơn các thiên sứ
2. Chúa Cứu Thế cao trọng hơn Môi-se
3. Chúa Cứu Thế cao trọng hơn chức vụ tế lễ Cựu ước.
4. Giao ước mới cao trọng hơn giao ước cũ.
Tính cách vượt trội của Chúa Cứu Thế trên mọi người và mọi sự đã được
trước giả chứng minh. Cơ-đốc giáo vượt trội hơn tất cả các tôn giáo khác và
chẳng bao giờ có gì vượt qua được. Có ai tìm được ở đâu điều gì tốt hơn
Chúa Cứu Thế không? Sống trong Chúa Cứu Thế là có được điều tốt nhất
trong đời. Mọi tôn giáo muốn cạnh tranh đều giả dối và là việc bắt chước rẻ
tiền.
B. Tính cách vượt trội của đức tin (10:19-13:25)
Những người Do-thái đã trở thành Cơ-đốc nhân hồi thế kỷ thứ nhất bị cám
dỗ sa trở vào Do-thái giáo, muốn được an toàn với tập tục, vì bị bắt bớ bách
hại và thiếu lòng tin quyết. Ngày nay, các tín hữu cũng bị cám dỗ sa trở vào
luật pháp chủ nghĩa, muốn tuân thủ dù chỉ ở mức tối thiểu các đòi hỏi tôn
giáo, hơn là vươn tới trong đức tin chân thật. Chúng ta phải phấn đấu để
hằng ngày cứ sống bởi đức tin.
Các đại đề mục
Luận đề: Chúa Cứu Thế vốn vượt trội
Lời giải thích: Sách Hê-bơ-rơ cho thấy lý lịch đích thực của Chúa Giê-xu
với tư cách là Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu là uy quyền tối hậu. Ngài cao
trọng hơn bất luận tôn giáo hay vị thiên sứ nào. Ngài vượt trên bất kỳ một
lãnh tụ người Do-thái nào (như Ap-ra- ham, Môi-se, hoặc Giô-suê) trên bất
kỳ một thầy tế lễ nào. Ngài là sự mặc khải trọn vẹn của Đức Chúa Trời.
[mtc Tầm quan trọng: Chỉ một mình Chúa Giê-xu mới có quyền tha tội cho
chúng ta. Ngài bảo đảm việc chúng ta được tha tội và được cứu rỗi bằng sự
chết của Ngài trên thập tự giá. Bạn có thể được hoà thuận với Đức Chúa
Trời và tìm được ý nghĩa cho đời sống mình bằng cách tin Chúa Cứu Thế.
Đừng chọn một con đường (phương pháp) nào hoặc một vật nào khác để
thay thế cho Ngài.
[td Luận đề: Thầy tế lễ Thượng phẩm
Lời giải thích: Trong Cựu ước, thầy tế lễ thượng phẩm đại diện cho dân Do-
thái trước mặt Đức Chúa Trời. Chúa Cứu Thế Giê-xu buộc chặt chúng ta vào
với Đức Chúa Trời. Chẳng còn con đường (phương pháp) nào khác để đến
được với Đức Chúa Trời. Vì thế Chúa Giê-xu đã sống đời vô tội, trọn vẹn
nhất để chịu chết vì tội lỗi chúng ta. Ngài là vị đại diện hoàn toàn và duy
nhất của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời.
Tầm quan trọng: Chúa Giê-xu bảo đảm việc chúng ta đến ra mắt Đức Chúa
Trời là Cha. Ngài cầu thay để chúng ta có thể mạnh dạn đến với Đức Chúa
Cha trình bày các nhu cầu của mình. Khi cảm biết mình yếu đuối, chúng ta
có thể tin cậy đến với Đức Chúa Trời để xin Ngài tha tội và trợ giúp.
Luận đề: Sinh tế
Lời giải thích: Sinh tế của Chúa Cứu Thế là việc hoàn thiện tối hậu tất cả
những gì mà các sinh tế trong Cựu ước hình dung ra - tức là việc làm để
được Đức Chúa Trời tha tội cho. Vì Chúa Cứu Thế là sinh tế trọn vẹn để
chuộc tội cho chúng ta, tội lỗi chúng ta đã được tha thứ hết, cả trong quá
khứ, hiện tại, và tương lai.
Tầm quan trọng: Chúa Cứu Thế cất hết tội lỗi đi - tội lỗi là điều ngăn trở
chúng ta đến trước hiện diện của Đức Chúa Trời để được thông công với
Ngài. Nhưng chúng ta phải tiếp nhận sinh tế ấy cho mình.
Nhờ tin Ngài, chúng ta không còn bị kể là tội nhân nữa, nhưng được tẩy sạch
và khiến nên thánh. Sinh tế của Ngài mở đường cho chúng ta có được sự
sống vĩnh hằng.
Luận đề: Sự trưởng thành
Lời giải thích: Tuy khi tin Chúa Cứu Thế chúng ta đã được cứu khỏi tội rồi,
chúng ta còn được giao nhiệm vụ phải cứ tiến lên và tăng trưởng trong đức
tin. Nhờ mối liên hệ với Chúa Cứu Thế, chúng ta có thể sống những cuộc
đời không chỗ trách được biệt riêng để Ngài sử dụng đặc biệt, và phát triển
đến mức trưởng thành.
Tầm quan trọng: Tiến trình trưởng thành trong đức tin đòi hỏi phải có thời
gian. Sự tận hiến và phục vụ hằng ngày sản sinh ra sự trưởng thành. Khi đã
trưởng thành trong đức tin rồi, chúng ta sẽ không dễ dàng đi sai đường, hay
bị cám dỗ hoặc sự bận tâm đến đời này lung lạc.
Luận đề: Đức tin
Lời giải thích: Đức tin là lòng tin cậy chắc chắn vào các lời hứa của Đức
Chúa Trời. Lời hứa quan trọng nhất của Đức Chúa Trời là chúng ta có thể
nhờ Chúa Giê-xu để được cứu.
Tầm quan trọng: Nếu bạn tin quyết vào Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu
rỗi, Ngài sẽ hoàn toàn thay đổi bạn. Một cuộc đời vâng lời và tin cậy trọn
vẹn rất đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Luận đề: Kiên trì nhẫn nhục
Lời giải thích: Đức tin giúp các Cơ-đốc nhân đương đầu với mọi thử thách.
Đức tin chân chính gồm có sự tận hiến, cứ vững vàng giữ lòng trung tín với
Đức Chúa Trời khi bị thử lửa. Kiên trì nhẫn nhục giúp kiên định cá tính và
dẫn tới chiến thắng.
Tầm quan trọng: Bạn có thể chiến thắng khi chịu thử thách nếu bạn không
lùi bước hay quay lưng lại với Chúa Cứu Thế. Hãy giữ lòng tận trung với
Ngài, và cầu nguyện xin Ngài cho bạn biết kiên trì nhẫn nhục.

Dẫn nhập Gia-cơ


Lời giới thiệu
“Một điều kỳ diệu!” ... “Đây là một cuộc cách mạng!” ... “Một sự kiện vĩ
đại nhất tự cổ chí kim!” ... Chúng ta bị tràn ngập như bị lũ lụt bởi những lời
quảng cáo phóng đại quá mức khi lần lượt bấm nút các kênh máy thu hình
hay lần dở các trang tạp chí. Những bức “thông điệp” như thế cứ “nhảy
chồm” vào chúng ta. Các sản phẩm bảo đảm với chúng ta rằng chúng đều tối
tân, tiên tiến, kỳ diệu, có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Chỉ với vài tờ giấy
bạc, chúng ta có thể có “quần áo sạch sẽ hơn”, “răng trắng bóng hơn”, “tóc
mượt mà bóng láng hơn”, và ‘các thức ăn nhiều hương vị hơn”. Xe hơi,
nước hoa, thức uống và thuốc súc miệng đều bảo đảm đem hạnh phúc, bạn
bè, và đời sống tươi vui đến. Và ngay trước một cuộc bầu cử, thì thật chẳng
có gì sánh được với các lời hứa của các chính trị gia. Thế nhưng những gì
thiên hạ nói vốn rẻ tiền nên chẳng bao lâu, chúng ta nhận thức được rằng
những lời khoe khoang khoác lác đó đều rỗng tuếch, cách xa với sự thật một
trời một vực.
“Chúa Giê-xu là đáp án!” ...”Hãy tin Đức Chúa Trời!” ... “Hãy theo tôi đến
nhà thờ!” ... Các Cơ Đốc nhân cũng thường có những lời rêu rao đao to búa
lớn để rồi cũng phạm tội vì hành động của họ tố cáo những gì họ rêu rao đó
là giả dối. Tự xưng mình tin Đức Chúa Trời và là người thuộc về Ngài,
nhưng họ lại bám chặt vào thế gian này với các giá trị của mình. Sau khi đã
có được mọi đáp án, mọi câu trả lời đúng, đời sống của họ lại mâu thuẫn với
Phúc âm.
Bằng một bút pháp đanh thép và minh bạch, bằng những lời lẽ chọn lọc khúc
chiết, Gia-cơ đã đương đầu trực diện với điểm mâu thuẫn này. Ông bảo chỉ
nói chuyện với thiên hạ về Cơ Đốc giáo thôi thì chưa đủ mà chúng ta còn
phải sống đạo nữa. “Hỡi anh em nếu ai nói mình có đức tin, song không có
việc làm thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng?” (Gia Gc
2:14). Chứng cứ cho thực tại của đức tin chúng ta, là một đời sống được thay
đổi.
Đức tin thật phải sản sinh ra công việc tốt lành không tránh né vào đâu được.
Đó là luận đề trọng tâm của thư Gia-cơ, ông đưa ra những lời khuyến dạy
thực tiễn chung quanh vấn đề phải sống cuộc đời làm Cơ Đốc nhân như thế
nào.
Gia-cơ bắt đầu bức thư của ông bằng cách phác hoạ một số đặc điểm khái
quát của đời sống Cơ Đốc nhân (1:1-27). Tiếp theo đó, ông khuyến giục các
Cơ Đốc nhân phải hành động cho đúng trong xã hội (2:1-13). Ông tiếp tục
lời khuyên thực tiễn này bằng một phần thảo luận thần học về mối liên hệ
giữa đức tin với hành động (2:14-26). Rồi Gia-cơ vạch rõ tầm quan trọng
của việc phải kiểm soát lời nói của mình (3:1-12). Trong 3:13-18, Gia-cơ
phân biệt hai loại khôn ngoan - sự khôn ngoan của đất với sự khôn ngoan
thuộc về trời. Rồi ông khuyến khích các độc giả xây bỏ các ham muốn xấu
xa gian ác để vâng lời Đức Chúa Trời (4:1-12). Gia-cơ quở trách những kẻ
tin cậy vào các kế hoạch và của cải của riêng mình (4:13-5:6). Cuối cùng,
ông khuyến giục các độc giả hãy kiên trì nhịn nhục lẫn nhau (5:7-11), phải
giữ lời hứa (5:12), phải cầu nguyện cho nhau (5:13-18), và giúp đỡ lẫn nhau
để cứ giữ lòng tận trung với Đức Chúa Trời (5:19,20).
Bức thư này có thể xem như một sách chỉ nam dạy về bí quyết để sống cuộc
đời làm Cơ Đốc nhân. Phải trực diện, phải đối phó với sự thách thức, và có
một lời mời gọi bạn hãy tận hiến trong các trang sách này. Hãy đọc Gia-cơ
và trở thành một người biết sống đời tin kính (1:22-25).
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để vạch trần các hành động đạo đức giả và dạy cách ăn ở ứng xử
đúng đắn của một Cơ Đốc nhân.
Trước giả: Gia-cơ, em trai Chúa Giê-xu, một lãnh tụ của Hội thánh tại Giê-
ru-sa-lem.
Đọc giả: Cho các Cơ Đốc nhân người Do Thái đầu tiên hồi thế kỷ thứ nhất,
cư ngụ trong các cộng đồng người ngoại quốc bên ngoài xứ Palestine, và các
Cơ Đốc nhân khắp nơi.
Niên đại viết thư: Có lẽ vào năm 49 SC, trước ngày họp của giáo hội nghị
Giê-ru-sa-lem năm 50 SC.
Bối cảnh: Bức thư này bày tỏ mối quan tâm của Gia-cơ đối với các Cơ Đốc
nhân đang bị bắt bớ bách hại, từng là những người thuộc về Hội thánh tại
Giê-ru-sa-lem.
Câu chìa khoá: “Hoặc có kẻ nói: ngươi có đức tin, còn ta có việc làm. Hãy
chỉ cho ta đức tin của ngươi không có việc làm, rồi ta sẽ chỉ cho ngươi đức
tin bởi việc làm của ta”. (Gia Gc 2:18)
Bố cục:
1. Đạo thật (1:1-27)
2. Đức tin thật (2:1-3:12)
3. Sự khôn ngoan thật (3:13-5:20)
Gia-cơ viết thư này cho các Cơ Đốc nhân người Do Thái đã bị tan lạc trong
khắp thế giới chung quanh Địa Trung hải vì bị bắt bớ bách hại. Trong môi
trường vây quanh đầy thù địch, đố kỵ, họ đang bị cám dỗ để nhượng bộ
những gì mà phương diện trí thức của họ có thể đồng ý, để xem đó như là
chánh đạo. Bức thư này có thể có ý nghĩa hết sức phong phú cho chúng ta
khi chúng ta được nhắc nhở rằng đức tin thật có quyền làm thay đổi đời
sống. Chúng ta được khuyến khích hãy biến đức tin của mình thành hành
động. Nói mình có đức tin (đạo) thì dễ, nhưng đức tin thật phải sản sinh ra
các hành động yêu thương đối với tha nhân
Các đại đề mục
Luận đề: Đức tin sống
Lời giải thích: Gia-cơ muốn cho các tín hữu chẳng những phải lắng nghe
chân lý, mà còn phải làm theo chân lý nữa. Ông đặt tương phản đức tin rỗng
tuếch (nói mà không làm) với đức tin được biến thành hành động. Tận hiến
để yêu thương và phục vụ là bằng chứng hiển nhiên cho đức tin thật.
Tầm quan trọng: Sống đạo khiến một người thay đổi hẳn. Hãy chắc chắn
rằng đức tin của bạn vượt xa một lời nói suông - nó phải kết quả bằng hành
động. Hãy tìm cách biến đức tin bạn thành hành động.
Luận đề: Thử thách
Lời giải thích: Sinh hoạt Cơ Đốc nhân phải gặp thử thách và cám dỗ. Thắng
được các nghịch cảnh này, khiến người ta tăng trưởng và có cá tính mạnh
mẽ hơn.
Tầm quan trọng: Đừng oán ghét hoạn nạn khi chúng đến. Hãy cầu nguyện
xin được khôn ngoan; Đức Chúa Trời sẽ cung cấp tất cả những gì bạn cần để
đối đầu với bắt bớ bách hại hoặc nghịch cảnh. Ngài sẽ cho bạn biết kiên trì
nhẫn nhục và giữ bạn cứ mạnh mẽ trong lúc gặp thử thách.
Luận đề: Luật yêu thương
Lời giải thích: Chúng ta được cứu là nhờ ân điển do lòng thương xót của
Đức Chúa Trời, chứ không phải là nhờ giữ luật pháp. Nhưng Chúa Cứu Thế
có truyền cho chúng ta một mệnh lệnh đặc biệt: “Hãy yêu kẻ lân cận như
mình” (Mat Mt 18:19). Chúng ta phải yêu thương và phục vụ những người
sống chung quanh chúng ta.
Tầm quan trọng: Gìn giữ luật yêu thương bày tỏ rằng đức tin bạn là sống
động và có thật. Khi chúng ta chứng tỏ tình yêu thương đối với người khác,
là chúng ta đang thắng hơn chính thái độ vị kỷ của mình.
Luận đề: Lời nói khôn ngoan
Lời giải thích: Sự khôn ngoan tự bộc lộ trong lời nói. Chúng ta phải chịu
trách nhiệm về các hậu quả tàn hại của những gì mình nói ra. Sự khôn ngoan
của Đức Chúa Trời vẫn giúp cai trị kiểm soát cái lưỡi, cũng có thể giúp cai
trị kiểm soát các hành động của chúng ta nữa.
Tầm quan trọng: Nhận được sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời sẽ ảnh
hưởng đến cách ăn nói của bạn. Lời bạn nói ra chứng tỏ thái độ khiêm hạ
thật sự của bạn, và dẫn tới hoà bình. Hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi bạn mở
miệng ra nói, để Đức Chúa Trời có thể ban cho bạn đức tính tự chủ.
Luận đề: Của cải
Lời giải thích: Gia-cơ dạy các Cơ Đốc nhân chớ có thoả hiệp với các thái độ
của người thế gian trong vấn đề của cải. Vì vinh quang của sự giàu có chóng
phai tàn, Cơ Đốc nhân phải tích lũy các kho báu nơi Đức Chúa Trời bằng
việc chân thành phục vụ. Cơ Đốc nhân không nên tỏ ra thiên vị kẻ giàu,
cũng đừng có thành kiến đối với người nghèo.
Tầm quan trọng: Tất cả chúng ta đều phải khai trình và chịu trách nhiệm về
những gì mình có và cách chúng ta sử dụng những gì mình đã có đó. Đừng
tích lũy của cải, mà phải hào hiệp với tha nhân. Thêm vào đó, chúng ta
không nên quá coi trọng của cải, cũng không nên khinh dể người nghèo.

Dẫn nhập I Phi-e-rơ


Lời giới thiệu
Bị chà đạp, áp đảo, tàn hại, đánh tan - những lượn sóng tạo các cảm thức
như thế đã tràn ngập trên những con người đang đau khổ, làm mờ mắt khiến
họ không còn khải tượng, hi vọng, và đe doạ tiêu diệt họ. Đau khổ có nhiều
hình thức - thân xác bị dày vò, bệnh tật gây suy nhược, bị xã hội ruồng rẫy,
bắt bớ bách hại. Nỗi đau và sự lo lắng cám dỗ người ta lùi bước, đầu hàng và
bỏ cuộc.
Nhiều người theo Chúa hồi thế kỷ thứ nhất từng chịu khổ sở, chà đạp và bắt
bớ bách hại chỉ vì tin và vâng lời Chúa Giê-xu. Bắt đầu tại Giê-ru-sa-lem do
tay các anh em là người Do Thái của họ, mẫu mực bắt bớ bách hại đã lan
tràn sang cả phần còn lại của thế giới - bất cứ nơi nào có các Cơ Đốc nhân
tập họp - và đạt đến tuyệt đỉnh khi Rô-ma quyết định tận diệt khỏi đế quốc
những người không chịu cúi đầu trước Sê-sa... xoá sạch những “con người
theo Chúa Cứu Thế”...
Phi-e-rơ là người đã bị bắt bớ bách hại trước tiên. Ông từng bị phạt đòn, bỏ
tù, và thường bị đe doạ. Ông từng thấy các Cơ Đốc nhân bị giết và Hội thánh
bị tan lạc. Nhưng ông biết rõ Chúa Cứu Thế, và chẳng có gì lay chuyển được
lòng tin quyết của ông vào Chúa Phục Sinh. Trong bối cảnh mà bản thân ông
đang từng trải đó, Phi-e-rơ đã viết cho Hội thánh bị tan lạc và đang chịu khổ
vì đức tin (đạo), đưa ra lời an ủi và hi vọng, và khuyến giục mọi người cứ
tiếp tục tận trung với Chúa Cứu Thế.
Phi-e-rơ bắt đầu bằng lời cảm tạ Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi (IPhi 1Pr 1:2-
6). Ông giải thích cho các độc giả của mình rằng thử thách sẽ tinh luyện đức
tin của họ (1:7-9). Họ phải vững lòng tin, bất chấp hoàn cảnh mình đang
gặp, vì nhiều người trong các thời đại đã qua đều tin chắc vào kế hoạch cứu
rỗi của Đức Chúa Trời, kể cả các nhà tiên tri xưa là những người đã viết về
nó tuy chính họ không từng trải cách giống vậy. Nhưng giờ đây thì sự cứu
rỗi đã được bày tỏ rõ ràng trong Chúa Cứu Thế rồi (1:10-13).
Để đáp lại một sự cứu rỗi vĩ đại như thế, Phi-e-rơ truyền dạy họ phải sống
một cuộc đời thánh khiết (1:14-16), phải kính sợ và tin cậy Đức Chúa Trời
(1:17-21), phải thành thật và có tình yêu thương (2:1-3), và trở nên giống
như Chúa Cứu Thế (2:1-3).
Chúa Cứu Thế Giê-xu, với tư cách là “hòn đá góc nhà được chọn và quí
báu” trên đó Hội thánh phải được xây lên (2:4-6), cũng là tảng đá đã bị chối
bỏ, khiến cho người không chịu vâng lời bị vấp vào và sa bại (2:7,8). Nhưng
Hội thánh được xây trên Đá ấy, là chức vụ thầy tế lễ thánh của Đức Chúa
Trời (2:9,10).
Tiếp theo đó, Phi-e-rơ giải thích phải sống như thế nào trong những thời kỳ
khó khăn (2:11-4:11). Các Cơ Đốc nhân phải không chỗ chê trách (2:12-17),
bắt chước Chúa Cứu Thế trong mọi vai trò xã hội của họ - chủ tớ, chồng vợ,
thành viên của Hội thánh và người láng giềng (2:18-3:17). Chúa Cứu Thế
phải là gương mẫu về sự vâng lời Đức Chúa Trời của chúng ta giữa hoạn
nạn lớn (3:18-4:11).
Rồi Phi-e-rơ phác hoạ thái độ phải là cần có khi gặp bắt bớ bách hại: phải
chờ đợi nó (4:12), phải tạ ơn Đức Chúa Trời vì đặc ân được chịu khổ vì
Chúa Cứu Thế (4:13-18), và tin cậy Đức Chúa Trời để được giải thoát
(4:14).
Tiếp theo, Phi-e-rơ đưa ra vài lời khuyên đặc biệt - các trưởng lão phải chăm
lo săn sóc cho bầy chiên của Đức Chúa Trời (5:1-4), thanh niên phải vâng
phục những người lớn tuổi hơn (5:5,6), và mọi người phải tin cậy Đức Chúa
Trời và chống lại Sa-tan (5:7-11).
Phi-e-rơ kết thúc bằng việc giới thiệu Si-la và gởi những lời chào thăm của
riêng ông, có lẽ là từ Hội thánh tại Rô-ma nữa, và của Mác (5:12-14).
Khi nào bạn phải chịu khổ vì làm việc phải nhớ rằng theo Chúa Cứu Thế là
một sự dấn thân, phải trả giá đắt. Khi bạn bị bắt bớ bách hại vì đức tin (đạo)
của mình, hãy vui mừng vì bạn được kể là người xứng đáng chịu khổ vì
Chúa Cứu Thế. Ngài đã chịu khổ vì chúng ta; cho nên, là những người theo
Ngài, chúng ta không nên chờ đợi điều gì khác hơn thế. Trong khi bạn đọc
thư IPhi-e-rơ, hãy nhớ rằng thử thách sẽ đến để tinh luyện đức tin của bạn.
Khi chúng đến, hãy cứ giữ lòng tận trung với Đức Chúa Trời.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để khích lệ các Cơ Đốc nhân đang chịu khổ.
Trước giả: Phi-e-rơ
Đọc giả: Cho các Cơ Đốc nhân người Do Thái đã trốn khỏi Giê-ru-sa-lem và
bị tan lạc khắp Tiểu Á, cũng như cho toàn thể các tín hữu ở khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 62-64 SC, có lẽ là từ Rô-ma.
Bối cảnh: Lúc cơn bắt bớ bách hại lớn dưới thời Hoàng đế Nero bắt đầu, có
lẽ Phi-e-rơ đang ở tại Rô-ma (cuối cùng, ông đã bị hành quyết trong thời
gian có cơn bắt bớ bách hại này). Khắp đế quốc La Mã các Cơ Đốc nhân đã
bị tra tấn và tàn sát vì đức tin (đạo) của họ, còn các tín hữu của Hội thánh tại
Giê-ru-sa-lem thì tan lạc khắp vùng chung quanh Địa Trung Hải.
Câu chìa khoá: “Hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư
nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em
khi Đức Chúa Giê-xu Christ hiện ra” (1:7)
Các nhân vật chính: Phi-e-rơ, Si-la, Mác.
Các địa danh chính: Giê-ru-sa-lem, Rô-ma và các khu vực thuộc các xứ
Bông, Ga-la-ti, Cáp-ba-đốc, Tiểu Á châu và Bi-thi-ni.
Những nét đặc trưng: Phi-e-rơ đã dùng nhiều hình ảnh rất đặc biệt để người
đọc có thể nhận ra ông, vì Chúa Giê-xu từng sử dụng chúng để vạch rõ cho
ông một số chân lý. Tên của Phi-e-rơ (có nghĩa là “tảng đá” ) là tên Chúa
Giê-xu đã đặt cho ông. Quan niệm của Phi-e-rơ về Hội thánh - một ngôi nhà
thuộc linh gồm nhiều viên đá sống được xây trên nền là Chúa Cứu Thế - là
quan niệm bắt nguồn từ Chúa Cứu Thế. Chúa Giê-xu từng khuyến khích
Phi-e-rơ chăm lo săn sóc cho Hội thánh như một người chăn chăn dắt bầy
chiên vậy. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy Phi-e-rơ dùng
những viên đá sống (2:5-9) và người chăn với chiên (2:25; 5:2,4) để mô tả
Hội thánh.
Bố cục
1. Những phước hạnh lớn lao Đức Chúa Trời ban cho người thuộc về Ngài
(1:1-2:10)
2. Cách ăn ở ứng xử của người thuộc về Đức Chúa Trời giữa lúc phải chịu
khổ (2:11-4:19)
3. Chức vụ chăn dắt bầy chiên của Đức Chúa Trời giữa lúc phải chịu khổ
(5:1-14)
Phao-lô viết thư này cho các Cơ Đốc nhân Do Thái đang gặp bắt bớ bách hại
vì đức tin (đạo) của họ. Ông viết để thách thức họ hãy tiếp tục sống thánh
khiết. Những ai chịu khổ vì làm Cơ Đốc nhân, là những người cùng chia xẻ
với Chúa Cứu Thế trong khi Ngài chịu khổ. Khi nào phải chịu khổ, chúng ta
hãy nhớ rằng Chúa Cứu Thế vừa là niềm hi vọng của chúng ta giữa lúc gặp
đau khổ, đồng thời ông là tấm gương tốt cho chúng ta về cách phải trung tín
chịu khổ như thế nào.
Các đại đề mục
Luận đề: Sự cứu rỗi
Lời giải thích: Sự cứu rỗi chúng ta là một món quà tặng vô giá của Đức
Chúa Trời. Sở dĩ Ngài chọn chúng ta là vì tình yêu của Ngài đối với chúng
ta. Chúa Giê-xu đã chịu chết để trả món nợ là sự trừng phạt cho tội lỗi chúng
ta, còn Đức Thánh Linh thì tẩy sạch tội lỗi chúng ta khi chúng ta tin. Sự
sống vĩnh hằng là một đặc ân lạ lùng dành cho những ai tin cậy vào Chúa
Cứu Thế.
Tầm quan trọng: Sự an toàn và an ninh của chúng ta là ở trong Đức Chúa
Trời. Nếu chúng ta được vui mừng nhờ mối liên hệ với Chúa Cứu Thế trong
đời này, chúng ta còn sẽ càng vui mừng hơn biết bao khi Ngài trở lại và
chúng ta được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Niềm hi vọng đó sẽ giục giã
chúng ta càng dấn thân nhiều hơn để phục vụ Chúa Cứu Thế.
Luận đề: Bắt bớ bách hại
Lời giải thích: Phi-e-rơ đưa ra lời an ủi và niềm hy vọng cho các tín hữu
trung tín. Vì là Cơ Đốc nhân, chúng ta phải chịu thiên hạ chế nhạo, chối bỏ,
và sẵn sàng để chịu khổ. Bắt bớ bách hại tăng cường sức lực cho chúng ta vì
nó tinh luyện đức tin của chúng ta. Chúng ta có thể trực diện với bắt bớ bách
hại và chiến thắng như Chúa Cứu Thế, nếu chúng ta trông cậy nơi Ngài.
Tầm quan trọng: Cơ Đốc nhân vẫn còn phải chịu khổ vì những gì họ tin.
Chúng ta sẽ phải bị bắt bớ bách hại, nhưng chẳng cần phải sợ nó. Sự kiện
chúng ta sẽ sống vĩnh hằng với Chúa Cứu thế đem đến cho chúng ta niềm tin
quyết, sự nhẫn nại và hi vọng để đứng vững, cả khi bị bắt bớ bách hại.
Luận đề: Gia đình Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Chúng ta được đặc ân thuộc về gia đình của Đức Chúa Trời,
một cộng đồng có Chúa Cứu Thế là Nhà Sáng Lập và là Nền Tảng. Tất cả
mọi người trong cộng đồng này đều có liên hệ với nhau - toàn thể chúng ta
đều là anh, chị, em được Đức Chúa Trời yêu thương như nhau.
Tầm quan trọng: Vì Chúa Cứu Thế là nền của gia đình chúng ta, chúng ta
phải tận hiến, tận trung với Ngài. Bằng cách vâng lời Ngài, chúng ta chứng
minh mình là con cái Ngài. Chúng ta phải chấp nhận sự thách thức là sống
khác với xã hội chung quanh.
Luận đề: Sinh hoạt gia đình
Lời giải thích: Phi-e-rơ khuyến khích vợ của các tín hữu phải vâng phục
chồng mình như một phương tiện để đưa họ đến với Chúa Cứu Thế. Ông
khuyến giục mọi thành viên trong gia đình đối xử với người khác bằng thái
độ ưu ái, yêu thương, nâng đỡ và khiêm hạ.
Tầm quan trọng: Chúng ta phải đối xử trong gia đình bằng tình yêu thương.
Tuy sẵn sàng phục vụ là phương pháp duy nhất để gây ảnh hưởng trên
những người thân yêu của mình, nó chẳng bao giờ là dễ làm cả. Muốn có
sức lực cần thiết để tự chủ và vâng phục chúng ta phải cầu nguyện xin Đức
Chúa Trời giúp cho.
Luận đề: Sự phán xét
Lời giải thích: Đức Chúa Trời sẽ phán xét thật công bằng tất cả mọi người.
Chúng ta đều sẽ phải gặp Đức Chúa Trời mặt đối mặt. Ngài sẽ trừng phạt kẻ
làm ác và những kẻ bắt bớ bách hại người thuộc về Ngài. Còn những ai yêu
mến Ngài thì sẽ được ban thưởng là được sống vĩnh hằng trước hiện diện
Ngài.
Tầm quan trọng: Vì tất cả mọi người đều có trách nhiệm phải “tính sổ” với
Đức Chúa Trời, chúng ta có thể giao phó việc phán xét người khác cho Ngài.
Chúng ta không nên oán thù những kẻ bắt bớ bách hại mình. Phải biết rằng
chúng ta phải chịu trách nhiệm về cách sống hằng ngày của mình.

Dẫn nhập II Phi-e-rơ


Lời giới thiệu
Những lời cảnh cáo vốn có nhiều hình thức - các bảng có viết chữ được thắp
sáng, các dấu hiệu, những gì chúng ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy,
và những chữ viết. Tuy nhiên, điểm khiến mọi người phải tập trung chú ý có
khác nhau, chủ đích của chúng vẫn là một: cảnh cáo để mọi người thận trọng
về một sự nguy hiểm đang gần kề. Cách đáp lại với những lời cảnh cáo đó
cũng khác nhau, từ chỗ làm ngơ bỏ qua, đến hành động để tránh thoát hoặc
sửa sai. Cách một người phản ứng đối với một lời cảnh cáo thường do hoàn
cảnh và nguồn gốc từ đó lời cảnh cáo xuất phát, quyết định. Một trận bão
sắp thổi tới được đối phó khác với một chiếc ô-tô đang lao đến, và lời
khuyên của một người bạn thân thì được chú ý nhiều hơn là một nhận xét
thoáng qua của một người lạ hay lời phỏng đoán của một đứa trẻ đang sợ
sệt.
Thư Phi-e-rơ thứ hai là một bức thư cảnh cáo - từ một nhân vật có thẩm
quyền, chẳng ai khác hơn là chính vị sứ đồ can đảm, từng trải và tận trung
mang tên ấy. Và nó còn là lời truyền đạt cuối cùng từ người chiến sĩ vĩ đại
này của Chúa Cứu Thế. Chẳng bao lâu sau, ông đã tử vì đạo.
Trước đây, Phi-e-rơ từng viết thư để an ủi và khích lệ các tín hữu đang sống
giữa đau khổ và bắt bớ bách hại - một cuộc tấn công từ bên ngoài. Nhưng ba
năm sau đó, trong bức thư gồm những lời cuối cùng của mình, ông viết là để
cảnh cáo về một cuộc tấn công từ bên trong - thái độ tự phụ về tôn giáo. Ông
đề cập vấn đề phải bám chặt lấy các sự kiện bất khả thương lượng liên hệ
đến đức tin, việc phải trưởng thành trong đạo, và việc phải bài bác tất cả
những kẻ muốn xuyên tạc chân lý. Noi theo lời khuyên này của ông, chắc
chắn sẽ có nhiều cá nhân biết sống để Chúa Cứu Thế được tôn vinh, và
nhiều Hội thánh biết đặt Chúa Cứu Thế làm tâm điểm.
Sau một lời chào thăm ngắn gọn (IIPhi 2Pr 1:1), Phi-e-rơ đưa ra phương
thức cho hai căn bệnh là ù lì, giậm chân tại chỗ, và “cận thị” trong sinh hoạt
Cơ Đốc nhân (1:2-11). Rồi ông giải thích rằng các ngày còn lại của ông chỉ
còn đếm được trên đầu ngón tay (1:12-15) và rằng các tín hữu phải lắng
nghe các bức thông điệp của ông và lẽ thật trong Kinh điển (1:16-21).
Tiếp theo, Phi-e-rơ đưa ra một lời cảnh cáo thẳng thắn liên hệ đến các giáo
sư giả (2:1-22). Họ sẽ chiếm ưu thế vào những ngày sau rốt (2:1,2) sẽ làm và
nói mọi điều vì cớ tiền bạc (2:3), sẽ giả mạo những điều thuộc về Đức Chúa
Trời (2:2,10,11) sẽ làm bất cứ điều gì tuỳ thích (2:12-17) sẽ kiêu hãnh và
khoe khoang (2:18,19), và sẽ bị Đức Chúa Trời phán xét và trừng phạt (2:3-
10,20-22).
Phao-lô kết thúc bức thư ngắn ngủi này bằng cách giải thích lý do ông viết
thư (3:1-18) - là để nhắc nhở họ về những lời mà các tiên tri và sứ đồ đã báo
trước việc các giáo sư giả sẽ đến, để nêu ra các lý do tại sao Chúa Cứu Thế
còn trì hoãn chưa trở lại (3:1-13), và để khích lệ họ phải cảnh giác đối với tà
giáo và tăng trưởng trong đức tin (3:14-18).
Được gởi cho “những kẻ đã lãnh phần đức tin đồng (cũng) quí báu như của
chúng tôi”, Thư IPhi-e-rơ cũng có thể đã được viết cho chính chúng ta nữa.
Thế giới của chúng ta đang đầy dẫy những tiên tri và giáo sư giả tự xưng họ
có chân lý và kêu gào mọi người phải chú ý vâng phục họ. Hãy lắng nghe
thật kỹ bức thông điệp này của Phi-e-rơ và chú ý đến lời cảnh cáo của ông.
Hãy quyết định tăng trưởng trong sự thông biết Chúa Cứu Thế Giê-xu và bài
bác tất cả những kẻ nào truyền giảng bất cứ điều gì không phù hợp với Lời
Đức Chúa Trời.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để cảnh cáo các Cơ Đốc nhân về các giáo sư giả và khuyến giục
họ tăng trưởng trong đức tin và trong sự thông biết Chúa Cứu Thế.
Trước giả: Phi-e-rơ
Đọc giả: Cho Hội thánh nói chung, và toàn thể các tín hữu khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 67 SC, ba năm sau khi viết IPhi-e-rơ, có lẽ từ
Rô-ma.
Bối cảnh: Phi-e-rơ biết thời gian ông còn sống trên đất này rất giới hạn
(1:13,14) nên viết những gì ông đang ấp ủ trong lòng mình, để cảnh cáo các
tín hữu về những gì sẽ xảy ra khi ông đã ra đi - nhất là về sự hiện diện của
các giáo sư giả. Ông nhắc nhở các độc giả về chân lý bất biến của Phúc âm.
Câu chìa khoá: “Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi đều
thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh hiển và
nhơn đức mà gọi chúng ta” (1:3)
Các nhân vật chính: Hai sứ đồ Phi-e-rơ và Phao-lô
Những nét đặc trưng: Niên đại viết thư và địa chỉ bức thư này được gởi đến
không được biết chắc, còn tác quyền cũng đã gây nhiều tranh cãi. Do đó, thư
IIPhi-e-rơ là quyển sách cuối cùng được liệt vào Kinh điển Tân ước. Giữa
IIPhi-e-rơ và sách Giu-đe cũng có nhiều điểm tương đồng.
Bố cục:
1. Chỉ dẫn cho các Cơ Đốc nhân đang tăng trưởng (1:1-2:1)
2. Nguy cơ của các Cơ Đốc nhân đang tăng trưởng (2:1-22)
3. Hi vọng cho các Cơ Đốc nhân đang tăng trưởng (3:1-18)
Nếu Phi-e-rơ đã viết bức thư thứ nhất của ông là nhằm dạy dỗ cách đối phó
với bắt bớ bách hại (thử thách từ bên ngoài), thì ông viết bức thư này là để
truyền dạy cách đối phó với tà giáo (thử thách từ bên trong). Các giáo sư giả
thường có mánh khoé lường gạt tinh vi. Các tín hữu ngày nay vẫn phải cảnh
giác mới khỏi sa vào tà giáo, giáo thuyết sai lầm và các hoạt động tôn giáo
cuồng tín, mê tín. Bức thư này nêu ra cho chúng ta các gợi ý làm đầu mối,
giúp chúng ta phát giác ra đâu là lời truyền dạy dối giả.
Các đại đề mục
Luận đề: Chuyên tâm
Phần giải thích: Nếu đức tin của chúng ta là thật, thì chính cách ăn ở trung
tín của chúng ta sẽ là một minh chứng. Nếu mọi người đều chuyên tâm trong
nếp sống tăng trưởng của Cơ Đốc nhân, họ sẽ không dễ sa ngã, thụt lùi hoặc
bị các giáo sư giả lường gạt.
Tầm quan trọng: Tăng trưởng là điều thiết yếu. Nó bắt đầu với đức tin mà
đạt đến tuyệt đỉnh ở tình yêu thương đối với tha nhân. Muốn liên tục tăng
trưởng, chúng ta cần biết rõ Đức Chúa Trời, trung tín theo Ngài, và nhớ luôn
những gì Ngài đã truyền dạy mình. Chúng ta phải chuyên tâm sống vâng
phục và cứ tăng trưởng trong Chúa Cứu Thế.
Luận đề: Các giáo sư giả
Phần giải thích: Phao-lô cảnh cáo Hội thánh phải cảnh giác đối với các giáo
sư giả. Những người này rất kiêu hãnh về địa vị của họ, khuyến khích tội tà
dâm và khuyên người ta đừng giữ Mười Điều Răn. Phi-e-rơ đã chống lại họ
bằng cách chỉ vào Kinh điển đã được Đức Thánh Linh cảm ứng, xem đó là
thẩm quyền của chúng ta.
Tầm quan trọng: Cơ Đốc nhân phải biết biện biệt để chống lại các giáo sư
giả. Đức Chúa Trời có thể cứu chúng ta khỏi lời dối trá của họ nếu chúng ta
cứ trung tín với Lời của Ngài là Thánh Kinh để bài bác những kẻ xuyên tạc
chân lý.
Luận đề: Chúa Cứu Thế tái lâm
Phần giải thích: Sẽ có ngày, Chúa Cứu Thế tạo ra trời mới đất mới là nơi
chúng ta sống đời đời. Là Cơ Đốc nhân, hi vọng của chúng ta đặt vào lời hứa
này của Ngài. Nhưng đồng thời với việc Chúa Cứu Thế tái lâm, Ngài cũng
sẽ phán xét tất cả những người không chịu tin Ngài.
Tầm quan trọng: Phương thuốc chữa các chứng bệnh tự phụ kiêu căng, coi
thường luật pháp và tà giáo, là niềm tin chắc rằng Chúa Cứu Thế sẽ trở lại.
Đức Chúa Trời vẫn dành thì giờ cho những người vô tín ăn năn. Để chuẩn bị
sẵn sàng, các Cơ Đốc nhân phải cứ tin cậy và chống lại mọi áp lực khiến
chúng ta bỏ cuộc để cứ chờ đợi Chúa Cứu Thế tái lâm.

Dẫn nhập I Giăng


Lời giới thiệu
Có nhiều người nói: “Một con người thánh thiện...vâng... có lẽ là một trong
những nhân vật tốt nhất từng sống trên đời... nhưng dù sao thì cũng chỉ là
một con người mà thôi”. Nhiều người khác lại không đồng ý, cho rằng sở dĩ
Ngài phải chịu khổ là vì có những ảo tưởng về tính cách vĩ đại - một “mặc
cảm về một vị cứu tinh”. Và cứ thế, các lý luận tuôn trào không dứt liên
quan đến lý lịch của nhân vật tên Giê-xu. Những gợi ý đã được xếp từ “một
giáo sư khờ khạo” đến “một kẻ hoang tưởng về cái ta” và “một thằng điên bị
lạc đường”. Cho dù Ngài có là ai, cả thế giới phải nhất trí rằng Chúa Giê-xu
đã lưu lại dấu vết của mình trên lịch sử.
Được nghe những cuộc tranh luận này, cả đến các Cơ Đốc nhân cũng bắt
đầu ngạc nhiên và nghi ngờ. Chúa Giê-xu có quả thật là Đức Chúa Trời
không? Phải chăng Ngài đã đến là để cứu vớt các tội nhân như chúng ta ?
Đức Chúa Trời có thật sự quan tâm đến tôi không?
Thư Giăng thứ nhất đã được viết ra để đánh tan những nghi ngờ và xác lập
lời bảo đảm bằng cách trình bày một bức tranh rõ ràng của Chúa Cứu Thế.
Lúc đi vào lịch sử, Chúa Giê-xu vốn là và đang là Đức Chúa Trời mặc lấy
hình hài thân xác con người, và là chính Đức Chúa Trời được mọi người tập
trung theo dõi - bản thân sứ đồ Giăng, trước giả bức thư này, đã từng nhìn
thấy, lắng nghe, và chạm vào Ngài. Giăng từng sóng bước và trò chuyện với
Chúa Giê-xu, thấy Ngài chữa bệnh, nghe Ngài giảng dạy, theo dõi Ngài hấp
hối rồi chết đi, gặp Ngài sống lại và nhìn Ngài lúc Ngài thăng thiên. Giăng
từng biết rõ Đức Chúa Trời - ông đã cùng sống với Ngài và thấy Ngài làm
việc và Giăng đã được giao hảo (thông công) với cả Đức Chúa Cha và Đức
Chúa Con suốt cả cuộc đời mình.
Vị trưởng lão chính khách trong Hội thánh là Giăng đã viết thư này cho các
“con cái thân yêu” của mình. Trong đó, ông trình bày Đức Chúa Trời là ánh
sáng, là tình yêu, và là sự sống. Ông giải thích thế nào là được kết bạn
(fellowship: giao hảo, thông công) với Đức Chúa Trời
bằng các lời lẽ đơn giản và thực tiễn. Đồng thời nhiều giáo sư giả cũng đã
gia nhập Hội thánh, phủ nhận sự nhập thể của Chúa Cứu Thế. Giăng viết thư
này để sửa lại những điểm sai lầm nghiêm trọng của họ. Như thế bức thư
này của Giăng là một mẫu mực cho chúng ta noi theo khi chiến đấu chống
lại các tà giáo hiện đại.
Giăng mở đầu bức thư của ông bằng việc trình ra các ủy nhiệm thư của ông
với tư cách một người chứng kiến tận mắt sự nhập thể và bằng cách nêu rõ
các lý do khiến ông phải viết bức thư này (IGi1Ga 1:1-4). Rồi ông trình bày
Đức Chúa Trời là “ánh sáng” tượng trưng cho sự thuần khiết và thánh khiết
tuyệt đối (1:5-7), và ông giải tích làm thế nào để các tín hữu có thể bước đi
trong ánh sáng của Đức Chúa Trời và được kết bạn hữu hảo với Ngài (1:8-
10) và với Chúa Cứu Thế ở cương vị người bào chữa, bênh vực cho họ
(2:1,2). Giăng khuyến giục họ hãy hoàn toàn vâng lời Chúa Cứu Thế và yêu
thương tất cả các thành viên của gia đình Đức Chúa Trời (2:3-17). Ông cảnh
cáo các độc giả của mình về “các christ giả“ (antichrists) và antichrist sẽ cố
tìm cách dẫn họ lạc xa chân lý (2:18-29).
Trong đoạn tiếp theo, Giăng trình bày Đức Chúa Trời là “tình yêu” - Đấng
ban cho, chịu chết, tha tội và chúc phước (3:1-4:21). Đức Chúa Trời là tình
yêu, và vì Ngài yêu chúng ta, nên đã gọi chúng ta làm con cái Ngài và khiến
chúng trở nên giống như Chúa Cứu Thế (3:1,2). Chân lý này phải là động cơ
thúc đẩy chúng ta biết sống gần Ngài (3:3-6). Chúng ta có thể chắc chắn về
mối liên hệ thân tộc của mình với Đức Chúa Trời khi đời sống chúng ta có
đầy việc lành và tình thương yêu tha nhân (3:7-24). Rồi một lần nữa, Giăng
cảnh cáo các giáo sư giả là những kẻ xuyên tạc chân lý. Chúng ta phải chối
bỏ các giáo sư giả này (4:1-6) khi tiếp tục sống trong tình yêu của Đức Chúa
Trời (4:7-21).
Trong đoạn cuối, Giăng trình bày Đức Chúa Trời là “sự sống” (5:1-21). Sự
sống của Đức Chúa Trời ở trong Con Ngài. Có Con Ngài, tức là được sự
sống vĩnh hằng.
Bạn có nhận biết Đức Chúa Trời chưa? Bạn có biết là mình đã được sự sống
vĩnh hằng rồi hay không? Thư Giăng thứ nhất đã được viết ra để giúp bạn
biết sự thật về Đức Chúa Trời đang sống trong cuộc đời bạn nhờ đức tin đặt
nơi Chúa Cứu Thế, để bảo đảm rằng bạn đã được sự sống vĩnh hằng, và để
khích lệ bạn cứ ở trong sự giao hảo với Đức Chúa Trời, Đấng vốn là chính
ánh sáng và tình yêu. Hãy đọc bức thư này, do một người được tình yêu của
Đức Chúa Trời tràn ngập, viết ra để rồi sau khi có được niềm tin quyết là
mình đã được tái tạo, bạn sẽ chuyển tình yêu của Ngài cho nhiều người khác
nữa.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để trấn an các Cơ Đốc nhân trong đức tin của họ và chống lại các
tà giáo.
Trước giả: Sứ đồ Giăng
Đọc giả: Bức thư này không có nhan đề và không được viết cho một Hội
thánh riêng tư nào cả. Nó được gởi đi như một bức thư có tính cách mục vụ
cho nhiều hội chúng ngoại quốc. Nó cũng được viết cho toàn thể các tín hữu
khắp nơi.
Niên đại viết thư: Có lẽ giữa các năm 85 và 90 SC, từ Ê-phê-sô.
Bối cảnh: Giăng là một người đã cao tuổi và có lẽ là vị sứ đồ duy nhất còn
sống sót lúc ấy. Ông vẫn chưa bị đưa sang đảo Bát-mô, nơi ông sẽ sống kiếp
lưu đày. Là một người được nhìn thấy Chúa Cứu Thế tận mắt, ông đã viết
với đầy đủ thẩm quyền để bảo đảm với các tín hữu thuộc thế hệ mới này
rằng họ có thể tin quyết vào Đức Chúa Trời và vào đức tin (đạo) của họ.
Câu chìa khoá: “Ta đã viết những điều này cho các con, hầu cho các con biết
mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời” (5:3)
Các nhân vật chính: Giăng, Chúa Giê-xu.
Những nét đặc trưng: Giăng là vị sứ đồ của tình yêu, nên tình yêu được đề
cập xuyên suốt bức thư này. Có một số điểm tương đồng giữa bức thư này
với sách Phúc âm Giăng - về ngữ vựng, về cú pháp và các ý niệm chính.
Giăng dùng những câu ngắn gọn, những từ đơn giản, và ông đưa ra những
nét tương phản rõ rệt - ánh sáng và bóng tối, chân lý với ngụy lý, Đức Chúa
Trời và Sa-tan, sống và chết, yêu và ghét.
Bố cục:
1. Đức Chúa Trời là ánh sáng (1:1-2:27)
2. Đức Chúa Trời là tình yêu (2:28-4:21)
3. Đức Chúa Trời là sự sống (5:1-21)
Giăng viết về các phương diện quan trọng nhất của đức tin, để các độc giả
biết phân biệt chân lý với ngụy lý. Ông nhấn mạnh trên các nguyên tắc căn
bản (những điều sơ đẳng, sơ học) để chúng ta có thể tin chắc vào đạo của
mình. Trong thế giới tối tăm này của chúng ta, thì Đức Chúa Trời là ánh
sáng. Trong thế giới lạnh lẽo này của chúng ta, thì Đức Chúa Trời đem đến
tình yêu nồng ấm. Trong cái thế giới đang hấp hối này của chúng ta, thì Đức
Chúa Trời đem sự sống đến. Khi nào chúng ta thiếu lòng tin, các chân lý này
sẽ giúp chúng ta tin chắc.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Tội lỗi
Phần giải thích: Ngay đến các Cơ Đốc nhân cũng phạm tội. Có tội thì phải
được Đức Chúa Trời tha tội, và sự chết của Chúa Cứu Thế cung ứng điều đó
cho chúng ta. Quyết định sống theo các chuẩn mực trong Thánh Kinh chứng
tỏ đời sống chúng ta đã được biến đổi.
Tầm quan trọng: Chúng ta không thể phủ nhận bản tính tội lỗi của mình, cho
rằng mình sống “trên” tội lỗi , hay thu hẹp hậu quả của tội lỗi trong mối liên
hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời. Chúng ta phải chống lại sức hấp dẫn
của tội lỗi, nhưng một khi đã phạm tội, chúng ta phải xưng ra.
Luận đề: Tình yêu
Phần giải thích: Chúa Cứu Thế truyền dạy chúng ta phải yêu tha nhân như
bản thân. Tình yêu ấy là chứng cứ hiển nhiên cho việc chúng ta quả thật đã
được cứu. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá của tình yêu; Ngài quan tâm đến
việc các con cái Ngài phải yêu
thương nhau.
Tầm quan trọng: Chúa Cứu Thế truyền dạy chúng ta phải không vị kỷ. Yêu
là hành động - chứng tỏ cho người khác thấy là chúng ta quan tâm chăm sóc
họ, chứ không phải chỉ nói suông mà thôi. Muốn chứng minh tình yêu,
chúng ta phải hi sinh dùng thì giờ và tiền bạc để đáp ứng các nhu cầu của tha
nhân.
Luận đề: Gia đình của Đức Chúa Trời
Phần giải thích: Khi tin Chúa Cứu Thế, chúng ta trở thành con cái Ngài. Sự
sống của Đức Chúa Trời trong chúng ta khiến chúng ta yêu mến các thành
viên trong gia đình.
Tầm quan trọng: Cách chúng ta đối xử với người khác cho thấy Cha chúng
ta là ai. Hãy sống như một thành viên trung tín, đầy tình yêu thương của gia
đình.
Luận đề: Chân lý và nguỵ lý
Phần giải thích: Các giáo sư giả dạy rằng thân thể không quan trọng là
khuyến khích các tín hữu sống phóng túng, thiếu kìm chế về mặt đạo đức.
Họ cũng dạy rằng Chúa Cứu Thế không phải là một con người thật sự, nên
muốn được cứu, chúng ta phải có một vài kiến thức thần bí đặc biệt nào đó.
Hệ quả là người ta dửng dưng đối với tội lỗi.
Tầm quan trọng: Chân lý của Đức Chúa Trời là ánh sáng, cho nên càng biết
rõ Ngài hơn, chúng ta sẽ càng chuyên tâm chú ý càng nhiều hơn vào chân lý.
Đừng để cho bất kỳ một lời truyền dạy nào phủ nhận thần tánh hoặc nhơn
tánh của Chúa Cứu Thế dẫn mình đi sai lạc. Phải kiểm điểm từng bức thông
điệp; thử nghiệm từng lời rêu rao.
Luận đề: Biết chắc
Phần giải thích: Đức Chúa Trời đang cai trị kiểm soát cả trời và đất. Vì lời
Ngài là chân lý, chúng ta có thể tin chắc mình đã được sống vĩnh hằng và
thắng hơn tội lỗi. Bởi đức tin, chúng ta biết chắc số phận của mình là được
sống đời đời với Ngài.
Tầm quan trọng: Biết chắc mối liên hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời là
một lời hứa đồng thời cũng là cách sống. Chúng ta xây dựng lòng tin quyết
của mình nhờ tin Lời Đức Chúa Trời và vào việc Chúa Cứu Thế đã giải
quyết xong vấn đề tội lỗi của chúng ta.

Dẫn nhập II Giăng


Lời giới thiệu
Thế giới của chúng ta vẫn thường luận bàn về vấn đề chân lý và tình yêu,
nhưng lại ít khi thực hành.
Từ các chính trị gia cho đến các con buôn, thiên hạ đều khéo léo lờ đi hoặc
giấu kín các thực sự không thuận lợi cho họ, và họ thường sử dụng lời nói
hoa mỹ để nâng cao địa vị hoặc bán cho được hàng hóa của mình. Thề dối là
phổ biến, còn thanh liêm và đáng tin là những chủng loại đang lâm nguy.
Lời nói một khi đã bị xuyên tạc và xé ra khỏi thượng hạ văn, đã trở thành
công cụ để xây dựng cho “cái ta”. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi
chúng ta phải “thề” là sẽ nói sự thật.
Còn về tình yêu thì sao? Thế gian của chúng ta đầy dẫy những lời nói về nó-
nào là tình ca, thiệp chúc mừng, tư vấn bằng các phương tiện thông tin, tiểu
thuyết diễm tình, cung cấp cho chúng ta những trận mưa rào các khái niệm,
các giấc mơ diễm ảo, những mối liên hệ và cảm thức tình ái ly kỳ. Tuy nhiên
tình yêu chân chính - như cống hiến bất vị kỷ, chăm sóc và hy sinh vì người
khác - lại rất hiếm hoi. Chúng ta đều muốn yêu và được yêu, nhưng chỉ thấy
quá ít các gương tốt về tình yêu chân chính. Đang có đầy dẫy những kẻ lợi
dụng, ấp ủ và rình rập cơ hội để trở thành “người số một”.
Chúa Cứu Thế là phản đề của các giá trị đang chiếm thế áp đảo trong xã hội,
tức là sự giả dối và vị kỷ - vì Ngài chính là hiện thân của chân lý và tình yêu.
Do đó, tất cả những ai tự xưng là trung thành với Ngài phải tận hiến cho các
lý tưởng ấy - nghĩa là đi theo chân lý và sống trung thực, phản chiếu tình yêu
và bày tỏ tình yêu đối với nhau.
Sứ đồ Giăng đã nhìn thấy trực tiếp chân lý và tình yêu - ông đã từng ở với
Chúa Giê-xu. Vị sứ đồ này vốn đầy dẫy tình thương yêu trìu mến, đến nỗi tất
cả các văn phẩm của ông, từ sách Phúc âm mang tên ông đến sách Khải
huyền, đều đầy dẫy luận đề này - chân lý và tình yêu có tầm quan trọng sinh
tử đối với Cơ Đốc nhân và là bất khả phân ly với sinh hoạt Cơ Đốc nhân.
Thư thứ hai của Giăng là một bức thư ngắn ông viết cho một người bạn thân
yêu, cũng không khác. Giăng bảo phải bước đi trong chân lý và vâng lời
Đức Chúa Trời (IIGi 2Ga 1:4), coi chừng những kẻ lường gạt (1:7), và hãy
yêu mến Đức Chúa Trời, yêu mến lẫn nhau (1:6).
Chỉ cần vài phút là đã có thể đọc qua bởi thư thứ hai của Giăng, nhưng bức
thông điệp của nó phải tồn tại suốt đời. Trong lúc bạn suy tư về một vài phân
đoạn do người môn đệ khôn ngoan và tuổi tác này của Chúa Cứu Thế trước
tác, bản thân bạn hãy tự dấn thân để trở thành một con người của chân lý,
của tình yêu và của sự vâng lời.
Các đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để nhấn mạnh các nguyên tắc căn bản của việc đi theo Chúa Cứu
Thế - chân lý và tình yêu - và để cảnh giác đối với các giáo sư giả.
Trước giả: Sứ đồ Giăng
Đọc giả: Cho “bà được chọn” và con cái bà ấy - hoặc có lẽ là cho một chi
hội địa phương, và toàn thể các tín hữu khắp nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng đồng thời với IGiăng, trước sau năm 90 SC, từ Ê-
phê-sô.
Bối cảnh: Hiển nhiên là người phụ nữ này và gia đình của bà thuộc về một
trong các Hội thánh mà Giăng đang quản lý - họ đã là những người bạn thân
thiết với Giăng. Ông muốn cảnh báo mệnh phụ này về các giáo sư giả đang
chiếm thế áp đảo trong một số các Hội thánh.
Câu chìa khoá: “Vả, sự yêu thương là tại làm theo các điều răn của Đức
Chúa Trời. Đó là điều răn mà các ngươi đã nghe từ lúc ban đầu, đặng làm
theo” (c.6).
Các nhân vật chính: Giăng, bà được chọn, và con cái bà.
Bố cục:
1. Coi chừng các giáo sư giả (1:1-11)
2. Những lời cuối cùng của Giăng (1:12,13)
Các giáo sư giả là một vấn đề nguy hiểm cho Hội thánh mà Giăng đang viết
bức thư này cho. Lời cảnh cáo của ông là không nên tỏ ra hiếu khách đối với
các giáo sư giả thoạt nghe có vẻ thô bạo và thiếu tình yêu thương đối với
nhiều người ngày nay. Thế nhưng bọn người đó đang truyền dạy tà giáo, có
thể gây tổn hại nghiêm trọng cho nhiều tín hữu - một tổn hại đời đời.
Các đại đề mục
[td Luận đề: Chân lý
Lời giải thích: Noi theo lời Đức Chúa Trời, tức bộ Thánh Kinh, là thiết yếu
cho sinh hoạt Cơ Đốc nhân vì Đức Chúa Trời là chân lý. Những người theo
Chúa Cứu Thế chân chính luôn luôn vâng theo chân lý của Ngài.
Tầm quan trọng: Muốn trung thành với lời truyền dạy của Chúa Cứu Thế,
chúng ta phải tìm hiểu Thánh Kinh, nhưng chẳng bao giờ nên xuyên tạc bức
thông điệp trong đó cho phù hợp với các nhu cầu hoặc chủ đích riêng, cũng
không khuyến khích người khác sử dụng nó cách sai lầm.
Luận đề: Tình yêu
Lời giải thích: Lệnh truyền của Chúa Cứu Thế cho các Cơ Đốc nhân là phải
yêu mến lẫn nhau. Đây là thành tố căn bản của Cơ Đốc giáo chân chính.
Tầm quan trọng: Muốn vâng lời Chúa Cứu Thế thật trọn vẹn, chúng ta phải
tin mệnh lệnh của Ngài là yêu thương người khác. Giúp dỡ, quyên trợ và đáp
ứng các nhu cầu của họ, là đem tình yêu ra thực hành.
Luận đề: Lãnh tụ giả
Lời giải thích: Phải chống lại các lãnh tụ tôn giáo không trung thành rao lời
truyền dạy của Chúa Cứu Thế. Chúng ta chẳng bao giờ nên tạo cơ hội cho
họ truyền bá tà thuyết.
Tầm quan trọng: Đừng khuyến khích những kẻ chống lại Chúa Cứu Thế.
Hãy lễ phép rút lui để khỏi cộng tác với các giáo sư giả. Phải cảnh giác đối
với những điều được truyền dạy trong Hội thánh của bạn.

Dẫn nhập III Giăng


Lời giới thiệu
Khi có một cuộc tiếp tân đặc biệt hoặc một cuộc thăm viếng bất ngờ, bạn
phải tiếp một số đông khách khứa, và cùng với họ là sàn nhà bị vấy bẩn,
phải giặt thêm nhiều khăn ăn, khăn trải bàn, rửa thêm nhiều bát đĩa, thay đổi
thời biểu, hao tốn tiền bạc, và nhiều điều bất tiện khác nữa. Từ việc chia xẻ
một bữa ăn đến việc cung cấp một chiếc giường ngủ, việc tiếp khách có cái
giá phải trả của nó... về thì giờ, năng lực, và tiền bạc. Nhưng cách chúng ta
đối xử với người khác phản ảnh quan niệm về các giá trị của chúng ta, là
điều thật sự quan trọng đối với chúng ta. Chúng ta xem tha nhân như những
đồ vật, những tạo vật có một không hai của Đức Chúa Trời yêu thương? Và
một con người với một tấm thảm trải sàn nhà, điều nào là quan trọng hơn đối
với Đức Chúa Trời? Có lẽ cách tốt nhất để chứng minh quan niệm về các giá
trị của Đức Chúa Trời và tình yêu thương của Chúa Cứu Thế đối với tha
nhân, là mời mọc và tiếp đãi khách ngay tại nhà mình.
Với Gai-út, tiếp đãi khách là một thói quen, và tiếng tốt về tình bạn, và lòng
hào hiệp của ông, nhất là đối với các giáo sư và các nhà truyền giáo lưu hành
(IIIGi 3Ga 1:5) đã được đồn đãi khắp nơi. Để khẳng định và cám ơn Gai-út
về nếp sống Cơ Đốc tin kính của ông, và để khích lệ ông trong đức tin,
Giăng đã viết cho ông bức thư riêng này.
Khuôn khổ bức thư này của Giăng tập trung chung quanh ba nhân vật: Gai-
út, tấm gương về một người theo Chúa Cứu Thế và yêu thương tha nhân
(1:1-8); Đi-ô-trép, lãnh tụ Hội thánh tự đề cao bản thân mà không phản ảnh
các giá trị của Đức Chúa Trời (1:9-11) và Đê-mê-triu, người noi theo chân lý
(1:12). Giăng khuyến khích Gai-út cứ tỏ ra hiếu khách, tiếp tục bước theo
chân lý, và làm điều phải, việc đúng.
Tuy đây là một bức thư riêng, nhưng chúng ta có thể học tập từng trải của
Gai-út để ứng dụng các bài học đó cho đời sống mình. Khi đọc thư IIIGiăng
bạn tự đặt mình vào vị trí của ai? Phải chăng bạn là một Gai-út, quyên trợ
hào hiệp cho tha nhân? Hay bạn là một Đê-mê-triu, yêu mến chân lý? Hay
bạn là một Đi-ô-trép, chỉ biết có bản thân và những “tài vật” của riêng mình?
Hãy quyết định phản ảnh các giá trị của Chúa Cứu Thế trong các mối liên hệ
của bạn, mở rộng cửa nhà mình và đến với nhiều người khác bằng tình yêu
thương của Ngài.
Các đặc điểm quan trọng: Để khen ngợi Gai-út về lòng hiếu khách của ông
và khích lệ ông trong sinh hoạt Cơ Đốc nhân.
Trước giả: Sứ đồ Giăng.
Đọc giả: Cho Gai-út, một Cơ Đốc nhân nổi bật, trong một Hội thánh mà
Giăng được biết; và toàn thể các Cơ Đốc nhân.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 90 SC, từ Ê-phê-sô.
Bối cảnh: Các lãnh tụ Cơ Đốc giáo thường đi từ thành phố này sang thành
phố khác, giúp đỡ thiết lập nhiều hội chúng mới. Các vị này trông cậy vào
lòng hiếu khách của các tín hữu tại những nơi họ đến. Gai-út là một người
đã tiếp rước các cấp lãnh đạo ấy vào nhà mình.
Câu chìa khoá: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, anh ăn ở trung tín trong mọi đều làm
cho các anh em, và cũng cho các anh em ở trọ nữa” (1:5)
Các nhân vật chính: Giăng, Gai-út, Đi-ô-trép, Đê-mê-triu.
Bố cục:
1. Con cái Đức Chúa Trời sống theo chuẩn mực của Phúc Âm (1:1-12)
2. Những lời cuối cùng của Giăng (1:13-15)
Giăng viết thư này để khen Gai-út, người đã lo lắng chăm sóc cho các giáo
sư và các nhà truyền giáo lưu hành, và để cảnh cáo chống lại những kẻ như
Đi-ô-trép, vốn kiêu căng và không chịu lắng nghe các lãnh tụ thuộc linh
đang cầm quyền. Nếu muốn sống đúng theo chân lý của Phúc Âm, chúng ta
phải tìm cách tiếp trợ cho các mục sư, các cán sự Cơ Đốc giáo và các giáo sĩ
hiện nay. Toàn thể các Cơ Đốc nhân phải cùng cộng tác với nhau để hậu
thuẫn cho công việc của Đức Chúa Trời, cả tại quê nhà cũng như khắp thế
giới.
Các đại đề mục
Luận đề: Hiếu khách
Lời giải thích: Giăng viết thư này để khích lệ những người đang đối xử tử tế
với người khác. Lòng hiếu khách đích thực đối với các nhà truyền giáo lưu
hành vốn cần thiết thời đó, hiện nay vẫn còn quan trọng.
Tầm quan trọng: Các giáo sư và giáo sĩ trung tín cần được sự trợ giúp của
chúng ta. Bất cứ nơi nào bạn mở rộng lòng hiếu khách của mình ra đối với
tha nhân, điều đó sẽ biến bạn thành một người cộng tác trong chức vụ của
họ.
Luận đề: Kiêu căng
Lời giải thích: Đi-ô-trép chẳng những từ chối tiếp đãi khách, mà còn tự cao
tự đại, xem mình như một ông chủ trong Hội thánh. Thói kiêu ngạo tước
đoạt các phẩm cách của ông ta là một lãnh tụ đích thực.
Tầm quan trọng: Các lãnh tụ Cơ Đốc giáo phải tránh thói kiêu căng và các
hậu quả của nó trên họ. Phải thận trọng, đừng lạm dụng chức vị lãnh đạo của
bạn.
Luận đề: Trung tín
Lời giải thích: Gai-út và Đê-mê-triu được khen ngợi vì công tác trung tín của
họ trong Hội thánh. Họ được đề cao như những tấm gương tốt về những
người đầy tớ tận trung, bất vị kỷ.
Tầm quan trọng: Đừng cho rằng các cán sự Cơ Đốc giáo phải phục vụ trung
tín là lẽ đương nhiên. Phải chắc chắn là bạn vẫn khuyến khích họ, để họ khỏi
mệt mỏi về công tác phục vụ của mình.

Dẫn nhập Giu-đe


Lời giới thiệu
Để bảo vệ khỏi sự tàn hại, để tự vệ cho khỏi bị tấn công, để đẩy lui kẻ thù -
những người làm công việc phòng thủ từ nhiều thế kỷ đã xây thành đắp lũy,
phóng hoả tiễn và lao vào những cuộc chiến tranh, tiêu phí vật liệu và tài
nguyên là con người vào cuộc chiến đấu nhằm giải cứu nhiều dân tộc và
thành phố. Và nhiều cá nhân đã tận hiến, đã can đảm từ bỏ mọi sự để chiến
đấu cho gia đình của họ. Có một quy luật của sự sống, là chúng ta phải chiến
đấu để sinh tồn, tận dụng sức lực để bảo vệ điều quý báu nhất của mình,
chống lại bất luận một cuộc tấn công có thật hoặc tưởng tượng nào.
Lời Đức Chúa Trời và món quà tặng là sự sống vĩnh hằng vốn có giá trị vô
hạn, và đã được phó thác cho những người tận trung theo Chúa Cứu Thế. Có
rất nhiều ngưòi đang chống lại với Đức Chúa Trời và những người theo
Ngài. Họ xuyên tạc chân lý, tìm cách lường gạt và tiêu diệt những người bất
cẩn. Nhưng chân lý của Đức Chúa Trời phải được những người tận hiến đời
sống họ cho Con Đức Chúa Trời nêu cao và bảo vệ. Đây là một nhiệm vụ
quan trọng, một trách nhiệm đáng sợ, và là một đặc quyền sâu nhiệm khi đã
được giao phó công tác này.
Đây là bức thông điệp của Giu-đe gởi cho các Cơ-đốc nhân ở khắp nơi.
Chống đối sẽ đến và nhiều giáo sư bất kính vô đạo sẽ nổi lên, nhưng Cơ-đốc
nhân phải “vì đạo mà tranh chiến (Giu Gd 1:3) bằng việc phản bác tất cả
những gì là giả mạo và vô luân vô đạo. (1:14-19), phải ghi nhớ các hành
động quyền năng là cứu vớt và trừng phạt của Đức Chúa Trời (1:5-11; 1:1-
6), và những lời cảnh cáo của các sứ đồ (1:17-19). Các độc giả của ông cần
phải tự xây dựng lấy đức tin của mình nhờ cầu nguyện (1:20), bám sát lấy
Chúa Cứu Thế (1:21) giúp đỡ tha nhân (1:22,23) và ghét bỏ tội lỗi (1:23).
Rồi Giu-đe kết thúc bằng một lời chúc phước quang vinh nhằm ca ngợi tán
tụng Đức Chúa Trời (1:24,25).
Bạn đánh giá Lời Đức Chúa Trời, sự thông công của Hội thánh và việc phải
vâng lời Chúa Cứu Thế như thế nào? Có nhiều giáo sư giả đang chờ đợi để
phá hủy cuộc đời chọn Chúa Cứu Thế làm trung tâm của bạn, tính cách đáng
tin của Lời Đức Chúa Trời, và sự hợp nhất của thân thể Chúa Cứu Thế. Hãy
đọc thư Giu-đe và quyết định đứng vững trong đức tin của bạn, và bảo vệ
chân lý của Đức Chúa Trời bằng bất cứ giá phải trả nào. Chẳng có gì lại có
giá trị hơn thế.
Những đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để nhắc nhở Hội thánh về sự cần thiết phải luôn luôn đề cao cảnh
giáo - giữ cho mình mạnh mẽ trong đức tin và chống lại tà giáo.
Trước giả: Giu-đe, em trai Chúa Giê-xu và Gia-cơ.
Đọc giả: Cho các Cơ-đốc nhân người Do-thái, và toàn thể các tín hữu khắp
nơi.
Niên đại viết thư: Khoảng năm 65 SC
Bối cảnh: Từ thế kỷ thứ nhất trở về sau, Hội thánh đã bị tà giáo, tà thuyết đe
doạ - cho nên chúng ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác.
Câu chìa khoá: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì tôi đã ân cần viết cho anh em về sự
cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì
đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi” (1:3)
Các nhân vật chính: Giu-đe, Gia-cơ, và Chúa Giê-xu.
Bố cục:
1. Nguy cơ của giáo sư giả (1:1-16)
2. Nhiệm vụ phải chiến đấu cho chân lý của Đức Chúa Trời (1:17-25).
Giu-đe viết thư này để thúc giục Cơ-đốc nhân khắp nơi hãy bắt tay hành
động. Ông muốn họ nhận thức được các nguy cơ của tà thuyết, để tự vệ và
bảo vệ các tín hữu khác, và đưa những người đã bị lừa gạt quay trở về. Giu-
đe đã viết nhằm chống lại các giáo sư bất kính vô đạo, dạy rằng các Cơ-đốc
nhân có thể làm gì tùy thích mà khỏi sợ bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Nếu
ngày nay có ít người công khai dạy tà thuyết này trong Hội thánh, nhiều Hội
thánh đang hành động dường như điều đó là đúng. Bức thư này là một lời
cảnh cáo chống lại đời sống Cơ-đốc nhân hữu danh vô thực.
Các đại đề mục
Luận đề: Các giáo sư giả
Lời giải thích: Giu-đe cảnh cáo chống các giáo sư và các lãnh tụ giả dối,
chối bỏ quyền chủ tể của Chúa Cứu Thế, phá hoại ngầm đức tin của người
khác, và dẫn họ đi sai lạc. Các lãnh tụ ấy và nhiều kẻ theo chúng rồi sẽ bị
trừng phạt.
Tầm quan trọng: Chúng ta phải triệt để bảo vệ chân lý Cơ-đốc giáo. Phải
chắc chắn là bạn đang tránh xa các lãnh tụ và giáo sư xuyên tạc Thánh Kinh
cho phù hợp với các chủ đích của họ. Các tôi tớ chân thật của Đức Chúa
Trời sẽ trung tín vẽ ra bức chân dung của Chúa Cứu Thế trong lời nói và
cách ăn ở của họ.
Luận đề: Bội đạo
Lời giải thích: Giu-đe cũng cảnh cáo chống việc bội đạo - xây bỏ Chúa Cứu
Thế. Chúng ta phải nhớ là Đức Chúa Trời trừng phạt kẻ phản loạn chống lại
Ngài. Chúng ta phải cẩn thận, đừng trôi lạc khỏi việc tận trung hiến thân cho
Chúa Cứu Thế.
Tầm quan trọng: Những người không chịu tìm biết chân lý trong Lời Đức
Chúa Trời sẽ dễ bội đạo. Các Cơ-đốc nhân phải coi chừng các tà thuyết có
thể khiến họ xây bỏ chân lý do các sứ đồ truyền giảng, và đã được chép
trong Lời Đức Chúa Trời.

Dẫn nhập Khải Huyền


Lời giới thiệu
Bằng những cử động và tiếng khóc của một hài nhi, Ngài đã bước vào đời,
được bọc bằng khăn, và an giấc lần đầu tiên trên một chiếc giường lót bằng
cỏ khô. Phải thuận phục thời gian và cha mẹ, Ngài đã lớn lên thành người
trong xứ Palestine đang bị người La-mã chiếm đóng; đôi tay mủm mỉm của
Ngài trở nên mạnh mẽ và chai sần trong xưởng thợ mộc của ông Giô-sép.
Với tư cách một con người, Ngài đã bước đi qua các vùng thôn quê và các
thành phố, chạm tay vào nhiều người, truyền giảng cho đám quần chúng
đông đảo, và đào tạo 12 môn đệ đảm nhiệm công tác của mình. Trên từng
chặng đường, Ngài đã bị những kẻ chỉ chực cướp mất ảnh hưởng tốt của
Ngài trên thế gian này, săn đuổi. Cuối cùng, bị cáo gian và đưa ra xét xử,
Ngài đã bị kết án để rồi bị hành quyết và chết thảm khốc dưới tay của những
người ngoại bang. Và Ngài đã chết - bị sỉ vả, nguyền rủa, đóng đinh và treo
lên giữa trời và đất cho mọi người chế nhạo, phỉ nhổ. Chúa Giê-xu, Đức
Chúa Trời - làm người, đã phó trọn vẹn mạng sống mình để tất cả mọi người
có thể được cứu rỗi.
Đến đúng kỳ định của Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu đã sống lại và thăng
thiên rồi sẽ thình lình xuất hiện trên sân khấu của trần gian này. Chừng đó,
mọi người sẽ biết rằng nhân vật tên Giê-xu chính là Chúa tể của vũ trụ!
Những người yêu mến Ngài sẽ vui mừng chào đón Cứu Chúa mình với
những tấm lòng tràn đầy những bài ca ngợi tán tụng. Nhưng các kẻ thù Ngài
sẽ vô cùng kinh hãi. Cùng liên minh với Sa-tan các kẻ thù Chúa Cứu Thế sẽ
tổng động viên các binh đoàn của chúng để chống lại Chúa Cứu Thế và các
đạo quân của Ngài. Nhưng ai có thể đứng nổi trước cơn thịnh nộ của Đức
Chúa Trời? Chúa Cứu Thế sẽ thắng trận và trị vì mãi mãi với tư cách người
chiến thắng! Con người từng có tên là Giê-xu, người Đấy tớ khiêm hạ từng
chịu khổ, cũng chính là Nhà Vua và là vị Thẩm Phán hùng cường, chiến
thắng.
Khải huyền là một quyển sách của niềm hi vọng. Giăng là vị sứ đồ yêu dấu
của Chúa Giê-xu và là người tận mắt nhìn thấy Ngài, đã truyền giảng rằng
chính vị Chúa tể chiến thắng ấy chắc chắc sẽ trở lại để báo đáp cho người
công chính và phán xét kẻ gian ác. Nhưng Khải huyền cũng là một quyển
sách của lời cảnh cáo. Sự việc đáng lẽ không nên có như đã xảy ra trong
nhiều Hội thánh, cho nên Chúa Cứu Thế kêu gọi các thành viên phải tận
hiến để sống trong sự công chính.
Tuy Chúa Giê-xu đã ban cho Giăng phần tự mặc khải về chính Ngài đã gần
2.000 năm trước, nó vẫn còn đứng đó như một lời an ủi và là một thách thức
đối với những người thuộc về Ngài hôm nay. Chúng ta có thể ghi khắc vào
lòng khi hiểu rõ khải tượng về niềm hi vọng này của Giăng: Chúa Cứu Thế
sẽ tái lâm để cứu vớt người thuộc về Ngài và tính sổ với tất cả những ai
thách đố Ngài.
Giăng bắt đầu quyển sách này bằng cách giải thích ông đã nhận được sự mặc
khải này từ Đức Chúa Trời như thế nào (KhKh 1:1-20). Rồi ông ghi lại các
bức thông điệp đặc thù của Chúa Giê-xu cho bảy Hội thánh trong tỉnh A-si
(2:1-3:22). Thình lình, sân khấu bỗng được thay đổi khi một bức đồ khảm
nhiều hình ảnh đầy kịch tính và oai nghiêm vụt hiện ra trước mắt Giăng.
Loạt khải tượng này vẽ ra bức tranh về điều ác sẽ dấy lên trong tương lai, mà
tuyệt đỉnh là Antichrist (4:1-18-24). Tiếp theo là phần ký thuật của Giăng về
chiến thắng khải hoàn của Nhà Vua của các vua, tiệc cưới Chiên Con, cuộc
phán xét sau cùng, và sự giáng lâm của thành phố Giê-ru-sa-lem mới (19:1-
22:5). Sách Khải huyền kết thúc bằng một lời hứa là Chúa Cứu Thế sẽ chóng
tái lâm (22:6-20) và Giăng thì thầm một lời cầu nguyện đã được các Cơ-đốc
nhân qua nhiều thế kỷ lặp lại: “A-men, Lạy Đức Chúa Giê-xu, xin hãy đến!”
(22:20).
Khi bạn đọc sách Khải huyền, hãy cùng kinh ngạc với Giăng trước toàn cảnh
diệu kỳ của kế hoạch của Đức Chúa Trời đã mặc khải. Hãy lắng nghe lời
Chúa Cứu Thế cảnh cáo các Hội thánh, và nhổ bật hết mọi gốc rễ của tội lỗi
đang gây trở ngại cho mối liên hệ của bạn với Ngài. Hãy tràn đầy hi vọng, vì
biết rằng Đức Chúa Trời đang nắm quyền cai trị, kiểm soát, chiến thắng của
Chúa Cứu Thế được bảo đảm chắc chắn, và toàn thể những người tin Ngài
đều sẽ được cứu.
Những đặc điểm quan trọng:
Chủ đích: Để mặc khải lý lịch trọn vẹn của Chúa Cứu Thế và đưa ra lời cảnh
cáo cũng như niềm hi vọng cho các tín hữu.
Trước giả: Sứ đồ Giăng.
Đọc giả: Cho bảy Hội thánh trong tỉnh A-si, và toàn thể các tín hữu khắp
nơi.
Niên đại trước tác: Khoảng năm 95 SC, từ đảo Bát-mô.
Bối cảnh: Phần đông các học giả tin rằng bảy Hội thánh tại A-si mà Giăng
viết thư cho đang trải qua cuộc bắt bớ bách hại xảy ra dưới thời trị vì của
Hoàng đế Domitian (90-95 SC). Dường như các nhà cầm quyền La-mã đã
đày Giăng sang đảo Bát-mô (ngoài duyên hải tỉnh A-si). Giăng là người từng
tận mắt chứng kiến Chúa Cứu Thế trong vinh quang. Đức Chúa Trời cũng
mặc khải cho ông những việc sẽ xảy ra trong tương lai - sự phán xét và chiến
thắng khải hoàn tối hậu của Đức Chúa Trời trên điều ác.
Câu chìa khoá: “Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri này, và
giữ theo điều đã viết ra đây. Vì thì giờ đã gần rồi” (KhKh 1:3)
Các nhân vật chính: Giăng, Chúa Giê-xu,
Các địa danh chính: Đảo Bát-mô, bảy Hội thánh, thành phố Giê-ru-sa-lem
mới.
Những nét đặc trưng: Sách Khải huyền được viết theo hình thức “văn
chương mô tả ngày tận thế” (apocalyptic) - một loại văn chương của người
Do-thái, sử dụng các hình ảnh biểu tượng nhằm truyền tải hi vọng (vào
chiến thắng tối hậu của Đức Chúa Trời) cho những người đang sống giữa bắt
bớ bách hại. Các biến cố vốn được sắp xếp theo đặc tính văn chương, chứ
không theo các mẫu mực biên niên sử chặt chẽ.
Bố cục.
A. Những bức thư gởi cho các Hội thánh (1:1-3:22).
Khải tượng mà Giăng nhận được, được mở đầu bằng những lời truyền dạy
ông viết thư cho bảy Hội thánh. Ông vừa khen ngợi họ về các ưu điểm, vừa
cảnh cáo về các khuyết nhược điểm của họ. Mỗi bức thư được gởi cho một
Hội thánh vốn có vào thời đó, nhưng cũng đề cập tình hình trong Hội thánh
xuyên suốt lịch sử. Cả trong Hội thánh lẫn trong sinh hoạt cá nhân, chúng ta
đều phải thường xuyên chống lại sự cám dỗ muốn cho chúng ta trở thành
những kẻ vô tâm thiếu tình thương, sống vô luân vô đạo, lười biếng, thoả
hiệp với thế gian, khô cằn không có sự sống hoặc thờ ơ đối với đạo. Các bức
thư này làm sáng tỏ những cảm nghĩ của Chúa chúng ta đối với các đức tính
ấy.
B. Bức thông điệp cho Hôi thánh (4:1-22:21)
Việc thờ phượng Đức Chúa Trời ở trên trời
Mở bảy chiếc ấn
Bảy tiếng kèn (loa)
Nhìn cuộc tranh chấp lớn
Bảy tai hoạ đổ xuống
Nắm lấy chiến thắng tối hậu
Tái tạo mọi sự nên mới
Sự mặc khải vừa là một lời cảnh cáo các Cơ-đốc nhân đã ngày càng trở nên
thờ ơ lãnh đạm, vừa là một lời khích lệ những người đang trung tín chịu
đựng cuộc tranh chiến trên đời này. Nó trấn an chúng ta rằng thiện rồi sẽ
thắng ác, đem hi vọng đến cho chúng ta khi phải đương đầu với những kỳ
khó khăn, và hướng dẫn cho chúng ta khi đức tin bị dao động. Bức thông
điệp của Chúa Cứu Thế gởi cho Hội thánh là một bức thông điệp đầy hi
vọng cho toàn thể các tín hữu thuộc mọi thế hệ.
Các đại đề mục:
Luận đề: Quyền tể trị của Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Đức Chúa Trời là Đấng nắm quyền tể trị. Ngài vượt trên bất
kỳ một thế lực nào trong vũ trụ này. Ta không nên đem Đức Chúa Trời ra để
so sánh với bất cứ một lãnh tụ, chính quyền, hay tôn giáo nào. Ngài cai trị
kiểm soát cả lịch sử với chủ đích hợp nhất toàn thể các tín hữu chân chính để
thông công với Ngài trong tình yêu thương.
Tầm quan trọng: Tuy Sa-tan có thể tạm thời được cho thêm quyền lực,
chúng ta không nên để cho nó dẫn đi sai lạc. Đức Chúa Trời mới là Đấng
Toàn Năng. Chính Ngài mới nắm quyền kiểm soát. Ngài sẽ đưa gia đình thật
của Ngài an toàn vào sự sống vĩnh hằng. Vì Ngài luôn luôn quan tâm đến
chúng ta, chúng ta có thể phó cả đời sống chúng ta cho Ngài.
Luận đề: Chúa Cứu Thế tái lâm
Lời giải thích: Chúa Cứu thế đã đến thế gian này với tư cách một “Chiên
Con”, biểu tượng của sinh tế trọn vẹn của Ngài vì tội lỗi chúng ta. Ngài sẽ
trở lại để với tư cách là “Con Sư Tử” chiến thắng - tức là nhà vua toàn quyền
và toàn thắng. Ngài sẽ đánh hạ Sa-tan tính sổ với tất cả những kẻ chối bỏ
Ngài, và đưa những người tận trung vào cõi vĩnh hằng.
Tầm quan trọng: Lời bảo đảm rằng Chúa Cứu Thế sẽ tái lâm thêm sức mạnh
cho các Cơ-đốc nhân đang gặp đau khổ để họ kiên trì chịu đựng. Chúng ta
có thể hướng về ngày Ngài trở lại với tư cách Nhà Vua và vị Thẩm Phán. Vì
chẳng ai được biết khi nào thì Ngài sẽ tái lâm, chúng ta phải luôn luôn chuẩn
bị sẵn sàng bằng cách giữ đức tin luôn mạnh mẽ.
Luận đề: Những người tận trung với Đức Chúa Trời
Lời giải thích: Giăng viết thư này để khuyến khích Hội thánh chống lại các
đòi hỏi phải thờ lạy Hoàng đế La-mã. Ông cảnh cáo toàn thể những người
tận trung với Đức Chúa Trời hãy chỉ tận hiến cho Chúa Cứu Thế mà thôi.
Sách Khải huyền nhận diện ai là người trung tín và những gì họ phải làm
cho tới lúc Chúa Cứu thế tái lâm.
Tầm quan trọng: Bạn có thể đứng vào hàng ngũ của những người tận trung
với Đức Chúa Trời bằng cách tin Chúa Cứu thế. Chiến thắng là điều chắc
chắn cho những ai chống lại sự cám dỗ và đặt lòng tận trung với Chúa Cứu
Thế lên hàng đầu các quyền ưu tiên của họ.
Luận đề: Sự phán xét
Lời giải thích: Sẽ có một ngày, cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đối với tội
lỗi sẽ được trút xuống đầy đủ và trọn vẹn. Sa-tan sẽ bị đánh bại cùng với
toàn thể các thuộc hạ của nó. Tà giáo rồi sẽ bị tiêu diệt. Đức Chúa Trời sẽ
ban thưởng cho những người tận trung bằng sự sống vĩnh hằng, nhưng tất cả
những ai không chịu tin Ngài sẽ phải trực diện với sự hình phạt đời đời.
Tầm quan trọng: Gian ác và bất công sẽ không thắng mãi mãi. Ngày phán
xét sau cùng của Đức Chúa Trời sẽ kết thúc chúng. Chúng ta cần biết chắc là
mình đã tận hiến cho Chúa Giê-xu, nếu muốn thoát khỏi cuộc phán xét vĩ đại
cuối cùng này. Chẳng có ai từ chối không chịu tin Chúa Cứu thế, sẽ thoát
khỏi sự trừng phạt của Đức Chúa Trời.
Luận đề: Hi vọng
Lời giải thích: Có một ngày, Đức Chúa Trời sẽ tạo ra một trời mới đất mới.
Toàn thể các tín hữu sẽ được sống mãi với Ngài trong cảnh hoà bình và an
toàn tuyệt đối. Những người đã chết sẽ được khiến sống lại. Những lời hứa
cho tương lai này đem hi vọng đến cho chúng ta.
Tầm quan trọng: Hi vọng lớn lao của chúng ta, ấy là lời hứa của Chúa Cứu
Thế sẽ trở thành sự thật. Một khi đã tin quyết vào số phận đời đời của mình,
chúng ta có thể noi theo Chúa Cứu Thế bằng thái độ tận hiến không chút nao
núng, cho dù có gặp việc gì. Chúng ta có thể khích lệ nhau, bằng hi vọng
Chúa Cứu Thế sẽ tái lâm.

You might also like