You are on page 1of 240

DẪN NHẬP KINH THÁNH - 3

Dẫn nhập Sáng Thế ký


Nhan đề:
Nhóm từ thứ nhất trong bản văn Hi-bá-lai của SaSt 1:1 là bereshith (“ban
đầu”) cũng là nhan đề của sách (các sách cổ thường được đặt tên theo một
hay hai chữ đầu của sách). Nhan đề bằng Anh ngữ, Genesis, bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp, và đến từ chữ Geneseos, xuất hiện trong bản dịch tiếng Hy
Lạp (bản LXX) của 2:4; 5:1. Theo liên văn, từ này nghĩa là “sự sinh ra”, “gia
phả”, hoặc “lịch sử nguồn gốc”. Như vậy trong cả hình thức Hi-bá-lai lẫn
Hi-văn, nhan đề “Sáng thế ký” mô tả cách thích hiệp nội dung của sách, vì
chủ yếu là sách của những khởi đầu.
Bối cảnh:
Trong 38 chương đầu phản ánh rất nhiều điều chúng ta biết từ các nguồn
khác về nếp sống và văn hóa Mê-sô-bô-ta-mi thuở xưa. Cuộc sáng tạo, các
gia phả, trận hồng thủy hủy diệt, địa lý và việc hình thành bản đồ, kỹ thuật
xây dựng, sự di trú của các dân tộc, mua bán đất đai, quan thuế và thủ tục
pháp định, nghề chăn bầy và chăn nuôi gia súc, tất cả những chủ đề đó và
nhiều đề tài khác là vấn đề quan tâm chủ yếu của các dân tộc vùng Mê-sô-
bô-ta-mi thời bấy giờ. 38 đoạn đầu Sáng thế ký cũng liên quan đến những cá
nhân, gia đình và các bộ lạc. Tác giả dường như định vị vườn Ê-đen, quê
hương đầu tiên của loài người là ở trong hoặc gần xứ Mê-sô-bô-ta-mi, tháp
Ba-bên được xây cất tại đó, Áp-ram sinh ra ở đó, Y-sác cưới vợ người xứ
đó, và Gia-cốp cũng sống tại đó 20 năm. Dầu các tộc trưởng định cư tại xứ
Palestine, nhưng quê hương nguyên thuỷ của họ vẫn là xứ Mê-sô-bô-ta-mi.
Nền văn học cổ nhất tương đương với 1:1-38:30 cũng đến từ xứ Mê-sô-bô-
ta-mi. Enuma elish, câu chuyện thần Marduk dấy lên đến quyền tối cao trong
Đền thờ Bách Thần Ba-by-lôn, trong một số phương diện (dầu hoàn toàn
theo thần thoại và đa thần) cũng tương tự như cuộc sáng tạo trong 1:1-31.
Vài nét đặc biệt của danh sách các vua từ Sumer rất giống với gia phả ghi
trong 5:1-32. Bảng thứ 11 của thiên Anh hùng ca Gilgamesh hoàn toàn
giống như trận Hồng thủy ghi trong 6:1-8:22. Nhiều biến cố quan trọng của
1:1-8:22 được thuật lại cùng thứ tự các sự việc tương tự trong thiên Anh
hùng ca Atrahasis. Thật ra, thiên sử thi này cùng căn bản chủ đề sáng tạo -
phản loạn - trận Hồng thủy như Thánh Kinh ghi chép. Các bảng đất sét mới
tìm được tại vị trí cổ (chừng 2.500-2.300 TC) ở Ebla (hiện nay là Tell
Mardikh), miền Bắc Sy-ri cũng có thể chứa đựng một số tình tiết tương
đương.
Có hai bộ tài liệu quan trọng khác chứng minh sự phản ánh xứ Mê-sô-bô-ta-
mi trong 38 chương đầu Sáng thế ký. Từ những bức thư Ma-ri, từ thời các
tộc trưởng, chúng ta học biết tên các tộc trưởng (đặc biệt kể cả Áp-ram, Gia-
cốp và Gióp) là tiêu biểu cho thời đó. Những thư cũng minh chứng sự tự do
đi lại giữa những vùng khác nhau của thế giới A-mô-rít nơi các tộc trưởng
cư ngụ. Những tấm bảng Nuzi, dầu muộn hơn thời kỳ tộc trưởng mấy thế kỷ,
làm sáng tỏ những phong tục tập quán từ thời tộc trưởng trong nhiều thế kỷ,
hầu như nguyên vẹn trải qua nhiều thế kỷ. Quyền thừa hưởng cơ nghiệp của
người được thâu nhận vào gia đình hoặc nô lệ (xem 15:1-4), bổn phận của
một người vợ son sẻ là cung cấp cho chồng một con trai qua một đầy tớ gái
(16:2-4), sự chỉ trích chống lại việc đuổi đầy tớ gái và con trai nàng (xem
21:10-11), thẩm quyền của lời truyền khẩu trong luật pháp cổ vùng cận
đông, như lời trối trước khi chết (27:1-4,22-23,33) - những điều này cùng
các tập quán hợp pháp khác, các khế ước và điều khoản xã hội được minh
họa sinh động trong các tài liệu xứ Mê-sô-bô-ta-mi
Như 1:1-38:30 có đặc tánh và bối cảnh người Mê-sô-bô-ta-mi, thì cũng vậy,
39:1-50:26 phản ánh ảnh hưởng Ai-cập - dầu không hoàn toàn trực tiếp như
thế. Những ví dụ của ảnh hưởng đó là: việc trồng nho của người Ai-cập (40:
9-11), quang cảnh bờ sông (41:1-57), Ai-cập là vựa lúa của Ca-na-an 42:1-
38), Ca-na-an là nguồn của vô số sản phẩm cho Ai-cập tiêu thụ (43:1-34).
Tập quán xã hội và tôn giáo Ai-cập (ở phần cuối 43:1-34; 46:1-33), những
thủ tục hành chánh Ai-cập (47:1-31), những tập tục an táng Ai-cập (50:1-
26), nhiều từ ngữ và tên riêng theo tiếng Ai cập dùng trong các chương này.
Nét tương đương văn học đặc biệt gần nhất với Ai-cập là “Truyện kể Hai
Anh Em”, giống hệt như chuyện Giô-sép với Phô-ti-pha (39:1-23). Những
chuyện tự thuật Ai-cập (như “Truyện Sinuhe” và “Báo cáo Wenamun”) và
các huyền sử khác cống hiến nhiều nét tương đương văn học chung.
Trước giả và niên hiệu chép sách:
Về mặt lịch sử, người Do-thái và Cơ-đốc đồng chủ trương Môi-se là trước
giả của năm sách đầu tiên trong Cựu Ước. Những sách này được gọi là Ngũ
kinh (nghĩa là “sách năm quyển”) được nói đến trong truyền khẩu Do-thái
giáo là năm phần luật pháp (của Môi-se). Chính Thánh Kinh gợi ý rằng Môi-
se là trước giả Sáng thế ký, vì Cong Cv 15:1 viện dẫn lễ cắt bì như “tập quán
do Môi-se dạy”, một ám chỉ đến SaSt 17:1-27. Tuy nhiên có vài sưu tập trễ
hơn xuất hiện đã được chỉ ra (xem những chú thích ở 14:14; 36:31; 47:11).
Thời kỳ lịch sử mà Môi-se sống dường như sách IVua định khá chính xác.
Chúng ta được biết “năm thứ tư đời trị vì của Sa-lô-môn trên Y-sơ-ra-ên” là
“năm thứ 480 sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập” (IVua 1V 6:1). Vì
Sa-lô-môn trị vì khoảng 966 TC và như vậy niên hiệu của xuất Ai-cập - là
khoảng 1.446 (đoán định rằng 480 năm trong IVua 1V 6:1 là tính theo nghĩa
đen, xem lời giới thiệu sách Các Quan xét: Bối cảnh). Thời kỳ 40 năm Y-sơ-
ra-ên lưu lạc trong đồng vắng, trễ nhất là từ 1.446 đến 1.406, rất có thể là
thời gian Môi-se soạn bộ sách ngày nay gọi là Ngũ kinh.
Trong hai thế kỷ sau cùng nhiều học giả nhìn nhận đã tìm thấy trong Ngũ
kinh 4 nguồn cơ bản: Những tài liệu được cho là có từ thế kỷ thứ 10 đến thế
kỷ thứ 5 TC gọi là J (tức Jahweh/Yahweh, danh xưng riêng của Đức Chúa
Trời trong Cựu Ước), “E” (tức là Ê-lô-him, danh xưng chung của Đức Chúa
Trời), D (tức Deuteronomic, thuộc Phục Truyền Luật Lệ Ký), và P (tức
Priestly, thuộc thầy tế lễ). Mỗi tài liệu đều có những đặc tính và thần học
riêng, và thường mâu thuẫn với các tài liệu kia. Như vậy, Ngũ kinh Môi-se
được mô tả như những truyện, những thi ca và luật lệ chắp vá. Tuy nhiên,
quan điểm này không có bằng cớ kết luận và sự tìm kiếm sâu rộng về văn
học cũng như khảo cổ đã hướng tới việc cắt bỏ nhiều lý lẽ dùng thách thức
quyền trước tác của Môi-se.
Chủ đề và sứ điệp:
Sáng thế ký luận về những sự khởi đầu. Khởi đầu của các từng trời và đất,
sự sáng và sự tối, các từng trời và biển cả, đất đai và cây cỏ, mặt trời mặt
trăng và các ngôi sao, những cá biển, chim trời và động vật trên đất, và loài
người (dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời , tuyệt đỉnh của hoạt động
sáng tạo), tội lỗi và sự cứu chuộc, phước lành và rủa sả, xã hội và văn minh,
hôn nhân và gia đình, nghệ thuật, tài khéo và công nghệ. Bản liệt kê có thể
cứ tiếp tục. Chữ chìa khoá Sáng thế ký là “chuyện, gốc tích, dòng dõi” dùng
để chia sách ra làm 10 phần lớn (xem Nét Đặc Biệt và Bố Cục Văn Học), và
bao gồm những quan điểm như sự sinh ra, gia phả và lịch sử.
Sách Sáng thế ký là nền tảng cho sự thông hiểu phần còn lại của Thánh
Kinh. Sứ điệp của sách thật phong phú và phức tạp, liệt kê những yếu tố
chính và phác họa đại cương sứ điệp toàn bộ Thánh Kinh. Quan trọng hơn
cả là sách của những mối quan hệ, quan hệ nổi bật giữa Đức Chúa Trời và
thiên nhiên, Đức Chúa Trời và loài người, và người với người. Suốt cả sách
là thuyết độc thần, thừa nhận rằng chỉ có một Đức Chúa Trời với Danh
Xưng xứng đáng, chống lại tất cả những ý niệm về đa thần hoặc vô thần,
hoặc vạn vật hữu thần (Pantheism, thuyết phiếm thần). Sáng thế ký dạy rõ
rằng một Chân Thần tối cao hơn cả vạn vật hiện hữu tức toàn bộ cuộc sáng
tạo của Ngài, và bởi sự lựa chọn thiên thượng Chúa thường vận dụng tự do
vô hạn của Ngài để lật đổ những tập quán truyền khẩu, và kế hoạch của loài
người. Sách giới thiệu cho chúng ta đường lối Đức Chúa Trời khởi xướng và
thiết lập các giao ước với tuyển dân Ngài, cam kết tỏ tình thương và thành
tín của Ngài với họ, kêu gọi họ hứa nguyện kính mến và trung thành với
Ngài. Sách thiết lập sinh tế như là sự thay thế mạng đền mạng (SaSt 22:1-
24). Sách cho chúng ta gợi ý đầu tiên về việc Đức Chúa Trời chuẩn bị cứu
chuộc chúng ta khỏi quyền lực của Ma quỉ (so 3:15 với RoRm 16:17-20) và
bao hàm định nghĩa đức tin đầy đủ và sâu nhiệm nhất (SaSt 15:6). Hơn phân
nửa HeDt 11:1-40 - danh sách các anh hùng đức tin mà Tân Ước nói đến - là
các nhân vật trong Sáng thế ký.
Những nét văn học đặc sắc:
Sứ điệp sách thường được đề cao bởi cấu trúc và những đặc sắc văn học.
Sáng thế ký được chia làm 10 phần chính. Mỗi phần khởi sự với từ “chuyện,
gốc tích” (xem SaSt 2:4; 5:1; 6:9; 10:1; 11:10; 11:27; 25:12; 25:19;36:1 -
được lặp lại để nhấn mạnh ở 36:9 - và 37:2). Năm phần đầu có thể gom
chung lại và với lời giới thiệu sách như một tổng thể (1:1-2:3), có thể gọi
cách thích hợp là “lịch sử ban đầu” (1:1-11:26), phác họa thời kỳ từ A-đam
đến Áp-ra-ham. Năm phần sau kết hợp lại làm một câu chuyện dài hơn
(nhưng cũng hiệp nhất như các phần đầu), thuật lại câu chuyện Đức Chúa
Trời đối với Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, và Giô-sép cùng gia đình họ - một
phần thường gọi là “lịch sử các tổ phụ” (11:27-50:26). Phần này lần lượt
gồm ba chu kỳ ký-thuật (Áp-ra-ham - Y-sác, 11:27-25:11; Y-sác - Gia-cốp,
25:19-35:29; 37:1; Gia-cốp - Giô-sép, 37:2-50:26), rải rác có những gia phả
của Ích-ma-ên (25:12-28) và Ê-sau (36:1-43).
Câu chuyện thường tập trung vào đời sống của con thứ thay vì con trưởng:
Sết hơn là Ca-in, Sem hơn là Gia-phết, Y-sác hơn là Ích-ma-ên, Gia-cốp hơn
là Ê-sau, Giu-đa và Giô-sép hơn là các anh của họ, Ép-ra-im hơn là Ma-na-
se. Sự nhấn mạnh như vậy trên những người và gia đình được Chúa chọn có
lẽ là thần học và văn học nói rõ ràng nhất của toàn bộ Sáng thế ký, sách nhấn
mạnh thật sự dân Chúa không phải là sản phẩm của những phát triển tự
nhiên của con người, bèn là kết quả của sự can thiệp tối cao đầy ân huệ vào
lịch sử nhân loại. Chúa đem một chủng tộc mới biệt riêng cho chính Ngài ra
khỏi dòng giống sa đoạ, được gọi và dự định trở nên dân của vưong quốc
Ngài và làm nguồn phước cho cả thế giới.
Những con số có ý nghĩa hình bóng cũng đầy dẫy trong Sáng thế ký. Ngoài
số 10 phần được chia ra, số 10 cũng là số tên xuất hiện trong các gia-phả ở
đoạn 5 và 11 (xem ghi chú ở 5:5. Số 7 cũng thường xuất hiện. Nguyên bản
tiếng Hê-bơ-rơ của 1:1 gồm đúng 7 chữ, và 1:2 đúng 14 chữ (2x7). Có bảy
ngày sáng tạo, 7 tên trong gia phả của chương 4 (xem ghi chú ở 4:17-18;
cũng xem 4:15,24; 5:31), các số 7 khác ở trong truyện hồng thủy, 70 hậu tự
của các con Nô-ê (10:1-32), lời Chúa hứa cho Áp-ram gồm 7 phần (12:2-3),
7 năm được mùa và 7 năm đói kém tại Ai-cập ( 41:1-57), và 70 hậu tự của
Gia-cốp (46:1-34). Những con số ý nghĩa khác như 12 và 40, cũng thường
được dùng như thế.
Sách Sáng thế ký cơ bản là văn xuôi, ngắt quãng đây đó bằng những vần thơ
ngắn (bài dài nhất được gọi là “Lời chúc phước của Gia-cốp” trong 49:2-27).
Phần lớn văn xuôi có phẩm chất trữ tình và dùng đủ mọi hình thái tu từ và
các đề-từ khác biểu thị đặc điểm thiên anh hùng ca đẹp nhất thế giới. Nét
song song hàng dọc và hàng ngang giữa hai nhóm ba ngày trong cuộc sáng
tạo (xem ghi chú 1:11), sự suy bại và lan tràn tội lỗi cũng như sự đoán phạt ở
3:1-24 (rắn và người nữ cùng người nam kế tiếp nhau phạm tội. Kế đó, Đức
Chúa Trời chất vấn họ theo thứ tự ngược lại, rồi Chúa đoán phạt họ theo trật
tự nguyên thủy). Sự đồng điệu đầy uy quyền của nhóm từ: “rồi qua đời” ở
cuối những phân đoạn trong 5:1-32; hiệu quả của câu “nhưng Đức Chúa
Trời nhớ đến Nô-ê” (8:1) ở giữa chừng trận hồng thủy, câu chuyện xây dựng
dã tràng của Tháp Ba-bên trong 11:1-9 (tường thuật trong câu 1-2, 8-9; nghị
luận trong câu 3-4, 6-7; câu 5 là hành động chuyển tiếp). Việc chơi chữ đáng
sợ trong 40:19 (xem 40:13), sự xen kẽ giữa những mẫu chuyện ngắn về các
con trai đầu lòng và những chuyện dài về các con trai thứ - những câu này
và nhiều đề-từ văn học khác thêm sự thích thú cho câu chuyện và cung ứng
những dấu hiệu giải thích mà các đọc giả nên chú ý nhiều hơn.
Nhiều đề tài và chủ đề của ba chương đầu Sáng thế ký phản ánh ba chương
cuối của sách Khải thị không phải trùng hợp ngẫu nhiên. Chúng ta chỉ có thể
ngạc nhiên về ảnh hưởng quan phòng của chính Chúa, là Đấng bảo đảm với
chúng ta “cả Thánh Kinh đều được Đức Chúa Trời cảm ứng” (IITi 2Tm
3:16) và “chính Thánh Linh đã cảm ứng họ nói ra lời của Đức Chúa Trời ”
(IIPhi 2Pr 1:21).
Bố cục:
Bố cục văn học:
I. Giới thiệu (SaSt 1:1-2:3)
II. Thân sách (2:4-50:26)
A. Gốc tích trời và đất (2:4-4:26)
B. Dòng dõi của A-đam (5:1-6:8)
C. Dòng dõi của Nô-ê (6:9-9:29)
D. Dòng dõi của Sem, Cham và Gia-phết (10:1-11:9)
E. Dòng dõi của Sem (11:10-26)
F. Dòng dõi của Tha-rê (11:27-25:11)
G. Dòng dõi của Ích-ma-ên, con Áp-ra-ham (25:12-18)
H. Dòng dõi Y-sác, con Áp-ra-ham (25:19-35:29)
I. Dòng dõi của Ê-sau (36:1-37:1)
J. Dòng dõi của Gia-cốp (37:2-50:26)
Bố Cục Theo Chủ Đề:
I. Lịch sử ban đầu (1:1-11:26)
A. Cuộc sáng tạo (1:1-2:3)
1. Lời giới thiệu (1:1-2)
2. Phần chính (1:3-31)
3. Kết luận (2:1-3)
B. A-đam và Ê va trong vườn Ê-đen (2:4-25)
C. Sự sa ngã và những hậu quả của nó (3:1-24)
D. Sự “phát triển” nhanh chóng của tội lỗi (4:1-16)
E. Hai dòng dõi (4:17-5:32)
1. Dòng dõi của kiêu ngạo (4:17-24)
2. Dòng dõi của sự chết (4:25-5:32)
F. Sự lan rộng của tội trước nước lụt (6:1-8)
G. Đại hồng thủy (6:9-9:29)
1. Chuẩn bị cho nước lụt (6:9-7:10)
2. Sự phán xét và sự cứu chuộc (7:11-8:19)
a. Nước dâng lên (7:11-24)
b. Nước rút xuống (8:1-19)
3. Hậu quả của nước lụt (8:20-9:29)
a. Lời hứa mới (8:20-22)
b. Những sắc lịnh mới (9:1-7)
c. Mối liên hệ mới (9:8-17)
d. Sự cám dỗ mới (9:18-23)
e. Lời sau cùng (9:24-29)
H. Sự lan rộng của các quốc gia (10:1-11:26)
1. Sự tản mác của các quốc gia (10:1-32)
2. Sự lộn xộn tiếng nói (11:1-9)
3. Dòng dõi thứ nhất của Sem (11:10-26)
II. Lịch sử các tổ phụ (11:27-50:26)
A. Đời sống Áp-ra-ham (11:27-25:11)
1. Bối cảnh của Áp-ra-ham ([dc 11:27-32;)
[mtc 2. Đất của Áp-ra-ham (12:1-14:24)
3. Dân tộc của Áp-ra-ham (15:1-24:67)
4. Những ngày cuối đời của Áp-ra-ham (25:1-11)
B. Dòng dõi của Ích-ma-ên (25:12-18)
C. Cuộc đời của Gia-cốp (25:19-35:29)
1. Gia-cốp tại quê hương (25:19-27:46)
2. Gia-cốp tha hương (28:1-30:43)
3. Gia-cốp hồi hương (31:1-35:29)
D. Dòng dõi của Ê-sau (36:1-37:1)
E. Cuộc đời của Giô-sép (37:2-50:26)
1. Sự nghiệp của Giô-sép (37:2-41:57)
2. Sự di cư của Gia-cốp (42:1-47:31)
3. Những ngày cuối của Gia-cốp (48:1-50:14)
4. Những ngày cuối của Giô-sép (50:15-26)
Dẫn nhập Xuất Ê-díp-tô ký
Nhan đề:
“Xuất Ê-díp-tô ký” là một từ ngữ La-tinh (Exodus) lấy từ tiếng Hy Lạp
(Exodos) được những người dịch sách này ra tiếng Hy Lạp đặt cho cuốn
sách. Từ này có nghĩa là “lối ra”, “xuất hành” (Xem LuLc 9:31; HeDt
11:22). Tên này được giữ lại bởi bản Vulgate, bởi Philo văn sĩ Do-thái (sống
đồng thời với Chúa Cứu Thế), và bởi bản Syriac. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, sách
được đặt tên theo hai chữ đầu, we’elleh shemonth, (“Đây là những tên
của...”). Nhóm từ đó xuất hiện ở SaSt 46:8, tại đó giới thiệu cùng một danh
sách những tên người Y-sơ-ra-ên “đi với Gia-cốp đến xứ Ai Cập” (XuXh
1:1). Như vậy, Xuất Ê-díp-tô ký không riêng rẽ như hiện có, nhưng được
hiểu rằng đó là câu chuyện liên tục khởi sự từ Sáng thế ký và được hoàn tất
trong Lê-vi ký, Dân-số ký và Phục-truyền-luật-lệ ký. Năm sách đầu tiên của
Thánh Kinh hiệp nhau lại thành Ngũ Kinh (xem phần giới thiệu Sáng-thế-ký
: Trước giả và Niên Đại Chép Sách).
Trước giả và niên đại chép sách:
Mấy lời phát biểu trong Xuất Ê-díp-tô ký tỏ ra rằng Môi-se đã viết mấy phần
sách (17:14; 24:4; 34:27). Thêm nữa, Gios Gs 8:31 viện dẫn mạng lịnh của
XuXh 20:25 như “có chép trong sách Luật pháp Môi-se”. Tân ước cũng
xưng nhận Môi-se là trước giả của mấy phân đoạn trong Xuất Ê-díp-tô ký
(xem thí dụ, Mac Mc 7:10; 12:26 cũng xem LuLc 2:22-23). Xét chung,
những câu viện dẫn này rõ ràng gợi ý rằng Môi-se chịu phần lớn trách nhiệm
viết sách Xuất Ê-díp-tô ký - có quan điểm theo truyền thuyết cho rằng Ngũ
Kinh Môi-se toàn bộ chứa đựng 4 nguồn căn bản, nhưng không có gì chắc
chắn (xem phần giới thiệu Sáng-thế-ký: Trước giả và Niên Đại Chép Sách).
Bảng niên đại:
Theo IVua 1V 6:1, cuộc Xuất Ê-díp-tô xảy ra 480 năm trước “năm thứ tư
đời trị vì của Sa-lô-môn”. Vì năm đó là khoảng 966 TC, nên truyền thuyết
cho rằng cuộc Xuất Ê-díp-tô xảy ra vào năm 1.446. “Ba trăm năm” của Cac
Tl 11:26 thích hiệp thuận lợi cho khoảng thời gian này (xem phần dẫn nhập
sách Các Quan-xét: Bối Cảnh). Thêm nữa, dầu lịch sử Ai Cập liên hệ đến
Triều đại thứ 18 còn không chắc chắn, cuộc khảo sát mới đây có khuynh
hướng ủng hộ quan điểm truyền thuyết cho rằng hai triều đại Pha-ra-ôn này,
Thutmose III và con trai là Amunhotep II, là những Pha-ra-ôn hà hiếp Y-sơ-
ra-ên và tương ứng cuộc xuất hành khỏi Ai Cập (xem chú thích ở XuXh
2:15,23; 3:10).
Mặt khác, sự xuất hiện tên Ram-se trong 1:11 đã đưa nhiều người đến kết
luận rằng triều đại thứ 19 Pha-ra-ôn Seti I và con trai là Ram-se II chính là
Pha-ra-ôn hà hiếp Y-sơ-ra-ên và nhơn đó tương ứng cuộc xuất hành khỏi Ai
Cập. Hơn nữa, bằng chứng khảo cổ học về sự hủy diệt nhiều thành trong Ca-
na-an vào thế kỷ thứ 13 TC đã được giải thích như bằng chứng đạo quân
Giô-suê chiếm hữu đất hứa trong thế kỷ đó. Những điều này với các lý lẽ
tương tự dẫn đến niên đại định cho cuộc xuất hành khỏi Ai Cập là 1.290 TC
(xem phần giới thiệu sách Giô-suê: Sự Bố Trí Lịch Sử).
Tuy nhiên sự nhận diện những người tấn công các thành không được tích
cực xác định. Những cuộc đột kích có thể khởi xướng sau này bởi quân Y-
sơ-ra-ên, hoặc bởi người Phi-li-tin hoặc bởi người nước khác. Thêm nữa,
chính bằng chứng khảo cổ học trở nên ngày càng mơ hồ, các lượng định mới
đây có khuynh hướng ghi lại niên biểu vào triều đại thứ 18. Tên Ram-se xuất
hiện trong XuXh 1:11 cũng có thể là kết quả của sự cập nhật hoá chủ biên
của người sống các thế kỷ sau Môi-se, phương thức có lẽ giải thích cho sự
xuất hiện cùng một từ Ram-se trong SaSt 47:11 (xem chú thích ở đây).
Tóm lại, chẳng có lý do nào để bắt buộc thay đổi niên đại truyền thuyết định
cho cuộc xuất hành của người Y-sơ-ra-ên ra khỏi nhà nô lệ Ai Cập là 1.446
TC.
Tuyến đường Xuất Ê-díp-tô:
Ít nhất cũng có ba đường đào thoát từ Phi-thom và Ram-se (XuXh 1:11)
được đề ra : (1) Tuyến đường phía Bắc đi ngang qua đất Phi-li-tin (nhưng
xem 13:17) (2) Tuyến đường giữa dẫn về hướng đồng bằng qua Si-nai đến
Bê-e-sê-ba và (3) Tuyến đường hướng nam dọc theo duyên hải phía tây của
Si-nai đến cực điểm đông nam của bán đảo. Tuyến đường hướng nam hợp lý
hơn cả, vì nhiều vị trí trong hành trình Y-sơ-ra-ên vượt qua sa-mạc đã được
nhận biết dọc theo đó. Tuy nhiên, chỗ chính xác mà dân Y-sơ-ra-ên vượt qua
“Biển Đỏ” không rõ (hãy xem chú thích ở XuXh 13:18; 14:2).
Những chủ đề và thần học:
Xuất Ê-díp-tô ký đặt một nền tảng Thần học trong đó Đức Chúa Trời bày tỏ
danh Ngài, các thuộc tánh Ngài, luật pháp Ngài và cách thờ phượng Ngài.
Sách cũng thuật lại về sự chỉ định và công tác người trung bảo (Môi-se) của
giao ước đầu tiên, mô tả những sự khởi đầu của chức Tế lễ, định nghĩa vai
trò của tiên tri và mối liên hệ của giao ước cũ giữa Đức Chúa Trời và tuyển
dân Ngài đạt được dưới nền quản trị mới như thế nào (giao ước Si-nai).
Nhưng sự hiểu biết sâu sắc về bản tánh của Đức Chúa Trời được thấy trong
các chương 3,6,33 và 34. Tiêu điểm các bản văn này là nhắm vào sự kiện và
tầm quan trọng sự hiện diện của Chúa (như ý nghĩa của danh Yahweh và
vinh hiển của Ngài), nhưng cũng nhấn mạnh trên các thuộc tánh công bình,
chân thật, thương xót, thành tín và thánh khiết của Ngài. Như thế, biết “danh
Đức Chúa Trời tức là biết Ngài và biết đặc tính Ngài” (xem XuXh 3:13-15;
6:3).
Đức Chúa Trời cũng là Chúa của lịch sử, vì chẳng có ai giống như Ngài
“trong sự thánh khiết, ai được vinh hiển như Ngài, đáng sợ, đáng khen, hay
làm các phép lạ” (15:11). Chẳng hề có sự khốn khổ nào của dân Y-sơ-ra-ên,
cũng không có tai vạ nào giáng trên Ai Cập ở ngoài tầm kiểm soát của Chúa.
Pha-ra-ôn, người Ai Cập và dân Y-sơ-ra-ên đều thấy quyền năng của Đức
Chúa Trời .
Thật vững lòng khi biết Đức Chúa Trời nhớ và quan tâm đến dân sự của
Ngài (xem 2:24). Điều Ngài đã hứa hàng mấy thế kỷ trước với Áp-ra-ham,
Y-sác và Gia-cốp bây giờ Ngài khởi sự đem lại kết quả như Y-sơ-ra-ên được
giải phóng khỏi sự nô lệ Ai Cập và lên đường vào đất hứa. Giao ước tại Si-
nai là một bước khác trong sự ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời hứa cùng các
tổ phụ (3:15-17; 6:2-8; 19:3-8).
Cũng một lẽ ấy, thần học về sự cứu rỗi là điểm nhấn mạnh trong cả sách.
Động từ “cứu chuộc” được dùng trong 6:6; 15:13. Nhưng trung tâm của thần
học cứu chuộc được thấy rõ nhất trong chuyện lễ Vượt Qua ở 12:1-51 và sự
niêm ấn giao ước trong 24:1-18. Sứ đồ Phao-lô nhìn thấy sự chết của chiên
con lễ Vượt Qua được ứng nghiệm trong Chúa Cứu thế (ICo1Cr 5:7). Thật
thế, Giăng Báp Tít đã gọi Chúa Giê-xu là “Chiên con của Đức Chúa Trời,
Người tẩy sạch tội lỗi nhân loại” (GiGa 1:29).
Nền tảng luân lý và đạo đức Thánh Kinh được trình bày trước hết trong bản
tính nhân từ của Đức Chúa Trời như đã bày tỏ trong chính cuộc xuất hành và
kế đó trong Mười Điều Răn (XuXh 20:1-17) cũng như các sắc lệnh của sách
Giao ước (XuXh 20:22-23:33), dạy dân Y-sơ-ra-ên cách áp dụng thực tiễn
những nguyên tắc của các mạng lệnh.
Sách kết thúc với sự thảo luận kỹ lưỡng về thần học thờ phượng. Dầu tốn thì
giờ, công sức và giá trị tiền bạc, Đền tạm, trong ý nghĩa và chức năng, chỉ rõ
cứu cánh chủ yếu của con người là: “Làm sáng danh Đức Chúa Trời và vui
hưởng trong Ngài mãi mãi” (Giáo lý Westminster tóm tắt). Nhờ Đền tạm,
Đức Chúa Trời toàn năng, bất biến và siêu nghiệm của cả vũ trụ đã đến “ở”
và “đóng trại tạm thời” giữa dân Ngài, do đó cũng bày tỏ rõ ràng sự thân
cận đầy ân điển của Chúa. Đức Chúa Trời không chỉ toàn năng vì cớ dân Y-
sơ-ra-ên, mà Ngài cũng hiện diện ở giữa họ nữa.
Tuy nhiên, những yếu tố thần học không phải chỉ ở cạnh nhau trong câu
chuyện xuất hành. Những yếu tố đó còn nhận ý nghĩa phong phú và đầy đủ
nhất từ sự kiện được gắn liền vào câu chuyện Đức Chúa Trời dấy lên tôi tớ
Ngài là Môi-se (1) để giải phóng tuyển dân Ngài khỏi vòng nô lệ Ai Cập, (2)
mở đầu vương quốc trên đất của Ngài giữa vòng họ bằng cách đem họ vào
giao ước quốc gia đặc biệt với Ngài và (3) dựng Vương trại của Đức Chúa
Trời trong Y-sơ-ra-ên. Câu chuyện cứu chuộc khỏi vòng nô lệ này dẫn đến
Vương trại của Đức Chúa Trời trên đất. Tất cả suốt qua chức vụ của vị
Trung bảo được chọn, tiết lộ mục đích của Đức Chúa Trời trong lịch sử -
mục đích mà Ngài sẽ làm ứng nghiệm qua dân Y-sơ-ra-ên, và cuối cùng qua
Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Trung bảo tối cao vậy.
Bố cục:
I. Sự Cứu chuộc Thiên thượng (XuXh 1:1-18:27)
A. Sự “sinh sôi thêm nhiều” được ứng nghiệm (1:1-22)
1. Sự tăng thêm như đã hứa (1:1-7)
2. Cuộc tàn sát thứ nhất (1:8-14)
3. Cuộc tàn sát thứ hai (1:15-21)
4. Cuộc tàn sát thứ ba (1:22)
B. Chuẩn bị cho sự giải phóng (2:1-4:26)
1. Chuẩn bị một nhà lãnh đạo (2:1-10)
2. Tăng thêm thời gian chuẩn bị (2:11-22)
3. Chuẩn bị dân chúng (2:23-25)
4. Kêu gọi “Người giải phóng” (3:1-10)
5. Trả lời những phản đối không thích đáng (3:11-4:17)
6. Chuẩn bị một gia đình Nhà lãnh đạo (4:18-26)
C. Những việc đầu tiên trong việc lãnh đạo (4:27-7:5)
1. Được tăng cường bởi anh em (4:27-31)
2. Cự tuyệt bởi các kẻ thù nghịch (5:1-14)
3. Cự tuyệt bởi những người đồng cảnh ngộ nô lệ (5:15-21)
4. Những phản đối cũ lại đến (5:22-23)
5. Được tăng cường bởi danh Đức Chúa Trời (6:1-8)
6. Được nhắc nhở về những căn nguyên hèn hạ (6:9-7:5)
D. Đoán phạt và cứu rỗi qua các tai vạ (7:6-11:10)
1. Giới thiệu các dấu chỉ thẩm quyền thiên thượng (7:6-13)
2. Tai vạ thứ nhất : nước biến thành máu (7:14-24)
3. Tai vạ thứ hai: Ếch nhái (7:25-8:15)
4. Tai vạ thứ ba: Muỗi (8:16-19)
5. Tai vạ thứ tư : Ruồi mòng (8:20-32)
6. Tai vạ thứ năm: Dịch súc vật (9:1-7)
7. Tai vạ thứ sáu: Ghẻ chốc (9:8-12)
8. Tai vạ thứ bảy: Mưa đá (9:13-35)
9. Tai vạ thứ tám: Châu chấu (10:1-20)
10. Tai vạ thứ chín: Tối tăm (10:21-29)
11.Báo trước tai vạ thứ mười: Sự chết của con đầu lòng (11:1-10)
E. Lễ Vượt Qua (12:1-28)
1. Chuẩn bị cho lễ Vượt Qua (12:1-13)
2. Chuẩn bị lễ Bánh không men (12:14-20)
3. Cử hành lễ Vượt-qua (12:21-28)
F. Sự xuất hành từ Ai Cập (12:29-51)
1. Sự chết lúc nửa đêm (12:29-32)
2. Trục xuất khỏi Ai Cập (12:33-42)
3. Những điều luật về lễ Vượt Qua (12:43-51)
G. Sự dâng hiến con đầu lòng (13:1-16)
H. Vượt qua Biển Đỏ (13:17-15:21)
1. Vào đồng vắng (13:17-22)
2. Tại Biển Đỏ (14:1-14)
3. Vượt qua Biển Đỏ (14:15-31)
4. Bài ca tại biển (15:1-21)
I. Hành trình tới Si-nai (15:22-18:27)
1. Nước tại Ma-ra (15:22-27)
2. Ma-na và chim cút (16:1-36)
3. Nước tại Mê-ri-ba (17:1-7)
4. Chiến trận với A-ma-léc (17:8-16)
5. Sự khôn ngoan của Giê-trô (18:1-27)
II. Giao ước tại Si-nai (19:1-24:18)
A. Giao ước được đề xuất (19:1-25)
B. Mười điều răn (20:1-17)
C. Phản ứng của dân chúng đối với sự hiện diện bằng lửa của Đức Chúa
Trời (20:18-21)
D. Sách của Giao ước (20:22-23:33)
1. Lời mở đầu (20:22-26)
2. Luật về tôi mọi (21:1-11)
3. Luật về tội sát nhân (21:12-17)
4. Luật về gây thương tích thân xác (21:18-32)
5. Luật về thiệt hại của cải riêng (21:33-22:15)
6. Luật về xã hội (22:16-31)
7. Luật về sự công bình và láng giềng (23:1-9)
8. Luật về các mùa lễ thánh (23:10-19)
9. Lời kết thúc (23:20-33)
E. Sự phê chuẩn giao ước (24:1-18)
III. Sự thờ phượng Thiên thượng (25:1-40:38)
A. Những huấn thị về Đền tạm (25:1-31:18)
1. Sự quyên góp vật liệu (25:1-9)
2. Rương giao ước và nắp thi ân (25:10-22)
3. Bàn bánh Trần thiết (25:23-30)
4. Chân đèn (25:31-40)
5. Màn chắn và khung (26:1-37)
6. Bàn thờ Của lễ thiêu (27:1-8)
7. Hành lang (27:9-19)
8. Chức vụ tế lễ (27:20-28:5)
9. Áo thầy tế lễ (28:6-43)
10. Lễ tấn phong thầy tế lễ (29:1-46)
11. Bàn thờ xông hương (30:1-10)
12. Thuế đinh (30:11-16)
13. Thùng bằng đồng (30:17-21)
14. Dầu xức và hương liệu (30:22-38)
15. Chỉ định những thợ khéo (31:1-11)
16. Nghỉ ngày Sa-bát (31:12-18)
B. Sự thờ phượng sai lạc (32:1-34:35)
1. Bò con vàng (32:1-29)
2. Sự hòa giải của Môi-se (32:30-35)
3. Sự hăm dọa ly khai và lời cầu thay của Môi-se (33:1-23)
4. Sự tái lập giao ước (34:1-35)
C. Xây dựng Đền tạm (35:1-40:38)
1. Kêu gọi xây dựng (35:1-19)
2. Những của dâng tình nguyện (35:20-29)
3. Bết-sa-lê-ên và các công nhân của người (35:30-36:7)
4. Công tác tiến triển (36:8-39:31)
5. Lời chúc phước của Môi-se (39:32-43)
6. Dựng Đền tạm (40:1-33)
7. Lễ Khánh thành Đền Tạm (40:34-38)

Dẫn nhập Lê-vi ký


Trước giả và niên hiệu:
Xem chú thích ở LeLv 1:1 và Phần dẫn nhập Sáng-thế-ký: Trước Giả và
Niên Hiệu Chép Sách.
Nhan đề:
Sách Lê-vi ký được đặt tên từ bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp)
và có nghĩa “sự liên hệ tới người Lê-vi”. Nhan đề Hê-bơ-rơ Wayyiqra’, là
chữ đầu trong bản văn Hê-bơ-rơ, và có nghĩa “và Chúa (tức là Đức Giê-hô-
va) đã gọi”. Dầu Lê-vi ký không chỉ giải quyết những phận sự của người Lê-
vi, nhưng sách được gọi bằng tên đó vì quan tâm chủ yếu đến sự phục vụ thờ
phượng tại Đền Tạm, được điều hành bởi các thầy tế lễ là các con trai A-rôn
và được nhiều người còn lại thuộc chi phái Lê-vi phụ tiếp. Xuất Ê-díp-tô ký
ghi chỉ thị xây dựng Đền Tạm, và bây giờ Lê-vi ký ghi luật pháp và những
qui định thờ phượng kể cả những chỉ thị về sự tinh sạch theo lễ nghi, luật
đạo đức, những ngày thánh, năm Sa-bát và năm Hân hỉ. Những luật pháp đã
được ban bố, ít nhất là phần lớn, trong năm dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại núi
Si-nai, khi Đức Chúa Trời chỉ đạo Môi-se việc tổ chức sự thờ phượng của
Y-sơ-ra-ên, sự cai quản và lực lượng quân sự của Y-sơ-ra-ên. Sách Dân-số-
ký tiếp tục lịch sử với những chuẩn bị việc tiếp tục di chuyển từ núi Si-nai
đến xứ Ca-na-an.
Chủ đề:
Tư tưởng chủ yếu của Lê-vi ký là sự thánh khiết (xem chú thích ở 11:44) -
sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và con người (con người phải tôn kính
Đức Chúa Trời trong “sự thánh khiết”). Trong Lê-vi ký sự thánh khiết thuộc
linh được tiêu biểu bằng sự trọn vẹn thuộc thể. Do đó sách đòi hỏi những thú
vật toàn vẹn làm của lễ (1:1-7:38), đòi hỏi các thầy tế lễ không có dị dạng
(8:1-10:20). Một phụ nữ xuất huyết sau khi sanh con (làm băng) (12:1-8),
mụn nhọt, vết phỏng hoặc hói (13:1-14:57), người nam bị bệnh bạch trược
(15:1-18), những việc liên quan đến thời kỳ người nữ có kinh nguyệt (15:19-
33) - mọi dấu hiệu tật nguyền (không toàn vẹn) có thể tiêu biểu cho nhược
điểm thuộc linh của người nam, phá vỡ sự toàn vẹn thuộc linh. Người có
bịnh ngoài da thấy được phải bị đuổi ra ngoài trại quân, nơi có sự hiện diện
đặc biệt của Đức Chúa Trời, như A-đam và Ê-va bị trục xuất khỏi vườn Ê-
đen. Người như thế có thể trở lại trại quân (và đến sự hiện diện của Đức
Chúa Trời) khi được các thầy tế lễ khám nghiệm và tuyên bố đã lành lặn.
Tuy nhiên, trước khi người có thể trở vào lại trại quân, người ấy phải dâng lễ
vật toàn vẹn như lịnh truyền (tượng trưng sinh tế toàn hảo của Chúa Cứu
Thế).
Sau giao ước tại Si-nai, Y-sơ-ra-ên là Đại diện vương quốc Đức Chúa Trời
trên đất (chế độ Thần quyền), và vua của họ tức Đức Giê-hô-va thiết lập nền
hành chánh của Chúa trên toàn bộ cuộc sống Y-sơ-ra-ên. Nếp sống riêng tư
cộng đồng và tôn giáo của Y-sơ-ra-ên được qui định như vậy để lập họ làm
dân thánh của Đức Chúa Trời và để dạy họ sự thánh khiết. Chúa đặc biệt chú
ý việc ban cho Y-sơ-ra-ên nghi lễ tôn giáo. Các sinh tế phải dâng ở nơi thánh
được chấp thuận, tượng trưng cả sự thánh khiết và thương xót của Thượng
Đế. Các sinh tế phải được thầy tế lễ, là những người bởi sự chăm sóc và chỉ
thị sẽ bảo toàn sinh tế trong sự thánh khiết, kiểm soát và cẩn thận dạy cho
dân chúng biết ý nghĩa của sinh tế. Mỗi sinh tế đặc biệt phải có ý nghĩa cho
dân Y-sơ-ra-ên nhưng cũng có nội dung tượng trưng và thuộc linh.
Muốn thêm chi tiết về ý nghĩa lễ vật nói chung, xin xem nghi lễ trang
nghiêm của Ngày Đại Lễ Chuộc Tội (16:1-34). Về ý nghĩa huyết của lễ vật
xem 17:11; SaSt 9:4. Về nhấn mạnh sự thay thế, xem LeLv 16:21.
Có người giả định rằng những sinh tế Cựu Ước là những thứ còn lại của lễ
vật nông nghiệp xưa - một người muốn dâng một phần các của cải như là
tặng phẩm thương yêu cho thần linh. Nhưng những lễ vật Cựu Ước được
Đức Chúa Trời đặc biệt qui định và nhận ý nghĩa của nó từ sự liên hệ giao
ước của Ngài với Y-sơ-ra-ên - dù là bề ngoài có giống như những của lễ
ngoại giáo. Quả thật những lễ vật có hàm ý tặng phẩm, nhưng cũng kèm
theo các giá trị khác như phụng hiến, thông công, tế lễ vãn hồi (làm nguôi
cơn giận công bằng của Đức Chúa Trời nghịch với tội) và bồi thường. Các lễ
vật khác nhau có các chức năng khác nhau mà chức năng chính là chuộc tội
(xem chú thích ở XuXh 25:17) và thờ phượng.
Bố cục:
Những chủ đề luận đến trong Lê-vi ký, như bất cứ sách luật pháp và điều lệ
nào đều bao hàm nhiều phạm trù:
I. Năm tế lễ chính (LeLv 1:1-7:38)
A. Nội dung, mục đích và kiểu cách của tế lễ (1:1-6:7)
B. Những điều lệ phụ thêm (6:8-7:38)
II. Sự tấn phong, thiết lập và công tác của A-rôn và các con trai người (8:1-
10:20)
III. Luật về sự tinh sạch - thực phẩm, sinh đẻ và nhiễm độc v.v... (11:1-
15:33)
IV. Ngày Đại lễ chuộc tội và vị trí trung tâm của sự thờ phượng tại Đền Tạm
(16:1-17:16)
V. Sự giải thích luật đạo đức: tội loạn luân, tính lương thiện, trộm cắp, thờ
hình tượng,v.v... (18:1-20:27)
VI. Những qui định cho các thầy tế lễ, những sinh tế và các lễ hằng năm
(21:1-24:9).
VII. Hình phạt tội phạm thượng, sát nhân v.v... (24:10-23)
VIII. Năm Sa-bát, Năm Hân hỉ, Đất phát canh và cải cách chế độ nô lệ
(25:1-55)
IX. Những phúc lành và rủa sả đối với sự tuân thủ và bất tuân giao ước
(26:1-46)
X. Các điều lệ về lễ vật hứa nguyện dâng Chúa (27:1-34)

Dẫn nhập Dân số ký


Nhan đề:
Tên tiếng Anh của sách đến từ bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy
Lạp) và được căn cứ trên các bản liệt kê kiểm tra dân số trong các Dan Ds
1:1-54 và 26:1-65. Nhan đề sách bằng tiếng Hê-bơ-rơ (bemidbar, “trong
đồng vắng”) mô tả nội dung của sách nhiều hơn. Dân số ký trình bày câu
chuyện dân Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong đồng hoang 38 năm sau khi thiết lập
giao ước Si-nai (so sánh 1:1 với PhuDnl 1:1).
Trước giả và niên đại:
Theo truyền thuyết sách được Môi-se chép. Kết luận này căn cứ trên (1)
Những lời phát biểu về hoạt động viết sách của Môi-se (thí dụ, Dan Ds 33:1-
2; XuXh 17:14; 24:4; 34:27) và (2) Sự thừa nhận năm sách đầu tiên của
Thánh Kinh (Ngũ kinh) là một và do một trước giả. Xem Phần giới thiệu
Sáng thế ký: Trước giả và Niên đại Chép sách.
Tuy nhiên không cần phải nhận rằng: toàn bộ Dân số ký do chính tay Môi-se
viết, và trong hình thức cuối cùng. Có các phần của sách có lẽ đã được thêm
vào bởi các viên ký lục và các chủ biên vào những thời kỳ sau này của lịch
sử Y-sơ-ra-ên. Thí dụ, sự long trọng xác nhận tánh khiêm hòa của Môi-se
(Dan Ds 12:3) thật khó thuyết phục nếu đến từ chính miệng Môi-se. Nhưng
dường như hợp lý để chắc chắn rằng Môi-se đã viết nội dung chính yếu của
sách.
Nội dung:
Dân số ký thuật lại câu chuyện hành trình của Y-sơ-ra-ên từ núi Si-nai đến
những đồng bằng Mô-áp trên biên giới xứ Ca-na-an. Phần lớn sự ban hành
luật pháp cho dân chúng và thầy tế lễ đều tương tự như trong Xuất Ê-díp-tô
ký, Lê-vi-ký và Phục truyền luật lệ ký. Sách nói về sự lằm bằm và phản loạn
của dân Chúa và về sự đoán phạt theo sau đó. Những người mà Chúa đã cứu
chuộc khỏi ách nô lệ xứ Ê-díp-tô và Chúa đã lập giao ước với họ tại núi Si-
nai, đã không đáp ứng bằng đức tin, lòng biết ơn và thuận phục, nhưng bằng
sự vô tín, vong ân và tái diễn những hành động loạn nghịch, đến mức đã
biểu thị cực độ trong sự từ chối chinh phục xứ Ca-na-an (14:1-45). Cộng
đồng người được chuộc để mất phần của họ trong Đất hứa. Họ bị phạt phải
sống ngoài đồng hoang, chỉ con cháu họ được hưởng sự ứng nghiệm lời hứa
mà nguyên là thuộc về họ (xem HeDt 3:7-4:11).
Sự dạy dỗ về thần học:
Trong khi thuật chuyện Y-sơ-ra-ên lang thang trong đồng hoang, Dân số ký
cống hiến nhiều điều có ý nghĩa thần học. Trong năm đầu tiên, sau khi được
phóng thích khỏi Ê-díp-tô, Y-sơ-ra-ên bước vào giao ước với Chúa tại Si-nai
để làm dân thuộc vương quốc của Ngài. Chúa đóng vương trại Ngài ở giữa
họ (Đền Tạm) - Đây là câu chuyện của Xuất Ê-díp-tô ký. Khi câu chuyện
Dân số ký bắt đầu, Đức Giê-hô-va tổ chức Y-sơ-ra-ên thành một doanh trại
quân đội. Rời Si-nai, Y-sơ-ra-ên tiến tới như một đạo quân chinh phục, với
Đức Giê-hô-va đứng đầu, để lập vương quốc của Ngài trong Đất Hứa, giữa
các dân tộc. Sách mô tả cách sinh động đặc tính của Y-sơ-ra-ên là dân giao
ước được cứu chuộc của Chúa, và được gọi đến làm một dân phục vụ Đức
Chúa Trời, đảm trách việc lập vương quốc Ngài trên đất. Mục đích của Đức
Chúa Trời trong lịch sử được bày tỏ rõ rệt: để tràn chiếm phạm vi hoạt động
của nhân loại sa ngã và thực hiện sự cứu chuộc tạo vật của Chúa - sứ mạng
mà dân Ngài cũng phải hoàn toàn cam kết.
Dân số ký cũng trình bày cơn giận của Đức Chúa Trời nghịch lại dân không
vâng phục của Chúa. Vì cớ sự loạn nghịch (đặc biệt là từ chối chinh phục xứ
Ca-na-an), Y-sơ-ra-ên đã vi phạm giao ước. Sách thứ tư của Ngũ kinh trình
bày một sự thật đúng mức: Đức Chúa Trời, Đấng đã lập giao ước với Áp-ra-
ham (SaSt 15:1-21; 17:1-27), đã giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ trong
cuộc xuất hành khỏi Ê-díp-tô (XuXh 14:1-15:27), đã đem Y-sơ-ra-ên vào
giao ước với chính Ngài làm “sở hữu qúi giá” thuộc riêng về Ngài (XuXh
19:1-22, đặc biệt 19:5), và đã bày tỏ sự thánh khiết của Ngài và phương
pháp ân điển đến gần Ngài (LeLv 1:1-7:38), cũng là Đức Chúa Trời của sự
thạnh nộ. Cơn giận của Chúa giáng trên những con lầm lạc cũng như trên
các nước thù nghịch là Ê-díp-tô và Ca-na-an.
Thậm chí cả Môi-se, tiên tri và tôi tớ quan trọng của Chúa cũng không được
miễn trừ khỏi cơn giận của Chúa khi ông bất tuân lời Ngài. Dan Ds 20:1-29
ghi chép lỗi lầm của ông, khởi sự với sự qua đời của Mi-ri-am (20:1) và kết
thúc với sự qua đời của A-rôn (20:22-29). Đây là sự qua đi của những chiến
sĩ kỳ cựu. Những người mà Chúa đã dùng lập quốc gia đang chết trước khi
được gia nhập quốc gia đó.
Những thắc mắc nêu lên là: Đức Chúa Trời có hoàn toàn từ bỏ dân Ngài
không (xem RoRm 11:1)? Những lời hứa của Chúa chỉ là việc của quá khứ
rồi chăng? Tại một trong các phần Thánh Kinh đáng chú ý - câu chuyện Ba-
la-am, nhà bói khoa ngoại giáo (Dan Ds 22:1-24:25) - có lời đáp rõ ràng.
Đức Giê-hô-va đang hành động bằng đường lối thần hựu và trực tiếp, tuyên
bố Chúa vẫn thành tín với mục đích của Ngài đối với dân của Ngài mặc dầu
họ thất tín với Ngài.
Ba-la-am là câu trả lời của Mô-áp cho Môi-se, người của Đức Chúa Trời.
Ba-la-am là vị tiên tri nổi tiếng trong thế giới xưa đã chia sẻ niềm tin ngoại
giáo rằng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên giống như các thần khác có thể
điều động bằng ma thuật hay phù phép. Nhưng từ đầu câu chuyện, khi Ba-
la-am lần đầu tiên chạm trán với Đức Chúa Trời Chân thần trong các dị
tượng, và trong chuyện hành trình trên lưng lừa (22:1-41), ông khởi sự học
biết rằng đối phó với Đức Chúa Trời Chân thần hoàn toàn khác hẳn với
những gì ông đã từng biết. Khi ông cố gắng rủa sả Y-sơ-ra-ên theo lời đốc
thúc của Ba-lác, vua Mô-áp, Ba-la-am thấy miệng mình không thể thốt ra lời
nguyền rủa mà người muốn công bố. Thay vào đó, từ môi miệng ông những
phước lành đến trên Y-sơ-ra-ên và lời nguyền rủa đến trên kẻ thù của dân ấy
(23:1-24:25).
Trong bảy lời sấm, Ba-la-am công bố Đức Chúa Trời ban phước lớn cho dân
Ngài (xem 23:20). Dầu sự hưởng phước lành trực tiếp sẽ luôn luôn tùy thuộc
vào sự trung tín của dân Ngài, nhưng sự thực hiện cơ bản phước lành của
Đức Chúa Trời là chắc chắn - vì bản tánh của Đức Chúa Trời (xem 23:19).
Như thế, Dân số ký tái xác quyết những mục đích đang tiến hành của Đức
Chúa Trời. Mặc dầu Chúa đoán phạt dân phản loạn, Ngài vẫn quyết tâm đem
Y-sơ-ra-ên vào Đất Hứa. Phước lành Chúa ban cho phần còn lại của Y-sơ-
ra-ên dựa trên ý chỉ tối cao Ngài.
Sự dạy dỗ của sách là ý nghĩa sau cùng đối với dân Y-sơ-ra-ên và Hội thánh
(so RoRm 15:4; ICo1Cr 10:6,11). Đức Chúa Trời bày tỏ cơn giận nghịch
cùng dân sai lạc, nhưng ân điển của Ngài đã phục hồi chắc chắn như buổi
đầu và mục đích cứu chuộc của Ngài sẽ không bị phá hỏng.
Vấn đề đặc biệt:
Những con số lớn người nhập ngũ trong đạo binh Y-sơ-ra-ên làm rối trí các
họ giả hiện đại (xem thí dụ, những con số trong Dan Ds 1:46; 26:51). Những
nam đinh họp lại để chiến trận đòi hỏi một tổng số dân trên 2 triệu người.
Những con số như vậy thật quá lớn cho thời đó, cho nơi xảy ra sự việc, cho
việc lang thang nơi đồng hoang và so sánh với dân cư trong Ca-na-an. Xem
chú thích ở 3:43.
Có những khả năng khác nhau được gợi ý để giải quyết vấn đề. Có người
nghĩ rằng các con số khi truyền lại đã sai lạc. Tuy nhiên, bản văn hiện nay
không để lộ ra những khó khăn về những con số.
Một số người khác nghĩ rằng từ Hê-bơ-rơ dùng cho “ngàn” ở đây có thể có ý
nghĩa khác với ý nghĩa thông thường của nó. Thí dụ, trong vài phân đoạn,
chữ này là danh từ kỹ thuật dùng cho một hội đoàn người nam có thể hoặc
xấp xỉ 1.000 (thí dụ, Gios Gs 22:14 “trưởng tộc của hàng ngàn” (chi họ gia
tộc), ISa1Sm 23:23, “thị tộc”). Hơn nữa có người mặc nhận rằng từ Hê-bơ-
rơ này có nghĩa là “trưởng tộc” (như trong SaSt 36:15). Bằng cách này con
số 53.400 (Dan Ds 26:47) sẽ có nghĩa là “53 trưởng tộc cộng với 400
người”. Theo phương thức đó sẽ dẫn đến một tổng số giảm sút rất nhiều,
nhưng nó cũng không ăn khớp với sự kiện là bản văn Hê-bơ-rơ thêm “hàng
ngàn” cũng như cách thêm “hàng trăm” cho một tổng số lớn. Lại nữa, điều
này sẽ làm cho sự cân đối các trưởng tộc với những nam đinh chiến đấu trở
thành đầu nặng đuôi nhẹ (59 trưởng tộc cho 300 nam đinh trong chi phái Si-
mê-ôn).
Một nhiệm ý khác là đọc từ Hê-bơ-rơ dùng cho “ngàn” với một nghĩa kép
vừa là “trưởng tộc” vừa là “ngàn” với những trưởng tộc là một, trừ khỏi số
đã được ghi nhận. Thí dụ, 46.500 trong chi phái Ru-bên (1:20), thì đọc là 45
trưởng tộc với 1.500 nam đinh chiến đấu. 59.300 thuộc chi phái Si-mê-ôn (1:
23) thì đọc là 58 trưởng tộc và 1.300 nam đinh chiến đấu v.v… Nhưng trong
trường hợp này, cũng như trường hợp trên, những tổng số của 1:46 và 2:32
phải được coi là những kiến thức sai lầm (có lẽ bởi các ký lục đời sau).
Cũng còn một lối đề cập khác là coi các con số chỉ là số tượng trưng chớ
không phải hoàn toàn theo toán học. Giá trị số mục của các chữ cái Hê-bơ-rơ
trong thành ngữ bene yisra’el (“cộng đồng Y-sơ-ra-ên”, 1:2) là 603 ( số hàng
ngàn người nam chiến đấu, 1:46), số còn lại là 550 (cộng 1 cho Môi-se) có
thể đạt đến số tương đương với những chữ cái Hê-bơ-rơ trong thành ngữ
“tức là mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được” (1:3). Lối dùng số
biểu tượng này (gọi là “gematria”) không phải Thánh Kinh không biết tới
(xem KhKh 13:18), nhưng không chắc đúng vậy trong Dân số ký, trong đó
không hề có manh mối văn học nào chỉ về hướng đó.
Trong khi vấn đề con số lớn không thể giải quyết thỏa đáng, Thánh Kinh
thật chỉ thẳng vào sự gia tăng đáng kể của dòng dõi Gia-cốp qua bốn thế kỷ
kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô (xem XuXh 1:7-12). Với tất cả những khó khăn các
con số này cũng chỉ đến vai trò quan trọng của thần hựu và những phép lạ
Đức Chúa Trời tiếp xúc với dân Ngài trong khi họ lưu lạc trong đồng hoang
(xem chú thích ở Dan Ds 1:46).
Cấu trúc và bố cục:
Sách có ba phần chính căn cứ vào những vị trí địa lý của Y-sơ-ra-ên. Mỗi
phần lại có hai phần nhỏ, như chứng minh sau đây: (1) Y-sơ-ra-ên tại Si-nai,
chuẩn bị khởi hành vào Đất Hứa (1:1-10:10), tiếp theo là cuộc hành trình từ
Si-nai đến Ca-đe (10:11-12:16). (2) Y-sơ-ra-ên tại Ca-đe, sự chậm trễ là kết
quả của sự phản loạn (13:1-20:13), tiếp theo là cuộc hành trình từ Ca-đe đến
các đồng bằng Mô-áp (20:14-22:1). (3) Y-sơ-ra-ên tại đồng bằng Mô-áp, trù
liệu chinh phục Đất Hứa (22:2-32:42), tiếp theo là những phụ đính về các
vấn đề khác nhau (33:1-36:13)
I. Y-sơ-ra-ên tại Si-nai. Chuẩn bị khởi hành vào Đất Hứa (1:1-10:10)
A. Các mệnh lệnh kiểm tra dân số (1:1-4:49)
1. Số người nam từ mọi chi phái tập hợp để ra trận (1:1-54)
2. Sự sắp đặt các chi phái ở chung quanh Đền Tạm và thứ tự tiến hành (2:1-
34)
3. Sự sắp đặt những người Lê-vi quanh Đền Tạm, và số người Lê-vi cùng
các con đầu lòng Y-sơ-ra-ên (3:1-51)
4. Số người Lê-vi ở trong Đền Tạm phục vụ Đức Giê-hô-va (4:1-49)
B. Các mạng lịnh về sự thanh tẩy dân sự (5:1-10:10)
1. Thử nghiệm về sự trong sạch trong luật về ghen tương (5:1-31)
2. Hứa nguyện Na-xi-rê và sự chúc phước của A-rôn (6:1-27)
3. Tế lễ của 12 quan trưởng tại lễ Khánh thành Đền Tạm (7:1-69)
4. Sắp đặt đèn và sự biệt riêng người Lê-vi (8:1-26)
5. Giữ Lễ Vượt qua (9:1-14)
6. Trụ mây bao phủ và những ống loa bằng bạc (9:15-10:10)
II. Hành trình từ Si-nai đến Ca-đe (10:11-12:16)
A. Khởi sự cuộc hành trình (10:11-36)
B. Khởi sự những buồn thảm: Lửa và chim cút (11:1-35)
C. Sự phản đối của Mi-ri-am và A-rôn (12:1-16)
III. Y-sơ-ra-ên ở Ca-đe, sự chậm trễ do việc phản loạn (13:1-20:13)
A. Mười hai thám tử và những báo cáo hỗn hợp về Đất Lành (13:1-33) .
B. Sự phản loạn của dân sự nghịch cùng mạng lịnh của Đức Chúa Trời, và
sự thất bại của họ (14:1-45)
C. Bộ luật về các tế lễ, ngày Sa-bát và tua áo (15:1-41)
D. Sự phản loạn của Cô-rê và đồng bọn (16:1-49)
E. Cây gậy trổ hoa của A-rôn: một dấu của sự phản loạn (17:1-13)
F. Về các thầy tế lễ, nghĩa vụ và sự cấp dưỡng họ (18:1-32)
G. Con bò sắc hoe và nước tẩy uế (19:1-32)
H. Tội của Môi-se (20:1-13)
IV. Hành trình từ Ca-đe đến đồng bằng xứ Mô-áp (20:14-22:1)
A. Sự kháng cự của Ê-đôm (20:14-21)
B. Sự qua đời của A-rôn (20:22-29)
C. Hủy diệt vua A-rát (21:1-3)
D. Con rắn đồng (21:4-9)
E. Bài ca bên giếng (21:10-20)
F. Sự thất bại của Si-hôn và Óc (21:21-30)
G. Y-sơ-ra-ên vào xứ Mô-áp (21:31-22:1)
V. Y-sơ-ra-ên tại đồng bằng Mô-áp, dự định chiếm Đất Hứa (22:2-32:42)
A. Ba-lác, Vua Mô-áp thuê Ba-la-am rủa sả Y-sơ-ra-ên (22:2-41)
B. Ba-la-am chúc phước cho Y-sơ-ra-ên trong bảy lời sấm (23:1-24:25)
C. Ba-anh Phê-ô và sự bội đạo của Y-sơ-ra-ên (25:1-18)
D. Kiểm tra dân số lần thứ hai (26:1-65)
E. Những chỉ thị cho thế hệ mới (27:1-30:17)
1. Sản nghiệp cho phụ nữ (27:1-11)
2. Người kế vị Môi-se (27:12-23)
3. Những mạng lịnh về các sinh tế (28:1-15)
4. Mạng lịnh về các ngày lễ (28:16-29:40)
5. Mạng lịnh về những lời hứa nguyện (30:1-17)
F. Chiến trận nghịch cùng dân Ma-đi-an (31:1-54)
G. Định cư các chi phái bên kia sông Giô-đanh (32:1-42)
VI. Những phụ đính về các vấn đề khác nhau (33:1-36:13)
A. Những giai đoạn của cuộc hành trình (33:1-56)
B. Xứ sản nghiệp (34:1-35:34)
C. Sản nghiệp cho phụ nữ (36:1-13)

Dẫn nhập Phục Truyền Luật Lệ ký


Nhan đề:
Từ ngữ “Phục truyền luật lệ ký” nghĩa là “Lặp lại luật pháp” là tên sách cuối
cùng của Ngũ Kinh, xuất phát từ sự dịch sai của bản LXX Hy Lạp và bản
Vulgate La-tinh về một nhóm từ trong PhuDnl 17:18, mà trong tiếng Hê-bơ-
rơ có nghĩa “bản sao luật pháp này”. Tuy nhiên sự lầm lẫn này không
nghiêm trọng, vì Phục truyền luật lệ ký, theo một ý nghĩa, là sự lặp lại luật
pháp (xem cấu trúc và bố cục). Tên Hê-bơ-rơ của sách là “elleh haddebarim”
(“này là những lời”), hoặc đơn giản hơn, “debarim” (“những lời” xem 1:1).
Trước giả:
Chính sách nầy làm chứng rằng, phần lớn do Môi-se đã viết (1:5;
31:9,22,24) và các sách Cựu Ước khác đều đồng ý (IVua 1V 2:3; 8:53;
IIVua 2V 14:6; 18:2) - dĩ nhiên lời mở đầu (PhuDnl 1:1-5) và sự ghi nhận về
Môi-se qua đời (34:1-12), là do một người khác viết. Chúa Giê-xu cũng làm
chứng thẩm quyền của Môi-se (Mat Mt 19:7-8; Mac Mc 10:3-5; GiGa 5:46-
47), các trước giả Tân Ước khác cũng vậy (Cong Cv 3:22-23; 7:37-38;
RoRm 10:19). Hơn nữa, Chúa Giê-xu viện dẫn Phục truyền luật lệ ký như có
thẩm quyền (Mat Mt 4:4,7,10). Trong Tân Ước hơn 100 lần viện dẫn và ám
chỉ đến Phục truyền luật lệ ký. Truyền thuyết cũng nhất trí chứng cho thẩm
quyền của Môi-se đối với sách (xem thí dụ, Mac Mc 12:9). Xem Phần Dẫn
Nhập Sáng thế ký: Trước giả và Niên đại Chép Sách.
Niên hiệu:
Có lẽ sách có từ 1.406 TC (xem Phần Dẫn Nhập Sáng-thế-ký: Trước giả và
Niên hiệu Chép sách).
Bối cảnh lịch sử:
Sách Phục truyền luật lệ ký định vị trí Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên trong lãnh
thổ Mô-áp thuộc khu vực mà sông Giô-đanh đổ vào Biển Chết (PhuDnl 1:5).
Là hành động cuối cùng vào thời gian quan trọng chuyển quyền lãnh đạo
qua Giô-suê, Môi-se đọc diễn văn từ biệt để chuẩn bị cho dân chúng vào xứ
Ca-na-an. Những bài này thật là sự làm mới lại giao ước (xem Cấu trúc và
Bố cục). Trong các bài này, Môi-se nhấn mạnh rằng luật pháp là cần thiết
đặc biệt cho một thời kỳ như thế, và người trình bày luật pháp trong một
cách thích hiệp với tình huống. Trái với những việc thực tế của Lê-vi ký và
Dân số ký, sách Phục truyền luật lệ ký từ tấm lòng Môi-se đến với chúng ta
trong hình thức bài giảng bày tỏ cách riêng tư, nồng ấm.
Sự dạy dỗ thần học:
Sự liên hệ thương yêu của Chúa đối với dân Ngài và của dân sự đối với
Chúa là Đức Chúa Trời tối cao của họ lan tỏa cả sách. Sự nhấn mạnh thuộc
linh của Phục truyền và sự kêu gọi hứa nguyện dâng tất sanh cho Chúa trong
sự thờ phượng, vâng phục đã cảm thúc việc tham khảo sứ điệp của sách
trong suốt phần còn lại của Thánh Kinh.
Cấu trúc và bố cục:
Cấu trúc văn học của Phục truyền luật lệ ký yểm trợ cho bối cảnh lịch sử của
sách. Bởi sự giải thích, lặp lại, phần hồi ký, và vài chỗ văn phong bất
thường, sách bày tỏ một loạt ít nhiều bài thuyết trình ứng khẩu, đôi khi mô tả
những biến cố không theo thứ tự niên đại (xem thí dụ, PhuDnl 10:3). Nhưng
sách cũng mang cấu trúc những phê phán rõ ràng về các hòa ước bá chủ với
chư hầu của những quốc gia Cận Đông trước và đương thời bấy giờ, một cấu
trúc thích hợp với sự nhấn mạnh của Thánh Kinh về giao ước giữa Chúa và
dân Ngài. Trong ý nghĩa này, Phục truyền luật lệ ký là một tài liệu làm mới
lại (tái lập) giao ước như bố cục sau đây chứng tỏ:
I. Lời tựa (1:1-5)
II. Lời mở đầu lịch sử (1:6-4:43)
III. Những qui định của giao ước (4:44-26:19)
A. Điều luật lớn: Đòi hỏi phải tuyệt đối trung thành (4:44-11:32)
B. Những đòi hỏi phụ thêm (12:1-26:19)
1. Sự dâng hiến theo nghi lễ (12:1-16:17)
2. Những nhà lãnh đạo chính quyền và một quốc gia công chính (16:18-
21:21)
3. Tính thiêng liêng của vương quốc Đức Chúa Trời (21:22-25:19)
4. Sự xưng nhận Đức Chúa Trời là Đấng cứu chuộc - Vua ( 26:1-19)
IV. Sự phê chuẩn: Rủa sả và phước lành (27:1-30:20)
V. Sự kế vị lãnh đạo dưới giao ước (31:1-34:12)
A. Thay đổi quyền lãnh đạo (31:1-29)
B. Bài ca của Môi-se (31:30-32:47)
C. Lời chúc phước di cảo của Môi-se trên các chi phái (32:48-33:29)
D. Sự qua đời của Môi-se và sự thừa kế của Giô-suê (34:1-12)
Đôi khi sách cũng chia thành ba bài diễn văn:
I. Bài diễn văn thứ nhất (1:1-4:43)
II. Bài diễn văn thứ hai (4:44-28:68)
III. Bài diễn văn thứ ba (29:1-33:29)
IV. Sự qua đời của Môi-se (34:1-12)

Dẫn nhập Giô-suê


Nhan đề và chủ đề:
Sách Giô-suê là truyện chinh phục và ứng nghiệm đối với con dân Đức Chúa
Trời. Sau nhiều năm làm nô lệ tại Ai-cập và 40 năm trong đồng hoang, cuối
cùng dân Y-sơ-ra-ên được vào đất đã hứa với tổ phụ họ. Áp-ra-ham, luôn
luôn là người di trú, chẳng bao giờ sở hữu xứ mình đã được sai đến, nhưng
người để lại cho con cháu di sản giao ước của Đức Chúa Trời khiến họ thành
những người cuối cùng thừa-thọ cả xứ Ca-na-an (xem SaSt 15:13,16,18;
17:8). Giô-suê được vinh dự biến lời hứa thành sự thật.
Sách Giô-suê bắt đầu chỗ Phục truyền luật lệ ký kết thúc: Các chi phái Y-sơ-
ra-ên còn đóng trại bên phía đông sông Giô-đanh. Câu chuyện mở đầu với
những mạng lịnh của Đức Chúa Trời truyền tiến tới và vượt qua sông như
trên đất khô. Kế đó, sách thuật lại chuỗi chiến thắng ở miền Trung, Nam và
Bắc Ca-na-an, khiến Y-sơ-ra-ên kiểm soát cả miền núi và vùng Negev. Sách
tiếp tục với sự chia xứ cho các chi phái và kết thúc với lời cuối cùng của
Giô-suê tỏ cùng dân sự. Do đó, chủ đề của sách là sự thiết lập Y-sơ-ra-ên
trong Đất Hứa.
Những năm thiếu thời của đời mình, Giô-suê được gọi là Hô-sê (Dan Ds
13:8,16), có nghĩa “sự cứu rỗi”. Nhưng sau này Môi-se đổi tên người là Giô-
suê, nghĩa là “Đức Giê-hô-va cứu” (hoặc “Đức Giê-hô-va ban chiến
thắng”). Cũng tên này (theo tiếng Hy Lạp là “Giê-xu”, xem chú thích ở Mat
Mt 1:21) được đặt cho con trai đầu lòng của Ma-ri, đã trở thành Danh yêu
quí hơn hết.
Trong Thánh Kinh Hê-bơ-rơ, sách Giô-suê tiên khởi một phần gọi là các
Tiền-tiên tri, gồm cả các Quan Xét, Sa-mu-ên và Các Vua - có toàn bộ nội
dung lịch sử nhưng viết theo lập trường tiên tri. Những sách đó chép nhiều
điều hơn là chỉ ghi lại sự phát triển quốc gia từ Môi-se cho đến nước Giu-đa
sụp đổ năm 586 TC. Hết thảy đều giải thích cách tiên tri về đường lối giao
ước của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên trong lịch sử - cách nào Chúa đã
ứng nghiệm và giữ vững lời hứa của Ngài (đặc biệt qua các tôi tớ Ngài là
Giô-suê, các Quan Xét, Sa-mu-ên và Đa-vít) và cách nào Chúa xử trí với sự
lầm lạc của Y-sơ-ra-ên. Trong sách Giô-suê chính Chúa đã chiến thắng và
“ban cho Y-sơ-ra-ên cả xứ Ngài thề hứa ban cho tổ phụ của họ” (Gios Gs
21:43).
Trước giả và niên đại:
Theo sự phán đoán của nhiều học giả, sách Giô-suê không được chép cho
đến cuối thời kỳ Các Vua, chừng 800 năm sau khi các sự việc thật đã xảy ra.
Nhưng có nhiều lý do để thắc mắc có ý nghĩa đối với kết luận này, và định
thời gian chép sách sớm hơn nhiều. Các truyền thuyết Do Thái sớm nhất
(Talmud) xưng nhận rằng chính Giô-suê viết sách của mình trừ phần cuối
sách về đám tang người được qui cho Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn chép (câu
cuối cùng được thêm vào bởi một vị chủ biên sau này).
Ít nhất cũng có hai trường hợp các bản văn báo cáo sự ghi chép theo lịnh của
Giô-suê hoặc chính Giô-suê viết. Khi các chi phái nhận phần đất họ, Giô-suê
truyền cho đoàn tùy tùng của mình “đi đặng lấy địa đồ của xứ” (Gios Gs
18:8). Kế đó, trong cảnh cuối của sách, khi Giô-suê lãnh đạo Y-sơ-ra-ên tái
lập giao ước với Chúa, người “truyền cho họ một luật pháp và điều răn”
(24:25). Nhưng còn trường hợp khác, người thuật câu chuyện dường như
cũng có dự phần vào sự việc xảy ra, người dùng đại danh từ “chúng tôi” và
“chúng ta” (5:1,6).
Hơn nữa, những nhận xét của trước giả đều chính xác và đúng, người hoàn
toàn thông thạo những tên cổ của các thị trấn, như “thành Giê-bu” thay vì
Giê-ru-sa-lem (15:8; 18:16,28), Ki-ri-át A-ra-ba (14:15; 15:54; 20:7; 21:11)
thay vì Hếp-rôn, và Si-đôn lớn (11:8; 19:28) thay vì về sau này chỉ gọi đơn
giản là Si-đôn. Ty-rơ chẳng bao giờ được nêu lên vì trong đời Giô-suê nơi
đó chưa phát triển thành một hải cảng thật quan trọng.
Nhưng nếu có những nét đặc trưng gợi ý chính thời Giô-suê, có những điểm
khác đưa ra vài điều thời sau đó một chút. Câu chuyện về ngày kéo dài khi
mặt trời dừng lại tại A-gia-lôn được chứng minh bởi sự dẫn chứng từ một
nguồn khác, sách Gia-sa (Gios Gs 10:13). Điều này sẽ khó tự nhiên cho
người tận mắt chứng kiến phép lạ, lại viết sau khi việc xảy ra ít lâu. Lại nữa,
cũng có 12 chỗ trước giả dùng từ “cho đến ngày nay”.
Dường như có thể yên tâm kết luận rằng sách, ít ra trong hình thức sớm nhất,
có niên hiệu khi khởi đầu nền quân chủ. Có người nghĩ rằng Sa-mu-ên có
góp phần vào việc san định và soạn tài liệu cho sách, nhưng thật sự là chúng
ta không chắc chắn ai là trước giả và người biên soạn cuối cùng.
Đời sống Giô-suê:
Đời sống đáng chú ý của Giô-suê đầy dẫy sự khích động, thay đổi, thành
công và vinh dự. Người được nổi danh vì niềm tin cậy sâu nhiệm nơi Chúa,
và như “người có thần cảm động” (Dan Ds 27:18). Thời thanh niên, người
sống qua những thực tại cay đắng trong cảnh nô lệ tại Ê-díp-tô, nhưng cũng
chứng kiến những tai vạ siêu nhiên và phép lạ Y-sơ-ra-ên thoát hiểm khỏi
đạo quân Ê-díp-tô khi nước của biển mở ra trước mặt họ. Trong bán đảo Si-
nai chính Giô-suê đã lãnh đạo quân đội Y-sơ-ra-ên chiến thắng dân A-ma-
léc (XuXh 17:8-13). Chỉ mình người được phép tháp tùng Môi-se lên Núi
Thánh, nơi hai bảng luật pháp được tiếp nhận (XuXh 24:13-14). Cũng chính
Giô-suê đứng canh giữ tại Hội mạc tạm mà Môi-se cất trước khi Đền Tạm
được dựng lên (XuXh 33:11).
Giô-suê được chọn làm đại biểu cho chính chi phái của mình là Ép-ra-im khi
12 thám tử được sai đi do thám xứ Ca-na-an. Chỉ Giô-suê và bạn của người
là Ca-lép sẵn sàng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời và trực tiếp chiếm xứ (xem
Dan Ds 14:26-34). Những người còn lại bị kết tội chết trong đồng vắng.
Thậm chí Môi-se cũng qua đời trước khi đạt mục tiêu, và được truyền bảo
phải chuyển mọi sự qua cho Giô-suê. Chúa hứa hướng dẫn và thêm sức cho
Giô-suê y như Ngài đã làm cho Môi-se (PhuDnl 31:23).
Giô-suê chứng tỏ không những chỉ là chiến lược gia quân sự trong các cuộc
chiến tiếp theo sau, nhưng còn là chính khách trong đường lối quản trị các
chi phái. Trên hết mọi sự, người là tôi tớ được chọn của Đức Chúa Trời
(xem Gios Gs 24:29 và chú thích ở PhuDnl 34:5) để đem công tác của Môi-
se đến thành tựu và thiết lập Y-sơ-ra-ên trong Đất Hứa. Trong vai trò đó,
người là một mẫu nổi bật trong Cựu Ước (hình bóng) về Chúa Cứu Thế
(xem HeDt 4:1,6-8).
Khung cảnh lịch sử:
Nhằm thời dân Y-sơ-ra-ên di trú vào Ca-na-an các cường quốc Cận Đông
xưa tương đối yếu. Dân Hê-tít đã suy tàn khỏi cảnh trí. Cả Ba-by-lôn lẫn Ai-
cập cũng không thể duy trì sự hiện diện quân sự tại Ca-na-an, còn người A-
si-ri mãi hàng mấy thế kỷ sau mới gửi quân đội đi.
Khi các chi phái vòng theo hướng đông Biển Chết, chỉ có đồn lũy Ê-đôm là
dám chống trả. Mô-áp buộc phải để Y-sơ-ra-ên đi ngang qua lãnh thổ và
đóng trại nơi đồng bằng của họ. Khi Óc và Si-hôn, hai vua A-mô-rít ở vùng
bên kia sông Giô-đanh cố gắng ngăn chặn Y-sơ-ra-ên, họ đã bị đánh bại dễ
dàng và đất đai bị chiếm đóng.
Các nhà khảo cổ Thánh Kinh gọi thời kỳ này là thời đại Đồ Đồng Muộn
(1550-1200 TC). Ngày nay hàng ngàn đồ tạo tác làm chứng sự phong phú
của văn hóa vật chất Ca-na-an, trội hơn hẳn văn hóa của dân Y-sơ-ra-ên. Khi
những nơi đổ nát của vương quốc cổ Ugarit được khám phá tại Ras Shamra
hiện đại trên bờ biển phía bắc Sy-ri, cả kho tàng tin tức mới lộ ra ánh sáng
về đời sống tôn giáo, thương mại và nội bộ của dân Ca-na-an. Từ một ngôn
ngữ gần với tiếng Hê-bơ-rơ đến chuyện các vua và các thần xưa chứng tỏ sự
độc ác và hành vi vô luân của họ. Hơn nữa, người ta đào được Đền Thờ
ngoại giáo, bàn thờ, mồ mả, những khí mạnh nghi lễ, rọi thêm ánh sáng trên
văn hóa và phong tục của các dân tộc xung quanh Y-sơ-ra-ên.
Những cuộc đào bới ở vị trí Mê-ghi-đô xưa, Bết-san và Ghê-xe chứng tỏ các
thành này được củng cố vững chắc và lý do tại sao chúng không bị Y-sơ-ra-
ên hạ và chiếm đóng trong đời Giô-suê. Tuy nhiên, nhiều thành khác xây
công sự mà vẫn bị chiếm, đến nỗi Y-sơ-ra-ên trở thành vững lập như một
cường quốc thống trị. Ngoài hai thành Giê-ri-cô và A-hi, Giô-suê chỉ đốt
thành Hát-so (Gios Gs 11:13). Vậy những cố gắng để định niên hiệu cho các
biến cố này căn cứ vào những tầng hủy diệt trên các gò đống thuộc các cổ
thành xứ Ca-na-an thật là công tác đáng nghi ngại. Cũng nên nhớ rằng có
các nhóm khác thường bị dính líu vào các chiến dịch trong khu vực vào thời
này, giữa vòng họ là những người cai trị Ai-cập và các dân ở vùng biển (kể
cả dân Phi-li-tin). Cũng có những cuộc nội chiến giữa các thành thuộc dân
Ca-na-an, và về sau này thời kỳ Các Quan Xét cũng được đánh dấu bằng sự
hỗn loạn chung.
Phần nhiều dữ kiện khảo cổ dường như ủng hộ niên hiệu cho cuộc xâm lăng
của Giô-suê chừng năm 1.250 TC. Điều này rất thích hợp với cuộc xuất
hành khỏi Ê-díp-tô xảy ra vào 40 năm trước, dưới triều đại nổi tiếng Ram-se
II, người thống trị vùng châu thổ sông Ni-lơ tại một thành cùng tên (XuXh
1:11). Nó cũng đặt Giô-sép tại Ai-cập trong tình huống thuận lợi. Bốn trăm
năm trước Ram-se II, các Pha-ra-ôn là người Hyksos Sêmit, cũng quản trị từ
miền châu thổ gần xứ Gô-sen.
Mặt khác trường hợp tốt có thể thiết lập cho quan điểm truyền thuyết là cuộc
xâm lăng xảy ra chừng 1.406 TC. Sự hà hiếp xảy ra dưới triều Amunhotep II
sau sự chết của cha người là Thutmose III, người được biết đã dùng nô lệ lao
động trong các dự án kiến thiết mình. Niên hiệu sớm hơn cũng thích hiệp
hơn với hai con số tìm được trong Cac Tl 11:26 và IVua 1V 6:1, vì chúng
cho thêm 150 năm giữa Môi-se và thời kỳ quân chủ. Cũng xem Phần Dẫn
Nhập Sáng-thế-ký: trước giả và niên Hiệu. Sách Xuất Ai-cập ký: niên đại
học và xem Các Quan Xét: bối cảnh.
Bố cục:
I. Tiến vào xứ (Gios Gs 1:1-5:12)
A. Lời khuyên chinh phục (1:1-18)
B. Sự thám sát thành Giê-ri-cô (2:1-24)
C. Sự vượt qua sông Giô-đanh (3:1-4:24)
D. Sự phụng hiến tại Ghinh-ganh (5:1-12)
II. Sự chinh phục xứ (5:13-12:24)
A. Những chiến trận tiên khởi (5:13-8:35)
1. Chiến thắng thành Giê-ri-cô (5:13-6:27)
2. Thất bại tại A-hi vì tội A-can (7:1-26)
3. Chiến thắng thành A-hi (8:1-29)
4. Tái lập giao ước tại Si-chem (8:30-35)
B. Chiến trận miền nam (9:1-10:43)
1. Hòa ước lập với dân Ga-ba-ôn (9:1-27)
2. Ngày dài của Giô-suê (10:1-15)
3. Các thành miền nam bị chinh phục (10:16-43)
C. Chiến trận miền bắc (11:1-23)
D. Những vua bại trận của Ca-na-an (12:1-24)
III. Sự phân chia xứ (13:1-21:45)
A. Những khu vực còn phải chinh phục (13:1-7)
B. Xứ phía đông sông Giô-đanh ban cho Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma-
na-se (13:8-33).
C. Các vùng đất ban cho Giu-đa và “Giô-sép” tại Ghinh-ganh (14:1-17:18)
D. Các vùng đất ban cho các chi phái còn lại ở Si-lô (18:1-19:51)
1. Đền Tạm tại Si-lô (18:1-10)
2. Những phần đất chia cho Bên-gia-min, Si-mê-ôn, Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li
và Đan (18:11-19:48)
3. Thành ban cho Giô-suê (19:49-51)
E. Những thành cấp cho người Lê-vi (20:1-21:45)
1. Sáu thành ẩn náu (20:1-9)
2. Bốn mươi tám thành của các Thầy tế lễ (21:1-45).
IV. Phần kết: Sự thống nhất các chi phái về lòng trung kiên với Chúa (22:1-
24:33)
A. Bàn thờ làm chứng bên sông Giô-đanh (22:1-34).
B. Những lời chào khuyên từ giã của Giô-suê (23:1:16).
C. Sự tái lập giao ước tại Si-chem (24:1-28)
D. Sự qua đời và chôn Giô-suê và Ê-lê-a-sa (24:29-33).

Dẫn nhập Các Quan Xét


Nhan đề:
Nhan đề mô tả những lãnh tụ Y-sơ-ra-ên trong thời gian các vị trưởng lão
sống sót sau Giô-suê cho đến thời đại quân chủ. Mục đích chính được mô tả
rõ ràng nhất trong Cac Tl 2:16 “song Đức Giê-hô-va dấy lên những Quan xét
giải cứu chúng khỏi cướp bóc”. Vì Đức Chúa Trời đã cho phép những áp
bức xảy đến và dấy lên các vị cứu tinh, chính Chúa là Đấng Quan xét và giải
cứu tối hậu của Y-sơ-ra-ên (11:27; xem 8:23, tại đó Ghê-đê-ôn, một Quan
xét đã nhấn mạnh rằng Đức Giê-hô-va thật quản trị Y-sơ-ra-ên).
Trước giả và niên đại:
Dầu theo truyền thuyết, Sa-mu-ên viết sách, nhưng không biết chắc tác
quyền thuộc về ai. Có thể rằng Sa-mu-ên đã thâu góp những câu chuyện thời
Các Quan xét, rồi đến các tiên tri như Na-than và Gát, cả hai kết hợp với
triều đình Đa-vít, đã bắt tay vào việc san định và biên soạn tài liệu (ISu1Sb
29:29).
Niên hiệu biên soạn cũng không rõ, nhưng chắc chắn là trong thời quân chủ.
Thành ngữ thường lặp lại: “Trong lúc đó, không có vua nơi Y-sơ-ra-ên”
(Cac Tl 17:6; 18:1; 21:25) gợi ý một niên hiệu sau khi nền quân chủ được
thiết lập. Sự nhận xét rằng dân Giê-bu-sít vẫn còn kiểm soát Giê-ru-sa-lem
(1:21) chỉ rõ đó là thời gian trước khi vua Đa-vít chiếm được thành chừng
năm 1000 TC (xem IISa 2Sm 5:6-10). Nhưng các điều kiện mới trong Y-sơ-
ra-ên ám chỉ trong Cac Tl 17:1-21:25 gợi ý về thời gian sau khi triều đại Đa-
vít được thiết lập cách hữu hiệu (thế kỷ thứ 10 TC).
Các chủ đề và thần học:
Sách Quan xét biểu lộ đặc điểm về đời sống Y-sơ-ra-ên trong Đất Hứa từ sự
qua đời của Giô-suê đến sự dấy lên nền quân chủ. Một mặt, ấy là câu chuyện
bội đạo thường xảy ra khiến bị sửa phạt từ thiên thượng. Mặt khác, sách
cũng nói về những lời kêu nài khẩn cấp đến với Chúa trong lúc khủng
hoảng, cảm động Chúa dấy lên các lãnh tụ (Quan xét), qua họ Chúa lật đổ
những kẻ áp bức ngoại quốc và khôi phục hòa bình cho xứ.
Sau khi Y-sơ-ra-ên được lập trong Đất Hứa qua chức vụ của Giô-suê, cuộc
hành hương của họ chấm dứt. Nhiều lời hứa giao ước Đức Chúa Trời ban
cho các tộc trưởng trong Ca-na-an và cho các tổ phụ nơi đồng hoang đã
được thể nghiệm. Xứ của Chúa, nơi Y-sơ-ra-ên phải vào yên nghỉ, nằm dưới
chân họ, họ chỉ còn phải chiếm hữu nó, đánh bật dân Ca-na-an ra, và thanh
tẩy tà đạo khỏi đó. Thời giờ đã đến cho Y-sơ-ra-ên thành vương quốc của
Đức Chúa Trời dưới hình thức Khối Liên Hiệp trên đất.
Nhưng trong Ca-na-an, Y-sơ-ra-ên vội quên những việc làm của Đức Chúa
Trời đã khai sinh ra họ, và lập họ trong xứ. Kết quả là họ không còn nhìn
thấy lý lịch độc đáo của mình là dân của Chúa, được chọn và được gọi đến
làm quân đội của Ngài và là những công dân trung thành của vương quốc
vừa dấy lên. Y-sơ-ra-ên đã định cư, gắn bó với các dân ở Ca-na-an theo luân
lý, thần tượng và tín ngưỡng cùng tập tục của họ cũng như nhanh chóng theo
đời sống nông nghiệp và xã hội của Ca-na-an.
Suốt cả sách Quan xét, vấn đề căn bản là quyền chủ tể của Đức Chúa Trời
trong Y-sơ-ra-ên - tức là Y-sơ-ra-ên phải trung thành và thừa nhận với sự
quản trị của Chúa. Vương quyền của Chúa trên Y-sơ-ra-ên được thiết lập
cách độc đáo bởi giao ước tại Si-nai (XuXh 19:1-24:18), vềsau được Môi-se
tái lập trong đồng bằng Mô-áp (PhuDnl 29:1-29) và bởi Giô-suê tại Si-chem
(Gios Gs 24:1-33). Trước giả tố cáo Y-sơ-ra-ên đã lìa bỏ vương quyền của
Chúa hết lần này đến lần khác. Y-sơ-ra-ên thôi đánh trận của Chúa, xoay qua
các thần của xứ Ca-na-an để có được những phước lành cho gia đình, bầy
vật, đồng ruộng, và lìa bỏ luật pháp Chúa trong nếp sống hằng ngày. Trong
chính tâm điểm của chu kỳ Các Quan Xét (xem bố cục), Ghê-đê-ôn phải
nhắc nhở Y-sơ-ra-ên rằng Chúa là vua của họ (xem chú thích ở Cac Tl 8:23).
Lời than van ai-oán và buộc tội cứ tái diễn của 17:1-21:25 (xem bố cục) là:
“Trong lúc đó không có vua nơi Y-sơ-ra-ên, mọi người cứ làm theo ý mình
tưởng là phải” (xem chú thích ở 17:6). Lời ám chỉ chính ở đây chắc là về
những người trung gian của Chúa trên đất (tức các vua loài người), nhưng
lời buộc tội tỏ tường là Y-sơ-ra-ên không thành thật thừa nhận hoặc vâng
phục Vua thiên thượng của họ nữa.
Chỉ còn một cách để duy trì vương quyền của Chúa trên Y-sơ-ra-ên, và bảo
toàn vương quốc còn trong trứng nước khỏi bị tiêu diệt là Ngài dùng quyền
tối cao khiến họ gặp áp bức ngoại quốc để trừng trị dân Ngài - do đó thực thi
giao ước rủa sả (xem LeLv 26:14-45; PhuDnl 28:15-68), và bằng cách dấy
lên những vị cứu tinh khi dân Ngài kêu nài đến Chúa. Tình trạng rạn nứt của
Y-sơ-ra-ên được vạch trần cách sinh động, Y-sơ-ra-ên liên tục cần đến
những hành động cứu sinh mới của Chúa hầu được vào sự yên nghỉ đã hứa
(xem chú thích ở Gios Gs 1:13).
Giữa những chu kỳ lẩn quẩn bất tuân, áp bức ngoại quốc, kêu la khốn khổ,
và giải phóng (xem Cac Tl 2:11-19; NeNe 9:26-31) làm nổi bật chủ đề quan
trọng - sự thành tín với giao ước của Đức Giê-hô-va. Tính kiên nhẫn nhân-từ
kỳ lạ của Đức Chúa Trời không còn cách nào chứng minh tốt hơn là trong
thời loạn lạc này.
Đáng chú ý là thời kỳ thất bại này của Y-sơ-ra-ên, theo sau ngay những biến
cố cứu chuộc thực hiện qua Môi-se và Giô-suê, lại là đường lối đặc biệt thời
đại Thánh linh đời Cựu-ước. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã khiến con
người hoàn tất những chiến công oanh liệt trong thánh chiến của Chúa
chống lại những quyền lực hăm dọa vương quốc của Ngài (xem Cac Tl 3:10;
6:34; 11:29; 13:25; 14:6,19; 15:14; cũng xem ISa1Sm 10:6,10; 11:6; 16:13).
Cũng chính Thánh linh, đổ tràn trên Hội thánh, tiếp theo công tác cứu chuộc
của Giô-suê thứ hai (Chúa Giê-xu), ban năng lực cho dân Chúa khởi sự công
tác truyền bá Phúc Âm cho muôn dân và mở rộng vương quốc Đức Chúa
Trời (xem chú thích ở Cong Cv 1:2,8).
Bối cảnh:
Xác định các niên hiệu cho sách Quan xét thật khó khăn và phức tạp. Hệ
thống niên hiệu sau đây căn cứ chủ yếu vào IVua 1V 6:1, nói về khoảng thời
gian 480 năm giữa cuộc xuất hành khỏi Ê-díp-tô và năm thứ tư đời Sa-lô-
môn trị vì. Thời gian này đặt việc xuất hành chừng 1446 TC, và thời kỳ Các
Quan Xét giữa 1380 đến sự dấy lên của Sau-lơ chừng 1050 TC. Giép-thê
phát biểu rằng Y-sơ-ra-ên chiếm đóng Hêt-bôn 300 năm (Cac Tl 11:26)
đồng ý chung với các niên hiệu này.
Tuy nhiên, có người chủ trương rằng, số 480 năm trong IVua 1V 6:1 là hơi
giả tạo, nảy sinh bằng cách nhân với 12 (có lẽ chỉ về 12 Quan xét) với 40 (số
năm qui ước cho một thế hệ). Họ chỉ ra trong chính sách Quan xét thường
dùng các số tròn 10,20,40 và 80. Một niên hiệu trễ đối với cuộc xuất hành cố
nhiên sẽ cần đến thời gian ngắn hơn cho Các Quan Xét (xem Phần Dẫn
Nhập sách Xuất Ê-díp-tô ký: Niên đại).
Những nét văn học đặc sắc:
Dầu chỉ đọc qua sách Quan xét cũng thấy có ba phần cơ bản: (1) Lời mở đầu
(Cac Tl 1:1-3:6). (2) Phần chính (3:7-16:31). (3) Phần kết (17:1-21:25). Sự
nghiên cứu tường tận đem lại ánh sáng trên cơ cấu phức tạp hơn, với những
chủ đề thêu dệt ràng buộc toàn bộ thành bức tranh rắc rối về đặc điểm của
một thời đại.
Lời mở đầu (1:1-3:6) có hai phần, mỗi phần dành cho một mục đích khác
nhau. Chúng không liên hệ theo niên hiệu, cũng không cống hiến sự sắp xếp
niên hiệu nghiêm túc của toàn bộ thời kỳ. Phần thứ nhất (1:1-2:5) dàn cảnh
lịch sử cho những câu chuyện kế tiếp. Nó mô tả sự chiếm đóng Đất Hứa của
Y-sơ-ra-ên - từ thành công sơ khởi đến sự thất bại rộng lớn và sự quở trách
thiên thượng.
Phần thứ hai (2:6-3:6) đề cập phối cảnh về thời kỳ từ Giô-suê đến sự dấy lên
nền quân chủ, thời gian biểu lộ đặc sắc những vòng lẩn quẩn bội đạo, áp
bức, kêu là khốn khổ, và sự giải thoát nhân từ thiên thượng. Trước giả tóm
tắt và cắt nghĩa những cách xử trí của Chúa đối với dân sự phản loạn và giới
thiệu ngữ vựng và công thức căn bản, Chúa sẽ dùng trong các câu chuyện
sau này: “Làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va ”, 2:11 (xem 3:7; 4:1; 6:1;
10:6) “phó Y-sơ-ra-ên cho”, 2:14 (xem 6:1; 13:1) và “bán họ”, 2:14 (xem
3:8; 4:2; 10:7).
Phần chính của sách này (3:7-16:31) thuật những chuyện thật của vòng lẩn
quẩn (bội đạo, áp lực, khốn khổ, giải phóng) với chính dự kiến độc đáo của
nó. Mỗi chu kỳ có một khởi đầu giống nhau (“Dân Y-sơ-ra-ên còn làm điều
ác trước mặt Chúa”, xem chú thích ở 3:7) và một kết luận chấp nhận được
(“xứ được hòa bình trong...năm” hoặc “lãnh đạo Y-sơ-ra-ên...năm”, xem chú
thích ở 3:11).
Chu kỳ thứ nhất của các chu kỳ (Ốt-ni-ên, xem 3:7-11 và chú thích) cung
cấp “mẫu báo cáo” dùng trong mọi câu chuyện áp bức và giải phóng kế tiếp.
Năm chu kỳ còn lại kết thành một câu chuyện như sau, xây dựng quanh số
Các Quan Xét quan trọng còn lại.
1. Ê-hút (3:12-30), anh hùng đơn độc từ chi phái Bên-gia-min giải phóng Y-
sơ-ra-ên khỏi sự áp bức từ phía đông.
2. Đê-bô-ra (4:1-5:33) phụ nữ từ một trong các chi phái của Giô-sép (Ép-ra-
im, phía tây sông Giô-đanh) người là Quan xét trong thời mà Y-sơ-ra-ên bị
giày xéo bởi liên minh các dân Ca-na-an dưới quyền điều khiển của Si-sê-ra.
3. Ghê-đê-ôn và con trai của ông là A-bi-mê-léc (6:1-9:37) hình thành câu
chuyện trung tâm. Bằng nhiều cách Ghê-đê-ôn là Quan xét lý tưởng, gợi nhớ
đến Môi-se, trong khi con trai người lại chính là kẻ đối lập hẳn với vị Quan
xét trung tín và có tinh thần trách nhiệm này.
4. Giép-thê (10:6-12:7) người bị xã hội ruồng bỏ từ chi phái Giô-sép khác
(Ma-na-se, phía đông sông Giô-đanh) làm Quan xét vào thời Y-sơ-ra-ên bị
hăm dọa bởi liên minh các cường quốc dưới sự lãnh đạo của vua Am-môn.
5. Sam-sôn (13:1-16:31) vị anh hùng đơn độc từ chi phái Đan đã giải phóng
Y-sơ-ra-ên khỏi sự áp bức từ phía tây.
Sự sắp đặt những chuyện này thật ý nghĩa. Những câu chuyện trung tâm về
Ghê-đê-ôn (Quan xét lý tưởng của Chúa) và A-bi-mê-léc (người đối lập
Quan xét) lại gộp chung câu chuyện song song của người nữ Đê-bô-ra và
người bị xã hội ruồng bỏ là Giép-thê - lần lượt chúng được lồng khung trong
những câu chuyện những anh hùng đơn độc Ê-hút và Sam-sôn. Theo cách
này, cả cấu trúc tập trung chú Y-sơ-ra-ên vấn đề chủ yếu của thời kỳ Các
Quan Xét: Y-sơ-ra-ên quyến luyến các thần Ba-anh của Ca-na-an (bày tỏ bởi
A-bi-mê-léc, xem chú thích ở 9:1-57) chống với vương quyền của Chúa trên
dân Ngài (được khuyến khích bởi Ghê-đê-ôn, xem chú thích ở 8:23).
Phần kết (17:1-21:25) biểu lộ đặc sắc của kỷ nguyên trong cách khác, mô tả
sự băng hoại tôn giáo và đạo đức của những cá nhân, thành phố và chi phái
riêng. Giống như lời giới thiệu, nó cũng có hai phần không liên hệ niên đại,
cũng không ghi rõ niên hiệu đối với sự nghiệp cá biệt Các Quan Xét. Tuy
nhiên, các sự việc này thật xảy ra sớm hơn trong thời kỳ Các Quan Xét (xem
chú thích ở 18:30; 20:1,28).
Bằng cách chỉ ghi niên hiệu những sự kiện phần kết liên hệ tới nền quân chủ
(xem điệp khúc tái diễn 17:6; 18:1; 19:1; 21:25), trước giả làm tương phản
thời đại Các Quan Xét với một thời kỳ tốt đẹp hơn khi nền quân chủ được
khai dựng, chắc chắn là nhìn về sự trị vì của Đa-vít và triều đại của người
(xem chú thích ở 17:1-21:25). Sách nêu lên hai ví dụ về Chúa phân quyền
lãnh đạo cho chi phái Giu-đa: (1) Trong việc đánh đuổi dân Ca-na-an ra
(1:1-2) và (2) Sửa trị một chi phái trong Y-sơ-ra-ên (20:18). Trước giả nhìn
thấy quan trưởng của chi phái Giu-đa là cứu tinh của dân tộc.
Phần thứ nhất của lời kết (17:1-18:31) thuật chuyện tích của Mi-ca khai triển
một nơi thờ phượng ngoại giáo và nói về chi phái Đan lìa bỏ lãnh thổ chia
cho họ khi chấp nhận tôn giáo băng hoại của Mi-ca. Phần thứ hai (19:1-
21:25) thuật chuyện tích về kinh nghiệm buồn thảm của người Lê-vi tại Ghi-
bê-a trong Bên-gia-min và chép biện pháp kỷ luật tẩy trừ chi phái Bên-gia-
min, vì cớ họ bênh vực thành đồi bại Ghi-bê-a.
Hai phần có mấy điểm song song đáng chú ý:
1. Cả hai dính líu đến việc một người Lê-vi đi ngang qua giữa Bết-lê-hem
(trong Giu-đa) và Ép-ra-im qua hành lang Bên-gia-min - Đan.
2. Cả hai nêu lên 600 chiến sĩ - những người đã hướng dẫn chi phái Đan và
những người sống sót từ chi phái Bên-gia-min.
3. Cả hai kết thúc với sự vét sạch khu vực thuộc chi phái trong hành lang
(Bên-gia-min - Đan) đó.
Không những chỉ ba điều song song này có ý nghĩa trong phần kết, nhưng
các điều đó cũng làm thành khâu kết nối cho phần chính của sách nữa. Chi
phái Bên-gia-min, ở trong phần kết tìm cách binh vực sự vô đạo gớm ghiếc
đặt sợi dây huyết thống lên trên lòng trung thành với Chúa, lại là chi phái
Chúa dấy lên cứu tinh Ê-hút (3:15). Chi phái Đan, mà trong phần kết đã rút
lui khỏi cơ nghiệp cấp cho mà chấp nhận những thói tục ngoại giáo, lại là
chi phái Chúa dấy lên vị cứu tinh Sam-sôn (13:2,5). Như vậy, hai chi phái
mà phần kết luận mô tả sự băng hoại tôn giáo và đạo đức của Y-sơ-ra-ên lại
chính từ những chi phái đó các vị cứu tinh được chọn mà chuyện tích của họ
dựng khung làm trọng tâm câu chuyện của sách (Ghê-đê-ôn-A-bi-mê-léc).
Toàn bộ ý định của sách từ phần đầu đến phần kết, cách thức độc đáo trong
mỗi phần giải quyết toàn bộ thời đại, và cách ba phần chính liên hệ với nhau
rõ rệt minh họa một thời đại hư hỏng - thời đại “không có vua trong Y-sơ-ra-
ên” và “ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải” (xem chú thích ở 17:6). Thật
sự kiện mà câu chuyện ở trong các hồi và chu kỳ rất có ý nghĩa. Nó là câu
chuyện của toàn bộ Y-sơ-ra-ên, dù thường chỉ có vài khu vực trực tiếp dính
líu. Sách minh họa những thế kỷ sau Giô-suê, là thời kỳ Y-sơ-ra-ên bất trung
với Chúa, và họ đầu phục những sự lôi cuốn của Ca-na-an. Chỉ do lòng
thương xót của Đức Chúa Trời mà Y-sơ-ra-ên không bị áp đảo và bị thu hút
bởi các quốc gia ngoại đạo xung quanh họ. Tuy nhiên, trong lúc chờ đợi,
lịch sử cứu chuộc hầu như vẫn đứng vững - chờ đợi nỗ lực tương lai của tôi
tớ Chúa là Đa-vít và sự thiết lập triều đại của người.
Bố cục:
I. Phần đầu: Sự chinh phục không trọn vẹn và bội đạo (1:1-3:6)
A. Hồi thứ nhất: Y-sơ-ra-ên thất bại trong việc thanh tẩy xứ (1:1-2:5)
B. Hồi thứ hai: Đức Chúa Trời xử trí với Y-sơ-ra-ên bội nghịch (2:6-3:6)
II. Áp bức và giải phóng (3:7-16:31)
A. Các Quan Xét lớn
1. Ốt-ni-ên đánh bại A-ram Naharaim (3:7-11)
2. Ê-hút đánh bại Mô-áp (3:12-30)
3. Đê-bô-ra đánh bại Ca-na-an (4:1-5:31)
4. Ghê-đê-ôn đánh bại Ma-đi-an (6:1-8:35)
A-bi-mê-léc, kẻ chống lại Quan xét 9:1-57)
5. Giép-thê đánh bại Am-môn (10:6-12:7)
6. Sam-sôn kiềm chế người Phi-li-tin (13:1-16:31)
B. Các Quan Xét nhỏ
1. Sam-ga (3:31)
2. Thô-la (10:1,2)
3. Giai-rơ (10:3-5)
4. Íp-san (12:8-10)
5. Ê-lôn (12:11-12)
6. Áp-đôn (12:13-15)
III. Phần kết: Sự hỗn loạn đạo đức và tôn giáo (17:1-21:25)
A. Hồi thứ nhất (17:1-18:31; xem 17:6; 18:1)
1. Sự bại hoại của Mi-ca về tôn giáo (17:1-13)
2. Người Đan dời khỏi lãnh thổ của chi phái họ (18:1-31)
B. Hồi thứ hai (19:1-21:25; xem 19:1; 21:25)
1. Sự bại hoại của Ghi-bê-a về đạo đức (19:1-30)
2. Sự truất phế Bên-gia-min ra khỏi lãnh thổ chi phái họ (20:1-21:25)
Dẫn nhập Ru-tơ
Nhan đề:
Sách được đặt tên theo tên một trong những nhân vật chính của sách, một
thiếu phụ trẻ người Mô-áp, bà cố nội của Đa-vít và tổ mẫu của Chúa Giê-xu
(Mat Mt 1:1,5). Ngoài sách Ru-tơ, chỉ còn sách duy nhất khác trong Thánh
Kinh mang tên phụ nữ là sách Ê-xơ-tê.
Bối cảnh:
Câu chuyện bắt đầu vào thời Các Quan Xét, thời kỳ biểu lộ đặc điểm Các
Quan Xét như là thời kỳ suy thoái đạo đức và tôn giáo, quốc gia chia rẽ và
thường bị ngoại bang áp bức. Sách Ru-tơ phản ánh thời hòa bình tạm giữa
Y-sơ-ra-ên và Mô-áp (tương phản Cac Tl 3:12-30). Giống ISa1Sm 1:1-2:36,
sách cho thấy một loạt những cái nhìn thân mật vào đời sống riêng tư của
các người thân trong một gia đình Y-sơ-ra-ên. Nó cũng trình bày câu chuyện
hấp dẫn về niềm tin và mộ đạo chân chính còn sót lại trong thời Quan xét,
giảm bớt được mặt khác bức tranh hoàn toàn tối tăm của kỷ nguyên này.
Trước giả và niên hiệu chép sách:
Không rõ trước giả. Theo truyền thuyết Do Thái cho là của Sa-mu-ên, nhưng
không phải Sa-mu-ên là trước giả vì sự đề cập về Đa-vít (Ru R 4:17,22) hàm
ý niên hiệu trễ hơn. Hơn nữa, văn thể Hê-bơ-rơ trong Ru-tơ gợi ý rằng sách
được chép trong thời quân chủ.
Chủ đề và thần học:
Trước giả nhắm tiêu điểm vào sự tận tâm và kiên định, không vị kỷ của Ru-
tơ đối với Na-ô-mi phiền muộn (1:16-17; 2:11-12; 3:10; 4:15), và vào lòng
nhân từ của Bô-ô với hai góa phụ này (2:1-4:22). Trước giả trình bày gương
chứng của những đời sống đáng chú ý biểu hiện trong công việc thường
ngày của tình yêu vị tha đã thực nghiệm luật pháp của Đức Chúa Trời (LeLv
19:18; so sánh RoRm 13:10). Tình yêu đó cũng phản ánh tình thương Đức
Chúa Trời trong sự kết hợp kỳ diệu những hành động của con người với
hành động của Đức Chúa Trời (so Ru R 2:12 với 3:9). Trong lòng nhân từ
của Đức Chúa Trời, những đời sống như thế được phước và trở thành nguồn
phước.
Dường như điều đáng ngạc nhiên là người phản ánh tình yêu của Đức Chúa
Trời rõ ràng như thế lại là người nữ Mô-áp. Hơn nữa, sự trung thành trọn
vẹn của nàng đối với gia đình Y-sơ-ra-ên mà nàng vào làm dâu, sự tận tâm
toàn vẹn đối với bà mẹ chồng bơ vơ ghi dấu nàng là con gái thật của Y-sơ-
ra-ên và xứng đáng làm tổ mẫu của Đa-vít. Nàng chứng nghiệm cách rõ ràng
lẽ thật rằng sự dự phần trong vương quốc hầu đến của Đức Chúa Trời được
quyết định không phải bởi huyết thống hoặc bởi sự sinh ra, bèn là bởi đời
sống của một người phù hợp với ý chỉ Đức Chúa Trời qua “sự vâng phục
dựa trên đức tin” (RoRm 1:5). Địa vị của nàng trong tông tộc của Đa-vít có
nghĩa rằng tất cả quốc dân sẽ được đại diện trong vương quốc của Con vĩ đại
hơn thuộc dòng Đa-vít.
Như một hồi trong tông tộc Đa-vít, sách Ru-tơ rọi ánh sáng trên vai trò của
Đa-vít trong lịch sử cứu chuộc. Sự cứu chuộc là quan điểm chủ yếu suốt cả
câu chuyện, từ ngữ Hê-bơ-rơ trong các hình thức khác nhau của sự cứu
chuộc được chép 23 lần. Điểm chính yếu của sách là chuyện biến cải Na-ô-
mi từ tuyệt vọng đến hạnh phúc qua sự vị tha, là hành động được Chúa ban
phước của Ru-tơ và Bô-ô. Bà chuyển từ chỗ không có gì đến đầy đủ (Ru R
1:21; 3:17; xem chú thích ở 1:1,3,5-6,12,21-22; 3:17; 4:15), từ cảnh nghèo
nàng xác xơ (1:1-5) đến an ninh và hi vọng (4:13-17). Cũng một lẽ ấy, Y-sơ-
ra-ên được biến cải từ sự tuyệt vọng quốc gia khi Hê-li qua đời (ISa1Sm
4:18) đến bình an và phúc lợi trong những ngày đầu tiên của Sa-lô-môn
(IVua 1V 4:20-34; 5:4), qua sự tận tâm vị tha của Đa-vít, hậu tự chân chính
của Ru-tơ và Bô-ô. Như thế, trước giả nhắc nhở Y-sơ-ra-ên rằng thời trị vì
của nhà Đa-vít như phương tiện quản trị nhân từ của Chúa trong Y-sơ-ra-ên,
duy trì viễn cảnh hòa bình và an nghỉ mà Chúa đã hứa. Những sự an nghỉ
này chỉ tiếp tục chừng nào những người dự phần trong vương quốc - quan
trưởng cũng như thường dân - phản ánh trong nếp sống hằng ngày tình yêu
vị tha đã được Ru-tơ và Bô-ô chứng nghiệm. Trong Chúa Giê-xu, “con Đa-
vít” trọng đại (Mat Mt 1:1), và công tác cứu chuộc của Ngài, những phước
lành đã hứa của vương quốc Đức Chúa Trời đều được thành nghiệm.
Những nét văn học đặc biệt:
Sách Ru-tơ là truyện ngắn Hê-bơ-rơ, thuật lại với sự khéo léo tột bực. Giữa
vòng các truyện lịch sử Thánh Kinh, sách vượt trội qua bút tích linh động,
sôi nổi, đẹp và gây cảm xúc hữu hiệu - một viên ngọc trau chuốt sáng giá về
nghệ thuật kể chuyện của người Hê-bơ-rơ.
Suốt cả sách có sự cân đối lạ lùng (xem bố cục), hành động chuyển từ câu
chuyện buồn thảm được phác họa vắn tắt (Ru R 1:1-5; 71 từ ngữ bằng tiếng
Hê-bơ-rơ) qua bốn hồi đến kết thúc thoải mái và hi vọng cũng mô tả vắn tắt
như phần đầu (4:13-17; 71 từ ngữ bằng tiếng Hê-bơ-rơ). Chỗ ngoặc chủ yếu
ở ngay chính giữa (xem chú thích ở 2:20). Dòng mở đầu của mỗi hồi báo
hiệu sự khai triển chính của chương (1:6, sự hồi hương 2:1, gặp gỡ Bô-ô 3:1,
tìm một gia đình cho Ru-tơ 4:1, sự việc quyết định tại cửa thành) trong khi
dòng cuối của mỗi hồi tạo sự chuyển đổi dễ dàng cho những điều theo sau
(xem các chú thích ở 1:22; 2:23; 3:18; 4:12). Sự tương phản cũng được sử
dụng với hiệu quả tốt: ngọt ngào (ý nghĩa tên “Na-ô-mi”) với cay đắng
(1:20), đầy đủ với trống không (1:21), sống với chết (2:20). Đáng chú ý nhất
là sự tương phản giữa hai nhân vật chính, Ru-tơ và Bô-ô. Một người trẻ,
ngoại kiều, góa phụ nghèo túng, trong lúc người Y-sơ-ra-ên kia đứng tuổi,
giàu sang vững vàng trong cộng đồng quê hương mình. Về phần mỗi người,
có một nhân vật tương phản làm cho hành động của họ nổi bật, những hành
động vị tha của hai người: Ru-tơ - Ot-ba, Bô-ô - người bà con gần vô danh.
Khi những chuyển động thời gian, không gian và hoàn cảnh thảy đều cân
xứng với nhau, những kết quả hài hòa mà cả hai nhân vật làm thỏa mãn ý
niệm nghệ thuật của trước giả và giúp mở những cánh cửa thông biết. Trước
giả sách Ru-tơ giữ cho bạn đọc khỏi bị xao lãng khỏi trung tâm câu chuyện -
chuyển tiếp của Na-ô-mi từ tay trắng đến chỗ đầy đủ qua những hành động
xả kỷ của Ru-tơ và Bô-ô (xem chủ đề và thần học). Sự chuyển đổi, hoặc hồi
phục đó trước hết xảy ra trong sự liên quan đến việc Bà hồi hương từ Mô-áp
tới Đất Hứa và Bết-lê-hem (Nhà lương thực, xem chú thích ở 1:1). Kế đó, sự
chuyển đổi tiến hành tới mùa gặt, khi sự phong phú của xứ được thâu hoạch.
Tất cả mọi phương diện của truyện giữ sự chú ý bạn đọc tập trung vào vấn
đề trọng tâm. Sự suy xét những điều này và các dự định văn học (nêu rõ
trong các lời chú thích) sẽ giúp thấu triệt sách Ru-tơ.
Bố cục:
I. Lời mở đầu: Na-ô-mi trắng tay (1:1-5)
II. Na-ô-mi từ Mô-áp trở về (1:6-22)
A. Ru-tơ đi theo Na-ô-mi (1:6-18)
B. Ru-tơ và Na-ô-mi trở về Bết-lê-hem (1:19-22)
III. Ru-tơ và Bô-ô gặp nhau trong cánh đồng mùa gặt (2:1-23)
A. Ru-tơ bắt đầu làm việc (2:1-7)
B. Bô-ô tỏ lòng nhân từ đối với Ru-tơ (2:8-16)
C. Ru-tơ trở về với Na-ô-mi (2:17-23)
IV. Ru-tơ đến với Bô-ô tại sân đạp lúa (3:1-18)
A. Na-ô-mi chỉ thị cho Ru-tơ (3:1-5)
B. Bô-ô cam kết bảo đảm sự cứu chuộc (3:6-15)
C. Ru-tơ trở lại với Na-ô-mi (3:16-18)
V. Bô-ô sắp đặt việc cưới Ru-tơ (4:1-12)
A. Bô-ô chạm trán với người bà con gần (4:1-8)
B. Bô-ô mua sản nghiệp của Na-ô-mi và công bố kết hôn với Ru-tơ (4:9-12)
VI. Kết luận: Na-ô-mi đầy tràn (4:13-17)
VII. Phần kết: Gia phổ của Đa-vít (4:18-22)

Dẫn nhập I Sa-mu-ên


Nhan đề:
I và II Sa-mu-ên được đặt theo tên của người được Đức Chúa Trời dùng để
thiết lập vương quyền trong Y-sơ-ra-ên. Sa-mu-ên chẳng những chỉ xức dầu
cho cả Sau-lơ lẫn Đa-vít, hai vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, nhưng ông cũng
ban định nghĩa cho trật tự mới về quyền thống trị của Đức Chúa Trời trên Y-
sơ-ra-ên khi bắt đầu sát nhập vương quyền vào trong cơ cấu đó. Tầm quan
trọng của Sa-mu-ên là đại diện Đức Chúa Trời trong thời kỳ này của lịch sử
Y-sơ-ra-ên gần giống như sự đại diện của Môi-se (xem Thi Tv 99:6; Gie Gr
15:1) vì ông, hơn ai khác, đã chuẩn bị cho giao ước được liên tục trong thời
chuyển tiếp được sự quản trị của Các Quan Xét đến sự quản trị của nền quân
chủ.
I và II Sa-mu-ên nguyên chỉ là một sách. Sách được các dịch giả bản LXX
(bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp) chia đôi và sau này chính Jérôme
(người dịch Cựu Ước ra tiếng La-tinh, bản Vulgate) và các bản dịch mới đã
theo. Nhan đề của sách thỉnh thoảng thay đổi, và từng được gọi là “sách thứ
nhất và thứ hai của vương quốc” (bản LXX), “Các vua thứ nhất và thứ hai”
(bản Vulgate), và “Sa-mu-ên thứ nhất và thứ hai” (theo truyền thuyết Hê-bơ-
rơ và hầu hết các bản dịch mới).
Những đặc sắc văn học, tác quyền và niên đại:
Có nhiều thắc mắc nêu lên về tính cách văn chương, tác quyền và niên đại
của I và II Sa-mu-ên. Một số đặc điểm về văn học của sách gợi ý rằng sách
được biên soạn với sự sử dụng một số các nguồn độc lập nguyên thủy mà
trước giả có thể sát nhập vào chính tác phẩm mình trong hình thức nguyên
thủy và không biên soạn của chúng.
Không thể biết chắc ai là trước giả vì sách không tỏ dấu để nhận diện. Có
người gợi ý là “Xa-bút, con trai tiên tri Na-than”, người được nêu danh trong
IVua 1V 4:5 như là “cố vấn riêng” của vua Sa-lô-môn. Người được quyền
đến gần tài liệu về triều đại Đa-vít qua cha mình là Na-than, cũng như sổ
sách của triều đình. Dù ai là trước giả, người đó cũng phải sống ít lâu sau khi
Sa-lô-môn (930 TC) và đất nước chia đôi (xem các tham khảo về Y-sơ-ra-ên
và Giu-đa trong ISa1Sm 11:8; 17:52; 18:16; IISa 2Sm 5:5; 24:1-9 và thành
ngữ “các vua Giu-đa” trong ISa1Sm 27:6). Hơn nữa chắc chắn người cũng
được quyền đến gần các bản ghi chép về đời sống và thời đại Sa-mu-ên,
Sau-lơ và Đa-vít. Sự tham khảo rõ ràng trong sách ám chỉ đến một nguồn
duy nhất (sách Gia-sa, IISa 2Sm 1:18), như trước giả các sách Sử-ký tham
khảo 4 nguồn khác thuộc về thời kỳ này (sách biên niên sử của vua Đa-vít,
ISu1Sb 27:24; những ghi chép của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến, những ghi
chép của tiên tri Na-than, và những ghi chép Gát, “đấng tiên kiến”, ISu1Sb
29:29).
Nội dung và chủ đề: vương quyền và giao ước:
I Sa-mu-ên mô tả sự thiết lập vương quyền trong Y-sơ-ra-ên. Trước khi
trước giả mô tả sự thay đổi trọng yếu này trong cơ cấu thần quyền (Đức
Chúa Trời quản trị), người mô tả cách hữu hiệu khung cảnh phức tạp của
vấn đề. Những biến cố sau đây mô tả khung cảnh lịch sử và thần học cho sự
khai sinh ra nền quân chủ:
1. Sự sinh ra, thời niên thiếu và sự kêu gọi của Sa-mu-ên (ISa1Sm 1:1-3:21):
Trong sự phân chia một sách, phần lớn có quan hệ đến triều đại của hai vua
đầu tiên, Sau-lơ và Đa-vít, thật rất ý nghĩa là trước giả nhất định không kể
lại sự sinh ra của vua nào, nhưng lại mô tả sự sinh ra của người tiên khu và
xức dầu cho họ, tức là tiên tri Sa-mu-ên. Việc đó nhấn mạnh tầm quan trọng
mà trước giả gắn bó với vai trò của Sa-mu-ên trong các biến cố theo sau.
Người dường như dùng phương pháp tinh tế mà nói rằng thịt và huyết phải
thuận phục Lời và Thánh Linh trong tiến trình thiết lập vương quyền. Vì lý
do này, ISa1Sm 1:1-3:21 nên được coi như liên hệ mật thiết với điều theo
sau, chớ không phải là thành phần của sách Các Quan Xét hoặc chỉ vô tình
thêm vào phần đầu sách I và Sa-mu-ên. Vương quyền được khai sáng và kế
đó được trưởng dưỡng bởi công tác và lời tiên tri của tiên tri Sa-mu-ên. Hơn
nữa, các sự việc Sa-mu-ên sinh ra tiên liệu chủ đề câu chuyện và công tác
của Đức Chúa Trời đã được thuật trong phần còn lại của sách.
2. Những “câu chuyện về rương giao ước” (ISa1Sm 4:1-6:21): Phần này mô
tả cách nào rương của Đức Chúa Trời bị người Phi-li-tin bắt lấy, và sau đó
Đức Chúa Trời gây nhiều tàn phá cho mấy thành Phi-li-tin, cách nào rương
được trả về cho Y-sơ-ra-ên. Những câu chuyện này bày tỏ sự điên dại về
quan điểm của Y-sơ-ra-ên cho rằng một khi có rương thì tự động đảm bảo
chiến thắng kẻ thù của họ. Chuyện cũng bày tỏ quyền năng đáng kinh sợ của
Đức Chúa Trời (Yaweh, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên) trội hơn hẳn thần
Đa-gôn của người Phi-li-tin. Người Phi-li-tin bị sức ép xưng nhận rằng họ
bất lực chống lại quyền năng của Đức Chúa Trời bằng cách trả rương về cho
Y-sơ-ra-ên. Toàn bộ tình tiết về rương thực hiện chức năng chủ yếu thích
hợp sự mong ước tội lỗi của Y-sơ-ra-ên sau này về một vua loài người trong
viễn cảnh riêng biệt.
3. Sa-mu-ên như một Quan xét và cứu tinh (ISa1Sm 7:1-17): Khi Sa-mu-ên
kêu gọi Y-sơ-ra-ên ăn năn và tái dâng hiến cho Chúa, Chúa mạnh mẽ can
thiệp vì Y-sơ-ra-ên và ban cho họ thắng hơn dân Phi-li-tin. Câu chuyện này
tái xác quyết thẩm quyền của Sa-mu-ên là nhà lãnh đạo thiên thượng được
tấn phong, đồng thời cung cấp bằng chứng về sự phù trợ và phước lành thiên
thượng cho dân Chúa, khi họ đặt niềm tin nơi Ngài và sống thuận phục theo
nghĩa vụ của giao ước họ.
Tất cả tài liệu trong các ISa1Sm 1:1-7:17 dùng làm lời tựa cần thiết cho các
chuyện thuật ở 8:1-12:25, mô tả sự dấy lên và thiết lập vương quyền trong
Y-sơ-ra-ên. Trước giả đã khôn khéo sắp đặt những câu chuyện trong các 8:1-
12:25 hầu làm nổi bật sự tranh chấp thần học nghiêm trọng xung quanh các
sự kiện lịch sử. Trong khi nghiên cứu những chương này, các học giả
thường chú ý đến sự hiện hữu căng thẳng và mâu thuẫn trong thái độ đối với
nền quân chủ. Một mặt Sa-mu-ên được Chúa truyền ban cho dân chúng một
vua (8:7,9,22; 9:16-17; 10:24; 12:13), mặt khác sự thỉnh cầu của họ xin một
vua bị coi là tội từ bỏ Đức Chúa Trời (8:7; 10:19; 12:12,17,19-20). Nhưng
thái độ dường như mâu thuẫn này đối với nền quân chủ phải được biểu hiện
trong khung cảnh của mối liên hệ giao ước Y-sơ-ra-ên đối với Chúa.
Môi-se đã dự liệu Y-sơ-ra-ên mong muốn có một vua loài người (PhuDnl
17:18-20), nhưng vương quyền của Y-sơ-ra-ên phải phù hiệp với sự quản trị
liên tục của Chúa trên tuyển dân như Vua lớn của họ. Thay vào đó khi các
trưởng lão xin Sa-mu-ên ban cho họ một vua (ISa1Sm 8:5,19-20), thì họ từ
bỏ vương quyền của Chúa cho họ (8:7; 10:19; 12:17,19). Ước mong của họ
có một vua để giống các dân tộc xung quanh đã có - để dẫn họ ra trận và
khiến họ cảm nhận được sự an ninh và thống nhất quốc gia. Sự đòi hỏi xin
một vua tạo thành một sự khước từ mối thông công giao ước của họ với
Chúa. Hơn nữa, Chúa không những đã hứa làm Đấng bảo hộ họ nhưng cũng
nhiều lần chứng minh quyền năng Ngài vì cớ họ, hầu hết là những câu
chuyện mới xảy ra về rương giao ước (4:1-6:21), cũng như chiến thắng lớn
lao trên dân Phi-li-tin dưới quyền lãnh đạo của Sa-mu-ên (7:1-17).
Tuy nhiên Chúa đã truyền cho Sa-mu-ên ban cho dân chúng một vua
(8:7,9,22). Bởi sự chỉ định thiên thượng, Sau-lơ được đưa đến tiếp xúc với
Sa-mu-ên, và Sa-mu-ên nhận chỉ thị xức dầu cho người cách kín đáo làm
vua (9:1-10:16). Về sau Sa-mu-ên hội họp dân chúng tại Mích-ma, tại đó,
sau khi cảnh cáo họ lần nữa về tội ước ao một vua (10:18-19), ông chủ tọa
việc tuyển lựa một vua bằng cách bắt thăm. Thăm trúng nhằm Sau-lơ và
công khai chỉ định như người được Chúa chọn (10:24). Sau-lơ không chịu
đảm nhận chức vụ ngay, nhưng trở về làm việc nơi đồng ruộng mình
(11:5,7). Khi dân cư Gia-bê ở Ga-la-át bị Na-hách người Am-môn đe dọa,
Sau-lơ chổi dậy nhận sự thách thức, nhóm đạo binh lại và lãnh đạo Y-sơ-ra-
ên chiến thắng tại trận tiền. Sự thành công của người đóng dấu ấn cuối cùng
của sự phê chuẩn thiên thượng về việc Sau-lơ được chọn làm vua (so sánh
10:24; 11:12-13), và là cơ hội khai sáng triều đại của người tại Ghinh-ganh
(11:14-12:25).
Vấn đề vẫn cần quyết định sau đó, không phải liệu Y-sơ-ra-ên có cần vua
hay không (rõ ràng Chúa đã ban cho họ một vua) nhưng thật ra là cách nào
họ có thể duy trì giao ước họ với Đức Chúa Trời (tức là bảo tồn chế độ thần
quyền) khi họ đã có một vua loài người. Vấn đề được giải quyết khi Sa-mu-
ên kêu gọi dân chúng ăn năn tái lập sự trung thành với Chúa trong chính dịp
lễ đăng quang làm vua của Sau-lơ (11:14-12:25; cũng xem chú thích ở
10:25). Bằng cách thiết lập vương quyền trong khung cảnh tái lập giao ước,
Sa-mu-ên đặt nền quân chủ trong Y-sơ-ra-ên trên lập trường cơ bản hoàn
toàn khác với các quốc gia xung quanh. Vua trong Y-sơ-ra-ên không tự trị
trong thẩm quyền và năng lực mình, thật ra vua phải lệ thuộc vào luật pháp
của Chúa và lời của đấng tiên tri (10:25; 12:23). Điều này chẳng phải chỉ áp
dụng cho Sau-lơ thôi nhưng cũng cho tất cả các vua ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-
ên trong tương lai nữa. Vua là một dụng cụ của quyền quản trị Chúa trên dân
Ngài, và cả vua lẫn dân phải tiếp tục thừa nhận Chúa là quốc vương tối cao
của họ (12:14-15).
Sau-lơ nhanh chóng chứng minh rằng người không sẵn sàng thuận phục
những điều kiện thiết yếu của chức vụ thần quyền (13:1-15:35). Khi người
bất tuân những chỉ thị của tiên tri Sa-mu-ên trong sự chuẩn bị ra trận chống
với người Phi-li-tin (13:13), và khi người từ chối không chịu tuyệt diệt dân
A-ma-léc, như lệnh truyền phải làm bởi lời Chúa thông qua Sa-mu-ên (15:1-
35), người không còn là dụng cụ để Chúa quản trị nữa. Sự bãi bỏ mọi đòi hỏi
của chức vụ thần quyền dẫn đến chỗ từ bỏ người không còn làm vua nữa.
Phần còn lại của I Sa-mu-ên (16:1-31:13) mô tả Chúa lựa chọn Đa-vít là
người kế vị Sau-lơ, và kế đó mô tả con đường dài của Đa-vít chuẩn bị lên
ngôi. Dầu chân tánh quyền cai trị của Sau-lơ ngày càng chống đối thần
quyền, Đa-vít từ chối không chịu soán đoạt ngôi vua bằng vũ lực, nhưng
giao lại việc lên ngôi của mình trong tay Chúa. Cuối Sau-lơ bị thương nặng
trong trận đánh với người Phi-li-tin và sợ bị bắt, người đã tự vẫn. Ba con của
Sau-lơ, kể cả người bạn thiết của Đa-vít là Giô-na-than, đều bị giết trong
trận đó (31:1-13).
Niên đại:
Dầu những câu chuyện thuật trong I và II Sa-mu-ên chứa nhiều lời phát biểu
quan trọng về niên đại (xem thí dụ, 6:1; 7:2; 8:1,5; 13:1; 25:1; IISa 2Sm
2:10-11; 5:4-5; 14:28; 15:7), các dữ kiện vẫn không đủ để thiết lập niên đại
chính xác cho các biến cố lớn trong thời kỳ này của lịch sử Y-sơ-ra-ên. Trừ
những niên hiệu về ngày sinh của Đa-vít, thời gian của triều đại người, hoàn
toàn chắc chắn (xem IISa 2Sm 5:4-5), hầu hết các niên đại khác chỉ là phỏng
chừng. Vấn đề nguyên tác với các tài liệu về niên hiệu theo tuổi Sau-lơ khi
người lên làm vua, và thời gian của triều đại người (xem các chú thích ở
ISa1Sm 13:1) góp phần vào liên hệ không chắc chắn về thời điểm chính xác
việc ra đời và bắt đầu làm vua của Sau-lơ. Cũng chẳng có tin tức liên hệ thời
gian Sa-mu-ên sinh ra (ISa1Sm 1:1) hoặc qua đời (25:1). Đời sống của
người chắc phải nối tiếp, ít nhất một phần đời của Sam-sôn, đời của Ô-bết,
con của Ru-tơ và Bô-ô, và ông nội của Đa-vít. Tỏ ra rằng Sa-mu-ên mạnh
khỏe khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên xin ông cho họ một vua (xem 8:1,5).
Yếu tố khác góp phần vào sự không chắc của niên hiệu là trước giả không
phải luôn luôn sắp đặt tài liệu mình đúng theo diễn tiến niên đại cách
nghiêm túc. Thí dụ, IISa 2Sm 7:1-29 phải đặt theo niên hiệu sau các cuộc
chinh phục của Đa-vít mô tả trong IISa 2Sm 8:1-14 (xem các chú thích ở
IISa 2Sm 7:1; 8:1). Truyện cơn đói kém Đức Chúa Trời giáng trên Y-sơ-ra-
ên trong thời Đa-vít vì cớ Sau-lơ đã vi phạm hòa ước thiết lập với dân Ga-
ba-ôn được thấy trong IISa 2Sm 21:1-4, dầu theo niên đại sự việc xảy ra
trước thời Áp-sa-lôm phản loạn ghi trong IISa 2Sm 15:1-18:30 (xem thêm
các chú thích ở IISa 2Sm 21:1-2). Tuy nhiên các niên hiệu sau đây cung ứng
một khung cảnh niên đại phỏng chừng cho các thời đại Sa-mu-ên, Sau-lơ và
Đa-vít.
1105 TC Sa-mu-ên sinh ra (ISa1Sm 1:20).
1080 Sau-lơ sinh ra.
1050 Sau-lơ được xức dầu làm vua ISa1Sm 10:1)
1040 Đa-vít sinh ra.
1025 Đa-vít được xức dầu kế vị Sau-lơ (ISa1Sm 16:1-13)
1010 Sau-lơ qua đời và triều đại Đa-vít khởi đầu cai trị Giu-đa tại Hếp-rôn
(IISa 2Sm 1:1; 2:1,4,11)
1003 Khởi sự triều đại của Đa-vít trên cả Y-sơ-ra-ên và sự chiếm Giê-ru-sa-
lem (IISa 2Sm 5:1- 25)
997-992 Những chiến trận của Đa-vít (IISa 2Sm 8:1-14)
991 Sa-lô-môn sinh ra (IISa 2Sm 12:24; IVua 1V 3:7; 11:42)
980 Đa-vít kiểm tra dân số (IISa 2Sm 24:1)
970 Kết thúc triều đại Đa-vít (IISa 2Sm 5:4-5; IVua 1V 2:10-11)
Bố cục:
I. Khung cảnh lịch sử đối với sự thiết lập vương quyền trong Y-sơ-ra-ên
(ISa1Sm 1:7)
A. Sa-mu-ên sinh ra, thời niên thiếu và tiếng gọi làm tiên tri: Sự đoán phạt
trên nhà Hê-li (ISa1Sm 1:1-3:21)
B. Y-sơ-ra-ên bị dân Phi-li-tin đánh bại, rương của Chúa bị cướp và được
hoàn trả Vai trò của Sa-mu-ên làm Quan xét và cứu tinh# (ISa1Sm 4:1-7:17)
II. Sự thiết lập vương quyền trong Y-sơ-ra-ên dưới sự hướng dẫn của tiên tri
Sa-mu-ên (ISa1Sm 8:1-12:25)
A. Yêu cầu tội lỗi của dân sự xin một vua và ý định của Chúa ban một vua
cho họ (ISa 8:1-22;)
B. Sa-mu-ên xức dầu cho Sau-lơ cách kín đáo để làm vua (ISa1Sm 9:1-
10:16)
C. Sau-lơ được lựa chọn công khai làm vua bằng cách bắt thăm tại Mích-ma
(ISa1Sm 10:17-27)
D. Sự lựa chọn Sau-lơ làm vua được chứng quyết bởi chiến thắng dân Am-
môn (ISa1Sm 11:1-13)
E. Khai sáng triều đại của Sau-lơ tại một lễ tái lập giao ước do Sa-mu-ên
triệu tập tại Ghinh ganh (ISa1Sm 11:14-12:25)
III. Vương quyền của Sau-lơ, một thất bại (ISa1Sm 13:1-15:35)
IV. Việc đưa Đa-vít lên ngôi vua: Sự sa đọa tiệm tiến và sự kết thúc triều đại
Sau-lơ (ISa1Sm 16:1-31:13; IISa 2Sm 1:1-5:5)
A. Đa-vít được xức dầu cách kín đáo, vào phục vụ vua Sau-lơ và chạy trốn
cứu mạng (ISa1Sm 16:1-26:25)
B. Đa-vít tìm cách ẩn náu tại xứ Phi-li-tin, và Sau-lơ cùng các con tử trận
(ISa1Sm 27:1-31:13)
C. Đa-vít trở thành vua trên Giu-đa (IISa 2Sm 1:1-4:12)
D. Đa-vít trở thành vua trên cả Y-sơ-ra-ên (IISa 2Sm 5:1-5)
V. Vương quyền của Đa-vít: sự nghiệp và vinh quang (IISa 2Sm 5:6-9:12)
A. Đa-vít chinh phục Giê-ru-sa-lem và đánh bại dân Phi-li-tin (IISa 2Sm
5:6-25)
B. Đa-vít đem rương giao ước về Giê-ru-sa-lem (IISa 2Sm 6:1-23)
C. Đức Chúa Trời hứa ban cho Đa-vít một triều đại đời đời (IISa 2Sm 7:1-
29)
D. Mở rộng vương quốc của Đa-vít ra bên ngoài và sự quản trị công chính
bên trong (IISa 2Sm 8:1-18)
E. Sự trung thành của Đa-vít đối với giao ước lập cùng Giô-na-than (IISa
2Sm 9:1-13)
VI. Vương quyền của Đa-vít: những yếu đuối và thất bại (IISa 2Sm 10:1-
20:26)
A. Đa-vít phạm tội tà dâm và sát nhân (IISa 2Sm 10:1-12:31)
B. Đa-vít mất các con trai là Am-nôn và Áp-sa-lôm (IISa 2Sm 13:1-20:42)
VII. Những nhận xét sau cùng về triều đại Đa-vít (IISa 2Sm 21:1-24:25)

Dẫn nhập II Sa-mu-ên


Nhan đề:
I và II Sa-mu-ên được đặt theo tên của người được Đức Chúa Trời dùng để
thiết lập vương quyền trong Y-sơ-ra-ên. Sa-mu-ên chẳng những chỉ xức dầu
cho cả Sau-lơ lẫn Đa-vít, hai vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, nhưng ông cũng
ban định nghĩa cho trật tự mới về quyền thống trị của Đức Chúa Trời trên Y-
sơ-ra-ên khi bắt đầu sát nhập vương quyền vào trong cơ cấu đó. Tầm quan
trọng của Sa-mu-ên là đại diện Đức Chúa Trời trong thời kỳ này của lịch sử
Y-sơ-ra-ên gần giống như sự đại diện của Môi-se (xem Thi Tv 99:6; Gie Gr
15:1) vì ông, hơn ai khác, đã chuẩn bị cho giao ước được liên tục trong thời
chuyển tiếp được sự quản trị của Các Quan Xét đến sự quản trị của nền quân
chủ.
I và II Sa-mu-ên nguyên chỉ là một sách. Sách được các dịch giả bản LXX
(bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp) chia đôi và sau này chính Jérôme
(người dịch Cựu Ước ra tiếng La-tinh, bản Vulgate) và các bản dịch mới đã
theo. Nhan đề của sách thỉnh thoảng thay đổi, và từng được gọi là “sách thứ
nhất và thứ hai của vương quốc” (bản LXX), “Các vua thứ nhất và thứ hai”
(bản Vulgate), và “Sa-mu-ên thứ nhất và thứ hai” (theo truyền thuyết Hê-bơ-
rơ và hầu hết các bản dịch mới).
Những đặc sắc văn học, tác quyền và niên hiệu
Có nhiều thắc mắc nêu lên về tính cách văn chương, tác quyền và niên đại
của I và II Sa-mu-ên. Một số đặc điểm về văn học của sách gợi ý rằng sách
được biên soạn với sự sử dụng một số các nguồn độc lập nguyên thủy mà
trước giả có thể sát nhập vào chính tác phẩm mình trong hình thức nguyên
thủy và không biên soạn của chúng.
Không thể biết chắc ai là trước giả vì sách không tỏ dấu để nhận diện. Có
người gợi ý là “Xa-bút, con trai tiên tri Na-than”, người được nêu danh trong
IVua 1V 4:5 như là “cố vấn riêng” của vua Sa-lô-môn. Người được quyền
đến gần tài liệu về triều đại Đa-vít qua cha mình là Na-than, cũng như sổ
sách của triều đình. Dù ai là trước giả, người đó cũng phải sống ít lâu sau khi
Sa-lô-môn (930 TC) và đất nước chia đôi (xem các tham khảo về Y-sơ-ra-ên
và Giu-đa trong ISa1Sm 11:8; 17:52; 18:16; IISa 2Sm 5:5; 24:1-9 và thành
ngữ “các vua Giu-đa” trong ISa1Sm 27:6). Hơn nữa chắc chắn người cũng
được quyền đến gần các bản ghi chép về đời sống và thời đại Sa-mu-ên,
Sau-lơ và Đa-vít. Sự tham khảo rõ ràng trong sách ám chỉ đến một nguồn
duy nhất (sách Gia-sa, IISa 2Sm 1:18), như trước giả các sách Sử-ký tham
khảo 4 nguồn khác thuộc về thời kỳ này (sách biên niên sử của vua Đa-vít,
ISu1Sb 27:24; những ghi chép của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến, những ghi
chép của tiên tri Na-than, và những ghi chép Gát, “đấng tiên kiến”, ISu1Sb
29:29).
Những nội dung và chủ đề: Vương quyền và Giao ước
II Sa-mu-ên mô tả Đa-vít như một đại diện (dầu không toàn hảo) chân chính
của vua thần quyền lý tưởng. Tiên khởi Đa-vít được chi phái Giu-đa tôn làm
vua tại Hếp-rôn IISa 2Sm 1:1-4:12) và sau đó được các chi phái còn lại chấp
nhận sau sự sát hại Ích-bô-sết, một trong các con trai còn sống sót của Sau-
lơ (5:1-5). Quyền lãnh đạo của Đa-vít là quyết tâm và hữu hiệu. Người
chiếm lấy Giê-ru-sa-lem từ dân Giê-bu-sít và làm nơi ở cùng thành phố của
hoàng gia (5:6-14). Chẳng bao lâu sau đó, Đa-vít thỉnh rương của Chúa từ
nhà A-bi-na-đáp đến Giê-ru-sa-lem, công khai thừa nhận vương quyền của
Chúa quản trị chính mình và quốc dân 6:1-23; Thi Tv 132:3-5).
Dưới sự trị vì của Đa-vít, Đức Giê-hô-va khiến cho quốc gia thịnh vượng,
thắng kẻ thù, và để làm thành nghiệm lời Chúa hứa (SaSt 15:18), mở rộng
bờ cõi từ Ai-cập đến sông Ơ-phơ-rát IISa 2Sm 8:1-18). Đa-vít muốn xây cất
Đền Thờ cho Chúa - như vương cung của người, làm một chỗ đặt ngai Chúa
(rương thánh) là nơi Y-sơ-ra-ên thờ phượng. Nhưng tiên tri Na-than nói
cùng Đa-vít rằng người không phải xây cho Chúa một nhà (Đền Thờ) đúng
hơn, Chúa sẽ xây cho Đa-vít một nhà (triều đại). 7:1-29 loan báo việc Chúa
hứa cho triều đại Đa-vít còn đến đời đời. Chương tuyệt đích này còn mô tả
sự thiết lập giao ước của Đa-vít (xem Thi Tv 89:34-37), một giao ước hứa
hẹn sự chiến thắng tối hậu trên kẻ ác (Quỉ vương) qua dòng dõi của Ê-va
(xem SaSt 3:15 và chú thích). Lời hứa này - được tập trung vào Sem và dòng
dõi người (xem SaSt 9:26-27 và các chú thích), kế đến vào Áp-ra-ham và
dòng dõi người (xem SaSt 12:2-3; 13:16; 15:5 và các chú thích) rồi đến Giu-
đa và dòng dõi (hoàng gia) người (xem SaSt 49:8-11 và các chú thích) - và
bây giờ tập trung đặc biệt vào hoàng gia Đa-vít. Về sau, các tiên tri nói rõ
rằng một dòng dõi Đa-vít ngồi trên ngai Đa-vít sẽ làm thành nghiệm toàn
hảo vai trò của vua thần quyền. Chúa sẽ hoàn tất việc cứu chuộc dân của
Đức Chúa Trời (xem EsIs 9:6,7; 11:1-16; Gie Gr 23:5-6; 30:8-9; 33:14-16;
Exe Ed 34:23-24; 37:24-25), như thế khiến họ hoàn thành lời hứa chiến
thắng với người (RoRm 16:20).
Sau khi mô tả sự cai trị của Đa-vít trong vinh quang và thành công, IISa
2Sm 10:1-20:26 mô tả mặt tối tăm hơn về sự cai trị của người, và mô tả
những yếu đuối và thất bại của Đa-vít. Dầu Đa-vít vẫn còn làm vua theo
lòng Đức Chúa Trời bởi vì người đã sẵn lòng thừa nhận tội mình và ăn năn
(12:13), tuy nhiên người đã sa sút trầm trọng đối với lý tưởng thần quyền, và
chịu kết quả đau đớn sửa dạy về sự bất tuân của người (12:10-12). Tội người
phạm với Bát-sê-ba (11:1-12:31) và tính dung túng đối với sự gian ác của
các con trai mình (13:21; 14:1,33; 19:4-6) và sự bất phục tùng của Giô-áp
(3:29,39; 20:10,23) dẫn đến âm mưu, bạo động và đổ máu trong gia đình
riêng của người và quốc gia. Cuối cùng, nhằm thời Áp-sa-lôm phản loạn,
người bị đuổi ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, Chúa vẫn nhân từ đối
với Đa-vít, và sự trị vì của người trở thành tiêu chuẩn cho các vua kế vị sau
này noi theo (xem IIVua 2V 18:3; 22:2).
Sách kết thúc bằng chính những lời ca ngợi của Đa-vít dâng lên Đức Chúa
Trời là Đấng giải cứu người khỏi mọi kẻ thù nghịch (IISa 2Sm 22:31-51) và
với lời trông mong lời của Đức Chúa Trời được thành nghiệm rằng một vua
sẽ đến từ nhà Đa-vít và cai trị “loài người cách công chính” (23:3-5). Những
bài ca này vang dội nhiều chủ đề trong bài ca An-ne (ISa1Sm 2:1-10) và hai
bài ca hiệp lại đóng khung (và giải thích) câu chuyện cơ bản.
Niên đại:
Dầu những câu chuyện thuật trong I và II Sa-mu-ên chứa nhiều lời phát biểu
quan trọng về niên đại (xem thí dụ, ISa1Sm 6:1; 7:2; 8:1,5; 13:1; 25:1; IISa
2Sm 2:10-11; 5:4-5; 14:28; 15:7), các dữ kiện vẫn không đủ để thiết lập niên
đại chính xác cho các biến cố lớn trong thời kỳ này của lịch sử Y-sơ-ra-ên.
Trừ những niên hiệu về ngày sinh của Đa-vít, thời gian của triều đại người,
hoàn toàn chắc chắn (xem IISa 2Sm 5:4-5), hầu hết các niên đại khác chỉ là
phỏng chừng. Vấn đề nguyên tác với các tài liệu về niên hiệu theo tuổi Sau-
lơ khi người lên làm vua, và thời gian của triều đại người (xem các chú thích
ở ISa1Sm 13:1) góp phần vào liên hệ không chắc chắn về thời điểm chính
xác việc ra đời và bắt đầu làm vua của Sau-lơ. Cũng chẳng có tin tức liên hệ
thời gian Sa-mu-ên sinh ra (ISa1Sm 1:1) hoặc qua đời (25:1). Đời sống của
người chắc phải nối tiếp, ít nhất một phần đời của Sam-sôn, đời của Ô-bết,
con của Ru-tơ và Bô-ô, và ông nội của Đa-vít. Tỏ ra rằng Sa-mu-ên mạnh
khỏe khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên xin ông cho họ một vua (xem 8:1,5).
Yếu tố khác góp phần vào sự không chắc của niên hiệu là trước giả không
phải luôn luôn sắp đặt tài liệu mình đúng theo diễn tiến niên đại cách
nghiêm túc. Thí dụ, IISa 2Sm 7:1-29 phải đặt theo niên hiệu sau các cuộc
chinh phục của Đa-vít mô tả trong IISa 2Sm 8:1-14 (xem các chú thích ở
IISa 2Sm 7:1; 8:1). Truyện cơn đói kém Đức Chúa Trời giáng trên Y-sơ-ra-
ên trong thời Đa-vít vì cớ Sau-lơ đã vi phạm hòa ước thiết lập với dân Ga-
ba-ôn được thấy trong IISa 2Sm 21:1-4, dầu theo niên đại sự việc xảy ra
trước thời Áp-sa-lôm phản loạn ghi trong IISa 2Sm 15:1-18:30 (xem thêm
các chú thích ở IISa 2Sm 21:1-2). Tuy nhiên các niên hiệu sau đây cung ứng
một khung cảnh niên đại phỏng chừng cho các thời đại Sa-mu-ên, Sau-lơ và
Đa-vít.
1105 TC Sa-mu-ên sinh ra (ISa1Sm 1:20).
1080 Sau-lơ sinh ra.
1050 Sau-lơ được xức dầu làm vua ISa1Sm 10:1)
1040 Đa-vít sinh ra.
1025 Đa-vít được xức dầu kế vị Sau-lơ (ISa1Sm 16:1-13)
1010 Sau-lơ qua đời và triều đại Đa-vít khởi đầu cai trị Giu-đa tại Hếp-rôn
(IISa 2Sm 1:1; 2:1,4,11)
1003 Khởi sự triều đại của Đa-vít trên cả Y-sơ-ra-ên và sự chiếm Giê-ru-sa-
lem (IISa 2Sm 5:1- 25)
997-992 Những chiến trận của Đa-vít (IISa 2Sm 8:1-14)
991 Sa-lô-môn sinh ra (IISa 2Sm 12:24; IVua 1V 3:7; 11:42)
980 Đa-vít kiểm tra dân số (IISa 2Sm 24:1)
970 Kết thúc triều đại Đa-vít (IISa 2Sm 5:4-5; IVua 1V 2:10-11)
Bố cục:
I. Khung cảnh lịch sử đối với sự thiết lập vương quyền trong Y-sơ-ra-ên
(ISa1Sm 1:7)
A. Sa-mu-ên sinh ra, thời niên thiếu và tiếng gọi làm tiên tri: Sự đoán phạt
trên nhà Hê-li (ISa1Sm 1:1-3:21)
B. Y-sơ-ra-ên bị dân Phi-li-tin đánh bại, rương của Chúa bị cướp và được
hoàn trả Vai trò của Sa-mu-ên làm Quan xét và cứu tinh# (ISa1Sm 4:1-7:17)
II. Sự thiết lập vương quyền trong Y-sơ-ra-ên dưới sự hướng dẫn của tiên tri
Sa-mu-ên (ISa1Sm 8:1-12:25)
A. Yêu cầu tội lỗi của dân sự xin một vua và ý định của Chúa ban một vua
cho họ (ISa 8:1-22;)
B. Sa-mu-ên xức dầu cho Sau-lơ cách kín đáo để làm vua (ISa1Sm 9:1-
10:16)
C. Sau-lơ được lựa chọn công khai làm vua bằng cách bắt thăm tại Mích-ma
(ISa1Sm 10:17-27)
D. Sự lựa chọn Sau-lơ làm vua được chứng quyết bởi chiến thắng dân Am-
môn (ISa1Sm 11:1-13)
E. Khai sáng triều đại của Sau-lơ tại một lễ tái lập giao ước do Sa-mu-ên
triệu tập tại Ghinh ganh (ISa1Sm 11:14-12:25)
III. Vương quyền của Sau-lơ, một thất bại (ISa1Sm 13:1-15:35)
IV. Việc đưa Đa-vít lên ngôi vua: Sự sa đọa tiệm tiến và sự kết thúc triều đại
Sau-lơ (ISa1Sm 16:1-31:13; IISa 2Sm 1:1-5:5)
A. Đa-vít được xức dầu cách kín đáo, vào phục vụ vua Sau-lơ và chạy trốn
cứu mạng (ISa1Sm 16:1-26:25)
B. Đa-vít tìm cách ẩn náu tại xứ Phi-li-tin, và Sau-lơ cùng các con tử trận
(ISa1Sm 27:1-31:13)
C. Đa-vít trở thành vua trên Giu-đa (IISa 2Sm 1:1-4:12)
D. Đa-vít trở thành vua trên cả Y-sơ-ra-ên (IISa 2Sm 5:1-5)
V. Vương quyền của Đa-vít: sự nghiệp và vinh quang (IISa 2Sm 5:6-9:12)
A. Đa-vít chinh phục Giê-ru-sa-lem và đánh bại dân Phi-li-tin (IISa 2Sm
5:6-25)
B. Đa-vít đem rương giao ước về Giê-ru-sa-lem (IISa 2Sm 6:1-23)
C. Đức Chúa Trời hứa ban cho Đa-vít một triều đại đời đời (IISa 2Sm 7:1-
29)
D. Mở rộng vương quốc của Đa-vít ra bên ngoài và sự quản trị công chính
bên trong (IISa 2Sm 8:1-18)
E. Sự trung thành của Đa-vít đối với giao ước lập cùng Giô-na-than (IISa
2Sm 9:1-13)
VI. Vương quyền của Đa-vít: những yếu đuối và thất bại (IISa 2Sm 10:1-
20:26)
A. Đa-vít phạm tội tà dâm và sát nhân (IISa 2Sm 10:1-12:31)
B. Đa-vít mất các con trai là Am-nôn và Áp-sa-lôm (IISa 2Sm 13:1-20:42)
VII. Những nhận xét sau cùng về triều đại Đa-vít (IISa 2Sm 21:1-24:25)

Dẫn nhập I Các Vua


Nhan đề:
I và IIVua (giống như I và IISa-mu-ên, I và IISử ký) thật ra là một tác phẩm
văn học, gọi theo truyền thống Hê-bơ-rơ đơn giản là “Các Vua”. Sự chia
sách này làm hai được du nhập bởi các dịch giả bản LXX (bản dịch Cựu
Ước ra tiếng Hy Lạp), sau đó bản La-tinh Vulgate theo, rồi đến các bản dịch
mới. Năm 1448, sự chia làm hai sách cũng xuất hiện trong bản viết tay tiếng
Hê-bơ-rơ, và tồn tại mãi trong các ấn bản in bằng tiếng Hê-bơ-rơ sau này. Cả
hai bản LXX và bản La-tinh Vulgate về sau đặt tên Sa-mu-ên và Các Vua
bằng cách nhấn mạnh sự liên hệ giữa hai tác phẩm này (Bản LXX: Sách Các
Vương quốc thứ I và thứ II, thứ III và thứ IV, còn bản La-tinh Vulgate: Sách
Các Vua thứ I, thứ II, thứ III và thứ IV). Sa-mu-ên và Các Vua cùng thuật lại
toàn bộ lịch sử của nền quân chủ, từ lúc dấy lên dưới chức vụ của Sa-mu-ên
cho đến kỳ sụp đổ dưới bàn tay của người Ba-by-lôn.
Sự phân chia giữa I và IIVua được thực hiện thích hiệp trừ vài chỗ tùy tiện,
ít lâu sau sự chết của A-háp ở nước phía bắc (IVua 1V 22:37) và sự chết của
Giô-sa-phát nước phía nam (IVua 1V 22:50). Đặt sự phân chia ở điểm này
khiến cho câu chuyện đời trị vì của A-cha-xia, vua Y-sơ-ra-ên gối lên sự kết
thúc của IVua (IVua 1V 22:51-53) và bắt đầu IIVua (IIVua 2V 1:1-18). Việc
ấy cũng đúng đối với câu chuyện chức vụ của Ê-li, mà phần lớn xuất hiện
trong IVua (IVua 1V 17:1-19:21). Tuy nhiên, hành động phán quyết cuối
cùng và sự chuyển áo choàng của ông qua cho Ê-li-sê vào lúc người lên trời
trong một cơn gió lốc đều ghi trong IIVua (IIVua 2V 1:1-2:17).
Trước giả, Nguồn Tin Và Niên Hiệu:
Rất ít bằng cớ để kết luận về sự nhận diện trước giả của I và IIVua. Dù theo
truyền thuyết Do Thái công nhận là Giê-rê-mi, ngày nay ít người chấp nhận
điều này. Dù trước giả là ai, rõ ràng người đó rất quen thuộc với sách Phục
truyền luật lệ ký - như nhiều tiên tri của Y-sơ-ra-ên. Cũng rõ ràng người đó
dùng các nguồn tài liệu khác nhau trong việc biên soạn lịch sử nền quân chủ.
Có ba nguồn được ghi, ấy là: “Sách hành trạng (sử biên niên) của Sa-lô-
môn” (IVua 1V 11:41), Sách “Sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên” (IVua 1V
14:19), “Sách sử ký của các vua Giu-đa” (IVua 1V 14:29). Rất có thể các
nguồn ghi chép khác cũng được dùng đến (như có nói trong các sách Sử ký:
xem dưới đây).
Dù có vài học giả kết luận rằng có ba nguồn đặc biệt đã nêu trong I và IIVua
được coi như các sử biên niên chính thức của triều đình từ văn khố hoàng
gia tại Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri, điều này không có gì chắc chắn. Dường
như có ít nhất một điểm đáng ngờ là không biết các sử biên niên chính thức
trong triều có dám ghi chi tiết những âm mưu như đã viện dẫn trong IVua
1V 16:20; IIVua 2V 15:15 chăng? Cũng rất đáng ngờ là liệu các sử biên niên
triều đình chính thức có sẵn sàng cho công chúng được quyền lui tới nghiên
cứu, như trước giả hàm ý rõ ràng trong việc tham khảo chúng. Những sự
xem xét như thế đã dẫn vài học giả đến kết luận rằng những nguồn tin cậy là
những ghi chép đời trị vì các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa soạn bởi các tiên tri
Y-sơ-ra-ên kế tiếp nối nhau qua thời kỳ vương quốc. I và IISử ký cũng nói
đến một số ghi chép như thế: “Sách của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến, sách của
Na-than, đấng tiên tri và sách của Gát, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29),
“Sách của tiên tri A-hi-gia, người Si-lô” và “Sách khải tượng của Giê-đô,
đấng tiên kiến” (IISu 2Sb 9:29), “Sách của Sê-ma-gia, đấng tiên tri” (IISu
2Sb 12:15) “Sách Giê-hu, con trai Ha-na-ni” (IISu 2Sb 20:34), “Sách truyện
các vua” (IISu 2Sb 24:27), “Ê-sai, con trai A-mốt...đã biên chép các công sự
khác của Ô-xia từ đầu đến cuối” (IISu 2Sb 26:22; cũng xem IISu 2Sb 32:32)
- và chắc chắn còn nhiều sách khác. Thí dụ, rất có thể trước giả đã tùy thuộc
vào nguồn lời tiên tri mà chép các chức vụ của Ê-li và Ê-li-sê (có lẽ vào
khoảng thế kỷ thứ 8 TC) soạn thảo truyện hai tiên tri này trong đó họ đã
được so sánh với Môi-se và Giô-suê.
Có vài học giả đã đặt niên hiệu biên soạn I và IIVua nhằm thời gian sau khi
Giê-hô-gia-kin được tha khỏi ngục (562 TC, IIVua 2V 25:27-30) và trước
khi mãn kỳ lưu đày tại Ba-by-lôn năm 538. Lập trường này không được thừa
nhận bởi các chủ trương khác đặt cơ sở trên những phát biểu trong I và
IIVua đã nói đến vài điều chắc chắn trong thời kỳ tiền lưu đày được ghi rằng
còn tồn tại “cho đến ngày nay” (xem thí dụ, IVua 1V 8:8, các đòn dùng để
khiêng rương giao ước IVua 1V 9:20-21, công tác xâu dịch IVua 1V 12:19,
Y-sơ-ra-ên phản nghịch nhà Đa-vít IIVua 2V 8:22, dân Ê-đôm phản nghịch
chống vương quốc Giu-đa). Từ những lời phát biểu đó có sự biện luận rằng
trước giả phải là người sống trong Giu-đa thời tiền lưu đày chớ không phải
trong xứ Ba-by-lôn thời hậu lưu đày. Nếu luận chứng này được chấp nhận,
người ta phải kết luận rằng nguyên tắc được soạn thảo khoảng vua Giô-sia
băng hà, và tài liệu thuộc về sau đời vua này trị vì được thêm vào trong kỳ
lưu đày khoảng 550. Trong khi quan điểm “Hai ấn bản” này khả dĩ chấp
nhận được, nó còn tùy thuộc phần lớn vào các lời phát biều “cho đến ngày
nay”.
Cách để hiểu những lời phát biểu này là trước giả đã dùng nguồn nguyên
thủy hơn là lời phát biểu của chính trước giả. Sự so sánh IISu 2Sb 5:9 với
IVua 1V 8:8 gợi ý rằng đây là lời kết luận chính đáng. Sách Sử-ký rõ ràng
chép sau lưu đày, tuy nhiên lời phát biểu về đòn khiêng rương giao ước (còn
cho đến ngày nay) đều là một trong sách Sử ký như trong sách Các vua. Có
lẽ trước giả sách Sử ký chỉ viện dẫn nguồn tin của mình, tức là IVua 1V 8:8.
Chẳng có lý do nào trước giả sách I và IIVua không thể làm điều giống như
vậy viện dẫn từ các nguồn tin trước của mình. Lời giải thích này cho phép
theo lập trường chỉ một trước giả sống trong thời lưu đày và sử dụng các
nguồn tài liệu sẵn có.
Chủ đề: vương quyền và giao ước:
I và IIVua không chứa đựng một câu rõ rệt nào về mục đích và chủ đề. Tuy
nhiên, suy xét phần nội dung tỏ ra trước giả đã lựa chọn và sắp đặt tài liệu
cách khéo léo để cung cấp một cuốn tiếp theo cho lịch sử tìm thấy trong I và
IISa-mu-ên - lịch sử vương quyền chi phối bởi giao ước. Nói chung, I và
IIVua mô tả lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa trong ánh sáng các giao
ước của Thượng Đế. Chủ đề hướng dẫn của sách là phúc lợi của Y-sơ-ra-ên
và các vua của họ tùy thuộc vào sự vâng theo những nghĩa vụ đã qui định
trong giao ước Môi-se.
Rõ ràng ý định trước giả chẳng phải trình bày một lịch sử kinh tế, chính trị
và xã hội của nền quân chủ Y-sơ-ra-ên theo nguyên tắc chép sử hiện đại.
Trước giả nhiều lần nhắc lại viện dẫn cho đọc giả những nguồn khác để biết
thêm thông tin về các đời trị vì của các vua khác (xem thí dụ, IVua 1V
11:41; 14:19,29; 15:7,31; 16:5,14,20,27), và trước giả thay vì cho một ước
định kinh tế, chính trị và xã hội, thì lại cho một ước định theo giao ước trong
các đời trị vì của họ. Theo quan điểm của sử gia chính trị, Ôm-ri tất phải
được coi là một trong những vua quan trọng hơn tại vương quốc phía bắc.
Người đã thiết lập một triều đại hùng cường và biến Sa-ma-ri thành thủ đô.
Theo bảng đá Mô-áp, Ôm ri là vua đã chinh phục dân Mô-áp cho vương
quốc phía bắc. Mãi về sau, khi Ôm-ri chết, các nhà cai trị A-si-ri còn viện
dẫn đến Giê-hu như là “con trai của Ôm-ri” (hoặc vì lầm lẫn, hoặc chỉ theo
qui ước văn học của họ, khi nói đến một vua sau này của một vương quốc).
Tuy nhiên, mặc dầu sự quan trọng của Ôm-ri, đời trị vì của người chỉ được
nêu lên qua loa bằng 6 câu (IVua 1V 16:23-28) với lời phát biểu rằng:
“người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va , ăn ở tệ hơn các bậc tiền bối
người” (IVua 1V 16:25). Cũng như vậy, đời trị vì của Giê-rô-bô-am II,
người chủ trị nước phía bắc trong thời cường thạnh nhất về kinh tế và chính
trị, cũng chỉ nói vắn tắt (IIVua 2V 14:23-29).
Một ví dụ khác về sự chú ý của trước giả đến giao ước hơn là chỉ đến kinh
tế, chính trị có thể thấy trong sự mô tả đời trị vì của Giô-sia nước Giu-đa.
Chẳng thấy nói gì đến các năm đầu người trị vì, nhưng lại mô tả tỉ mỉ về sự
cải cách và tái lập giao ước mà người xúc tiến trong năm làm vua thứ 18
(IIVua 2V 22:3-23:28). Cũng chẳng nói gì về những cớ tích đưa đến việc
Giô-sia chống đối Pha-ra-ôn Nê-cô tại Mê-ghi-đô hoặc về thăng trầm lớn
trong quyền lực địa lý chính trị từ A-si-ri qua Ba-by-lôn, có liên hệ đến tình
tiết này (xem chú thích ở IIVua 2V 23:29-30).
Thành thử dường như Các vua được chú ý nhất trong I và IIVua là những
vua mà đời trị vì của họ đã hoặc xa rời hoặc đã củng cố giao ước (hoặc có
tác động quan trọng giữa vua và tiên tri của Thượng Đế, xem ở dưới). A-
háp, con của Ôm-ri, một gương chứng về điều trên (IVua 1V 17:1-22:39).
Đời trị vì của người được luận bàn rộng rãi, không hẳn vì cớ tầm quan trọng
chính trị siêu việt của thời đó, nhưng vì cớ sự hăm dọa quan trọng đối với sự
trung thành giao ước dấy lên liên trong vương quốc phía bắc đang đời người
trị vì. Cuối cùng, ảnh hưởng ngoại đạo của vợ A-háp là Giê-sa-bên qua con
gái A-háp là A-tha-li (không biết có phải là con gái Giê-sa-bên không) đã
hòng tuyệt diệt nhà Đa-vít trong Giu-đa (IIVua 2V 11:1-3).
Ma-na-se cũng là gương chứng cùng loại như thế (IIVua 2V 21:1-18). Tại
đây lần nữa, sự xa rời giao ước được nhấn mạnh trong câu chuyện thời
người trị vì hơn là những nét chính trị nổi bật, như sự dính líu vào cuộc tranh
chấp Ai-cập - A-si-ri (nói đến trong sử sách A-si-ri chớ không phải trong
IIVua). Sự bội đạo cực độ biểu lộ đặc sắc của đời Ma-na-se trị vì đã khiến
Giu-đa phải lưu đày không sao thoát khỏi được (IIVua 2V 21:10-15; 23:26-
27).
Về mặt tích cực, Ê-xê-chia (IIVua 2V 18:1-20:21) và Giô-sia (IIVua 2V
22:1-23:29) được luận bàn nhiều vì liên can đến việc lập lại giao ước. Chỉ có
hai vua này được trước giả tán thành chưa đúng mức sự trung tín của họ đối
với Chúa (IIVua 2V 18:3; 22:2). Đáng chú ý là tất cả các vua nước phía bắc
đều ghi là đã làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và đi theo đường lối Giê-
rô-bô-am, gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội (xem thí dụ, IVua 1V 16:26,31;
22:52; IIVua 2V 3:3; 10:29). Ấy chính người đã thiết lập sự thờ phượng bò
con vàng tại Bê-tên và Đan, ít lâu sau khi vương quốc chia đôi (xem IVua
1V 12:26-33; 13:1-6).
Trong khi trước giả tả vẽ sự vâng phục và bất tuân của Y-sơ-ra-ên đối với
giao ước Si-nai như quyết định vận mệnh lịch sử của họ, người cũng thừa
nhận ý nghĩa mở rộng của giao ước Đa-vít rằng triều đại Đa-vít sẽ còn mãi
mãi. Điều này đáng chú ý đặc biệt ở sự tham khảo đến “một ngọn đèn” Chúa
hứa cho Đa-vít (xem IVua 1V 11:36; 15:4; IIVua 2V 8:19; cũng xem chú
thích ở IISa 2Sm 21:17). Hơn nữa dường như có thêm mấy tham khảo chung
đến lời hứa đối với Đa-vít (IVua 1V 8:20,25) và những kết quả của lời hứa
đó đối với những phát triển lịch sử riêng biệt trong Sử ký Giu-đa sau này
(IVua 1V 11:12-13,32; IIVua 2V 19:34; 20:6). Thêm nữa, trước giả cũng
dùng đời sống và sự trị vì của Đa-vít làm tiêu chuẩn để đo lường nếp sống
của các vua sau này (xem thí dụ, IVua 1V 9:4; 11:4,6,33,38; 14:8; 15:3,5,11;
IIVua 2V 16:2; 18:3; 22:2).
Nét nổi bật khác trong các chuyện kể trong I và IIVua là sự nhấn mạnh mối
liên hệ giữa lời tiên tri và sự ứng nghiệm trong việc khai triển lịch sử của
nền quân chủ. Ít nhất có 11 trường hợp một lời tiên tri được ghi là sau này đã
được ứng nghiệm (xem thí dụ, IISa 2Sm 7:13 và IVua 1V 8:20; IVua 1V
11:29-39 và 12:15; IVua 1V 13:1-34 và IIVua 2V 23:16-18). Kết quả của sự
nhấn mạnh này là lịch sử của vương quốc không được trình bày như chuỗi
những cơ may xảy ra hoặc chỉ là những hành động con người tác động qua
lại hành động, nhưng là sự bày tỏ vận mệnh lịch sử của Y-sơ-ra-ên dưới sự
hướng dẫn của Đức Chúa Trời toàn tri và toàn năng - Chúa của giao ước Y-
sơ-ra-ên, Đấng quản trị cả lịch sử theo những mục đích tối cao của Ngài
(xem IVua 1V 8:56; IIVua 2V 10:10).
Trước giả cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chính các tiên tri trong
vai trò của họ như những phái viên chính thức từ triều đình của Chúa và giao
ước Y-sơ-ra-ên, Vua lớn là Đấng mà Y-sơ-ra-ên và các vua họ được ràng
buộc vào sự phục vụ Ngài qua giao ước. Chúa sai một số những tiên tri kế
tiếp nhau để kêu gọi vua và dân chúng trở lại trung thành với giao ước
(IIVua 2V 17:13). Chẳng may phần lớn những lời cảnh cáo và khuyên lơn
này đã rót vào những lỗ tai điếc. Nhiều nam và nữ tiên tri được nêu lên trong
các chuyện I và IIVua (xem thí dụ, A-hi-gia, IVua 1V 11:29-40; 14:5-18;
Sê-ma-gia, 12:22-24; Mi-chê, 22:8-28; Giô-na, IIVua 2V 14:25; Ê-sai, IIVua
2V 19:1-7,20-34; Hun-đa, IIVua 2V 22:14-20) nhưng đặc biệt chú ý đến các
chức vụ của Ê-li và Ê-li-sê (IVua 1V 17:1-19:21; IIVua 2V 1:1-13:25).
Suy niệm những nét nổi bật này của I và IIVua gợi ý rằng sách viết để giải
thích cho dân chúng bị lưu đày lý do về tình trạng bị hạ nhục của họ là do họ
ngoan cố, cứng cổ vi phạm giao ước Chúa. Trong khi đem dân chúng đến
cảnh lưu đày, Thượng Đế, sau nhiều kiên nhẫn, phải áp đặt những rủa sả của
giao ước, đúng như lời cảnh cáo họ ngay từ lúc ban đầu (xem LeLv 26:27-
45; PhuDnl 28:64-68). Điều này được làm rõ mối liên quan với sự giam cầm
của vương quốc miền bắc trong IIVua 2V 17:7-23; 18:10-12; và mối liên
quan với các vương quốc miền nam trong IIVua 2V 21:1-26. Sự cải cách do
Giô-sia trong vương quốc phía nam được coi là quá nhỏ và quá trễ (xem
IIVua 2V 23:26-27; 24:3).
Kế đó sách cũng cung ứng sự phân tích hồi tưởng đến quá khứ lịch sử dân
Y-sơ-ra-ên. Sách giải thích những lý do sự hủy diệt Sa-ma-ri lẫn Giê-ru-sa-
lem, và các vương quốc liên đới, cùng kinh nghiệm cay đắng trong cảnh lưu
đày. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là hết hi vọng trong tương lai. Trước
giả hằng giữ lời hứa với Đa-vít trên căn bản là Y-sơ-ra-ên trong cảnh lưu
đày có thể nhìn vào tương lai với hi vọng hơn là tuyệt vọng. Trong mối liên
quan đó, bốn câu cuối của sách, thuật lại việc Giê-hô-gia-kin được tha khỏi
ngục ở Ba-by-lôn và sự đặt người lên chỗ danh dự của triều đình đó (IIVua
2V 25:27-30) lại thêm phần ý nghĩa. Tương lai vẫn còn mở rộng cho công
tác mới của Chúa trong sự thành tín đối cùng lời hứa Ngài với nhà Đa-vít.
Điều quan trọng đáng chú ý rằng trước giả là một phu tù Giu-đa, và dầu
nước phía bắc đã bị tan lạc hơn một thế kỷ rưỡi vào lúc chép sách, phạm vi
quan tâm của người là toàn bộ Y-sơ-ra-ên - toàn bộ dân giao ước. Trước giả
lẫn các tiên tri khác không hề quan niệm sự phân chia vương quốc là sự dứt
phép thông công 10 chi phái, và cũng chẳng hề coi sự lưu đày sớm hơn của
nước phía bắc là sự trục xuất cuối cùng 10 chi phái khỏi tương lai của Y-sơ-
ra-ên.
Niên đại học
I và IIVua trình bày với đọc giả nhiều dữ kiện niên đại phong phú. Chẳng
những cho thời gian mỗi vua trị vì, nhưng trong thời kỳ vương quốc chia hai,
sự khởi đầu trị vì của mỗi vua lại được xác định đồng bộ với năm lên trị vì ở
nước đối lập. Lắm khi còn cho thêm dữ kiện, như tuổi của vua nào đó lúc lên
ngôi.
Bằng cách hợp nhất dữ kiện Thánh Kinh với những dữ kiện được tìm thấy
trong những ghi chép niên đại A-si-ri, năm 853 TC có thể định là năm A-háp
qua đời, và năm 841 là năm Giê-hu khởi sự trị vì. Các năm mà A-háp và
Giê-hu tiếp xúc với Sanh-Ma-na-se III của A-si-ri cũng có thể định rõ niên
hiệu (bằng cách tính thiên văn học căn cứ trên một tham khảo của người A-
si-ri về một kỳ nhật thực). Với những điểm nhất định này, có thể tính qua lại
về các dòng vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa để định niên hiệu cho mỗi vua. Cũng
theo cách đó, có thể quyết định sự chia đôi vương quốc xảy ra năm 930, và
Sa-ma-ri thất thủ vào tay người A-si-ri là năm 722-721 TC, và Giê-ru-sa-lem
thất thủ vào tay người Ba-by-lôn là năm 586 TC.
Dữ kiện tổng hợp tương quan đời trị vì của các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, đã
từ lâu được coi như không giải quyết được. Trong thời gian mới đây, hầu hết
các vấn đề này được giải quyết thỏa đáng qua sự thừa nhận những khả năng
như vậy là các đời trị vì gối lên nhau, thời kỳ nhiếp chính của các con với
cha họ, sự khác biệt thời gian trong năm mà đời trị vì một vua chính thức bắt
đầu, sự khác biệt trong cách tính năm thứ nhất của một vua đã được tính (thí
dụ, xem các chú thích ở IVua 1V 15:33; IIVua 2V 8:25).
Nội dung:
I và IIVua mô tả lịch sử nền quân chủ Y-sơ-ra-ên từ những ngày cuối đời trị
vì của Đa-vít cho đến thời kỳ lưu đày tại Ba-by-lôn. Sau bài tường thuật dài
về triều đại Sa-lô-môn, câu chuyện ghi về vương quốc bị chia đôi, kế đó bởi
tổng hợp các truyện, trình bày bức tranh những phát triển tác động qua lại
bên trong hai nước.
Vương quyền phía bắc thường bị quấy rối bởi sự bất ổn và bạo động. Hai
mươi vua trị vì đại diện chín triều đại khác nhau trong khoảng 210 năm từ
khi vương quốc chia hai năm 930 TC cho đến khi Sa-ma-ri thất thủ năm
722-721. Tại nước phía nam cũng có 20 vua trị vì, nhưng tất cả là dòng dõi
Đa-vít (trừ A-tha-li, và sự đoán phạt ngai vàng làm gián đoạn vài năm) trải
qua một thời gian độ 345 năm từ khi vương quốc chia đôi đến khi Giê-ru-sa-
lem thất thủ năm 586.
Bố cục:
I và IIVua có thể phác họa đại khái bằng cách liên lạc nội dung sách với
những thời kỳ lịch sử quan trọng được mô tả và với chức vụ của tiên tri Ê-li
và Ê-li-sê.
I. Kỷ nguyên Sa-lô-môn (IVua 1V 1:1-12:24).
A. Sa-lô-môn nối ngôi Đa-vít (1:1-2:12).
B. Ngôi nước Sa-lô-môn được vững lập (2:13-46).
C. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn (3:1-28).
D. Đặc sắc của đời Sa-lô-môn trị vì (4:1-34).
E. Những dự án xây cất của Sa-lô-môn (5:1-9:9).
1. Chuẩn bị xây cất Đền thờ (5:1-18).
2. Xây cất Đền thờ (6:1-37).
3. Xây cất cung điện (7:1-12).
4. Những khí mạnh trong Đền thờ (7:13-51).
5. Khánh thành Đền thờ (8:1-66).
6. Chúa đáp ứng và cảnh cáo (9:1-9).
F. Đặc sắc của đời Sa-lô-môn trị vì (9:10-10:29).
G. Sự điên dại của Sa-lô-môn (11:1-13).
H. Ngai vàng của Sa-lô-môn bị hăm dọa (11:14-43)
I. Rô-bô-am kế vị ngai vàng (12:1-24)
II. Y-sơ-ra-ên và Giu-đa từ Giê-rô-bô-am I /Rô-bô-am đến A-háp/ A-sa
(IVua 1V 12:25-16:34)
A. Giê-rô-bô-am I của Y-sơ-ra-ên (12:25-14:20)
B. Rô-bô-am của Giu-đa (14:21-31)
C. A-bi-gia của Giu-đa (15:1-8)
D. A-sa của Giu-đa (15:9-24)
E. Na-đáp của Y-sơ-ra-ên (15:25-32)
F. Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên (15:33-16:7)
G. Ê-la của Y-sơ-ra-ên (16:8-14)
H. Xim-ri của Y-sơ-ra-ên (16:15-20)
I. Ôm-ri của Y-sơ-ra-ên (16:21-28)
J. A-háp của Y-sơ-ra-ên (16:29-34)
III. Chức vụ của Ê-li và Ê-li-sê cùng các tiên tri khác từ A-háp/A-sa đến
Giô-ram/Giô-sa-phát (IVua 1V 17:1-22:53; IIVua 2V 1:1-8:15)
A. Ê-li (và các tiên tri khác) trong đời A-háp trị vì (IVua 1V 17:1-22:40)
1. Ê-li và hạn hán (17:1-24)
2. Ê-li trên núi Cạt-mên (18:1-46)
3. Ê-li chạy trốn đến núi Hô-rếp (19:1-21)
4. Một tiên tri kết tội A-háp vì đã dong thứ Bê-ha-đát (20:1-43)
5. Ê-li kết tội A-háp đã chiếm đoạt vườn nho của Na-bốt (21:1-29)
6. Mi-chê nói tiên tri về sự chết của A-háp sự thành nghiệm lời đó# (22:1-
40)
B. Giô-sa-phát của Giu-đa (IVua 1V 22:41-50)
C. A-cha-xia của Y-sơ-ra-ên những lời tiên tri cuối cùng của Ê-li# (IVua 1V
22:51-53; IIVua 2V 1:1-18)
D. Ê-li được cất lên trời Ê-li-sê nhậm chức# (IIVua 2V 2:1-18)
E. Ê-li-sê trong đời trị vì của Giô-ram (IIVua 2V 2:19-8:15)
1. Những dấu lạ sơ khởi của Ê-li-sê (2:19-25)
2. Ê-li-sê trong thời tranh chiến với Mô-áp (3:1-28)
3. Chứa vụ của Ê-li-sê đối với những người thiếu thốn trong Y-sơ-ra-ên
(4:1-34)
4. Ê-li-sê chữa lành Na-a-man (5:1-18)
5. Ê-li-sê giải cứu một trong các tiên tri (6:1-7)
6. Ê-li-sê giải cứu Giô-ram khỏi những kẻ cướp A-ram (6:8-23)
7. Sa-ma-ri được giải vây khỏi quân Sy-ri như Ê-li-sê đã dự ngôn (6:24-
7:20)
8. Người nữ Su-nem được lại sản nghiệp (8:1-6)
9. Ê-li-sê dự ngôn về Ha-xa-ên sẽ áp bức Y-sơ-ra-ên (8:7-15)
IV. Y-sơ-ra-ên và Giu-đa từ Giô-ram/Giê-hô-ram đến Y-sơ-ra-ên bị lưu đày
(IIVua 2V 8:16-17:41)
A. Giô-ram của Giu-đa (8:16-24)
B. A-cha-xia của Giu-đa (8:25-29)
C. Sự nổi loạn và đời trị vì của Giê-hu (9:1-10:29)
1. Ê-li-sê truyền xức dầu cho Giê-hu (9:1-13)
2. Giê-hu ám sát Giô-ram và A-cha-xia (9:14-29)
3. Giê-hu hành quyết Giê-sa-bên (9:30-37)
4. Giê-hu tàn sát nhà A-háp (10:1-17)
5. Giê-hu trừ tiệt sự thờ hình tượng Ba-anh (10:18-36)
D. A-tha-li và Giô-ách của Giu-đa sửa sang Đền thờ# (11:1-12:33)
E. Giô-a-cha của Y-sơ-ra-ên (13:1-9)
F. Giô-ách của Y-sơ-ra-ên lời tiên tri cuối cùng của Ê-li-sê# (13:10-25)
G. A-ma-xia của Giu-đa (14:1-22)
H. Giê-rô-bô-am II của Y-sơ-ra-ên (14:23-29)
I. A-xa-ria của Giu-đa (15:1-7)
J. Xa-cha-ri của Y-sơ-ra-ên (15:8-12)
K. Sa-lum của Y-sơ-ra-ên (15:13-16)
L. Mê-na-hem của Y-sơ-ra-ên (15:17-22;)
M. Phê-ca-hia của Y-sơ-ra-ên (15:23-26;)
N. Phê-ca của Y-sơ-ra-ên (15:27-31)
O. Giô-tham của Giu-đa (15:32-38)
P. A-cha của Giu-đa (16:1-34)
Q. Ô-sê của Y-sơ-ra-ên (17:1-6)
R. Y-sơ-ra-ên bị lưu đày tái định cư của xứ# (17:7-41)
V. Giu-đa từ Ê-xê-chia đến khi lưu đày tại Ba-by-lôn (IIVua 2V 18:1-25:30)
A. Ê-xê-chia (18:1-20:43)
1. Đời trị vì tốt lành của Ê-xê-chia (18:1-8)
2. Quân A-si-ri hăm dọa và sự giải cứu (18:9-19:37)
3. Ê-xê-chia đau bịnh và liên minh với Ba-by-lôn (20:1-43)
B. Ma-na-se (21:1-18)
C. A-môn (21:19-26)
D. Giô-sia (22:1-23:30)
1. Sửa sang lại Đền thờ tìm thấy sách luật pháp# (22:1-54)
2. Tái lập giao ước cuối thời trị vì của Giô-sia# (23:1-30)
E. Giô-a-cha bị đày qua Ai-cập (23:31-35)
F. Giê-hô-gia-kim: Ba-by-lôn xâm lăng lần thứ nhất (23:36-24:7)
G. Giê-hô-gia-kin: Ba-by-lôn xâm lăng lần thứ hai (24:8-17)
H. Sê-đê-kia (24:18-20)
I. Giu-đa bị lưu đày qua Ba-by-lôn (25:1-21)
J. Dời dân sót qua Ai-cập (25:22-26)
K. Sự tôn cao Giê-hô-gia-kin tại Ba-by-lôn (25:27-30)

Dẫn nhập II Các Vua


Nhan đề:
I và IIVua (giống như I và IISa-mu-ên, I và IISử ký) thật ra là một tác phẩm
văn học, gọi theo truyền thống Hê-bơ-rơ đơn giản là “Các Vua”. Sự chia
sách này làm hai được du nhập bởi các dịch giả bản LXX (bản dịch Cựu
Ước ra tiếng Hy Lạp), sau đó bản La-tinh Vulgate theo, rồi đến các bản dịch
mới. Năm 1448, sự chia làm hai sách cũng xuất hiện trong bản viết tay tiếng
Hê-bơ-rơ, và tồn tại mãi trong các ấn bản in bằng tiếng Hê-bơ-rơ sau này. Cả
hai bản LXX và bản La-tinh Vulgate về sau đặt tên Sa-mu-ên và Các Vua
bằng cách nhấn mạnh sự liên hệ giữa hai tác phẩm này (Bản LXX: Sách Các
Vương quốc thứ I và thứ II, thứ III và thứ IV, còn bản La-tinh Vulgate: Sách
Các Vua thứ I, thứ II, thứ III và thứ IV). Sa-mu-ên và Các Vua cùng thuật lại
toàn bộ lịch sử của nền quân chủ, từ lúc dấy lên dưới chức vụ của Sa-mu-ên
cho đến kỳ sụp đổ dưới bàn tay của người Ba-by-lôn.
Sự phân chia giữa I và IIVua được thực hiện thích hiệp trừ vài chỗ tùy tiện,
ít lâu sau sự chết của A-háp ở nước phía bắc (IVua 1V 22:37) và sự chết của
Giô-sa-phát nước phía nam (IVua 1V 22:50). Đặt sự phân chia ở điểm này
khiến cho câu chuyện đời trị vì của A-cha-xia, vua Y-sơ-ra-ên gối lên sự kết
thúc của IVua (IVua 1V 22:51-53) và bắt đầu IIVua (IIVua 2V 1:1-18). Việc
ấy cũng đúng đối với câu chuyện chức vụ của Ê-li, mà phần lớn xuất hiện
trong IVua (IVua 1V 17:1-19:21). Tuy nhiên, hành động phán quyết cuối
cùng và sự chuyển áo choàng của ông qua cho Ê-li-sê vào lúc người lên trời
trong một cơn gió lốc đều ghi trong IIVua (IIVua 2V 1:1-2:17).
Trước giả, nguồn tin và niên hiệu:
Rất ít bằng cớ để kết luận về sự nhận diện trước giả của I và IIVua. Dù theo
truyền thuyết Do Thái công nhận là Giê-rê-mi, ngày nay ít người chấp nhận
điều này. Dù trước giả là ai, rõ ràng người đó rất quen thuộc với sách Phục
truyền luật lệ ký - như nhiều tiên tri của Y-sơ-ra-ên. Cũng rõ ràng người đó
dùng các nguồn tài liệu khác nhau trong việc biên soạn lịch sử nền quân chủ.
Có ba nguồn được ghi, ấy là: “Sách hành trạng (sử biên niên) của Sa-lô-
môn” (IVua 1V 11:41), Sách “Sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên” (IVua 1V
14:19), “Sách sử ký của các vua Giu-đa” (IVua 1V 14:29). Rất có thể các
nguồn ghi chép khác cũng được dùng đến (như có nói trong các sách Sử ký:
xem dưới đây).
Dù có vài học giả kết luận rằng có ba nguồn đặc biệt đã nêu trong I và IIVua
được coi như các sử biên niên chính thức của triều đình từ văn khố hoàng
gia tại Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri, điều này không có gì chắc chắn. Dường
như có ít nhất một điểm đáng ngờ là không biết các sử biên niên chính thức
trong triều có dám ghi chi tiết những âm mưu như đã viện dẫn trong IVua
1V 16:20; IIVua 2V 15:15 chăng? Cũng rất đáng ngờ là liệu các sử biên niên
triều đình chính thức có sẵn sàng cho công chúng được quyền lui tới nghiên
cứu, như trước giả hàm ý rõ ràng trong việc tham khảo chúng. Những sự
xem xét như thế đã dẫn vài học giả đến kết luận rằng những nguồn tin cậy là
những ghi chép đời trị vì các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa soạn bởi các tiên tri
Y-sơ-ra-ên kế tiếp nối nhau qua thời kỳ vương quốc. I và IISử ký cũng nói
đến một số ghi chép như thế: “Sách của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến, sách của
Na-than, đấng tiên tri và sách của Gát, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29),
“Sách của tiên tri A-hi-gia, người Si-lô” và “Sách khải tượng của Giê-đô,
đấng tiên kiến” (IISu 2Sb 9:29), “Sách của Sê-ma-gia, đấng tiên tri” (IISu
2Sb 12:15) “Sách Giê-hu, con trai Ha-na-ni” (IISu 2Sb 20:34), “Sách truyện
các vua” (IISu 2Sb 24:27), “Ê-sai, con trai A-mốt...đã biên chép các công sự
khác của Ô-xia từ đầu đến cuối” (IISu 2Sb 26:22; cũng xem IISu 2Sb 32:32)
- và chắc chắn còn nhiều sách khác. Thí dụ, rất có thể trước giả đã tùy thuộc
vào nguồn lời tiên tri mà chép các chức vụ của Ê-li và Ê-li-sê (có lẽ vào
khoảng thế kỷ thứ 8 TC) soạn thảo truyện hai tiên tri này trong đó họ đã
được so sánh với Môi-se và Giô-suê.
Có vài học giả đã đặt niên hiệu biên soạn I và IIVua nhằm thời gian sau khi
Giê-hô-gia-kin được tha khỏi ngục (562 TC, IIVua 2V 25:27-30) và trước
khi mãn kỳ lưu đày tại Ba-by-lôn năm 538. Lập trường này không được thừa
nhận bởi các chủ trương khác đặt cơ sở trên những phát biểu trong I và
IIVua đã nói đến vài điều chắc chắn trong thời kỳ tiền lưu đày được ghi rằng
còn tồn tại “cho đến ngày nay” (xem thí dụ, IVua 1V 8:8, các đòn dùng để
khiêng rương giao ước IVua 1V 9:20-21, công tác xâu dịch IVua 1V 12:19,
Y-sơ-ra-ên phản nghịch nhà Đa-vít IIVua 2V 8:22, dân Ê-đôm phản nghịch
chống vương quốc Giu-đa). Từ những lời phát biểu đó có sự biện luận rằng
trước giả phải là người sống trong Giu-đa thời tiền lưu đày chớ không phải
trong xứ Ba-by-lôn thời hậu lưu đày. Nếu luận chứng này được chấp nhận,
người ta phải kết luận rằng nguyên tắc được soạn thảo khoảng vua Giô-sia
băng hà, và tài liệu thuộc về sau đời vua này trị vì được thêm vào trong kỳ
lưu đày khoảng 550. Trong khi quan điểm “Hai ấn bản” này khả dĩ chấp
nhận được, nó còn tùy thuộc phần lớn vào các lời phát biều “cho đến ngày
nay”.
Cách để hiểu những lời phát biểu này là trước giả đã dùng nguồn nguyên
thủy hơn là lời phát biểu của chính trước giả. Sự so sánh IISu 2Sb 5:9 với
IVua 1V 8:8 gợi ý rằng đây là lời kết luận chính đáng. Sách Sử-ký rõ ràng
chép sau lưu đày, tuy nhiên lời phát biểu về đòn khiêng rương giao ước (còn
cho đến ngày nay) đều là một trong sách Sử ký như trong sách Các vua. Có
lẽ trước giả sách Sử ký chỉ viện dẫn nguồn tin của mình, tức là IVua 1V 8:8.
Chẳng có lý do nào trước giả sách I và IIVua không thể làm điều giống như
vậy viện dẫn từ các nguồn tin trước của mình. Lời giải thích này cho phép
theo lập trường chỉ một trước giả sống trong thời lưu đày và sử dụng các
nguồn tài liệu sẵn có.
Chủ đề:vương quyền và giao ước:
I và IIVua không chứa đựng một câu rõ rệt nào về mục đích và chủ đề. Tuy
nhiên, suy xét phần nội dung tỏ ra trước giả đã lựa chọn và sắp đặt tài liệu
cách khéo léo để cung cấp một cuốn tiếp theo cho lịch sử tìm thấy trong I và
IISa-mu-ên - lịch sử vương quyền chi phối bởi giao ước. Nói chung, I và
IIVua mô tả lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa trong ánh sáng các giao
ước của Thượng Đế. Chủ đề hướng dẫn của sách là phúc lợi của Y-sơ-ra-ên
và các vua của họ tùy thuộc vào sự vâng theo những nghĩa vụ đã qui định
trong giao ước Môi-se.
Rõ ràng ý định trước giả chẳng phải trình bày một lịch sử kinh tế, chính trị
và xã hội của nền quân chủ Y-sơ-ra-ên theo nguyên tắc chép sử hiện đại.
Trước giả nhiều lần nhắc lại viện dẫn cho đọc giả những nguồn khác để biết
thêm thông tin về các đời trị vì của các vua khác (xem thí dụ, IVua 1V
11:41; 14:19,29; 15:7,31; 16:5,14,20,27), và trước giả thay vì cho một ước
định kinh tế, chính trị và xã hội, thì lại cho một ước định theo giao ước trong
các đời trị vì của họ. Theo quan điểm của sử gia chính trị, Ôm-ri tất phải
được coi là một trong những vua quan trọng hơn tại vương quốc phía bắc.
Người đã thiết lập một triều đại hùng cường và biến Sa-ma-ri thành thủ đô.
Theo bảng đá Mô-áp, Ôm ri là vua đã chinh phục dân Mô-áp cho vương
quốc phía bắc. Mãi về sau, khi Ôm-ri chết, các nhà cai trị A-si-ri còn viện
dẫn đến Giê-hu như là “con trai của Ôm-ri” (hoặc vì lầm lẫn, hoặc chỉ theo
qui ước văn học của họ, khi nói đến một vua sau này của một vương quốc).
Tuy nhiên, mặc dầu sự quan trọng của Ôm-ri, đời trị vì của người chỉ được
nêu lên qua loa bằng 6 câu (IVua 1V 16:23-28) với lời phát biểu rằng:
“người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va , ăn ở tệ hơn các bậc tiền bối
người” (IVua 1V 16:25). Cũng như vậy, đời trị vì của Giê-rô-bô-am II,
người chủ trị nước phía bắc trong thời cường thạnh nhất về kinh tế và chính
trị, cũng chỉ nói vắn tắt (IIVua 2V 14:23-29).
Một ví dụ khác về sự chú ý của trước giả đến giao ước hơn là chỉ đến kinh
tế, chính trị có thể thấy trong sự mô tả đời trị vì của Giô-sia nước Giu-đa.
Chẳng thấy nói gì đến các năm đầu người trị vì, nhưng lại mô tả tỉ mỉ về sự
cải cách và tái lập giao ước mà người xúc tiến trong năm làm vua thứ 18
(IIVua 2V 22:3-23:28). Cũng chẳng nói gì về những cớ tích đưa đến việc
Giô-sia chống đối Pha-ra-ôn Nê-cô tại Mê-ghi-đô hoặc về thăng trầm lớn
trong quyền lực địa lý chính trị từ A-si-ri qua Ba-by-lôn, có liên hệ đến tình
tiết này (xem chú thích ở IIVua 2V 23:29-30).
Thành thử dường như Các vua được chú ý nhất trong I và IIVua là những
vua mà đời trị vì của họ đã hoặc xa rời hoặc đã củng cố giao ước (hoặc có
tác động quan trọng giữa vua và tiên tri của Thượng Đế, xem ở dưới). A-
háp, con của Ôm-ri, một gương chứng về điều trên (IVua 1V 17:1-22:39).
Đời trị vì của người được luận bàn rộng rãi, không hẳn vì cớ tầm quan trọng
chính trị siêu việt của thời đó, nhưng vì cớ sự hăm dọa quan trọng đối với sự
trung thành giao ước dấy lên liên trong vương quốc phía bắc đang đời người
trị vì. Cuối cùng, ảnh hưởng ngoại đạo của vợ A-háp là Giê-sa-bên qua con
gái A-háp là A-tha-li (không biết có phải là con gái Giê-sa-bên không) đã
hòng tuyệt diệt nhà Đa-vít trong Giu-đa (IIVua 2V 11:1-3).
Ma-na-se cũng là gương chứng cùng loại như thế (IIVua 2V 21:1-18). Tại
đây lần nữa, sự xa rời giao ước được nhấn mạnh trong câu chuyện thời
người trị vì hơn là những nét chính trị nổi bật, như sự dính líu vào cuộc tranh
chấp Ai-cập - A-si-ri (nói đến trong sử sách A-si-ri chớ không phải trong
IIVua). Sự bội đạo cực độ biểu lộ đặc sắc của đời Ma-na-se trị vì đã khiến
Giu-đa phải lưu đày không sao thoát khỏi được (IIVua 2V 21:10-15; 23:26-
27).
Về mặt tích cực, Ê-xê-chia (IIVua 2V 18:1-20:21) và Giô-sia (IIVua 2V
22:1-23:29) được luận bàn nhiều vì liên can đến việc lập lại giao ước. Chỉ có
hai vua này được trước giả tán thành chưa đúng mức sự trung tín của họ đối
với Chúa (IIVua 2V 18:3; 22:2). Đáng chú ý là tất cả các vua nước phía bắc
đều ghi là đã làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và đi theo đường lối Giê-
rô-bô-am, gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội (xem thí dụ, IVua 1V 16:26,31;
22:52; IIVua 2V 3:3; 10:29). Ấy chính người đã thiết lập sự thờ phượng bò
con vàng tại Bê-tên và Đan, ít lâu sau khi vương quốc chia đôi (xem IVua
1V 12:26-33; 13:1-6).
Trong khi trước giả tả vẽ sự vâng phục và bất tuân của Y-sơ-ra-ên đối với
giao ước Si-nai như quyết định vận mệnh lịch sử của họ, người cũng thừa
nhận ý nghĩa mở rộng của giao ước Đa-vít rằng triều đại Đa-vít sẽ còn mãi
mãi. Điều này đáng chú ý đặc biệt ở sự tham khảo đến “một ngọn đèn” Chúa
hứa cho Đa-vít (xem IVua 1V 11:36; 15:4; IIVua 2V 8:19; cũng xem chú
thích ở IISa 2Sm 21:17). Hơn nữa dường như có thêm mấy tham khảo chung
đến lời hứa đối với Đa-vít (IVua 1V 8:20,25) và những kết quả của lời hứa
đó đối với những phát triển lịch sử riêng biệt trong Sử ký Giu-đa sau này
(IVua 1V 11:12-13,32; IIVua 2V 19:34; 20:6). Thêm nữa, trước giả cũng
dùng đời sống và sự trị vì của Đa-vít làm tiêu chuẩn để đo lường nếp sống
của các vua sau này (xem thí dụ, IVua 1V 9:4; 11:4,6,33,38; 14:8; 15:3,5,11;
IIVua 2V 16:2; 18:3; 22:2).
Nét nổi bật khác trong các chuyện kể trong I và IIVua là sự nhấn mạnh mối
liên hệ giữa lời tiên tri và sự ứng nghiệm trong việc khai triển lịch sử của
nền quân chủ. Ít nhất có 11 trường hợp một lời tiên tri được ghi là sau này đã
được ứng nghiệm (xem thí dụ, IISa 2Sm 7:13 và IVua 1V 8:20; IVua 1V
11:29-39 và 12:15; IVua 1V 13:1-34 và IIVua 2V 23:16-18). Kết quả của sự
nhấn mạnh này là lịch sử của vương quốc không được trình bày như chuỗi
những cơ may xảy ra hoặc chỉ là những hành động con người tác động qua
lại hành động, nhưng là sự bày tỏ vận mệnh lịch sử của Y-sơ-ra-ên dưới sự
hướng dẫn của Đức Chúa Trời toàn tri và toàn năng - Chúa của giao ước Y-
sơ-ra-ên, Đấng quản trị cả lịch sử theo những mục đích tối cao của Ngài
(xem IVua 1V 8:56; IIVua 2V 10:10).
Trước giả cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chính các tiên tri trong
vai trò của họ như những phái viên chính thức từ triều đình của Chúa và giao
ước Y-sơ-ra-ên, Vua lớn là Đấng mà Y-sơ-ra-ên và các vua họ được ràng
buộc vào sự phục vụ Ngài qua giao ước. Chúa sai một số những tiên tri kế
tiếp nhau để kêu gọi vua và dân chúng trở lại trung thành với giao ước
(IIVua 2V 17:13). Chẳng may phần lớn những lời cảnh cáo và khuyên lơn
này đã rót vào những lỗ tai điếc. Nhiều nam và nữ tiên tri được nêu lên trong
các chuyện I và IIVua (xem thí dụ, A-hi-gia, IVua 1V 11:29-40; 14:5-18;
Sê-ma-gia, 12:22-24; Mi-chê, 22:8-28; Giô-na, IIVua 2V 14:25; Ê-sai, IIVua
2V 19:1-7,20-34; Hun-đa, IIVua 2V 22:14-20) nhưng đặc biệt chú ý đến các
chức vụ của Ê-li và Ê-li-sê (IVua 1V 17:1-19:21; IIVua 2V 1:1-13:25).
Suy niệm những nét nổi bật này của I và IIVua gợi ý rằng sách viết để giải
thích cho dân chúng bị lưu đày lý do về tình trạng bị hạ nhục của họ là do họ
ngoan cố, cứng cổ vi phạm giao ước Chúa. Trong khi đem dân chúng đến
cảnh lưu đày, Thượng Đế, sau nhiều kiên nhẫn, phải áp đặt những rủa sả của
giao ước, đúng như lời cảnh cáo họ ngay từ lúc ban đầu (xem LeLv 26:27-
45; PhuDnl 28:64-68). Điều này được làm rõ mối liên quan với sự giam cầm
của vương quốc miền bắc trong IIVua 2V 17:7-23; 18:10-12; và mối liên
quan với các vương quốc miền nam trong IIVua 2V 21:1-26. Sự cải cách do
Giô-sia trong vương quốc phía nam được coi là quá nhỏ và quá trễ (xem
IIVua 2V 23:26-27; 24:3).
Kế đó sách cũng cung ứng sự phân tích hồi tưởng đến quá khứ lịch sử dân
Y-sơ-ra-ên. Sách giải thích những lý do sự hủy diệt Sa-ma-ri lẫn Giê-ru-sa-
lem, và các vương quốc liên đới, cùng kinh nghiệm cay đắng trong cảnh lưu
đày. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là hết hi vọng trong tương lai. Trước
giả hằng giữ lời hứa với Đa-vít trên căn bản là Y-sơ-ra-ên trong cảnh lưu
đày có thể nhìn vào tương lai với hi vọng hơn là tuyệt vọng. Trong mối liên
quan đó, bốn câu cuối của sách, thuật lại việc Giê-hô-gia-kin được tha khỏi
ngục ở Ba-by-lôn và sự đặt người lên chỗ danh dự của triều đình đó (IIVua
2V 25:27-30) lại thêm phần ý nghĩa. Tương lai vẫn còn mở rộng cho công
tác mới của Chúa trong sự thành tín đối cùng lời hứa Ngài với nhà Đa-vít.
Điều quan trọng đáng chú ý rằng trước giả là một phu tù Giu-đa, và dầu
nước phía bắc đã bị tan lạc hơn một thế kỷ rưỡi vào lúc chép sách, phạm vi
quan tâm của người là toàn bộ Y-sơ-ra-ên - toàn bộ dân giao ước. Trước giả
lẫn các tiên tri khác không hề quan niệm sự phân chia vương quốc là sự dứt
phép thông công 10 chi phái, và cũng chẳng hề coi sự lưu đày sớm hơn của
nước phía bắc là sự trục xuất cuối cùng 10 chi phái khỏi tương lai của Y-sơ-
ra-ên.
Niên đại học
I và IIVua trình bày với đọc giả nhiều dữ kiện niên đại phong phú. Chẳng
những cho thời gian mỗi vua trị vì, nhưng trong thời kỳ vương quốc chia hai,
sự khởi đầu trị vì của mỗi vua lại được xác định đồng bộ với năm lên trị vì ở
nước đối lập. Lắm khi còn cho thêm dữ kiện, như tuổi của vua nào đó lúc lên
ngôi.
Bằng cách hợp nhất dữ kiện Thánh Kinh với những dữ kiện được tìm thấy
trong những ghi chép niên đại A-si-ri, năm 853 TC có thể định là năm A-háp
qua đời, và năm 841 là năm Giê-hu khởi sự trị vì. Các năm mà A-háp và
Giê-hu tiếp xúc với Sanh-Ma-na-se III của A-si-ri cũng có thể định rõ niên
hiệu (bằng cách tính thiên văn học căn cứ trên một tham khảo của người A-
si-ri về một kỳ nhật thực). Với những điểm nhất định này, có thể tính qua lại
về các dòng vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa để định niên hiệu cho mỗi vua. Cũng
theo cách đó, có thể quyết định sự chia đôi vương quốc xảy ra năm 930, và
Sa-ma-ri thất thủ vào tay người A-si-ri là năm 722-721 TC, và Giê-ru-sa-lem
thất thủ vào tay người Ba-by-lôn là năm 586 TC.
Dữ kiện tổng hợp tương quan đời trị vì của các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, đã
từ lâu được coi như không giải quyết được. Trong thời gian mới đây, hầu hết
các vấn đề này được giải quyết thỏa đáng qua sự thừa nhận những khả năng
như vậy là các đời trị vì gối lên nhau, thời kỳ nhiếp chính của các con với
cha họ, sự khác biệt thời gian trong năm mà đời trị vì một vua chính thức bắt
đầu, sự khác biệt trong cách tính năm thứ nhất của một vua đã được tính (thí
dụ, xem các chú thích ở IVua 1V 15:33; IIVua 2V 8:25).
Nội dung:
I và IIVua mô tả lịch sử nền quân chủ Y-sơ-ra-ên từ những ngày cuối đời trị
vì của Đa-vít cho đến thời kỳ lưu đày tại Ba-by-lôn. Sau bài tường thuật dài
về triều đại Sa-lô-môn, câu chuyện ghi về vương quốc bị chia đôi, kế đó bởi
tổng hợp các truyện, trình bày bức tranh những phát triển tác động qua lại
bên trong hai nước.
Vương quyền phía bắc thường bị quấy rối bởi sự bất ổn và bạo động. Hai
mươi vua trị vì đại diện chín triều đại khác nhau trong khoảng 210 năm từ
khi vương quốc chia hai năm 930 TC cho đến khi Sa-ma-ri thất thủ năm
722-721. Tại nước phía nam cũng có 20 vua trị vì, nhưng tất cả là dòng dõi
Đa-vít (trừ A-tha-li, và sự đoán phạt ngai vàng làm gián đoạn vài năm) trải
qua một thời gian độ 345 năm từ khi vương quốc chia đôi đến khi Giê-ru-sa-
lem thất thủ năm 586.
Bố cục:
I và IIVua có thể phác họa đại khái bằng cách liên lạc nội dung sách với
những thời kỳ lịch sử quan trọng được mô tả và với chức vụ của tiên tri Ê-li
và Ê-li-sê.
I. Kỷ nguyên Sa-lô-môn (IVua 1V 1:1-12:24).
A. Sa-lô-môn nối ngôi Đa-vít (1:1-2:12).
B. Ngôi nước Sa-lô-môn được vững lập (2:13-46).
C. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn (3:1-28).
D. Đặc sắc của đời Sa-lô-môn trị vì (4:1-34).
E. Những dự án xây cất của Sa-lô-môn (5:1-9:9).
1. Chuẩn bị xây cất Đền thờ (5:1-18).
2. Xây cất Đền thờ (6:1-37).
3. Xây cất cung điện (7:1-12).
4. Những khí mạnh trong Đền thờ (7:13-51).
5. Khánh thành Đền thờ (8:1-66).
6. Chúa đáp ứng và cảnh cáo (9:1-9).
F. Đặc sắc của đời Sa-lô-môn trị vì (9:10-10:29).
G. Sự điên dại của Sa-lô-môn (11:1-13).
H. Ngai vàng của Sa-lô-môn bị hăm dọa (11:14-43)
I. Rô-bô-am kế vị ngai vàng (12:1-24)
II. Y-sơ-ra-ên và Giu-đa từ Giê-rô-bô-am I /Rô-bô-am đến A-háp/ A-sa
(IVua 1V 12:25-16:34)
A. Giê-rô-bô-am I của Y-sơ-ra-ên (12:25-14:20)
B. Rô-bô-am của Giu-đa (14:21-31)
C. A-bi-gia của Giu-đa (15:1-8)
D. A-sa của Giu-đa (15:9-24)
E. Na-đáp của Y-sơ-ra-ên (15:25-32)
F. Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên (15:33-16:7)
G. Ê-la của Y-sơ-ra-ên (16:8-14)
H. Xim-ri của Y-sơ-ra-ên (16:15-20)
I. Ôm-ri của Y-sơ-ra-ên (16:21-28)
J. A-háp của Y-sơ-ra-ên (16:29-34)
III. Chức vụ của Ê-li và Ê-li-sê cùng các tiên tri khác từ A-háp/A-sa đến
Giô-ram/Giô-sa-phát (IVua 1V 17:1-22:53; IIVua 2V 1:1-8:15)
A. Ê-li (và các tiên tri khác) trong đời A-háp trị vì (IVua 1V 17:1-22:40)
1. Ê-li và hạn hán (17:1-24)
2. Ê-li trên núi Cạt-mên (18:1-46)
3. Ê-li chạy trốn đến núi Hô-rếp (19:1-21)
4. Một tiên tri kết tội A-háp vì đã dong thứ Bê-ha-đát (20:1-43)
5. Ê-li kết tội A-háp đã chiếm đoạt vườn nho của Na-bốt (21:1-29)
6. Mi-chê nói tiên tri về sự chết của A-háp sự thành nghiệm lời đó# (22:1-
40)
B. Giô-sa-phát của Giu-đa (IVua 1V 22:41-50)
C. A-cha-xia của Y-sơ-ra-ên những lời tiên tri cuối cùng của Ê-li# (IVua 1V
22:51-53; IIVua 2V 1:1-18)
D. Ê-li được cất lên trời Ê-li-sê nhậm chức# (IIVua 2V 2:1-18)
E. Ê-li-sê trong đời trị vì của Giô-ram (IIVua 2V 2:19-8:15)
1. Những dấu lạ sơ khởi của Ê-li-sê (2:19-25)
2. Ê-li-sê trong thời tranh chiến với Mô-áp (3:1-28)
3. Chứa vụ của Ê-li-sê đối với những người thiếu thốn trong Y-sơ-ra-ên
(4:1-34)
4. Ê-li-sê chữa lành Na-a-man (5:1-18)
5. Ê-li-sê giải cứu một trong các tiên tri (6:1-7)
6. Ê-li-sê giải cứu Giô-ram khỏi những kẻ cướp A-ram (6:8-23)
7. Sa-ma-ri được giải vây khỏi quân Sy-ri như Ê-li-sê đã dự ngôn (6:24-
7:20)
8. Người nữ Su-nem được lại sản nghiệp (8:1-6)
9. Ê-li-sê dự ngôn về Ha-xa-ên sẽ áp bức Y-sơ-ra-ên (8:7-15)
IV. Y-sơ-ra-ên và Giu-đa từ Giô-ram/Giê-hô-ram đến Y-sơ-ra-ên bị lưu đày
(IIVua 2V 8:16-17:41)
A. Giô-ram của Giu-đa (8:16-24)
B. A-cha-xia của Giu-đa (8:25-29)
C. Sự nổi loạn và đời trị vì của Giê-hu (9:1-10:29)
1. Ê-li-sê truyền xức dầu cho Giê-hu (9:1-13)
2. Giê-hu ám sát Giô-ram và A-cha-xia (9:14-29)
3. Giê-hu hành quyết Giê-sa-bên (9:30-37)
4. Giê-hu tàn sát nhà A-háp (10:1-17)
5. Giê-hu trừ tiệt sự thờ hình tượng Ba-anh (10:18-36)
D. A-tha-li và Giô-ách của Giu-đa sửa sang Đền thờ# (11:1-12:33)
E. Giô-a-cha của Y-sơ-ra-ên (13:1-9)
F. Giô-ách của Y-sơ-ra-ên lời tiên tri cuối cùng của Ê-li-sê# (13:10-25)
G. A-ma-xia của Giu-đa (14:1-22)
H. Giê-rô-bô-am II của Y-sơ-ra-ên (14:23-29)
I. A-xa-ria của Giu-đa (15:1-7)
J. Xa-cha-ri của Y-sơ-ra-ên (15:8-12)
K. Sa-lum của Y-sơ-ra-ên (15:13-16)
L. Mê-na-hem của Y-sơ-ra-ên (15:17-22;)
M. Phê-ca-hia của Y-sơ-ra-ên (15:23-26;)
N. Phê-ca của Y-sơ-ra-ên (15:27-31)
O. Giô-tham của Giu-đa (15:32-38)
P. A-cha của Giu-đa (16:1-34)
Q. Ô-sê của Y-sơ-ra-ên (17:1-6)
R. Y-sơ-ra-ên bị lưu đày tái định cư của xứ# (17:7-41)
V. Giu-đa từ Ê-xê-chia đến khi lưu đày tại Ba-by-lôn (IIVua 2V 18:1-25:30)
A. Ê-xê-chia (18:1-20:43)
1. Đời trị vì tốt lành của Ê-xê-chia (18:1-8)
2. Quân A-si-ri hăm dọa và sự giải cứu (18:9-19:37)
3. Ê-xê-chia đau bịnh và liên minh với Ba-by-lôn (20:1-43)
B. Ma-na-se (21:1-18)
C. A-môn (21:19-26)
D. Giô-sia (22:1-23:30)
1. Sửa sang lại Đền thờ tìm thấy sách luật pháp# (22:1-54)
2. Tái lập giao ước cuối thời trị vì của Giô-sia# (23:1-30)
E. Giô-a-cha bị đày qua Ai-cập (23:31-35)
F. Giê-hô-gia-kim: Ba-by-lôn xâm lăng lần thứ nhất (23:36-24:7)
G. Giê-hô-gia-kin: Ba-by-lôn xâm lăng lần thứ hai (24:8-17)
H. Sê-đê-kia (24:18-20)
I. Giu-đa bị lưu đày qua Ba-by-lôn (25:1-21)
J. Dời dân sót qua Ai-cập (25:22-26)
K. Sự tôn cao Giê-hô-gia-kin tại Ba-by-lôn (25:27-30)

Dẫn nhập I Sử ký
Nhan đề:
Nhan đề bằng tiếng Hê-bơ-rơ (dibre hayyamim) có thể dịch là “Những sự
việc (hoặc sử biên niên) của những ngày (hoặc năm)”. Cũng nhóm từ này
xuất hiện liên quan đến các nguồn tin mà trước giả hay soạn giả Các Vua
dùng (dịch là “sử ký” trong thí dụ IVua 1V 14:19,29; 15:7,23,31;
16:5,14,20,27; 22:46). Dịch giả bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy
Lạp) gọi sách này là “những việc đã bỏ qua”, chỉ dấu rằng họ coi đây là sự
bổ sung cho sách Sa-mu-ên và Các Vua. Jérome (347 - 420 S.C) dịch giả
bản Vulgate La-tinh gợi ý nhan đề thích hợp hơn phải là “ký sự của toàn bộ
Thánh sử”. Luther đã theo gợi ý đó trong bản dịch ra Đức ngữ, nhiều người
khác cũng theo nhà Cải chánh. Các dịch giả bản LXX là những người đầu
tiên đã chia sách Sử ký làm hai phần.
Trước giả, niên hiệu và nguồn tin:
Theo truyền thuyết xưa của người Do Thái, E-xơ-ra viết sách Sử ký, E-xơ-ra
và Nê-hê-mi (xem phần Dẫn nhập E-xơ-ra: Hình thức văn học và tác quyền),
nhưng điều này không thể thiết lập cách chắc chắn. Ngày càng có sự nhất trí
định niên hiệu sách Sử ký là vào hạ bán thế kỷ thứ 5 TC, như thế có lẽ là
nhằm đời E-xơ-ra. Phải thừa nhận rằng trước giả, nếu không phải chính là E-
xơ-ra, thì ít nhất cũng chia sẻ những liên hệ căn bản với thầy tế lễ cải cách
đó - đầu sách Sử ký không phải quá thu hẹp trong phối cảnh “tế lễ” như từ
lâu người ta đã xác quyết.
Có người tin rằng bản văn chứa đựng bằng cớ đây đó những phần mở rộng
sau khi công việc căn bản đã soạn xong. Trong khi những sự duyệt xét biên
tập là không thể có, tất cả những đề nghị cụ thể để xem xét các phần đó chỉ
là thăm dò mà thôi.
Trong sự thuật lại lịch sử quá khứ lâu dài, sử gia phải dựa vào nhiều nguồn
đã viết ra. Độ phân nửa công tác của sử gia lấy từ các sách Sa-mu-ên và Các
Vua người cũng rút ra từ Ngũ Kinh, Các Quan Xét, Ru-tơ, Thi Thiên, Ê-sai,
Giê-rê-mi, Ca thương và Xa-cha-ri (dầu người sử dụng bản văn của các sách
này được thay đổi chút ít từ những sách đã được bảo quản trong các bản văn
Hê-bơ-rơ tiêu chuẩn sau này). Cũng thường tham khảo đến các nguồn tin
khác: “Sách ký lược của các vua Y-sơ-ra-ên” (ISu1Sb 9:1; IISu 2Sb 20:34 so
sánh IISu 2Sb 33:18), “Sử ký của vua Đa-vít” (ISu1Sb 27:24), “sách các vua
Giu-đa và Y-sơ-ra-ên” hoặc “sách của vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa” (IISu 2Sb
16:11 25:26; 27:7; 28:26; 32:32; 35:27; 36:8), “sách truyện các vua” (IISu
2Sb 24:27). Không rõ tất cả những sách này chỉ về cũng một nguồn hoặc các
nguồn khác nhau, và có liên hệ gì với các sách Sa-mu-ên và Các Vua, hoặc
các sử biên niên nói đến trong Các Vua. Thêm nữa, trước giả còn kể ra một
số các bản viết tiên tri: “Sách của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29),
“sách của Na-than, đấng tiên tri (ISu1Sb 29:29; IISu 2Sb 9:29), “sách của
Gát, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29), “sách của tiên tri A-hi-gia, người Si-lô”
(IISu 2Sb 9:29), “sách dị tượng của Giê-đô, đấng tiên kiến” (IISu 2Sb 9:29;
12:15; 13:22), “sách truyện của Sê-ma-gia, đấng tiên tri” (IISu 2Sb 12:15),
“tiên tri Ê-sai” (IISu 2Sb 26:22), “truyện Hô-xai” (IISu 2Sb 33:19). Người
dùng tất cả những sách này, đôi khi chỉ thay đổi chút ít, để thuật lại câu
chuyện về quá khứ của chính mình. Người không sáng tác, nhưng đã lựa
chọn, sắp đặt, và kết hợp những nguồn tin của mình để soạn “bài giảng”
tường thuật cho Y-sơ-ra-ên sau lưu đày, đang khi tuyển dân phấn đấu để tự
tái định hướng như con dân Thương Đế trong hoàn cảnh mới.
Mục đích và chủ đề:
Như các trước giả sách Sa-mu-ên và Các Vua đã sắp xếp và giải thích các dữ
kiện của lịch sử Y-sơ-ra-ên để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bị lưu đày,
cũng vậy sử gia đã viết cho cộng đồng phục hồi. Vấn đề tranh luận sôi nổi là
thắc mắc về sự liên tục với quá khứ: Liệu Đức Chúa Trời có còn quan tâm
đến chúng ta không? Liệu những giao ước của Chúa có còn hiệu lực gì
không? Bây giờ chúng ta chẳng còn vua thuộc nhà Đa-vít và đang phục tùng
Phe-rơ-sơ, liệu các lời Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít còn ý nghĩa đối với
chúng ta không? Sau cơn đoán phạt lớn (sự truất phế ngai vàng của nhà Đa-
vít, sự tiêu diệt quốc gia, thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền thờ, cùng lưu
đày tại Ba-by-lôn), liên hệ của chúng ta đối với Y-sơ-ra-ên xưa ra sao? Có
vài yếu tố đi vào lời giải đáp của sử gia:
1. Sự liên tục với quá khứ rất có ý nghĩa bởi Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, xây
dựng lại bởi ảnh hưởng tối cao của Chúa trên chiếu chỉ của hoàng đế Phe-rơ-
sơ (IISu 2Sb 36:22-23). Đối với thế hệ không hưởng tình trạng độc lập, và
không có vua thuộc dòng Đa-vít, trước giả lấy làm đau lòng bày tỏ rằng Đền
thờ của Chúa và sự thờ phượng (gồm cả sách cầu nguyện và ngợi khen, các
Thi thiên đầu tiên) là các tặng phẩm tối cao Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-
ên qua triều đại Đa-vít.Vì lý do đó, câu chuyện đời trị vì của vua Đa-vít và
Sa-lô-môn được dành phần lớn cho việc chuẩn bị của Đa-vít để Sa-lô-môn
xây cất Đền thờ, và các chỉ thị của Đa-vít về sự phục vụ nơi Đền thờ (với lời
khuyên của Gát, đấng tiên kiến và Na-than, đấng tiên tri, IISu 2Sb 29:25,
cùng những người Lê-vi là A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun, IISu 2Sb 35:15).
Cũng xem các câu chuyện của sử gia về các đời trị vì của A-se, Giô-sa-phát,
Ê-xê-chia và Giô-sia. Đền thờ của Chúa trong thành thánh xưa và sự phục
vụ (kể cả những Thi thiên) là di sản chính mà nhà Đa-vít đã để lại cho cộng
đồng phục hồi.
2. Giá trị của di sản này được trước giả nhấn mạnh làm nổi bật những mục
đích đầy ân phúc của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên qua những hành
động tuyển chọn cao cả của Ngài: (1) Chi phái Lê-vi để phục vụ trước rương
giao ước (ISu1Sb 15:2; xem 23:24-32), (2) Đa-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên
(ISu1Sb 28:4; IISu 2Sb 6:6), (3) Sa-lô-môn làm vua và xây cất Đền thờ
(ISu1Sb 28:5-6,10; 29:1), (4) Về Giê-ru-sa-lem (IISu 2Sb 6:6,34,38; 12:13;
33:7) và (5) Về Đền thờ (IISu 2Sb 7:12,16; 33:7) làm nơi danh Chúa luôn
hiện diện giữa dân Ngài. Những hành động thiên thượng này đảm bảo cho
Y-sơ-ra-ên sau thời phu tù rằng họ xây lại Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và tiếp
tục thờ phượng đánh dấu họ là dân của Đức Chúa Trời và sự lựa chọn đó
không bị hủy bỏ.
3. Thêm vào Đền thờ, Y-sơ-ra-ên có luật pháp và lời tiên tri như Đa-vít.
Chẳng phải Đền thờ hoặc các vua thuộc nhà Đa-vít có thể tự bảo đảm an
ninh và phước lành cho Y-sơ-ra-ên. Hết thảy đều tùy thuộc vào điều kiện Y-
sơ-ra-ên và các vua trung tín giữ luật lệ Chúa (ISu1Sb 28:7; IISu 2Sb 6:16;
7:17; 12:1; 33:8). Trong câu chuyện của sử gia, nét đặc trưng chính của triều
đại mỗi vua trung tín thuộc nhà Đa-vít cố gắng thuận phục luật pháp Chúa:
Đa-vít (ISu1Sb 6:49; 15:13-15; 16:40; 22:12-13; 29:19), A-sa (IISu 2Sb
14:4; 15:12-14), Giô-sa-phát (IISu 2Sb 17:3-9; 19:8-10), Giô-ách (IISu 2Sb
24:6-9), Ê-xê-chia (IISu 2Sb 29:10,31; 30:15-16; 31:3-4,21), Giô-sia (IISu
2Sb 34:19-21,29-33; 35:6,12,26). Việc chú ý đến những lời tiên tri của Đức
Chúa Trời cũng quan trọng không kém. Các vua trung tín như Đa-vít, A-sa,
Giô-sa-phát, Ê-xê-chia và Giô-sia - cả đến Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:4; 12:6)
và A-ma-xia (IISu 2Sb 25:7-10) - đều tôn trọng lời đó, những vua bất trung
không để ý đến lời tiên tri đều đến chỗ hủy diệt (Giô-ram, IISu 2Sb 21:12-
19; Giô-ách, IISu 2Sb 24:19-25; A-ma-xia, IISu 2Sb 25:15-16,20; Ma-na-se,
IISu 2Sb 33:10-11; xem 36:15-16). Quả thật, sách sử ký ghi chép chức vụ
của các tiên tri nhiều hơn sách Sa-mu-ên và Các vua. Lời Giô-sa-phát nói
với Y-sơ-ra-ên bày tỏ cách ngắn gọn quan điểm của nhà chép sử: “Khá tin
cậy Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các người sẽ vững chắc,
hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được may mắn” (IISu 2Sb
20:20). Trong câu chuyện sử gia thuật cho các năm dưới đời các vua trị vì,
việc Y-sơ-ra-ên đáp ứng với luật pháp và lời tiên tri là điều quyết định vận
mệnh của tuyển dân hơn đời trị vì của các vua nữa.
Như thế luật pháp và lời tiên tri, giống như Đền thờ, là chủ yếu mối quan hệ
liên tục Y-sơ-ra-ên với Chúa hơn là sự hiện diện hoặc khiếm diện của vua,
đời trị vì của chính các vua thuộc dòng Đa-vít làm chứng cho điều đó.
4. Hơn nữa, sử gia còn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự vâng giữ luật pháp
và lời tiên tri bằng cách nhấn mạnh chủ đề trừng phạt tức thì. Xem lời phát
biểu của Đa-vít (ISu1Sb 28:9), của Đức Giê-hô-va (IISu 2Sb 7:14), của các
tiên tri (IISu 2Sb 12:5; 15:2,7; 16:7,9; 19:2-3; 21:14-15; 24:20; 25:15-16;
28:9; 34:24-28). Trong lúc ghi chép về các đời trị vì của từng cá nhân, trước
giả không ngớt minh chứng cách nào tội lỗi luôn luôn đem lại đoán phạt
dưới hình thức tai hoạ (thường là bịnh tật hay bại trận), ngược lại ăn năn,
vâng phục và tin cậy sinh ra hoà bình, đắc thắng và thịnh vượng.
5. Rõ ràng trước giả sách Sử ký ước mong bồi dưỡng hi vọng của Y-sơ-ra-ên
về Đấng Mê-si đã hứa, là con Đa-vít, theo giao ước Đa-vít (IISa 2Sm 7:1-
29) là những bảo đảm của lời tiên tri, kể cả những tiên tri sống gần với
người (A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi). Người cẩn thận nhắc nhở lời cam kết
của Đức Giê-hô-va đối với Đa-vít (ISu1Sb 17:1-27) cặp theo nhiều lời trích
dẫn hậu thuẫn cho cam kết đó (xem ghi chép đặc biệt về đời trị vì của Sa-lô-
môn và cũng như IISu 2Sb 13:5; 21:7; 23:3). Nhưng có lẽ rõ rệt hơn là sự
mô tả lý tưởng của người về Đa-vít, Sa-lô-môn, A-sa, Giô-sa-phát, Ê-xê-chia
và Giô-sia. Dầu không mô tả hoàn mỹ, các vua này được trình bày như
gương chứng chủ yếu của lý tưởng Mê-si, tức là, những tôi tớ hoàng gia của
Đức Giê-hô-va mà đời trị vì của họ đẩy mạnh sự tin kính và lòng trung thành
với giao ước trong Y-sơ-ra-ên. Họ được ban thưởng ân huệ của Đức Chúa
Trời đối với các dân Ngài trong các hình thức cụ thể về chiến thắng, giải
phóng và thịnh vượng. Hơn nữa, họ ngồi trên “ngai của Chúa” (ISu1Sb
29:23; xem ISu1Sb 28:5; IISu 2Sb 9:8) và trị vì trên vương quốc của Chúa
(ISu1Sb 17:14; IISu 2Sb 13:8). Như thế , họ phục vụ như những kiểu mẫu,
báo trước về Đa-vít hầu đến mà các đấng tiên tri đã đề cập, và tưởng nhớ của
họ, nuôi dưỡng hi vọng, ở trước nhiều cảnh ngã lòng (xem sách Ma-la-chi).
Xem thêm phần kế “Chân dung Đa-vít và Sa-lô-môn”.
6. Còn chủ đề lớn khác về lịch sử của nhà chép sử là mối quan tâm của
người đối với “toàn Y-sơ-ra-ên” (xem, thí dụ, ISu1Sb 9:1; 11:1-4; 12:38-40;
16:1-3; 18:14; 21:1-5; 28:1-8; 29:21-26; IISu 2Sb 1:1-3; 7:8-10; 9:30; 10:1-
3,16; 12:1; 18:16; 28:23; 29:24; 30:1-13,23-27; 34:6-9,33). Thực tế là, trước
giả nhìn cộng đồng phục hồi là dân sót của cả Y-sơ-ra-ên, cả bắc lẫn nam
(ISu1Sb 9:2-3). Đây là luật sự nhận thức thần học nhiều hơn. Bài tường
thuật của người thường chú ý đến những di chuyển của người tin kính từ Y-
sơ-ra-ên đến Giu-đa vì những lý do tôn giáo đặc biệt. Trước hết là người Lê-
vi trong thời Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:14). Trong đời A-sa trị vì có những
người khác đi theo từ Ép-ra-im và Ma-na-se (IISu 2Sb 15:9). Ít lâu sau khi
A-si-ri hủy diệt nước phía bắc, nhiều người từ đất nước hoang tàn đó tái
định cư tại Giu-đa theo lời mời của Ê-xê-chia (IISu 2Sb 30:1-27). Rất có thể
không phải tất cả những người đến dự đại lễ Vượt Qua trong đời Ê-xê-chia
đều ở lại, nhưng khảo cổ học đã chỉ rõ ràng vào thời này thình lình có sự
tăng gia dân số đột ngột vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem, và sử gia đặc biệt nói
đến “người Y-sơ-ra-ên... ở trong các thành xứ Giu-đa” (IISu 2Sb 31:6).
Trước giả cũng nói đến “người Ma-na-se, người Ép-ra-im, và những kẻ còn
sót lại trong Y-sơ-ra-ên,” đã kết hợp với “người Giu-đa và Bên-gia-min và
những dân cư thành Giê-ru-sa-lem” trong sự sửa sang lại Đền thờ nhằm đời
Giô-si-a (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại Lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 35:17-18). Vậy nước “Giu-đa” trải qua các năm đã thu hút
nhiều người từ nước phía Bắc, và trước giả đã coi đó là dân sót lại của cả Y-
sơ-ra-ên từ thời Sa-ma-ri thất thủ.
7. Những gia phả cũng chứng minh sự liên lạc với quá khứ. Đối với câu hỏi:
“Liệu Đức Chúa Trời có còn chú ý đến chúng ta nữa không?” Sử gia đáp:
“Vẫn còn luôn”. Ân phúc và tình yêu của Đức Chúa Trời đối với cộng đồng
khôi phục chẳng phải khởi sự với Đa-vít, hoặc với sự chinh phục Đất hứa,
hoặc với sự xuất hành khỏi Ai-cập - bèn là với sự sáng tạo muôn vật
(ISu1Sb 1:1). Về các gia phả xin xem ở dưới.
8. Sử gia cũng thường giới thiệu các diễn từ không thấy nói đến trong sách
Sa-mu-ên và Các Vua, sử dụng chúng để truyền đạt các điểm chính cần nhấn
mạnh của mình. Trong số 165 diễn từ dài ngắn khác nhau trong Sử ký, chỉ
có 95 diễn từ thấy nói đến trong bản văn tương ứng Sa-mu-ên và Các Vua.
So sánh, thí dụ, những diễn từ của A-bi-gia (IISu 2Sb 13:4-12), A-sa (IISu
2Sb 14:11) và Giô-sa-phát (IISu 2Sb 20:5-12).
Chân dung của Đa-vít và Sa-lô-môn:
Phần lớn lịch sử của trước giả dành cho các đời trị vì của Đa-vít (ISu1Sb
11:1-29:30) và Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44). Những chân dung của hai
vua này thật đặc biệt và cung ứng các mối quan tâm chủ yếu của trước giả:
1. Sử gia đã lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn. Bất cứ điều gì ở trong nguồn
tài liệu (chính yếu là sách Sa-mu-ên và Các vua) có thể làm lu mờ hình ảnh
về họ đều bị loại ra. Trước giả không đề cập đến 7 năm trị vì tại Hếp-rôn
trước khi thống nhất đất nước, cuộc chiến giữa nhà Sau-lơ và Đa-vít, những
cuộc điều đình với An-ne, những khó khăn về Mi-canh, vợ Đa-vít, hoặc sư
mưu sát Áp-ne và Ích-bô-sết (IISa 2Sm 1:1-4:22). Sử gia trình bày Đa-vít
như được xức dầu làm vua cả Y-sơ-ra-ên ngay tức thì sau khi Sau-lơ qua đời
(ISu1Sb 11:1-47) và hưởng được sự ủng hộ của toàn dân (ISu1Sb 11:10-
12:40; xem chú thích ở 3:1-9). Những sự khó khăn sau này của Đa-vít cũng
không được thuật lại. Không nêu lên tội Đa-vít với Bát-sê-ba, tội ác và sự
chết của Am-môn, Áp-sa-lôm giết anh, và âm mưu phản nghịch vua, việc
Đa-vít chạy trốn có thể giảm bớt vinh quang của triều đại Đa-vít (IISa 2Sm
11:1-20:26). Đa-vít được giới thiệu là không tì vít, ngoại trừ việc kiểm tra
dân số (Sử gia có mục đích đặc biệt khi bao gồm chuyện đó, xem ISu1Sb
21:1-30 và chú thích).
Sử gia cũng luận giải về Sa-lô-môn cách tương tự, Sa-lô-môn được đặt tên
cách đặc biệt trong lời sấm truyền như người kế vị Đa-vít (ISu1Sb 22:7-10;
28:6). Người lên ngôi cũng được Đa-vít loan báo công khai với sự ủng hộ
nhất trí của Y-sơ-ra-ên (ISu1Sb 28:1-29:30). Không hề nói đến Đa-vít trong
cơn bạo bệnh nằm liệt giường mà phải lật đổ cuộc đảo chánh của A-đô-ni-
gia vào giờ chót để giữ vững ngai vàng cho Sa-lô-môn. Cũng không đề cập
việc tư lệnh quân đội là Giô-áp và thầy tế lễ tối cao A-bi-tha ủng hộ mưu đồ
của A-đô-ni-gia (IVua 1V 1:1-53). Việc Sa-lô-môn hành quyết những người
làm hại Đa-vít (IVua 1V 2:1-46) cũng được bỏ qua. Sa-lô-môn lên ngôi hoàn
toàn không có sự tranh giành, hoặc có sự việc nào làm giảm giá trị. Chuyện
đời trị vì của người hầu như chuyên lo xây cất Đền thờ (IISu 2Sb 2:1-8:18),
không hề trích dẫn đến những thất bại của người. Không hề nói đến sự thờ
hình tượng, các vợ ngoại bang của người hoặc cuộc phản loạn nghịch cùng
ngôi nước người (IVua 1V 11:1-43). Ngay cả đến trách nhiệm về sự phân
tranh cũng loại bỏ khỏi Sa-lô-môn (IVua 1V 11:26-40; 12:1-4) và đặt trên
mưu đồ của Giê-rô-bô-am. Hình ảnh của Sa-lô-môn trong sách Sử ký như có
thể đi đôi với Đa-vít trong ánh sáng thuận hảo nhất (IISu 2Sb 11:17).
Kế đó Đa-vít và Sa-lô-môn của sử gia phải được nhìn là Đa-vít và Sa-lô-
môn của lịch sử, mà cũng tiêu biểu về vua Mê-si mà Sử gia trông đợi.
2. Không chỉ lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn, mà trước giả dường như
cũng có ý chấp nhận chuyện Giô-suê kế vị Môi-se như là kiểu mẫu cho việc
Sa-lô-môn kế thừa Đa-vít.
a. Cả Đa-vít lẫn Môi-se đều không đạt được mục đích - một người không
được cất Đền thờ, còn người kia không được vào Đất Hứa. Trong cả hai
trường hợp, cấm lịnh thiên thượng đều liên can đến sự chỉ định người thừa
kế (ISu1Sb 22:5-13; 28:2-8; PhuDnl 1:37-38; 31:2-8).
b. Cả Sa-lô-môn lẫn Giô-suê đều đem dân Chúa vào sự yên nghỉ (ISu1Sb
22:8-9; Gios Gs 11:23; 21:44).
c. Có một số lời tương đương trong sự chỉ định Sa-lô-môn và Giô-suê (so
sánh ISu1Sb 22:11-13,16; 28:7-10,20; IISu 2Sb 1:1 với PhuDnl 31:5-8,23;
Gios Gs 1:5,7-9).
d. Có cả lời loan báo riêng tư lẫn công khai về sự chỉ định người kế vị: riêng
tư (ISu1Sb 22:6; PhuDnl 31:23), công khai (ISu1Sb 28:8; PhuDnl 31:7 - cả
hai “đều ở trong sự hiện diện, quan sát của Y-sơ-ra-ên”).
e. Cả hai đều được sự ủng hộ trực tiếp và hết lòng của dân chúng (ISu1Sb
29:23-24; PhuDnl 34:9; Gios Gs 1:16-18).
f. Có hai lần chép rằng Đức Chúa Trời khiến Sa-lô-môn và Giô-suê “rất cao
trọng” (ISu1Sb 29:25; IISu 2Sb 1:1; Gios Gs 3:7; hoặc “tôn người lên”, Gios
Gs 4:14).
Sử gia cũng dùng các kiểu mẫu khác rút trong lịch sử ngũ kinh để tả vẽ hình
ảnh Đa-vít và Sa-lô-môn. Giống Môi-se, Đa-vít đã nhận các hoạ đồ Đền thờ
từ Đức Chúa Trời (ISu1Sb 28:11-19; XuXh 25:9) và kêu gọi dân chúng đem
lễ vật lạc hiến đến cho việc xây cất (ISu1Sb 29:1-9; XuXh 25:1-7). Sa-lô-
môn liên hệ với Hu-ram A-bi, nghệ nhân từ Ty-rơ (IISu 2Sb 2:13-14) lặp lại
vai trò của Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp trong việc xây dựng Đền tạm (XuXh
35:30-36:7). Xem chú thích ở IISu 2Sb 1:5.
Những gia phả:
Sự phân tích các gia phả ở trong và ngoài Thánh Kinh tiết lộ rằng chúng
được dùng vào một số chức năng (với các nguyên tắc khác nhau chi phối các
bản liệt kê), và chúng thay đổi về hình thức (có khi được phân đoạn, có khi
theo hàng thẳng) và chiều sâu (một số thế hệ được liệt kê) và chúng thường
thay đổi (chủ đề thay đổi).
Có ba lãnh vực chung trong chức năng của các gia phả: thuộc gia đình hoặc
trong nước, thuộc chính trị hợp pháp, và thuộc tôn giáo. Trong lãnh vực
trong nước, địa vị xã hội của cá nhân, đặc ân và nghĩa vụ có thể phản ánh
trong thứ bậc của dòng họ (xem ISu1Sb 7:14-19), đặc quyền trưởng nam, và
thân phận phụ thuộc của con dòng vợ lẽ là những gương chứng từ Kinh
thánh. Trong lãnh vực chính trị các gia phả chứng minh những đòi hỏi chức
vụ kế thừa hoặc giải quyết những thỉnh cầu khi có sự tranh chấp về chức
nhiệm đó. Tổ chức đất đai và sự tập hợp các đơn vị xã hội thành nhóm trên
lãnh thổ cũng có thể nhờ gia phả định đoạt - thí dụ, sự chia đất hứa cho 12
chi phái. Trong Y-sơ-ra-ên sự tuyển quân cũng tiếp diễn theo dòng gia phả,
có mấy gia phả trong sách Sử ký phản ánh sự cưỡng bách tòng quân (ISu1Sb
5:1-26; 7:1-12,30-40; 8:1-40). Những gia phả có chức năng trong lãnh vực
tôn giáo góp phần chính trong việc thiết lập địa vị thành viên giữa vòng các
thầy tế lễ và người Lê-vi (ISu1Sb 6:1-30; 9:10-34; NeNe 7:61-65).
Về hình thức, một danh sách gia phả vạch ra nhiều dòng dõi (các gia phả
được phân đoạn) còn các gia phả khác chuyên về một dòng trực hệ (các gia
phả thuộc trực hệ).
So sánh các bản liệt kê gia phả cùng một chi phái hoặc gia đình thường đưa
ra ánh sáng những khác biệt đáng ngạc nhiên. Sự thay đổi các danh sách này
có thể phản ánh chức năng khác nhau. Nhưng đôi khi những thay đổi trong
thân phận hoặc liên hệ đến cơ cấu xã hội được phản ánh trong các gia phả
bởi những thay đổi liên hệ đến những tên trong gia phả (xem ISu1Sb 1:35-
42; 6:22,27), hoặc bởi thêm vào tên hoặc phân đoạn cho một dòng họ (xem
ISu1Sb 5:11-22; 6:27; 7:6-12). Loại thay đổi thông thường nhất trong các tài
liệu Kinh thánh là thu gọn lại, tức bỏ một số tên khỏi danh sách. Những tên
không quan trọng được loại bỏ để liên hệ một cá nhân với tổ phụ xuất chúng,
hoặc có thể là để hoàn tất số tên muốn có trong gia phả. Thí dụ như, vài gia
phả Thánh Kinh bỏ những tên để hoàn thành bội số của 7: Về thời kỳ từ Đa-
vít đến kỳ lưu đày Ma-thi-ơ ghi 14 thế hệ (2 lần 7), trong khi Lu-ca ghi 21 (3
lần 7), và cũng những trước giả ấy đã cho bội số tương tự của ý kể từ thời
lưu đày đến Chúa Giê-xu (Mat Mt 1:1-17; LuLc 3:23-38).
Những gia phả của sách Sử ký bày tỏ sự thay đổi của các đặc tính này, sự
sắp đặt thường phản ánh mục đích của gia phả được soạn trước khi trước giả
sách Sử ký chấp nhận như một phần ghi chép của mình.
Bố cục:
I. Các gia phả: Từ sáng tạo đến sự phục hồi (ISu1Sb 1:1-9:44)
A. Các tộc trưởng (1:1-54)
B. Mười hai con trai Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên) (2:1-2)
C. Gia đình Giu-đa (2:3-4:23)
D. Các con trai của Si-mê-ôn (4:24-43)
E. Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se (5:1-26)
F. Lê-vi và các gia đình (6:1-81)
G. Y-sa-ca, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Ma-na-se, Ép-ra-im và A-se (7:1-9:44)
II. Triều đại Đa-vít (ISu1Sb 10:1-29:30)
A. Sau-lơ qua đời (10:1-14)
B. Chiếm thành Giê-ru-sa-lem: Nền tảng quyền năng của Đa-vít (11:1-
12:40)
C. Rương giao ước trở về: Thiết lập vương quốc Đa-vít (13:1-16:43)
D. Lời hứa cho triều đại (17:1-27)
E. Những cuộc chinh phục của Đa-vít (18:1-20:8)
F. Kiểm tra dân số (21:1-30)
G. Những chuẩn bị cho Đền thờ (22:1-19)
H. Tổ chức sự phục vụ trong Đền thờ (23:1-26:32)
I. Cơ cấu hành chính của vương quốc (27:1-34)
J. Những sửa soạn cuối cùng của Đa-vít cho sự kế vị và Đền thờ (28:1-
29:20)
K. Sự kế vị của Sa-lô-môn: Đa-vít qua đời (29:21-30)
III. Đời trị vì của Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44)
A. Ân tứ khôn ngoan (1:1-54)
B. Xây cất Đền thờ (2:1-5:1)
C. Khánh thành Đền thờ (5:2-7:22)
D. Các hoạt động khác của Sa-lô-môn (8:1-40)
E. Sự khôn ngoan, sang trọng và sự qua đời của Sa-lô-môn (9:1-44)
IV. Sự phân tranh, và lịch sử các vua Giu-đa (IISu 2Sb 10:1-36:23)
A. Rô-bô-am (10:1-12:40)
B. A-bi-gia (13:1-14:1)
C. A-sa (14:2-16:14)
D. Giô-sa-phát (17:1-21:3)
E. Giô-ram và A-cha-xia (21:4-22:9)
F. Giô-ách (22:10-24:27)
G. A-ma-xia (25:1-31)
H. Ô-xia (26:1-32)
I. Giô-tham (27:1-34)
J. A-cha (28:1-21)
K. Ê-xê-chia (29:1-32:32)
L. Ma-na-se (33:1-20)
M. A-môn (33:21-25)
N. Giô-sia (34:1-36:1)
O. Những người kế vị Giô-sia (36:2-14)
P. Lưu đày và hồi phục (36:15-23).

Dẫn nhập II Sử ký
Nhan đề:
Nhan đề bằng tiếng Hê-bơ-rơ (dibre hayyamim) có thể dịch là “Những sự
việc (hoặc sử biên niên) của những ngày (hoặc năm)”. Cũng nhóm từ này
xuất hiện liên quan đến các nguồn tin mà trước giả hay soạn giả Các Vua
dùng (dịch là “sử ký” trong thí dụ IVua 1V 14:19,29; 15:7,23,31;
16:5,14,20,27; 22:46). Dịch giả bản LXX (bản dịch cựu ước ra tiếng Hy
Lạp) gọi sách này là “những việc đã bỏ qua”, chỉ dấu rằng họ coi đây là sự
bổ sung cho sách Sa-mu-ên và Các Vua. Jérome (347 - 420 S.C) dịch giả
bản Vulgate La-tinh gợi ý nhan đề thích hợp hơn phải là “ký sự của toàn bộ
Thánh sử”. Luther đã theo gợi ý đó trong bản dịch ra Đức ngữ, nhiều người
khác cũng theo nhà Cải chánh. Các dịch giả bản LXX là những người đầu
tiên đã chia sách Sử ký làm hai phần.
Trước giả, niên hiệu và nguồn tin:
Theo truyền thuyết xưa của người Do Thái, E-xơ-ra viết sách Sử ký, E-xơ-ra
và Nê-hê-mi (xem phần Dẫn nhập E-xơ-ra: Hình thức văn học và tác quyền),
nhưng điều này không thể thiết lập cách chắc chắn. Ngày càng có sự nhất trí
định niên hiệu sách Sử ký là vào hạ bán thế kỷ thứ 5 TC, như thế có lẽ là
nhằm đời E-xơ-ra. Phải thừa nhận rằng trước giả, nếu không phải chính là E-
xơ-ra, thì ít nhất cũng chia sẻ những liên hệ căn bản với thầy tế lễ cải cách
đó - đầu sách Sử ký không phải quá thu hẹp trong phối cảnh “tế lễ” như từ
lâu người ta đã xác quyết.
Có người tin rằng bản văn chứa đựng bằng cớ đây đó những phần mở rộng
sau khi công việc căn bản đã soạn xong. Trong khi những sự duyệt xét biên
tập là không thể có, tất cả những đề nghị cụ thể để xem xét các phần đó chỉ
là thăm dò mà thôi.
Trong sự thuật lại lịch sử quá khứ lâu dài, sử gia phải dựa vào nhiều nguồn
đã viết ra. Độ phân nửa công tác của sử gia lấy từ các sách Sa-mu-ên và Các
Vua, người cũng rút ra từ Ngũ Kinh, Các quan xét, Ru-tơ, Thi-thiên, Ê-sai,
Giê-rê-mi, Ca thương và Xa-cha-ri (dầu người sử dụng bản văn của các sách
này được thay đổi chút ít từ những sách đã được bảo quản trong các bản văn
Hê-bơ-rơ tiêu chuẩn sau này). Cũng thường tham khảo đến các nguồn tin
khác: “Sách ký lược của các vua Y-sơ-ra-ên” (ISu1Sb 9:1; IISu 2Sb 20:34 so
sánh IISu 2Sb 33:18), “Sử ký của vua Đa-vít” (ISu1Sb 27:24), “sách các vua
Giu-đa và Y-sơ-ra-ên” hoặc “sách của vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa” (IISu 2Sb
16:11 25:26; 27:7; 28:26; 32:32; 35:27; 36:8), “sách truyện các vua” (IISu
2Sb 24:27). Không rõ tất cả những sách này chỉ về cũng một nguồn hoặc các
nguồn khác nhau, và có liên hệ gì với các sách Sa-mu-ên và Các Vua, hoặc
các sử biên niên nói đến trong Các Vua. Thêm nữa, trước giả còn kể ra một
số các bản viết tiên tri: “Sách của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29),
“sách của Na-than, đấng tiên tri (ISu1Sb 29:29; IISu 2Sb 9:29), “sách của
Gát, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29), “sách của tiên tri A-hi-gia, người Si-lô”
(IISu 2Sb 9:29), “sách dị tượng của Giê-đô, đấng tiên kiến” (IISu 2Sb 9:29;
12:15; 13:22), “sách truyện của Sê-ma-gia, đấng tiên tri” (IISu 2Sb 12:15),
“tiên tri Ê-sai” (IISu 2Sb 26:22), “truyện Hô-xai” (IISu 2Sb 33:19). Người
dùng tất cả những sách này, đôi khi chỉ thay đổi chút ít, để thuật lại câu
chuyện về quá khứ của chính mình. Người không sáng tác, nhưng đã lựa
chọn, sắp đặt, và kết hợp những nguồn tin của mình để soạn “bài giảng”
tường thuật cho Y-sơ-ra-ên sau lưu đày, đang khi tuyển dân phấn đấu để tự
tái định hướng như con dân Thương Đế trong hoàn cảnh mới.
Mục đích và chủ đề:
Như các trước giả sách Sa-mu-ên và Các Vua đã sắp xếp và giải thích các dữ
kiện của lịch sử Y-sơ-ra-ên để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bị lưu đày,
cũng vậy sử gia đã viết cho cộng đồng phục hồi. Vấn đề tranh luận sôi nổi là
thắc mắc về sự liên tục với quá khứ: Liệu Đức Chúa Trời có còn quan tâm
đến chúng ta không? Liệu những giao ước của Chúa có còn hiệu lực gì
không? Bây giờ chúng ta chẳng còn vua thuộc nhà Đa-vít và đang phục tùng
Phe-rơ-sơ, liệu các lời Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít còn ý nghĩa đối với
chúng ta không? Sau cơn đoán phạt lớn (sự truất phế ngai vàng của nhà Đa-
vít, sự tiêu diệt quốc gia, thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền thờ, cùng lưu
đày tại Ba-by-lôn), liên hệ của chúng ta đối với Y-sơ-ra-ên xưa ra sao? Có
vài yếu tố đi vào lời giải đáp của sử gia:
1. Sự liên tục với quá khứ rất có ý nghĩa bởi Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, xây
dựng lại bởi ảnh hưởng tối cao của Chúa trên chiếu chỉ của hoàng đế Phe-rơ-
sơ (IISu 2Sb 36:22-23). Đối với thế hệ không hưởng tình trạng độc lập, và
không có vua thuộc dòng Đa-vít, trước giả lấy làm đau lòng bày tỏ rằng Đền
thờ của Chúa và sự thờ phượng (gồm cả sách cầu nguyện và ngợi khen, các
Thi thiên đầu tiên) là các tặng phẩm tối cao Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-
ên qua triều đại Đa-vít.Vì lý do đó, câu chuyện đời trị vì của vua Đa-vít và
Sa-lô-môn được dành phần lớn cho việc chuẩn bị của Đa-vít để Sa-lô-môn
xây cất Đền thờ, và các chỉ thị của Đa-vít về sự phục vụ nơi Đền thờ (với lời
khuyên của Gát, đấng tiên kiến và Na-than, đấng tiên tri, IISu 2Sb 29:25,
cùng những người Lê-vi là A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun, IISu 2Sb 35:15).
Cũng xem các câu chuyện của sử gia về các đời trị vì của A-se, Giô-sa-phát,
Ê-xê-chia và Giô-sia. Đền thờ của Chúa trong thành thánh xưa và sự phục
vụ (kể cả những Thi thiên) là di sản chính mà nhà Đa-vít đã để lại cho cộng
đồng phục hồi.
2. Giá trị của di sản này được trước giả nhấn mạnh làm nổi bật những mục
đích đầy ân phúc của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên qua những hành
động tuyển chọn cao cả của Ngài: (1) Chi phái Lê-vi để phục vụ trước rương
giao ước (ISu1Sb 15:2; xem 23:24-32), (2) Đa-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên
(ISu1Sb 28:4; IISu 2Sb 6:6), (3) Sa-lô-môn làm vua và xây cất Đền thờ
(ISu1Sb 28:5-6,10; 29:1), (4) Về Giê-ru-sa-lem (IISu 2Sb 6:6,34,38; 12:13;
33:7) và (5) Về Đền thờ (IISu 2Sb 7:12,16; 33:7) làm nơi danh Chúa luôn
hiện diện giữa dân Ngài. Những hành động thiên thượng này đảm bảo cho
Y-sơ-ra-ên sau thời phu tù rằng họ xây lại Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và tiếp
tục thờ phượng đánh dấu họ là dân của Đức Chúa Trời và sự lựa chọn đó
không bị hủy bỏ.
3. Thêm vào Đền thờ, Y-sơ-ra-ên có luật pháp và lời tiên tri như Đa-vít.
Chẳng phải Đền thờ hoặc các vua thuộc nhà Đa-vít có thể tự bảo đảm an
ninh và phước lành cho Y-sơ-ra-ên. Hết thảy đều tùy thuộc vào điều kiện Y-
sơ-ra-ên và các vua trung tín giữ luật lệ Chúa (ISu1Sb 28:7; IISu 2Sb 6:16;
7:17; 12:1; 33:8). Trong câu chuyện của sử gia, nét đặc trưng chính của triều
đại mỗi vua trung tín thuộc nhà Đa-vít cố gắng thuận phục luật pháp Chúa:
Đa-vít (ISu1Sb 6:49; 15:13-15; 16:40; 22:12-13; 29:19), A-sa (IISu 2Sb
14:4; 15:12-14), Giô-sa-phát (IISu 2Sb 17:3-9; 19:8-10), Giô-ách (IISu 2Sb
24:6-9), Ê-xê-chia (IISu 2Sb 29:10,31; 30:15-16; 31:3-4,21), Giô-sia (IISu
2Sb 34:19-21,29-33; 35:6,12,26). Việc chú ý đến những lời tiên tri của Đức
Chúa Trời cũng quan trọng không kém. Các vua trung tín như Đa-vít, A-sa,
Giô-sa-phát, Ê-xê-chia và Giô-sia - cả đến Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:4; 12:6)
và A-ma-xia (IISu 2Sb 25:7-10) - đều tôn trọng lời đó, những vua bất trung
không để ý đến lời tiên tri đều đến chỗ hủy diệt (Giô-ram, IISu 2Sb 21:12-
19; Giô-ách, IISu 2Sb 24:19-25; A-ma-xia, IISu 2Sb 25:15-16,20; Ma-na-se,
IISu 2Sb 33:10-11; xem 36:15-16). Quả thật, sách sử ký ghi chép chức vụ
của các tiên tri nhiều hơn sách Sa-mu-ên và Các vua. Lời Giô-sa-phát nói
với Y-sơ-ra-ên bày tỏ cách ngắn gọn quan điểm của nhà chép sử: “Khá tin
cậy Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các người sẽ vững chắc,
hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được may mắn” (IISu 2Sb
20:20). Trong câu chuyện sử gia thuật cho các năm dưới đời các vua trị vì,
việc Y-sơ-ra-ên đáp ứng với luật pháp và lời tiên tri là điều quyết định vận
mệnh của tuyển dân hơn đời trị vì của các vua nữa.
Như thế luật pháp và lời tiên tri, giống như Đền thờ, là chủ yếu mối quan hệ
liên tục Y-sơ-ra-ên với Chúa hơn là sự hiện diện hoặc khiếm diện của vua,
đời trị vì của chính các vua thuộc dòng Đa-vít làm chứng cho điều đó.
4. Hơn nữa, sử gia còn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự vâng giữ luật pháp
và lời tiên tri bằng cách nhấn mạnh chủ đề trừng phạt tức thì. Xem lời phát
biểu của Đa-vít (ISu1Sb 28:9), của Đức Giê-hô-va (IISu 2Sb 7:14), của các
tiên tri (IISu 2Sb 12:5; 15:2,7; 16:7,9; 19:2-3; 21:14-15; 24:20; 25:15-16;
28:9; 34:24-28). Trong lúc ghi chép về các đời trị vì của từng cá nhân, trước
giả không ngớt minh chứng cách nào tội lỗi luôn luôn đem lại đoán phạt
dưới hình thức tai hoạ (thường là bịnh tật hay bại trận), ngược lại ăn năn,
vâng phục và tin cậy sinh ra hoà bình, đắc thắng và thịnh vượng.
5. Rõ ràng trước giả sách Sử ký ước mong bồi dưỡng hi vọng của Y-sơ-ra-ên
về Đấng Mê-si đã hứa, là con Đa-vít, theo giao ước Đa-vít (IISa 2Sm 7:1-
29) là những bảo đảm của lời tiên tri, kể cả những tiên tri sống gần với
người (A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi). Người cẩn thận nhắc nhở lời cam kết
của Đức Giê-hô-va đối với Đa-vít (ISu1Sb 17:1-27) cặp theo nhiều lời trích
dẫn hậu thuẫn cho cam kết đó (xem ghi chép đặc biệt về đời trị vì của Sa-lô-
môn và cũng như IISu 2Sb 13:5; 21:7; 23:3). Nhưng có lẽ rõ rệt hơn là sự
mô tả lý tưởng của người về Đa-vít, Sa-lô-môn, A-sa, Giô-sa-phát, Ê-xê-chia
và Giô-sia. Dầu không mô tả hoàn mỹ, các vua này được trình bày như
gương chứng chủ yếu của lý tưởng Mê-si, tức là, những tôi tớ hoàng gia của
Đức Giê-hô-va mà đời trị vì của họ đẩy mạnh sự tin kính và lòng trung thành
với giao ước trong Y-sơ-ra-ên. Họ được ban thưởng ân huệ của Đức Chúa
Trời đối với các dân Ngài trong các hình thức cụ thể về chiến thắng, giải
phóng và thịnh vượng. Hơn nữa, họ ngồi trên “ngai của Chúa” (ISu1Sb
29:23; xem ISu1Sb 28:5; IISu 2Sb 9:8) và trị vì trên vương quốc của Chúa
(ISu1Sb 17:14; IISu 2Sb 13:8). Như thế , họ phục vụ như những kiểu mẫu,
báo trước về Đa-vít hầu đến mà các đấng tiên tri đã đề cập, và tưởng nhớ của
họ, nuôi dưỡng hi vọng, ở trước nhiều cảnh ngã lòng (xem sách Ma-la-chi).
Xem thêm phần kế “Chân dung Đa-vít và Sa-lô-môn”.
6. Còn chủ đề lớn khác về lịch sử của nhà chép sử là mối quan tâm của
người đối với “toàn Y-sơ-ra-ên” (xem, thí dụ, ISu1Sb 9:1; 11:1-4; 12:38-40;
16:1-3; 18:14; 21:1-5; 28:1-8; 29:21-26; IISu 2Sb 1:1-3; 7:8-10; 9:30; 10:1-
3,16; 12:1; 18:16; 28:23; 29:24; 30:1-13,23-27; 34:6-9,33). Thực tế là, trước
giả nhìn cộng đồng phục hồi là dân sót của cả Y-sơ-ra-ên, cả bắc lẫn nam
(ISu1Sb 9:2-3). Đây là luật sự nhận thức thần học nhiều hơn. Bài tường
thuật của người thường chú ý đến những di chuyển của người tin kính từ Y-
sơ-ra-ên đến Giu-đa vì những lý do tôn giáo đặc biệt. Trước hết là người Lê-
vi trong thời Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:14). Trong đời A-sa trị vì có những
người khác đi theo từ Ép-ra-im và Ma-na-se (IISu 2Sb 15:9). Ít lâu sau khi
A-si-ri hủy diệt nước phía bắc, nhiều người từ đất nước hoang tàn đó tái
định cư tại Giu-đa theo lời mời của Ê-xê-chia (IISu 2Sb 30:1-27). Rất có thể
không phải tất cả những người đến dự đại lễ Vượt Qua trong đời Ê-xê-chia
đều ở lại, nhưng khảo cổ học đã chỉ rõ ràng vào thời này thình lình có sự
tăng gia dân số đột ngột vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem, và sử gia đặc biệt nói
đến “người Y-sơ-ra-ên... ở trong các thành xứ Giu-đa” (IISu 2Sb 31:6).
Trước giả cũng nói đến “người Ma-na-se, người Ép-ra-im, và những kẻ còn
sót lại trong Y-sơ-ra-ên,” đã kết hợp với “người Giu-đa và Bên-gia-min và
những dân cư thành Giê-ru-sa-lem” trong sự sửa sang lại Đền thờ nhằm đời
Giô-si-a (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại Lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 35:17-18). Vậy nước “Giu-đa” trải qua các năm đã thu hút
nhiều người từ nước phía Bắc, và trước giả đã coi đó là dân sót lại của cả Y-
sơ-ra-ên từ thời Sa-ma-ri thất thủ.
7. Những gia phả cũng chứng minh sự liên lạc với quá khứ. Đối với câu hỏi:
“Liệu Đức Chúa Trời có còn chú ý đến chúng ta nữa không?” Sử gia đáp:
“Vẫn còn luôn”. Ân phúc và tình yêu của Đức Chúa Trời đối với cộng đồng
khôi phục chẳng phải khởi sự với Đa-vít, hoặc với sự chinh phục Đất hứa,
hoặc với sự xuất hành khỏi Ai-cập - bèn là với sự sáng tạo muôn vật
(ISu1Sb 1:1). Về các gia phả xin xem ở dưới.
8. Sử gia cũng thường giới thiệu các diễn từ không thấy nói đến trong sách
Sa-mu-ên và Các Vua, sử dụng chúng để truyền đạt các điểm chính cần nhấn
mạnh của mình. Trong số 165 diễn từ dài ngắn khác nhau trong Sử ký, chỉ
có 95 diễn từ thấy nói đến trong bản văn tương ứng Sa-mu-ên và Các Vua.
So sánh, thí dụ, những diễn từ của A-bi-gia (IISu 2Sb 13:4-12), A-sa (IISu
2Sb 14:11) và Giô-sa-phát (IISu 2Sb 20:5-12).
Chân dung của Đa-vít và Sa-lô-môn:
Phần lớn lịch sử của trước giả dành cho các đời trị vì của Đa-vít (ISu1Sb
11:1-29:30) và Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44). Những chân dung của hai
vua này thật đặc biệt và cung ứng các mối quan tâm chủ yếu của trước giả:
1. Sử gia đã lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn. Bất cứ điều gì ở trong nguồn
tài liệu (chính yếu là sách Sa-mu-ên và Các vua) có thể làm lu mờ hình ảnh
về họ đều bị loại ra. Trước giả không đề cập đến 7 năm trị vì tại Hếp-rôn
trước khi thống nhất đất nước, cuộc chiến giữa nhà Sau-lơ và Đa-vít, những
cuộc điều đình với An-ne, những khó khăn về Mi-canh, vợ Đa-vít, hoặc sư
mưu sát Áp-ne và Ích-bô-sết (IISa 2Sm 1:1-4:22). Sử gia trình bày Đa-vít
như được xức dầu làm vua cả Y-sơ-ra-ên ngay tức thì sau khi Sau-lơ qua đời
(ISu1Sb 11:1-47) và hưởng được sự ủng hộ của toàn dân (ISu1Sb 11:10-
12:40; xem chú thích ở 3:1-9). Những sự khó khăn sau này của Đa-vít cũng
không được thuật lại. Không nêu lên tội Đa-vít với Bát-sê-ba, tội ác và sự
chết của Am-môn, Áp-sa-lôm giết anh, và âm mưu phản nghịch vua, việc
Đa-vít chạy trốn có thể giảm bớt vinh quang của triều đại Đa-vít (IISa 2Sm
11:1-20:26). Đa-vít được giới thiệu là không tì vít, ngoại trừ việc kiểm tra
dân số (Sử gia có mục đích đặc biệt khi bao gồm chuyện đó, xem ISu1Sb
21:1-30 và chú thích).
Sử gia cũng luận giải về Sa-lô-môn cách tương tự, Sa-lô-môn được đặt tên
cách đặc biệt trong lời sấm truyền như người kế vị Đa-vít (ISu1Sb 22:7-10;
28:6). Người lên ngôi cũng được Đa-vít loan báo công khai với sự ủng hộ
nhất trí của Y-sơ-ra-ên (ISu1Sb 28:1-29:30). Không hề nói đến Đa-vít trong
cơn bạo bệnh nằm liệt giường mà phải lật đổ cuộc đảo chánh của A-đô-ni-
gia vào giờ chót để giữ vững ngai vàng cho Sa-lô-môn. Cũng không đề cập
việc tư lệnh quân đội là Giô-áp và thầy tế lễ tối cao A-bi-tha ủng hộ mưu đồ
của A-đô-ni-gia (IVua 1V 1:1-53). Việc Sa-lô-môn hành quyết những người
làm hại Đa-vít (IVua 1V 2:1-46) cũng được bỏ qua. Sa-lô-môn lên ngôi hoàn
toàn không có sự tranh giành, hoặc có sự việc nào làm giảm giá trị. Chuyện
đời trị vì của người hầu như chuyên lo xây cất Đền thờ (IISu 2Sb 2:1-8:18),
không hề trích dẫn đến những thất bại của người. Không hề nói đến sự thờ
hình tượng, các vợ ngoại bang của người hoặc cuộc phản loạn nghịch cùng
ngôi nước người (IVua 1V 11:1-43). Ngay cả đến trách nhiệm về sự phân
tranh cũng loại bỏ khỏi Sa-lô-môn (IVua 1V 11:26-40; 12:1-4) và đặt trên
mưu đồ của Giê-rô-bô-am. Hình ảnh của Sa-lô-môn trong sách Sử ký như có
thể đi đôi với Đa-vít trong ánh sáng thuận hảo nhất (IISu 2Sb 11:17).
Kế đó Đa-vít và Sa-lô-môn của sử gia phải được nhìn là Đa-vít và Sa-lô-
môn của lịch sử, mà cũng tiêu biểu về vua Mê-si mà Sử gia trông đợi.
2. Không chỉ lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn, mà trước giả dường như
cũng có ý chấp nhận chuyện Giô-suê kế vị Môi-se như là kiểu mẫu cho việc
Sa-lô-môn kế thừa Đa-vít.
a. Cả Đa-vít lẫn Môi-se đều không đạt được mục đích - một người không
được cất Đền thờ, còn người kia không được vào Đất Hứa. Trong cả hai
trường hợp, cấm lịnh thiên thượng đều liên can đến sự chỉ định người thừa
kế (ISu1Sb 22:5-13; 28:2-8; PhuDnl 1:37-38; 31:2-8).
b. Cả Sa-lô-môn lẫn Giô-suê đều đem dân Chúa vào sự yên nghỉ (ISu1Sb
22:8-9; Gios Gs 11:23; 21:44).
c. Có một số lời tương đương trong sự chỉ định Sa-lô-môn và Giô-suê (so
sánh ISu1Sb 22:11-13,16; 28:7-10,20; IISu 2Sb 1:1 với PhuDnl 31:5-8,23;
Gios Gs 1:5,7-9).
d. Có cả lời loan báo riêng tư lẫn công khai về sự chỉ định người kế vị: riêng
tư (ISu1Sb 22:6; PhuDnl 31:23), công khai (ISu1Sb 28:8; PhuDnl 31:7 - cả
hai “đều ở trong sự hiện diện, quan sát của Y-sơ-ra-ên”).
e. Cả hai đều được sự ủng hộ trực tiếp và hết lòng của dân chúng (ISu1Sb
29:23-24; PhuDnl 34:9; Gios Gs 1:16-18).
f. Có hai lần chép rằng Đức Chúa Trời khiến Sa-lô-môn và Giô-suê “rất cao
trọng” (ISu1Sb 29:25; IISu 2Sb 1:1; Gios Gs 3:7; hoặc “tôn người lên”, Gios
Gs 4:14).
Sử gia cũng dùng các kiểu mẫu khác rút trong lịch sử ngũ kinh để tả vẽ hình
ảnh Đa-vít và Sa-lô-môn. Giống Môi-se, Đa-vít đã nhận các hoạ đồ Đền thờ
từ Đức Chúa Trời (ISu1Sb 28:11-19; XuXh 25:9) và kêu gọi dân chúng đem
lễ vật lạc hiến đến cho việc xây cất (ISu1Sb 29:1-9; XuXh 25:1-7). Sa-lô-
môn liên hệ với Hu-ram A-bi, nghệ nhân từ Ty-rơ (IISu 2Sb 2:13-14) lặp lại
vai trò của Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp trong việc xây dựng Đền tạm (XuXh
35:30-36:7). Xem chú thích ở IISu 2Sb 1:5.
Những gia phả:
Sự phân tích các gia phả ở trong và ngoài Thánh Kinh tiết lộ rằng chúng
được dùng vào một số chức năng (với các nguyên tắc khác nhau chi phối các
bản liệt kê), và chúng thay đổi về hình thức (có khi được phân đoạn, có khi
theo hàng thẳng) và chiều sâu (một số thế hệ được liệt kê) và chúng thường
thay đổi (chủ đề thay đổi).
Có ba lãnh vực chung trong chức năng của các gia phả: thuộc gia đình hoặc
trong nước, thuộc chính trị hợp pháp, và thuộc tôn giáo. Trong lãnh vực
trong nước, địa vị xã hội của cá nhân, đặc ân và nghĩa vụ có thể phản ánh
trong thứ bậc của dòng họ (xem ISu1Sb 7:14-19), đặc quyền trưởng nam, và
thân phận phụ thuộc của con dòng vợ lẽ là những gương chứng từ Kinh
thánh. Trong lãnh vực chính trị các gia phả chứng minh những đòi hỏi chức
vụ kế thừa hoặc giải quyết những thỉnh cầu khi có sự tranh chấp về chức
nhiệm đó. Tổ chức đất đai và sự tập hợp các đơn vị xã hội thành nhóm trên
lãnh thổ cũng có thể nhờ gia phả định đoạt - thí dụ, sự chia đất hứa cho 12
chi phái. Trong Y-sơ-ra-ên sự tuyển quân cũng tiếp diễn theo dòng gia phả,
có mấy gia phả trong sách Sử ký phản ánh sự cưỡng bách tòng quân (ISu1Sb
5:1-26; 7:1-12,30-40; 8:1-40). Những gia phả có chức năng trong lãnh vực
tôn giáo góp phần chính trong việc thiết lập địa vị thành viên giữa vòng các
thầy tế lễ và người Lê-vi (ISu1Sb 6:1-30; 9:10-34; NeNe 7:61-65).
Về hình thức, một danh sách gia phả vạch ra nhiều dòng dõi (các gia phả
được phân đoạn) còn các gia phả khác chuyên về một dòng trực hệ (các gia
phả thuộc trực hệ).
So sánh các bản liệt kê gia phả cùng một chi phái hoặc gia đình thường đưa
ra ánh sáng những khác biệt đáng ngạc nhiên. Sự thay đổi các danh sách này
có thể phản ánh chức năng khác nhau. Nhưng đôi khi những thay đổi trong
thân phận hoặc liên hệ đến cơ cấu xã hội được phản ánh trong các gia phả
bởi những thay đổi liên hệ đến những tên trong gia phả (xem ISu1Sb 1:35-
42; 6:22,27), hoặc bởi thêm vào tên hoặc phân đoạn cho một dòng họ (xem
ISu1Sb 5:11-22; 6:27; 7:6-12). Loại thay đổi thông thường nhất trong các tài
liệu Kinh thánh là thu gọn lại, tức bỏ một số tên khỏi danh sách. Những tên
không quan trọng được loại bỏ để liên hệ một cá nhân với tổ phụ xuất chúng,
hoặc có thể là để hoàn tất số tên muốn có trong gia phả. Thí dụ như, vài gia
phả Thánh Kinh bỏ những tên để hoàn thành bội số của 7: Về thời kỳ từ Đa-
vít đến kỳ lưu đày Ma-thi-ơ ghi 14 thế hệ (2 lần 7), trong khi Lu-ca ghi 21 (3
lần 7), và cũng những trước giả ấy đã cho bội số tương tự của ý kể từ thời
lưu đày đến Chúa Giê-xu (Mat Mt 1:1-17; LuLc 3:23-38).
Những gia phả của sách Sử ký bày tỏ sự thay đổi của các đặc tính này, sự
sắp đặt thường phản ánh mục đích của gia phả được soạn trước khi trước giả
sách Sử ký chấp nhận như một phần ghi chép của mình.
Bố cục:
I. Các gia phả: Từ sáng tạo đến sự phục hồi (ISu1Sb 1:1-9:44)
A. Các tộc trưởng (1:1-54)
B. Mười hai con trai Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên) (2:1-2)
C. Gia đình Giu-đa (2:3-4:23)
D. Các con trai của Si-mê-ôn (4:24-43)
E. Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se (5:1-26)
F. Lê-vi và các gia đình (6:1-81)
G. Y-sa-ca, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Ma-na-se, Ép-ra-im và A-se (7:1-9:44)
II. Triều đại Đa-vít (ISu1Sb 10:1-29:30)
A. Sau-lơ qua đời (10:1-14)
B. Chiếm thành Giê-ru-sa-lem: Nền tảng quyền năng của Đa-vít (11:1-
12:40)
C. Rương giao ước trở về: Thiết lập vương quốc Đa-vít (13:1-16:43)
D. Lời hứa cho triều đại (17:1-27)
E. Những cuộc chinh phục của Đa-vít (18:1-20:8)
F. Kiểm tra dân số (21:1-30)
G. Những chuẩn bị cho Đền thờ (22:1-19)
H. Tổ chức sự phục vụ trong Đền thờ (23:1-26:32)
I. Cơ cấu hành chính của vương quốc (27:1-34)
J. Những sửa soạn cuối cùng của Đa-vít cho sự kế vị và Đền thờ (28:1-
29:20)
K. Sự kế vị của Sa-lô-môn: Đa-vít qua đời (29:21-30)
III. Đời trị vì của Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44)
A. Ân tứ khôn ngoan (1:1-54)
B. Xây cất Đền thờ (2:1-5:1)
C. Khánh thành Đền thờ (5:2-7:22)
D. Các hoạt động khác của Sa-lô-môn (8:1-40)
E. Sự khôn ngoan, sang trọng và sự qua đời của Sa-lô-môn (9:1-44)
IV. Sự phân tranh, và lịch sử các vua Giu-đa (IISu 2Sb 10:1-36:23)
A. Rô-bô-am (10:1-12:40)
B. A-bi-gia (13:1-14:1)
C. A-sa (14:2-16:14)
D. Giô-sa-phát (17:1-21:3)
E. Giô-ram và A-cha-xia (21:4-22:9)
F. Giô-ách (22:10-24:27)
G. A-ma-xia (25:1-31)
H. Ô-xia (26:1-32)
I. Giô-tham (27:1-34)
J. A-cha (28:1-21)
K. Ê-xê-chia (29:1-32:32)
L. Ma-na-se (33:1-20)
M. A-môn (33:21-25)
N. Giô-sia (34:1-36:1)
O. Những người kế vị Giô-sia (36:2-14)
P. Lưu đày và hồi phục (36:15-23).
Sự xây cất Đền thờ trong sách Sử ký:
Nhà chép sử đã dùng lịch sử Ngũ kinh Môi-se như kiểu mẫu cho câu chuyện
các triều đại Đa-vít và Sa-lô-môn của mình. Cũng một lẽ ấy, bản ghi chép
Ngũ kinh về xây dựng Đền tạm ảnh hưởng đến câu chuyện của người về sự
xây cất Đền thờ.
1. Sự xây dựng Đền tạm được giao cho Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp (XuXh
35:30-36:7) và họ cung ứng kiểu mẫu của sử gia về sự liên hệ giữa Sa-lô-
môn và Hu-ram-A-bi (IISu 2Sb 2:13). Thật rất ý nghĩa thấy những tham
khảo duy nhất về Bết-sa-lê-ên ngoài sách Xuất Ê-díp-tô ký lại ở trong sách
Sử ký (ISu1Sb 2:20; IISu 2Sb 1:5).
Sa-lô-môn là Bết-sa-lê-ên mới: (1) Cả Sa-lô-môn lẫn Bết-sa-lê-ên đều được
Đức Chúa Trời chỉ định đích danh cho công tác, họ là các công nhân duy
nhất được lựa chọn đích danh cho các dự án (XuXh 31:2; 35:30-36:2; 38:22-
23; ISu1Sb 28:6). (2) Cả hai đều thuộc chi phái Giu-đa (XuXh 31:2; 35:30;
ISu1Sb 2:20; 3:10). (3) Cả hai đều nhận Thánh Linh để được phú cho sự
khôn sáng (XuXh 31:3; 35:30-31; IISu 2Sb 1:1-13), và khải tượng của Sa-
lô-môn tại Ga-ba-ôn (IISu 2Sb 1:3-13) chi phối lời tựa của câu chuyện xây
cất Đền thờ (IISu 2Sb 2:1-7:22). (4) Cả hai đều chế tạo bàn thờ bằng đồng
cho nơi thánh (IISu 2Sb 1:5; 4:1; 7:7) - Rất ý nghĩa là bàn thờ bằng đồng
không được nói đến trong bản liệt kê tóm tắc công tác của Hu-ram-A-bi
(IISu 2Sb 4:12-16). (5) Cả hai đều làm các đồ đạc bày trong nơi thánh
(XuXh 31:1-10; 37:10-29; IISu 2Sb 4:19-22).
Cũng một lẽ ấy, Hu-ram-A-bi trở thành Ô-hô-li-áp mới: (1) Trong chuyện
xây cất Đền thờ chép ở sách Các vua, Hu-ram-A-bi không được nêu tên cho
đến chừng câu chuyện Đền thờ và cung điện chính đã thuật xong (IVua 1V
7:13-45), trong sách Sử ký, người được giới thiệu như bắt tay vào việc ngay
từ lúc ban đầu, y như Ô-hô-li-áp cũng làm Đền thờ từ lúc ban đầu (XuXh
31:6; IISu 2Sb 2:13) (2) Sách Các Vua chỉ nói biệt tài của Hu-ram-A-bi là
đúc đồng (IVua 1V 7:14). Tuy nhiên, trong sách Sử Ký bản liệt kê các tài
năng của người cũng như của Ô-hô-li-áp (XuXh 31:1-6; 35:30-36:2; 38:22-
23 IISu 2Sb 2:14). (3) Sách Các Vua cho biết rằng mẹ của Hu-ram-A-bi là
goá phụ thuộc chi phái Nép-ta-li (IVua 1V 7:14). Tuy nhiên, sách Sử ký nói
nàng là goá phụ thuộc chi phái Đan (IISu 2Sb 2:14), như thế Hu-ram-A-bi ra
từ cùng một tổ tiên với Ô-hô-li-áp (Xem XuXh 31:6; 35:34; 38:23). Cũng
xem chú thích ở IISu 2Sb 2:14.
2. Các (kế hoạch) đồ án cho cả Đền tạm và Đền thờ đều được Đức Chúa
Trời ban cho (XuXh 25:1-30:37; xem XuXh 25:9,40; 27:8; cũng xem
ISu1Sb 28:11-19 - không có nói đến trong sách Sa-mu-ên và Các Vua).
3. Những chiến lợi phẩm được dùng làm vật liệu xây cất cả Đền tạm lẫn Đền
thờ (XuXh 3:21-22; 12:35-36; ISu1Sb 18:6-11 - không nói đến trong sách
Sa-mu-ên và Các Vua).
4. Dân chúng tình nguyện đóng góp rộng rãi cho cả hai công trình xây dựng
(XuXh 25:1-7; 36:3-7; xem ISu1Sb 29:1-9 - không nói đến trong Sách Sa-
mu-ên và Các Vua).
5. Đám mây vinh quang xuất hiện trong Lễ khánh thành của cả hai công
trình xây dựng (XuXh 40:34-35; IISu 2Sb 7:1-3).

Dẫn nhập E-xơ-ra


E-xơ-ra và Nê-hê-mi:
Mặc dầu đầu đề ở NeNe 1:1 ghi “Lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia” chỉ
dấu rằng E-xơ-ra và Nê-hê-mi nguyên là hai tác phẩm riêng biệt, nhưng
chúng kết hợp làm một trong các thứ bản Hê-bơ-rơ đầu tiên. Josephus
(chừng 37-100 S.C.) và kinh Talmud Do Thái giáo nói đến sách E-xơ-ra
nhưng không nói đến sách Nê-hê-mi riêng ra. Các thủ thảo Septuagint xưa
nhất (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp) cũng coi E-xơ-ra và Nê-hê-mi là
một sách.
Origen (185-253 S.C) là tác giả đầu tiên phân biệt giữa hai sách, mà người
gọi là IE-xơ-ra và IIE-xơ-ra. Trong khi dịch ra tiếng La-tinh bản Vulgate
(390-405 S.C.), Jerome gọi Nê-hê-mi là sách E-xơ-ra (Esdrae) thứ hai. Các
bản dịch ra Anh ngữ của Wycliffe (1382) và Coverdale (1535) cũng gọi E-
xơ-ra là “IE-xơ-ra” và Nê-hê-mi là “IIE-xơ-ra”. Cũng sự phân tách này xuất
hiện đầu tiên trong bản thảo Hê-bơ-rơ năm 1448.
Hình thức văn học và tác quyền:
Như trong các sách liên hệ mật thiết là I và IISử Ký, người ta chú ý sự nổi
bật của những bản danh sách trong E-xơ-ra và Nê-hê-mi, có được từ các
nguồn chính thức. Kể cả những bản liệt kê về (1) các khí dụng Đền thờ (Exo
Er 1:9-11), (2) những phu tù trở về (Exo Er 2:1-70, cũng là một với NeNe
7:6-73), (3) gia phả của E-xơ-ra (Exo Er 7:1-5), (4) đầu trưởng các thị tộc
(Exo Er 8:1-14), (5) những người cưới vợ ngoại bang (Exo Er 10:18-43), (6)
những người giúp xây lại vách tường thành (NeNe 3:1-32), (7) những người
kết ước với Đức Chúa Trời (NeNe 10:1-27), (8) dân cư ở Giê-ru-sa-lem và
các thành khác (NeNe 11:3-36) và (9) những thầy tế lễ và người Lê-vi
(NeNe 12:1-26).
Trong E-xơ-ra cũng bao gồm 7 tài liệu hoặc những thư chính thức (hết thảy
bằng tiếng A-ram trừ thư thứ nhất là bằng tiếng Hê-bơ-rơ): (1) Sắc chỉ của
Si-ru (Exo Er 1:2-4), (2) sự tố cáo của Rê-hum và những người khác nghịch
cùng người Giu-đa (Exo Er 4:11-16), (3) sự trả lời của At-ta-xét-xe I (Exo
Er 4:17-22), (4) báo cáo của Tát-tê-nai (Exo Er 5:7-17), (5) Bản ghi điều
khoản về sắc chỉ Si-ru (Exo Er 6:2b-5), (6) Lời đáp của Đa-ri-út cho Tát-tê-
nai (Exo Er 6:6-12) và (7) giấy phép của At-ta-xét-xe I cấp cho E-xơ-ra (Exo
Er 7:12-26). Những tài liệu này so sánh cách phù hợp với các tài liệu ngoài
Kinh Thánh của thời đế quốc Phe-rơ-sơ.
Những tài liệu chắc chắn trong E-xơ-ra là những đoạn trích dẫn từ sách hồi
ký của người ở ngôi thứ nhất: Exo Er 7:27-28; 8:1-34; 9:1-15. Các phần
khác được viết ở ngôi thứ ba: Exo Er 7:1-26; 10:1-44; cũng xem NeNe 8:1-
18. Sự phân tích ngôn ngữ chỉ rõ rằng những đoạn trích ở ngôi thứ nhất và
ngôi thứ ba giống hệt nhau, khiến người ta nghĩ là do một người viết cả hai.
Hầu hết các học giả đều kết luận rằng trước giả hay soạn giả sách E-xơ-ra và
Nê-hê-mi cũng là tác giả sách I, IISử Ký. Quan điểm này căn cứ chắc chắn
trên vài đặc sắc chung đối với các sách Sử Ký và E-xơ-ra - Nê-hê-mi. Những
câu cuối của sách Sử Ký và câu bắt đầu của E-xơ-ra hầu như đồng nhất với
nhau. Cả sách Sử Ký lẫn E-xơ-ra - Nê-hê-mi đều ưa ghi những danh sách, sự
mô tả các ngày lễ tôn giáo, và các nhóm từ “trưởng gia đình” và “nhà của
Đức Chúa Trời”. Đặc biệt việc nhấn mạnh trong các sách này là sự ưu việt
của người Lê-vi và nhân viên trong Đền thờ. Những từ ngữ “kẻ ca xướng”,
“kẻ giữ cửa” và “người hầu việc Đền thờ” thường dùng như độc quyền trong
E-xơ-ra - Nê-hê-mi và Sử Ký. Xem Phần dẫn nhập sách ISử Ký: Tác giả,
Niên hiệu và Các Nguồn tin.
Niên hiệu:
Chúng ta có thể định niên hiệu soạn sách E-xơ-ra là 440 T.C. và hồi ký Nê-
hê-mi là khoảng 430.
Thứ tự của E-xơ-ra và Nê-hê-mi:
Theo quan điểm truyền thống, E-xơ-ra đến Giê-ru-sa-lem năm thứ 7 (Exo Er
7:8) đời At-ta-xét-xe I (458 T.C.), tiếp theo là Nê-hê-mi đến vào năm thứ 20
của vua đó (445; NeNe 2:1).
Vài người gợi ý đổi ngược thứ tự lại, là Nê-hê-mi về đến vào năm 445 T.C.,
trong khi E-xơ-ra đến vào năm thứ 7 đời At-ta-xét-xe II (398). Bằng cách
đổi năm “thứ bảy” (Exo Er 7:8) thành năm thứ “27” hoặc “37”, còn có ý
kiến khác đặt E-xơ-ra sau Nê-hê-mi những vẫn duy trì ý là họ sống đồng
thời với nhau.
Tuy nhiên, những quan điểm này thay đổi gặp nhiều nan đề hơn là quan
điểm truyền thống. Như bản văn thoả thuận E-xơ-ra đến Giê-ru-sa-lem trước
Nê-hê-mi và họ cùng gặp nhau ở NeNe 8:9 (lúc đọc luật pháp) và NeNe
12:26, 36 (vào lúc làm lễ khánh thành vách thành).
Ngôn ngữ:
E-xơ-ra và Nê-hê-mi được viết theo hình thức tiếng Hê-bơ-rơ muộn, ngoại
trừ Exo Er 4:8-6:18; 7:12-26 được viết bằng tiếng A-ram, là ngôn ngữ quốc
tế trong thời kỳ đế quốc Phe-rơ-sơ. Trong số 67 câu bằng tiếng A-ram, 52
câu ở trong các thư hoặc sổ sách. Chắc hẳn E-xơ-ra tìm được những tài liệu
này bằng tiếng A-ram và sao chép lại, và xen lẫn vào các câu liên kết bằng
tiếng A-ram.
Bố cục:
I. Sự trở về lần thứ nhất từ lưu đày và xây cất lại Đền thờ (Exo Er 1:1-6:22)
A. Sự trở về lần đầu (1:1-11)
1. Sắc chỉ của Si-ru (1:1-4)
2. Sự trở về dưới quyền Sết-ba-xa (1:5-11)
B. Danh sách những người trở về (2:1-70)
C. Phục hưng sự thờ phượng trong Đền thờ (3:1-13)
1. Xây lại bàn thờ (3:1-3)
2. Lễ Lều Tạm (3:4-6)
3. Khởi sự tái thiết Đền thờ (3:7-13)
D. Chống đối việc tái xây cất (4:1-23)
1. Sự chống đối trong đời Si-ru trị vì (4:1-5)
2. Sự chống đối trong đời Xét-xe trị vì (4:6)
3. Sự chống đối trong đời At-ta-xét-xe trị vì (4:7-23)
E. Sự hoàn thành Đền thờ (4:24-6:22)
1. Sự tiếp tục lại công tác dưới thời Đa-ri-út (4:24)
2. Sự bắt đầu mới do A-ghê và Xa-cha-ri truyền cảm (5:1-2)
3. Sự can thiệp của quan tổng đốc Tát-tê-nai (5:3-5)
4. Báo cáo cho vua Đa-ri-út (5:6-17)
5. Tìm được sắc chỉ của Si-ru (6:1-5)
6. Lệnh của Đa-ri-út cho phép xây cất lại Đền thờ (6:6-12)
7. Hoàn thành Đền thờ (6:13-15)
8. Khánh thành Đền thờ (6:16-18)
9. Lễ Vượt Qua (6:19-22)
II. E-xơ-ra trở về và những cải cách (7:1-10:44)
A. E-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem (7:1-8:36)
1. Lời mở đầu (7:1-10)
2. Giấy phép của At-ta-xét-xe cấp (7:11-26)
3. Lời tôn vinh Chúa của E-xơ-ra (7:27-28)
4. Danh sách những người trở về với E-xơ-ra (8:1-14)
5. Tìm kiếm người Lê-vi (8:15-20)
6. Cầu nguyện và kiêng ăn (8:21-23)
7. Sự phân phối các khí dụng thánh (8:24-30)
8. Hành trình về tới Giê-ru-sa-lem (8:31-36)
B. Những cải cách của E-xơ-ra (9:1-10:44)
1. Sự xúc phạm bởi việc cưới vợ ngoại bang (9:1-5)
2. E-xơ-ra xưng tội và cầu nguyện (9:6-15)
3. Dân chúng đáp ứng (10:1-4)
4. Sự kêu gọi nhóm hiệp công khai (10:5-15)
5. Điều tra những kẻ phạm pháp (10:16-17)
6. Danh sách những kẻ can phạm (10:18-43)
7. Sự tiêu hủy các cuộc hôn nhân với người ngoại bang (10:44)

Dẫn nhập Nê-hê-mi


E-xơ-ra và Nê-hê-mi:
Mặc dầu đầu đề ở NeNe 1:1 ghi “Lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia” chỉ
dấu rằng E-xơ-ra và Nê-hê-mi nguyên là hai tác phẩm riêng biệt, nhưng
chúng kết hợp làm một trong các thứ bản Hê-bơ-rơ đầu tiên. Josephus
(chừng 37-100 S.C.) và kinh Talmud Do Thái giáo nói đến sách E-xơ-ra
nhưng không nói đến sách Nê-hê-mi riêng ra. Các thủ thảo Septuagint xưa
nhất (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp) cũng coi E-xơ-ra và Nê-hê-mi là
một sách.
Origen (185-253 S.C) là tác giả đầu tiên phân biệt giữa hai sách, mà người
gọi là IE-xơ-ra và IIE-xơ-ra. Trong khi dịch ra tiếng La-tinh bản Vulgate
(390-405 S.C.), Jerome gọi Nê-hê-mi là sách E-xơ-ra (Esdrae) thứ hai. Các
bản dịch ra Anh ngữ của Wycliffe (1382) và Coverdale (1535) cũng gọi E-
xơ-ra là “IE-xơ-ra” và Nê-hê-mi là “IIE-xơ-ra”. Cũng sự phân tách này xuất
hiện đầu tiên trong bản thảo Hê-bơ-rơ năm 1448.
Hình thức văn học và tác quyền:
Như trong các sách liên hệ mật thiết là I và IISử Ký, người ta chú ý sự nổi
bật của những bản danh sách trong E-xơ-ra và Nê-hê-mi, có được từ các
nguồn chính thức. Kể cả những bản liệt kê về (1) các khí dụng Đền thờ (Exo
Er 1:9-11), (2) những phu tù trở về (Exo Er 2:1-70, cũng là một với NeNe
7:6-73), (3) gia phả của E-xơ-ra (Exo Er 7:1-5), (4) đầu trưởng các thị tộc
(Exo Er 8:1-14), (5) những người cưới vợ ngoại bang (Exo Er 10:18-43), (6)
những người giúp xây lại vách tường thành (NeNe 3:1-32), (7) những người
kết ước với Đức Chúa Trời (NeNe 10:1-27), (8) dân cư ở Giê-ru-sa-lem và
các thành khác (NeNe 11:3-36) và (9) những thầy tế lễ và người Lê-vi
(NeNe 12:1-26).
Trong E-xơ-ra cũng bao gồm 7 tài liệu hoặc những thư chính thức (hết thảy
bằng tiếng A-ram trừ thư thứ nhất là bằng tiếng Hê-bơ-rơ): (1) Sắc chỉ của
Si-ru (Exo Er 1:2-4), (2) sự tố cáo của Rê-hum và những người khác nghịch
cùng người Giu-đa (Exo Er 4:11-16), (3) sự trả lời của At-ta-xét-xe I (Exo
Er 4:17-22), (4) báo cáo của Tát-tê-nai (Exo Er 5:7-17), (5) Bản ghi điều
khoản về sắc chỉ Si-ru (Exo Er 6:2b-5), (6) Lời đáp của Đa-ri-út cho Tát-tê-
nai (Exo Er 6:6-12) và (7) giấy phép của At-ta-xét-xe I cấp cho E-xơ-ra (Exo
Er 7:12-26). Những tài liệu này so sánh cách phù hợp với các tài liệu ngoài
Kinh Thánh của thời đế quốc Phe-rơ-sơ.
Những tài liệu chắc chắn trong E-xơ-ra là những đoạn trích dẫn từ sách hồi
ký của người ở ngôi thứ nhất: Exo Er 7:27-28; 8:1-34; 9:1-15. Các phần
khác được viết ở ngôi thứ ba: Exo Er 7:1-26; 10:1-44; cũng xem NeNe 8:1-
18. Sự phân tích ngôn ngữ chỉ rõ rằng những đoạn trích ở ngôi thứ nhất và
ngôi thứ ba giống hệt nhau, khiến người ta nghĩ là do một người viết cả hai.
Hầu hết các học giả đều kết luận rằng trước giả hay soạn giả sách E-xơ-ra và
Nê-hê-mi cũng là tác giả sách I, IISử Ký. Quan điểm này căn cứ chắc chắn
trên vài đặc sắc chung đối với các sách Sử Ký và E-xơ-ra - Nê-hê-mi. Những
câu cuối của sách Sử Ký và câu bắt đầu của E-xơ-ra hầu như đồng nhất với
nhau. Cả sách Sử Ký lẫn E-xơ-ra - Nê-hê-mi đều ưa ghi những danh sách, sự
mô tả các ngày lễ tôn giáo, và các nhóm từ “trưởng gia đình” và “nhà của
Đức Chúa Trời”. Đặc biệt việc nhấn mạnh trong các sách này là sự ưu việt
của người Lê-vi và nhân viên trong Đền thờ. Những từ ngữ “kẻ ca xướng”,
“kẻ giữ cửa” và “người hầu việc Đền thờ” thường dùng như độc quyền trong
E-xơ-ra - Nê-hê-mi và Sử Ký. Xem Phần dẫn nhập sách ISử Ký: Tác giả,
Niên hiệu và Các Nguồn tin.
Niên hiệu:
Chúng ta có thể định niên hiệu soạn sách E-xơ-ra là 440 T.C. và hồi ký Nê-
hê-mi là khoảng 430.
Thứ tự của Ê-xơ-ra và Nê-hê-mi:
Theo quan điểm truyền thống, E-xơ-ra đến Giê-ru-sa-lem năm thứ 7 (Exo Er
7:8) đời At-ta-xét-xe I (458 T.C.), tiếp theo là Nê-hê-mi đến vào năm thứ 20
của vua đó (445; NeNe 2:1).
Vài người gợi ý đổi ngược thứ tự lại, là Nê-hê-mi về đến vào năm 445 T.C.,
trong khi E-xơ-ra đến vào năm thứ 7 đời At-ta-xét-xe II (398). Bằng cách
đổi năm “thứ bảy” (Exo Er 7:8) thành năm thứ “27” hoặc “37”, còn có ý
kiến khác đặt E-xơ-ra sau Nê-hê-mi những vẫn duy trì ý là họ sống đồng
thời với nhau.
Tuy nhiên, những quan điểm này thay đổi gặp nhiều nan đề hơn là quan
điểm truyền thống. Như bản văn thoả thuận E-xơ-ra đến Giê-ru-sa-lem trước
Nê-hê-mi và họ cùng gặp nhau ở NeNe 8:9 (lúc đọc luật pháp) và NeNe
12:26, 36 (vào lúc làm lễ khánh thành vách thành).
Ngôn ngữ:
E-xơ-ra và Nê-hê-mi được viết theo hình thức tiếng Hê-bơ-rơ muộn, ngoại
trừ Exo Er 4:8-6:18; 7:12-26 được viết bằng tiếng A-ram, là ngôn ngữ quốc
tế trong thời kỳ đế quốc Phe-rơ-sơ. Trong số 67 câu bằng tiếng A-ram, 52
câu ở trong các thư hoặc sổ sách. Chắc hẳn E-xơ-ra tìm được những tài liệu
này bằng tiếng A-ram và sao chép lại, và xen lẫn vào các câu liên kết bằng
tiếng A-ram.
Bố cục:
I. Lần quản trị thứ nhất của Nê-hê-mi (NeNe 1:1-12:47)
A. Đáp ứng của Nê-hê-mi với tình thế tại Giê-ru-sa-lem (1:1-4)
1. Tin tức về hoàn cảnh Giê-ru-sa-lem (1:1-4)
2. Bài cầu nguyện của Nê-hê-mi (1:5-11)
B. Hành trình của Nê-hê-mi về Giê-ru-sa-lem (2:1-20)
1. Vua nhậm lời (2:1-8)
2. Cuộc hành trình (2:9-10)
3. Nê-hê-mi thanh tra các vách thành lúc đêm tối (2:11-16)
4. Lời người khuyên xây cất lại (2:17-18)
5. Sự chống đối của San-ba-lát, Tô-bi-gia và Ghê-sem (2:19-20)
C. Danh sách những người xây lại vách thành (3:1-32)
1. Phần phía Bắc (3:1-7)
2. Phần phía Tây (3:8-13)
3. Phần phía Nam (3:14)
4. Phần phía Đông (3:15-32)
D. Chống đối việc xây lại vách thành (4:1-23)
1. Sự nhạo báng của San-ba-lát và Tô-bi-gia (4:1-5)
2. Lời hăm dọa tấn công (4:6-15)
3. Xây lại vách tường (4:16-23)
E. Những vấn đề kinh tế xã hội (5:1-19)
1. Những than phiền của người nghèo (5:1-5)
2. Hủy bỏ những món nợ (5:6-13)
3. Gương sống không ích kỷ của Nê-hê-mi (5:14-19)
F. Mặc dầu bị chống đối vách thành vẫn xây lên (6:1-19)
1. Những cố gắng gài bẫy Nê-hê-mi (6:1-9)
2. Việc thuê các tiên tri giả (6:10-14)
3. Hoàn thành vách thành (6:15-19)
G. Danh sách những kẻ bị lưu đày (7:1-73a)
1. Những chuẩn bị bảo vệ Giê-ru-sa-lem (7:1-3)
2. Nê-hê-mi phát hiện cuốn danh sách những người hồi hương (7:4-5)
3. Phác hoạ cảnh phu tù trở về (7:6-72)
4. Định cư những phu tù trở về (7:73a)
H. Lời giảng của E-xơ-ra và Phục hưng bùng nổ (7:73b-10:39)
1. Sự giảng giải Thánh Kinh trước công chúng (7:73b-8:12)
2. Lễ lều tạm (8:13-18)
3. Ngày kiêng ăn, xưng tội và cầu nguyện (9:1-5a)
4. Sự thuật lại cách Thượng Đế đối xử với Y-sơ-ra-ên (9:5b-31)
5. Xưng nhận tội lỗi (9:32-37)
6. Cam kết sự đồng ý (9:38)
7. Danh sách những người đóng dấu mình vào giao ước (10:1-29)
8. Những điều khoản thoả hiệp (10:30-39)
I. Những cư dân mới tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem (11:1-36)
1. Cư dân mới ở Giê-ru-sa-lem (11:1-24)
a. Những nhận xét sơ khởi (11:1-4a)
b. Những cư dân thuộc Giu-đa (11:4b-6)
c. Thuộc Bên-gia-min (11:7-9)
d. Thuộc các thầy tế lễ (11:10-14)
e. Thuộc người Lê-vi (11:15-18)
f. Thuộc ban nhân sự Đền thờ (11:19-24)
2. Những cư dân mới tại Giu-đa (11:25-36)
a. Những chỗ định cư của người thuộc Giu-đa (11:25-30)
b. Những chỗ định cư của người thuộc Bên-gia-min (11:31-35)
c. Thuyên chuyển người Lê-vi từ Giu-đa đến Bên-gia-min (11:36)
J. Danh sách các thầy tế lễ và sự khánh thành vách thành (12:1-47)
1. Những thầy tế lễ và người Lê-vi trở về lần thứ nhất (12:1-9)
2. Những thầy tế lễ tối cao và người Lê-vi từ thời Giê-hô-gia-kim (12:10-26)
3. Khánh thành vách thành Giê-ru-sa-lem (12:27-43)
4. Chỉnh đốn những của lễ và sự thờ phượng trong Đền thờ([dc 12:44-47;)
[tdc II. Lần quản trị thứ hai của Nê-hê-mi (13:1-31)
A. Những lạm dụng đang khi người vắng mặt (13:1-5)
1. Cưới gả lẫn lộn (13:1-3)
2. Tô-bi-gia chiếm các phòng của Đền Đức Giê-hô-va (13:4-5)
B. Nê-hê-mi trở về (13:6-9)
1. Sự trở về của Nê-hê-mi (13:6-7)
2. Trục xuất Tô-bi-gia (13:8-9)
C. Tái tổ chức và những cải cách (13:10-31)
1. Lễ vật dâng cho nhân sự Đền thờ (13:10-14)
2. Lạm dụng ngày Sa-bát (13:15-22)
3. Cưới gả lẫn lộn (13:23-29)
4. Dâng củi và thổ sản đầu mùa (13:30-31)

Dẫn nhập Ê-xơ-tê


Trước giả và niên hiệu:
Dầu chúng ta không biết ai viết sách Ê-xơ-tê, nhưng với chứng cớ trong sách
có thể suy luận về trước giả và niên hiệu của tác phẩm. Rõ ràng trước giả là
người Do Thái, vì người nhấn mạnh đến các căn nguyên của một lễ hội Do
Thái và chủ nghĩa ái quốc toả khắp truyện tích. Trước giả thông thạo các
phong tục Ba-tư (Phe-rơ-sơ), đóng khung câu chuyện trong thành Su-sơ,
không hề nói đến xứ Giu-đa hoặc thành Giê-ru-sa-lem, thảy đều gợi ý trước
giả là người trú ngụ tại thành phố Ba-tư. Niên hiệu sớm nhất cho sách là ít
lâu sau khi các biến cố xảy ra, tức là chừng 460 T.C (trước khi E-xơ-ra trở
về Giê-ru-sa-lem, xem chú thích ở EtEt 8:12). Nội chứng cũng bày tỏ rằng lễ
Phu-rim được cử hành ít lâu trước khi viết sách (9:19). Vài học giả định niên
hiệu sách nhằm thời kỳ Hê-lê-nít. Tuy nhiên, sự vắng bóng những từ Hy
Lạp, và văn thể thổ ngữ Hê-bơ-rơ của trước giả gợi ý sách được viết trước
khi đế quốc Ba-tư sụp đổ vào tay người Hy Lạp năm 331.
Mục đích, chủ đề và nét văn học đặc biệt:
Mục đích trung tâm của trước giả là ghi chép việc thiết lập lễ Phu-rim hằng
năm, và giữ cho các thế hệ mai sau hiểu rõ và nhớ lại cuộc giải phóng lớn
lao cho dân Do Thái trong thời vua Xét-xe trị vì. Sách cắt nghĩa rõ cả sự
khởi lập lễ kỷ niệm và việc cần cử hành hằng năm (xem 3:7; 9:24,28-32)
Trong suốt cả câu chuyện, trước giả gợi lên trong tâm trí sự tranh đấu đang
tiếp diễn giữa Y-sơ-ra-ên và dân A-ma-léc (xem chú thích ở 2:5; 3:1-6; 9:5-
10), cuộc chiến đấu đã khởi sự từ thời Xuất Ê-díp-tô (XuXh 17:8-16;
PhuDnl 25:17-19) và tiếp diễn qua lịch sử Y-sơ-ra-ên (ISa1Sm 15:1-35;
ISu1Sb 4:43; và tất nhiên trong Ê-xơ-tê). Là dân đầu tiên tấn công Y-sơ-ra-
ên sau khi được phóng thích khỏi Ê-díp-tô, người A-ma-léc được coi - trước
giả sách Ê-xơ-tê quan niệm về họ - như hình ảnh thu nhỏ tất cả các cường
quốc thế giới dàn trận chống với dân của Đức Chúa Trời (xem Dan Ds
24:20; ISa1Sm 15:1-3; 28:18). Và bây giờ lúc cả Y-sơ-ra-ên được buông tha
khỏi kiếp lưu đày, chỉ dụ của Ha-man là cố gắng lớn cuối cùng trong thời
Cựu Ước để hủy diệt họ.
Liên hệ mật thiết với cuộc chiến đấu với dân A-ma-léc là sự an nghỉ đã hứa
cho dân của Đức Chúa Trời (xem PhuDnl 25:29). Khi Ha-man thất bại,
người Do Thái mới được hưởng cảnh an lạc khỏi kẻ thù (EtEt 9:16,22).
Trước giả cũng nêu lên chủ đề quán xuyến được lặp lại nhiều lần suốt cả
Kinh Thánh (thiên tai, bịnh tật, chiến tranh hoặc các tai họa khác đe dọa
tuyển dân Đức Chúa Trời, những kẻ vượt qua được hợp thành dân sót lại).
Những sự việc xảy ra trong thành Su-sơ của người Ba-tư đe dọa sự liên tục
của các mục tiêu Đức Chúa Trời trong lịch sử cứu chuộc. Sự hiện hữu tương
lai của tuyển dân Đức Chúa Trời, và sự hiện ra tối hậu của Đấng Mê-si -
Cứu Chuộc bị lâm nguy bởi sắc chỉ của Ha-man hòng tuyệt diện toàn dân
Do Thái. Trước giả sách Ê-xơ-tê sắp đặt hầu hết tài liệu mình theo những
biến cố về câu chuyện của Giô-sép (xem chú thích ở EtEt 2:3-4,9,21-23; 3:4;
4:14; 6:1,8,14; 8:6) trong đó chủ đề nhất quán dân sót lại cũng là trọng tâm
câu chuyện (SaSt 45:7).
Tiệc tùng cũng là chủ đề nổi bật khác trong sách Ê-xơ-tê, như chỉ rõ trong
bố cục dưới đây. Những bữa tiệc cung ứng khung cảnh cho các sự khai triển
âm mưu quan trọng. Có 10 yến tiệc: (1) EtEt 1:3-4, (2) 1:5-8, (3) 1:9, (4)
2:18, (5) 3:15, (6) 5:1-8, (7) 7:1-10, (8) 8:17, (9) 9:17, và (10) 9:18-32. Có
ba cặp yến tiệc đánh dấu sự bắt đầu, quãng giữa và kết thúc câu chuyện: Hai
yến tiệc do Xét-xe thết đãi, hai yến tiệc do Ê-xơ-tê khoãn đãi, và lễ kỷ niệm
gấp đôi của lễ Phu-rim.
Việc ghi nhận sự nhân đôi xuất hiện như là một trong những kỹ thuật biên
soạn ưa thích của trước giả. Thêm vào ba nhóm yến tiệc theo từng cặp, còn
có hai bản danh sách các triều thần của vua (1:10,14), hai báo cáo rằng Ê-
xơ-tê che dấu lý lịch mình (2:10,20), hai lần hội hiệp phụ nữ (2:8,19), hai
cung phi tần (2:12-14), hai lần kiêng ăn (4:3,16), hai lần Ha-man tham khảo
ý kiến của vợ ông và các bạn hữu (5:14; 6:13), hai lần xuất hiện không định
trước của Ê-xơ-tê trước mặt vua (5:2; 8:3), hai lần trao quyền cho Mạc-đô-
chê (6:7-11; 8:15), hai lần che mặt Ha-man (6:12; 7:8), hai lần nói đến các
con trai Ha-man (5:11; 9:6-10,13-14), hai lần Hạt-bô-na xuất hiện (1:10;
7:9), hai sắc chỉ của vua (3:12-14; 8:1-13), hai lần nói đến cơn giận của vua
nguôi đi (2:1; 7:10), hai lần nói đến luật Ba-tư không thể dời đổi (1:19; 8:8),
hai ngày dành cho người Do Thái trả thù (9:5-15) và hai bức thư thiết lập kỷ
niệm Phu-rim (9:20-32)
Một đặc điểm nổi bật của sách này là đã gợi lên cuộc tranh luận đáng kể - ấy
là hoàn toàn im lặng không nói gì về Đức Chúa Trời, thờ phượng, cầu
nguyện hoặc dâng sinh tế. Tính cách “thế tục” này đã gây cho nhiều người
phán đoán rằng sách này chẳng mấy giá trị về mặt tôn giáo. Tuy nhiên,
dường như trước giả cố ý kiềm giữ không đề cập Đức Chúa Trời hoặc sinh
hoạt tôn giáo như một phương sách văn học để đề cao sự kiện rằng chính
Đức Chúa Trời kiểm soát và điều khiển mọi sự trùng hợp cách tình cờ không
quan trọng (xem thí dụ, chú thích ở 6:1) đã sắp xếp mưu đồ và ban sự giải
phóng cho người Do Thái. Quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời được thừa
nhận ở mỗi điểm (xem chú thích ở 4:12-16) điều có vẻ hoàn toàn im lặng
của Đức Chúa Trời khiến càng thêm phần hữu hiệu hơn.
Bố cục:
I. Những tiệc yến của Xét-xe (1:1-2:18)
A. Vả-thi bị truất phế (1:1-22)
B. Ê-xơ-tê làm hoàng hậu (2:1-18)
II. Những tiệc yến của Ê-xơ-tê (2:19-7:10)
A. Mạc-đô-chê khám phá một âm mưu (2:19-23)
B. Âm mưu của Ha-man (3:1-15)
C. Mạc-đô-chê thuyết phục Ê-xơ-tê cứu giúp (4:1-17)
D. Lời thỉnh cầu của Ê-xơ-tê đối với vua: Tiệc yến thứ nhất (5:1-8)
E. Đêm không ngủ (5:9-6:14)
F. Ha-man bị treo cổ: Tiệc yến thứ hai (7:1-10)
III. Những tiệc yến của Phu-rim (8:1-10:3)
A. Sắc chỉ của vua vì cớ dân Do Thái (8:1-17)
B. Sự thiết lập lễ Phu-rim (9:1-32)
C. Sự vinh thăng của Mạc-đô-chê (10:1-3).

Dẫn nhập Gióp


Trước giả:
Dầu phần lớn sách gồm những lời của Gióp và các tham vấn của người,
chính Gióp không phải là trước giả. Chúng ta có thể chắc chắn trước giả là
người Y-sơ-ra-ên, vì người (chớ không phải Gióp và các bạn) thường dùng
Danh giao ước Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời (Yahweh). Trong phần mở
đầu (Giop G 1:1-2:17), diễn từ thiên thượng (38:1-42:6) và phần kết thúc
(42:7-17) Đức Giê-hô-va được chép 25 lần (31 lần trong bản Hê-bơ-rơ),
trong khi phần còn lại của sách (3:1-37:24) chỉ xuất hiện có một lần (12:9).
Trước giả ẩn danh có lẽ đã được quyền lui tới những nguồn khẩu truyền
hoặc văn tự, do đó dưới sự linh cảm thiên thượng, người đã soạn quyển sách
như chúng ta có hiện nay. Tất nhiên, chủ đề của đoạn mở đầu là do thiên
thượng khải thị cho người, vì đoạn này bao hàm những tin tức mà chỉ Đức
Chúa Trời mới biết được. Trong khi trước giả gìn giữ phần lớn hương vị cổ
xưa và ngoài Y-sơ-ra-ên trong ngôn ngữ của Gióp và các bạn, người cũng tỏ
ra chính văn thể mình là trước giả văn chương khôn ngoan. Những cấu trúc
văn học, và phẩm chất tu từ đã bày tỏ thiên tài văn học của trước giả.
Niên hiệu:
Có hai niên hiệu được đề cập: (1) Niên hiệu của Gióp và bối cảnh lịch sử
của người, và (2) Niên hiệu trước giả được cảm ứng biên soạn sách. Niên
hiệu sau có thể được định vào một thời nào đó từ Sa-lô-môn trị vì đến lưu
đày. Dầu trước giả là người Y-sơ-ra-ên, nhưng người không nói gì về lịch sử
Y-sơ-ra-ên. Người có câu chuyện thành văn hoặc truyền khẩu về nhà hiền
triết ngoài Y-sơ-ra-ên là Gióp (1:1) mà khung cảnh dường như là khoảng
thiên niên kỷ thứ hai T.C. (2000 - 1000), và có lẽ vào cuối thiên niên kỷ đó
(xem chú thích ở 19:24). Giống như các tộc trưởng Hê-bơ-rơ, Gióp sống lâu
hơn 100 tuổi (42:16). Sự giàu sang của người được định bằng bầy súc vật
(1:3), và người như thầy tế lễ cho gia đình mình (1:5). Sự đột kích của các
bộ lạc Sê-ba (1:15) và Canh-đê (1:17) rất thích hiệp cho thiên niên kỷ thứ
hai, như có đề cập về “kesitah” là “miếng bạc”, trong 42:11 (xem SaSt
33:19; Gios Gs 24:32). Sự phát hiện của sách Targum (bản dịch diễn ý ra
tiếng A-ram) về Gióp nhằm thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai T.C. (sách Targum
được viết sớm nhất) khiến việc định niên hiệu rất muộn cho tác quyền rất có
thể không đúng.
Ngôn ngữ và bản văn:
Trong sách Gióp nhiều chỗ rất khó dịch, vì nhiều chữ và văn thể không
thông dụng. Vì cớ đó những bản dịch mới thường khác xa nhau. Cả đến
những dịch giả sách Gióp ra tiếng Hy Lạp (bản Septante) dường như đã bị
lúng túng. Bản dịch Septante về sách Gióp ngắn hơn bản Hê-bơ-rơ được
chấp nhận chừng 400 dòng, có lẽ vì các dịch giả bỏ qua những dòng mà họ
không hiểu. Dịch giả của bản Syriac sớm (Peshita), A-ram (Targum) và La-
tinh (Vulgate) cũng gặp những khó khăn tương tự.
Chủ đề và sứ điệp
Sách Gióp cung ứng một lời phát biểu sâu nhiệm về vấn đề theodicy (Công
lý Đức Chúa Trời trong ánh sáng đau khổ của con người). Nhưng cách mà
vấn đề công lý của Đức Chúa Trời được nhận thức và giải pháp cống hiến
(nếu có thể gọi như vậy) là Y-sơ-ra-ên lạ thường. Vấn đề công lý Đức Chúa
Trời trong tư tưởng Hy Lạp và Tây phương sau này là: Làm sao có thể biện
hộ công lý của Đức Chúa Trời Toàn năng ở trước sự dữ - đặc biệt là sự đau
khổ của con người - và đặc biệt hơn nữa, sự đau khổ của người vô tội?
Trong hình thức câu hỏi này, có ba giả thuyết khả dĩ chấp nhận: (1) rằng
Đức Chúa Trời không phải toàn năng, (2) Đức Chúa Trời không công bằng
(tức là có chút yếu tố “dữ” trong bản tánh của Ngài) và (3) con người có thể
là vô tội. Tuy nhiên, trong Y-sơ-ra-ên xưa, Đức Chúa Trời toàn năng là điều
khỏi phải tranh luận, Chúa hoàn toàn công chính, và trước mặt Ngài, chẳng
một người nào hoàn toàn vô tội. Ba giả thuyết này cũng là căn bản cho thần
học của Gióp và các bạn. Như vậy, lô-gích đơn giản đưa ra kết luận: Nỗi đau
khổ của con người là dấu chỉ về mức độ tội phạm của người đó trước mặt
Đức Chúa Trời. Trong trừu tượng, lời kết luận này dường như không thể
tránh được, bắt buộc cách hợp lý và thoả đáng theo thần học. Do đó, theo
liên văn thần học ấy, công lý Đức Chúa Trời không còn là vấn đề vì giải
pháp tự nó rất rõ ràng.
Nhưng điều mà tự nó đã hiển nhiên và bất khả xâm phạm theo thần học
trong trừu tượng lại thường có, như trong trường hợp của Gióp, hoàn toàn
căng thẳng đối với kinh nghiệm thực sự của con người. Có những người mà
sự tin kính họ rất chân thật, tánh hạnh đạo đức thật ngay thẳng và dầu không
phải vô tội, vẫn giữ mình khỏi những quá phạm lớn, nhưng vẫn phải chịu
khổ cách cay đắng. Đối với những người này, thần học tự nó đã hiển nhiên
chẳng đem lại chút an ủi nào mà chẳng hướng dẫn được gì. Nó chỉ dấy lên
một điều bí ẩn to lớn. Đức Chúa Trời, là nơi mà người đau khổ thường quay
về trong lúc hoạn nạn và cần yếu, chính Ngài lại trở thành điều bí ẩn to lớn.
Trong các diễn từ của Giop G 3:1-37:24, một mặt chúng ta nghe những sự
công kích hợp lý hoàn mỹ nhưng rất tổn thương của những người cố quyết
theo thần học “chánh thống”. Còn mặt khác, linh hồn quặn thắt của người
công chính chịu khổ tranh đấu với điều bí ẩn to lớn. Thêm nữa, người đó
chịu khổ vì những vết thương do chính các bạn có ý tốt lành của mình gây
nên (xem chú thích ở 5:27). Kế đó, tại đây chúng ta có bản đồ phác họa hình
thức độc đáo về vấn đề công lý Đức Chúa Trời như những người công chính
đau khổ đã kinh nghiệm bên trong Y-sơ-ra-ên chính thống.
“Giải pháp” cống hiến cũng độc đáo là Y-sơ-ra-ên - hoặc nói đúng hơn, theo
Thánh Kinh. Mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời và con người không phải là
độc quyền và đóng kín. Còn một phe thứ ba xông vào, là đối thủ lớn (xem
Giop G 1:1-2:13). Không đủ tư cách tranh đấu ngang với Đức Chúa Trời,
lấy quyền năng đọ với quyền năng, kẻ thù hướng về sự làm hư hỏng công
trình của Đức Chúa Trời biểu hiện trong cuộc sáng tạo và tập trung liên hệ
với con người. Là kẻ cám dỗ nó tìm cách khiến con người xa lạ đối với Đức
Chúa Trời (xem SaSt 3:1-24; Mat Mt 4:1), là kẻ tố giác (một trong những
tên đó được gọi là Sa-tan, nghĩa là “kẻ tố cáo”), nó tìm cách khiến Đức Chúa
Trời xa lánh con người (xem XaDr 3:1; KhKh 12:9-10). Mục đích tàn phá
tổng quát của nó là thọc mũi nhọn chia rẽ vào giữa Đức Chúa Trời và con
người, để tác động xa lánh nhau không thể hòa giải được.
Trong truyện tích của Gióp, trước giả tả vẽ kẻ thù trong sự tấn công táo bạo
và cấp tiến nhất vào Đức Chúa Trời và con người tin kính trong liên hệ mật
thiết và đặc biệt là điều quí báu nhất cho cả hai. Khi Đức Chúa Trời xướng
danh của Gióp trước mặt kẻ tố cáo và Ngài làm chứng cho sự công chính
của Gióp trên đất - người mà Đức Chúa Trời đẹp lòng - Sa-tan cố gắng với
sự công kích xảo quyệt đánh hạ người mà Đức Chúa Trời yêu thương trong
những thao tác của nó. Nó tố cáo Gióp trước mặt Đức Chúa Trời. Nó buộc
tội sự tin kính của Gióp là gian ác. Chính sự tin kính mà Đức Chúa Trời hài
lòng thật trống rỗng chẳng liêm chính chút nào mà còn tệ hại hơn các thứ tội
nữa. Sự tin kính của Gióp chỉ là vị kỷ mà thôi. Người ăn ở công chính chỉ vì
có thưởng. Nếu Đức Chúa Trời chỉ cho phép Sa-tan cám dỗ Gióp bằng cách
bẻ gãy khâu xích giữa công chính và phước lành, thì nó sẽ phơi bày người
công chính rõ là tội nhân.
Ấy là sự thách thức tối hậu của kẻ thù. Vì nếu sự tin kính của người công
chính mà Đức Chúa Trời hài lòng có thể chứng tỏ còn tệ hại hơn các thứ tội,
tất nhiên vực thẳm ngăn cách giữa Đức Chúa Trời và người đó không thể
bắc cầu qua được. Kế đó, chính sự cứu rỗi cũng không thể suy tính được, vì
những người tin kính nhất lại chứng tỏ là người bất kỉnh nhất. Toàn bộ công
trình của Đức Chúa Trời trong sáng tạo và cứu chuộc sẽ chứng tỏ là sai lầm
tận gốc, và Đức Chúa Trời chỉ còn có cách là quét sạch hết trong sự đoán xét
khủng khiếp mà thôi.
Sự tố cáo, một khi đã nêu lên rồi, không thể dẹp bỏ được, cả đến bằng cách
tiêu diệt kẻ tố cáo.Vì vậy, Đức Chúa Trời để cho kẻ đối lập xử trí với Gióp
(ở trong giới hạn định rõ) hầu Đức Chúa Trời và người công chính là Gióp
có thể biện minh, còn kẻ tố cáo phải ngậm miệng.
Như thế, nỗi thống khổ giáng trên Gióp, người bị tước đoạt hết mọi dấu hiệu
ân huệ của Đức Chúa Trời, đến nỗi Đức Chúa Trời đối với Gióp trở thành
điều bí ẩn lớn. Sự công chính của người cũng bị tấn công dồn dập trên đất
bằng sự hợp lý của thần học “chánh thống” do các bạn đưa ra. Một mình
Gióp quằn quại đau đớn. Nhưng trong thâm tâm người biết rõ sự tin kính của
mình là xác thực và một ngày kia người sẽ được biện minh (xem Giop G
13:18; 14:13-17; 16:19; 19:25-27). Mặc dầu trong mọi sự, dầu người có rủa
sả ngày sanh (3:1-26), và trách Đức Chúa Trời đối xử bất công với mình
(9:28-35) - tiếng phản đối không tính toán của tâm hồn tuyệt vọng - người
vẫn không nguyền rủa Đức Chúa Trời (khi người vợ thân cận nhất của người
đề nghị, xem 2:9). Thật thế, điều làm người đau đớn hơn hết là Đức Chúa
Trời dường như xa lánh người.
Cuối cùng kẻ đối địch phải ngậm miệng. Và các nhà thần học sắc sảo là bạn
của Gióp cũng phải nín lặng.Và Gióp cũng phải yên lặng. Nhưng Đức Chúa
Trời thì không - Và khi Ngài phán, ấy là phán với Gióp, đem lại sự câm nín
hối tiếc về những lời vội vàng buột miệng trong ngày đau thương và yên
lặng an nghỉ trong đường lối của Đấng Chí Cao (xem 38:1-42:6). Sau nữa, là
Thiết hữu thiên thượng, Đức Chúa Trời nghe lời Gióp cầu thay cho các bạn
đồng liêu (42:8-10), rồi Ngài khôi phục lại các phước lành cho Gióp (42:10-
17)
Tóm lại, lời trước giả đối với con người tin kính đau khổ là sự công chính
của người có giá trị cao cả mà Đức Chúa Trời tích lũy trong kho tàng Ngài
nhiều hơn mọi điều khác. Và kẻ thù lớn biết rằng nếu muốn phá mưu định
của Đức Chúa Trời hẳn phải đánh phá sự công chính của con người. Bị lâm
nguy trong sự chịu khổ của con người thật lòng tin kính, đó là kết quả của
cuộc tranh đấu trên trời giữa đối thủ lớn và Đức Chúa Trời, với tất cả mục
đích thiên thượng hoàn thiện được quân bình. Như thế, sự đau khổ của người
công chính có ý nghĩa và giá trị cân xứng với cuộc chiến đấu thuộc linh
khổng lồ qua mọi thời đại.
Hình thức và cấu trúc văn học:
Giống như một số tác phẩm cổ xưa, sách Gióp có cấu trúc văn học xen kẽ:
Đoạn đầu (văn xuôi), phần thân chính (thi ca) và đoạn kết (văn xuôi), bày tỏ
một tác phẩm sáng tạo, không phải là sự biên soạn tùy hứng. Một số lời của
Gióp là than van (so Giop G 3:1-26 và nhiều câu thơ ngắn trong trong diễn
từ của người) nhưng hình thức ai ca đó là độc đáo của Gióp, thường không
giống khuôn khổ thông thường của hầu hết các thi thiên kêu than (trừ Thi Tv
88:1-18). Phần lớn sách mang hình thức tranh cãi hợp pháp. Dầu các bạn
đến yên ủi Gióp, họ kết thúc bằng cuộc biện luận về lý do Gióp phải đau
khổ. Cuộc tranh luận gián đoạn ở Giop G 27:1-23, kế đó Gióp cứ tiếp tục lời
kêu nài cuối cùng với Chúa thay vì bào chữa (29:1-31:40). Bài ca sự khôn
ngoan trong 28:1-28 dường như là lời của trước giả, là người thấy sự thất bại
của tranh luận là bằng cớ thiếu khôn ngoan. Vì vậy, để ca tụng sự khôn
ngoan, trước giả tập trung đỉnh cao của cấu trúc giữa ba vòng đối thoại -
biện luận (3:1-27:23) và ba lời độc thoại: của Gióp (29:1-31:40), của Ê-li-hu
(32:1-37:24) và của Đức Chúa Trời (38:1-42:6). Độc thoại của Gióp trực
tiếp về Đức Chúa Trời để xin một quyết định hợp pháp: Người vô tội về các
cáo trạng mà các bạn tham vấn đã nhắm vào chống nghịch người. Độc thoại
của Ê-li-hu là một nhân sinh quan khác về lý do con người đau khổ - quở
trách Gióp nhưng vượt ra ngoài chủ đề đoán phạt đến giá trị của sự trừng trị
thiên thượng, trong đó có mục đích cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Độc thoại
của Đức Chúa Trời bày tỏ viễn cảnh thiên thượng: Gióp không bị kết tội,
nhưng không có lời giải đáp hợp lý hoặc hợp pháp vì sao Gióp phải chịu đau
khổ. Điều đó đối với Gióp vẫn còn là một huyền nhiệm, dù độc giả sẵn lòng
thấy Gióp được khôi phục trong đoạn kết vì người đã chiếm được ưu thế
thiên thượng ngay từ đoạn đầu. Vậy, cấu trúc văn học và ý nghĩa thần học
của sách được ràng buộc với nhau cách tốt đẹp.
Bố cục:
I. Đoạn đầu (1:1-2:13)
A. Hạnh phúc của Gióp (1:1-5)
B. Sự thử thách của Gióp (1:6-2:13).
1. Lời cáo giác thứ nhất của Sa-tan (1:6-12)
2. Đức tin của Gióp mặc dầu mất gia đình và tài sản (1:13-22)
3. Lời cáo giác thứ hai của Sa-tan (2:1-6)
4. Đức tin của Gióp trong sự đau đớn cá nhân (2:7-10).
5. Sự đến của ba bạn (2:11-13)
II. Đối thoại - tranh luận (3:1-27:23)
A. Lời than van mở màn của Gióp (3:1-26)
B. Chu kỳ diễn từ thứ nhất (4:1-14:22)
1. Ê-li-pha (4:1-5-27)
2. Gióp đáp lời (6:1-7:21)
3. Binh-đát (8:1-22)
4. Gióp đáp lời (9:1-10:22)
5. Xô-pha (11:1-20)
6. Gióp đáp lời (12:1-14:22)
C. Chu kỳ diễn từ thứ hai (15:1-21:34)
1. Ê-li-pha (15:1-35)
2. Gióp đáp lời (16:1-17:16)
3. Binh-đát (18:1-21)
4. Gióp đáp lời (19:1-29)
5. Sô-pha (20:1-29)
6. Gióp đáp lời (21:1-34)
D. Chu kỳ diễn từ thứ ba (22:1-26:14)
1. Ê-li-pha (22:1-30)
2. Gióp đáp lời (23:1-24:25)
3. Binh-đát (25:1-6)
4. Gióp đáp lời (26:1-14)
E. Diễn văn kết thúc của Gióp (27:1-23)
III. Đoạn giữa nói về sự khôn ngoan (28:1-28)
IV. Các độc thoại (29:1-42:6).
A. Gióp kêu gọi xin thay lời bào chữa (29:1-31:40)
1. Vinh dự và phước lành quá khứ của người (29:1-25)
2. Ô nhục và đau khổ hiện tại của người (30:1-31)
3. Lời phản đối vì vô tội và lời thề sau chót của người (31:1-40)
B. Diễn từ của Ê-li-hu (32:1-37:24)
1. Lời giới thiệu (32:1-5)
2. Phần diễn từ (32:6-37:24)
a. Diễn từ thứ nhất (32:6-33:33)
b. Diễn từ thứ hai (34:1-37)
c. Diễn từ thứ ba (35:1-16)
d. Diễn từ thứ tư (36:1-37:24)
C. Diễn văn thiên thượng (38:1-42:6)
1. Diễn văn thứ nhất của Đức Chúa Trời (38:1-39:35)
2. Gióp đáp lời (39:36-38)
3. Diễn văn thứ hai của Đức Chúa Trời (40:1-41:25)
4. Gióp ăn năn (42:1-6)
V. Đoạn kết (42:7-17)
A. Phán quyết của Đức Chúa Trời (42:7-9)
B. Gióp được khôi phục (42:10-17)

Dẫn nhập Thi Thiên


Tên sách:
Những tên “ Thi Thiên” và “Thánh Thi” đến từ bản Septante (bản dịch Cựu
Ước ra tiếng Hy Lạp), tại đó những từ này chỉ về các nhạc khí bằng dây như
đờn cầm (hạc cầm), đờn sắt (đờn lia), đờn luýt (lute), vậy nên những bài ca
được hát với phần đệm của các nhạc cụ này. Nhan đề truyền thống Hê-bơ-rơ
là Tehillim (có nghĩa “ngợi khen”, xem chú thích ở nhan đề Thi Tv 145:1-
21), dầu có nhiều thiên là tephillot (có nghĩa “cầu nguyện”). Thật thế, một
trong những tuyển tập đầu tiên bao gồm trong quyển sách được đề tựa là
“các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai” (72:20).
Sưu tầm, xếp đặt và niên hiệu:
Thánh Thi là sự tập hợp những sưu tầm và tiêu biểu giai đoạn cuối trong một
quá trình nhiều thế kỷ. Sách được sắp đặt thành hình thức sau cùng của nó
bởi nhân viên Đền thờ sau thời kỳ lưu đày, có lẽ họ đã hoàn tất vào thế kỷ
thứ ba T.C. Bằng cách đó, Thánh Thi được dùng như là sách cầu nguyện
(cầu nguyện, ngợi khen và dạy dỗ giáo lý) trong Đền thờ thứ hai (của Xô-rô-
ba-bên và của Hê-rốt) cùng sử dụng trong các nhà hội. Chừng thế kỷ đầu
tiên S.C, sách được mệnh danh là “sách các Thi Thiên” (LuLc 20:42; Cong
Cv 1:20). Vào lúc đó các Thi Thiên cũng dùng làm nhan đề cho toàn bộ
phần Kinh điển Cựu Ước gọi là “ Các văn thư” (các Thi Thiên) (xem LuLc
24:44).
Nhiều cuộc sưu tầm đã có trước khi biên soạn lần cuối cùng này của Thi
Thiên. Thật ra, sự hình thành các Thánh Thi có lẽ đã trở lại những ngày đầu
của Đền thờ thứ nhất (của Sa-lô-môn, hoặc cả trong đời Đa-vít), khi các nghi
thức Đền thờ khởi sự thành hình. Các tập sưu tầm thêm vào được nói tỏ
tường trong các nhan đề Thi Thiên hiện nay là: (1) Bài ca hoặc thơ của “con
cháu Cô-rê” làm (Thi Tv 42:1-49:20; 84:1-85:13; 87:1-88:18), (2) Thi Thiên
hoặc “thơ A-sáp làm” (50:1-23; 73:1-83:18) và các bài ca “đi lên từ bực”
(120:1-134:3).
Bằng cớ khác chỉ về các tài liệu biên soạn sau này. 1:1-41:13 (Quyển I)
thường dùng Danh thiên thượng Yahweh (Đức Giê-hô-va), trong khi 42:1-
72:20 (quyển II) thường dùng danh hiệu Ê-lô-him (Đức Chúa Trời). Không
thể cắt nghĩa lý do tuyển tập Ê-lô-him phân biệt với tuyển tập Yahweh,
nhưng cả hai đều có, ít nhất trong hình thức hiện nay, từ thời Quân chủ. Hơn
nữa, các Thiên 93:1-100:5 dường như là tuyển tập truyền thống (xem “Đức
Giê-hô-va cai trị” trong 93:1; 96:10; 97:1; 99:1). Các nhóm hiển nhiên khác
gồm có 111:1-118:29 (Bài ngợi khen của người Ai-cập), 138:1-145:21 (hết
thảy đều gồm lại “của Đa-vít” trong các nhan đề), và 146:1-150:6 (với việc
thường lặp lại “khá ngợi khen Đức Giê-hô-va”, trong tiếng Hê-bơ-rơ là
“Hallelu-Yah”, xem 111:1). Không biết “Bài ca Hallel lớn” (120:1-136:26)
đã là một đơn vị thừa nhận chưa. (Bảy “Thi Thiên ăn năn” có tên từ sự sử
dụng nghi thức Cơ-đốc, và như vậy chúng chẳng bao giờ là một đơn vị trong
truyền thống Thánh Thi Do Thái, xem lời giới thiệu 6:1-10).
Trong ấn bản cuối cùng, Thánh Thi gồm 150 thiên. Về điều này bản
Septante và các bản Hê-bơ-rơ đồng ý với nhau, dầu cách họ đạt đến con số
này khác nhau. Bản Septante có một thiên phụ ở cuối (nhưng không đánh số
riêng rẽ như là Thi 151) nó cũng sát nhập 9:1-20 và 10:1-18 làm một (xem
chú thích ở 9:1-20), sát nhập 114:1-8 và 115:1-18 làm một. Chia 116:1-19
và 147:1-20 thành hai. Điều lạ là cả bản Septante lẫn bản văn Hê-bơ-rơ đánh
số 42:1-11 và 43:1-5 làm hai thiên, ngược lại nguyên hai thiên đó trong
nguyên bản rõ ràng chỉ là một (trong nhiều bản viết tay tiếng Hê-bơ-rơ
Thiên 42 và 43 là một). Thánh Thi được chia làm 5 quyển (1:1-41:13; 42:1-
72:20; 73:1-89:52; 90:1-106:48; 107:1-150:6) và mỗi quyển được cung cấp
một lời tôn vinh kết thúc thích hiệp (xem 41:13; 72:18-19; 89:52; 106:48;
150:1-6). Hai quyển đầu, như các chú thích, có lẽ soạn trước thời lưu đày.
Sự phân chia các thiên còn lại làm ba quyển, như thế là đạt tới số 5, có thể
bắt chước Ngũ kinh Môi-se (được biết cách đơn giản là Sách Luật Pháp). Ít
nhất một trong những sự phân chia này (giữa 106:1-48 và 107:1-43) dường
như là thất thường (xem lời giới thiệu 107:1-43). Mặc dầu chia làm Năm
sách, Thánh Thi rõ ràng được công nhận là một bộ với phần mở đầu (1:1-
2:12) và phần kết thúc (146:1-150:6). Những chú thích suốt các thiên cho
những chỉ dẫn thêm về sự sắp đặt có ý thức.
Trước giả và nhan đề (hoặc lời ghi phía trên):
Trong số 150 thiên, chỉ có 34 thiên thiếu nhan đề ghi ở phía trên về thể loại
(nhưng trong bản Septante chỉ có 17 thiên thiếu). Những thiên này tạm gọi là
những thiên “mồ côi” phần nhiều được thấy trong các quyển III - V, tại đó
các thiên có khuynh hướng kết nối lại: 91:1-16; 93:1-97:12; 104:1-107:43;
111:1-119:176; 135:1-137:8; 146:1-150:6. (Trong các quyển I-II, chỉ có 1:1-
2:12; 10:1-18; 33:1-22; 43:1-5; 71:1-24 là thiếu nhan đề, và 10:1-6; 43:1-5
thật ra là sự tiếp tục của các Thiên trước).
Nội dung của những nhan đề viết phía trên khác nhau, nhưng chia làm vài
phạm trù rộng rãi: (1) Trước giả, (2) tên của tuyển tập, (3) loại thi thiên, (4)
những ghi chú âm nhạc, (5) những ghi chú nghi lễ, (6) những chỉ dẫn vắn tắt
về cơ hội sáng tác. Về các chi tiết xem chú thích ở những nhan đề của các
Thi Thiên khác nhau.
Những người nghiên cứu Thi Thiên không đồng ý với nhau về tình trạng cổ
xưa và sự đáng tin cậy của các nhan đề ghi phía trên này. Vì cớ nhiều thiên
có trước thời lưu đày rõ ràng, từ sự kiện các dịch giả bản Septante không
còn thấy rõ nghĩa của chúng. Hơn nữa, thói quen đính kèm các nhan đề, kể
cả tên trước giả, thật xưa rồi. Mặt khác, so sánh bản Septante với các bản
văn Hê-bơ-rơ cho thấy nội dung của vài nhan đề còn phải sửa đổi cho tốt
vào thời hậu lưu đày. Phần lớn việc bàn luận này tập trung vào phạm trù 1
và 6 ở trên.
Còn đối với các nhan đề viết phía trên về cơ hội soạn Thi Thiên, phần nhiều
các chú thích vắn tắt nói đến các biến cố dường như chúng lấy từ I và IISa-
mu-ên. Hơn nữa, đôi khi chúng không dễ tương quan với nội dung của các
thiên chúng dẫn nhập. Bởi vậy, có sự nghi ngờ dấy lên cho rằng sau này
người ta gắn thêm chúng vào để thích hiệp với các biến cố thật xảy ra trong
lịch sử. Thế nhưng tại sao lại chỉ có một số chú thích hạn chế như vậy, và tại
sao có chỗ dường như không phù hợp? Cả đôi bên chấm dứt tranh cãi.
Về quyền trước giả, quan điểm lại càng khác biệt nhiều. Chính những lời
chú thích thật mơ hồ, vì cách diễn đạt bằng tiếng Hê-bơ-rơ dùng, ý chung có
nghĩa “thuộc về”, cũng có thể hiểu theo ý là “liên quan với” hoặc, “để dùng
cho” hoặc “để tặng cho”. Tên có thể chỉ về nhan đề của một tuyển tập các
Thi Thiên đã được kết hiệp dưới tên nào đó (như “A-sáp” hoặc “con cháu
Cô-rê”). Về quyền trước giả của Đa-vít, có thể nghi ngờ một chút rằng
Thánh Thi chứa đựng các thiên được sáng tác với các ca sĩ và nhạc sĩ lừng
danh đó, và đã có thời là “Thi Thiên của Đa-vít”. Tuy nhiên, điều này cũng
có thể bao gồm các Thi Thiên về Đa-vít, hoặc về một vị vua sau này thuộc
dòng Đa-vít, hoặc ngay cả những thiên đã được viết theo cách những bài của
Đa-vít trước tác. Truyền thống cũng đúng khi cho rằng các Thi Thiên thuộc
Đa-vít còn mập mờ, và vài Thi Thiên Đa-vít dường như rõ ràng phản ảnh
các tình trạng về sau này (xem thí dụ, nhan đề 30:1-10, nhưng cũng xem chú
thích ở đó và xem lời giới thiệu cho 69:1-36, và chú thích nhan đề ở 122:1-
9). Hơn nữa, “Đa-vít” đôi khi được dùng ở các chỗ khác như một tập thể các
vua thuộc triều đại Đa-vít, và điều này cũng có thể đúng đối với các nhan đề
Thi Thiên.
Chữ Sê-la được thấy trong 39 thiên, hết thảy chỉ trừ 2 thiên (140:1-13;
143:1-12, cả hai đều là “thơ Đa-vít làm”) đều ở trong quyển I-III. Sê-la cũng
thấy trong HaKb 3:1-19, một bài thơ giống Thi Thiên. Những gợi ý về ý
nghĩa Sê-la thật nhiều, nhưng thành thật mà nói, chúng ta không rõ nghĩa.
Rất có thể rằng đây là một chú thích nghi lễ. Những gợi ý thông thường cho
rằng Sê-la ra hiệu một khúc nhạc dạo ngắn ở giữa, hoặc lời đáp nghi lễ ngắn
của hội chúng, có vẻ hợp lý được các dịch giả bản Septante xác minh. Trong
vài trường hợp việc ghi Sê-la trong bản văn Hê-bơ-rơ hiện nay thật đáng
nghi ngờ.
Các loại thi thiên
Những nhan đề ghi phía trên các Thi Thiên khiến chúng ta làm quen với hệ
thống phân loại thời xưa: (1) Mizmor (“Thi Thiên”). (2) Shiggaion (xem chú
thích ở nhan đề Thi Tv 7:1-17). (3) Miktam (xem chú thích ở nhan đề 16:1-
11). (4) Shir (“bài ca”). (5) Maskil (xem chú thích ở nhan đề 32:1-11). (6)
Tephillah (“cầu nguyện”). (7) Tehillah (“ngợi khen”) (8) Lehazkir (“để ghi
nhớ” - tức là, trước mặt Đức Chúa Trời, một lời cầu xin). (9) Letodah (“Để
ngợi khen” hoặc “để tạ ơn”). (10) Lelammed (“để dạy dỗ”) và (11) Shir
Yedidot (“những ca khúc tình yêu” - tức là, bài ca hôn nhân). Tuy nhiên, ý
nghĩa của những tài liệu này không chắc chắn. Thêm nữa, có vài nhan đề
chứa đựng hai từ liệu (đặc biệt như Mizmor và Shir, chỉ dấu các loại được
căn cứ vào nhiều loại khác và gối lên nhau.
Sự phân tích nội dung đưa đến sự phân loại khác nhau chứng tỏ ích lợi cho
việc nghiên cứu các Thi Thiên. Những loại chính có thể nhận diện được là:
(1) những lời cầu nguyện cá nhân (thí dụ, 3:7-8). (2) lời ngợi khen của cá
nhân đã được Chúa cứu giúp (thí dụ, 30:1-12; 34:1-22). (3) Những bài cầu
nguyện của cộng đồng (thí dụ, 12:1-8; 44:1-26; 79:1-13). (4) bài ca ngợi của
cộng đồng đã được Chúa cứu giúp (thí dụ, 66:1-20; 75:1-10). (5) Những
xưng nhận niềm tin tưởng nơi Chúa (thí dụ, 11:1-7; 16:1-11; 52:1-9). (6)
Những thánh ca khen ngợi sự oai nghiêm và đức hạnh của Đức Chúa Trời
(thí dụ, 8:1-9; 19:1-14; 29:1-11; 65:1-13). (7) Những thánh ca tán dương sự
tể trị phổ thông của Đức Chúa Trời (47:1-9; 93:1-99:9). (8) Những bài ca Si-
ôn, thành của Đức Chúa Trời (46:1-11; 48:1-14; 76:12; 84:12; 122:1-9;
126:1-6; 129:8; 137:1-9). (9) Các thiên quân vương - bởi, cho hoặc về một
vua, người chịu xức dầu của Chúa (thí dụ, 2:1-12; 18:1-50; 20:1-9; 45:1-17;
72:1-20; 89:1-52; 110:1-7). (10) Những bài ca hành hương (120:1-134:3)#
(11) những bài ca nghi lễ (thí dụ, 15:1-5; 24:1-10; 68:1-35). (12) Những bài
ca dạy dỗ (thí dụ, 1:1-8; 34:1-22;37:1-40; 73:1-28; 112:1-10; 119:1-176;
128:1-6; 133:1-3).
Sự phân loại này cũng có vào chỗ gối lên nhau. Thí dụ, “những lời cầu
nguyện của cá nhân” có thể gồm cả lời cầu nguyện của vua (trong tư cách
đặc biệt là vua) hoặc những lời cầu nguyện của cộng đồng nói trong tập thể
ở ngôi thứ nhất số ít. Tuy nhiên, rất hữu ích mà nghiên cứu một thiên chung
với các thiên khác cùng loại. Những cố gắng san định khung cảnh nghi thức
tế lễ đặc biệt cho mỗi loại thật khó thuyết phục. Về những Thi Thiên có thể
liệt kê vào khía cạnh này, xin xem lời giới thiệu các thi thiên cá nhân.
Giữa vòng các loại thi thiên này, những lời cầu nguyện (cả cá nhân lẫn cộng
đồng) là rắc rối nhất. Có mấy lời nói kết hợp để hình thành những lời kêu nài
đến Chúa: (1) Thưa chuyện cùng Đức Chúa Trời: “Ôi Chúa”, “Đức Chúa
Trời tôi”, “Đấng giải cứu tôi”. (2) Lời kêu nài tiên khởi: “Hãy chổi dậy”,
“xin đáp lời tôi”, “xin cứu giúp”, “cứu tôi”. (3) Mô tả cơn gian truân: “Nhiều
người dấy nghịch cùng tôi”, “Kẻ ác xông hãm”, “tôi bị gian truân”. (4) than
phiền nghịch cùng Đức Chúa Trời: “Sao Ngài lià bỏ tôi?” “Chúa ẩn mặt khỏi
tôi cho đến chừng nào?” (5) cầu xin: “Xin chớ đứng xa tôi”, “Bào chữa tôi”.
(6) Thúc đẩy Chúa nghe: “Vì tôi nương náu mình nơi Ngài”, “vì cớ Danh
Ngài”. (7) tố giác kẻ thù nghịch: “Chẳng có lẽ thật trong miệng chúng”,
“những kẻ hung bạo tìm hại mạng sống tôi” (kẻ ác thường được trích dẫn).
(8) Kêu nài xin sửa lại: “Nguyện chúng bị hổ thẹn”, “gọi hắn đến cắt nghĩa
sự gian ác hắn”. (9) Sự tuyên xưng vô tội: “Tôi đã bước đi trong sự thanh
liêm”, “chúng ghét tôi vô cớ” (10) Lời xưng nhận tội: “Tôi đã phạm tội cùng
Chúa”, “Tôi xưng nhận gian ác tôi”. (11) Sự tuyên xưng lòng tin cậy: “Chúa
là khiên che tôi”, “Chúa sẽ nhậm lời tôi”. (12) Hứa nguyện khen ngợi vì
được thích cứu: “Tôi sẽ hát khen quyền năng Chúa”, “Môi tôi sẽ ngợi khen
Chúa”. (13) Lời kêu gọi ngợi khen: “Hãy tôn ngợi Chúa với tôi”, “hãy khen
ngợi Đức Giê-hô-va”. (14) Cớ tích ngợi khen: “Vì Chúa đã giải cứu tôi”, “vì
Chúa đã nhậm lời kẻ khốn cùng”.
Dầu không phải tất cả những lời này xuất hiện trong mỗi bài cầu nguyện,
chúng thảy đều thuộc những qui ước cầu nguyện trong Thánh Thi với chính
sự cầu xin thường chỉ là một yếu tố (thường thường ngắn) giữa các phần còn
lại. Theo toàn bộ chúng phản ảnh qui ước toà án, (các) trước giả Thi Thiên
trình bày trường hợp mình trước Vua, thẩm phán thiên đình. Khi bị kẻ ác
bao vây, người cầu xin mô tả tình cảnh mình, biện bạch mình vô tội (công
chính), đệ đơn kiện đối thủ, và kêu nài sự thích cứu và sự sửa lại tư pháp.
Khi chịu khổ trong tay Đức Chúa Trời (khi Đức Chúa Trời là đối thủ) người
xưng nhận tội mình và nài xin ơn thương xót. Chú ý đến các cách nói khác
nhau trong sự cầu nguyện, và chú ý đến chức năng của chúng trong sự kêu
nài tư pháp mà chúng trình bày, sẽ thêm ý nghĩa cho độc giả.
Những nét văn học đặc biệt:
Thi Thiên theo thể thi ca từ đầu đến cuối, dầu chứa đựng nhiều lời cầu
nguyện, và không phải tất cả lời cầu nguyện trong Cựu Ước đều là thơ (xem
IVua 1V 8:23-53; Exo Er 9:6-15; NeNe 9:5-37; DaDn 9:4-19) - cũng chẳng
phải tất cả những lời ngợi khen đều là thơ, (xem IVua 1V 8:15-21). Các thi
thiên đều đầy nhiệt tình, linh động và cụ thể, chúng đầy dẫy hình ảnh, theo
lối so sánh và ẩn dụ. Sự trùng âm, lặp lại âm đầu và lối chơi chữ đầy dẫy
trong bản văn Hê-bơ-rơ. Sự lặp lại cách hữu hiệu, và chất chứa những chữ
đồng nghĩa và bổ sung khiến bức tranh thật đặc sắc. Những chữ chìa khóa
thường làm nổi bậc các chủ đề lớn trong bài cầu nguyện hoặc bài ca. Sự vây
quanh (tức là lặp lại một từ hoặc nhóm từ có ý nghĩa ở phần cuối như đã
xuất hiện ở phần đầu) thường bao bọc một bài sáng tác hoặc một đơn vị bên
trong đó. Những ghi chú về cấu trúc các thi thiên cá nhân thường gợi chú ý
đến khung cảnh văn học trong đó thi thiên được sáng tác.
Văn thơ Hê-bơ-rơ thiếu vần và vận luật. Nét nổi bậc đặc biệt và toả khắp là
cách song đối. Hầu hết các câu thơ đều gồm hai (đôi khi ba) phân đoạn cân
bằng (sự cân bằng thường lỏng lẻo, với phân đoạn thứ hai thường hơi ngắn
hơn phân đoạn thứ nhất). Phân đoạn thứ hai hoặc lặp lại (song đối đồng
nghĩa), tương phản (song đối nghịch) hoặc hoàn thành cú pháp (song đối
tổng hợp) với phân đoạn thứ nhất. Ba loại này là sự tổng quát hoá và không
đầy đủ mô tả trọn vẹn muôn màu muôn vẻ tánh sáng tạo của các thi nhân đã
hoàn tất trong cấu trúc vần thơ hai phân đoạn căn bản. Tuy nhiên, chúng có
thể giúp độc giả phân biệt các khái quát.
Nhận định nơi câu thơ Hê-bơ-rơ bắt đầu hoặc phân đoạn thơ bắt đầu hay kết
thúc (tra xét niêm luật) đôi khi là vấn đề không chắc chắn. Thậm chí bản
Septante đôi khi cũng bình thơ khác với lối của các bản văn Hê-bơ-rơ như
chúng ta có hiện nay. Bởi vậy không lạ mà thấy các bản dịch hiện đại thỉnh
thoảng khác nhau.
Một vấn đề liên quan là cực kỳ cô đọng, lắm khi thi sĩ Hê-bơ-rơ viết văn
theo thể tĩnh lược. Sự liên hệ của các từ theo cú pháp đôi khi chỉ suy luận từ
liên văn thôi. Nơi nào một câu có khả năng tự giới thiệu nhiều hơn, dịch giả
phải đối diện với mơ hồ. Người sẽ luôn luôn không biết chắc từ nào hoặc
nhóm từ nào đọc với phân đoạn tiếp giáp câu thơ.
Cấu trúc khổ thơ Hê-bơ-rơ cũng là vấn đề gây ra nhiều tranh luận. Thỉnh
thoảng các điệp khúc trở lại phân biệt rõ ràng khổ thơ, như trong Thi Tv
42:1-43:5; 57:1-11. Trong 110:1-7, hai khổ thơ cân xứng được chia ra bởi
các lời sấm truyền (cũng xem lời giới thiệu 132:1-18), trong khi 119:1-176
dành 8 câu thơ cho mỗi chữ cái Hê-bơ-rơ. Tuy nhiên hầu hết không có các
dấu chỉ rõ ràng.
Sự nghiên cứu kỹ lưỡng những Thi Thiên tiết lộ rằng các trước giả thường
sáng tác toàn bộ đồ án trong trí. Điều này dùng cho các thể thơ chữ đầu mẫu
tự, trong đó nhà thơ dành cho mỗi chữ cái Hê-bơ-rơ một phân đoạn thơ (như
trong 111:1-112:10) hoặc một câu thơ duy nhất (như trong 25:1-22; 34:22;
145:1-21), hoặc hai câu thơ (như trong 37:1-40), hoặc 8 câu thơ (như trong
119:1-176). Thêm nữa, 33:1-22; 38:1-22; 103:1-22 mỗi thiên có 22 câu,
chắn chắn vì số chữ mẫu tự Hê-bơ-rơ (xem lời giới thiệu sách Ca-thương:
Những Nét Văn Học Đặc Biệt). Khái niệm thường bày tỏ rằng mẫu này
được dùng như giúp trí nhớ dường như có thành kiến theo văn hoá và hoàn
toàn không đảm bảo. Thường thường người thời đó có trí nhớ dai hơn người
thời nay. Rất có thể là vần chữ cái - tương đối mới được phát minh như hệ
thống các biểu tượng có thể tương ứng bằng chữ viết với các mẫu mực
phong phú và phức tạp của ngôn ngữ nhân loại, và bởi đó có thể ghi khắc tất
cả mọi điều người ta đặt thành lời (đó là những thành công lớn nhất của mọi
thời đại) - được hấp dẫn như cái khung để treo các nhóm từ đầy ý nghĩa.
Các hình thức khác cũng được dùng. 44:1-26 là bài cầu nguyện viết theo mô
hình Kim tự tháp có tam cấp của Ba-by-lôn (“ziggurat”, xem chú thích ở
SaSt 11:4). Một cảm nhận cân xứng toả khắp nơi. Có các thi thiên dùng
cùng một số câu thơ cho mỗi khổ thơ (như Thi Tv 12:1-8; 41:1-13) hoặc làm
như thế mà chỉ đổi trong khổ thơ mở đầu hoặc khổ thơ kết luận (như 38:1-
22; 83:1-18; 94:1-23). Các thi thiên khác lại đối nhau ở khổ đầu và khổ cuối
cùng như quân bình các khổ thơ ở giữa (như 33:1-22; 86:1-17). Mẫu đáng
chú ý đặc biệt là đặt câu thơ chủ đề chìa khoá ở chính giữa và đôi khi xây
dựng toàn bộ hay một phần bài thơ ở xung quanh trung tâm đó (xem chú
thích ở 6:6). Còn các nét nổi bật của mô hình khác được chỉ ra trong các chú
thích. Các trước giả Thi Thiên cẩn thận trau chuốt bài sáng tác của mình. Họ
là những người thừa kế nghệ thuật xa xưa (trong nhiều chi tiết tỏ rằng họ
thừa hưởng một truyền thống thi văn trở ngược lại hàng mấy trăm năm
trước) và họ đã khai triển nó đến trạng thái điêu luyện tinh vi. Những tác
phẩm của họ được đánh giá cao nhất khi suy gẫm và nghiên cứu cách công
phu.
Thần học:
Phần lớn Thánh Thi là sách cầu nguyện và ngợi khen. Sách thưa với Đức
Chúa Trời trong lời cầu nguyện và nói về Đức Chúa Trời trong sự ngợi khen
- cũng tỏ bày đức tin và tin cậy. Dầu đôi khi có hình thức và mục đích dạy
dỗ (truyền đạt) về đường lối tin kính, thi thiên chẳng phải là sách dạy giáo lý
yếu chỉ. Bởi vậy, “thần học” của sách không phải trừu tượng hoặc theo hệ
thống hoá bèn là xưng tội và ngợi khen. Vậy, sự tổng kết về “thần học” đó
làm giảm giá trị thi thiên bằng cách biến nó thành phương thức mục đích.
Hơn nữa, sự tổng kết nào cũng đối diện một nan đề càng lớn hơn. Thi Thiên
là một tuyển tập những mẫu độc lập của nhiều loại, phục vụ nhiều mục đích
khác nhau, và được viết trải qua mấy thế kỷ. Không chỉ là sự đúc kết ngắn
gọn về “thần học” phải chọn lọc và không trọn vẹn, mà cũng còn một điều gì
có vẻ nhân tạo. Nó sẽ gợi ý rằng mỗi thiên phản ảnh hoặc ít nhất bao hàm cả
“thần học” đại cương, và chẳng hề có sự căng thẳng hoặc tiến bộ “thần học”
bên trong Thi Thiên. Rõ ràng chẳng phải như vậy.
Còn nữa, các chủ biên cuối cùng của Thi Thiên rõ ràng chẳng phải chiết
trung trong việc chọn lọc của họ. Họ biết có nhiều tiếng nói từ nhiều thời đại
vọng lên ở đây, nhưng theo sự phán đoán của họ chẳng có tiếng nói nào là
không tương hợp với Luật pháp và lời tiên tri. Chắc chắn họ cũng thừa nhận
rằng mỗi thiên phải được hiểu trong ánh sáng của toàn bộ tuyển tập. Chúng
ta có thể chia sẻ sự thừa nhận này. Sau hết, vì lý do đó, điều có thể nói về
các chủ đề thần học lớn là trong khi thừa nhận đó có vẻ một chút nhân tạo,
không cần phải quá xuyên tạc, và có thể giúp ích cho các học viên nghiên
cứu Thi Thiên.
Cốt lõi thần học Thi Thiên là sự xác tín rằng trung tâm hấp lực của cuộc
sống (về sự hiểu biết quyền con người, tin cậy, hi vọng, phục vụ, đạo đức, và
sự thờ phượng) mà cũng về lịch sử, và toàn bộ cuộc sáng tạo (trời đất), là
Đức Chúa Trời (Yahweh, “Đức Giê-hô-va”). Ngài là Vua Lớn trên tất cả,
Đấng vạn vật đều phục tùng. Ngài sáng tạo và bảo toàn vạn vật, chúng là cái
áo vinh quang của Ngài đang mặc. Bởi Chúa truyền lịnh, chúng có đặc tính
“chân thật” và rõ rệt (không có sự hỗn loạn ở đó). Vì Chúa bảo quản chúng,
chúng được nâng đỡ và an toàn khỏi đổ vỡ, lộn xộn và tiêu diệt. Bởi chính
Ngài là Đức Chúa Trời tối cao, chúng được quản trị và nắm giữ bởi một bàn
tay giữ trong sự phục vụ mục đích thiên thượng. Dưới quyền Chúa cuộc tạo
thành là một vũ trụ - toàn bộ có hệ thống và trật tự. Điều chúng ta phân biệt
là “thiên nhiên” và lịch sử có một Chúa cho chúng dưới quyền thống trị của
Ngài vạn vật hiệp lại làm việc chung với nhau. Qua cuộc sáng tạo vinh
quang oai nghi của Vua Vĩ đại được bày tỏ. Chúa là nhân từ (khôn ngoan,
công chính, thành tín, và hay làm hơn - đầy lòng thương xót - gợi lên niềm
tin cậy), và Ngài là vĩ đại (sự hiểu biết, tư tưởng và công việc của Ngài vượt
quá trí hiểu con người - gợi ý tôn kính). Bởi sự nhân từ và cai trị uy quyền
của Chúa mà Ngài tỏ ra là Đấng Thánh.
Là vua Lớn bởi quyền năng sáng tạo và chủ quyền tuyệt đối lâu dài, cuối
cùng Ngài chẳng dung thứ quyền lực thế hạ nào chống đối, từ chối hoặc
không quan tâm tới Ngài. Chúa sẽ đến thống trị các nước hầu cho muôn sự
buộc phải thừa nhận Ngài. Chắc chắn sự trông đợi này là nguồn gốc và mục
đích rộng rãi nhất về quan điểm lâu dài trong tương lai của trước giả Thi
Thiên. Vì Chúa là Vua Lớn vượt qua mọi thách thức, vương quốc thái bình
và công chính của Ngài sẽ đến, lấn át tất cả mọi chống đối và thanh tẩy tạo
vật khỏi mọi phản loạn nghịch cùng quyền thống trị của Ngài - đó chính là
kết quả tối hậu của lịch sử.
Là Vua Lớn mà mọi tạo vật lệ thuộc vào, Ngài chống đối “kẻ kiêu ngạo”,
những kẻ ỷ lại vào các nguồn riêng (hoặc các thần mà họ sáng chế ra) để tạo
số mệnh riêng cho chúng. Đây là những người vận dụng thô bạo quyền hành
mình có để đạt được giàu sang, địa vị, cùng an ninh trong thế gian, kẻ tự làm
nên luật pháp cho chính họ và bóc lột người khác tùy ý họ. Trong Thi Thiên,
loại “kiêu ngạo” này là cội rễ của mọi điều ác. Những kẻ đi theo đường lối
đó, dầu họ dường như thạnh vượng, sẽ bị hạ xuống đến sự chết, kết thúc
cuối cùng của họ !Người “khiêm nhường”, “nghèo khổ và túng thiếu” là
những người thừa nhận mình tùy thuộc mọi sự vào Chúa - đó là những
người Chúa đẹp lòng. Bởi đó, “sự kính sợ Chúa” - tức là hết lòng khiêm
cung tin vậy và vâng lời Chúa - là “khởi đầu sự khôn ngoan” (111:10). Cuối
cùng, những người đi theo đường lối đó sẽ hưởng được đất. Chẳng điều gì,
kể cả sự chết cũng không thể ngăn trở người thấy mặt của Đức Chúa Trời.
Hi vọng của trước giả Thi Thiên đối với tương lai - tương lai của Đức Chúa
Trời, và vương quốc Ngài, cũng như tương lai của người tin kính - thật vững
vàng, dầu hơi tổng quát. Chẳng có trước giả Thi Thiên nào bày tỏ khải tượng
hai thời đại tương lai (thời đại gian ác hiện tại phải nhường chỗ cho thời đại
mới công chính và thái bình ở bên kia sự phân chia bởi kỳ mạt thể). Quan
điểm ấy bắt đầu xuất hiện trong văn chương giữa Cựu và Tân Ước - quan
điểm đã được Đa-ni-ên báo trước (xem đặc biệt ở DaDn 12:2-3) và bởi Ê-sai
(xem EsIs 65:17-25; 66:22-24) - và sau này được bày tỏ rõ ràng trong sự dạy
dỗ của Chúa Giê-xu và các sứ đồ. Nhưng sự khải thị này chỉ là việc khai
triển đầy đủ hơn phù hợp với các hi vọng mà trước giả Thi Thiên đang sống.
Vì cớ Đức Chúa Trời là Vua Lớn, Ngài là Đấng thi hành công lý tối hậu
giữa loài người (tự báo thù là hành động của kẻ “kiêu ngạo”). Chúa là toà
thượng thẩm khi người ta bị đe dọa và bị thiệt hại - đặc biệt khi chẳng có toà
án nào ở thế hạ mà Ngài thiết lập có quyền xét xử (như trường hợp tranh
chấp quốc tế) hoặc có thể xét đoán (như khi một người bị đối đãi bất công
bởi sự vu oan của công chúng) hoặc tình nguyện hoạt động (không sợ hoặc
không tham nhũng). Chúa là Đấng bảo hộ mạnh dạn và thành tín cho những
kẻ vô phương tự vệ và bị đối đãi bất công. Chúa biết mọi hành động và mọi
bí ẩn của lòng. Chẳng gì thoát được khỏi sự dò xét của Ngài. Chẳng có sự
cáo gian nào dẫn Ngài đến chỗ đoán xét sai lầm. Và Ngài nghe mọi lời kêu
nài dâng lên Ngài. Là quan toà tốt và thành tín, Chúa giải cứu những kẻ bị
hà hiếp hoặc bị hãm đánh vô cớ, và sửa lại những điều tai hại nghịch cùng
họ. Đây là sự xác tín không hề dời chuyển cắt nghĩa lý do các trước giả Thi
Thiên nóng lòng than phiền, khi họ “khốn cùng và thiếu thốn” đã dũng cảm
kêu là cùng Ngài: “Tại sao (Ngài chưa giải cứu tôi?)”, “Hỡi Chúa cho đến
chừng nào (trước khi Ngài hành động)?”
Là Vua lớn trên khắp trái đất, Chúa đã lựa chọn Y-sơ-ra-ên làm dân phục vụ
Ngài, “cơ nghiệp” Ngài giữa các nước. Ngài đã phóng thích họ bằng những
hành động cả thể khỏi cánh tay các quyền lực thế gian, ban xứ riêng cho họ
(lãnh thổ Ngài lấy từ các dân khác để làm “cơ nghiệp” riêng của Ngài trên
đất), và Ngài đã kết hiệp họ với chính mình trong giao ước như hiện thân
tiên khởi của vương quốc cứu chuộc Ngài. Như thế, cả vận mệnh của họ lẫn
vinh dự của Ngài kết lại với nhau bằng mối liên hệ này. Đối với họ, Chúa
ban cho họ lời khải thị của Ngài để làm chứng về Ngài, ban những lời hứa
đặc biệt và công bố ý chỉ Ngài. Bởi giao ước của Đức Chúa Trời, Y-sơ-ra-ên
phải sống giữa các dân, chỉ trung thành với Vua ở trên trời của họ. Y-sơ-ra-
ên phải tin cậy sự che chở của một mình Chúa, hi vọng nơi lời hứa Ngài,
sống phù hiệp với ý chỉ Ngài và chỉ thờ phượng một mình Ngài thôi. Họ
phải hát khen ngợi Chúa cho cả thế giới - trong ý niệm đặc biệt bày tỏ vai trò
dự tính của Y-sơ-ra-ên trong việc truyền bá Tin Mừng cho các nước.
Là Vua Lớn, Chúa giao ước của Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm
đại diện quân vương của Ngài trên đất. Trong tư cách này Đa-vít là “tôi tớ”
của Chúa - tức là thành viên của Chính thể Vua Lớn. Chính Chúa xức dầu
cho người và chấp nhận người làm “con” quân vương của Ngài để danh
Ngài cai trị. Qua Đa-vít, Chúa khiến dân Ngài được an ninh trong Xứ Thánh
và trị phục tất cả mọi quyền lực hăm dọa họ. Hơn nữa, Chúa lập giao ước để
bảo tồn triều đại Đa-vít. Từ nay trở đi, vương quốc Đức Chúa Trời trên đất,
trong khi không lệ thuộc vào nhà Đa-vít, mà lại kết nối vào đó bởi quyết
định và sự cam kết của Đức Chúa Trời. Sự liên tục và sức mạnh của nó đặt
Y-sơ-ra-ên vào sự an ninh và hi vọng khi đối diện với một thế giới thù địch.
Và vì các vua dòng Đa-vít là đại diện quân vương của Đức Chúa Trời trên
đất, theo quan điểm được ngồi bên hữu Chúa (Thi Tv 110:1), phạm vi quyền
thống trị của họ có tiềm lực bao quát cả thế giới (xem 2:1-12).
Tuy nhiên, người chịu xức dầu của Chúa còn hơn là vua chiến sĩ. Người còn
được Chúa phú bẩm để cai trị dân Chúa với sự công chính tin kính: để
phóng thích kẻ bị áp bức, binh vực người vô phương tự vệ, trừ khử kẻ hung
ác, cũng như chúc lành cho dân tộc được hoà bình và thịnh vượng đời đời.
Người cũng là kẻ cầu thay cho quốc dân trước mặt Đức Chúa Trời. Người
xây dựng và bảo trì đền thờ (là cung điện của Chúa trên đất và nhà cầu
nguyện cho muôn dân), và là tiếng kêu trước tiên mời gọi toàn dân đến để
thờ phượng Chúa. Có lẽ cũng theo quan điểm về các nghĩa vụ sau cùng này
mà người được tuyên bố chẳng phải chỉ là Vua mà còn là “Thầy tế lễ” (xem
110:1-7 và các chú thích).
Là Vua Lớn, Chúa giao ước của Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời (Đấng đã lựa
chọn Đa-vít và triều đại người làm đại diện quân vương của Ngài) cũng lựa
chọn Giê-ru-sa-lem (thành Đa-vít) làm kinh đô của Ngài, nơi ngôi Ngài ngự
trị. Như thế, Giê-ru-sa-lem (Si-ôn) trở thành thủ đô trên đất (và tượng trưng)
cho vương quốc Đức Chúa Trời. Tại đó trong cung điện Ngài (Đền thờ),
Chúa ngự trên ngai giữa dân sự Ngài. Tại đó dân Chúa có thể gặp Ngài để
dâng lên lời cầu nguyện và ngợi khen, được xem thấy quyền năng và vinh
quang Ngài. Từ đó, Chúa đem lại sự cứu rỗi, ban phát phước lành và đoán
xét các dân. Cùng với Ngài, là Đấng bảo vệ lớn của kinh thành, Giê-ru-sa-
lem là đồn lũy kiên cố của vương quốc Đức Chúa Trời, hi vọng và sự vui
mừng của tuyển dân.
Thiện ý và sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài được biểu
tượng nổi bật nhất bởi sự cam kết hiện diện của Chúa giữa vòng họ tại Đền
thờ Giê-ru-sa-lem, “thành của Vua Lớn” (48:2). Nhưng chẳng có sự bày tỏ
lòng nhân từ nào lớn hơn là Chúa sẵn sàng tha tội cho những người đã
khiêm cung xưng tội và lòng họ tỏ cho Ngài biết sự ăn năn họ là chân thật,
và họ tuyên xưng trung thành với Chúa là toàn vẹn. Khi họ thống hối về tội
riêng của họ, các trước giả Thi Thiên nhớ đến lời chứng xưa về Chúa giao
ước của họ: “Ta là Yahweh (Đức Giê-hô-va), Đức Chúa Trời nhân từ và đầy
ơn, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thật ban ơn đến ngàn đời, xá điều
gian ác, tội trọng và tội lỗi” (XuXh 34:6-7). Chỉ như vậy họ mới dám nhận
làm dân Ngài, “kính sợ” Ngài (xem Thi Tv 130:3-4).
Cố nhiên vương quyền cao cả của Yahweh (trong đó Ngài bày tỏ sự cao
trọng và nhân từ siêu việt của Ngài) là ẩn dụ căn bản nhất và quan điểm thần
học toả khắp trong Thi Thiên - cũng như trong Cựu Ước nói chung. Nó cung
ứng phối cảnh căn bản trong đó con người thấy chính mình, toàn cuộc sáng
tạo, những biến cố trong “cõi thiên nhiên” và lịch sử cùng tương lai. Toàn bộ
cuộc sáng tạo là một vương quốc của Ngài. Được làm tạo vật trong thế giới
là được làm một phần tử của nước Ngài và ở dưới quyền quản trị của Ngài.
Là một người hiện hữu trong thế giới là tùy thuộc vào Ngài và chịu trách
nhiệm với Ngài. Kiêu căng chối bỏ sự kiện đó là cội rễ của mọi điều ác - sự
gian ác ngày nay lan tràn khắp thế giới.
Việc Đức Chúa Trời lựa chọn Y-sơ-ra-ên, sau lại chọn Đa-vít và Si-ôn, cùng
với sự ban bố lời Ngài, tiêu biểu cho sự tái tạo vương quốc công bình không
thể phá vỡ của Đức Chúa Trời trong thế giới loạn nghịch và hung ác này.
Khởi thủy có cuộc phân rẽ lớn giữa nước công chính và các nước gian ác,
trên bình diện sâu hơn là giữa người công chính và người gian ác, và càng ý
nghĩa hơn khi sự phân biệt san bằng qua Y-sơ-ra-ên. Cuối cùng, công tác
thiên thượng khó khăn này sẽ toàn thắng. Sự kiêu căng của con người sẽ bị
đánh hạ, mọi điều lầm lạc sẽ sửa lại. Người nhu mì sẽ hưởng được đất,
vương quốc hoà bình và công chính của Đức Chúa Trời được thực hiện đầy
đủ. Dĩ nhiên chủ đề thần học này bao hàm đạo đức và tôn giáo sâu nhiệm.
Các trước giả Thi Thiên cũng nói đến điều đó.
Còn một thắc mắc phải nêu lên là: Các Thi Thiên có nói về Chúa Cứu Thế
không? Có, nhưng bằng nhiều cách khác nhau - chớ không phải theo cách
các tiên tri. Sách Thi Thiên không phải là sấm truyền tiên tri và chẳng bao
giờ được liệt vào hàng các sách tiên tri.
Khi các Thi Thiên nói về Vua ngồi trên ngôi Đa-vít, là nói về Vua được làm
lễ đăng quang (như trong 2:1-12; 72:1-20; 110:1-7 - dầu có người nghĩ
110:1-7 là một ngoại lệ) hoặc đang cai trị (như trong 45:1-17) vào thời đó.
Các thiên công bố địa vị của vua như người chịu xức dầu của Đức Chúa
Trời, và tuyên bố điều Đức Chúa Trời sẽ làm trọn qua người và triều đại
người. Như thế, họ nói về các con trai Đa-vít hầu đến - trong thời lưu đày và
sau kỳ lưu đày, khi chẳng có vua trị vì, các thiên nói với Y-sơ-ra-ên về Con
trai Vĩ đại Duy nhất của Đa-vít mà các tiên tri đã loan báo là Đấng trong
Ngài giao ước của Đức Chúa Trời lập với Đa-vít còn phải được ứng nghiệm.
Vậy, Tân Ước trích dẫn các thiên này như lời chứng về Chúa Cứu Thế, trong
đường lối độc đáo của Thi Thiên. Trong Ngài các lời chứng đó thật được
thành nghiệm.
Khi những người công chính trong các Thi Thiên chịu đau khổ - họ là “công
chính” bởi vì họ vô tội, không chọc giận hoặc làm hại các đối thủ của họ, và
vì cớ họ ở giữa vòng “người khiêm nhường” tin cậy Chúa - khi họ kêu đến
Đức Chúa Trời trong cơn gian truân của họ (như trong 22:1-31; 69:1-36), họ
lên tiếng thay cho các tôi tớ của Đức Chúa Trời đang chịu khổ trong một thế
giới cừu địch và gian ác.
Những tiếng kêu này trở thành các bài cầu nguyện của “thánh đồ” bị áp bức
của Chúa, và những lời đó được đem vào sách cầu nguyện của Y-sơ-ra-ên.
Khi Chúa Cứu Thế đến trong xác thịt, Ngài tự đồng nhất với con dân “khiêm
nhường” của Đức Chúa Trời trong thế giới. Đối với họ Ngài trở thành tôi tớ
công chính thượng hạng, và Ngài đã chia sẻ đau khổ với họ trong tay những
kẻ ác. Như thế, những lời cầu nguyện này cũng trở thành lời cầu nguyện của
Ngài nữa - lời cầu nguyện của Ngài là độc đáo. Trong Ngài sự đau khổ và
phóng thích mà những lời cầu khẩn này nói đến được thành nghiệm (dầu
những tiếng kêu to tiếp tục trở thành những lời cầu nguyện của những người
vác thập giá mình mà theo Chúa).
Tương tự, khi nói về dân giao ước của Đức Chúa Trời, về thành của Đức
Chúa Trời, về Đền thờ Đức Chúa Trời ngự, các Thi Thiên cuối cùng nói về
Hội Thánh của Chúa Cứu Thế. ThánhThi không phải chỉ là sách cầu nguyện
của Đền thờ thứ hai mà cũng còn là sách cầu nguyện lâu dài của con dân
Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, bây giờ, Thi Thiên phải sử dụng trong ánh sáng
của kỷ nguyên cứu chuộc mới đã lộ ra với sự đến lần thứ nhất của Đấng Mê-
si-a, và sẽ nên trọn trong lúc Chúa đến lần thứ hai vậy.

Dẫn nhập Châm ngôn


Trước giả:
Dầu sách khởi sự với nhan đề qui các Châm ngôn cho Sa-lô-môn, nhưng rõ
ràng các chương về sau chỉ ra rằng Sa-lô-môn không phải là trước giả duy
nhất của sách. ChCn 22:17 ám chỉ đến: “Lời kẻ khôn ngoan” và 24:23 nói
thêm: “Những ngôn ngữ này cũng do kẻ khôn ngoan mà đến”. Hơn nữa, có
lời dẫn nhập trong 22:17-21 chỉ ra rằng những tiết này phát sinh từ một
nhóm người khôn ngoan, chớ không phải từ chính mình Sa-lô-môn. 30:1-33
được gán cho A-gu-rơ, con trai Gia-kê và 31:1-9 qui cho vua Lê-mu-ên, cả
hai đều không được nói đến ở chỗ khác. Những lời của Lê-mu-ên chứa đựng
nhiều cách viết theo tiếng A-ram chỉ ra một bối cảnh không phải của Y-sơ-
ra-ên.
Tuy nhiên phần lớn sách liên kết chặt chẽ với Sa-lô-môn. Những đầu đề ở
10:1 và 25:1 ghi tên người lần nữa, dầu 25:1 nói rằng những châm ngôn này
được chép lại bởi người của Ê-xê-chia. Điều này chỉ ra rằng một nhóm
người khôn ngoan hoặc các thầy dạy luật đã san định những châm ngôn này
như ban biên tập và đã thêm (25:1-29:26) vào các tập sưu tầm trước. Khả
năng của Sa-lô-môn sáng tác các châm ngôn được nói rõ trong IVua 1V
4:32, tại đó 3.000 châm ngôn được qui cho người. Cặp theo với những lời
phát biểu về sự khôn ngoan vô song của người (IVua 1V 4:29-31), rất có thể
người là nguồn của hầu hết các châm ngôn. Sách chứa một phần mở đầu
ngắn (ChCn 1:1-7) và một đoạn kết dài hơn (31:10-31), có thể đã được thêm
vào các tài liệu khác. Rất có thể những diễn từ trong tiết lớn mở đầu (1:8-
9:18) đều là công việc của người biên soạn hoặc biên tập viên, nhưng các sự
tương tự của tiết này với các chương khác (so sánh 6:1 với 11:15; 17:18;
20:16; 27:13; so sánh 6:19 với 14:5,25; 19:5) hoàn toàn thích hợp với
nguyên tác của Sa-lô-môn. Sự nhấn mạnh về “kính sợ Đức Giê-hô-va ” (1:7)
xuyên suốt cả sách thắt chặt các phần lại với nhau.
Niên hiệu:
Nếu Sa-lô-môn được dành cho vai trò nổi bật trong sách, hầu hết các châm
ngôn đều xuất phát từ thế kỷ thứ 10 T.C., trong thời gian vương quốc Y-sơ-
ra-ên thống nhất. Hòa bình và thịnh vượng biểu lộ đặc sắc kỷ nguyên đó, rất
thích hiệp với sự phát triển về việc phản chiếu sự khôn ngoan cũng như sản
sinh những tác phẩm văn học. Hơn nữa, nhiều học giả đã chú ý đến 30 lời
của người khôn ngoan trong 22:17-24:22 chứa đựng nhiều câu tương tự như
30 tiết của sách “khôn ngoan của Amenemope” (Ai Cập), một tác phẩm dạy
dỗ cùng thời với Sa-lô-môn. Cũng một lẽ ấy, sự nhân cách hóa khôn ngoan
thật nổi bật trong 1:1-9:18 (xem 1:20 và chú thích 3:15-18; 8:1-36) có thể so
sánh với sự nhân cách hóa những ý niệm trừu tượng trong những bản viết ở
Mê-sô-bô-ta-mi lẫn Ai Cập trong thiên niên kỷ thứ hai T.C.
Vai trò của những người thuộc Ê-xê-chia (xem 25:1) chỉ ra rằng các tiết
quan trọng của sách Châm ngôn được sưu tầm và biên soạn từ 715 đến 686
T.C. Đây là thời kỳ có sự phục hưng thuộc linh lãnh đạo bởi vị vua, là người
cũng rất quan tâm đến các văn bản của Đa-vít và A-sáp (xem IISu 2Sb
29:30). Có lẽ cũng vào thời này mà các lời của A-gu-rơ (ChCn 30:1-33) và
Lê-mu-ên (31:1-9) cùng “các lời của người khôn ngoan” khác (22:17-24:22;
24:23-34) được thêm vào các tập sưu tầm của Sa-lô-môn, dầu có thể rằng
công tác sưu tầm không được hoàn tất cho đến sau đời trị vì của Ê-xê-chia.
Chân tánh của một châm ngôn:
Từ ngữ Hê-bơ-rơ dịch là “Châm ngôn” cũng dịch là “Lời quở trách” (EsIs
14:4), “sấm truyền” (Dan Ds 23:7,18) và “ngụ ngôn” (Exe Ed 17:2) vì vậy ý
nghĩa rộng hơn danh từ Anh ngữ. Điều này giúp giải nghĩa sự hiện diện của
những tiết có diễn từ dài hơn trong các ChCn 1:1-9:20. Hầu hết các châm
ngôn là những bài phát biểu ngắn, cô đọng bày tỏ các lẽ thật về cách cư xử
của con người. Thường khi có sự lặp lại một lời hoặc một âm để giúp dễ
nhớ. Trong 30:33, thí dụ, cùng một động từ Hê-bơ-rơ được dịch là “đánh
sữa”, “vặn xoắn”, “khuấy động” (ép sữa, đánh đập, trêu chọc).
Trong tiết lớn nhất của sách (10:1-22:16) hầu hết các châm ngôn dài hai
hàng, và những câu ở 10:1-15:5 hầu như luôn luôn bày tỏ sự tương phản.
Đôi khi trước giả chỉ đưa ra nhận xét chung, như “Của hối lộ giống như viên
ngọc quí trước mặt ai được nó” (Của hối lộ là bùa mê của người trao nó -
17:8; so sánh 14:20), nhưng thường trước giả lượng giá cách cư xử: “Còn ai
ghét của hối lộ sẽ được sống” (15:27). Thật thế, nhiều châm ngôn mô tả các
hậu quả của một hành động đặc biệt hoặc một nét trong tâm tánh: “Con trai
khôn ngoan làm vui cha mình” (10:1). Vì các châm ngôn được viết ra trước
hết là để dạy dỗ, nên nhiều khi được đưa ra dưới hình thức những mệnh
lệnh: “Chớ ưa ngủ, e ngươi trở nên nghèo khó chăng?” (20:13). Thậm chí
chỗ nào không dùng hình thức mệnh lệnh thì hành động ưa thích thật rõ ràng
(xem 14:5)
Nét chung của những châm ngôn là sử dụng ngôn ngữ gợi hình: “Tin lành ở
xứ xa đến, giống như nước mát mẻ cho người khát khao” (25:25). Chỉ 25:1-
22 thôi đã có 11 câu khởi sự với “giống như” hoặc “khác nào”. Những lối so
sánh khiến các châm ngôn thêm linh động và mạnh mẽ. Thỉnh thoảng lối so
sánh được dùng cách hài hước hoặc châm biếm:”Một người đờn bà đẹp đẽ
mà thiếu dẽ dặt (thận trọng) khác nào vòng vàng đeo lỗ mũi heo” (11:22; so
sánh 26:9), hoặc “Kẻ biếng nhác lăn trở trên giường mình, khác nào cửa xây
trên bản lề nó” (26:14). Cách dùng ẩn dụ cũng hữu hiệu như vậy: “Sự dạy dỗ
của người khôn ngoan vốn một nguồn sự sống” (13:14), và “Lưỡi hiền lành
(đem lại sự chữa lành) giống như một cây sự sống (15:4). Theo 16:24 thì
“Lời lành giống như tàng ong”. Hình ảnh gieo và gặt được dùng theo cả lối
tích cực lẫn tiêu cực (so sánh 11:28; 22:8).
Để triển khai chiều hướng giá trị chính xác một số châm ngôn dùng sự so
sánh trực tiếp: “Thà người nghèo khó ăn ở cách thanh liêm, còn hơn là kẻ
giàu có theo đường tà vạy” (28:6). Mẫu câu “thà...hơn…” này cũng có thể
thấy trong 15:16-17; 16:19,32; 17:1,12; một hình thức bổ nghĩa được thấy
trong 22:1. Mẫu khác được thấy trong sách tạm gọi là châm ngôn số mục.
Dùng lần thứ nhất trong 6:16 (xem chú thích ở đó), loại câu nói này thường
có số 3 ở hàng thứ nhất và số 4 ở hàng thứ hai (so sánh 30:15,18,21,29).
Sự lặp lại toàn bộ các châm ngôn (so sánh 6:10-11 với 24:33-34; 14:12 với
16:25; 20:16 với 27:13) hoặc các phần châm ngôn có thể dùng vào mục đích
thi ca. Sự thay đổi chút ít cho phép (các) trước giả dùng cùng một hình ảnh
để làm điểm liên hệ (như trong 17:3; 27:21) hoặc để thay thế một lời hầu
làm sáng tỏ hơn, hoặc một sự nhấn mạnh khác (so sánh 19:1; 28:6). Trong
26:4-5 cùng một câu được lặp lại dường như mâu thuẫn, nhưng điều này
được dự định làm hai điểm khác biệt (xem chú thích ở đó).
Lắm khi sách châm ngôn rất trực tiếp và trần tục (so sánh 6:6; 21:29; 25:16;
26:3,11). Đây là chân tánh của văn chương khôn ngoan khi tìm cách đánh
trúng vào lẽ thật và khiến tội nhân xây bỏ đường ác của họ.
Mục đích và dạy dỗ:
Theo phần mở đầu, sách Châm ngôn được viết để ban cho người ngu dại
được sự khôn khéo, gã trai trẻ được sự tri thức và dẽ dặt (1:4), và “người
thông sáng sẽ được rộng mưu trí” (1:5). Thường dùng những lời “Hỡi con”
(1:8,10; 2:1; 3:1; 4:1; 5:1) nhấn mạnh sự dạy dỗ thanh niên và hướng dẫn họ
vào đời sống vui vẻ thịnh vượng. Tiếp thu được khôn ngoan và biết cách nào
tránh được những cạm bẫy của điên dại, sẽ dẫn đến mạnh khỏe và thành
công. Dầu Châm ngôn là sách thực tiễn luận về nghệ thuật sống, sách đặt cơ
sở khôn ngoan trên sự kính sợ Đức Giê-hô-va (1:7). Suốt cả sách, sự kính sợ
Đức Chúa Trời được trình bày như con đường dẫn đến sự sống và an ninh
(so sánh 3:5; 9:10; 22:4). Con người phải tin cậy nơi Chúa (3:5) và không tin
cậy ở chính mình (28:26). Những tham khảo về “cây sự sống” (3:18; 11:30;
13:12) gợi nhớ niềm vui sướng nhất ở vườn Ê-đen, nói cách bóng bảy rằng
người nào tìm được sự khôn ngoan còn hưởng phước hạnh hơn nhiều.
Trong 1:1-9:18 trước giả đối chiếu để làm nổi bật con đường khôn ngoan với
lối hẹp bạo lực (1:11-18) và vô luân (2:16-18). Dâm phụ dùng những lời
đường mật quyến rũ, cố gắng dỗ dành thanh niên đến nhà nàng và cuối cùng
đưa đến sự chết (so sánh 5:1-23; 6:24-35; 7:1-27; 9:13-18). Như thế tình dục
vô luân là gương chứng và biểu tượng đối lập hoàn toàn với khôn ngoan (so
sánh 22:14; 23:27; 30:20).
Đồng thời, sách Châm ngôn kết tội người vợ hay cãi cọ và cách cư xử không
thể chịu nổi của nàng (19:13; 21:9,19). Ngôi nhà phải là chỗ của tình yêu,
không phải nơi tranh cạnh (so sánh 15:17; 17:1). Người đàn ông nhạy giận
và hay gây gổ cũng bị chỉ trích (so sánh 14:29; 26:21), và sự nói hành được
coi là nguồn của sự rắc rối lớn (11:13; 18:8; 26:22). Nếu người nào có thể
kiểm soát lưỡi mình, ấy là người hiểu biết (so 10:19; 17:27). Đồng thời, lưỡi
dùng để dạy dỗ con cái (so sánh 1:8; 22:6; 31:26) và kỷ luật rất cần thiết cho
hạnh phúc (xem 13:24 và chú thích).
Những châm ngôn khích lệ cách mạnh mẽ sự siêng năng và chịu khó làm
việc (xem 10:4 và chú thích 31:17-19) coi khinh kẻ làm biếng vì tánh lười
nhác của hắn (xem 6:6 và chú thích). Con trai “ngủ lúc mùa gặt là con trai
gây sỉ nhục” (20:13). Nói chung, giàu sang có liên hệ với sự công chính (so
sánh 3:16) và nghèo khó liên hệ với hung ác (22:16), nhưng có vài câu kết
nối giàu sang với kẻ ác (15:16; 28:6). Thành thực và công bằng thường được
khen ngợi, và người ta trông đợi vua binh vực quyền lợi của kẻ nghèo, thiếu
thốn (31:5). Những kẻ tử tế đối với người khốn cùng sẽ được ban phước
nhiều (xem 14:21 và chú thích), nhưng có nhiều lời cảnh cáo nghịch cùng sự
bảo lãnh cho người lân cận mình (xem 6:1 và chú thích)
Người kiêu ngạo và kẻ tự cao chắc bị tiêu diệt (11:2; 16:18), đặc biệt kẻ
nhạo báng với “tánh kiêu ngạo quá tự cao” (xem 21:24 và chú thích ở 1:22).
Những kẻ say rượu được mô tả như hình ảnh thu nhỏ của ngu dại (20:1), và
những sự khốn nạn, khổ sở của họ được mô tả bằng những từ ngữ sinh động
trong 23:29-35.
Dầu sách Châm ngôn là sách thực tiễn hơn là sách thần học, công tác của
Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa vẫn được làm nổi bật lên cách đặc biệt. Vai
trò của khôn ngoan trong cuộc sáng tạo là đề tài của 8:22-31 (xem chú thích
ở đó), tại đó sự khôn ngoan như một thuộc tánh của Đức Chúa Trời được
nhân cách hóa. Hai lần Đức Chúa Trời được gọi là Đấng Tạo Hoá của người
nghèo (14:31; 17:5). Ngài cũng chỉ dẫn các bước loài người (5:21; 15:3).
Đức Chúa Trời là tối cao đối với các vua thế gian (21:1), và tất cả lịch sử
diễn tiến chuyển động dưới quyền kiểm soát của Ngài (xem chú thích ở
16:4,33)
Cấu trúc văn học:
Những đầu đề từng tiết chia sách thành những phần được xác định rõ rệt.
Đoạn mở đầu ngắn ngủi (nói rõ mục đích và chủ đề, 1:1-7) mở đầu sách, và
đoạn kết dài hơn (có thể nhận biết bởi chủ đề quan trọng, hình thức vần mẫu
tự của nó, 31:10-31) chấm dứt sách. Chín chương đầu chứa một loạt diễn từ
làm tương phản đường lối và phúc lợi của người khôn ngoan với đường lối
của kẻ khờ dại. Trừ ra những tiết sự khôn ngoan được nhân cách hóa lên
tiếng (1:20; 8:1,22; 9:1), mỗi diễn từ đều khởi sự với “Hỡi con” hoặc “Hỡi
các con”. Những phần này giống như những diễn từ thấy trong hình thức thi
ca.
Nét chủ yếu trong các diễn từ dẫn nhập của sách Châm ngôn là sự nhân cách
hóa cả khôn ngoan lẫn ngu dại (như những phụ nữ), mỗi người (bởi các
thỉnh cầu hoặc cảnh cáo về phần Quí Bà Khôn Ngoan, bởi những cám dỗ về
phần Quí Bà Ngu Dại) tìm cách thuyết phục các thanh niên “dại dột” đi theo
đường của họ. Những diễn từ này kết cấu rất khéo. Khởi sự (1:8-33) và kết
thúc (8:1-9:18) với những cám dỗ và thỉnh cầu, thân bài chính của diễn từ
được kết hiệp bằng hai tiết cân bằng nhau cách thú vị, một tiết dành riêng
cho sự khen ngợi khôn ngoan (2:1-4:27) còn một tiết dành riêng cho sự cảnh
cáo chống lại sự điên dại (5:1-7:27). Trong diễn từ này người trẻ tuổi được
tả vẽ như bị dụ dỗ vào sự ngu dại bởi những người thử đi trước trong thế
gian bằng cách trục lợi kẻ khác (1:10-19) và bởi những phụ nữ đi tìm lạc thú
tình dục bên ngoài sự ràng buộc của hôn nhân (5:1-23; 6:20-25; 7:1-27).
Trong cơ cấu xã hội ngày đó, đây là hai sự cám dỗ lớn cho thanh niên. Cám
dỗ thứ hai hoạt động đặc biệt để minh họa và điển hình cho tiếng gọi của
Quí Bà Ngu Dại..
Tập sưu tầm chính các châm ngôn của Sa-lô-môn trong 10:1-22:16 gồm có
các cặp câu riêng rẽ, nhiều cặp bày tỏ sự tương phản. Ngoài mặt, dường như
không có sự sắp đặt nào đặc biệt, dù thỉnh thoảng có 2 hoặc 3 châm ngôn
luận về cùng một chủ đề. Thí dụ, 11:24-25 luận về lòng rộng rãi 16:12-15
nêu lên một vua, và 19:4,6-7 nói về tình hữu nghị. Tuy nhiên, có bằng cớ
ngày càng rõ ràng những sự xếp đặt các đơn vị lớn hơn có cân nhắc thận
trọng. Nghiên cứu thêm về khả năng này là cần thiết. Tập sưu tầm châm
ngôn Sa-lô-môn thứ hai (25:1-29:27) tiếp tục với những mẫu câu hai hàng,
nhưng cũng có ví dụ của những châm ngôn với 3 hàng (25:13; 27:10,22)
hoặc 4 hàng (25:4-5,21-22; 26:18-19). Năm câu cuối của 27:1-27 (câu 23-
27) trình bày một diễn từ ngắn về phúc lợi của nghề chăn bầy súc vật.
Trong “ba mươi lời nói” của người khôn ngoan (22:17-24:22) và các “lời nói
sau” của 24:23-34, thường thấy những đơn vị 2 hoặc 3 câu, và hơi có ý trở
lại văn phong của 1:1-9:18 (đặc biệt xem 23:29-35). Những tiết này làm
chức năng của một phụ đính cho 10:1-22:16 và chứa đựng vài châm ngôn
tương tự (so sánh 24:6 với 11:14; 24:16 với 11:5). Còn mạnh hơn nữa là các
khâu kết nối với 1:1-9:18 (so sánh 23:27 với 2:16; 24:33-34 với 6:10-11).
Hai chương sau cùng dùng làm phụ đính cho 25:1-29:27. Những lời của A-
gu-rơ chiếm ưu thế bằng châm ngôn số mục (30:15,18,21,24,29) và bao gồm
sự tương đương thân cận với Thi Tv 18:30 trong ChCn 30:5 (cũng so sánh
30:6 với PhuDnl 4:2) . Sau 9 câu qui cho vua Lê-mu-ên (ChCn 31:1-9), sách
châm ngôn kết thúc với một đoạn kết, một bài thơ chữ đầu cảm tác đề cao
người vợ có tâm tình cao thượng. Nàng chứng minh và như thế, tóm tắt
nhiều đức tánh cùng giá trị đồng nhất với khôn ngoan trong suốt cả sách. Từ
phương diện sách Châm ngôn chủ yếu được viết cho các thanh niên trước
ngưỡng cửa cuộc sống trưởng thành, tiêu điểm này nhắm vào người vợ tài
đức dường như hơi lạ. Nhưng nó gồm hai mục đích: (1) cung hiến lời
khuyên cho người vợ mà thanh niên phải tìm kiếm và (2) cách tế nhị khuyên
thanh niên (lần nữa) cưới Quí Bà khôn ngoan, như vậy trở về chủ đề của
1:1-9:18 (mà tuyệt điểm là 9:1-18). Dầu sao, lời tóm tắt sự khôn ngoan trong
người vợ tài đức hình thành một khuôn khổ văn học với những diễn từ mở
đầu, tại đó sự khôn ngoan được nhân cách hóa như một phụ nữ.
Bố cục:
I. Đoạn mở đầu: Mục đích và chủ đề (1:1-7)
II. Tánh ưu việt của Con Đường khôn ngoan (1:8-9:18).
A. Những thỉnh cầu và cảnh cáo mà thanh niên phải đương đầu (1:8-33)
1. Cám dỗ dùng bạo lực để đạt được hạnh phúc (1:8-19)
2. Cảnh cáo về việc chối bỏ sự khôn ngoan (1:20-33)
B. Khen ngợi sự khôn ngoan (2:1-4:27)
1. Ích lợi của việc tiếp nhận sự dạy dỗ khôn ngoan (2:1-22)
2. Sự dạy dỗ và các ích lợi của khôn ngoan (3:1-20)
3. Sự dạy dỗ và các ích lợi của khôn ngoan (3:21-35)
4. Sự thách thức cứ nắm giữ được khôn ngoan (4:1-27)
C. Những lời cảnh cáo chống lại sự ngu dại (5:1-7:27)
1. Cảnh cáo nghịch cùng tội tà dâm (5:1-23)
2. Cảnh cáo nghịch cùng con đường đồi trụy (6:1-19).
3. Giá phải trả khi phạm tội tà dâm (6:20-35)
4. Cảnh cáo nghịch cùng những cám dỗ của dâm phụ (7:1-27)
D. Lời kêu gọi nhắn nhủ thanh niên (8:1-9:18)
1. Tiếng gọi của khôn ngoan (8:1-36)
2. Lời mời gọi của khôn ngoan và điên dại (9:1-18)
III. Tập sưu tầm chính các châm ngôn Sa-lô-môn (10:1-22:16)
IV. Ba mươi lời của người khôn ngoan (22:17-24:22)
V. Những lời phụ thêm của Người khôn ngoan (24:23-34).
VI. Tập sưu tầm các châm ngôn Sa-lô-môn bởi Ê-xê-chia (25:1-29:27)
VII. Những lời của A-gu-rơ (30:1-33)
VIII. Những lời của vua Lê-mu-ên (31:1-9)
IX. Đoạn kết: Người vợ lý tưởng (31:10-31)

Dẫn nhập Truyền đạo


Trước giả và niên hiệu:
Trong sách không nói đến niên hiệu và tên của trước giả, nhưng nhiều phân
khúc gợi ý rằng vua Sa-lô-môn là trước giả (TrGv 1:1,12,16; 2:4-9; 7:26-29;
12:9; tham chiếu IVua 1V 2:9; 3:12; 4:29-34; 5:12; 10:1-8). Mặt khác, danh
hiệu trước giả (“Giáo sư”, tiếng Hê-bơ-rơ qoheleth, xem chú thích ở TrGv
1:1), văn phong độc đáo bằng tiếng Hê-bơ-rơ, và thái độ của người đối với
các quan trưởng (gợi ý rằng đó là thái độ của bầy tôi hơn là quân vương -
xem thí dụ, 4:1-2; 5:8-9; 8:2-4; 10:20) có thể chỉ đến một người khác và ở
một thời kỳ sau này.
Mục đích và phương pháp:
Với cuộc đời ở đằng sau mình cách rộng lớn, trước giả chú trọng đến thế
giới mà người đã kinh nghiệm giữa hai tầm nhận thức “sinh”và “tử” - Tầm
nhận thức sau vượt qua điều con người không thể thấy. Thế giới nhìn thấy
được đầy dẫy những điều bí ẩn, mà điều bí ẩn lớn hơn hết lại là chính con
người.
Từ viễn cảnh thông biết riêng của mình, Vị Giáo sư đánh giá và quan sát khả
năng của con người. Người khám phá ra rằng sự khôn ngoan của con người
dầu là người sùng đạo, cũng có những giới hạn (1:13,16-18; 7:24; 8:16-17).
Nó không thể thấy các mục đích lớn hơn của Đức Chúa Trời hoặc ý nghĩa
tối hậu hiện hữu của con người.
Khi trước giả nhìn quanh tổ chức kinh doanh của con người, người thấy con
người điên cuồng theo đuổi hết điều này đến điều khác - lao khổ cứ như con
người có thể điều khiển cả thế giới, vạch trần những bí mật của nó, thay đổi
cả cấu trúc căn bản của nó, phá vỡ những giới hạn ràng buộc của con người,
và quán triệt được chính vận mệnh của mình. Trước giả thấy con người
luống công theo đuổi những hi vọng cùng những trông mong mà thật ra “chỉ
là hư không (vô nghĩa) và theo luồng gió thổi” (1:14; 2:11,17,26; 4:4,16;
16:9; so sánh 1:17; 4:6).
Nhưng đức tin dạy người rằng Đức Chúa Trời đã định đoạt mọi sự theo mục
đích riêng của Ngài (3:1-15; 5:19; 6:1-2; 9:1), vai trò của con người là phải
chấp nhận, kể cả những sự giới hạn riêng của mình như các chỉ định của
Đức Chúa Trời. Bởi vậy con người phải nhẫn nại và vui hưởng cuộc sống
như Đức Chúa Trời ban cho. Con người phải biết những hạn hẹp của riêng
mình và không lấy làm bực mình bởi những sự mong đợi không thực tế.
Người phải khôn khéo trong mọi sự, sống cách cẩn thận trước mắt Đức
Chúa Trời và vua, trên hết kính sợ Đức Chúa Trời cùng vâng giữ các Luật lệ
Ngài (12:13).
Sự dạy dỗ:
Cuộc sống nào không tập trung vào Đức Chúa Trời là cuộc sống vô nghĩa và
không chủ đích. Không có Chúa, chẳng có gì được thỏa mãn (2:25). Với
trước giả, cả cuộc đời và mọi ân tứ tốt lành khác, phải được tạ ơn nhận lãnh
(xem Gia 1:17;), sử dụng cùng tận hưởng đầy đủ (TrGv 2:26; 11:8). Sách
chứa đựng những suy tư triết học và thần học của một người già (12:1-7),
phần lớn đời người là vô nghĩa vì người đã chẳng nương cậy vào Đức Chúa
Trời .
Bố cục:
I. Trước giả (1:1)
II. Chủ đề: Các cố gắng của con người trên đất sống ngoài Đức Chúa Trời là
vô nghĩa (1:2)
III. Lời giới thiệu: Sự vô ích luống công để tích lũy mọi sự cho đạt được
hạnh phúc (1:3-11)
IV. Diễn từ. Phần 1: Mặc dù những sự dường như bí ẩn và vô nghĩa của
cuộc đời, nó vẫn phải được hưởng thụ như ân tứ của Chúa (1:12-11:6).
V. Diễn từ. Phần 2: Vì tuổi già và sự chết chẳng bao lâu sẽ đến, con người
phải hưởng đủ tuổi thanh xuân và nhớ rằng Đức Chúa Trời sẽ xét đoán
(11:7-12:7).
VI. Chủ đề được lặp lại (12:8)
VII. Kết luận: Tin cậy cách kỉnh kiền và vâng phục Đức Chúa Trời (12:9-
14).

Dẫn nhập Nhã ca


Nhan đề:
Nhan đề ở nguyên bản Hê-bơ-rơ là “bài ca của những bài ca của Sa-lô-
môn”, có nghĩa là bài ca bởi, cho hay là về Sa-lô-môn. Nhóm từ “bài ca của
những bài ca” có nghĩa là bài ca lớn hơn hết (PhuDnl 10:17, “Đức Chúa
Trời của các thần, và Chúa của các chúa”# ITi1Tm 6:15, “Vua của các
vua”).
Trước giả và niên hiệu:
Nha Dc 1:1 dường như qui tác quyền cho Sa-lô-môn (xem chú thích ở 1:1;
cũng xem phần nhan đề ở trên). Sa-lô-môn được nhắc đến 7 lần (1:1,5;
3:7,9,11; 8:11-12), và nhiều câu nói đến “Vua” (1:4,12; 7:5), nhưng người
có phải là trước giả hay không còn là vấn đề bỏ ngỏ.
Định niên hiệu Nhã ca vào thế kỷ thứ 10 T.C. trong đời trị vì Sa-lô-môn thật
là không thể. Thật thế, sự đề cập đến Thiệt-sa và Giê-ru-sa-lem trong một
mạch (6:4) được dùng để chứng tỏ một niên hiệu trước vua Ôm-ri (885-874
T.C, xem IVua 1V 16:23-24), dầu lý do nói đến Thiệt-sa không rõ. Mặt
khác, nhiều người đã viện dẫn đến ngôn ngữ của Nhã ca để chứng tỏ là ở
vào thời sau này, nhưng chứng cớ hiện có về dữ kiện ngôn ngữ còn mơ hồ
lắm
Tính thuần nhất của ngôn ngữ, văn phong, giọng nói, phối cảnh và những
điệp khúc nhắc lại dường như biện luận về một trước giả duy nhất. Tuy
nhiên, nhiều người nghi ngờ Nhã ca do một người viết, hoặc ở cùng một thời
hoặc một chỗ, cắt nghĩa sự thuần nhất này bằng cách qui tất cả các phần sách
Nhã ca cho một truyền thống văn học duy nhất, vì các truyền thống Cận
đông rất thận trọng duy trì một văn phong đồng dạng
Lời giải thích:
Để tìm chìa khoá để mở sách Nhã ca, các nhà giải kinh đã trông vào các
phân khúc Thánh Kinh nói về tiên tri, khôn ngoan và khải thị, cũng như các
bài tình ca của Ba-by-lôn và Ai-cập thuở xưa, cùng những bài ca hôn lễ do
truyền thống dòng Sem và những bài ca liên hệ đến sự thờ cúng thần của
người Mê-sô-bô-ta-mi xưa để được khả năng sinh sản. Những câu tương
đương gần nhất được thấy trong Châm ngôn (xem ChCn 5:15-20; 6:24-29;
7:6-23). Sự mô tả tình yêu trong Nha Dc 8:6-7 (so những sự mô tả khôn
ngoan tìm thấy trong ChCn 1:1-9:7 và Giop G 28:1-28) dường như chứng
quyết rằng Nhã ca thuộc văn chương khôn ngoan của Thánh Kinh và đó là
sự mô tả khôn ngoan về mối liên hệ tình ái. Thánh Kinh cũng nói về sự khôn
ngoan lẫn tình yêu là những ân tứ của Đức Chúa Trời cần tiếp nhận với lòng
cảm tạ và tán dương.
Sự hiểu biết nầy về Nhã ca tương phản với quan điểm từ xưa đến nay cho
rằng Nhã ca là một phúng dụ (nói bóng) về sự liên hệ tình yêu giữa Đức
Chúa Trời và Y-sơ-ra-ên, hoặc giữa Chúa Cứu Thế và Hội Thánh, hoặc giữa
Chúa Cứu Thế và linh hồn (dầu chẳng chỗ nào trong Tân Ước trích dẫn hoặc
ám chỉ đến Nhã ca). Nó cũng phân biệt khỏi các lời giải thích hiện đại về
Nhã ca, như là một vở kịch thơ tán dương sự chiến thắng của tình yêu tự
phát, trong trắng của người gái trẻ đối với người yêu chăn chiên quê mùa
hơn cả những lời tán tỉnh phong nhã của Sa-lô-môn là người tìm cách chiếm
được nàng cho hậu cung của mình. Hơn nữa, quan niệm Nhã ca như chuỗi
dây xích móc nối những bài thơ trữ tình mô tả tình yêu với tất cả sự bộc phát
tự nhiên, vẻ đẹp, quyền năng và độc đáo của nó - được kinh nghiệm trong
những giờ phút khác nhau về chia ly và thâm tình, lo âu và ngây ngất, căng
thẳng và thoả lòng. Nhã ca chia sẻ thi ca tình yêu của nhiều nền văn hoá về
sự sử dụng rộng rãi nhiều hình ảnh gợi lên những khoái cảm cao vút lấy
được từ cõi thiên nhiên.
Chủ đề và thần học:
Trong Y-sơ-ra-ên xưa, mọi sự thuộc con người đều đạt đến chỗ bày tỏ bằng
lời: kỉnh kiền, biết ơn, giận hờn, buồn thảm, đau khổ, tin cậy, thân hữu, cam
kết, trung thành, hi vọng, khôn ngoan, xúc phạm đạo đức, ăn năn. Trong
sách Nhã ca, ấy là tình yêu tìm được những lời - lời truyền cảm biểu lộ
duyên sắc và vẻ đẹp thanh tú như một trong những tặng phẩm quí nhất của
Đức Chúa Trời. Tiếng nói của tình yêu trong Nhã ca, giống tiếng nói của
khôn ngoan trong ChCn 8:1-9:12, là tiếng của người nữ, gợi ý rằng tình yêu
và khôn ngoan có sức mạnh thu hút (hấp dẫn) người nam với những tinh tế
(tài tình) và huyền nhiệm quyến rũ của người nữ.
Tiếng dịu dàng này của người nữ nói lên tình yêu đậm đà. Nàng mô tả vẻ
đẹp và sự vui sướng của tình yêu. Nàng đòi hỏi sự độc quyền (“Lương nhân
- người yêu tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về người”, Nha Dc 2:16) và nhấn
mạnh lẽ cần đến tính tự phát trong trắng của nó (“Chớ kinh động, chớ làm
tỉnh thức ái tình ta cho đến khi nó muốn”, 2:7). Nàng cũng công bố năng lực
mạnh mẽ của nó - nó được sánh với kẻ thù đáng sợ, ấy là Sự Chết nó thiêu
đốt với cường độ của đám lửa hừng cháy, dầu cả đại dương sâu thẳm cũng
không thể làm tắt được (8:6-7a). Nàng xác chứng sự quí giá của nó: Tất cả
những tài sản của người nam sở hữu không thể mua được, nói cách khác,
chẳng có gì đánh đổi được nó (8:7b). Nàng gợi ý, nhưng không nói tỏ tường
(8:6, phần sau như chính “ngọn lửa của Đức Giê-hô-va”), ấy là tặng phẩm
của Đức Chúa Trời ban cho con người.
Đức Chúa Trời dự định tình yêu như thế - đã bị cả người xưa và hiện đại
xuyên tạc và lạm dụng cách thô bỉ - phải là phần bình thường của đời sống
hôn nhân trong cuộc sáng tạo tốt lành của Ngài (xem SaSt 1:26-31; 2:24)
Những nét văn học đặc sắc:
Chẳng ai cẩn thận đọc sách Nhã ca dám nghi ngờ nghệ thuật của thi sĩ. Sự
thanh nhã tinh tế mà người gợi nên ý thức khoái cảm mãnh liệt nhưng tránh
sự chọc cười thô lỗ là điểm chính thành công của người. Người hoàn tất
được điều này phần lớn là nhờ sự gián tiếp, tương tự, và làm nổi bật vấn đề
ưa khoái lạc trong thế giới thiên nhiên (hoặc trong thực phẩm, đồ uống, thẩm
mỹ và đồ trang sức). Ví sánh sự thích thú của lương nhân đối với người yêu
mình như “hoàng dương giữa đám bông huệ” (Nha Dc 2:16), hoặc bộ ngực
nàng “như cặp con sanh đôi của hoàng dương giữa đám bông huệ” (4:5),
hoặc chính nàng như “vườn đóng kín” có những trái cây hiếm quí mời mọc
lương nhân hưởng (4:12-16) - tất cả kết hợp lại thành nghệ thuật thanh tú và
nhạy cảm tinh vi.
Vô luận sách Nhã ca có thống nhất đường nét kịch hoạ kết hợp với những
đơn vị nhỏ thành câu chuyện liên tục hay không vẫn còn là vấn đề tranh luận
giữa các nhà giải kinh. Dường như thật có sự liên kết những cảnh tượng
trong sự liên hệ tình yêu (xem Bố cục)
Trên thực tế hết thảy đều đồng ý rằng tuyệt điểm văn học của Nhã ca được
thấy trong 8:6-7, tại đó tình yêu vô đối và giá trị tình yêu - tình yêu kéo
người nam và người nữ lại gần nhau - cuối cùng được xác nhận tỏ tường. Sự
lắng dịu (thoải mái) văn học theo sau mọi căng thẳng của lời tuyên bố đó.
Lời bày tỏ cuối cùng sự thèm muốn chung thủy giữa đôi uyên ương kết thúc
sách Nhã ca, gợi ý tình yêu trường tồn bất diệt. Phân đoạn chót này (8:8-14)
theo một ý nghĩa cũng là sự trở lại từ ban đầu, như những lời tham khảo về
anh em của người yêu, vườn nho của nàng, và Sa-lô-môn (nhà Vua) nối kết
8:8-12 với 1:2-6.
Trong bài tình ca này tiếng nói của người được yêu khống chế tất cả. Ấy là
kinh nghiệm tình yêu, kể cả người yêu và người được yêu, bày tỏ rõ ràng
nhất. Sách Nhã ca khởi sự với nàng thiếu nữ mong ước nụ hôn của người
yêu và kết thúc với lời mời gọi khẩn trương chàng đến sự thắm thiết của tình
yêu.
Bố cục:
I. Nhan đề (1:1)
II. Cuộc gặp gỡ thứ nhất (1:2-2:7)
III. Cuộc gặp gỡ thứ hai (2:8-3:5)
IV. Cuộc gặp gỡ thứ ba (3:6-5:1)
V. Cuộc gặp gỡ thứ tư (5:2-6:3)
VI. Cuộc gặp gỡ thứ năm (6:4-8:4)
VII. Tuyệt điểm văn học (8:5-7)
VIII. Kết luận (8:8-14)

Dẫn nhập Ê-sai


Trước giả:
Ê-sai con của A-mốt thường được nghĩ là tiên tri viết sách lớn nhất. Tên
người có nghĩa là “Đức Giê-hô-va cứu”. Người sống đồng thời với A-mốt,
Ô-sê và Mi-chê. Khởi sự chức vụ năm 740 T.C., năm vua Ô-xia băng (xem
chú thích ở EsIs 6:1). Theo truyền thuyết không được chứng minh của người
Do Thái (“Sự thăng tiến của Ê-sai”) người bị cưa xẻ làm hai trong thời Ma-
na-se (HeDt 11:37). Ê-sai cưới vợ và có ít nhất là hai con trai đặt tên là Sê-a
Gia-súp (EsIs 7:3) và Ma-ha Sa-la Hát-bát (8:3). Có lẽ người sống phần lớn
đời mình tại Giê-ru-sa-lem, gieo ảnh hưởng lớn nhất của mình trên đời trị vì
của vua Ê-xê-chia (xem 37:1-2). Ê-sai cũng được công nhận là đã viết sử ký
đời trị vì vua Ô-xia (IISu 2Sb 26:22).
Nhiều học giả ngày nay không thừa nhận lời công nhận Ê-sai đã viết toàn bộ
sách có mang tên người. Tuy nhiên người vẫn là tên duy nhất gắn liền với
sách (xem EsIs 1:1; 2:1; 13:1). Lý lẽ mạnh nhất cho sự thống nhất sách Ê-sai
là thành ngữ “Đấng thánh của Y-sơ-ra-ên”, phẩm tước dành cho Đức Chúa
Trời ghi 12 lần trong 1:1-39:8 và 14 lần trong 40:1-66:24. Ngoài sách Ê-sai,
phẩm tước đó ghi 6 lần trong cả Cựu Ước. Cũng có những câu tương đương
ghi từng chữ một giữa 1:1-39:8 và 40:1-66:24. Hãy so sánh các câu này:
1:2 66:44
1:5-6 53:4-5
5:27 40:30
6:1 52:13; 57:15
6:11-12 62:4
11:1 53:2
11:6-9 65:25
11:12 49:22
35:10 51:11
Nhìn chung, có ít nhất 25 từ hoặc hình thái Hê-bơ-rơ tìm thấy trong Ê-sai
(tức là, cả hai phần lớn của sách) mà không thấy chép trong sách tiên tri nào
khác.
Ê-sai thường dùng lửa làm hình ảnh về sự đoán phạt (xem 1:31; 10:17;
26:11; 33:11-14; 34:9-10; 66:24), những lời tham khảo của người về “núi
thánh” của Giê-ru-sa-lem (xem chú thích ở 11:16) là các chủ đề thường trở
lại suốt cả sách.
Cấu trúc của Ê-sai cũng biện luận cho sự thống nhất của sách. 36:1-39:8 hợp
thành biến cố lịch sử xảy ra ở quãng giữa, kết thúc phần 1 (1:1-35:10) và
dẫn nhập 40:1-66:24 (xem chú thích ở 36:1).
Nhiều câu Tân ước nói đến tiên tri Ê-sai liên quan đến các phần khác nhau
của sách: Mat Mt 12:17-21 (EsIs 42:1-4), Mat Mt 3:3 và LuLc 3:4 (EsIs
40:3), RoRm 10:16,20; (EsIs 53:1; 65:1), đặc biệt xem GiGa 12:38-41 (EsIs
53:1; 6:10).
Niên hiệu:
Hầu hết các biến cố thảo luận trong 1:1-39:8 đã xảy đến trong chức vụ của
Ê-sai (xem 6:1; 14:28; 36:1), rất có thể các chương này được hoàn tất không
lâu sau 701 T.C., năm đạo quân A-si-ri bị hủy diệt (xem chú thích ở 10:16).
Tiên tri sống cho đến ít nhất 681 (xem chú thích ở 37:38) và có thể đã viết
40:1-66:24 vào các năm cuối đời mình. Trong sứ điệp tiên tri gởi cho những
người bị lưu đày của thế kỷ thứ 6 T.C, Ê-sai đã hình thành kế hoạch cho
tương lai, hệt như Giăng đã chép trong KhKh 4:1-22:21.
Bối cảnh:
Ê-sai viết trong thời bão tố đánh dấu sự bành trướng của đế quốc A-si-ri và
sự suy thoái của Y-sơ-ra-ên. Dưới đời vua Tiếc-la Phi-lê-se III (745-727
T.C.) quân A-si-ri quét ngang về hướng Tây đến tận A-ram (Sy-ri) và Ca-na-
an. Khoảng năm 733 các vua A-ram và Y-sơ-ra-ên cố gắng làm áp lực trên
A-cha, vua Giu-đa, gia nhập liên minh chống lại A-si-ri. A-cha lựa chọn cầu
cứu đến Tiếc-la-Phi-lê-se tiếp trợ, quyết định ấy bị Ê-sai kết tội (xem chú
thích ở EsIs 7:1). A-si-ri thật đã giúp đỡ Giu-đa và chinh phục nước miền
Bắc năm 722-721. Điều này, càng làm cho Giu-đa dễ bị tấn công hơn. vào
năm 701 vua San-chê-ríp của A-si-ri đe dọa chính Giê-ru-sa-lem (xem 36:1
và chú thích). Vị vua tin kính là Ê-xê-chia khẩn thiết cầu nguyện, và Ê-sai
dự ngôn rằng Đức Chúa Trời sẽ bắt buộc A-si-ri phải rút lui khỏi thành
(37:6-7).
Tuy nhiên Ê-sai cảnh cáo cả Giu-đa rằng tội lỗi của nước sẽ khiến dân phải
lưu đày dưới tay người Ba-by-lôn. Sự thăm viếng của sứ giả của vua Ba-by-
lôn mở màn cho lời dự ngôn này (xem 39:1,6 và các chú thích). Dầu sự thất
thủ thành Giê-ru-sa-lem mãi đến năm 586 T.C. mới xảy ra, Ê-sai thừa nhận
sự chuyển nhượng đất nước Giu-đa và tiếp tục dự ngôn sự phục hồi con dân
Chúa khỏi kỳ lưu đày (xem 40:2-3 và các chú thích). Đức Chúa Trời sẽ cứu
chuộc con dân Ngài khỏi Ba-by-lôn hệt như Chúa đã giải cứu họ khỏi xứ Ê-
díp-tô (xem các chú thích 35:9; 41:14). Ê-sai dự ngôn về sự dấy lên của vua
Si-ru nước Ba-tư, người sẽ thống nhất hai dân Mê-đi và Ba-tư rồi chinh phục
Ba-by-lôn vào năm 539 (xem 41:2 và chú thích). Chiếu chỉ vua Si-ru cho
phép người Do Thái hồi hương năm 538, là sự giải phóng báo hiệu trước sự
cứu rỗi lớn hơn khỏi tội lỗi qua Đấng Christ (xem 52:7 và chú thích).
Các chủ đề và thần học:
Ê-sai là sách bày tỏ những chiều kích đầy đủ về sự đoán phạt và sự cứu rỗi
của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là “Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên” (xem
1:4; 6:1 và các chú thích), phải hình phạt dân bội nghịch Ngài (1:2) nhưng
về sau sẽ cứu chuộc họ (41:14,16). Y-sơ-ra-ên là dân tộc đui và điếc (6:9-10;
42:7), vườn nho sẽ bị giày xéo (5:1-7) dân không có công lý hoặc công
chính (5:7; 10:1-2). Sự đoán phạt kinh khiếp sẽ giáng trên Y-sơ-ra-ên và tất
cả những dân thách thức Đức Chúa Trời, được gọi là “ngày của Đức Giê-hô-
va ”. Dầu Y-sơ-ra-ên có nếm trước các ngày đó (5:30; 42:25), các dân khác
gánh trọn sức mạnh đoán phạt đó (xem 2:11,17,20 và chú thích). Ấy là ngày
liên kết với sự tái lâm của Đấng Christ trong Tân Ước cũng sự đoán phạt cặp
theo (xem 24:1,21; 34:1-2 và chú thích). Suốt cả sách, sự đoán phạt của Đức
Chúa Trời được ám chỉ như “lửa” (xem 1:31; 30:33 và các chú thích). Ngài
là “Đức Giê-hô-va tối cao” (xem chú thích ở 25:8), trổi hơn tất cả các nước
và các nhà thống trị (40:15-24).
Tuy nhiên Chúa vẫn thương xót con dân Ngài (14:1-2) và sẽ giải cứu họ
khỏi sự hà hiếp chính trị lẫn thuộc linh. Sự hồi phục của họ giống như cuộc
Xuất Ê-díp-tô mới (43:2,16-19; 52:10-12) khi Đức Chúa Trời chuộc họ (xem
35:9; 41:14 và các chú thích) và cứu họ (xem 43:3; 49:8 và các chú thích).
Đấng Tạo Hoá toàn năng của Y-sơ-ra-ên (40:21-22; 48:13) sẽ khiến những
suối nước chảy nơi sa mạc (32:2) khi Ngài đầy lòng nhân từ đem họ trở về
quê hương. Chủ đề con đường cái (xa lộ) cho kẻ lưu đày về cũng là nét đặc
trưng nổi bật (xem 11:16; 40:3 và các chú thích) trong cả hai phần lớn của
sách. Chúa dấy lên ngọn cờ để kêu gọi các dân đem Y-sơ-ra-ên trở về cố
hương (xem 5:26 và chú thích)
Sự hoà bình và an ổn đánh dấu thời đại mới này của Đấng Mê-si (11:6-9).
Một vua từ dòng Đa-vít sẽ thống trị trong sự công chính (9:7; 32:1), tất cả
các dân sẽ đổ về núi thánh Giê-ru-sa-lem (xem 2:2-4 và chú thích). Con dân
Đức Chúa Trời không còn bị những kẻ thống trị hung ác áp bức (11:14;
45:14) và Giê-ru-sa-lem sẽ thật là “Thành của Đức Giê-hô-va ” (60:14).
Chúa gọi Vua Mê-đi là “tôi tớ ta” trong 42:1-53:12, từ liệu cũng áp dụng cho
Y-sơ-ra-ên như một dân (xem 41:8-9; 42:1 và các chú thích). Qua sự thương
khó của tôi tớ Ngài mà ý nghĩa sự cứu rỗi toàn hảo nhất được hoàn tất. Si-ru
là dụng cụ của Đức Chúa Trời để giải phóng Y-sơ-ra-ên khỏi Ba-by-lôn
(41:2), nhưng Đấng Christ giải thoát cả nhân loại khỏi ngục tù tội lỗi (52:13-
53:12). Ngài trở thành “ánh sáng cho dân ngoại bang” (42:6) hầu các dân tộc
đó đối diện với sự phán xét (13:1-23:18) có thể tìm được ơn cứu rỗi (55:4-
5). Những dân ngoại bang này cũng trở thành “các tôi tớ của Đức Giê-hô-va
” (xem 54:17 và chú thích).
Vương quốc của Chúa ở trên đất, với Đấng thống trị công chính và thần
công chính của Ngài là mục tiêu của sách Ê-sai kiên trì tiến tới. Dân và đất
nước được khôi phục bấy giờ sẽ thích hiệp với lý tưởng thiên thượng, và hết
thảy đem lại kết quả trong sự khen ngợi và vinh quang của Đấng Thánh Y-
sơ-ra-ên về những việc Chúa đã hoàn tất.
Những nét văn học chính:
Ê-sai chứa đựng cả văn xuôi lẫn văn vần, vẻ đẹp của các vần thơ của sách là
tuyệt diệu trong cả Cựu Ước. Tài liệu văn xuôi được thấy trong 36:1-39:8,
quãng giữa lịch sử, thống nhất hai phần của sách (xem phần Trước giả). Tài
liệu văn thơ bao gồm một loạt những sấm truyền trong 13:1-23:18. Bài ca
quở trách nghịch cùng vua Ba-by-lôn trong 14:4-23. 24:1-27:13 gồm một
tiết khải thị nhấn mạnh những ngày sau rốt (xem chú thích ở 24:1). Một bài
thơ khôn ngoan được thấy trong 28:23-29 (cũng tham chiếu 32:5-8). Bài ca
vườn nho (5:1-7) khởi sự như một bản tình ca khi Ê-sai mô tả mối liên hệ
của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên. Những thánh ca ngợi khen được ghi
trong 12:1-6 và 38:10-20, và lời ca thương toàn quốc được ghi trong 63:7-
64:12. Thi ca quả thật phong phú và khác nhau, vì từ vựng của tiên tri (thí
dụ, người dùng 2.200 từ Hê-bơ-rơ khác nhau - hơn bất cứ trước giả nào khác
của Cựu Ước).
Một trong các kỹ thuật Ê-sai ưa thích là nhân cách hoá. Mặt trời và mặt
trăng bị hổ thẹn (24:23), đồng hoang cùng đất khô hạn vui mừng (xem 35:1
và chú thích) cùng các núi rừng trổi tiếng hoan ca (44:23). Cây cối “vỗ tay”
(55:12). Hình ảnh ưa thích là vườn nho, tiêu biểu cho Y-sơ-ra-ên (5:7). Đạp
bàn ép rượu nho là hình ảnh của sự đoán phạt (63:3 và chú thích), và uống
chén thạnh nộ của Đức Chúa Trời là choáng váng dưới sự hình phạt (xem
51:17 và chú thích). Ê-sai dùng danh xưng “Vầng Đá” để mô tả Đức Chúa
Trời (17:10) và các loài thú như Lê-vi-a-than và Ra-háp để tiêu biểu cho các
dân (xem 27:1; 30:7; 51:9).
Năng lực gợi hình của Ê-sai được thấy trong 30:27-33, và người đã châm
biếm cay độc trong sự tố cáo các hình tượng trong 44:9-20. Lối chơi chữ
sinh động xuất hiện ở 5:7 (xem chú thích ở đó), người ta thấy thuật tương
phản (nghịch đảo) trong 6:10 (xem chú thích ở đó, cũng xem chú thích ở
16:7), cũng như sự lặp lại âm đầu và sự trùng âm (giữa hai vần) trong 24:17
(xem chú thích ở đó). “Tai nạn hủy diệt..... giày đạp” của 28:15,18 là sự
minh hoạ pha trộn ẩn dụ.
Ê-sai thường ám chỉ đến các biến cố trước của lịch sử Y-sơ-ra-ên, đặc biệt là
việc xuất hành khỏi Ê-díp-tô. Sự vượt qua Hồng Hải hình thành bối cảnh
cho 11:15 và 43:2,16-17, và các lời ám chỉ khác ghi trong 4:5-6; 31:5; 37:36
(xem chú thích ở những câu này). Sự hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ
được nói đến trong 1:9, và việc Ghê-đê-ôn đắc thắng dân Ma-đi-an được nói
đến trong 9:4; 10:26 (cũng xem 28:21). Nhiều lần Ê-sai rút từ bài ca Môi-se
trong PhuDnl 32:1-43 (tham chiếu EsIs 1:2 và PhuDnl 32:1; EsIs 30:17 và
PhuDnl 32:30; EsIs 43:11,13 và PhuDnl 32:39). Giống Môi-se, Ê-sai kêu gọi
quốc dân ăn năn và tin cậy Đức Chúa Trời thánh khiết và toàn năng. Cũng
xem chú thích ở EsIs 49:8.
Bố cục:
Phần I. Sách của sự xét đoán (1:1-39:8)
I. Các sứ điệp quở trách và lời hứa (1:1-6:13)
A. Phần dẫn nhập: Những cáo giác nghịch cùng Giu-đa vì vi phạm giao ước
(1:1-31)
B. Sự sửa dạy tương lai và vinh quang Giu-đa cùng Giê-ru-sa-lem (2:1-4:6)
1. Những phước lành tương lai của Giê-ru-sa-lem (2:1-5)
2. Chúa sửa dạy Giu-đa (2:6-4:1)
3. Sự phục hồi của Si-ôn (4:2-6)
C. Sự xét đoán quốc dân và lưu đày (5:1-30)
D. Sự bổ nhiệm độc đáo của Ê-sai (6:1-13)
II. Những lời tiên tri do Sy-ri và Y-sơ-ra-ên đe doạ nghịch cùng Giu-đa (7:1-
12:6)
A. A-cha được cảnh cáo đừng sợ liên minh Sy-ri và Y-sơ-ra-ên (7:1-25)
B. Con trai của Ê-sai và con trai của Đa-vít (8:1-9:7)
C. Sự xét đoán nghịch cùng Y-sơ-ra-ên (9:8-10:4)
D. Đế quốc A-si-ri và vương quốc Đa-vít (10:5-12:6)
1. Sự hủy diệt A-si-ri (10:5-34)
2. Sự thiết lập Vua thuộc dòng Đa-vít và vương quốc người (11:1-16)
3. Những bài ca giải phóng (12:1-6)
III. Những sự xét đoán nghịch cùng các nước (13:1-23:18)
A. Nghịch cùng A-si-ri và kẻ thống trị nó (13:1-14:27)
B. Nghịch cùng Phi-li-tin (14:28-32)
C. Nghịch cùng Mô-áp (15:1-16:13)
D. Nghịch cùng A-ram (Sy-ri) và Y-sơ-ra-ên (17:1-14)
E. Nghịch cùng Cút (18:1-7)
F. Nghịch cùng Ê-díp-tô và Cút (19:1-20:6)
G. Nghịch cùng Ba-by-lôn (21:1-10)
H. Nghịch cùng Đu-ma (Ê-đôm) (21:11-12)
I. Nghịch cùng A-ra-bi (21:13-17)
J. Nghịch cùng Trũng Khải tượng (Giê-ru-sa-lem) (22:1-25)
K. Nghịch cùng Ty-rơ (23:1-17)
IV. Sự đoán xét và lời hứa (Vương quốc của Chúa) (24:1-27:13)
A. Những sự xét đoán phổ thông đối với tội phổ thông (24:1-23)
B. Giải phóng và phước lành (25:1-12)
C. Ngợi khen sự chăm sóc tối cao của Chúa (26:1-21)
D. Những kẻ thù nghịch Y-sơ-ra-ên bị phạt nhưng dân sót Y-sơ-ra- ên được
phục hồi (27:1-13)
V. Sáu lời rủa sả: Năm lời trên kẻ bất trung trong Y-sơ-ra-ên và một trên A-
si-ri (28:1-33:24)
A. Khốn nạn cho Ép-ra-im (Sa-ma-ri) - và cho Giu-đa (28:1-29)
B. Khốn nạn cho thành Đa-vít (Giê-ru-sa-lem) (29:1-14)
C. Khốn nạn cho những kẻ cậy vào liên minh ngoại quốc (29:15-24)
D. Khốn nạn cho dân cứng cổ (30:1-33)
E. Khốn nạn cho những kẻ nhờ cậy Ê-díp-tô (31:1-32:20)
F. Khốn nạn cho A-si-ri - những phước lành cho con dân Đức Chúa Trời
(33:1-24)
VI. Thêm những lời tiên tri về sự phán xét và lời hứa (34:1-35:10)
A. Sự hủy diệt các nước và sự báo thù của con dân Đức Chúa Trời (34:1-17)
B. Phước hạnh tương lai và sự khôi phục của Si-ôn (35:1-10)
VII. Sự chuyển tiếp lịch sử từ sự hăm doạ của A-si-ri đến sự lưu đày ở Ba-
by-lôn (36:1-39:8)
A. Giê-ru-sa-lem được bảo vệ khỏi sự đe dọa của A-si-ri (36:1-37:38)
1. San-chê-ríp và đạo binh A-si-ri vây thành Giê-ru-sa-lem (36:1-22)
2. Chúa giải cứu Giê-ru-sa-lem (37:1-38)
B. Chúa cho Ê-xê-chia được sống thêm (38:1-22)
C. Dự ngôn về sự lưu đày tại Ba-by-lôn (39:1-8)
Phần II. Sách của sự yên ủi (40:1-66:24)
VIII. Sự giải phóng và hồi phục Y-sơ-ra-ên (40:1-48:22)
A. Sự đến của Đức Chúa Trời Chiến thắng (40:1-26)
B. Sức mạnh không cạn tắt cho kẻ lưu đày mệt mỏi (40:27-31)
C. Chúa của lịch sử (41:1-42:9)
D. Ngợi khen và khuyên dạy (42:10-25)
E. Tái thâu hiệp và làm mới lại Y-sơ-ra-ên (43:1-44:5)
F. Đức Chúa Trời duy nhất (44:6-45:25)
G. Chúa trổi cao hơn các thần tượng Ba-by-lôn (46:1-13)
H. Sự sụp đổ của Ba-by-lôn (47:1-15)
I. Những lời Chúa khuyên dạy con dân Ngài (48:1-22)
IX. Chức vụ của đầy tớ và sự phục hồi Y-sơ-ra-ên (49:1-57:21)
A. Tiếng gọi và nhiệm vụ của Đầy tớ (49:1-13)
B. Sự tái định cư ở Si-ôn (49:14-26)
C. Tội của Y-sơ-ra-ên và sự vâng phục của Đầy tớ (50:1-11)
D. Những dân sót được yên ủi vì cớ viễn cảnh vinh hiển của họ (51:1-52:12)
E. Những đau thương và vinh quang của Đầy tớ công chính Chúa (52:13-
53:12).
F. Vinh quang tương lai của Si-ôn (54:1-17)
G. Chúa kêu gọi đến sự cứu rỗi và những phước hạnh của giao ước (55:1-
56:8)
H. Sự kết tội kẻ ác trong Y-sơ-ra-ên (56:9-57:21)
X. Sự giải phóng và sự thẩm phán vĩnh viễn (58:1-66:24)
A. Sự thờ phượng chân thật và giả dối (58:1-14)
B. Sự xưng nhận tội và cứu chuộc của Si-ôn (59:1-21)
C. Hoà bình và thịnh vượng của Si-ôn (60:1-22)
D. Ân huệ của Chúa (61:1-11)
E. Sự phục hồi và vinh quang của Si-ôn (62:1-63:6)
F. Lời cầu nguyện xin sự giải cứu thiên thượng (63:7-64:12)
G. Sự đáp lời của Chúa: Sự thương xót và phán xét (65:1-25)
H. Xét đoán kẻ thờ phượng giả dối và phước lành cho người thờ phượng
chân thật (66:1-24)

Dẫn nhập Giê-rê-mi


Trước giả và niên hiệu:
Sách dành riêng một câu chuyện về chức vụ tiên tri của Giê-rê-mi, mà đời
sống cá nhân và cuộc tranh đấu của người cho chúng ta biết cách sâu nhiệm
và chi tiết hơn bất cứ tiên tri nào khác trong Cựu Ước. Ý nghĩa của tên
không biết chắc. Những gợi ý gồm có “Đức Giê-hô-va tôn cao”, “Đức Giê-
hô-va thiết lập”, nhưng đề nghị hợp lý hơn cả là “Đức Giê-hô-va ném”, hoặc
theo nghĩa “ném mạnh” tiên tri vào trong thế giới cừu địch, hoặc “liệng” các
dân vào trong sự phán xét thiên thượng vì lội lỗi họ. Chức vụ tiên tri của
Giê-rê-mi khởi sự năn 626 T.C. và chấm dứt khoảng 586 (xem chú thích ở
Gie Gr 1:2-3). Chức vụ tiên tri cua người đến trước chức vụ của tiên tri Sô-
phô-ni. Ha-ba-cúc là người sống đồng thời, và Áp-đia cũng vậy. Vì Ê-xê-
chi-ên khởi sự chức vụ mình tại Ba-by-lôn năm 593 nên người cũng là kẻ
sống đồng thời với đấng tiên tri lớn ở Giê-ru-sa-lem nhưng hơi muộn hơn.
Không ai rõ Giê-rê-mi qua đời cách nào và khi nào, tuy nhiên, truyền thống
Do Thái xác quyết rằng trong lúc sống tại Ê-díp-tô, người bị ném đá chết
(tham chiếu HeDt 11:37).
Giê-rê-mi là thầy tế lễ, thành viên của gia đình Hinh-kia. Quê hương người
là A-na-tốt (Gie Gr 1:1), vậy người có thể là dòng dõi A-bia-tha (IVua 1V
2:26), thầy tế lễ trong đời Sa-lô-môn. Chúa truyền cho Giê-rê-mi đừng cưới
vợ và nuôi con vì sự phán xét thiên thượng sắp xảy đến trên Giu-đa sẽ quét
sạch thế hệ kết tiếp (Gie Gr 16:1-4). Phần chính là sự tiên tri về phán xét,
người chỉ lôi cuốn được vài người bạn, giữa vòng họ có A-hi-cam (26:24),
Giê-đa-lia (con trai A-hi-cam, 39:14) và Ê-bết Mê-léc (38:7-13; tham chiếu
39:15-18). Người bạn thân nhất của Giê-rê-mi là Ba-rúc viên thư ký trung
thành của người, đã viết những lời của Giê-rê-mi khi tiên tri đọc cho (36:4-
32). Người được Giê-rê-mi khuyên chớ để chịu thua sự cám dỗ vì tham lam,
nhưng hãy bằng lòng với số phận mình (45:1-5). Người cũng được tiên tri
Giê-rê-mi giao cho tờ khế mua đất để ký thác (32:11-16) và đã theo tiên tri
dọc đường lưu đày tới Ê-díp-tô (43:6-7). Rất có thể là Ba-rúc cũng chịu
trách nhiệm sưu tầm lần cuối chính sách Giê-rê-mi, vì chẳng có biến có nào
ghi trong 1:1-51:64 xảy ra sau năm 580 T.C. (còn 52:1-34 là phụ đính thêm
vào sau này).
Xu hướng tự phân tích và tự kiểm thảo (10:24), Giê-rê-mi đã bộc lộ một ý
tưởng quan trọng về tính tình và nhân cách mình. Dầu tánh vốn nhút nhát
(1:6), người nhận được sự bảo đảm của Chúa là mình sẽ nên mạnh mẽ và
dũng cảm (1:18; 6:27; 15:20). Trong bản “tuyên xưng” của mình (11:18-23;
12:1-4; 15:10-21; 17:12-18; 18:18-23; 20:7-18) người đã để lộ ra những
tranh chiến sâu thẳm bên trong bản tánh của người, đôi khi phát biểu thành
khẩn nhất về cảm xúc của mình đối với Đức Chúa Trời (12:1; 15:18). Về cơ
hội, người dấn thân vào việc kêu gọi nghịch cùng những kẻ thù của cá nhân
của mình (12:1-3; 15:15; 17:18; 18:19-23) - tập quán cắt nghĩa căn nguyên
từ Anh văn “Jeremiad” chỉ về sự than vãn hoặc tràng đả kích tố cáo. Giê-rê-
mi thường biểu lộ đặc sắc khổ sở về tinh thần (4:19; 9:1; 10:19-20; 23:9) nên
được gọi là “tiên tri khóc lóc”. Nhưng sự kêu gọi thiên thượng của người là
xác thực (1:17) và Chúa thường tái quyết bổ nhiệm người làm tiên tri (xem
thí dụ 3:12; 7:2,27-28; 11:2,6; 13:12-13; 17:19-20) đã khiến Giê-rê-mi
không sợ hãi trong việc phục vụ Đức Chúa Trời của mình (15:20).
Bối cảnh:
Giê-rê-mi khởi sự nói tiên tri tại Giu-đa vào nửa đời trị vì của Giô-sia (640-
609 T.C.) và tiếp tục qua các đời tại Giô-a-cha (609). Giê-hô-gia-kim (609-
598), Giê-hô-gia-kin (598-597) và Sê-đê-kia (597-586). Ấy là thời kỳ giông
tố và khẩn trương khi sự phán quyết tất cả các nước - kể cả chính Giu-đa -
đang được đóng ấn. Các quốc gia nhỏ hơn ở phía Tây Á-châu thường là
những con cờ trong những cuộc chơi quyền lực của các cường quốc khổng
lồ như Ê-díp-tô, A-si-ri và Ba-by-lôn, vào thời Giê-rê-mi hành chức cũng
không được ngoại trừ. Ashurbanipal, nhà thống trị A-si-ri quan trọng sau
cùng, chết năm 627. Những kẻ kế vị người chẳng phải là đối thủ của
Nabopolassar, nhà sáng lập Tân đế quốc Ba-by-lôn, khởi sự trị vì năm 626
(năm Giê-rê-mi được kêu gọi làm tiên tri). Chẳng bao lâu sau khi kinh thành
Ni-ni-ve của A-si-ri thất thủ dưới sự tàn sát của liên minh Ba-by-lôn và Mê-
đi năm 612, Ê-díp-tô (chẳng phải là bạn của Ba-by-lôn) tiến quân lên hướng
bắc hòng tiếp cứu A-si-ri, sắp bị tiêu diệt. Vua Giô-sia của Giu-đa phạm lỗi
là cố gắng ngăn chặn đường tiến quân của Ê-díp-tô, nên bị chết không nhằm
lúc, gần Mê-ghi-đô năm 609 trong tay Pha-ra-ôn Nê-cô II, đó thật là kết quả
đau buồn (IISu 2Sb 35:20-24). Giê-rê-mi, đã tìm thấy tinh thần thân thiết
trong con người Giô-sia tin kính và có lẽ đã tuyên bố những sứ điệp ghi
trong Gie Gr 11:1-8; 17:19-27 nhằm thời kỳ nhà vua phát động phong trào
cải cách, đã than tiếc sự chết của Giô-sia (IISu 2Sb 35:25).
Con trai Giô-sia là Giô-a-cha (xem Gie Gr 22:11) cũng gọi là Sa-lum, chỉ
được nói sơ qua trong sách Giê-rê-mi (22:10b-12) và trong một cách không
thuận hảo. Nê-cô đã xiềng Giô-a-cha lại và đặt Ê-lia-kim, con trai khác của
Giô-sia, lên làm vua thế, đặt cho người tên Giê-hô-gia-kim. Giô-a-cha đã cai
trị khoảng thời gian ngắn là 3 tháng (IISu 2Sb 36:2) và đời trị vì của người
đánh dấu điểm thay đổi thái độ trong triều đình đối với Giê-rê-mi. Đã có lần
làm bạn thân tín của vua, nay tiên tri sa vào vòng bách hại và tù đày, thỉnh
thoảng xen kẽ việc được tự do tạm thời (Gie Gr 20:1-2; 26:8-9; 32:2-3; 33:1;
36:26; 37:12-21; 38:6-13,28).
Giê-hô-gia-kim là kẻ thù tàn bạo của Giê-rê-mi. Nhân một dịp tiện, khi bản
thảo của tiên tri được đọc cho Giê-hô-gia-kim (36:21) vua bèn dùng con dao
của thầy dạy luật cắt sách ra từng phần, 3 hay 4 cột một lần, và liệng từng
mảnh vào lò sưởi trong căn nhà mùa đông (xem 36:22-23). Tuy nhiên, theo
mạng lịnh Chúa, Giê-rê-mi đọc lại cách đơn giản những lời tiên tri cho Ba-
rúc lần thứ hai, thêm vào “nhiều lời giống nhau” (36:32).
Ngay trước giai đoạn này trong đời sống Giê-rê-mi, một biến cố quan trọng
phi thường xảy ra thay đổi cả cuộc diện lịch sử. Năm 605 T.C., quân Ê-díp-
tô bị Nê-bu-cát-nết-sa dẹp tan tai Cạt-kê-mít trên sông Ơ-phơ-rát (46:2), một
tướng tài nối ngôi cha mình là Nabopolassar như nhà thống trị Ba-by-lôn
cũng trong năm đó. Nê-cô trở về Ê-díp-tô với những tổn thất nặng và Ba-by-
lôn được ban cho cách rộng rãi cả miền Tây Á trong 70 năm kế đó. Nê-bu-
cát-nết-sa vây thành Giê-ru-sa-lem năm 605, hạ nhục Giê-hô-gia-kim (DaDn
1:1-2) và đem Đa-ni-ên cùng ba bạn Hê-bơ-rơ đi qua Ba-by-lôn (DaDn 1:3-
6). Về sau, năm 598-597, Nê-bu-cát-nết-sa tấn công Giê-ru-sa-lem lần nữa,
và vua Giê-hô-gia-kim loạn nghịch không còn được nói đến nữa. Con trai
người là Giê-hô-gia-kin cai trị trên Giu-đa chỉ trong 3 tháng (IISu 2Sb 36:9).
Giê-rê-mi dự ngôn Giê-hô-gia-kin và những kẻ theo người bị bắt làm phu tù
(Gie Gr 22:24-30), lời dự ngôn đó sau này được ứng nghiệm (24:1; 29:1-2).
Ma-tha-nia (IIVua 2V 24:17), cậu của Giê-hô-gia-kin và con trai Giô-sia,
được Nê-bu-cát-nết-sa đặt tên lại là Sê-đê-kia và đặt lên ngôi năm 597 T.C
(Gie Gr 37:1; IISu 2Sb 35:11-14). Sê-đê-kia, kẻ cai trị nhu nhược và dao
động, đôi khi cũng kết thân với Giê-rê-mi và tìm lời khuyên nhủ, nhưng có
lúc cho phép các kẻ thù của tiên tri ngược đãi và cầm tù người. Gần cuối đời
trị vì Sê-đê-kia, Giê-rê-mi thoả hiệp với người để bày tỏ ý muốn Đức Chúa
Trời cho vua hầu đổi lấy sự an toàn cho chính mình (Gie Gr 38:15-27). Dầu
vậy, sau đó tiên tri thật cũng đã bị quản thúc tại gia cho đến chừng Giê-ru-
sa-lem thất thủ năm 586 (38:28).
Trong khi cố gắng chạy trốn khỏi thành, Sê-đê-kia bị quân Ba-by-lôn đuổi
theo kịp. Trước mặt người, các con trai người bị hành quyết, sau đó chính
người bị Nê-bu-cát-nết-sa làm đui mù (39:1-7). Nê-bu-cát-nết-sa A-dan, chỉ
huy đội Ngự lâm quân khuyên Giê-rê-mi sống với Ghê-đa-lia, người Nê-bu-
cát-nết-sa đặt làm quan thống đốc xứ Giu-đa (40:1-6). Sau một thời cai trị
ngắn ngủi, Ghê-đa-lia bị các kẻ đối lập ám sát (41:1-18). Những người khác
ở Giu-đa sợ rằng Ba-by-lôn trả thù nên chạy trốn đến Ê-díp-tô, đem Giê-rê-
mi và Ba-rúc theo với họ (43:4-7). Lúc đó tiên tri có lẽ đã 70 tuổi. Những lời
cuối của người được ghi chép trong 44:24-30, câu cuối của phân đoạn này rõ
ràng là chỗ duy nhất trong Thánh Kinh chỉ về Pha-ra-ôn Hốp-ra người cai trị
Ê-díp-tô từ 589 đến 570 T.C.
Các chủ đề và sứ điệp:
Thường trưng dẫn là “Giê-rê-mi đấng tiên tri” trong suốt cả sách mang tên
người (20:2; 25:2; 28:5,10-12,15; 29:1,29; 32:2; 36:8,26; 37:2-3,6; 38:9-
10,14; 42:2,4; 43:6; 45:1; 46:1,13; 47:1; 49:34; 50:1) và ở chỗ khác (IISu
2Sb 36:12; DaDn 9:2; Mat Mt 2:17; 27:9; xem Mat Mt 16:14). Giê-rê-mi
bao giờ cũng ý thức sự kêu gọi mình đến từ Chúa (Gie Gr 1:5; 15:19) để làm
tiên tri. Như thế, người công bố trước hết những lời phán bởi chính Đức
Chúa Trời (19:2) và bởi đó chắc chắn sẽ thành nghiệm (28:9; 32:24). Giê-rê-
mi chỉ khinh thị những tiên tri giả (14:13-18; 23:13-40; 27:14-18) như Ha-
na-nia (28:1-17) và Sê-ma-gia (29:24-32). Nhiều lời dự ngôn của chính
người được ứng nghiệm trong thời gian ngắn (thí dụ (16:15; 20:4; 25:11-14;
27:19-22; 29:10; 34:4-5; 43:10-11; 44:30; 46:13), và các lời tiên tri khác -
được hoặc sẽ được - ứng nghiệm trong thời gian lâu về sau này, thí dụ (23:5-
6; 30:8-9; 31:31-34; 33:15-16).
Như đã gợi ý từ trước, hiện tượng tranh chiến vây lấy Giê-rê-mi hầu như từ
lúc bắt đầu. Người đả kích những tội của những đồng bào mình (44:23),
nghiêm khắc chỉ trích tội thờ hình tượng của họ (16:10-13,20; 22:9; 32:29;
44:2-3,8,17-19,25) - đến nỗi thậm chí họ dâng con cái mình cho các thần
ngoại quốc (7:30-34). Nhưng Giê-rê-mi thương yêu dân Giu-đa mặc dầu họ
phạm tội, và cầu nguyện cho họ (14:7,20) ngay cả khi chính Chúa truyền với
người không nên (7:16; 11:14; 14:11).
Sự phán xét là một trong những chủ đề toả khắp trong các bản viết của Giê-
rê-mi, dầu người cẩn thận chỉ tỏ rằng ăn năn cách chân thành, có thể trì hoãn
được điều không thể tránh khỏi. Người khuyên nên thuận phục Ba-by-lôn và
sứ điệp “sinh hoạt như thường lệ” cho các người bị lưu đày những lần đầu,
khiến người bị liệt vào hàng phản quốc trước cặp mắt nhiều người. Cố
nhiên, thật ra lời khuyên chống lại sự phản loạn đánh dấu người là nhà ái
quốc chân chính, thương yêu đồng bào tha thiết quá đến nỗi chẳng đành
đứng yên nhìn xem họ tự hủy diệt. Bằng cách cảnh cáo họ hãy thuận phục
chớ đừng loạn nghịch, Giê-rê-mi đã bày tỏ ý chỉ Đức Chúa Trời cho họ - bao
giờ cũng là triển vọng hợp lý nhất trong bất kỳ trường hợp nào.
Đối với Giê-rê-mi, Đức Chúa Trời là tối hậu. Thần học của tiên tri đã quan
niệm Chúa là Đấng Tạo hoá của muôn vật hiện hữu (10:12-16; 51:15-19),
toàn năng (32:27; 48:15; 51:57), là Đấng hiện diện khắp nơi (23:24). Giê-rê-
mi qui tất cả những thuộc tánh cao quí nhất cho Đức Chúa Trời mình phục
vụ (32:17-25), xem Ngài chẳng những chỉ là Chúa của Giu-đa, mà cũng là
Chúa của các nước (5:15; 18:7-10; 25:17-28; 46:1-51:64).
Đồng thời Đức Chúa Trời cũng rất quan tâm đến cá nhân từng người và
trách nhiệm của họ đối với Ngài. Sự nhấn mạnh của Giê-rê-mi về vấn đề này
(xem thí dụ, 31:29-30) giống như Ê-xê-chi-ên (xem Exe Ed 18:2-4) và cả hai
người được nổi danh là “các tiên tri của trách nhiệm cá nhân”. Sự liên hệ
không chối cãi được giữa tội lỗi và những hậu quả, quá rõ rệt đối với Giê-rê-
mi khi người quan sát nước Giu-đa yêu dấu của người trong cảnh rẫy chết,
khiến người - trong việc theo đuổi tiếng gọi thiên thượng - thành nhà truyền
giảng nẩy lửa (Gie Gr 5:14; 20:9; 23:29) của sự công chính, và lời sấm
truyền của người dầu trải bao thời gian qua chẳng hề mất chút năng lực nào.
Được gọi đến công tác chẳng thích thú gì là loan báo sự hủy diệt nước Giu-
đa (hoàn toàn bị băng hoại bởi sự trị vì lâu dài và hung ác của Ma-na-se, và
chỉ có chút cố gắng hời hợt bởi những nỗ lực của Giô-sia trong cải cách),
nhiệm vụ chính của Giê-rê-mi là treo bản cáo trạng của Đức Chúa Trời
nghịch cùng dân Ngài và tuyên bố sự kết thúc một kỷ nguyên. Mãi về sau,
Chúa sắp sửa giáng trên dân sót Ngài sự rủa sả tối hậu của giao ước (xem
LeLv 26:31-33; PhuDnl 28:49-68). Chúa sẽ hủy bỏ những điều đã làm cho
họ từ ngày Chúa đem họ ra khỏi Ê-díp-tô. Bây giờ dường như sự cuối cùng
đã đến, tấm lòng cứng cỏi và không cắt bì (không hiến dâng) của Y-sơ-ra-ên
đã niêm phong số phận cuối cùng của họ, tuyển dân của Đức Chúa Trời bị
liệng bỏ, tất cả những lời hứa và giao ước xưa đã thành ra luống nhưng.
Những sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài (và các nước), dầu
kinh khiếp, nhưng chưa phải là lời cuối, công việc cuối cùng của Đức Chúa
Trời trong lịch sử. Ơn thương xót và sự thành tín của giao ước sẽ thắng hơn
cơn giận. Vượt qua sự phán xét thì sẽ đến sự khôi phục và làm mới lại. Y-
sơ-ra-ên được khôi phục. Các dân đã chà đạp Y-sơ-ra-ên sẽ bị nghiền nát, và
các giao ước cũ (với Y-sơ-ra-ên, Đa-vít và người Lê-vi) sẽ lại được tôn
trọng. Đức Chúa Trời sẽ lập giao ước mới với dân Ngài, trong đó Ngài sẽ
viết luật pháp Ngài trên lòng họ (Gie Gr 31:31-34) và biệt riêng họ cho sự
phụng sự Ngài. Nhà Đa-vít sẽ trị vì trên họ trong sự công chính và những
thầy tế lễ trung tín sẽ phục vụ. Sự cam kết của Đức Chúa Trời đối với sự cứu
chuộc Y-sơ-ra-ên vẫn bền vững như trật tự an ninh của cuộc sáng tạo muôn
vật (33:1-26).
Sứ điệp của Giê-rê-mi chiếu sáng cả chân trời xa cũng như gần. Chính các
tiên tri giả đã công bố hoà binh cho dân tộc phản loạn, dầu sự bình an của
Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên là khác biệt với sự bất trung của dân đó.
Nhưng chính Đức Chúa Trời đã buộc Giê-rê-mi tố cáo tội lỗi và tuyên bố sự
phán xét, lại cũng là Đấng đã cho phép người loan báo rằng cơn giận thiên
thượng có kỳ hạn của nó, là 70 năm. Sau đó, sự tha tội và thanh tẩy lại đến -
vận hội mới, trong đó tất cả những sự trông đợi xưa kia, được tỉnh thức bởi
những hành động quá khứ của Đức Chúa Trời và những lời hứa cùng giao
ước Ngài, sẽ được thành nghiệm vượt trổi hơn tất cả những ơn thương xót
trước kia.
Những nét văn học
Giê-rê-mi là sách dài nhất trong Kinh Thánh, chứa đựng nhiều lời hơn các
sách khác. Dầu một số chương được viết phần chính bằng văn xuôi (7:1-34;
11:1-17; 16:1-21; 19:1-15; 21:1-14; 24:1-29:32; 32:1-45:5), kể cả phụ đính
(52:1-34), hầu hết các tiết đều nổi bật bằng hình thức thi ca. Thơ của Giê-rê-
mi cao đẹp và trữ tình không thấy ở bất cứ sách nào trong Thánh Kinh. Sáng
tạo những nhóm từ hoa mỹ, người đã cho chúng ta vô số phân đoạn đáng ghi
nhớ (thí dụ, (2:13,26-28; 7:4,11,34; 8:20,22; 9:23-24; 10:6-7,10,12-13;
13:23; 15:20; 17:5-9; 20:13; 29:13; 30:7,22; 31:3,15,29-30,31-34; 33:3;
51:10).
Những lặp lại đầy thi vị được Giê-rê-mi dùng với nghệ thuật đặc biệt (xem
thí dụ: 4:23-26; 51:20-23). Người hiểu sự hữu hiệu của việc lặp lại các nhóm
từ đáng chú ý luôn luôn. Một thí dụ là “gươm dao, đói kém và dịch lệ” được
thấy trong 15 câu riêng biệt (thí du: 14:12; 21:7,9; 24:10; 27:8,13; 29:17-18;
32:24,36; 34:17; 38:2; 42:17,22; 44:13). Người cũng dùng tài liệu viết bằng
mật mã (xem chú thích ở 25:26; 51:1,41) trong các cơ hội thích hợp. Sự lặp
lại âm đầu và sự trùng âm (giữa hai vần) cũng là một phần của văn phong
hoa mỹ của người, ví dụ như zarim wezeruha (“những người ngoại quốc.....
sàng sảy (Ba-by-lôn)”, 51:2) và pahad wapahat wapah (“sự kinh hãi, hăm
hở, bẫy dò”, 48:43; xem chú thích ở EsIs 24:17).
Giống như Ê-xê-chi-ên, Giê-rê-mi thường được chỉ dạy dùng biểu tượng để
minh giải sứ điệp mình: dây nịt lưng hư mục không dùng được nữa (Gie Gr
13:1-11), bình đất sét vỡ tan (19:1-12), ách gồm xiềng và thanh ngang (27:1-
22), đá lớn giấu trong đất sét làm gạch (43:8-13). Giá trị tượng trưng cũng
thấy trong mạng lịnh Chúa truyền cho Giê-rê-mi đừng cưới vợ và nuôi con
(16:1-4), không đi vào nhà có tang hay nơi có sự ăn uống (16:5-9), và mua
thửa ruộng ở quê nhà, A-na-tốt (32:6-15). Cũng một lẽ ấy, Chúa dùng những
thị trợ để chuyển sứ điệp của Ngài cho Giê-rê-mi: Đất sét trong tay thợ gốm
(18:1-10), hai giỏ trái vả (24:1-10).
Bố cục:
Không giống Ê-xê-chi-ên, những sấm truyền của Giê-rê-mi không được sắp
đặt theo thứ tự niên hiệu, diễn tiến của các tiết trong sách có thể phỏng định
như sau: 1:1-7:15; 26:1-29; 7:16-20:18; 25:1-38; 46:1-51:64; 36:1-8; 45:1-5;
36:9-32; 35:1-19; 21:1-24:10; 27:1-31:40; 34:1-7; 37:1-10; 34:8-22; 37:11-
38:13; 39:15-18; 32:1-33:26; 38:14-39:14; 52:1-30; 40:1-44:30; 52:31-34.
Bố cục dưới đây tiêu biểu sự phân tích sách tiên tri của Giê-rê-mi theo trật tự
hiện có ở Thánh Kinh.
I. Sự kêu gọi của tiên tri (1:1-19)
II. Những lời cảnh cáo và khuyên răn Giu-đa (2:1-35:19)
A. Những diễn từ đầu tiên (2:1-6:30)
B. Sứ điệp Đền thờ (7:1-10:25)
C. Giao ước và đồng mưu (11:1-13:27)
D. Những sứ điệp về hạn hán (14:1-15:21)
E. Tai hoạ và an ủi (16:1-17:18)
F. Mạng lịnh giữ ngày Sa-bát thánh (17:19-27)
G. Những bài học từ thợ gốm (18:1-20:18)
H. Kết tội các vua, tiên tri và dân chúng (21:1-24:10)
I. Dự ngôn về sự lưu đày tại Ba-by-lôn (25:1-29:32)
J. Những lời hứa về sự khôi phục (30:1-33:26).
K. Phụ đính lịch sử (34:1-35:19).
III. Sự đau khổ và bách hại đấng tiên tri (36:1-38:28)
A. Đốt cuốn sách của Giê-rê-mi (36:1-32)
B. Giam giữ Giê-rê-mi (37:1-38:28).
IV. Sự thất thủ Giê-ru-sa-lem và hệ lụy nó (39:1-45:5).
A. Sự thất thủ (39:1-14)
B. Sự lên ngôi và ám sát Ghê-đa-lia (40:1-41:15).
C. Di cư qua Ê-díp-tô (41:16-43:13)
D. Lời tiên tri nghịch cùng những kẻ ở Ê-díp-tô (44:1-30)
E. Phụ đính lịch sử: Lời hứa cho Ba-rúc (45:1-5)
V. Sự phán xét nghịch cùng các dân (46:1-51:64)
A. Nghịch cùng Ê-díp-tô (46:1-28)
B. Nghịch cùng Phi-li-tin (47:1-7)
C. Nghịch cùng Mô-áp (48:1-47)
D. Nghịch cùng Am-môn (49:1-6)
E. Nghịch cùng Ê-đôm (49:7-22)
F. Nghịch cùng Đa-mách (49:23-27).
G. Nghịch cùng Kê-đa và Hát-so (A-ra-bi) (49:28-33)
H. Nghịch cùng Ê-lam (49:34-39)
I. Nghịch cùng Ba-by-lôn (50:1-51:64)
VII. Phụ đính lịch sử (52:1-34).

Dẫn nhập Ca Thương


Nhan đề:
Nhan đề của sách bằng tiếng Hê-bơ-rơ là ‘ekah (“than ôi....!”), lời đầu tiên
chẳng những chỉ ở CaAc 1:1 mà còn ở trong 2:1; 4:1. Vì cớ chủ đề của sách,
nên truyền thuyết Do Thái cũng ngụ ý là qinot, “Ca thương” (Nhan đề đặt
trong bản dịch Hy Lạp Septante và bản La-tinh Vulgate).
Trước giả và niên hiệu:
Dầu trước giả sách Ca thương vô danh, và chúng ta không thể chắc chắn ai
viết, nhưng truyền thuyết Do Thái và Cơ Đốc xưa qui cho Giê-rê-mi. Một
phần đặt trên cơ sở của IISu 2Sb 35:25 (dầu những bài “ai ca” không được
đồng nhất với sách Ca thương Cựu Ước) một phần đặt trên cơ sở những bản
văn như thế trong Gie Gr 7:29; 8:21; 9:1,10,20; và một phần cũng vì điểm
tương tự về ngữ vựng, và văn phong giữa sách Giê-rê-mi và Ca thương. Lại
nữa, vì tiên tri là người mục kích sự xét đoán thiên thượng giáng trên Giê-ru-
sa-lem năm 586 T.C., nên rất hữu lý mà giả định người là trước giả của sách
đã mô tả cách sinh động biến cố đó. Nỗi đau sách Ca thương chia sẻ cảm
nhận sâu sắc về sự mất mát cặp theo sự hủy diệt thành, Đền thờ và nghi lễ
cùng sự lưu đày dân cư Giu-đa.
Niên hiệu sớm nhất có thể định cho sách là 586 T.C., và trễ nhất là 516 (khi
Đền thờ Giê-ru-sa-lem tái xây dựng được khánh thành). Tính trực tiếp sinh
động của Ca thương chứng tỏ niên hiệu sớm hơn, có lẽ trước 575.
Những nét văn học nổi bật:
Toàn bộ sách viết bằng thi ca. Mỗi bài trong số 5 bài ai ca chứa 22 câu (trừ
bài ba, có 66 câu - 3 lần 22;), phản ảnh số chữ trùng mẫu tự Hê-bơ-rơ. Tuy
nhiên, bốn bài đầu là thể thơ chữ đầu (xem các chú thích ở CaAc 1:1; 2:1;
3:1; 4:1). Ba bài ai ca thứ nhất dài bằng nhau, trong bài thứ nhất và bài thứ
hai mỗi câu (trừ 1:7) có 3 hàng tiếng Hê-bơ-rơ, trong khi bài thứ ba, mỗi câu
trong 66 câu có hai hàng tiếng Hê-bơ-rơ. Bài thứ tư ngắn hơn (mỗi câu trong
22 câu có hai hàng tiếng Hê-bơ-rơ) và bài thứ năm còn ngắn hơn nữa (mỗi
câu có một hàng tiếng Hê-bơ-rơ). Sử dụng vần chữ cái như cấu trúc hợp
thức chỉ rõ rằng dầu những bài ai ca này thống thiết đến đâu, chúng vẫn
được sáng tác với sự thận trọng nghiên cứu kỹ.
Chủ đề thần học:
Sách Ca thương không phải là sách Cựu Ước duy nhất chứa đựng các ai ca
cá nhân hoặc tập thể. (Một số lớn Thi thiên là các bài ai ca, và mỗi sách tiên
tri trừ A-ghê gồm có một hay nhiều ví dụ thuộc thể loại ai ca). Tuy nhiên,
đây là sách duy nhất gồm toàn ai ca.
Như loạt ai ca về sự hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem năm 586 T.C, sách dùng
chung trong truyền thuyết với các văn bản cổ ngoài Thánh Kinh như “Ca
thương về sự hủy diệt Nippur” bằng tiếng Sumerian. Những người Do Thái
Chánh thống có thói quen đọc lớn tiếng toàn bộ sách Ca thương vào ngày 9
tháng Ab, niên hiệu truyền thống của ngày Đền thờ Sa-lô-môn bị hủy phá
năm 586 T.C cũng như niên hiệu hủy phá Đền thờ Hê-rốt năm 70 S.C. Nhiều
người cũng đọc mỗi tuần tại Bức Tường phía Tây (được mệnh danh là “Bức
tường than khóc”) trong Cổ thành Giê-ru-sa-lem. Hơn nữa, sách thật quan
trọng trong nghi lễ truyền thống Công giáo La-mã, được đọc trong ba ngày
sau cùng của Tuần Thánh.
Truyền thuyết sau này nhắc chúng ta rằng sách Ca thương mô tả sự hủy phá
thành Giê-ru-sa-lem không phải chỉ vì cớ chính thành thôi, nhưng còn vì
những bài thần học sâu nhiệm cần học nữa. Cố nhiên, những cảnh khủng
khiếp của năm 586 T.C. không thể bỏ qua:
1. Sự tàn phá và sát hại hàng loạt nhận chìm các vua (CaAc 2:6,9; 4:20), các
quan trưởng (1:6; 2:2,9; 4:7-8; 5:12), các trưởng lão (1:19; 2:10; 4:16; 5:12),
các thầy tế lễ (1:4,19; 2:6,20; 4:16), các tiên tri (2:9,20) và thường dân
(2:10-12; 3:48; 4:6) như nhau.
2. Những bà mẹ bị đói đã sa sút đến độ ăn thịt con (2:20; 4:10).
3. Vinh hoa quyền công dân Giu-đa bị hạ xuống lưu đày nhơ nhuốc (1:3,18).
4. Một hệ thống lễ nghi và thờ phượng soạn thảo tỉ mỉ đã chấm dứt (1:4,10).
Cuối cùng, nhiều vấn đề khác quan trọng hơn cũng được điều nghiên nữa.
Trước giả sách Ca thương hiểu rõ rằng người Ba-by-lôn chỉ là tác nhân con
người cho cuộc báo ứng thiên thượng, và chính Chúa đã hủy diệt thành và
Đền thờ của Ngài (1:12-15; 2:1-8,17,22; 4:11). Hành động của Chúa chẳng
phải chuyên quyền độc đoán đâu, hiển nhiên là tội thách thức Đức Chúa
Trời, và bội nghịch giao ước là những duyên cớ của những khốn khổ cho
dân chúng (1:5,8-9; 4:13; 5:7,16). Dầu điều rất dễ hiểu là cần mong đợi sự
khóc lóc (1:16; 2:11,18; 3:48-51) và tiếng kêu xin về việc sửa chữa lại
nghịch cùng kẻ thù (1:22; 3:59-66), sự đáp ứng chính đáng theo liền ngay sự
xét đoán là mối đau thương thống hối chân thành (3:40-42). Sách mở đầu
với bài ai ca (1:1-2) nhưng kết thúc đúng ngay trong sự ăn năn (5:21-22).
Giữa sách, thần học của Ca thương đạt đến tuyệt điểm khi tập trung vào lòng
nhân từ của Đức Chúa Trời. Ngài là Chúa của hi vọng (3:21,24-25), của tình
yêu (3:22), của sự thành tín (3:23), của sự cứu rỗi (3:26). Mặc dầu mọi
chứng cớ trái ngược, “về sự thương xót của Ngài chẳng dứt. Mỗi buổi sáng
thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm” (3:22-23).
Bố cục:
I. Khốn khổ và điêu tàn của Giê-ru-sa-lem (1:1-22)
II. Cơn giận của Chúa nghịch cùng dân Ngài (2:1-22)
III. Sự than thở của Giu-đa - và căn bản cho sự yên ủi (3:1-66)
IV. Tương phản giữa quá khứ và hiện tại của Si-ôn (4:1-22)
V. Tiếng Giu-đa kêu xin Chúa tha tội (5:1-22)

Dẫn nhập Ê-xê-chi-ên


Bối cảnh:
Ê-xê-chi-ên sống trong thời đầy chính biến quốc tế. Đế quốc A-si-ri đã từng
chinh phục khu vực Sy-rô Pha-lê-tin, hủy diệt nước phía bắc Y-sơ-ra-ên (đã
thất thủ vào tay A-si-ri năm 722-721 T.C.), khởi sự sụp đổ trước những ngọn
đòn của Ba-by-lôn vừa phục hồi. Năm 612 thành lớn Ni-ni-ve của A-si-ri
sụp đổ trước sự kết hiệp của Ba-by-lôn và Mê-đi. Ba năm sau Pha-ra-ôn Nê-
cô II của Ê-díp-tô tiến lên phía bắc giúp quân A-si-ri, cố gắng đòi lại ảnh
hưởng lâu đời của Ê-díp-tô trên Pha-lê-tin và A-ram (Sy-ri). Tại Mê-ghi-đô,
vua Giô-sia của Giu-đa, có lẽ kết đồng minh với Ba-by-lôn như Ê-xê-chia
từng làm, thử chặn đứng lực lượng Ê-díp-tô nhưng bị tiêu diệt, mất mạng
nơi sa trường (xem IIVua 2V 23:29-30; IISu 2Sb 35:20-24).
Giô-a-cha, con trai Giô-sia, chỉ cai trị Giu-đa ba tháng, sau đó Nê-cô lập
Giê-hô-gia-kim, con trai khác của Giô-sia, làm vua chư hầu của người tại
Giê-ru-sa-lem (609 T.C.). Năm 605, người Ba-by-lôn đánh thắng đạo quân
Ê-díp-tô tại Cạt-kê-mít (xem Gie Gr 46:2), kế đó tràn xuống phía nam đến
tận đồng bằng Phi-li-tin. Cũng năm đó, Nê-bu-cát-nết-sa được tôn lên ngôi
vua Ba-by-lôn, và Giê-hô-gia-kim thay đổi lòng trung thành với người. Vài
năm sau, lực lượng Ê-díp-tô và quân lực Ba-by-lôn gặp nhau trong trận đánh
cách xa ở tây nam Pha-lê-tin, Giê-hô-gia-kim phản loạn cùng chủ mới của
mình.
Chẳng bao lâu Nê-bu-cát-nết-sa đáp trả bằng cách sai một lực lượng đánh
Giê-ru-sa-lem, trị phục thành năm 597 T.C. Con Giê-hô-gia-kim là Giê-hô-
gia-kin và độ 10.000 người Do Thái (xem IIVua 2V 24:14), kể cả Ê-xê-chi-
ên, bị lưu đày qua Ba-by-lôn, tại đó họ nhập chung với những người đã bị
lưu đày nhằm “năm thứ ba” đời Giê-hô-gia-kim (xem DaDn 1:1 và chú
thích). Nê-bu-cát-nết-sa đặt chú của Giê-hô-gia-kin là Sê-đê-kia, lên ngôi tại
Giê-ru-sa-lem, nhưng trong 5 hoặc 6 năm, chính vua nầy cũng nổi loạn.
Người Ba-by-lôn bèn vây thành Giê-ru-sa-lem năm 588, và tháng bảy năm
586, vách thành bị đổ và thành bị cướp bóc. Ngày 14 tháng Tám năm 586,
thành và Đền thờ bị thiêu hủy.
Dưới thời Nê-bu-cát-nết-sa và những người kế vị, Ba-by-lôn thống trị chính
trường quốc tế cho đến khi bị Si-ru, người Ba-tư (Phe-rơ-sơ) đánh bại năm
539 T.C. Nền quân chủ Y-sơ-ra-ên chấm dứt, thành Đa-vít và Đền thờ Chúa
không tồn tại nữa.
Trước giả:
Điều có thể biết được về Ê-xê-chi-ên chỉ ghi trong sách mang tên người.
người ở giữa vòng những người Do Thái bị Nê-bu-cát-nết-sa lưu đày qua
Ba-by-lôn năm 597 T.C., tại đó giữa vòng kẻ lưu đày, người nhận sự kêu gọi
và trở thành tiên tri (xem Exe Ed 1:1-3). Người cưới vợ (xem 24:15-18),
sống trong nhà riêng (xem 3:24; 8:1) và cùng với các đồng lao bị lưu đày, có
được cuộc sống tương đối tự do.
Người thuộc về gia đình tế lễ (xem chú thích ở 1:3) do đó đủ tư cách phục
vụ như thầy tế lễ. Và một thầy tế lễ kiêm tiên tri được gọi để phục vụ những
kẻ lưu đày (cắt đứt khỏi Đền thờ Chúa với những biểu tượng, sinh tế, chăm
nom tế lễ và nghi thức thờ phượng), sứ điệp của người phần lớn là về Đền
thờ (đặc biệt xem 8:1-11:25; 40:1-48:35) và các nghi lễ tại đó.
Rõ ràng Ê-xê-chi-ên là người có sự hiểu biết uyên bác, không chỉ hiểu biết
về những truyền thuyết quốc gia nhưng cả về những vấn đề lịch sử quốc tế.
Người thông thạo những vấn đề văn hoá chung, từ việc đóng tàu đến văn
chương, cách đáng kinh ngạc. Người được ban cho khối óc sáng suốt có thể
tiếp thu vấn đề rộng lớn và về việc quan hệ với chúng trong những hình ảnh
to lớn và bắt buộc. Văn phong của người thường không thiên kiến, nhưng
đôi khi cũng say đắm và phàm tục (xem 16:1-63; 23:1-49).
Hơn bất cứ tiên tri nào khác, người được chỉ thị dấn thân cách cá nhân vào
lời thiên thượng bằng hành động theo các biểu tượng tiên tri.
Cơ hội và mục đích:
Dầu Ê-xê-chi-ên sống với các bạn đồng cảnh lưu đày tại Ba-by-lôn, tiếng gọi
thiên thượng buộc người giấu kín bất cứ trông mong tự nhiên nào mà người
đã có là sớm trở về với thành Giê-ru-sa-lem nguyên vẹn. Trong bảy năm đầu
tiên của chức vụ (593-586 T.C.) người trung tín rao báo cho đồng hương Do
Thái những lời khó nghe, vồ xé tâm hồn và tiêu tan hi vọng về sự phán xét
thiên thượng: Giê-ru-sa-lem sẽ sụp đổ (xem 1:1-24:27). Tư cách của họ là
dân giao ước của Đức Chúa Trời và Giê-ru-sa-lem là thành của Đền thờ
Chúa sẽ không khiến họ sớm được tha khỏi cảnh lưu đày, hoặc Đền thờ khỏi
cảnh bị tàn phá (xem Gie Gr 29:1-30:24). Hi vọng duy nhất mà tiên tri được
phép gửi đến thính giả là hãy sống hoà thuận với nhau và với Chúa trong
chốn lưu đày.
Sau khi đã được Chúa cho biết rằng Giê-ru-sa-lem bị vây hãm và sẽ thất thủ
(Exe Ed 24:1-4), Ê-xê-chi-ên lại được Chúa mách bảo rằng vợ yêu quí người
sẽ chết. Sự vui thoả của mắt đã bị cất khỏi người cũng như Đền thờ là sự ưa
thích của mắt dân Y-sơ-ra-ên, sẽ bị cất khỏi dân đó. Người chẳng được công
khai than khóc vợ mình, như một dấu chỉ dân mình cũng không được công
khai than khóc thành Giê-ru-sa-lem (24:15-27). Kế đó người được chỉ định
công bố một loạt đoán xét trên 7 nước: Am-môn, Mô-áp, Ê-đôm, Phi-li-tin,
Ty-rơ, Si-đôn và Ê-díp-tô (25:1-32:32). Ngày của cơn thạnh nộ Đức Chúa
Trời sắp đến, nhưng không phải chỉ trên Y-sơ-ra-ên mà thôi.
Khi nhận được tin Giê-ru-sa-lem thất thủ, sứ điệp của Ê-xê-chi-ên đổi qua
lời Chúa ban hi vọng an ủi dân Ngài - họ sẽ kinh nghiệm sự phục hưng, sự
khôi phục và tương lai vinh quang khi vương quốc Đức Chúa Trời được cứu
chuộc và hoàn hảo trong thế gian này (33:1-48:35).
Niên hiệu
Dầu sách Ê-xê-chi-ên chứa nhiều niên hiệu hơn là sách tiên tri nào khác,
những lời tiên tri có thể định niên hiệu khá chính xác. Thêm vào đó, học giả
hiện đại, sử dụng khảo cổ học (những sử biên niên Ba-by-lôn trên các bảng
chữ hình nêm) và thiên văn học (những nhật, nguyệt thực định niên hiệu
chính xác ám chỉ đến trong các văn khổ cổ), cung ứng những mệnh lệnh
tương đương chính xác của niên lịch hiện đại.
Sau khi nhận sự kêu gọi vào tháng Bảy, 593 T.C., Ê-xê-chi-ên hoạt động
trong vòng 22 năm, sấm truyền chót nhận được vào tháng Tư, 571 (xem
29:17). Nếu “năm thứ 30” của 1:1 ám chỉ về tuổi của Ê-xê-chi-ên vào lúc
nhận được tiếng kêu gọi, thì sự nghiệp tiên tri của người vượt quá nhiệm kỳ
tế lễ thông thường hai năm (xem Dan Ds 4:3). Thời kỳ hoạt động của người
trùng hợp với thời điểm đen tối nhất của Giê-ru-sa-lem, đến trước sự hủy
diệt thành 586 là 7 năm và theo sau đó chừng 15 năm.
Các chủ đề:
Cựu Ước nói chung và các tiên tri nói riêng tiên báo và dạy rằng Đức Chúa
Trời cầm quyền cao cả trên cuộc sáng tạo vạn vật, trên các dân các nước và
trên dòng lịch sử. Không có chỗ nào trong Kinh Thánh mà quyền chủ động
kiểm soát của Đức Chúa Trời được bày tỏ rõ ràng và toả khắp cho bằng Ê-
xê-chi-ên. Từ chương đầu trên, mô tả cách linh động sự hiện hữu thiên
thượng tràn ngập thế giới của Ê-xê-chi-ên, cho đến nhóm từ cuối cùng về
khải tượng của Ê-xê-chi-ên (“ĐỨC GIÊ-HÔ-VA Ở ĐÓ”), sách vang dội và
lặp lại quyền cao cả của Đức Chúa Trời .
Đức Chúa Trời cao cả quyết định rằng Ngài phải được biết và thừa nhận.
Không ít hơn 65 lần xuất hiện mệnh đề (hoặc những biến thể): “Chúng nó sẽ
biết rằng Ta là Chúa Hằng Hữu”. Exe Ed 1:1-24:27 dạy rằng Đức Chúa Trời
sẽ được mặc khải trong sự thất thủ thành Giê-ru-sa-lem và sự hủy phá Đền
thờ 25:1-32:32 dạy rằng các nước nhân đó sẽ biết Đức Chúa Trời qua các sự
đoán phạt của Ngài và 33:1-48:35 hứa rằng Đức Chúa Trời sẽ được biết qua
sự khôi phục và sự đổi mới thuộc linh của Y-sơ-ra-ên.
Quyền cao cả toàn vẹn của Đức Chúa Trời cũng chứng cớ trong sự di động
của Ngài. Chúa không bị hạn chế trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ngài có thể
phản ứng với tội lỗi của dân sự Ngài bằng việc lìa bỏ nơi thánh của Ngài tại
Y-sơ-ra-ên, và Chúa có thể bởi lòng nhân từ hạ cố thăm viếng các con dân
Ngài bị lưu đày tại Ba-by-lôn.
Đức Chúa Trời tự do xét đoán, cũng tự do ban ân. Những xét đoán nghiêm
khắc của Ngài trên Y-sơ-ra-ên cuối cùng phản ảnh ân phúc của Ngài. Chúa
cho phép sự chia cắt toàn bộ đời sống tôn giáo và chính trị của Y-sơ-ra-ên
hầu cho nếp sống đổi mới của họ và sự hiện diện của Ngài sẽ được thấy như
một tặng phẩm từ Chúa của vũ trụ.
Hơn nữa, là một phát ngôn viên của Đức Chúa Trời , địa vị “con người” của
Ê-xê-chi-ên (xem chú thích ở 2:1) chứng thực rằng người được bổ nhiệm để
phục vụ Đức Chúa Trời cao cả.
Những nét văn học nổi bật:
Ba tiên tri lớn (Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên) và Sô-phô-ni thảy đều có cùng
một chuỗi căn bản của các sứ điệp: (1) Sấm truyền nghịch cùng Y-sơ-ra-ên,
(2) sấm truyền nghịch cùng các nước, (3) sự an ủi Y-sơ-ra-ên. Không có
sách nào khác mà kiểu mẫu này rõ bằng sách Ê-xê-chi-ên (xem Bố cục).
Ngoài cấu trúc minh bạch, sách Ê-xê-chi-ên còn bày tỏ cấu trúc cân đối.
Khải tượng về Đền thờ bị phạm thánh thích đáng cho sự hủy diệt, (8:1-
11:25) được cân bằng bởi khải tượng về Đền thờ được thanh tẩy và khôi
phục (40:1-48:35). Đức Chúa Trời được trình bày trong cơn nóng nẩy (1:1-
28) cũng được thấy là Đức Chúa Trời của sự an ủi (“ĐỨC GIÊ-HÔ-VA Ở
ĐÓ” 48:35). Sự kêu gọi Ê-xê-chi-ên làm người canh chừng sự xét đoán
thiên thượng (3:1-27) được cân đối với tiếng kêu gọi canh chừng thời đại
mới (33:1-33). Trong một chỗ (6:1-14) các núi Y-sơ-ra-ên nhận được lời
quở trách tiên tri, nhưng ở một chỗ khác (36:1-38) chúng lại được yên ủi.
Các sách tiên tri thường viết theo thể thi ca, dường như các tiên tri đang nói
trong văn phong nhịp nhàng, giàu tưởng tượng. Tuy nhiên, phần lớn sách Ê-
xê-chi-ên viết bằng văn xuôi, có lẽ đúng với bối cảnh chức tế lễ của người.
Những lời lặp lại của người có hiệu quả dồn dập khó quên được, và sự định
hướng chức tế lễ của người cũng phản ảnh trong loại phán quyết theo luật tố
tụng (so sánh 3:19, “Nếu ngươi răn bảo (cảnh cáo;) kẻ dữ.....”, với XuXh
21:2, “Nếu ngươi mua một đầy tớ Hê-bơ-rơ.....”;).
Sách chứa đựng bốn khải tượng (Exe Ed 1:1-3:27; 8:1-11:25; 37:1-14; 40:1-
48:35) và 12 hành động tượng trưng (3:22-26; 4:1-3; 4:4-8; 4:9-11; 4:12-14;
5:1-3; 12:1-16; 12:17-20; 21:6-7; 21:18-24; 24:15-24; 37:15-28). Năm sứ
điệp trong hình thức ngụ ngôn (15:1-8; 16:1-63; 17:1-24; 19:1-14; 23:1-49).
Ý nghĩa thần học:
Các đấng tiên tri khác phần lớn luận về sự thờ thần tượng của Y-sơ-ra-ên,
với sự băng hoại đạo đức trong nếp sinh hoạt riêng tư hay công cộng, cùng
với những mưu đồ và liên minh quốc tế mà Y-sơ-ra-ên tin cậy hơn thay vì
tin Chúa. Các tiên tri loan báo sự phán xét sắp đến của Đức Chúa Trời trên
quốc gia loạn nghịch của Ngài, nhưng cũng nói về sự cứu chuộc trong tương
lai: Một sự xuất Ê-díp-tô mới, một giao ước mới, một Giê-ru-sa-lem được
khôi phục, một triều đại Đa-vít được phục hưng, khắp thế giới thừa nhận
Chúa và Đấng Mê-si của Ngài cùng sự hoà bình giống thiên đàng.
Những diễn tiến và tầm mức của sứ điệp Ê-xê-chi-ên tương tự nhau, nhưng
người chỉ tập trung trên Y-sơ-ra-ên như dân thánh của Đền thờ thánh, thành
thánh và xứ thánh. Bằng cách làm ô uế sự thờ phượng, Y-sơ-ra-ên đã làm
cho mình bất khiết và cũng làm ô uế Đền thờ, thành và xứ. Từ sự làm ô uế
đó, Đức Chúa Trời chỉ có cách rút lui và đoán xét con dân Ngài bằng sự hủy
diệt quốc gia.
Nhưng Chúa vẫn thành tín với giao ước của Ngài, ước muốn cứu rỗi của
Ngài quá vĩ đại, Ngài phục hưng dân chúng lần nữa, lấy lòng thương xót
chăn dắt họ, tẩy thanh họ khỏi mọi điều ô uế, tái lập họ như sự biểu lộ trọn
vẹn vương quốc của Ngài trong Đất hứa dưới sự cai trị của Đa-vít, chiến
thắng mọi lực lượng dàn trận chống lại họ, bày tỏ vinh quang giữa vòng các
nước và khôi phục vinh quang sự hiện diện của Ngài nơi thành thánh.
Ê-xê-chi-ên tả cách mạnh mẽ sự vĩ đại và vinh hiển của quyền thống trị tối
cao Đức Chúa Trời (xem chủ đề) và sự thánh khiết Ngài, mà Ngài hết sức
bảo toàn. Trung tâm thần học của sách là sự bày tỏ những mục đích cứu
chuộc của Đức Chúa Trời trong lịch sử thế giới - từ thời gian Chúa phải rút
lui khỏi sự ô uế của dân giao ước Ngài cho đến tuyệt đỉnh của chương trình
cứu chuộc lớn lao của Ngài. Sứ điệp của Ê-xê-chi-ên, cuối cùng nhằm thời
mạt thế, tiên báo - thậm chí đòi buộc - những công tác tương lai của Đức
Chúa Trời trong lịch sử được Tân ước công bố.
Bố cục:
I. Những sấm truyền đoán xét nghịch cùng Y-sơ-ra-ên (1:1-24:27)
A. Khải tượng mở đầu của Ê-xê-chi-ên (1:1-3:27)
1. Sự chế ngự thiên thượng (1:1-28)
2. Trang bị và bổ nhiệm (2:1-3:15)
3. Người canh gác (3:16-21)
4. Những điều khoản xa hơn (3:22-27)
B. Những hành động tượng trưng mô tả sự vây thành Giê-ru-sa-lem (4:1-
5:17)
1. Thành Giê-ru-sa-lem trên bảng đất sét (4:1-3)
2. Sự bất động tiên tri (4:4-8)
3. Đồ ăn trong lúc bị vây hãm và phu tù (4:9-17)
4. Dao cạo thiên thượng và những kết quả của nó (5:1-17)
C. Sấm truyền giải thích sự phán xét thiên thượng (6:1-7:27)
1. Sự định tội cho các núi Y-sơ-ra-ên (6:1-14)
2. Sự chấm dứt (7:1-27)
D. Khải tượng về Đền thờ bị băng hoại (8:1-11:25)
1. Bốn sứ gớm ghiếc (8:1-18)
2. Sự hủy diệt thành (9:1-11)
3. Vinh quang Đức Chúa Trời lìa khỏi Y-sơ-ra-ên (10:1-22)
4. Kết thúc khải tượng (11:1-25)
E. Hành động tượng trưng mô tả cảnh lưu đày của Giê-ru-sa-lem (12:1-28)
1. Hành trang của người lưu đày (12:1-16)
2. Ăn uống trong kinh hãi (12:17-20)
3. Sự phán xét gần đến (12:21-28)
F. Sấm truyền giải thích sự phán xét thiên thượng (13:1-24:27)
1. Những tiên tri giả và những mê hoặc ma thuật (13:1-23)
2. Hình phạt sự thờ hình tượng (14:1-11)
3. Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp (14:12-23)
4. Giê-ru-sa-lem như cành nho bị cháy (15:1-8)
5. Giê-ru-sa-lem như đứa trẻ bị bỏ rơi ương ngạnh (16:1-43)
6. Giê-ru-sa-lem so sánh với các thành khác (16:44-63)
7. Các vua của Giê-ru-sa-lem đặt thành biểu tượng (17:1-21)
8. Cây mới (17:22-24)
9. Bài học của ba thế hệ (18:1-32)
10. Sự than vãn gấp đôi (19:14)
11. Y-sơ-ra-ên như người tái phạm cứng cỏi (20:1-49)
12. Gươm của Chúa (21:1-32)
13. Giê-ru-sa-lem là thành huyết (22:1-31)
14. Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba (23:1-49)
15. Lửa cuối cùng: Sự tận cùng của Giê-ru-sa-lem (24:1-14)
16. Sự chết của vợ Ê-xê-chi-ên và sự hủy phá Giê-ru-sa-lem (24:15-27)
II. Sấm truyền về sự phán xét nghịch cùng các dân (25:1-32:32)
A. Nghịch cùng Am-môn (25:1-7)
B. Nghịch cùng Mô-áp (25:8-11)
C. Nghịch cùng Ê-đôm (25:12-14)
D. Nghịch cùng Phi-li-tin (25:15-17)
E. Nghịch cùng Ty-rơ (26:1-28:19)
1. Sự cuối cùng của thành (26:1-21)
2. Lời than vãn về Ty-rơ (27:1-36)
3. Nghịch cùng vua Ty-rơ (28:1-19)
F. Nghịch cùng Si-đôn (28:20-24)
G. Một ghi chú Lời hứa cho Y-sơ-ra-ên (28:25-26)
H. Nghịch cùng Ê-díp-tô (29:1-32:32)
1. Như quái vật bị kết tội (29:1-16)
2. Như sự trả giá cho Nê-bu-cát-nết-sa (29:17-21)
3. Ngày gần đến (30:1-19)
4. Cánh tay Pha-ra-ôn bị gãy (30:20-26)
5. Như cây hương bách bị đốn (31:1-18)
6. Lời ca thương về Pha-ra-ôn (32:1-16)
7. Như bị giam tại vực sâu giữa vòng những kẻ không chịu cắt bì (32:17-32)
III. Sấm truyền về sự an ủi Y-sơ-ra-ên (33:1-48:35)
A. Người canh giữ (33:1-20)
B. Báo cáo và cắt nghĩa về sự thất thủ của Giê-ru-sa-lem (33:21-33)
C. Chúa như người chăn từ ái (34:1-31)
D. Sấm truyền nghịch cùng Ê-đôm (35:1-15)
E. Những lời an ủi cho các núi của Y-sơ-ra-ên (36:1-15)
F. Tóm lược thần học của Ê-xê-chi-ên (36:16-38)
G. Khải tượng về sự khôi phục quốc gia (37:1-28)
1. Quốc gia phục sinh (37:1-14)
2. Quốc gia tái thống nhất (37:15-28)
H. Chiến trận cuối cùng (38:1-39:29)
I. Khải tượng về sự thờ phượng được đổi mới (40:1-48:35)
1. Vách tường quanh Đền thờ (40:1-47)
2. Bên ngoài Đền thờ (40:48-41:26)
3. Bên trong Đền thờ (42:1-20)
4. Vinh quang Đức Chúa Trời trở lại (43:1-27)
5. Chức vụ tế lễ (44:1-31)
6. Sự phân phối đất (45:1-25)
7. Phận sự của quan trưởng (46:1-24)
8. Nước hằng sống (47:1-12)
9. Phân chia đất (47:13-48:35)

Dẫn nhập Đa-ni-ên


Trước giả, niên hiệu và tính xác thực:
Sách nêu tên Đa-ni-ên là trước giả ở mấy phân đoạn, như DaDn 9:2 và 10:2.
Việc Chúa Giê-xu đồng ý từ sự tham chiếu của Ngài đối với “sự ghê tởm đặt
tại nơi thánh” nói về tiên tri Đa-ni-ên (Mat Mt 24:15), trích dẫn ở DaDn
9:27; 11:31; 12:11. Có lẽ sách viết xong khoảng 530 T.C. Ít lâu sau khi Si-ru
chiếm thành Ba-by-lôn năm 539 T.C.
Quan điểm mở rộng cho rằng sách Đa-ni-ên phần lớn là hư cấu, những phần
chính còn lại theo phái tự cho rằng là triết học hiện đại, thì tiên tri dự ngôn
dài hạn là điều bất năng. Bởi vậy, họ cho rằng thời Ma-ca-bê (tức thế kỷ thứ
2 T.C.), sau khi tất cả thành nghiệm đã xảy ra. Nhưng chứng cớ khách quan
loại bỏ lý thuyết này vì những lý do sau đây:
1. Để tránh sự ứng nghiệm lời tiên tri dự ngôn dài hạn trong sách, người theo
thuyết định niên hiệu trễ thường chủ trương bốn đế quốc ở 2:1-49 và 7:1-28
là Ba-by-lôn, Mê-đi, Ba-tư và Hy Lạp. Nhưng trong tâm trí trước giả, người
“Mê-đi và người Ba-tư” (5:28) hiệp chung nhau làm thành đế quốc thứ hai
trong số bốn vương quốc (2:36-43). Như thế rõ ràng bốn đế quốc là Ba-by-
lôn, Mê-đô Ba-tư, Hy Lạp và La Mã.
2. Chính ngôn ngữ của sách thuyết phục về một niên hiệu sớm hơn thế kỷ
thứ 2. Chứng cớ ngôn ngữ từ các Cuộn Biển Chết (cung cấp những mẫu xác
thực các bản viết Hê-bơ-rơ và A-ram từ thế kỷ thứ 2 T.C) chứng minh rằng
các chương sách bằng tiếng Hê-bơ-rơ và A-ram trong Đa-ni-ên phải được
soạn thảo vào các thế kỷ sớm hơn. Hơn nữa, như được chứng minh mới đây,
những từ Ba-tư và Hy Lạp trong Đa-ni-ên không đòi hỏi một niên hiệu trễ.
Vài từ liệu kỹ thuật trong 3:1-30 vào thế kỷ thứ hai đã lỗi thời, đến nỗi các
dịch giả bản Septante (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp) đã dịch sai nữa.
3. Những sự thành nghiệm lời tiên tri trong Đa-ni-ên bất cứ cách nào cũng
không thể xảy ra vào thế kỷ thứ 2 được, đến nỗi yếu tố tiên tri không thể gạt
bỏ được. Chủ nghĩa tượng trưng tương quan đến vương quốc thứ tư khiến nó
rõ ràng là dự ngôn về La Mã đế quốc (xem 2:33; 7:7,19) đã không hề kiểm
soát khu vực Sy-rô Pha-lê-tin cho đến năm 63 T.C. Lại nữa, lời tiên tri về sự
đến của “Đấng chịu xức dầu, Vị Thống trị” 483 năm sau “sự ra nghị định
cho hồi hương và xây lại Giê-ru-sa-lem” (9:25) tiến hành cho đến thời Chúa
Giê-xu thi hành chức vụ.
Vậy, những bằng cớ khách quan, dường như loại bỏ lý thuyết định niên hiệu
trên và tỏ ra không có lý do gì chối bỏ quyền trước giả của Đa-ni-ên.
Chủ đề:
Chủ đề thần học của sách là Chủ quyền tối cao của Đức Chúa Trời: “Đức
Chúa Trời rất cao cai trị trong nước loài người” (5:21). Những khải tượng
của Đa-ni-ên bao giờ cũng bày tỏ Đức Chúa Trời chiến thắng (7:11,26-27;
8:25; 9:27; 11:45; 12:13). Tuyệt điểm quyền tối cao của Ngài được mô tả
trong Khải thị: “Cả vương quốc thế giới này từ nay thuộc quyền Chúa chúng
ta và Đấng Cứu Thế của Ngài. Ngài sẽ cai trị mãi mãi” (KhKh 11:15; tham
chiếu DaDn 2:44; 7:27).
Hình thức văn học:
Phần chính của sách thuộc loại tường thuật lịch sử (phần chính trong 1:1-
6:28) và tài liệu khải thị (phần chính trong 7:1-12:13). Phần sau có thể định
nghĩa là Văn chương tượng trưng, khải tượng và tiên tri, thường được soạn
thảo trong những điều kiện áp bức và nội dung Thần học phần chính là nhằm
thời mạt thế. Văn chương khải thị phần chính là văn chương khích lệ con
dân Đức Chúa Trời (xem Phần Dẫn Nhập sách Xa-cha-ri: Hình thức văn
học, cũng xem phần dẫn nhập sách Khải thị: Hình thức văn học). Về cách sử
dụng tượng trưng những con số trong văn chương khải thị, xem Phần Dẫn
Nhập cách khải thị: Những nét nổi bật đặc biệt.
Bố cục:
I. Đoạn mở đầu: Bối cảnh (1:1-21; bằng tiếng Hê-bơ-rơ)
A. Phần Dẫn Nhập lịch sử (1:1-2)
B. Đa-ni-ên và các bạn Hê-bơ-rơ bị bắt lưu đày (1:3-7)
C. Những thanh niên giữ lòng trung tín (1:8-16)
D. Những thanh niên được tôn lên các cương vị cao cấp (1:17-21)
II. Vận mệnh các nước trong thế giới (2:1-7:28; bằng tiếng A-ram, bắt đầu
tại 2:4b)
A. Nê-bu-cát-nết-sa chiêm bao về pho tượng lớn (2:1-49)
B. Nê-bu-cát-nết-sa dựng pho tượng vàng và truyền các dân phải thờ (3:1-
29)
C. Nê-bu-cát-nết-sa chiêm bao về cây lớn (4:1-37)
D. Bên-sát-sa và sự sụp đổ Ba-by-lôn (5:1-31)
E. Sự giải cứu Đa-ni-ên (6:1-27)
F. Chiêm bao Đa-ni-ên về bốn con thú (7:1-28)
III. Vận mệnh của nước Y-sơ-ra-ên (8:1-12:13; bằng tiếng Hê-bơ-rơ)
A. Khải tượng của Đa-ni-ên về chiên đực và dê đực (8:1-27)
B. Lời cầu nguyện của Đa-ni-ên và khải tượng của người về 70 (tuần lễ) “số
7” (9:1-27)
C. Khải tượng của Đa-ni-ên về tương lai Y-sơ-ra-ên (10:1-12:13)
1. Khải thị về những sự hầu đến (10:1-3)
2. Khải thị từ thiên sứ đem tin (10:4-11:1)
3. Các lời tiên tri về Ba-tư và Hy Lạp (11:2-4)
4. Những lời tiên tri về Ê-díp-tô và Sy-ri (11:5-35)
5. Những lời tiên tri về Kẻ địch lại Chúa Cứu Thế (11:36-45)
6. Tai họa và sự giải cứu (12:1)
7. Hai sự sống lại (12:2-3)
8. Những chỉ thị cho Đa-ni-ên (12:4)
9. Kết luận (12:5-13)

Dẫn nhập Ô-sê


Trước giả và niên hiệu:
Ô-sê con của Bê-ê-ri nói tiên tri vào giữa thế kỷ thứ 8 T.C. Chức vụ của
người khởi sự cùng hoặc ít lâu sau A-mốt. A-mốt đe dọa sự phán xét của
Đức Chúa Trời trên Y-sơ-ra-ên nằm trong tay một kẻ thù ẩn danh. Ô-sê nói
rõ kẻ thù đó là A-si-ri (OsHs 7:11; 8:9; 10:6; 11:11). Phán đoán từ các vua
nêu lên trong 1:1, Ô-sê chắc đã nói tiên tri ít nhất 38 năm, dầu hầu như
không biết gì từ nguồn nào khác ngoài sách của người. Người là tiên tri duy
nhất chép sách đến từ nước phía bắc (Y-sơ-ra-ên), và lời tiên tri của người
chủ yếu hướng về nước đó. Nhưng vì hoạt động tiên tri của người được ghi
niên hiệu bằng cách tham khảo với các vua Giu-đa, nên sách có thể được
chép trong nước Giu-đa sau khi thủ đô nước phía bắc là Sa-ma-ri thất thủ
(722-721 T.C.) - sự gợi ý này bởi các ám chỉ đến Giu-đa trong suốt cả sách
(1:7,11; 4:15; 5:5,10,13; 6:4,11; 10:11; 11:12; 12:2). Có phải chính Ô-sê
trước tác sách để bảo toàn các lời tiên tri của mình hay không, chẳng ai biết.
Sách Ô-sê đứng đầu trong phần Thánh Kinh gọi là Sách của Mười Hai
(trong Ngoại Kinh: xem Ecclesiasticus 49:10) hoặc Các Tiên tri nhỏ (tên ám
chỉ về sự ngắn gọn của các sách này so với các sách Ê-sai, Giê-rê-mi và Ê-
xê-chi-ên).
Bối cảnh:
Ô-sê sống trong những ngày bi đát cuối cùng của nước phía bắc, trong thời
sáu vua (theo sau Giê-rô-bô-am II) cai trị trong vòng 25 năm (IIVua 2V
15:8-17:41). Bốn vua (Xa-cha-ri, Sa-lum, Phê-ca-gia, Phê-ca) bị mưu sát bởi
những người kế vị khi còn tại chức, và một (Ô-sê) bị bắt trong chiến trận chỉ
có một (Mê-na-hem) có con trai nối ngôi. Các vua này, được Đức Chúa Trời
ban cho Y-sơ-ra-ên “trong cơn giận” và cất đi trong cơn “thịnh nộ” (OsHs
13:11), và trôi nổi “như bọt trên mặt nước” (10:7). “Máu chồng trên máu”
(4:2). A-si-ri đang bành trướng về hướng tây, và Mê-na-hem chấp nhận phục
vương quốc đó và nộp cống thuế (IIVua 2V 15:19-20). Nhưng ít lâu sau,
năm 733 T.C, Y-sơ-ra-ên bị A-si-ri chia cắt vì âm mưu của Phê-ca (người
cướp ngôi Y-sơ-ra-ên bằng cách giết Phê-ca-gia, con trai của Mê-na-hem và
kẻ kế vị người). Chỉ còn địa phận Ép-ra-im và Tây Ma-na-se để lại cho vua
Y-sơ-ra-ên. Kế đó, vì sự bất trung của vua Ô-sê (kế vị Phê-ca) mà Sa-ma-ri
bị chiếm và dân thành bị bắt lưu đày năm 722-721, đưa nước phía bắc đến
chỗ tận cùng.
Chủ đề và sứ điệp:
Phần thứ nhất của sách (OsHs 1:1-3:5) thuật chuyện đời sống gia đình của
Ô-sê như một biểu tượng (giống như chủ nghĩa tượng trưng đời sống của Ê-
sai, Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên) để truyền đạt sứ điệp mà tiên tri nhận từ Chúa
cho dân Ngài. Đức Chúa Trời truyền cho Ô-sê đi cưới người vợ ngoại tình là
Gô-me, và ba con trai họ, mỗi con được đặt cho một tên tượng trưng một
phần của sứ điệp báo điềm. 2:1-23 xen kẽ giữa mối liên hệ của Ô-sê và Gô-
me, và tiêu biểu mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên. Các con
được truyền phải đuổi người mẹ bất trung ra khỏi nhà, nhưng cốt để nàng
sửa đổi tâm tánh, chớ chẳng phải tống khứ nàng đi luôn. Tiên tri được lịnh
tiếp tục yêu nàng, và đem nàng về và cô lập nàng một thời gian (3:1-5). Mối
tình này tiêu biểu cho sự liên hệ của Chúa với Y-sơ-ra-ên (2:4,9,18), dân đã
bất trung với Chúa đi thờ lạy các thần tượng Ca-na-an, như là nguồn ban sự
sung mãn cho họ. Y-sơ-ra-ên phải trải qua một thời lưu đày (7:16; 8:14;
9:3,6,17; 11:5). Nhưng Chúa vẫn còn thương yêu con dân giao ước Ngài và
mong mỏi đem họ trở về, như Ô-sê đã đem Gô-me trở về vậy. Sự trở về này
mô tả bằng hình ảnh xuất hành khỏi Ê-díp-tô và định cư trong Ca-na-an
(1:11; 2:14-23; 3:5; 11:10-11; 14:4-7). Ô-sê thấy các kinh nghiệm quá khứ
của Y-sơ-ra-ên với Chúa như mẫu mực căn bản, hoặc điển hình, về cách
Đức Chúa Trời đối phó với con dân Ngài trong tương lai.
Phần thứ hai của sách (4:1-14:9) ghi những chi tiết về sự dính líu của Y-sơ-
ra-ên vào tôn giáo Ca-na-an, nhưng khó mà thiết lập được bố cục tài liệu
theo hệ thống. Giống như các sách tiên tri khác, Ô-sê thực hiện tiếng gọi dân
chúng ăn năn. Y-sơ-ra-ên muốn chọn khỏi bị tiêu diệt thì phải lìa bỏ các thần
tượng và trở về cùng Chúa (6:1-11; 14:1-9). Tin tức thu thập từ các tài liệu
phát hiện tại Ugarit (có từ thế kỷ thứ 15 T.C) và từ bản viết của nhà chép sử
Cơ-đốc đầu tiên Eusebius cho chúng ta biết rõ hơn về những tập tục tôn giáo
mà Ô-sê đã phản đối.
Ô-sê thấy sự không thừa nhận Đức Chúa Trời (4:6; 13:4) là vấn đề căn bản
của Y-sơ-ra-ên. Sự liên hệ của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên là sự liên
hệ về tình thương (2:19; 4:1; 6:6; 10:12; 12:6). Mối thân tình của liên hệ
giao ước giữa Đức Chúa Trời và Y-sơ-ra-ên, được minh hoạ trong phần thứ
nhất của sách bằng mối liên hệ vợ chồng, về sau lại được mở rộng đến sự
liên hệ cha con (11:1-4). Bất trung với Chúa là tà dâm thuộc linh (4:13-14;
5:4; 9:1; so Gie Gr 3:1-25). Y-sơ-ra-ên đã xây qua thờ thần Ba-anh, và đã
dâng sinh tế trên các nơi cao ngoại đạo bao gồm sự hành dâm tại các nơi
thánh (OsHs 4:14), và thờ tượng bò con tại Sa-ma-ri (8:5; 10:5-6; 13:2).
Cũng có sự mưu đồ quốc tế (5:13; 7:8-11) và duy vật chủ nghĩa. Tuy nhiên,
mặc dầu Đức Chúa Trời kết tội và ngôn ngữ khắc nghiệt với sự phán xét
không thể tránh được loan báo, mục đích chính của sách vẫn là công bố lòng
thương xót và tình yêu của Đức Chúa Trời, nên cuối cùng Ngài không thể bỏ
Y-sơ-ra-ên.
Những vấn đề đặc biệt:
Trong sách Ô-sê ít nhất có hai vấn đề rắc rối. Rắc rối thứ nhất liên hệ về tánh
chất của câu chuyện thuật trong 1:1-3:5 và đặc tánh của Gô-me. Trong khi
có vài nhà giải kinh nghĩ rằng câu chuyện chỉ là ẩn dụ về mối liên hệ giữa
Đức Chúa Trời và Y-sơ-ra-ên có ý kiến khác lại cho là, để hợp lý hơn, câu
chuyện phải được thừa nhận theo nghĩa đen. Giữa vòng các nhà giải kinh sau
này, có người nhấn mạnh rằng lúc đầu Gô-me trung tín, nhưng về sau trở
thành bất trung còn người khác lại cho rằng nàng bất trung ngay từ trước khi
làm lễ cưới.
Rắc rối thứ hai của sách là sự liên hệ giữa 3:1-5 với 1:1-10. Dầu không nói
đến con cái trong 3:1-5, vài nhà giải kinh cho rằng hai chương này là hai bài
tường thuật khác nhau của cùng một hồi cảnh. Tuy nhiên, sự giải thích
truyền thống rất có thể là 3:1-5 là sự tiếp xúc của 1:1-10 - tức là, sau khi Gô-
me tỏ bằng cớ là bất trung, Ô-sê vẫn được chỉ thị đem nàng trở về.
Bố cục:
I. Tiêu đề (1:1)
II. Người vợ thất tín và người chồng trung tín (1:2-3:5)
A. Con cái là dấu hiệu (1:2-2:1)
B. Người vợ bất trung (2:2-23)
1. Chúa phán xét Y-sơ-ra-ên (2:2-13)
2. Chúa khôi phục Y-sơ-ra-ên (2:14-23)
C. Người chồng trung tín (3:1-5)
III. Nước bất trung và Đức Chúa Trời thành tín (4:1-14:9)
A. Sự bất trung của Y-sơ-ra-ên (4:1-6:3)
1. Bản cáo trạng chung (4:1-3)
2. Duyên cớ tuyên bố và kết quả được mô tả (4:4-19)
3. Sứ điệp đặc biệt cho dân chúng và các lãnh tụ (5:1-15)
4. Lời tự bào chữa buồn thảm (6:1-3)
B. Sự hình phạt Y-sơ-ra-ên (6:4-10:15)
1. Trường hợp được tuyên bố (6:4-7:16)
2. Tuyên bố phán quyết (8:1-9:17)
3. Tóm tắt và kêu gọi (10:1-15)
C. Tình yêu thành tín của Chúa (11:1-14:9)
1. Tình yêu phụ tử của Đức Chúa Trời (11:1-11)
2. Y-sơ-ra-ên bị hình phạt về sự bất trung (11:12-13:16)
3. Y-sơ-ra-ên được khôi phục sau khi ăn năn (14:1-9)

Dẫn nhập Giô-ên


Trước giả:
Không thể đồng nhất tiên tri Giô-ên với người nào khác trong số 12 nhân vật
trong Cựu Ước mang cùng tên đó. Người không được nói đến ngoài hai sách
Giô-ên và Công vụ (Cong Cv 2:16). Các huyền thoại ngoài Thánh Kinh về
người không có bằng cớ xác thực. Cha người là Phê-thu-ên cũng không ai
biết rõ (Gio Ge 1:1). Suy đoán từ mối quan tâm của người về Giu-đa và Giê-
ru-sa-lem (xem 2:32; 3:1,6,8,16-20) thì rất có thể Giô-ên sống tại khu vực
đó.
Niên hiệu:
Sách không chứa đựng tham khảo nào về các biến cố lịch sử có thể định niên
hiệu, nhưng rất có thể là sách được viết vào thế kỷ thứ chín trước công
nguyên. Tuy nhiên, nhiều nhà giải kinh định niên hiệu trễ cho sách là thời kỳ
hậu lưu đày (thế kỷ thứ 6), sau A-ghê và Xa-cha-ri. Trong cả hai trường hợp,
sứ điệp của sách không chịu ảnh hưởng gì về niên đại cả.
Sách Giô-ên có ngôn ngữ gây ấn tượng tương đương với các sách A-mốt,
Mi-chê, Sô-phô-ni, Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên. Những mối liên hệ văn học
của sách này được xác định theo quan điểm của người định niên hiệu cho
sách Giô-ên. Nếu sách được viết sớm, các tiên tri kia đã mượn các nhóm từ
của người, còn nếu sách được viết trễ thì ngược lại. Vài học giả chủ trương
rằng tất cả các tiên tri này đều rút ra ít nhiều từ các truyền thống văn học tôn
giáo mà họ cùng các độc giả của họ chia sẻ chung - về nghi thức tế lễ và các
nghi thức khác nữa.
Sứ điệp:
Giô-ên coi dịch cào cào ồ ạt và hạn hán nghiêm trọng tàn phá Giu-đa là điềm
báo hiệu về “ngày lớn và kinh khiếp của Đức Giê-hô-va” (2:31). (Nạn cào
cào mà người nêu lên trong 1:4; 2:25 được hiểu cách tốt nhất là có thật, chớ
chẳng phải là biểu tượng, ngụ ngôn chỉ về Ba-by-lôn, Mê-đô Ba-tư, Hy Lạp
và La Mã, như vài nhà giải kinh quan niệm). Đương đầu với cơn khủng
hoảng này, người kêu gọi tất cả mọi người hãy ăn năn: già hay trẻ (1:2-3),
người say sưa (1:5), nông dân (1:11) và các thầy tế lễ (1:13). Người mô tả
cào cào là đạo binh của Chúa và thấy chúng đến như để nhắc nhở rằng ngày
của Chúa rất gần. Người không bày tỏ quan điểm phổ thông cho rằng ngày
đó sẽ là ngày đoán xét các nước nhưng là sự giải phóng và phước lành cho
Y-sơ-ra-ên. Thay vào đó - cùng với Ê-sai (EsIs 2:10-21), Giê-rê-mi (Gie Gr
4:6), A-mốt (AmAm 5:18-20) và Sô-phô-ni (SoXp 1:7-18) - người mô tả
ngày đó cũng là ngày đoán phạt Y-sơ-ra-ên bất trung nữa. Sự khôi phục và
phước lành sẽ chỉ đến sau sự phán xét và ăn năn.
Bố cục:
I. Nhan đề (Gio Ge 1:1)
II. Giu-đa kinh nghiệm nếm trước Ngày của Chúa (1:2-2:17).
A. Lời kêu gọi than khóc và cầu nguyện (1:2-14)
B. Lời loan báo về Ngày của Chúa (1:15-2:11)
C. Lời kêu gọi ăn năn và cầu nguyện (2:12-17)
III. Giu-đa được bảo đảm về sự cứu rỗi trong Ngày của Chúa (2:18-3:21)
A. Chúa khôi phục Giu-đa (2:18-27)
B. Chúa làm mới lại con dân Ngài (2:28-32)
C. Ngày của Chúa đến (3:1-21)
1. Các dân bị xét đoán (3:1-16)
2. Con dân Chúa được ban phước (3:17-21)

Dẫn nhập A-mốt


Trước giả:
A-mốt là người Thê-cô-a (AmAm 1:1), một làng nhỏ chừng 6 dặm về phía
nam Bết-lê-hem và cách Giê-ru-sa-lem 11 dặm. Người không phải là một
cận thần trong triều như Ê-sai, hoặc một thầy tế lễ như Giê-rê-mi. Người
sống bằng nghề chăn bầy và chăm sóc cây vả rừng (1:1;7:14-15). Không rõ
người có sở hữu bầy chiên hay các cây đó không hay chỉ là người làm thuê
thôi. Cách dùng chữ khôn khéo của người và sự hiểu biết rộng về lịch sử và
thế giới loại trừ ý nghĩ cho rằng người chỉ là nông dân dốt nát. Dầu quê
người ở Giu-đa, nhưng người được sai đến loan báo sự phán xét của Đức
Chúa Trời trên đất nước phía bắc (Y-sơ-ra-ên). Có lẽ chủ yếu người phục vụ
tại Bê-tên (7:10-13; xem chú thích ở SaSt 12:8), nơi thánh chính yếu của Y-
sơ-ra-ên, tại đó các chức sắc cao cấp thuộc nước phía bắc thường đến thờ
phượng.
Sách gom góp những lời tiên tri của người lại với nhau dưới hình thức có
xếp đặt cẩn thận để đọc như một sách. Sách cũng cung hiến nếu có, những
đầu mối về thứ tự niên đại về các sứ điệp người loan báo - có lẽ người đã lặp
lại nhiều cơ hội để truyền đạt tới mọi người đến thờ phượng. Sách cũng loan
báo cho cả nước phía nam (do đó mà có những lời tham khảo về Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem)
Niên hiệu và tình hình lịch sử:
Theo câu thứ nhất, A-mốt nói tiên tri trong các đời vua Ô-xia trị vì trên Giu-
đa (792-740 T.C.) và Giê-rô-bô-am II cai trị trên Y-sơ-ra-ên (793-753). Phần
chính chức vụ của người có lẽ thực hiện khoảng 760-750. Cả hai nước đang
trải qua thời phồn thịnh và đạt tới những cao điểm về chính trị và quân sự
(tham chiếu IIVua 2V 14:23-15:7; IISu 2Sb 26:1-23). Nhưng đó cũng là thời
thờ thần tượng, quá miệt mài trong nếp sống xa hoa, vô luân, băng hoại về
phương thức xét xử, và áp bức kẻ nghèo. Hậu quả là Đức Chúa Trời phải
sớm đem cảnh lưu đày đến cho miền bắc bởi A-si-ri (722-721).
Vào thời đó Y-sơ-ra-ên được an ninh về chính trị và tự mãn về phần thuộc
linh. Chừng 40 năm trước nhằm cuối chức vụ mình, Ê-li-sê đã nói tiên tri về
sự dấy lên về quyền lực của Y-sơ-ra-ên (IIVua 2V 13:17-19), và mới gần
hơn, Giô-na đã nói tiên tri về sự khôi phục trong vinh quang chưa từng thấy
kể từ thời Sa-lô-môn (IIVua 2V 14:25). Bởi vậy, dân sự cảm thấy chắc chắn
họ đương ở trong ân phúc tốt lành của Đức Chúa Trời. Nhưng sự thịnh
vượng chỉ khiến Y-sơ-ra-ên tăng thêm đồi trụy về phần đạo đức vào tôn
giáo. Người ta đã quên những sự đoán phạt quá khứ của Đức Chúa Trời về
tội bất trung, và sự kiên nhẫn của Chúa đã tới cao điểm - nên Ngài phái A-
mốt đến loan báo.
Với A-mốt, những sứ điệp của các tiên tri được bảo toàn trong hình thức lâu
bền, hiệp với những sách cập theo Y-sơ-ra-ên qua cảnh tan rã hầu đến và
còn vượt xa hơn nữa. (Vì A-mốt là người sống đồng thời với Ô-sê và Giô-
na, xem các Phần Dẫn Nhập về các sách tiên tri đó).
Chủ đề và sứ điệp:
Chủ đề chiếm ưu thế được phát biểu rõ ràng trong AmAm 5:24 kêu gọi sự
công bằng xã hội như sự bày tỏ cần thiết lòng tin kính chân thật. A-mốt là
phát ngôn viên đầy uy lực về sự công chính và công lý Đức Chúa Trời, trái
ngược với Ô-sê nhấn mạnh đến tình yêu, ân phúc, thương xót và tha thứ của
Đức Chúa Trời. A-mốt tuyên bố rằng Đức Chúa Trời sắp sửa xét đoán dân
bất trung, không vâng phục và bội giao ước. Mặc cho sự lựa chọn đặc biệt
của Chúa đối với Y-sơ-ra-ên và những sự nhân từ của Ngài đối với họ trong
thời kỳ xuất hành khỏi Ê-díp-tô và chinh phục, cũng như trong thời Đa-vít
và Sa-lô-môn, con dân Chúa tiếp tục không tôn trọng và vâng lời Ngài.
Nhiều miếu thờ tại Bê-tên và các nơi thờ phượng khác thường rập theo tà
giáo, và Y-sơ-ra-ên đã có quan niệm trần tục ngay cả trong lễ nghi mà chính
Chúa đã chỉ thị cho. Họ nghĩ rằng sự thi hành những lễ nghi là tất cả điều
Đức Chúa Trời đòi hỏi, và xong việc đó rồi, họ có thể làm gì họ thích - Một
ý niệm bất chấp tà giáo. Không có sự hứa nguyện vâng giữ luật pháp Đức
Chúa Trời, họ chẳng có căn bản cho tiêu chuẩn xử thế. A-mốt lên án những
ai làm cho mình giàu sang quyền thế trên xương máu người khác. Những
người đó đã có được hai toà nhà nguy nga (3:15), đồ đạc mắc tiền và bàn ăn
đầy cao lương mỹ vị bằng cách lừa gạt, làm cong quẹo công lý và chà đạp
dân nghèo khiến họ mất hết mọi điều mình có.
Sự phán xét sắp xảy đến của Đức Chúa Trời trên Y-sơ-ra-ên chẳng phải chỉ
là đòn hình phạt để cảnh cáo (như thường làm trước kia, 4:6-11) bèn là sự
hủy diệt hầu như toàn bộ. Việc không ngờ sắp sửa xảy ra: bởi họ không
trung tín dâng đời sống mình cho chính Chúa làm chủ, Đức Chúa Trời sẽ
dùng cánh tay của nước ngoại đạo nhổ bật tuyển dân của Ngài lên. Dầu vậy,
nếu họ ăn năn, vẫn còn hi vọng “Đức Chúa Trời toàn năng (sẽ) thương xót
dân sót lại” (5:15; xem 5:4-6,14). Thật ra, Chúa dành một tương lai vinh
hiển cho con dân Ngài ở bên kia sự phán xét sắp xảy đến. Nhà Đa-vít sẽ lại
cai trị trên Y-sơ-ra-ên - thậm chí mở rộng quyền thống trị trên nhiều nước -
và Y-sơ-ra-ên một lần nữa sẽ được an ninh trong Đất Hứa, vui hưởng rượu
nho và trái cây (9:11-15). Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Chúa của lịch sử,
sẽ không từ bỏ tuyển dân Ngài hoặc chương trình cứu chuộc Ngài đã chọn.
Đức Chúa Trời mà A-mốt nói đến không chỉ là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-
ên thôi. Ngài còn quản trị các dân, đem họ đến chỗ thực tại (9:7), kêu gọi họ
đến tính sổ (giải thích) (1:3-2:3). Chúa cũng dùng dân này nghịch cùng dân
khác để thực hiện mục đích của Ngài (6:14). Ngài là Vua Lớn thống trị cả vũ
trụ (4:13; 5:8; 9:5-6). Vì Chúa là Đấng Chí Cao, Chí Đại, Đức Chúa Trời
của Y-sơ-ra-ên, cầm trong tay lịch sử và vận mệnh của các dân cùng thế
giới. Y-sơ-ra-ên phải biết Ngài không chỉ là Chúa tương lai họ, nhưng cũng
là Chúa của tất cả, và Ngài có mục đích và mối quan tâm vượt cả biên cương
của họ. Y-sơ-ra-ên là một dân tộc độc đáo, nhưng không phải độc quyền
xưng nhận Chúa. Y-sơ-ra-ên cần nhớ không chỉ các hứa nguyện giao ước
của Chúa với họ, nhưng phải nhớ những nghĩa vụ giao ước của họ đối với
Ngài nữa (xem thêm ở sách tiên tri Giô-na).
Bố cục:
I. Tiêu đề (1:1)
II. Phần dẫn nhập sứ điệp của A-mốt (1:2)
III. Sự phán xét trên các dân (1:3-2:16)
A. Sự phán xét trên A-ram (1:3-5)
B. Sự phán xét trên Phi-li-tin (1:6-8)
C. Sự phán xét trên Phê-ni-xi (1:9-10)
D. Sự phán xét trên Ê-đôm (1:11-12)
E. Sự phán xét trên Am-môn (1:13-15)
F. Sự phán xét trên Mô-áp (2:1-3)
G. Sự phán xét trên Giu-đa (2:4-5)
H. Sự phán xét trên Y-sơ-ra-ên (2:6-16)
1. Sự ức hiếp tàn nhẫn đối với người nghèo (2:6-7a)
2. Sự xúc phạm tôn giáo không kiềm chế được (2:7b-8)
3. Địa vị tương phản của người Y-sơ-ra-ên (2:9-12)
4. Hệ thống áp bức sẽ hư vong (2:13-16)
IV. Lời sấm nghịch cùng Y-sơ-ra-ên (3:1-5:17)
A. Sự phán xét trên tuyển dân (3:1-15)
1. Loan báo sự phán xét của Chúa (3:1-2)
2. Sự loan báo được chứng minh (3:3-8)
3. Sự hình phạt được chứng minh (3:9-15)
B. Sự phán xét trên dân không ăn năn (4:1-13)
1. Sự phán xét trên những kẻ chức quyền trong xã hội (4:1-3)
2. Sự bại hoại của nếp sống tôn giáo (4:4-5)
3. Những tai hoạ quá khứ không đem lại sự ăn năn (4:6-11)
4. Chẳng hi vọng cho dân cứng lòng (4:12-13)
C. Sự phán xét trên dân không công bằng (5:1-17)
1. Bài ai điếu (5:1-3)
2. Khuyên tìm sự sống (5:4-6)
3. Bản cáo trạng về những bất công (5:7-13)
4. Khuyên đến sự sống (5:14-15)
5. Sự thịnh vượng sẽ đổi thành buồn thảm (5:16-17)
V. Loan báo về sự lưu đày (5:18-6:14)
A. Sứ điệp rủa sả nghịch cùng tôn giáo băng hoại của Y-sơ-ra-ên (5:18-27).
B. Sứ điệp rủa sả nghịch cùng sự kiêu ngạo tự mãn của Y-sơ-ra-ên (6:1-7).
C. Sự phán xét đáng tin trên quốc dân kiêu ngạo và bất công (6:8-14).
VI. Những khải tượng về sự báo trả thiên thượng (7:1-9:10)
A. Sự phán xét bớt nghiêm khắc (7:1-6)
1. Đám cào cào (7:1-3)
2. Đám lửa thiêu đốt (7:4-6)
B. Sự phán xét không thương xót (7:7-9:10).
1. Dây chuẩn mực (7:7-17)
a. Khải tượng (7:7-9)
b. Thách thức và biện minh (7:10-17)
2. Giỏ trái cây chín (8:1-14)
a. Khải tượng (8:1-3)
b. Sự giải nghĩa (8:4-14)
3. Chúa ở bên bàn thờ (9:1-10)
a. Khải tượng (9:1-4)
b. Sự giải nghĩa (9:5-10)
VII. Tương lai phước hạnh của Y-sơ-ra-ên được lặp lại (9:11-15)
A. Sự phấn hưng của nhà Đa-vít (9:11-12)
B. Sự khôi phục Y-sơ-ra-ên tại Đất Hứa (9:13-15)

Dẫn nhập Áp-đia


Trước giả:
Tên trước giả là Áp-đia, có nghĩa là “tôi tớ (hoặc người thờ phượng) Đức
Giê-hô-va”. Đó là tên thường đặt (xem IVua 1V 18:3-16; ISu1Sb 3:21; 7:3;
8:38; 9:16; 12:9; 27:19; IISu 2Sb 17:7; 34:12; Exo Er 8:9; NeNe 10:5;
12:25). Không thấy nói đến tên cha hoặc sinh quán người.
Niên hiệu và nơi viết sách:
Có sự tranh luận về niên hiệu và nơi soạn sách. Định niên hiệu cho lời tiên
tri là vấn đề chính liên hệ đến ApOv 1:11-14 với một trong hai biến cố đặc
biệt trong lịch sử Y-sơ-ra-ên.
1. Việc người Phi-li-tin và người A-rạp xâm chiếm Giê-ru-sa-lem trong đời
vua Giô-ram (853-841 T.C.) xem IIVua 2V 8:20-22; IISu 2Sb 21:8-20.
Trong trường hợp này, Áp-đia sống đồng thời với Ê-li-sê.
2. Những cuộc tấn công của Ba-by-lôn vào Giê-ru-sa-lem (605-586). Áp-đia
cùng sống đồng thời với Giê-rê-mi. Rất có thể là sự lựa chọn này đúng hơn.
Những câu tương đương giữa ApOv 1:1-9 và Gie Gr 49:7-22 gây cho nhiều
người gợi ý có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Áp-đia và Giê-rê-mi, nhưng có lẽ
cả hai tiên tri đều rút từ một nguồn tin chung mà chúng ta không có cách nào
biết được.
Hiệp nhất và chủ đề:
Không có lý do gì để nghi ngờ sự hiệp nhất của sách tiên tri ngắn này. Chủ
đề của sách là Ê-đôm, kiêu ngạo về chính sự an ninh mình, nhìn sự tàn phá
Y-sơ-ra-ên cách thèm muốn bởi các cường quốc ngoại bang. Tuy nhiên, việc
Ê-đôm dự phần trong tai hoạ đó đã đem đến cơn giận của Đức Chúa Trời.
Chính Ê-đôm sẽ bị hủy diệt, nhưng núi Si-ôn sẽ được giải cứu, và cường
quốc của Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng.
Những sinh hoạt cừu địch của Ê-đôm trải qua hàng thế kỷ tồn tại của Y-sơ-
ra-ên. Những lời tham khảo Kinh Thánh sau đây giúp chúng ta hiểu sự liên
hệ giữa Y-sơ-ra-ên và Ê-đôm: SaSt 27:41-45; 32:1-21; 33:1-20; 36:1-43;
XuXh 15:15; Dan Ds 20:14-21; PhuDnl 2:1-6; 23:7; ISa1Sm 22:1-23; với
Thi Tv 52:1-9; IISa 2Sm 8:13-14; IIVua 2V 8:20-22; 14:7; Thi Tv 83:1-18;
Exe Ed 35:1-15; Gio Ge 3:18-19; AmAm 1:11-12; 9:12.
Vì cớ người Ê-đôm có liên hệ với Y-sơ-ra-ên (ApOv 1:10), sự cừu địch của
họ càng đáng khiển trách hơn. Ê-đôm chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc
không cứu giúp Y-sơ-ra-ên mà còn công khai xâm lấn. Sự kiện Đức Chúa
Trời từ bỏ Ê-sau (SaSt 25:23; MaMl 1:3; RoRm 9:13) cũng không giải tội
cho Ê-đôm được. Ê-đôm thiển cận và tự mãn trong các thành lũy trên núi
cao, sẽ bị đánh bật ra khỏi vị trí và bị cướp phá. Còn Y-sơ-ra-ên sẽ được
thịnh vượng vì cớ Đức Chúa Trời ở cùng họ.
Bố cục:
I. Nhan đề và Phần Dẫn Nhập (ApOv 1:1)
II. Sự phán xét về Ê-đôm (1:2-14)
A. Loan báo sự hủy diệt Ê-đôm (1:2-7)
1. Hạ lòng kiêu ngạo của Ê-đôm (1:2-4)
2. Sự hủy diệt hoàn toàn Ê-đôm (1:5-7)
B. Sự hủy diệt Ê-đôm được tái quyết (1:8-14)
1. Sự xấu hổ và hủy diệt của Ê-đôm (1:8-10)
2. Tội ác của Ê-đôm nghịch cùng Y-sơ-ra-ên (1:11-14).
III. Ngày của Chúa (1:15-21)
A. Sự phán xét trên các nước nhưng là sự giải cứu đối với Si-ôn (1:15-18)
B. Vương quốc của Chúa đang thiết lập (1:19-21)

Dẫn nhập Giô-na


Nhan đề:
Sách được đặt tên theo nhân vật chính, tên đó có nghĩa “bồ câu”# hãy xem
sự so sánh đã dùng về Ép-ra-im trong OsHs 7:11 để tả về nước phía bắc như
là “dễ bị lừa gạt và ngu dại”. Cũng xem Thi Tv 68:13; 74:19 và các chú
thích.
Trước giả:
Dầu sách không nhận diện trước giả là ai, nhưng truyền thuyết cho rằng đó
chính là tiên tri Giô-na, con trai A-mi-tai (Gion Gn 1:1), từ Gát Hê-phe
(IIVua 2V 14:25) tại Sa-bu-lôn (Gios Gs 19:10,13). Tuy nhiên vì cớ nhiều
điều tương tự với các bài tường thuật về Ê-li và Ê-li-sê, có thể sách đến từ
các nhóm tiên tri đã khởi soạn thảo các bài về những tiên tri đó, có lẽ vào
khoảng thế kỷ thứ 8 T.C. (xem Phần Dẫn nhập sách Các Vua: Trước giả,
Nguồn tin và Niên hiệu).
Bối cảnh:
Trong vòng nửa thế kỷ, thời gian tiên tri Giô-na phục vụ (800-750 T.C.) một
biến động đầy ý nghĩa ảnh hưởng trên nước phía bắc truyền thống, chấm dứt
non một thế kỷ tranh đấu, giằng co giữa Y-sơ-ra-ên và Đa-mách.
Trong thần hựu tốt lành của Đức Chúa Trời (IIVua 2V 14:26-27), và lợi
dụng A-si-ri đánh bại Đa-mách (vào hạ bán thế kỷ thứ 9), Giê-rô-bô-am tạm
thời đập tan trung tâm quyền lực của A-ram. Trước thời đó, chẳng những đất
đai Y-sơ-ra-ên bị thu hẹp lại, mà vua Đa-mách cũng còn kiểm soát nội bộ
nước phía bắc nữa (IIVua 2V 13:7). Tuy nhiên, sau chiến trận A-si-ri nghịch
cùng Đa-mách, năm 797, Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên đã có thể khôi phục lại
phần đất mất vào tay vua Đa-mách (IIVua 2V 13:25). Những rối loạn nội bộ
trong A-si-ri, sau này đã cho phép Giê-rô-bô-am II hoàn tất việc khôi phục
lại bờ cõi miền bắc Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, vào lúc này, A-si-ri vẫn còn là
mối đe doạ thật sự từ phương bắc.
Các tiên tri của Chúa đang nói với Y-sơ-ra-ên về những sự việc này. Độ 797
T.C., Ê-li-sê nói với vua Y-sơ-ra-ên về những chiến thắng tương lai trên Đa-
mách (IIVua 2V 13:14-19). Vài năm sau Giô-na đã nói tiên tri sự khôi phục
mà Giê-rô-bô-am được hoàn tất (IIVua 2V 14:25). Nhưng chẳng bao lâu sau
khi Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng, họ khởi sự hả hê về quyền lực mới dành được
của mình. Vì cớ được giảm bớt mối căng thẳng đối ngoại - sự khuây khoả đã
đến theo những lời khích lệ của Ê-li-sê và Giô-na - Y-sơ-ra-ên cảm thấy tự
mãn về tình trạng của mình với Đức Chúa Trời (AmAm 6:1). Y-sơ-ra-ên tập
trung tiêu điểm tôn giáo mình vào những kỳ vọng “Ngày của Chúa” (AmAm
5:18-20), khi sự tối tăm của Đức Chúa Trời nhận chìm các dân tộc khác, chỉ
để lại Y-sơ-ra-ên phơi mình trong ánh sáng Ngài.
Chính trong thời như thế mà Đức Chúa Trời dùng A-mốt và Ô-sê loan báo
cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài biết rằng Chúa “không còn miễn thứ cho họ
nữa” (AmAm 7:8; 8:2), nhưng sẽ đem họ đi lưu đày ở bên kia Đa-mách
(AmAm 5:27), tức là A-si-ri (OsHs 9:3; 10:6; 11:5). Trong thời gian này
Chúa cũng sai Giô-na đến Ni-ni-ve để cảnh cáo họ về mối nguy hiểm của sự
thẩm phán thiên thượng sắp xảy đến.
Vì cớ Giô-na đồng thời với A-mốt, xem Phần Dẫn Nhập sách A-mốt: Niên
hiệu và tình hình lịch sử để biết thêm chi tiết.
Niên hiệu viết sách:
Vì một số lý do, kể cả sự giảng cho các dân ngoại, mà sách thường được kể
vào thời hậu lưu đày. Người ta nói ít nhất sách được chép sau khi thành Ni-
ni-ve bị hủy diệt năm 612 T.C. Nhưng các sự cứu xét không dứt khoát. Sự
tương tự câu chuyện này với các bài tường thuật về hai tiên tri Ê-li và Ê-li-sê
đã được lưu ý đến. Người ta cũng tự hỏi không biết việc đề cập thành Ni-ni-
ve ăn năn và nhân đó thủ đô được thoát khỏi cảnh hủy diệt liệu có ít nhiều ý
nghĩa đối với trước giả sau khi Ni-ni-ve sụp đổ. Giả định việc công bố lời
Đức Chúa Trời cho dân ngoại không thích hợp trong thế kỷ thứ 8, ấy là bỏ
qua sự kiện rằng trong thế kỷ trước chính Ê-li và Ê-li-sê đã mở rộng chức vụ
mình đến các nước khác (IVua 1V 17:7-24; IIVua 2V 8:7-17). Hơn nữa, tiên
tri A-mốt (khoảng 760-750) đã đặt công cuộc cứu chuộc của Đức Chúa Trời
đối với Y-sơ-ra-ên trong liên văn về những sự đối phó của Chúa với các dân
tộc (AmAm 1:3-2:16; 9:7,12). Có lẽ tiền hạ bán thế kỷ thứ 8 rất có thể là
niên hiệu cho sách này, sau các chức vụ công khai của A-mốt và Ô-sê, và
trước khi Sa-ma-ri thất thủ vào tay A-si-ri năm 722-721.
Sự giải thích:
Nhiều người tự hỏi không biết sách Giô-na có tính chất lịch sử không? Tính
cách có vẻ huyền hoặc của vài biến cố (thí dụ tình tiết liên hệ đến con cá
lớn) đã khiến họ gợi ý đến giải pháp thay thế quan điểm truyền thống của
sách là lịch sử, câu chuyện tự thuật. Dầu những gợi ý đặc biệt của họ sắp xếp
từ truyện ngắn hư cấu đến ngụ ngôn, ẩn dụ, họ chia sẻ giả định chung là câu
chuyện nhất thiết xuất phát từ sự tưởng tượng của trước giả, mặc dầu sứ điệp
thật trang nghiêm và đầy ân phúc.
Những giải thích như thế, thường căn cứ một phần vào sự ngờ vực về phép
lạ, nên quá vội vã loại bỏ (1) những điều tương tự giữa câu chuyện Giô-na
với các phần khác của Cựu Ước và (2) mối quan tâm của các trước giả Cựu
Ước đối với lịch sử, đặc biệt là các tiên tri. Họ cũng không nhận thức được
những người thuật chuyện Cựu Ước rất nhạy bén đối với việc thừa nhận các
biến cố quá khứ trong cuộc hành hương của Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời
cách nào đó minh giải những biến cố sau này (bằng cách tương đồng). (Thí
dụ những biến cố bao quanh chuyện sanh ra Môi-se minh giải cuộc xuất
hành khỏi Ê-díp-tô, những biến cố bao quanh chuyện Sa-mu-ên ra đời soi
sáng chuỗi biến cố đã thuật lại trong sách Sa-mu-ên, chức vụ của Môi-se và
Giô-suê soi sáng các chức vụ của Ê-li và Ê-li-sê). Cũng một lẽ ấy, các tiên
tri thừa nhận rằng những biến cố tương lai mà họ loan báo có thể được soi
sáng bằng cách tham chiếu những biến cố tương đồng trong quá khứ. Bỏ qua
những nét nổi bật này trong truyện tích và lời tiên tri trong Cựu Ước, nhiều
người đã giả định rằng một câu chuyện quá thích hiệp mục đích của trước
giả như vậy phải được hư cấu.
Mặt khác, phải thừa nhận rằng những người thuật truyện Thánh Kinh hơn
hẳn các sử gia. Họ đã thuật lại quá khứ cách đầy nghệ thuật với mục đích
không dời đổi về việc đem nó vào sự liên quan tới hiện tại và tương lai.
Trong sự mô tả các biến cố quá khứ, họ dùng những tài liệu của họ để hoàn
thành mục đích đó cách hữu hiệu. Tuy nhiên, sự trung thực mà họ đã xét
việc quá khứ chẳng có gì đáng thắc mắc. Sách Giô-na tường thuật những
việc thật sự trong đời sống và chức vụ của chính tiên tri.
Những đặc sắc văn học:
Không giống hầu hết các phần tiên tri khác trong Cựu Ước sách này là một
câu chuyện về một sứ mạng tiên tri đơn độc. Sự luận bàn của sách về sứ
mạng đó tương tự như câu chuyện về chức vụ của tiên tri Ê-li và Ê-li-sê ghi
trong I, II Vua, và những tiết tường thuật nào đó trong Ê-sai, Giê-rê-mi và Ê-
xê-chi-ên.
Như thường thấy trong trường hợp các chuyện tích Kinh Thánh, trước giả cô
đọng lại trong khoảng không gian nhỏ, 40 câu thuật lại toàn bộ câu chuyện
(với 8 câu thơ dành riêng cho lời cầu nguyện của Giô-na cảm tạ Chúa).
Trong nội dung của sách (một đoạn mở rộng) tính súc tích, linh động và sự
phác hoạ nhân vật, sách thật giống như sách Ru-tơ.
Giống như trong sách Ru-tơ, trước giả dùng sự cân xứng về cấu trúc cách
hữu hiệu. Câu chuyện được khai triển trong hai chu kỳ tương đương hướng
sự chú ý đến một loạt so sánh và tương phản (xem Bố cục). Tuyệt điểm của
câu chuyện là lời cầu nguyện xưng tội quan trọng của Giô-na, “Sự cứu rỗi
đến từ Đức Giê-hô-va” - lời xưng tội chính giữa của 3 lời từ chính miệng
tiên tri (Gion Gn 1:9; 2:9; 4:2). Câu cuối cùng nhấn mạnh rằng Lời Chúa là
tối hậu và quyết định, trong khi Giô-na được để ngồi giữa cánh đồng nóng
bức ngoài thành Ni-ni-ve.
Trước giả sử dụng nghệ thuật các vai trò điển hình cách thẳng thắn. Trong
câu chuyện này tình yêu của Chúa liên hệ đến mọi người Ni-ni-ve, mối đe
doạ lớn của Y-sơ-ra-ên, tiêu biểu cho dân ngoại bang. Cách tương ứng, Giô-
na cố chấp miễn cưỡng tượng trưng lòng ganh tị của Y-sơ-ra-ên về mối liên
hệ thuận lợi của họ với Thượng Đế, và việc họ không sẵn sàng chia sẻ tình
thương xót của Chúa cho các dân khác.
Sách mô tả nội dung quan trọng hơn về mục đích của Đức Chúa Trời đối với
Y-sơ-ra-ên: Hầu cho họ tái khám phá chân lý về quan tâm của Chúa đối với
toàn thể muôn vật, và khiến Y-sơ-ra-ên có thể quán triệt hơn vai trò của
mình để thực hiện mối quan tâm đó.
Bố cục:
I. Giô-na chạy trốn sứ mạng của người (1:1-2:11)
A. Nhiệm vụ và sự tranh chiến của Giô-na (1:1-3)
B. Sự kêu cầu của các thủy thủ bị nguy khốn với thần của họ (1:4-6)
C. Sự không vâng phục của Giô-na bị phơi bày ra (1:7-10).
D. Giô-na bị hình phạt và được giải cứu (1:11-2:1; 2:10)
E. Lời cầu nguyện cảm tạ của người (2:2-9)
II. Giô-na miễn cưỡng làm tròn sứ mạng (3:1-4:11)
A. Nhiệm vụ mới và sự vâng lời của Giô-na (3:1-4)
B. Người Ni-ni-ve trong nguy khốn ăn năn kêu xin Chúa (3:5-9)
C. Sự ăn năn của người Ni-ni-ve được chấp nhận (3:10-4:4)
D. Sự giải cứu và than trách của Giô-na (4:5-11)

Dẫn nhập Mi-chê


Trước giả:
Chỉ có thể biết rất ít về tiên tri Mi-chê ngoài điều cóthể đọc từ chính sách
này và Gie Gr 26:18. Mi-chê đến từ thành Mô-rê-sết (MiMk 1:1), có lẽ là
Mô-rê-sết Gát (1:14), miền Nam Giu-đa. Lời tiên tri làm chứng cho sự nhạy
cảm sâu xa của Mi-chê đối với những tệ đoan xã hội trong thời người, đặc
biệt những điều ảnh hưởng đến các thị trấn và các làng nhỏ của quê hương
người.
Niên hiệu:
Mi-chê nói tiên tri giữa khoảng 750 và 686 T.C trong các đời Giô-tham, A-
cha và Ê-xê-chia, là các vua Giu-đa (1:1; Gie Gr 26:18). Vậy nên, người
sống đồng thời với Ê-sai (xem EsIs 1:1) và Ô-sê (OsHs 1:1). Mi-chê dự
ngôn sụp đổ của Sa-ma-ri (MiMk 1:6), xảy đến vào năm 722-721. Điều này
định chức vụ sớm của người là nhằm các đời trị vì của Giô-tham (750-732)
và A-cha (735-715). (Những đời vua Giô-tham và A-cha trị vì gối lên nhau).
Sứ điệp của Mi-chê phản ánh những tình trạng xã hội trước các cuộc cải
cách tôn giáo dưới thời Ê-xê-chi-ên (715-686). (Các đời trị vì của A-cha và
Ê-xê-chi-ên dường như đã gối lên nhau từ khoảng 729-715; xem IIVua 2V
18:9 và chú thích ở EsIs 36:1).
Bối cảnh:
Bối cảnh của sách cũng là bối cảnh thấy trong các phần đầu của sách Ê-sai,
dầu Mi-chê không bày tỏ cùng một sự hiểu biết về đời sống chính trị tại Giê-
ru-sa-lem như Ê-sai đã từng làm. Có lẽ là vì Mi-chê, giống A-mốt, là người
xuất thân từ một gia đình Giu-đa.
Y-sơ-ra-ên ở trong tình trạng bội đạo. Mi-chê dự ngôn về sự sụp đổ kinh
thành Sa-ma-ri (MiMk 1:5-7) và cũng nói trước về cảnh điêu tàn không thể
tránh được của Giu-đa (1:9-16).
Ba biến cố lịch sử rất ý nghĩa xảy đến trong thời này:
1. Năm 734-732 T.C., Tiếc-la Phi-lê-se III của A-si-ri tiến quân đánh A-ram
(Sy-ri), Phi-li-tin và các phần đất Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Ách-ca-lôn và Ga-
xa đều bị đánh bại. Giu-đa, Am-môn, Ê-đôm và Mô-áp nộp triều cống cho
vua A-si-ri, nhưng Y-sơ-ra-ên không làm ổn thoả như vậy. Theo IIVua 2V
15:29, nước phía bắc mất hầu hết lãnh thổ, gồm cả Ga-la-át và phần lớn Ga-
li-lê. Đa-mách thất thủ năm 732 và bị sát nhập vào đế quốc A-si-ri.
2. Năm 722-721 Sa-ma-ri thất thủ, và nước Y-sơ-ra-ên phía bắc bị A-si-ri
chinh phục.
3. Năm 701 Giu-đa tham dự cuộc phản loạn nghịch cùng A-si-ri, và bị vua
San-chê-ríp và đạo binh người tràn qua, dầu Giê-ru-sa-lem được miễn trừ.
Những đặc sắc văn học:
Văn phong của Mi-chê giống văn phong của Ê-sai. Cả hai tiên tri đều dùng
ngôn ngữ đầy khí lực và nhiều cách nói gợi hình# cả hai chứng tỏ tính nhạy
cảm trong sự hăm doạ hình phạt và hứa hẹn công lý. Mi-chê thường hay
chơi chữ, MiMk 1:10-15 (xem chú thích ở đó) làm thí dụ kinh điển.
Chủ đề và sứ điệp:
Như bố cục bày tỏ sứ điệp của Mi-chê xen lẫn giữa những sấm truyền đoán
phạt và những sấm truyền hi vọng. Chủ đề là sự phán xét và giải cứu bởi
Đức Chúa Trời. Mi-chê cũng nhấn mạnh Đức Chúa Trời ghét sự thờ hình
tượng, bất công, phản loạn và nghi lễ trống rỗng, nhưng Chúa vui lòng tha
thứ kẻ ăn năn. Cuối cùng, tiên tri tuyên bố rằng Si-ôn sẽ có vinh quang lớn
hơn bao giờ hết trong tương lai. Vương quốc Đa-vít, dầu dường như sắp
chấm dứt, sẽ đạt đến những cao điểm trọng đại hơn qua Đấng Mê-si giải
phóng hầu đến.
Bố cục:
I.Tiêu đề (1:1)
II. Sự phán xét nghịch cùng Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (1:2-3:12)
A. Dẫn nhập (1:2)
B. Dự ngôn về sự hủy diệt (1:3-7)
C. Ca thương về sự hủy diệt (1:8-16)
D. Băng hoại trong xã hội đời Mi-chê (2:1-11)
E. Hi vọng ở giữa cảnh u ám (2:12-13)
F. Những lãnh tụ bị kết tội (3:1-10)
III. Hi vọng cho Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (4:1-5:15)
A. Vương quốc hầu đến (4:1-14)
B. Vua hầu đến (5:1-5a)
C. Chiến thắng cho dân của Đức Chúa Trời (5:5b-15)
IV. Vụ kiện của Chúa nghịch cùng Giu-đa (6:1-16)
A. Sự tố giác của Chúa (6:1-8)
B. Sự phán xét hầu đến (6:9-16)
V. Ảm đạm đổi thành chiến thắng (7:1-20)
A. Mi-chê than thở về sự băng hoại của xã hội (7:1-6)
B. Sự đảm bảo về hi vọng của Mi-chê (7:7)
C. Tương lai tươi sáng cho con dân Đức Chúa Trời (7:8-13)
D. Chiến thắng của vương quốc Đức Chúa Trời (7:14-20)

Dẫn nhập Na-hum


Trước giả:
Sách hàm chứa “khải tượng của Na-hum” (NaNk 1:1). Tên của người có
nghĩa là “an ủi” và liên hệ với tên Nê-hê-mi, nghĩa là “Đức Giê-hô-va an ủi”
hoặc “sự an ủi của Đức Giê-hô-va” (Sự thất thủ của Ni-ni-ve là chủ đề của
sách Na-hum, sẽ đem lại an ủi cho Giu-đa). Không biết gì về người, trừ quê
hương người (Ên-cốt) mà thậm chí địa điểm chung cũng không chắc chắn.
Niên hiệu:
Trong 3:8-10 trước giả nói về sự sụp đổ của Thebes, đã xảy ra năm 663
T.C., như đã qua rồi. Trong cả ba đoạn, Na-hum nói tiên tri về sự sụp đổ của
Ni-ni-ve, được thành nghiệm trong năm 612. Bởi vậy, Na-hum tuyên bố lời
sấm này giữa 663 và 612, có lẽ gần cuối thời kỳ này vì người trình bày sự
sụp đổ Ni-ni-ve như sắp xảy đến (2:1; 3:14,19). Điều này đặt người trong
thời trị vì của Giô-sia, đồng thời vời Sô-phô-ni và thanh niên Giê-rê-mi.
Bối cảnh:
A-si-ri (đại diện bởi Ni-ni-ve, 1:1) đã hủy diệt Sa-ma-ri (722-721 T.C.) đưa
đến hậu quả là bắt nước phía bắc của Y-sơ-ra-ên đi lưu đày, và đặt một mối
đe doạ hiện tại cho Giu-đa. Người A-si-ri nổi tiếng là độc ác tàn nhẫn, các
vua họ được tả vẽ là rất hả hê khi áp đặt những hình phạt khủng khiếp trên
các dân bị chinh phục. Họ điều động chiến tranh với sự độc ác dữ tợn, nhổ
bật tận gốc toàn bộ dân cư như chính sách nhà nước, và lưu đày họ tại các
phần đất khác của đế quốc. Lãnh tụ các thành bị chinh phục đều bị tra tấn và
chặt tay trước khi đem ra hành quyết (xem chú thích ở 3:3). Chẳng lạ gì mà
thấy sự kinh khiếp của người A-si-ri giáng trên các dân lân cận.
Chừng 700 T.C. vua San-chê-ríp lấy Ni-ni-ve làm thủ đô của đế quốc A-si-
ri, và nó cứ làm kinh đô cho đến khi bị hủy diệt năm 612. Trước tiên Giô-na
đã loan báo sự hủy diệt thành (Gion Gn 3:4), nhưng dân chúng ăn năn nên
sự hủy diệt thành tạm thời được ngăn chặn. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau đó,
Ni-ni-ve trở lại cực kỳ hung ác, tàn nhẫn và kiêu ngạo. Tánh tàn bạo đạt tới
đỉnh điểm dưới thời Ashurbanipal (669 -627), nhà thống trị quan trọng cuối
cùng của đế quốc A-si-ri. Sau khi người qua đời, ảnh hưởng và quyền lực
của A-si-ri tàn rụi mau chóng cho đến 612, thì Ni-ni-ve bị lật đổ (xem chú
thích ở NaNk 1:14; 2:1). (Các thông tin thêm về lịch sử được ghi trong các
chú thích suốt cả sách).
Người nhận:
Vài lời được nói với Giu-đa (xem 1:12-13,15), nhưng hầu hết đều nói với
Ni-ni-ve (xem 1:11,14; 2:1,13; 3:5-17,19) hoặc vua của nó (3:18). Tuy
nhiên, sách chủ yếu viết cho người Giu-đa đọc.
Văn phong :
Nội dung chủ yếu là phán quyết xử án (sấm truyền phán xét) với những mô
tả và ngữ vựng thích hiệp, cũng như sắc thái, nhãn quan và âm thanh nồng
nhiệt. Ngôn ngữ thi vị, thường dùng những ẩn dụ hoặc so sánh, cùng từ ngữ
gợi hình linh động, lặp lại và nhiều nhóm từ ngắn - thường đứt đoạn (xem
thí dụ, 3:2-3). Những câu hỏi tu từ ngắt quãng dòng tư tưởng, để nhấn mạnh
sự căm phẫn đạo đức đối với mọi bất công.
Những chủ đề thần học:
Tiêu điểm của cả sách là sự phán xét của Chúa trên Ni-ni-ve vì cớ tội hà
hiếp, hung dữ, thờ hình tượng và gian ác của họ. Sách kết thúc với sự hủy
diệt thành đó.
Theo RoRm 11:22, Đức Chúa Trời không chỉ là nhân từ nhưng cũng nghiêm
khắc. Trong Na-hum, Đức Chúa Trời không chỉ “chậm nóng giận” (NaNk
1:3) và “là nơi ẩn náu.... cho những người tin cậy Ngài” (1:7) nhưng Ngài
cũng là “Đấng chẳng bỏ qua tội mà không hình phạt” (1:3). Vương quốc
công bằng và chính trực của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ đắc thắng vì các
nước xây dựng trên sự gian ác và bạo ngược cuối cùng phải sụp đổ, như A-
si-ri đã bị.
Thêm nữa, Na-hum công bố quyền tối cao trên toàn vũ trụ của Đức Chúa
Trời. Đức Chúa Trời là Chúa của lịch sử và của các nước, cũng như Chúa
kiểm soát vận mệnh các nước.
Bố cục:
I. Nhan đề (1:1)
II. Thẩm phán của Ni-ni-ve (1:2-15)
A. Lòng nhân từ và sự nghiêm khắc của Chúa (1:2-8)
B. Ni-ni-ve bị lật đổ và Giu-đa vui mừng (1:9-15)
III. Sự phán xét Ni-ni-ve (2:1-13)
A. Ni-ni-ve bị bao vây (2:1-10)
B. Sự hoang vu của Ni-ni-ve tương phản với vinh hiển trước của nó (2:11-
13)
IV. Sự hủy diệt hoàn toàn của Ni-ni-ve (3:1-19)
A. Tội lỗi của Ni-ni-ve (3:1-4)
B. Ni-ni-ve bị diệt vong (3:5-18)

Dẫn nhập Ha-ba-cúc


Trước giả:
Người ta ít biết về Ha-ba-cúc, ngoại trừ việc người sống đồng thời với Giê-
rê-mi và là người có niềm tin vững mạnh đâm rễ sâu trong truyền thống tôn
giáo ở Y-sơ-ra-ên. Câu chuyện người phục vụ nhu cầu của Đa-ni-ên trong
hang sư tử ghi trong sách Ngoại Kinh “Bên và con Rồng” chỉ là huyền thoại
chớ không phải là lịch sử .
Niên hiệu:
Lời dự ngôn về sự xâm lăng của Ba-by-lôn sắp đến (HaKb 1:6) chỉ ra rằng
Ha-ba-cúc sống tại Giu-đa vào cuối đời trị vì của Giô-sia (640-609 T.C.)
hoặc đầu đời Giê-hô-gia-kim trị vì (609-598). Lời tiên tri thường được định
niên hiệu ít lâu trước hoặc sau chiến trận Cạt-kê-mít (605), khi lực lượng Ê-
díp-tô, trước đó đã đi tiếp viện vua A-si-ri, cuối cùng bị quân Ba-by-lôn do
Nabopolassar và Nê-bu-cát-nết-sa chỉ huy đánh bại, và bị đuổi theo tới tận
bờ cõi Ê-díp-tô (Gie Gr 46:1-26). Ha-ba-cúc, giống Giê-rê-mi, có lẽ đã sống
để thấy sự khởi thủy thành nghiệm lời tiên tri khi Giê-ru-sa-lem bị quân Ba-
by-lôn tiến đánh năm 597.
Sứ điệp:
Giữa vòng những bản viết tiên tri, sách Ha-ba-cúc khá độc đáo vì nó không
bao gồm lời sấm nào nói với Y-sơ-ra-ên cả. Thật ra nó chứa đựng cuộc đối
thoại giữa tiên tri và Đức Chúa Trời (xem bố cục). (Trong khi thuật chuyện,
sách Giô-na trình bày sự tranh đấu giữa Chúa và một trong các tiên tri Ngài).
Trong hai chương đầu, Ha-ba-cúc biện luận với Đức Chúa Trời về đường lối
của Chúa dường như không thể dò xét được, nếu không muốn nói là bất
công. Sau khi đã được trả lời, người đáp ứng với sự tuyên xưng niềm tin thật
hoa mỹ (HaKb 3:1-19).
Tuy nhiên, câu chuyện vật lộn với Đức Chúa Trời, không phải chỉ là một
phân đoạn từ nhật ký riêng đã bằng cách nào đó vào trong lãnh vực công
cộng. Nó được soạn cho Y-sơ-ra-ên. Chắc chắn nó tượng trưng tiếng nói của
người trung tín trong Giu-đa, tranh đấu để hiểu đường lối của Đức Chúa
Trời. Bởi vậy, những lời đáp của Đức Chúa Trời phán cho tất cả những ai
chia sẻ mối nghi ngờ của Ha-ba-cúc. Và sự xưng nhận của Ha-ba-cúc trở
thành sự biểu lộ công khai - như đã được chỉ ra bằng những lời chú thích
thuộc nghi thức tế lễ (xem chú thích ở 3:1).
Ha-ba-cúc bị bối rối vì sự gian ác, cạnh tranh và hà hiếp lan tràn trong Giu-
đa, nhưng dường như Đức Chúa Trời không làm gì cả. Khi được biết Chúa
đang chuẩn bị làm một điều gì đó qua những người Ba-by-lôn tàn nhẫn
(1:6), sự lúng túng của người chỉ càng tăng: Làm sao Đức Chúa Trời, Đấng
“thánh sạch chẳng nhìn sự dữ” (1:13) lại chỉ định một dân như thế “thi hành
sự xét đoán” (1:12) trên một dân “công chính hơn họ” (1:13)?
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời phán rõ ràng cuối cùng chính kẻ hủy diệt tự mình
sẽ bị hủy hoại. Sau cùng, Ha-ba-cúc học yên nghỉ trong điều Đức Chúa Trời
chỉ định và chờ xem công việc Chúa làm trong tinh thần thờ phượng.
Những đặc sắc nổi bật về văn học:
Trước giả viết rõ ràng và với mối cảm xúc lớn, soạn thảo những nhóm từ
đáng ghi nhớ (2:2,4,14,20; 3:2,17-19). Sách rất phổ thông trong thời kỳ giữa
Cựu và Tân Ước, sự chú thích trọn vẹn về hai chương đầu của sách đã tìm
được trong Cuộn Biển Chết.
Bố cục:
I. Nhan đề (1:1)
II. Lời than phiền thứ nhất của Ha-ba-cúc: Tại sao sự dữ trong Giu-đa cứ
thực hiện mà không bị đoán phạt (1:2-4)
III. Đức Chúa Trời đáp lời: Người Ba-by-lôn sẽ hình phạt Giu-đa (1:5-11)
IV. Lời than phiền thứ hai của Ha-ba-cúc: Sao Đức Chúa Trời công bình lại
dùng Ba-by-lôn gian ác để hình phạt dân công chính hơn họ? (1:12-2:1)
V. Đức Chúa Trời đáp lời: Ba-by-lôn sẽ bị hình phạt, còn đức tin sẽ được
thưởng (2:2-20)
VI. Lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc: Sau khi xin Chúa bày tỏ cơn giận và
lòng thương xót của Ngài (như người đã thấy trong quá khứ), người kết thúc
với sự tuyên xưng niềm tin và vui mừng trong Đức Chúa Trời (3:1-19)

Dẫn nhập Sô-phô-ni


Trước giả:
Tiên tri Sô-phô-ni chắc hẳn là người có địa vị cao trong xã hội Giu-đa và có
lẽ tiên tri có liên hệ với hoàng tộc. Lời tiên tri mở đầu với câu phát biểu về
tổ tiên của trước giả (SoXp 1:1), tự nó cũng là nét nổi bật bất thường trong
truyền thống tiên tri Hê-bơ-rơ. Sô-phô-ni là thế hệ thứ tư thuộc dòng dõi Ê-
xê-chi-ên, một vua nổi tiếng của Giu-đa từ 715-686 T.C. Ngoài lời phát biểu
này, không thấy nói gì về bối cảnh của người. Trái ngược với tiên tri Mi-chê
luận cẩn thận và đầy thiện cảm về các nan đề của thường dân Giu-đa, những
lời phát biểu của Sô-phô-ni bày tỏ rằng người rất quen thuộc với triều đình
và những vấn nạn chính trị đương thời. Rất có thể Sô-phô-ni thông thạo các
văn bản của những tiên tri nổi bật trong thế kỷ thứ 8 như Ê-sai và A-mốt mà
người phản ảnh lời phát biểu của họ, và có lẽ người cũng ý thức về chức vụ
của tiên tri trẻ Giê-rê-mi.
Niên hiệu:
Theo 1:1, Sô-phô-ni nói tiên tri trong đời trị vì của vua Giô-sia (640-609
T.C.), khiến người sống đồng thời với Giê-rê-mi, Na-hum và có lẽ Ha-ba-
cúc nữa. Lời tiên tri của người có thể định niên hiệu tương đối sớm vào đầu
đời trị vì của Giô-sia, trước khi vua đó cố gắng cải cách (và trong khi những
điều kiện do đời trị vì của Ma-na-se và A-môn gây ra còn thắng thế) và
trước khi Ashurbanibal vua A-si-ri qua đời năm 627 (trong khi A-si-ri vẫn bị
đe doạ, nhưng vẫn còn thế lực).
Bối cảnh:
Xem các Phần Dẫn Nhập của sách Giê-rê-mi và Na-hum: Bối cảnh# cũng
xem IIVua 2V 22:1-23:30; IISu 2Sb 34:1-35:27 và các chú thích.
Mục đích và chủ đề:
Ý định của trước giả là loan báo cho Giu-đa biết sự phán xét sắp đến của
Đức Chúa Trời. Sự tấn công bất ngờ của người Sy-the vào Ca-na-an có thể
cung ứng cơ hội trực tiếp. Quân kỵ binh hung dữ này bắt nguồn từ nơi hiện
nay là miền Nam nước Nga, nhưng vào khoảng thế kỷ thứ 7 T.C đã di cư
qua rặng núi Caucase, và định cư dọc theo lãnh thổ miền bắc của đế quốc A-
si-ri. Từng hồi từng lúc xen kẽ làm thù nghịch hoặc đồng minh của A-si-ri,
họ dường như đã thọc sâu xuống miền nam dọc theo bờ Địa Trung Hải vào
khoảng thập niên 602, hủy diệt Ách-ca-lôn và Ách-đốt, và dừng lại tại bờ cõi
Ê-díp-tô chỉ vì Pha-ra-ôn Psamtik (Psammetichus) đã hối lộ đủ số. Tuy
nhiên, cuối cùng sự hủy diệt mà Sô-phô-ni tiên tri đã đến bởi tay người Ba-
by-lôn sau khi họ đã chế ngự được A-si-ri và đem đế quốc cổ xưa đó đến kết
thúc.
Chủ đề chính của Sô-phô-ni là ngày của Chúa đến (xem chú thích ở EsIs
2:11,17,20; Gio Ge 1:15; 2:2; AmAm 5:18; 8:9) khi Đức Chúa Trời nghiêm
khắc đoán phạt các dân, kể cả Giu-đa bội đạo. Người mô tả sự kinh khủng
của thử thách với hình ảnh gợi thấy trong các sách tiên tri khác. Nhưng
người cũng nói rõ rằng Đức Chúa Trời vẫn còn thương xót con dân Ngài.
Giống như các tiên tri khác, người kết thúc lời tuyên ngôn đoán phạt với sự
tích cực về việc khôi phục Giu-đa.
Bố cục:
I. Phần dẫn nhập (SoXp 1:1-3)
A. Nhan đề: Tiên tri được nhận diện (1:1)
B. Phần mở đầu: Sự loan báo kép về cuộc tổng phán xét (1:2-3)
II. Ngày của Chúa đến trên Giu-đa và các dân (1:4-18)
A. Phán xét những kẻ thờ hình tượng tại Giu-đa (1:4-9)
B. Tiếng than thở khắp Giê-ru-sa-lem (1:10-13)
C. Ngày thạnh nộ của Chúa không sao thoát khỏi (1:14-18)
III. Sự phán xét của Đức Chúa Trời trên các dân (2:1-3:8)
A. Lời kêu gọi ăn năn (2:1-3)
B. Sự phán xét trên Phi-li-tin (2:4-7)
C. Sự phán xét trên Mô-áp và Am-môn (2:8-11)
D. Sự phán xét trên Ê-thi-ô-bi (Cút) (2:12)
E. Sự phán xét trên A-si-ri (2:13-15)
F. Sự phán xét trên Giê-ru-sa-lem (3:1-5)
G. Giê-ru-sa-lem từ chối ăn năn (3:6-8)
IV. Sự cứu chuộc dân sót (3:9-20)
A. Các dân được thanh tẩy, dân sót khôi phục và Giê-ru-sa-lem được tẩy
sạch (3:9-13).
B. Sự mừng rỡ trong thành (3:14-17)
C. Quốc dân được khôi phục (3:18-20)

Dẫn nhập A-ghê


Trước giả:
A-ghê là tiên tri cùng thời với Xa-cha-ri, khuyến khích những người lưu đày
trở về xây dựng lại Đền thờ (xem Exo Er 5:1-2;6:14). “A-ghê” có nghĩa là
“ngày lễ” có lẽ chỉ dấu rằng tiên tri sinh ra nhằm một trong ba kỳ lễ hành
hương (tức là ngày lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần hoặc lễ Các Tuần, và
lễ Lều Tạm tham chiếu PhuDnl 16:16). Căn cứ trên AgKg 2:3 (xem chú
thích ở đó) A-ghê có lẽ đã chứng kiến sự hủy phá Đền thờ của Sa-lô-môn.
Nếu thế, lúc người thi hành chức vụ chắc đã 70 tuổi.
Bối cảnh:
Năm 538 T.C., người chinh phục Ba-by-lôn là vua Si-ru của Ba-tư, ra chiếu
chỉ cho phép người Do Thái trở về Giê-ru-sa-lem và xây lại Đền thờ (xem
Exo Er 1:2-4; 6:3-5). Bởi Xô-rô-ba-bên lãnh đạo (nhưng xem chú thích ở
Exo Er 1:8, “Sết-ba-xa”) chừng 50 ngàn người Do Thái hồi hương và khởi
sự làm việc về Đền thờ. Chừng hai năm sau (536) họ đã đặt nền móng xong
giữa sự vui mừng lớn (Exo Er 3:8-10). Sự thành công của họ tỉnh thức người
Sa-ma-ri và các dân lân cận khác sợ những quan hệ mật thiết giữa tôn giáo
và chính trị của Đền thờ tái thiết trong một quốc gia Do Thái thịnh vượng.
Vậy nên họ chống đối dự án cách mãnh liệt và làm trì hoãn công việc cho
đến đời Đa-ri-út Đại đế trở thành vua Ba-tư năm 522 T.C (Exo Er 4:1-5,24).
Đa-ri-út rất chú ý đến các tôn giáo trong đế quốc mình và A-ghê cùng Xa-
cha-ri khởi sự giảng trong năm thứ 2 đời người trị vì, 520 T.C (xem AgKg
1:1; XaDr 1:1). Những người Do Thái còn đáng trách về sự thụ động (đình
hoãn) hơn các kẻ thù họ nữa, và A-ghê khởi sự thức tỉnh họ khỏi sự thờ ơ
(mê ngủ) đó. Khi quan tổng trấn xứ bên kia sông Ơ-phơ-rát và các viên chức
khác cố gắng can thiệp vào những cố gắng tái thiết, Đa-ri-út hoàn toàn ủng
hộ người Do Thái (Exo Er 5:3-6; 6:6-12). Năm 516 T.C Đền thờ được hoàn
tất và khánh thành (Exo Er 6:15-18).
Niên hiệu:
Những sứ điệp của A-ghê được ban phát trong vòng 4 tháng của năm 520
T.C, năm thứ hai của vua Đa-ri-út. Sứ điệp thứ nhất được giảng vào ngày
thứ nhất tháng thứ 6 (tức ngày 29 tháng Tám) và bài giảng cuối vào ngày 24
tháng 9 (tức ngày 18 tháng chạp). Xem chú thích ở AgKg 1:1; 2:1,10; cũng
xem Phần Dẫn nhập sách Xa-cha-ri: Niên hiệu.
Các chủ đề và sự dạy dỗ:
Sau sách Áp-đia, sách A-ghê ngắn nhất trong Cựu Ước, nhưng sự dạy dỗ
không kém phần quan trọng. Rõ ràng A-ghê tỏ bày những kết quả của sự
không vâng lời 1:6,11; 2:16-17) và sự vâng lời 2:7-9,19). Khi dân sự dành
ưu tiên cho Đức Chúa Trời và nhà Ngài, họ được chúc phước chớ không bị
rủa sả. Sự vâng lời đem lại sự khích lệ và sức mạnh của Đức Chúa Trời (2:4-
5).
2:1-23 nói về sự đến của Đấng Mê-si-a, gọi là “sự ao ước của các nước”
trong 2:7 (nhưng hãy xem chú thích ở đó). Chúa đến sẽ khiến Đền thờ tái
thiết với vinh quang (xem 2:9 và chú thích). Chúa lập Xô-rô-ba-bên làm
“nhẫn ấn tín” của Ngài bảo đảm rằng Đấng Mê-si-a sẽ đến (2:23 và chú
thích). Những phân đoạn này liên kết với sự phán xét các dân lúc Chúa Cứu
Thế tái lâm, khi các dân sẽ rúng động và các vương quốc bị lật đổ (xem 2:6-
7,21-22 và các chú thích, tham chiếu HeDt 12:25-29).
Những nét văn học đặc biệt:
Giống như Ma-la-chi, A-ghê dùng một số câu hỏi để làm các vấn đề chủ yếu
nổi bật lên (xem AgKg 1:4,9; 2:3,19). Người cũng dùng sự lặp lại cách hữu
hiệu: “Các ngươi khá xem xét cẩn thận” ghi trong 1:5,7; 2:15,18; và “Ta ở
cùng các ngươi” trong 1:13; 2:4. “Ta sẽ làm rúng động các từng trời và đất”
thấy trong 2:6,21. Các tiết chính của sách được đánh dấu bởi niên hiệu của
Chúa đến với (hoặc qua) A-ghê (1:1; 2:1,10,20).
Nhiều lần tiên tri dường như lặp lại các phần Thánh Kinh khác (so sánh 1:6
với PhuDnl 28:38-39 và AgKg 2:17 với PhuDnl 28:22). Dùng ba lần “Khá
can đảm” trong AgKg 2:4 (xem chú thích ở đó) phản ánh sự khuyến khích
ban cho trong Gios Gs 1:6-7,9,18).
Bố cục:
I. Sứ điệp thứ nhất: Kêu gọi xây dựng lại Đền thờ (AgKg 1:1-11)
A. Sự bào chữa không thoả đáng của dân chúng (1:1-4)
B. Sự nghèo khổ của dân chúng (1:5-6)
C. Lý do Chúa rủa sả họ (1:7-11)
II. Đáp ứng của Xô-rô-ba-bên và dân chúng (1:12-15)
A. Những lãnh tụ và dân sót vâng lời (1:12)
B. Chúa ban thêm sức cho các công nhân (1:13-15)
III. Sứ điệp thứ hai: Đền thờ đầy dẫy vinh quang (2:1-9)
A. Dân chúng được khuyến khích (2:1-5)
B. Lời hứa về vinh quang và hoà bình (2:6-9)
IV. Sứ điệp thứ ba: Dân ô uế được thanh tẩy và được phước (2:10-19)
A. Sự lan tràn mau chóng của tội lỗi (2:10-14)
B. Những mùa gặt xấu vì không vâng lời (2:15-17)
C. Phúc lành đến khi Đền thờ được xây lại (2:18-19)
V. Sứ điệp thứ tư: Lời hứa cho Xô-rô-ba-bên (2:20-23)
A. Sự phán xét các dân (2:20-22)
B. Sự quan trọng của Xô-rô-ba-bên (2:23)

Dẫn nhập Xa-cha-ri


Bối cảnh:
Chức vụ tiên tri của Xa-cha-ri thực hiện nhằm thời hậu lưu đày, thời dân Do
Thái được khôi phục từ lưu đày Ba-by-lôn. Về các chi tiết lịch sử, xem Phần
Dẫn Nhập A-ghê: Bối cảnh.
Trước giả và sự thống nhất sách:
Giống như Giê-rê-mi (Gie Gr 1:1) và Ê-xê-chiên (Exe Ed 1:3), Xa-cha-ri
không những chỉ là tiên tri (XaDr 1:1) nhưng còn là thầy tế lễ. Người sinh ở
Ba-by-lôn và thuộc trong những người trở về Giu-đa năm 538 T.C. dưới sự
lãnh đạo của Xô-rô-ba-bên và Giê-hô-sua (ông nội của người là Y-đô cũng
được nêu danh giữa vòng người hồi hương trong NeNe 12:4). Về sau này,
khi Giô-gia-kim làm thầy tế lễ tối cao, Xa-cha-ri dường như kế vị Y-đô
(XaDr 1:1,7) làm trưởng gia đình tế lễ (NeNe 12:10-16). Vì cháu nội kế
nghiệp nên người ta gợi ý rằng cha người (Ba-ra-chi, XaDr 1:1,7) đã qua đời
sớm.
Xa-cha-ri là người sống đồng thời với A-ghê (Exo Er 5:1; 6:14) nhưng tiếp
tục chức vụ mình rất lâu sau A-ghê (so sánh XaDr 1:1 và 7:1 với AgKg 1:1
cũng xem NeNe 12:1-16). Người khởi đầu chức vụ vào tuổi thanh niên (xem
XaDr 2:4) nên có thể đã tiếp tục chức vụ mãi đến thời At-ta-xét-xe trị vì
(465-424 T.C).
Rất có thể là Xa-cha-ri đã viết trọn sách mang tên mình. Có vào người nêu
nghi vấn về thẩm quyền của người về 9:1-14:21 - viện lẽ có sự khác biệt về
văn phong và những nét nổi bật khác, cũng đưa ra những tham khảo về niên
đại và lịch sử, rồi dựa vào đó định niên hiệu khác và trước giả khác với 1:1-
8:23. Tuy nhiên, tất cả những sự phản đối này có thể giải thích thoả đáng,
nên chẳng có lý do bắt buộc nào để thắc mắc sự thống nhất của sách.
Những niên hiệu:
Niên hiệu ghi lại các sứ điệp của Xa-cha-ri có tương quan nhiều nhất với các
sứ điệp của A-ghê cùng các biến cố lịch sử khác như sau:
1. Sứ điệp thứ nhất của A-ghê (AgKg 1:1-11; Exo Er 5:1) 29 tháng 8, 520
T.C.
2. Tiếp tục lại việc xây cất Đền thờ (AgKg 1:12-15; Exo Er 5:2) 21 tháng 9,
520 (việc tái thiết dường như bị ngăn trở từ 536 đến 530, Exo Er 4:1-5, và
công tác hoàn thành từ 530 đến 520, Exo Er 4:24)
3. Sứ điệp thứ hai của A-ghê (AgKg 2:1-9) 17 tháng 10, 520
4. Xa-cha-ri khởi sự giảng dạy (XaDr 1:1-6) Tháng 10/11, 520
5. Sứ điệp thứ ba của A-ghê (AgKg 2:10-19) 18 tháng 12, 520
6. Sứ điệp thứ tư của A-ghê (AgKg 2:20-23) 18 tháng 12, 520
7. Thư của Tát-tê-nai gửi Đa-ri-út về sự xây cất lại Đền thờ (Exo Er 5:3-
6:14) 519-518 (Phải có khoảng thời gian giữa sự tiếp tục lại việc xây cất cho
đến khi Tát-tê-nai xuất hiện)
8. Tám khải tượng ban đêm của Xa-cha-ri (XaDr 1:7-6:8) 15 tháng 2, 519
9. Giê-hô-sua được mão miện (XaDr 6:9-15) 16 (?) tháng 2, 519
10. Khuyên giục ăn năn, lời hứa các phước lành (XaDr 7:1-8:23) 7 tháng
chạp, 518
11. Khánh thành Đền thờ (Exo Er 6:15-18) 12 tháng 3, 516
12. Lời tiên tri cuối cùng của Xa-cha-ri (XaDr 9:1-14:21) sau 480 (?)
Cơ hội và mục đích:
Cơ hội cũng là một với sách A-ghê (xem bối cảnh# niên hiệu). Mục đích
chính của sách Xa-cha-ri (và A-ghê) là quở trách dân Giu-đa và khuyến
khích, động viên họ hoàn thành việc xây lại Đền thờ (XaDr 4:8-10; AgKg
1:1-2:23) dầu hai tiên tri rõ ràng chú ý đến cả việc đổi mới thuộc linh nữa.
Thêm nữa, mục đích 8 khải tượng ban đêm (XaDr 1:7-6:8) được cắt nghĩa
trong 1:3,5-6 Chúa phán nếu Giu-đa trở lại với Ngài, Ngài sẽ trở lại với họ.
Thêm nữa, lời Ngài sẽ tiếp tục được thành nghiệm.
Sự dạy dỗ thần học:
Sự dạy dỗ thần học của sách có liên hệ đến chủ đề quán xuyến về Đấng Mê-
si-a, mặc khải và thời mạt thế. Về sự nhấn mạnh Đấng Mê-si-a, Xa-cha-ri dự
ngôn về Đấng Christ đến trong sự khiêm nhường (XaDr 6:12), nhân tánh của
Ngài (6:12; 13:7), sự chối bỏ Ngài và phản nộp Ngài vì 30 miếng bạc
(11:12-13), sự đóng đinh Ngài (bị “gươm” của Chúa đâm 13:7), chức tế lễ
của Ngài (6:13), vương quyền của Ngài (6:13; 9:9; 14:9,16), sự tái lâm vinh
hiển của Ngài (14:4), việc Ngài xây Đền thờ của Chúa (6:12-13), sự trị vì
của Ngài (9:10,14) và sự thiết lập một nền hoà bình và thịnh vượng lâu bền
(3:10; 9:9-10). Những phân đoạn về Đấng Mê-si-a này thêm ý nghĩa cho
những lời Chúa Giê-xu trong (LuLc 24:25-27,44).
Về sự nhấn mạnh mặc khải và thời mạt thế, Xa-cha-ri dự ngôn về sự vây
hãm Giê-ru-sa-lem (XaDr 12:1-3; 14:1-2), sự chiến thắng tiên khởi của
những kẻ thù của người Giu-đa (14:2), Chúa bảo vệ Giê-ru-sa-lem (14:3-4),
sự phán xét trên các dân (12:9; 14:3), những thay đổi địa hình trong Giu-đa
(14:4-5), sự cử hành lễ Lều Tạm trong thời vương quốc Mê-si-a (14:16-19)
và sự thánh khiết tối hậu của Giê-ru-sa-lem và dân chúng của nó (14:20-21).
Cũng có ý nghĩa thần học trong tên của tiên tri, nghĩa là “Đức Giê-hô-va
(Yahweh) nhớ”. “Đức Giê-hô-va” là danh riêng và là Danh giao ước của
Đức Chúa Trời và là lời chứng hằng còn đối với sự thành tín về lời hứa của
Ngài (xem chú thích ở XuXh 3:14). Chúa “nhớ” những lời giao ước Ngài và
hành động để thành nghiệm. Trong sách Xa-cha-ri , Đức Chúa Trời hứa giải
cứu khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lôn, kể cả cộng đồng vương quốc được khôi
phục, và một Đền thờ đang hoạt động (ngai của Vua thiên thượng ở trên đất)
dẫn vào chính bức tranh về sự cứu rỗi và khôi phục cao trọng hơn hầu đến
qua Đấng Mê-si-a.
Cuối cùng, sách là một tổng thể dạy về sự cao cả của Đức Chúa Trời trong
lịch sử, trên các dân và các nước - trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Hình thức văn học và chủ đề:
Phần chính của sách là sự pha trộn những sấm truyền khuyên dạy (kêu gọi
ăn năn, XaDr 1:2-6), những khải tượng tiên tri (1:7-6:8), phán xét và cứu rỗi
(9:1-14:21). Những khải tượng tiên tri của 1:7-6:8 được gọi là văn chương
khải thị (mặc khải) chú giải là văn chương khích lệ con dân Đức Chúa Trời.
Khi tiết mặc khải được đọc chung với các lời sấm cứu rỗi (hoặc giải phóng)
trong các 9:1-14:21, nó rõ ràng trở thành sự nhấn mạnh ưu thế hơn của sách
là một khích lệ vì tương lai vinh quang đang chờ con dân Đức Chúa Trời.
Thật ra, sự khích lệ là chủ đề trung tâm của sách - phần khích lệ chính yếu
để hoàn thành việc xây cất Đền thờ. Những phương tiện khác để hoàn thành
mục đích này, và chúng thực hiện chức năng như các chủ đề phụ. Thí dụ,
nhấn mạnh đặc biệt về sự đến của Đấng Mê-si-a và chính Ngài lật đổ các lực
lượng vương quốc chống đối, hầu sự thống trị của Đức Chúa Trời cuối cùng
được thiết lập trọn vẹn trên đất. Quang cảnh địa phương thời bấy giờ như
vậy trở thành căn bản để ngắm xem bức tranh phổ thông thời mạt thế.
Bố cục:
Phần I (1:1-8:23)
I. Phần dẫn nhập (1:1-6)
A. Niên hiệu và tên trước giả (1:1)
B. Lời kêu gọi ăn năn (1:2-6)
II. Một loạt 8 khải tượng ban đêm (1:7-6:8)
A. Người cỡi ngựa giữa các cây sim (1:7-17)
B. Bốn cái sừng và bốn người thợ (1:18-21)
C. Người cầm dây đo (2:1-20)
D. Áo sạch cho thầy tế lễ tối cao (3:1-10)
E. Chân đèn bằng vàng và hai cây ô-liu (4:1-14)
F. Cuốn sách bay (5:1-4)
G. Người đàn bà trong cái giỏ (5:5-11)
H. Bốn cỗ xe (6:1-8)
III. Mão miện tượng trưng thầy tế lễ tối cao Giê-hô-sua (6:9-15)
IV. Vấn đề kiêng ăn và lời hứa tương lai (7:1-8:23)
A. Câu hỏi của phái đoàn đến từ Bê-tên (7:1-3)
B. Lời Chúa quở trách (7:4-7)
C. Lệnh truyền phải ăn năn (7:8-14)
D. Sự khôi phục Y-sơ-ra-ên đối với ân huệ của Chúa (8:1-17)
E. Vương quốc vui mừng và ân huệ cho người Do thái (8:18-23)
Phần II (9:1-14:21)
V. Hai lời sấm tiên tri: Tương lai vĩ đại của Đấng Mê-si-a và sự thực hiện
đầy trọn vương quốc Đức Chúa Trời (9:1-14:21)
A. Lời sấm thứ nhất: Sự hiện đến và sự chối bỏ Đấng Mê-si-a (9:1-11:17).
1. Sự hiện đến của vua Mê-si-a (9:1-10:12)
2. Sự chối bỏ Vua - Người chăn - Mê-si-a (11:1-17)
B. Lời sấm thứ hai: Sự hiện đến và sự tiếp nhận Đấng Mê-si-a (12:1-14:21)
1. Sự giải cứu và qui đạo của Y-sơ-ra-ên (12:1-13:9)
2. Đấng Mê-si-a đến và vương quốc Ngài (14:1-21)

Dẫn nhập Ma-la-chi


Trước giả:
Sách được qui cho Ma-la-chi, mà tên có nghĩa “sứ giả của Ta”. Vì từ liệu
xuất hiện trong MaMl 3:1, và vì cả tiên tri lẫn thầy tế lễ đều được gọi là “sứ
giả của Chúa” (xem MaMl 2:7; AgKg 1:13), một số người nghĩ rằng “Ma-la-
chi” chỉ là tước hiệu mà truyền thống ban cho trước giả. Quan điểm này
được ủng hộ bằng cách viện lẽ bản dịch Cựu Ước đầu tiên ra tiếng Hy Lạp
(bản Septante) dịch từ liệu ở MaMl 1:1 “bởi sứ giả của Ngài”, hơn là một
danh từ riêng Ma-la-chi. Tuy nhiên vấn đề còn chưa chắc chắn, nên rất có
thể Ma-la-chi quả thật là tên của trước giả.
Bối cảnh:
Được thúc đẩy bởi hoạt động tiên tri của A-ghê và Xa-cha-ri, những người
lưu đày trở về dưới sự lãnh đạo của quan tổng trấn Xô-rô-ba-bên đã xây
dựng xong Đền thờ năm 516 T.C. Năm 458, cộng đồng được tăng cường bởi
thầy tế lễ E-xơ-ra đến với vài ngàn người Do Thái nữa. Vua At-ta-xét-xe
nước Ba-tư khuyến khích E-xơ-ra phát triển sự thờ phượng nơi Đền thờ
(Exo Er 7:17) và làm sao để biết chắc luật pháp Môi-se được vâng giữ (Exo
Er 7:25-26).
Mười ba năm sau (445) cũng vua Ba-tư này cho phép quan tửu chánh Nê-hê-
mi trở về Giê-ru-sa-lem và xây lại vách thành (NeNe 6:15). Là quan tổng
đốc mới được bổ nhiệm, Nê-hê-mi cũng phát động cải cách giúp kẻ nghèo
(NeNe 5:2-13), và người thuyết phục dân chúng tránh sự cưới gả lẫn lộn, giữ
ngày sa-bát (NeNe 10:30-31) và trung tín dâng phần mười và sinh tế (NeNe
10:37-39).
Năm 433 T.C Nê-hê-mi trở về phục vụ vua Ba-tư, và trong lúc người vắng
mặt, người Do Thái lại sa vào tội lần nữa. Tuy nhiên, về sau, Nê-hê-mi trở
lại Giê-ru-sa-lem mới phát hiện ra dân chúng bỏ qua không dâng phần mười,
vi phạm ngày sa-bát, cưới gả lẫn lộn với người nước ngoài, và các thầy tế lễ
băng hoại (NeNe 13:7-31). Mấy tội này đều bị Ma-la-chi kết án (xem MaMl
1:6-14; 2:14-16; 3:8-11).
Niên hiệu:
Sự tương tự giữa các tội mà sách Nê-hê-mi và sách Ma-la-chi tố giác gợi ý
rằng hai nhà lãnh đạo sống đồng thời với nhau. Sách Ma-la-chi có lẽ đã chép
sau khi Nê-hê-mi trở về Ba-tư năm 433 T.C hoặc trong thời gian làm tổng
đốc lần thứ hai. Vì quan tổng đốc nêu lên ở 1:8 (xem chú thích ở đó) có lẽ
không phải là Nê-hê-mi nên rất có thể sách viết vào lúc thay đổi thứ nhất.
Ma-la-chi có lẽ là tiên tri cuối cùng của kỷ nguyên Cựu Ước (dầu có người
đã đặt sách Giô-ên ở sau).
Các chủ đề thần học:
Dầu người Do Thái đã được phép trở về từ lưu đày và xây dựng lại Đền thờ,
nhiều yếu tố ngã lòng gây nên bởi tình trạng khó chịu chung về tôn giáo: (1)
Xứ sở còn lại chỉ là một tỉnh nhỏ trong sự tù túng lạc hậu của đế quốc Ba-tư,
(2) Tương lai vinh hiển mà các tiên tri đã loan báo (kể cả những tiên tri hậu
lưu đày như A-ghê, Xa-cha-ri) chưa được thực hiện, và (3) Đức Chúa Trời
của họ chưa ngự đến Đền thờ Ngài (3:1) với quyền năng và uy nghiêm như
đã được tán dương trong Thi Tv 68:1-35 để đề cao vương quốc Ngài trước
mặt các dân. Sự nghi ngờ tình yêu giao ước của Đức Chúa Trời (MaMl 1:2)
không còn tin cậy sự chánh trực Ngài (2:17; 3:14-15), người Do Thái thuộc
cộng đồng khôi phục khởi sự mất hi vọng. Vậy, sự thờ phượng của họ suy
thoái đến độ chỉ còn hình thức, và họ không còn nghiêm túc giữ luật pháp
nữa.
Ma-la-chi quở trách sự nghi ngờ tình yêu của Đức Chúa Trời (1:2-5) và bất
trung của cả những thầy tế lễ (1:6-2:9) lẫn dân chúng (2:10-16). Họ cáo giác
Chúa là bất công (“Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” 2:17) vì Ngài
đã thiếu sót không thể đoán xét để đề cao con dân Ngài, Ma-la-chi trả lời
bằng lời loan báo và cảnh cáo. Chúa mà họ tìm kiếm sẽ đến - nhưng Ngài
đến như “lửa của thợ luyện” (3:1-4). Ngài sẽ đến xét đoán - nhưng Chúa sẽ
xét đoán dân Ngài trước nhất (3:5).
Vì Chúa không thay đổi lời cam kết và mục đích Ngài, nên Y-sơ-ra-ên chưa
bị hủy diệt hoàn toàn về tội kiên trì trong sự bất trung (3:6). Nhưng chỉ qua
sự ăn năn và cải cách mà con dân Ngài lại kinh nghiệm phước lành của Đức
Chúa Trời (3:6-12). Những người tôn trọng Chúa sẽ được tha thứ khi Ngài
đến đoán xét (3:16-18).
Kết luận, Ma-la-chi lại trấn an và cảnh cáo độc giả rằng “Ngày lớn và đáng
kính sợ của Đức Giê-hô-va” (4:5) đang đến và nó sẽ “cháy như lò lửa” (4:1).
Trong ngày đó người công chính sẽ vui mừng, và “các ngươi sẽ giày đạp
những kẻ ác” (4:1-3). Vậy , “khá nhớ lại luật pháp của đầy tớ ta là Môi-se”
(4:4). Để chuẩn bị cho ngày đó, Chúa sẽ sai “tiên tri Ê-li” kêu gọi họ trở về
con đường tin kính của tổ phụ họ (4:5-6).
Những nét nổi bậc về văn học:
Sách Ma-la-chi được gọi là “gánh nặng” (lời sấm) (xem 1:1 và chú thích), và
được viết bằng văn xuôi cao quí. Bản văn làm nổi bật chuỗi thắc mắc của cả
Chúa lẫn dân chúng. Thường các lời phát biểu của Chúa đều tiếp theo bằng
những câu hỏi châm biếm được dẫn nhập với “và các ngươi hỏi” (1:2,6-7;
2:14,17; 3:7-8,13 so sánh 1:13). Trong mỗi trường hợp Chúa đều giải đáp.
Lặp lại là yếu tố chủ yếu của sách. Danh “Đức Giê-hô-va Toàn năng” xuất
hiện 20 lần. Sách bắt đầu với sự mô tả xứ Ê-đôm bỏ hoang (1:3-4) và chấm
dứt với lời cảnh cáo về sự hủy diệt Y-sơ-ra-ên (4:6).
Nhiều hình ảnh sinh động được dùng trong sách Ma-la-chi. Những thầy tế lễ
khinh thị, khịt mũi tại bàn thờ Chúa (1:13) và Chúa trải ra trước mặt họ
những đồ thừa từ sinh tế của họ (2:3). Là Thẩm phán, “Ngài giống như lửa
của thợ luyện, như tro thợ giặt” (3:2) nhưng đối với người công chính, mặt
trời công nghĩa sẽ mọc lên cho, trong cánh nó có sự chữa bịnh. Các ngươi sẽ
đi ra và nhảy nhót như bò tơ của chuồng” (4:2)
Bố cục:
I. Nhan đề (1:1)
II. Phần dẫn nhập: Tình yêu giao ước của Chúa đối với Y-sơ-ra-ên được xác
quyết (1:2-5)
III. Quở trách sự bất trung của Y-sơ-ra-ên (1:6-2:16)
A. Sự bất trung của các thầy tế lễ (1:6-2:9)
1. Họ không tôn trọng Chúa trong các sinh tế (1:6-14)
2. Họ không trung tín dạy luật pháp (2:1-9)
B. Sự bất trung của dân chúng (2:10-16)
IV. Loan báo sự đến của Chúa (2:17-4:6)
A. Chúa sẽ đến để tinh luyện các thầy tế lễ và xét đoán dân sự (2:17-3:5)
B. Trước sự đến của Chúa, có lời kêu gọi ăn năn (3:6-18)
1. Khuyên nên trung tín dâng hiến (3:6-12)
2. Khuyên nên trung tín phục vụ (3:13-18)
C. Ngày của Chúa được loan báo (4:1-6).

Dẫn nhập Ma-thi-ơ


Các sách Phúc Âm Cộng Quan:
Đối chiếu cẩn thận bốn sách Phúc Âm cho thấy ba sách Ma-thi-ơ, Mác và
Lu-ca rõ ràng là tương tự với nhau, trong khi sách Giăng lại khác hẳn. Ba
sách Phúc Âm đầu nhất trí với nhau thật rộng rãi về ngôn ngữ, tài liệu bên
trong, và về thứ tự trong đó các biến cố và lời phán trong đời sống Chúa Cứu
Thế đã được ghi lại. (Tuy nhiên, dường như trật tự theo thời gian đã không
được noi theo thật chặt chẽ trong bất kỳ một sách Phúc Âm nào). Để nêu
một thí dụ về sự nhất trí về phương diện nội dung, xin xem Mat Mt 9:2-8;
Mac Mc 2:3-12; LuLc 5:18-26. Một thí dụ về lời nói nhất trí được tìm thấy
trong Mat Mt 10:22a; Mac Mc 13:13a; LuLc 21:17. Một đối chiếu bằng số
học cho thấy 91 phần trăm sách Phúc Âm Mác nằm trong sách Ma-thi-ơ,
trong khi có 53 phần trăm của sách Mác được tìm thấy trong sách Lu-ca.
Một sự nhất trí như vậy gợi lên các thắc mắc liên hệ đến nguồn gốc của các
sách Phúc Âm Cộng quan. Phải chăng các trước giả đều dựa vào cùng một
nguồn tài liệu chung nào đó? Các vị có bị lệ thuộc lẫn nhau không? Các vấn
đề sau đây họp thành điều được biết là vấn đề Cộng quan. Và nhiều giải
pháp đã được gợi ý:
1. Việc sử dụng truyền khẩu. Một số người cho rằng truyền khẩu đã trở
thành quá phổ cập đến nỗi cung cấp một nguồn tài liệu chung, để tất cả các
trước giả sách Phúc Âm đều cùng khai thác.
2. Việc sử dụng một sách Phúc Âm nguyên thuỷ. Có người giả thiết rằng tất
cả các trước giả các sách Phúc Âm đều nhờ vào một sách Phúc Âm nguyên
thuỷ, nay đã thất lạc.
3. Việc sử dụng các trích đoạn thành văn. Có người đoan quyết rằng đã có
nhiều trích đoạn thành văn đã được soạn thảo liên hệ đến nhiều biến cố khác
nhau trong cuộc đời Chúa Cứu Thế và các trước giả các sách Phúc Âm Cộng
quan đã sử dụng số tài liệu ấy.
4. Sự lệ thuộc lẫn nhau. Có người gợi ý rằng các trước giả các sách Phúc Âm
Cộng quan đều lấy tài liệu của nhau, nên hậu quả là những gì các vị viết lại
thường rất giống nhau.
5. Việc sử dụng hai nguồn tài liệu chính. Quan điểm phổ biến nhất cho rằng
hai nguồn tài liệu chính là sách Phúc Âm Mác và một nguồn tài liệu được
giả thiết - gọi là Quele (Đức văn có nghĩa là “nguồn gốc”) hay Q đã được
Ma-thi-ơ và Lu-ca dùng làm gốc cho phần lớn số tài liệu được đưa vào các
sách Phúc Âm của hai vị.
6. Quyền ưu tiên và việc sử dụng sách Ma-thi-ơ. Một quan điểm khác cho
rằng hai sách Cộng quan kia đã dùng sách Ma-thi-ơ làm tài liệu gốc chính
yếu.
7. Một tổng hợp phần lớn các quan điểm trên. Thuyết này khẳng định rằng
các trước giả cách sách Phúc Âm Cộng quan đều lợi dụng truyền khẩu, các
trích đoạn thành văn, đều lệ thuộc vào các trước giả Cộng quan khác hoặc
các sách Phúc Âm của các vị ấy, và lời chứng của các nhân chứng từng
chứng kiến tận mắt các sự việc.
Định niên đại các sách Phúc Âm Cộng Quan
I. Quan điểm A: Ma-thi-ơ và Lu-ca dùng Mác làm nguồn chính
1. Mác được viết vào thập niên 50 hay đầu thập niên 60
a. Ma-thi-ơ được viết cuối thập niên 50 hoặc thập niên 60.
b. Lu-ca được viết 59-63
2. Mác được viết 65-70
a. Ma-thi-ơ được viết trong thập niên 70
b. Lu-ca được viết trongthập niên 70
II. Quan điểm B: Ma-thi-ơ và Lu-ca đã không dùng Mác làm tài liệu gốc
1. Có lẽ Mác đã không hề được viết vào giữa 50-70
2. Mác được viết 65-70
a. Ma-thi-ơ được viết đầu thập niên 50 (xem phần Dẫn nhập sách Ma-thi-ơ
niên đại và nơi viết sách).
b. Lu-ca được viết 59-63 (xem phần Dẫn nhập sách Lu-ca: niên đại và nơi
viết sách.
Trước giả:
Các giáo phụ đầu tiên đều đồng thanh chủ trương rằng Ma-thi-ơ, một trong
12 sứ đồ, là trước giả sách Phúc Âm này. Tuy nhiên, kết quả của các nhà
nghiên cứu phê bình hiện đại - đặc biệt những người nhấn mạnh Ma-thi-ơ
tuỳ thuộc vào Mác để viết phần lớn sách Phúc Âm mình - đã khiến các học
giả Thánh Kinh chối bỏ tác quyền của Ma-thi-ơ. Họ hỏi: Tại sao Ma-thi-ơ,
người mục kích những sự việc trong đợi Chúa lại phải tuỳ thuộc vào sách
Mác nhiều đến thế? Câu giải đáp tốt nhất là người đồng ý với sách đó và
muốn chỉ tỏ rằng lời chứng về Chúa Cứu Thế của các sứ đồ không hề bị chia
rẽ.
Ma-thi-ơ, có nghĩa “ân tứ của Đức Chúa Trời”, vốn là người thâu thuế đã từ
bỏ công việc mình để theo Chúa Giê-xu (Mat Mt 9:9-13). Trong sách Mác
và Lu-ca người được gọi bằng tên khác là Lê-vi.
Niên hiệu và nơi viết sách:
Tánh chất Do Thái của Phúc Âm Ma-thi-ơ có thể gợi ý rằng sách được viết
tại xứ Palestine, dầu có nhiều suy nghĩ cho rằng nó có thể xuất xứ từ An-ti-
ốt xứ Sy-ri. Có người biện luận trên căn bản đặc tính Do Thái của sách rằng
sách viết nhằm thời Hội Thánh đầu tiên, có lẽ đầu năm 50 SCN, khi Hội
Thánh phần lớn là người Do Thái, và Phúc Âm chỉ giảng cho người Do Thái
thôi (Cong Cv 11:19). Tuy nhiên, những người đã kết luận rằng cả Ma-thi-ơ
lẫn Lu-ca đều dựa vào Phúc Âm Mác, lại định niên hiệu về sau này - sau khi
Phúc Âm Mác đã được lưu chuyển một thời gian rồi. Theo đó, họ cho rằng
Ma-thi-ơ viết vào cuối thập niên 50 hoặc thập niên 60. Còn người khác giả
định rằng Mác được viết giữa năm 65 và 70, thì đặt Ma-thi-ơ vào thập niên
70 hoặc sau nữa.
Những người nhận sách:
Vì Phúc Âm Ma-thi-ơ được viết bằng tiếng Hy Lạp, các đọc giả sách Ma-
thi-ơ rõ ràng đều nói tiếng Hy Lạp. Dường như họ cũng là người Do Thái.
Nhiều yếu tố chỉ rõ người đọc là Do Thái: Ma-thi-ơ quan tâm đến sự ứng
nghiệm của Cựu Ước (người trích dẫn cũng ám chỉ đến Cựu Ước nhiều hơn
các trước giả Tân Ước) truy nguyên tông tích Chúa Giê-xu từ Áp-ra-ham
(Mat Mt 1:1-17), thiếu sót trong sự cắt nghĩa phong tục Do Thái (đặc biệt là
tương phản với Mác), dùng từ liệu Do Thái (tỉ dụ, “Nước Trời” và “Cha trên
trời” tại đó “trời” bày tỏ lòng tôn kính của người Do Thái, miễn cưỡng dùng
đến Danh Đức Chúa Trời), nhấn mạnh vai trò của Chúa Giê-xu như là “Con
vua Đa-vít” (1:1; 9:27; 12:23; 15:22; 20:30-31; 21:9,15; 22:41-45). Tuy
nhiên, điều này không có nghĩa là Ma-thi-ơ chỉ hạn chế Phúc Âm mình cho
người Do Thái. Ông ghi chép sự đến của các nhà bác học (ngoài Do Thái)
đến thờ lạy Con Trẻ Giê-xu (2:1-2) cũng như lời phát biểu của Chúa Giê-xu
rằng “Đồng ruộng là thế gian” (13:38). Ông cũng phát biểu đầy đủ về
Nhiệm Mạng Trọng Yếu (28:18-20). Những phân đoạn này chứng tỏ rằng
dầu Phúc Âm Ma-thi-ơ là dành cho người Do Thái, nhưng vẫn có quan điểm
phổ thông.
Mục đích:
Mục đích chính của Ma-thi-ơ là chứng tỏ cho các đọc giả Do Thái rằng
Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si của họ. Trước tiên ông làm điều này bằng cách
bày tỏ cách nào Chúa Giê-xu trong đời sống và chức vụ đã làm thành
nghiệm Thánh Kinh Cựu Ước. Dầu tất cả trước giả Phúc Âm đều trích dẫn
Cựu Ước, Ma-thi-ơ bao gồm thêm cả 9 đoạn trích bằng cớ (1:22-23; 2:15;
2:17-18; 2:23; 4:14-16; 8:17; 12:17-21; 13:35; 27:9-10) để nhấn mạnh chủ
đề cơ bản của mình: Chúa Giê-xu là sự thành nghiệm những dự ngôn Cựu
Ước về Đấng Mê-si. Thậm chí Ma-thi-ơ còn tìm thấy lịch sử tuyển dân Đức
Chúa Trời trong Cựu Ước tóm tắt lại trong vài phương diện đời sống Chúa
Giê-xu (xem thí dụ, Ma-thi-ơ trích dẫn OsHs 11:1 trong Mat Mt 2:15). Để
làm trọn mục đích của mình Ma-thi-ơ cũng nhấn mạnh Chúa Giê-xu thuộc
dòng dõi Đa-vít (xem NHỮNG NGƯỜI NHẬN SÁCH ở trên).
Cấu trúc:
Cách sắp xếp tài liệu chứng tỏ bút pháp tài tình. Toàn bộ Phúc Âm được dệt
quanh 5 diễn từ lớn: (1). các chương 5-7; (2). chương 10, (3). chương 13,
(4). chương 18, (5). các chương 24-25. Điều này có suy tính chín chắn và rõ
ràng nhờ ở điệp khúc kết thúc mỗi diễn từ: “Khi Chúa Giê-xu vừa phán
những lời ấy xong” hoặc những lời tương tự (7:28; 11:1; 13:53; 19:1; 26:1).
Những tiết tường thuật, trong mỗi trường hợp, dẫn đến các diễn từ cách
thích đáng. Sách Phúc Âm có đoạn mở đầu thích hiệp (các chương 1-2) và
một đoạn kết đầy thách thức (28:16-20).
Việc chia sách làm 5 phần gợi ý rằng Ma-thi-ơ rập khuôn sách mình theo
cấu trúc của Ngũ kinh Môi-se (5 sách đầu Cựu Ước). Cũng có lẽ người đã
trình bày Phúc Âm như sách Torah mới và Chúa Giê-xu như một Môi-se
mới và lớn hơn nữa.
Bố cục:
I. Sự giáng sanh và các thời niên thiếu của Chúa Giê-xu (dc 1:1-2:23;)
A. Gia phả của Chúa Giê-xu (1:1-17)
B. Sự giáng sinh của Chúa Giê-xu (1:18-2:12)
C. Hành trình đến Ai-cập (dc 2:13-23;)
II. Khởi đầu chức vụ Chúa Giê-xu (3:1-4:11)
A. Người tiền khu của Chúa Giê-xu (3:1-12)
B. Lễ báp-tem của Chúa Giê-xu (3:13-17)
C. Sự cám dỗ Chúa Giê-xu (4:1-11)
III. Chức vụ của Chúa Giê-xu tại Ga-li-lê (4:12-14:12)
A. Khởi đầu chiến dịch tại Ga-li-lê (4:12-25)
B. Bài giảng trên núi (5:1-7:29)
C. Sưu tập các phép lạ (8:1-9:38)
D. Sự bổ nhiệm 12 sứ đồ (10:1-42)
E. Chức vụ ở khắp xứ Ga-li-lê (11:1-12:50)
F. Những ẩn dụ về Vương quốc (13:1-58)
G. Phản ứng của Hê-rốt đối với chức vụ Chúa Giê-xu (14:1-12)
IV. Chúa Giê-xu rút lui khỏi Ga-li-lê (14:13-17:20)
A. Tới bờ phía đông biển Ga-li-lê (14:13-15:20)
B. Đến Phê-ni-xi (15:21-28)
C. Đến Đê-ca-bô-lơ (15:29-16:12)
D. Đến Sê-sa-rê Phi-líp (16:13-17:20)
V. Chức vụ sau cùng của Chúa Giê-xu tại Ga-li-lê (17:22-18:35)
A. Dự ngôn về sự chết của Chúa Giê-xu (17:22-23)
B. Thuế Đền thờ (17:24-27)
C. Diễn từ về nếp sống trong vương quốc (18:1-35)
VI. Chức vụ của Chúa Giê-xu tại Giu-đê và Bê-rê (19:1-20:34)
A. Dạy về sự ly dị (19:1-12)
B. Dạy về các con trẻ (19:13-15)
C. Người trai trẻ giàu có (19:16-30)
D. Ngụ ngôn về những người làm công trong vườn nho (20:1-16)
E. Dự ngôn về sự chết của Chúa Giê-xu (20:17-19)
F. Lời thỉnh cầu của một bà mẹ (20:29-34)
VII. Tuần lễ thương khó (21:1-27:66)
A. Sự vào thành cách khải hoàn (21:1-11)
B. Sự dẹp sạch Đền thờ (21:12-17)
C. Những cuộc tranh luận cuối cùng với các lãnh tụ Do Thái (21:18-23:39)
D. Diễn từ trên núi Ô-li-ve về ngày tận thế (24:1-25:46)
E. Sự xức dầu chân Chúa Giê-xu (26:1-13)
F. Sự bắt giữ, xử án và sự chết của Chúa Giê-xu (26:14-27:66)
VIII. Sự phục sinh (28:1-20)

Dẫn nhập Mác


Các sách Phúc Âm Cộng Quan:
Đối chiếu cẩn thận bốn sách Phúc Âm cho thấy ba sách Ma-thi-ơ, Mác và
Lu-ca rõ ràng là tương tự với nhau, trong khi sách Giăng lại khác hẳn. Ba
sách Phúc Âm đầu nhất trí với nhau thật rộng rãi về ngôn ngữ, tài liệu bên
trong, và về thứ tự trong đó các biến cố và lời phán trong đời sống Chúa Cứu
Thế đã được ghi lại. (Tuy nhiên, dường như trật tự theo thời gian đã không
được noi theo thật chặt chẽ trong bất kỳ một sách Phúc Âm nào). Để nêu
một thí dụ về sự nhất trí về phương diện nội dung, xin xem Mat Mt 9:2-8;
Mac Mc 2:3-12; LuLc 5:18-26. Một thí dụ về lời nói nhất trí được tìm thấy
trong Mat Mt 10:22a; Mac Mc 13:13a; LuLc 21:17. Một đối chiếu bằng số
học cho thấy 91 phần trăm sách Phúc Âm Mác nằm trong sách Ma-thi-ơ,
trong khi có 53 phần trăm của sách Mác được tìm thấy trong sách Lu-ca.
Một sự nhất trí như vậy gợi lên các thắc mắc liên hệ đến nguồn gốc của các
sách Phúc Âm Cộng quan. Phải chăng các trước giả đều dựa vào cùng một
nguồn tài liệu chung nào đó? Các vị có bị lệ thuộc lẫn nhau không? Các vấn
đề sau đây họp thành điều được biết là vấn đề Cộng quan. Và nhiều giải
pháp đã được gợi ý:
1. Việc sử dụng truyền khẩu. Một số người cho rằng truyền khẩu đã trở
thành quá phổ cập đến nỗi cung cấp một nguồn tài liệu chung, để tất cả các
trước giả sách Phúc Âm đều cùng khai thác.
2. Việc sử dụng một sách Phúc Âm nguyên thuỷ. Có người giả thiết rằng tất
cả các trước giả các sách Phúc Âm đều nhờ vào một sách Phúc Âm nguyên
thuỷ, nay đã thất lạc.
3. Việc sử dụng các trích đoạn thành văn. Có người đoan quyết rằng đã có
nhiều trích đoạn thành văn đã được soạn thảo liên hệ đến nhiều biến cố khác
nhau trong cuộc đời Chúa Cứu Thế và các trước giả các sách Phúc Âm Cộng
quan đã sử dụng số tài liệu ấy.
4. Sự lệ thuộc lẫn nhau. Có người gợi ý rằng các trước giả các sách Phúc Âm
Cộng quan đều lấy tài liệu của nhau, nên hậu quả là những gì các vị viết lại
thường rất giống nhau.
5. Việc sử dụng hai nguồn tài liệu chính. Quan điểm phổ biến nhất cho rằng
hai nguồn tài liệu chính là sách Phúc Âm Mác và một nguồn tài liệu được
giả thiết - gọi là Quele (Đức văn có nghĩa là “nguồn gốc”) hay Q đã được hai
Ma-thi-ơ và Lu-ca dùng làm gốc cho phần lớn số tài liệu được đưa vào các
sách Phúc Âm của hai vị.
6. Quyền ưu tiên và việc sử dụng sách Ma-thi-ơ. Một quan điểm khác cho
rằng hai sách Cộng quan kia đã dùng sách Ma-thi-ơ làm tài liệu gốc chính
yếu.
7. Một tổng hợp phần lớn các quan điểm trên. Thuyết này khẳng định rằng
các trước giả cách sách Phúc Âm Cộng quan đều lợi dụng truyền khẩu, các
trích đoạn thành văn, đều lệ thuộc vào các trước giả Cộng quan khác hoặc
các sách Phúc Âm của các vị ấy, và lời chứng của các nhân chứng từng
chứng kiến tận mắt các sự việc.
Định niên đại các sách Phúc Âm Cộng Quan
I. Quan điểm A: Ma-thi-ơ và Lu-ca dùng Mác làm nguồn chính
1. Mác được viết vào thập niên 50 hay đầu thập niên 60
a. Ma-thi-ơ được viết cuối thập niên 50 hoặc thập niên 60.
b. Lu-ca được viết 59-63
2. Mác được viết 65-70
a. Ma-thi-ơ được viết trong thập niên 70
b. Lu-ca được viết trongthập niên 70
II. Quan điểm B: Ma-thi-ơ và Lu-ca đã không dùng Mác làm tài liệu gốc
1. Có lẽ Mác đã không hề được viết vào giữa 50-70
2. Mác được viết 65-70
a. Ma-thi-ơ được viết đầu thập niên 50 (xem phần Dẫn nhập sách Ma-thi-ơ
niên đại và nơi viết sách).
b. Lu-ca được viết 59-63 (xem phần Dẫn nhập sách Lu-ca: niên đại và nơi
viết sách.
Trước giả:
Tuy không có nội chứng hiển nhiên trực tiếp liên hệ đến trước giả, Hội
Thánh nguyên thuỷ đồng thanh làm chứng rằng sách Phúc Âm này đã được
Giăng Mác viết. Chứng cứ hiển nhiên quan trọng nhất được Papias (khoảng
140 S.C) truyền lại, khi ông trích dẫn một nguồn tài liệu còn sớm hơn nữa,
bảo rằng: 1. Mác là một cộng tác viên thân cận của Phi-e-rơ, là nhân vật đã
kể lại cho ông về những gì Chúa Giê-xu đã nói và làm. 2. lời truyền khẩu
vốn không đến với Mác như một sách ký thuật hoàn chỉnh, có tính cách liên
tục về cuộc đời của Chúa chúng ta, nhưng như một bài giảng của Phi-e-rơ -
được truyền giảng theo các nhu cầu của các cộng đồng Cơ-đốc giáo nguyên
thuỷ. 3. Mác đã bảo tồn chính xác số tài liệu này. Kết luận rút ra từ truyền
thống này, ấy là sách Phúc Âm Mác gồm phần lớn là lời giảng của Phi-e-rơ,
đã được Giăng Mác sắp xếp và viết lại (xem chú thích ở Cong Cv 10:37).
Giăng Mác trong Tân Ước:
Mọi người đều đồng ý rằng Mác đã cộng tác với Phi-e-rơ theo truyền khẩu
ngoài Kinh Thánh thời nguyên thuỷ, cũng chính là Giăng Mác trong Tân
ước. Ông được đề cập lần đầu tiên cùng với mẹ ông, là người có một ngôi
nhà tại Giê-ru-sa-lem được dùng làm nơi hội họp cho các tín hữu (Cong Cv
12:12). Lúc Phao-lô và Ba-na-ba từ Giê-ru-sa-lem trở về An-ti-ốt sau một
lần viếng thăm do ở đó có nạn đói, Mác đã cùng đi với hai ông (Cong Cv
12:25). Sau đó, Mác xuất hiện như một “phụ tá” của Phao-lô và Ba-na-ba
trong vòng lưu hành truyền giáo đầu tiên của hai vị (Cong Cv 13:5), nhưng
rồi ông đã trốn hai người để đến Bẹt-giê, trong xứ Bam-phi-ly, rồi trở về
Giê-ru-sa-lem (Cong Cv 13:13). Chắc Phao-lô đã rất thất vọng về các hành
động này của Mác, vì khi Ba-na-ba lại đề nghị đưa Mác cùng đi trong vòng
lưu hành truyền giáo thứ hai, thì Phao-lô đã thẳng thừng từ chối, một sự
khước từ đã cắt đứt mối liên hệ công tác giữa hai vị (Cong Cv 15:36-39).
Ba-na-ba dẫn Mác theo, vì Mác vốn là em họ ông, và đi Chíp-rơ. Sách Công
vụ không còn nói gì đến một ai trong hai người ấy nữa. Mác tái hiện trong
bức thư Phao-lô gởi cho người Cô-lô-se được viết từ Rô-ma. Phao-lô có
nhắn gởi một lời chào thăm của Mác và viết thêm: “Về Mác, anh em đã chịu
lấy lời dạy bảo rồi, nếu người đến nơi anh em hãy tiếp rước tử tế” (CoCl
4:10; xem Phil Plm 1:24, được viết hầu như đồng thời). Đến đây thì rõ ràng
là Mác lại bắt đầu được Phao-lô tin cậy. Đến cuối cuộc đời mình, Phao-lô đã
phục hồi trọn vẹn mối thiện cảm với Mác (xem IITi 2Tm 4:11).
Niên đại soạn thảo:
Một số người chủ trương rằng Ma-thi-ơ và Lu-ca đều sử dụng sách Mác làm
nguồn tài liệu chính, đã gợi ý rằng có thể sách Mác đã được soạn thảo trong
thập niên 50 hoặc đầu thập niên 60. Nhiều người khác nhận thấy nội dung
của sách này và những lời phát biểu của các giáo phụ đầu tiên có liên hệ đến
Mác cho thấy sách này được viết chẳng bao lâu trước ngày thành Giê-ru-sa-
lem bị phá huỷ vào năm 70 S.C.
Địa điểm gốc:
Theo truyền thống của Hội Thánh nguyên thuỷ sách Mác đã được viết
“trong các vùng thuộc xứ Y-ra-li” (Lời nói đầu chống phái Marcion) hay
chính xác hơn, là tại Rô-ma (Irenaeus và Clement ở Alexandria). Hai tác giả
này vốn gắn chặt Mác vào với Phi-e-rơ trong việc viết ra sách Phúc Âm này.
Chứng cứ trên đây phù hợp với: 1. việc đã có thể xảy ra theo lịch sử, là Phi-
e-rơ đã sống những ngày cuối cùng của cuộc đời ông tại Rô-ma và đã tuận
đạo tại đó và 2. chứng cứ hiển nhiên trong Thánh Kinh rằng Mác cũng có
mặt tại Rô-ma vào cùng thời gian ấy, và đã cộng tác chặt chẽ với Phi-e-rơ
(xem IITi 2Tm 4:11; IPhi 1Pr 5:13, chỗ mà từ ngữ “Ba-by-lôn” có thể là một
tên khác chỉ Rô-ma).
Những người nhận sách:
Chứng cứ hiển nhiên cho thấy các độc giả mà sách này nhằm vào là Hội
Thánh tại Rô-ma hay ít ra cũng là những người ngoại quốc. Mác giải thích
các phong tục tập quán của dân Do Thái (Mac Mc 7:2-4; 15:42), phiên dịch
các từ bằng tiếng A-ram (3:17; 5:41; 7:11,34; 15:22) và dường như đã đặc
biệt quan tâm đến việc bắt bớ bách hại và chịu tử đạo (8:34-38; 13:9-13) -
những đề tài mà các tín hữu người La-mã đặc biệt quan tâm. Một địa chỉ ở
Rô-ma hầu như giải thích được việc sách Phúc Âm này đã được hoan
nghênh hầu như gnay tức khắc, rồi được phổ cập thật nhanh chóng.
Cơ hội và chủ đích:
Vì theo truyền thống, sách Phúc Âm Mác đã được gắn chặt với Rô-ma, cơ
hội để viết ra nó có thể là những cuộc bắt bớ bách hại Hội Thánh Rô-ma
trong giai đoạn khoảng 64-67 S.C. Việc thiêu huỷ thành phố Rô-ma nổi
tiếng năm 64 - có thể là do chính Nero thực hiện rồi vu oan cho các Cơ-đốc
nhân - đã đưa đến hậu quả là công cuộc bắt bớ bách hại đã lan tràn. Ngay
đến các tín hữu người La-mã cũng không phải là không có người đã chịu
tuận đạo. Có lẽ Mác đã viết sách này là nhằm chuẩn bị cho các độc giả của
ông chịu đựng cảnh đau đớn này bằng cách đặt trước mặt họ cuộc đời của
Chúa chúng ta. Đã có rất nhiều câu - cả công nhiên lẫn kín giấu đề cập nỗi
gian khổ và thân phận người làm môn đệ xuyên suốt sách Phúc Âm của ông
(xem 1:12-13; 3:22,30; 8:34-38; 10:30,33-34,45; 13:8,11-13).
Những điểm nhấn mạnh:
1. Thập tự giá. Vừa là nguyên nhân do loài người (12:12; 14:1-2; 15:10) vừa
là một điều cần thiết đối với Đức Chúa Trời (8:31; 9:31; 10:33) khiến Mác
phải nhấn mạnh đến thập tự giá.
2. Thân phận người làm môn đệ. Cần lưu ý đặc biệt những khúc sách đề cập
thân phận người làm môn đệ nảy sinh từ những lời tiên báo của Chúa Giê-xu
về sự thương khó của Ngài (8:34-9:1; 9:35-10:31; 10:42-45).
3. Những lời truyền dạy của Chúa Giê-xu. Tuy những ký thuật của Mác về
những lời truyền dạy thật sự của Chúa Giê-xu có ít hơn nhiều so với các
trước giả sách Phúc Âm khác, đã có việc nhấn mạnh rõ rệt vào vấn đề Chúa
Giê-xu với tư cách là giáo sư. Các từ ngữ “Thầy”, “dạy”, “đang dạy dỗ” và
“Ra-bi” đã được sách Mác áp dụng cho Chúa Giê-xu đến 39 lần.
4. Huyền nhiệm về Đấng Mê-si-a. Chúa Giê-xu từng cảnh cáo nhiều lần các
môn đề Ngài hoặc những người mà Ngài làm phép lạ cho, hãy giữ im lặng
về Ngài là ai và về việc Ngài đã làm (1:34,44; 3:12; 5:43; 7:36-37; 8:26-30;
9:9).
5. Con Đức Chúa Trời. Tuy sách Mác nhấn mạnh nhân tánh của Chúa Giê-
xu (xem 3:5; 6:6,31,34; 7:34; 8:12,33; 10:14; 11:12), ông vẫn không bỏ qua
thần tánh của Ngài (xem 1:1,11; 3:11; 5:7; 9:7; 12:1-11; 13:32; 15:39).
Các điểm đặc sắc:
Sách Phúc Âm Mác vốn đơn giản, ngắn gọn, không tô điểm trau chuốt,
nhưng là phần ký thuật sinh động về chức vụ của Chúa Giê-xu, nhấn mạnh
vào những gì Chúa Giê-xu làm hơn là vào những gì Ngài nói. Mác chuyển
rất nhanh từ giai đoạn này sang một giai đoạn khác trong đời sống và chức
vụ của Chúa Giê-xu, thường dùng trạng từ “tức thì” (xem chú thích ở 1:12).
Toàn thể quyển sách có đặc điểm là “Đầu Tin Lành” (hay khởi điểm của
Phúc Âm 1:1). Cuộc đời sự chết và sống lại của Chúa Cứu Thế mới chỉ là
“khởi điểm”, rồi việc truyền giảng của các sứ đồ trong sách Công vụ mới là
phần tiếp tục.
Bố cục:
I. Các khởi điểm của chức vụ của Chúa Giê-xu (1:1-13)
A. Người tiền khu cho Ngài (1:1-8)
B. Người làm phép báp-tem cho Ngài (1:9-11)
C. Kẻ cám dỗ Ngài (1:12-13)
II. Chức vụ của Chúa Giê-xu trong xứ Ga-li-lê (1:14-6:29)
A. Chức vụ sớm trong xứ Ga-li-lê (1:14-3:12)
1. Gọi các môn đệ đầu tiên (1:14-20)
2. Các phép lạ tại Ca-bê-na-um (1:21-34)
3. Một vòng trong xứ Ga-li-lê (1:35-45)
4. Chức vụ tại Ca-bê-na-um (2:1-22)
5. Tranh luận về ngày Sa-bát (2:23-3:12).
B. Chức vụ lần sau trong xứ Ga-li-lê (3:13-6:29)
1. Chức vụ 12 sứ đồ (3:13-19)
2. Dạy dỗ tại Ca-bê-na-um (3:20-35)
3. Các ẩn dụ về Nước Trời (4:1-34)
4. Chuyến đi vượt biển Ga-li-lê (4:35-5:20)
5. Thêm nhiều phép lạ trong xứ Ga-li-lê (5:21-43)
6. Lòng vô tín tại thành phố quê hương của Chúa Giê-xu (6:1-6)
7. Sáu đoàn sứ đồ đi một vòng trong xứ Ga-li-lê (6:7-13)
8. Phản ứng của vua Hê-rốt vế chức vụ của Chúa Giê-xu (6:14-29)
III. Rút lui khỏi xứ Ga-li-lê (6:30-9:32)
A. Đến bờ phía Đông biển Ga-li-lê (6:30-52)
B. Đến bờ phía Tây biển Ga-li-lê (6:53-7:23)
C. Đến xứ Phê-ni-xi (7:24-30)
D. Đến khu vực Đê-ca-bô-lơ (7:31-8:10)
E. Đến vùng phụ cận Sê-sa-rê Phi-líp (8:11-9:32)
IV. Chức vụ sau cùng trong xứ Ga-li-lê (9:33-50)
V. Chức vụ của Chúa Giê-xu trong xứ Giu-đê và Bê-rê (10:1-52)
A. Lời truyền dạy về ly dị (10:1-12)
B. Lời truyền dạy về trẻ con (10:13-16)
C. Chàng thanh niên giàu có (10:17-31)
D. Tiên báo sự chết của Chúa Giê-xu (10:32-34)
E. Lời thỉnh cầu của hai anh em (10:35-45)
F. Chữa lành cho người mù Ba-ti-mê (10:46-52)
VI. Sự thương khó của Chúa Giê-xu (11:1-15:47)
A. Vào thành Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn (11:1-11)
B. Dẹp sạch đền thờ (11:12-19)
C. Kết thúc những cuộc tranh luận với các lãnh tụ dân Do Thái (11:20-
12:44)
D. Bài thuyết giảng trên núi Ô-li-ve về tận thế (13:1-37)
E. Chúa Giê-xu được xức dầu (14:1-11)
F. Chúa Giê-xu bị bắt, bị xét xử và chịu chết (14:12-15:47)
VII. Chúa Giê-xu sống lại (16:1-20)

Dẫn nhập Lu-ca


Các sách Phúc Âm Cộng Quan:
Đối chiếu cẩn thận bốn sách Phúc Âm cho thấy ba sách Ma-thi-ơ, Mác và
Lu-ca rõ ràng là tương tự với nhau, trong khi sách Giăng lại khác hẳn. Ba
sách Phúc Âm đầu nhất trí với nhau thật rộng rãi về ngôn ngữ, tài liệu bên
trong, và về thứ tự trong đó các biến cố và lời phán trong đời sống Chúa Cứu
Thế đã được ghi lại. (Tuy nhiên, dường như trật tự theo thời gian đã không
được noi theo thật chặt chẽ trong bất kỳ một sách Phúc Âm nào). Để nêu
một thí dụ về sự nhất trí về phương diện nội dung, xin xem Mat Mt 9:2-8;
Mac Mc 2:3-12; LuLc 5:18-26. Một thí dụ về lời nói nhất trí được tìm thấy
trong Mat Mt 10:22a; Mac Mc 13:13a; LuLc 21:17. Một đối chiếu bằng số
học cho thấy 91 phần trăm sách Phúc Âm Mác nằm trong sách Ma-thi-ơ,
trong khi có 53 phần trăm của sách Mác được tìm thấy trong sách Lu-ca.
Một sự nhất trí như vậy gợi lên các thắc mắc liên hệ đến nguồn gốc của các
sách Phúc Âm Cộng quan. Phải chăng các trước giả đều dựa vào cùng một
nguồn tài liệu chung nào đó? Các vị có bị lệ thuộc lẫn nhau không? Các vấn
đề sau đây họp thành điều được biết là vấn đề Cộng quan. Và nhiều giải
pháp đã được gợi ý:
1. Việc sử dụng truyền khẩu. Một số người cho rằng truyền khẩu đã trở
thành quá phổ cập đến nỗi cung cấp một nguồn tài liệu chung, để tất cả các
trước giả sách Phúc Âm đều cùng khai thác.
2. Việc sử dụng một sách Phúc Âm nguyên thuỷ. Có người giả thiết rằng tất
cả các trước giả các sách Phúc Âm đều nhờ vào một sách Phúc Âm nguyên
thuỷ, nay đã thất lạc.
3. Việc sử dụng các trích đoạn thành văn. Có người đoan quyết rằng đã có
nhiều trích đoạn thành văn đã được soạn thảo liên hệ đến nhiều biến cố khác
nhau trong cuộc đời Chúa Cứu Thế và các trước giả các sách Phúc Âm Cộng
quan đã sử dụng số tài liệu ấy.
4. Sự lệ thuộc lẫn nhau. Có người gợi ý rằng các trước giả các sách Phúc Âm
Cộng quan đều lấy tài liệu của nhau, nên hậu quả là những gì các vị viết lại
thường rất giống nhau.
5. Việc sử dụng hai nguồn tài liệu chính. Quan điểm phổ biến nhất cho rằng
hai nguồn tài liệu chính là sách Phúc Âm Mác và một nguồn tài liệu được
giả thiết - gọi là Quele (Đức văn có nghĩa là “nguồn gốc”) hay Q đã được
Ma-thi-ơ và Lu-ca dùng làm gốc cho phần lớn số tài liệu được đưa vào các
sách Phúc Âm của hai vị.
6. Quyền ưu tiên và việc sử dụng sách Ma-thi-ơ. Một quan điểm khác cho
rằng hai sách Cộng quan kia đã dùng sách Ma-thi-ơ làm tài liệu gốc chính
yếu.
7. Một tổng hợp phần lớn các quan điểm trên. Thuyết này khẳng định rằng
các trước giả cách sách Phúc Âm Cộng quan đều lợi dụng truyền khẩu, các
trích đoạn thành văn, đều lệ thuộc vào các trước giả Cộng quan khác hoặc
các sách Phúc Âm của các vị ấy, và lời chứng của các nhân chứng từng
chứng kiến tận mắt các sự việc.
Định niên đại các sách Phúc Âm Cộng Quan
I. Quan điểm A: Ma-thi-ơ và Lu-ca dùng Mác làm nguồn chính
1. Mác được viết vào thập niên 50 hay đầu thập niên 60
a. Ma-thi-ơ được viết cuối thập niên 50 hoặc thập niên 60.
b. Lu-ca được viết 59-63
2. Mác được viết 65-70
a. Ma-thi-ơ được viết trong thập niên 70
b. Lu-ca được viết trongthập niên 70
II. Quan điểm B: Ma-thi-ơ và Lu-ca đã không dùng Mác làm tài liệu gốc
1. Có lẽ Mác đã không hề được viết vào giữa 50-70
2. Mác được viết 65-70
a. Ma-thi-ơ được viết đầu thập niên 50 (xem phần Dẫn nhập sách Ma-thi-ơ
niên đại và nơi viết sách).
b. Lu-ca được viết 59-63 (xem phần Dẫn nhập sách Lu-ca: niên đại và nơi
viết sách.
Trước giả:
Tên trước giả không thấy ghi trong sách, nhưng có nhiều chứng cứ hiển
nhiên không nhầm lẫn vào đâu được chỉ vào Lu-ca. Sách Phúc Âm này là
một bạn đồng hành với sách Công vụ, và ngôn ngữ cũng như cấu trúc của cả
hai sách cho thấy cả hai đều do cùng một người viết ra. Chúng được gởi cho
cùng một người tên là Thê-ô-phi-lơ và quyển thứ hai có đề cập quyển trước
(Cong Cv 1:1). Một số các đoạn sách trong Công vụ có dùng đại danh từ
“chúng ta” (Cong Cv 16:10-17; 20:5-15; 1:1-18; 27:1-28:16), cho thấy trước
giả vốn ở với Phao-lô lúc các biến cố được mô tả trong các khúc sách ấy xảy
ra. Bằng quá trình loại bỏ dần, “người bạn thân và là thầy thuốc yêu dấu”
(CoCl 4:14) và cũng là “bạn cùng làm việc của Phao-lô” (Phil Plm 1:24) là
Lu-ca đã trở thành ứng viên hữu lý nhất. Tác quyền của ông đã được lời
chứng của toàn thể các văn phẩm Cơ Đốc giáo thời nguyên thuỷ đồng thanh
hậu thuẫn cho (chẳng hạn sách Muratorian Canon 170 S.C và các tác phẩm
của Irenaeus khoảng 180).
Có lẽ Lu-ca là một người ngoại quốc, được giáo dục kỹ lưỡng về văn hoá Hy
Lạp, hành nghề y sĩ, là một bạn đồng hành với Phao-lô vào nhiều giai đoạn
của vòng lưu hành truyền giáo thứ hai của ông, cho đến khi ông bị bắt giam
lần đầu tiên tại Rô-ma, và là một bạn thân trung thành vẫn ở lại với vị sứ dồ
sau khi nhiều người khác đã bỏ rơi ông (IITi 2Tm 4:11).
An-ti-ốt (xứ Sy-ri) và Phi-líp thuộc trong số các thành phố đã từng được gợi
ý là sinh quán của ông.
Người nhận và chủ đích:
Sách Phúc Âm này được gởi riêng cho Thê-ô-phi-lơ (LuLc 1:3) mà cái tên
có nghĩa là “một người yêu mến Đức Chúa Trời” và hầu như chắc chắn là
chỉ vào một cá nhân, chớ không phải là số người yêu mến Đức Chúa Trời
nói chung. Cách dùng từ ngữ “quí nhơn” kèm theo tên, càng cho thấy rõ hơn
nữa rằng đó là một cá nhân, và hậu thuẫn cho cái ý kiến rằng ông ta là một
quan chức người La Mã hay ít ra cũng là một người có địa vị cao và giàu có.
Rất có thể ông là người đỡ đầu cho Lu-ca, chịu trách nhiệm lo sao cho các
văn phẩm của ông phải được chép lại và phân phát ra. Một lời đề tặng như
vậy cho một nhà xuất bản vốn phổ biến thời bấy giờ.
Tuy nhiên, Thê-ô-phi-lơ vượt xa một người lo xuất bản và phát hành sách.
Bức thông điệp trong sách Phúc Âm này vốn nhằm vào việc chỉ bảo, giáo
huấn cho chính ông (1:4) cũng như chỉ dạy cho số người mà quyển sách này
sẽ được chuyền tay đến. Sự kiện sách Phúc Âm này thoạt tiên được gởi đến
cho Thê-ô-phi-lơ không hề nói lên chủ đích hẹp hòi hay giới hạn của nó. Nó
sở dĩ được viết ra, là nhằm mục đích củng cố đức tin cho toàn thể các tín
hữu và nhằm trả lời cho những lời công kích của đám người vô tín. Nó đã
được giới thiệu để bài bác những điều xuyên tạc và truyện kể vô căn cứ liên
hệ đến Chúa Giê-xu. Lu-ca muốn chứng minh rằng địa vị của Cơ Đốc nhân
người ngoại quốc trong Nước Trời được đặt nền trên lời truyền dạy của
Chúa Giê-xu. Ông muốn gởi gắm lời truyền giảng về Phúc Âm cho toàn thế
giới.
Niên đại và địa điểm viết sách:
Hai gợi ý phổ biến nhất về các giai đoạn để định niên đại cho sách Phúc Âm
Lu-ca là: 1. từ 59-63 SCN, và 2. thập niên 70 hoặc 80.
Địa điểm viết sách này có lẽ là Rô-ma, tuy xứ A-chai, thành phố Ê-phê-sô và
Sê-sa-rê cũng đã được gợi ý. Nơi nó được gởi đến dĩ nhiên tuỳ thuộc chỗ cư
trú của Thê-ô-phi-lơ. Căn cứ vào cách vạch rõ thật chi tiết nhiều địa điểm
trong xứ Palestine, sách Phúc Âm này dường như chủ ý dành cho số độc giả
không quen biết với đất ấy. Các địa chỉ để gởi sách đến có thể là An-ti-ốt, A-
chai và Ê-phê-sô.
Bút pháp:
Rõ ràng là Lu-ca rất thông thạo Hi-văn. Dụng ngữ của ông thật bao quát và
phong phú, còn bút pháp của ông thì ở nhiều điểm, rất gần với Hi-văn cổ
điển (như trong lời tựa, 1:1-4), trong khi ở nhiều chỗ khác lại có phong cách
Semitic (1:5-2:52) - thường rất giống với bản dịch Cựu ước ra Hi-văn. Dụng
ngữ của ông cho thấy dường như ông rất am hiểu về địa lý và văn hoá ở chỗ
nó luôn luôn đa dạng khi mô tả từng xứ, từng con người cá biệt. Khi Lu-ca
nói về Phi-e-rơ trong một bối cảnh Do Thái, ông dùng nhiều ngôn ngữ
Semitic hơn là khi ông đề cập Phao-lô trong một bối cảnh Hy Lạp.
Các đăc điểm:
Sách Phúc Âm thứ ba trình bày các việc làm và lời truyền dạy của Chúa Giê-
xu vốn đặc biệt quan trọng để nhờ đó mà thấu hiểu con đường cứu rỗi. Phạm
vi của nó thật đầy đủ từ lúc Chúa Cứu Thế ra đời cho đến lúc Ngài thăng
thiên. Cách sắp xếp rất trật tự, và kêu gọi sự chú ý của cả người Do Thái lẫn
ngoại quốc. Đặc điểm của tác phẩm này là tuyệt vời về mặt văn chương và
chi tiết lịch sử, và sự am hiểu nồng hậu, nhạy bén về Chúa Giê-xu và những
người sống quanh Ngài.
Vì các sách phúc âm Cộng quan (Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca) ký thuật nhiều
giai đoạn giống nhau trong cuộc đời Chúa Giê-xu cho nên người ta có thể
trông đợi nhiều chỗ tương tự nhau trong các phần ký thuật, những điều bất
đồng thì vạch rõ những điểm phân biệt rõ rệt được từng trước giả nhấn
mạnh: Các luận đề đặc sắc của sách Lu-ca gồm có: 1. phổ quát tính,việc thừa
nhận cả người ngoại quốc lẫn Do Thái vào trong kế hoạch của Đức Chúa
Trời. 2. nhấn mạnh sự cầu nguyện, nhất là việc Chúa Giê-xu cầu nguyện
nhân nhiều cơ hội quan trọng (xem chú thích ở 3:21). 3. niềm vui khi Phúc
Âm hay “tin mừng, tin lành” được công bố (xem chú thích ở 1:14). 4. mối
bận tâm đặc biệt đến vai trò của phụ nữ. 5. mối quan tâm đặc biệt đến kẻ
nghèo (trong số người theo Chúa Giê-xu cũng có vài người giàu, nhưng
dường như Ngài gần gũi, thân thiết hơn với người nghèo). 6. mối bận tâm
đến các tội nhân (Chúa Giê-xu là bạn thân của những kẻ đang chìm sâu
trong tội lỗi). 7. nhấn mạnh đến sinh hoạt trong gia đình (hoạt động của
Chúa Giê-xu bao gồm đàn ông, phụ nữ, và trẻ con, với bối cảnh thường gặp
trong gia đình). 8. danh hiệu “Con Người” được nhắc đi nhắc lại, nhiều lần
(chẳng hạn 19:10). 9. nhấn mạnh trên Đức Thánh Linh (xem chú thích ở
4:1).
Các nguồn tài liệu:
Tuy Lu-ca nhìn nhận đã có nhiều người khác viết về cuộc đời Chúa Giê-xu
rồi (1:1), ông vẫn không bảo là ông dựa vào các bản tường trình ấy để xây
dựng nên văn phẩm của chính mình. Ông đã sử dụng việc tra cứu và sắp xếp
riêng, trên cơ sở là lời làm chứng của “các người chứng kiến từ lúc ban đầu
và trở nên người giảng đạo” (1:2) - nghĩa là gồm cả những lời giảng dạy lẫn
những lời kể lại bằng miệng của các sứ đồ. Ngôn ngữ của ông khác với các
trước giả Cộng quan khác, và cách tập trung thành nhiều khối số tài liệu
phân biệt của ông (chẳng hạn 10:1-18:14; 19:1-28) cho thấy đây là một tác
phẩm độc lập, tuy rõ ràng là ông có sử dụng cùng một số các nguồn tài liệu
giống nhau.
Lược đồ:
Phần ký thuật về chức vụ của Chúa Giê-xu của Lu-ca có thể chia thành ba
phần lớn: 1. các biến cố xảy ra bên trong và chung quanh xứ Ga-li-lê (4:14-
9:50). 2. các biến cố xảy ra trong xứ Giu-đê và Bê-rê (9:51-19:27) và 3. các
biến cố trong tuần lễ cuối cùng tại Giê-ru-sa-lem (19:28-24:53). Tính cách
độc đáo của Lu-ca được đặc biệt nhận thấy trong số tài liệu ông dành cho
giai đoạn kết thúc của chức vụ của Chúa Giê-xu trong xứ Giu-đê và Bê-rê.
Số tài liệu này gồm phần lớn các phần ký thuật các bài thuyết giảng của
Chúa Giê-xu. 16 trong số 23 ẩn dụ xuất hiện trong sách Lu-ca đã được tìm
thấy ở đây (9:51-18:14; 19:1-28). Trong số 20 phép lạ được ghi lại trong
sách Lu-ca, chỉ có bốn là xuất hiện trong các đoạn này. Ngay từ chương thứ
chín (xem chú thích ở 9:51), ta đã thấy Chúa Giê-xu báo trước việc Ngài sẽ
xuất hiện lần chót tại Giê-ru-sa-lem và việc Ngài sẽ bị đóng đinh vào thập tự
giá (xem chú thích ở 13:22).
Luận đề chính của sách Phúc Âm này là bản tính của chức vụ Mê-si-a và sứ
mạng của Chúa Giê-xu, và câu chìa khoá là 19:10.
Bố cục:
I. Tựa (1:1-4)
II. Chúa Giê-xu giáng lâm (1:5-2:52)
A. Sự loan báo (1:5-56)
B. Giăng Báp-tít ra đời (1:57-80)
C. Chúa Giê-xu giáng sanh và thuở ấu thời của Ngài (2:1-52)
III. Chúa Giê-xu chuẩn bị cho chức vụ công khai của Ngài (3:1-4:13)
A. Người dọn đường cho (3:1-20)
B. Ngài chịu phép báp-tem (3:21-22)
C. Gia phổ của Ngài (3:23-38)
D. Ngài chịu cám dỗ (4:1-13)
IV. Chức vụ của Ngài trong xứ Ga-li-lê (4:14-9:9)
A. Bắt đầu chức vụ tại Ga-li-lê (4:14-41)
B. Vòng đi đầu tiên trong xứ Ga-li-lê (4:42-5:39)
C. Cuộc tranh luận nhằm ngày Sa-bát (6:1-11)
D. Tuyển chọn 12 sứ đồ (6:12-16)
E. Bài giảng trong đồng bằng (6:17-49)
F. Các phép lạ tại Ca-bê-na-um và Na-in (7:1-18)
G. Thắc mắc của Giăng Báp-tít (7:19-29)
H. Chúa Giê-xu và người Pha-ri-si (7:30-50)
I. Vòng đi thứ hai trong xứ Ga-li-lê (8:1-3)
J. Các ẩn dụ về Nước Trời (8:4-21)
K. Vượt biển Ga-li-lê (8:22-39)
L. Vòng đi thứ ba trong xứ Ga-li-lê (8:40-9:9)
V. Chúa lánh khỏi các vùng chung quanh xứ Ga-li-lê (9:10-50)
A. Đến bờ phía Đông biển Ga-li-lê (9:10-17)
B. Đến Sê-sa-rê Phi-líp (9:18-50)
VI. Chức vụ của Ngài trong xứ Giu-đê (9:51-13:21)
A. Chuyến đi ngang qua xứ Sa-ma-ri để đến Giu-đê (9:51-62)
B. Sứ mạng của 70 môn đệ (10:1-24)
C. Thầy dạy luật và ẩn dụ về người Sa-ma-ri nhân lành (10:25-37)
D. Chúa Giê-xu tại Bê-tha-ni với Ma-ri và Ma-thê (10:38-42)
E. Dạy dỗ trong xứ Giu-đê (11:1-13:21)
VII. Chức vụ của Ngài chung quanh Bê-rê (13:22-19:27)
A. Cửa hẹp (13:22-30)
B. Cảnh cáo liên hệ đến Hê-rốt (13:31-35)
C. Tại nhà một người Pha-ri-si (14:1-23)
D. Giá phải trả của người làm môn đệ (14:24-35)
E. Các ẩn dụ về con chiên lạc, đồng bạc mất và đứa con trai hoang đàng
(15:1-32)
F. Ẩn dụ về người quản gia bất trung (16:1-18)
G. Người nhà giàu và La-xa-rơ (16:19-31)
H. Những lời truyền dạy khác (17:1-10)
I. Mười người phung được chữa lành (17:11-19)
J. Nước Trời đến như thế nào (17:20-37)
K. Quả phụ biết kiên trì (18:1-8)
M. Chúa Giê-xu với người thâu thuế (18:9-14)
N. Chúa Giê-xu với trẻ con (18:15-17)
L. Ông quan trẻ giàu có (18:18-30)
O. Chúa Cứu Thế báo trước cái chết của Ngài (18:31-34)
P. Người mù được khiến sáng mắt (18:35-43)
Q. Chúa Giê-xu và Xa-chê (19:1-10)
R. Ẩn dụ về mười nén bạc (19:11-27)
VIII. Những ngày cuối cùng của Chúa: Hi sinh và chiến thắng khải hoàn
(19:28-24:53)
A. Cuộc diễn hành khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem (19:28-44)
B. Việc dọn sạch đền thờ (19:45-48)
C. Những cuộc tranh luận cuối cùng với các lãnh tụ người Do Thái (20:1-47)
D. Bài thuyết giảng trên núi Ô-li-ve (21:1-38)
E. Bữa tiệc tối cuối cùng (22:1-38)
F. Chúa Giê-xu cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê (22:39-46)
G. Chúa Giê-xu bị bắt (22:47-65)
H. Chúa Giê-xu bị xét xử (22:66-23:25)
I. Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá (23:26-56)
J. Chúa sống lại (24:1-12)
K. Chức vụ hậu phục sinh (24:13-49)
L. Chúa thăng thiên (24:50-53)

Dẫn nhập Giăng


Trước giả:
Trước giả là sứ đồ Giăng, “người môn đồ mà Chúa Giê-xu yêu” (GiGa
13:23; 19:26; 20:2; 21:7,20,24). ông là một nhân vật quan trọng trong Hội
Thánh nguyên thuỷ, nhưng không được nêu đích danh trong sách Phúc Âm
này - là điều rất tự nhiên nếu ông đã viết nó, nhưng thật khó giải thích khác
đi. Trước giả vốn biết rõ nếp sống của người Do Thái, điều được nhận thấy
ngay trong những câu đề cập cách suy nghĩ của giới bình dân về Đấng Mê-
si-a (chẳng hạn 1:20-21; 7:40-42), sự thù ghét nhau giữa dân Do Thái với
người Sa-ma-ri (4:9) và các phong tục tập quán Do Thái, như bổn phận phải
làm phép cắt bì vào ngày thứ tám vốn được quyền ưu tiên hơn lệnh cấm làm
việc nhằm ngày Sa-bát (xem chú thích ở 7:22). Ông biết rõ địa dư xứ
Palestine, định vị trí cho làng Bê-tha-ni nằm cách Giê-ru-sa-lem độ hai dặm
(11:18) và nói về Ca-na, là một làng mà chúng ta chưa hề được cho biết gì
cả trong bất luận một sách nào đã được viết trước đó (2:1; 21:2). Sách Phúc
Âm Giăng có nhiều phác hoạ mà rõ ràng là được căn cứ vào các hồi ức của
một người từng chứng kiến tận mắt các sự việc - như ngôi nhà tại Bê-tha-ni
đã tràn ngập mùi hương của bình dầu thơm đã bị đập vỡ (12:3). Các tác giả
nguyên thuỷ như Irenaeus và Tertullian bảo rằng Giăng đã viết sách Phúc
Âm này, và tất cả các chứng cứ hiển nhiên khác đều nhất trí như vậy (xem
phần Dẫn nhập IGiăng: Trước giả)
Niên đại:
Nói chung, có hai quan điểm về cách định niên đại cho sách Phúc Âm này
đã được bênh vực:
1. Quan điểm theo truyền thống định nó vào cuối thế kỷ thứ nhất, khoảng
năm 85 S.C hoặc muộn hơn (xem phần Dẫn nhập IGiăng: Niên đại).
2. Gần đây hơn, một số học giả đã gợi ý một niên đại sớm hơn có lẽ là rất
sớm vào những năm 50 và không muộn hơn năm 70.
Quan điểm trước có thể đã được một câu trích dẫn Clement ở Alexandria
hậu thuẫn cho, bảo rằng Giăng đã viết là nhằm bổ túc cho các phần ký thuật
đã có trong các sách Phúc Âm khác (Eusebius, Ecclesiastical History,
6.14.7), do đó sách Phúc Âm của ông phải có muộn hơn ba sách Phúc Âm
đầu. Cũng có người lý luận rằng nền thần học có vẻ phát triển hơn trong
sách Phúc Âm thứ tư cho thấy nó đã được viết muộn hơn về sau này.
Quan điểm thứ hai đã được thiện cảm hơn vì gần đây người ta đã cảm thấy
rằng Giăng đã viết sách Phúc Âm của ông độc lập đối với ba sách Phúc Âm
kia. Điều này không hề mâu thuẫn với lời phát biểu của Clement như đã
được đề cập ở phần trên. Những người chủ trưong quan điểm này cũng vạch
ra rằng nền thần học phát triển hơn không nhất thiết biện hộ cho một nguồn
gốc muộn hơn. Nền thần học của thư Rô-ma (được viết khoảng năm 57)
cũng phát triển như nền thần học trong sách Giăng về đủ mọi phương diện.
Hơn nữa, trong 5:2 bảo rằng “gần Cửa Chiên có (“có” ở thì hiện tại, chớ
không phải “đã có”) một cái ao”, có thể gợi ý về một thời gian trước năm 70
là năm thành Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ. Tuy nhiên, nhiều người khác nhận
xét rằng ở nhiều chỗ khác trong sách Giăng, thỉnh thoảng thì hiện tại vẫn
được dùng khi đề cập quá khứ.
Chủ đích và những điểm nhấn mạnh:
Một số các nhà giải kinh cảm thấy mục đích của Giăng là nhằm đưa ra một
sách viết về thông điệp Cơ Đốc giáo sẽ lôi cuốn được sự chú ý của các nhà
tư tưởng Hy Lạp. Nhiều người khác thì thấy một ước muốn bổ túc (hay sửa
sai) các sách Phúc Âm Cộng quan, nhằm chống lại một vài hình thức tà giáo
nào đó, chống lại số người cứ tiếp tục theo Giăng Báp-tít, hoặc nhằm vào
một mục tiêu tương tự như vậy. Nhưng chính trước giả đã tự nhấn mạnh rõ
ràng chủ đích của mình: “Các việc này đã chép để cho các ngươi tin rằng
Đức Chúa Giê-xu là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các
ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (20:31). Có thể ông vốn có
chủ ý nghĩ đến các tư tưởng gia Hy Lạp mà một số đã tạo được ảnh hưởng
gây ra tà giáo, nhưng ý hướng đầu tiên của ông vốn nhằm truyền giảng Phúc
Âm. Ta có thể hiểu động từ “tin” theo nghĩa là “cứ tiếp tục tin” - mà trong
trường hợp này, thì chủ đích của ông là nhằm gây dựng cả cho các tín hữu,
lẫn thuyết phục được nhiều người mới ăn năn quy đạo.
Về những điểm nhấn mạnh chủ yếu trong sách, xin xem các chú thích ở
GiGa 1:4,7,9,14,19,49; 2:4,11; 3:27; 4:34; 6:35; 13:1-17:26; 13:31; 17:12,5;
20:31).
Bố cục:
I. Lời nói đầu (1:1-18)
II. Các khởi điểm chức vụ của Chúa Giê-xu (1:19-51)
A. Chức vụ của người mở đường cho Ngài (1:19-34)
B. Chúa Giê-xu được giới thiệu với một số các môn đệ tương lai của Ngài
(1:35-51)
III. Chức vụ công khai của Chúa Giê-xu: Các dấu lạ và những bài thuyết
giảng (2:1-11:57)
A. Hoá nước thành rượu (2:1-11)
B. Dọn sạch đền thờ (2:12-25)
C. Cuộc gặp gỡ với Ni-cô-đem (3:1-21)
D. Chức vụ song hành với Giăng Báp-tít (3:22-4:3)
E. Chuyến đi ngang xứ Sa-ma-ri: người phụ nữ bên giếng (4:4-42)
F. Chữa lành con trai quan thị vệ (4:43-54)
G. Chuyến đi Giê-ru-sa-lem để dự kỳ lễ hằng năm (5:1-47)
H. Hoá bánh cho 5.000 người ăn và Bài giảng về Bánh hằng sống (6:1-71)
I. Chúa Giê-xu trong kỳ lễ Lều Tạm (7:1-8:59)
J. Chữa lành người mù từ thuở sơ sinh (9:1-41)
K. Ẩn dụ về Người Chăn Hiền Lành (10:1-21)
L. Tranh luận nhân ngày lễ Khánh thành đền thờ (10:22-39)
M. Chức vụ trong xứ Bê-rê (10:40-42)
N. Khiến La-xa-rơ sống lại (11:1-57)
IV. Tuần lễ thương khó (12:1-19:42)
A. Xức dầu cho chân Chúa Giê-xu (12:1-11)
B. Cuộc diễn hành khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem (12:12-19)
C. Người Hy Lạp đến với Chúa (12:20-36)
D. Người Do Thái tiếp tục không tin (12:37-50)
E. Những bài thuyết giảng từ biệt (13:1-17:26)
1. Bài thuyết giảng trong Bữa Tiệc Tối cuối cùng (13:1-14:31)
2. Bài thuyết giảng trên đường đến vườn Ghết-sê-ma-nê (15:1-16:33)
3. Bài cầu thay của Chúa Giê-xu (17:1-26)
F. Chúa Giê-xu bị phản nộp và bị bắt (18:1-12)
G. Những cuộc xét xử Chúa Giê-xu (18:13-19:15)
H. Chúa bị đóng đinh vào thập tự giá và được chôn cất (19:16-42)
V. Chúa sống lại (20:1-29)
VI. Lời phát biểu về chủ đích của trước giả (20:30-31)
VII. Lời bạt (21:1- 25)

Dẫn nhập Công Vụ Các Sứ Đồ


Trước giả:
Tuy trước giả không tự nêu tên mình ra, các chứng cứ ngoài Kinh điển và
những suy diễn, rút ra ngay từ sách này đưa tới lời kết luận rằng trước giả
của nó là Lu-ca.
Các ngoại chứng sớm nhất xuất hiện trong sách Muratorian Canon (khoảng
170 S.C) trong đó có lời phát biểu công nhiên rằng Lu-ca là trước giả của cả
sách Phúc Âm thứ ba lẫn sách “Công vụ của tất cả các sứ đồ”. Eusebius
(khoảng 325) liệt kê các thông tin từ nhiều nguồn nhằm nhận diện trước giả
hai sách ấy là Lu-ca (Exxlesiastical History, 3,4).
Ngay trong sách Công vụ các sứ đồ cũng có vài đầu mối cho biết trước giả
là ai:
1. Lu-ca, bạn đồng hành của Phao-lô. Trong phần mô tả những việc đang
xảy ra trong sách Công vụ có một số các khúc sách dùng đại danh từ “chúng
ta”. Tại những điểm đó, trước giả đã tự kể mình vào số các bạn đồng hành
của Phao-lô trong các chuyến đi của ông (Cong Cv 16:10-17; 20:5-15; 21:1-
18; 27:1-28:16). Một sử gia vốn thận trọng với các chi tiết như trước giả
sách này, đã tự chứng minh là mình có lý do chính đáng để sử dụng đại danh
từ “chúng ta” trong một số nơi, và đại danh từ “họ” ở những nơi khác. Do
đó, rất có thể trước giả đã cũng có mặt với Phao-lô trong một số các biến cố
cá biệt đã được mô tả trong các đoạn sách gọi là “chúng ta” .
Những khúc sách của “chúng ta” này gồm có giai đoạn Phao-lô bị giam hai
năm ở Rô-ma (28:1-31). trong thời gian này, Phao-lô đã viết hai thư Phi-lê-
môn và Cô-lô-se trong số nhiều thư tín khác nữa. trong hai thư ấy, ông có
nhắn lời các đồng bạn của mình chào thăm những người nhận thư, và trong
số các đồng bạn của Phao-lô đó, có cả Lu-ca nữa (Phil Plm 1:23-24; CoCl
4:10-17). Thật vậy, sau khi loại ra những người mà vì một lý do này hay lý
do khác, không thế nào hội đủ các điều kiện để trở thành trước giả sách
Công vụ, thì chỉ còn lại có Lu-ca là ứng viên hữu lý duy nhất.
2. Lu-ca là thầy thuốc. Tuy người ta không thể chứng minh rằng trước giả
sách Công vụ là một y sĩ bằng cách chỉ căn cứ vào dụng ngữ của ông mà
thôi, các từ ngữ ông dùng và những nét đặc sắc cũng như trình độ học vấn
mà các văn phẩm của ông phản ảnh, đã rất phù hợp với vai trò thầy thuốc
của ông (chẳng hạn, xem chú thích ở Cong Cv 28:6). Quả thật là các bác sĩ
hồi thế kỷ thứ nhất vốn chưa có một bộ từ vựng chuyên môn như các bác sĩ
ngày nay, nhưng trong hai sách Lu-ca và Công vụ có một cách dùng chữ gợi
ý rằng trước giả của các sách ấy vốn là một y sĩ. Và cũng phải nhớ rằng
Phao-lô đã dùng từ ngữ “thầy thuốc” để mô tả Lu-ca (CoCl 4:14).
Niên đại:
Có thể có hai niên đại cho việc viết sách này: 1. khoảng 63 S.C ngay sau
biến cuối cùng đã được ghi lại trong sách, và 2. khoảng năm 70 hay ngay cả
muộn hơn thế nữa.
Niên đại trước được hậu thuẫn bởi:
1. Sự im lặng về các biến cố sau đó. Tuy luận cứ về sự im lặng không thể là
kết luận dứt khoát, có lẽ nó rất có ý nghĩa vì sách này không có lời bóng gió
nào đề cập các biến cố xảy ra sau khi hai năm Phao-lô vị cầm tù tại Rô-ma
đã mãn, tức là việc Rô-ma bị thiêu huỷ và việc các Cơ Đốc nhân tại đó đã bị
bắt bớ bách hại (64 S.C), việc Phi-e-rơ và Phao-lô tử đạo (có thể là nhằm
năm 67) và việc thành Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ (70).
2. Không có kết quả cuộc xét xử Phao-lô. Nếu Lu-ca biết được kết quả của
cuộc xét xử mà Phao-lô đang chờ đợi (Cong Cv 28:30), tại sao ông lại không
chép vào cuối sách Công vụ? Có lẽ sở dĩ như vậy, là vì ông đã làm công việc
là cập nhật hoá lịch sử.
Những người thích niên đại muộn màng về sau chủ trương rằng 1:8 cho thấy
chủ đích của Lu-ca khi viết quyển sử ký này của mình, và rằng chủ đích ấy
đã có ảnh hưởng đến cách thức quyển sách này đã được kết thúc. Lu-ca vốn
muốn chứng minh thế nào Hội Thánh đã bành trướng khắp thế giới thời ông
bằng cách cứ mở rộng thêm các vòng tròn (Giê-ru-sa-lem, xứ Giu-đê, xứ Sa-
ma-ri, và cho đến các đầu cùng đất) cho đến khi đã đến được Rô-ma, là
trung tâm chính trị và văn hoá của thế giới. theo cách hiểu này, thì việc đề
cập sự tuận đạo của Phao-lô (khoảng 67 S.C) và việc phá huỷ thành Giê-ru-
sa-lem (70) là không hợp thời. Điều này có thể cho phép sách Công vụ được
viết vào khoảng năm 70 hoặc cả sau đó nữa.
Người nhận sách:
Người nhận sách này, Thê-ô-phi-lơ, cũng chính là nhân vật đã được ngỏ lời
với trong quyển sách thứ nhất, là sách Phúc Âm Lu-ca (xem phần Dẫn nhập
sách Lu-ca: Người nhận sách và chủ đích).
Tầm quan trọng:
Sách Công vụ là nhịp cầu nối liền các sách Tân ước. Là quyển thứ hai tiếp
sau sách Phúc Âm Lu-ca, nó gắn liền “mọi điều Đức Chúa Giê-xu đã làm và
dạy từ ban đầu” (Cong Cv 1:1) như đã được cho biết trong các sách Phúc
Âm, với những gì Ngài tiếp tục làm và dạy thông qua lời truyền giảng của
các sứ đồ và việc thiết lập Hội Thánh. Ngoài việc nối kết các phần trần thuật
của các sách Phúc Âm về một phía với các thư tín của các sứ đồ ở phía bên
kia, nó còn cung ứng phần ký thuật về cuộc đời của Phao-lô, nhờ đó chúng
ta có thể học biết được bối cảnh của các thư tín của ông. Về mặt địa dư, câu
chuyện kể lại trong đó vươn dài qua các nước nằm giữa Giê-ru-sa-lem là nơi
Hội Thánh được khai sinh, với Rô-ma, là trung tâm chính trị của cả đế quốc.
Về mặt lịch sử, nó kể lại về 30 năm đầu tiên của Hội Thánh. Nó cũng là
chiếc cầu nối liền Hội Thánh từ ngày mới khai sinh, với từng thời kỳ chuyển
tiếp. Sách này cần được nghiên cứu để hiểu rõ các nguyên tắc phải nắm
vững hầu hướng dẫn Hội Thánh qua các thời đại.
Luận đề và chủ đích:
Luận đề của tác phẩm này đã được tóm tắt thật hay trong 1:8. Với một sử gia
thời bấy giờ, thật là việc bình thường khi bắt đầu một quyển sách thứ hai
bằng cách tóm tắt quyển thứ nhất, rồi báo trước nội dung của tác phẩm thứ
hai. Lu-ca đã tóm tắc tác phẩm thứ nhất của ông trong 1:1-3 còn luận đề của
quyển sách thứ hai của ông thì được giới thiệu bằng câu nói của Chúa Giê-
xu: “Các ngươi…sẽ…làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-
đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất”. Thật vậy, đó chính là bố cục của
sách Công vụ (xem Lược đồ và Bố cục).
Các chủ đích chính của sách:
1. Trình bày một lịch sử. Ý nghĩa sách Công vụ như một phần ký thuật lịch
sử về nguồn gốc Cơ Đốc giáo là điều không thể bị đánh giá là quá cao. Nó
kể lại việc thành lập Hội Thánh, truyền bá Phúc Âm, việc khai sinh các hội
chúng và các nỗ lực truyền bá Phúc Âm theo mẫu mực của các sứ đồ. Có
một trong những góc cạnh độc đáo của Cơ Đốc giáo, là nền móng lịch sử hết
sức vững chắc của nó. Cuộc đời và những lời truyền dạy của Chúa Giê-xu đã
được vững lập trong các ký thuật của bốn sách Phúc Âm còn sách Công vụ
thì cung ứng phần ký thuật có tổ chức hẳn hoi về thời khai sinh của Hội
Thánh.
2. Kiến tạo một thành luỹ. Trong sách Công vụ, chúng ta thấy ẩn tàng một
phần ký thuật về những thành luỹ mà các Cơ Đốc nhân đã dựng lên nhằm tự
vệ chống lại cả dân Do Thái (4:8-12) lẫn người ngoại quốc (25:8-11), với
chủ đích tiềm tàng là khiến cho họ ăn năn quy đạo. Nó vạch rõ Hội Thánh
nguyên thuỷ đã đối phó như thế nào với tư tưởng ngoại đạo và Do Thái giáo,
với chính quyền La Mã và xã hội Hy Lạp.
Có lẽ Lu-ca đã viết sách này trong lúc Phao-lô chờ đợi để chịu đưa ra xét xử
tại Rô-ma. Nếu vụ án của ông phải bị đưa ra toà, thì còn gì hay hơn đối với
ông cho bằng một bản điều trần ngắn gọn về cuộc đời của Chúa Giê-xu, một
đoạn sử ký về thời khai sinh của Cơ Đốc giáo (gồm có phần hoạt động của
Phao-lô), và một bộ sưu tập các bức thư đầu tiên của ông?
3. Để cung ứng một sách chỉ dẫn. Lu-ca vốn không thể nào biết được rồi đây
Hội Thánh sẽ tiếp tục như thế nào trên đất này, nhưng bao lâu nó còn theo
đuổi tiến trình của mình, thì sách Công vụ sẽ là một trong những quyển sách
chỉ dẫn quan trọng của nó. Trong sách Công vụ, chúng ta thấy các nguyên
tắc cơ bản đã được ứng dụng vào từng hoàn cảnh đặc thù trong bối cảnh Hội
Thánh phải gặp rất nhiều vấn đề và đang bị bắt bớ bách hại. Cùng những
nguyên tắc giống như thế cũng tiếp tục được áp dụng cho đến ngày Chúa
Cứu Thế tái lâm.
4. Để tả vẽ sự chiến thắng khải hoàn của Cơ Đốc giáo khi phải đối diện với
sự bắt bớ bách hại khốc liệt. Sự thành công của Hội Thánh trong việc đưa
Phúc Âm từ Giê-ru-sa-lem đến Rô-ma và lập nhiều Hội Thánh địa phương
khắp đế quốc La Mã chứng minh rằng Cơ Đốc giáo không phải chỉ là một
công việc của loài người. Đức Chúa Trời vốn có ở trong đó (xem 5:35-39).
Các đặc điểm:
1. Chi tiết lịch sử chính xác. Mỗi trang của sách Công vụ đều đầy dẫy những
chi tiết rõ ràng, chính xác, khiến một sử gia phải lấy làm thích thú. Phần ký
thuật dàn trải trên một giai đoạn khoảng 30 năm và vượt qua nhiều đất nước
từ Giê-ru-sa-lem đến Rô-ma. Phần mô tả của Lu-ca về các thời kỳ và địa
điểm đó vốn đầy dẫy đủ loại người thuộc mọi chủng tộc, mọi nền văn hoá,
nhiều hình thức chính quyền khác nhau, có những khung cảnh toà án tại Sê-
sa-rê, và nhiều biến cố đầy kịch tính tại nhiều trung tâm như An-ti-ốt, Ê-phê-
sô, A-thên, Cô-rinh-tô và Rô-ma. Nhiều khu vực tại các nước hãy còn dã
man cũng như nhiều trung tâm của người Do Thái đều có cả trong đó. Thế
nhưng, trong tất cả các trường hợp, những khám phá khảo cổ học đều cho
thấy là Lu-ca đã sử dụng các từ ngữ rất thích hợp với từng thời kỳ, từng địa
điểm mô tả. Các nhà phê bình thù địch đã không thành công trong việc bài
bác tính cách chi tiết hết sức chính xác của Lu-ca trong việc sử dụng các
danh từ chính trị và địa dư.
2. Văn chương trác tuyệt. Chẳng những Lu-ca có một dụng ngữ hết sức
phong phú so với các trước giả Tân ước khác, mà ông còn sử dụng các từ
ngữ theo những bút pháp rất phù hợp với các bối cảnh văn hoá của các biến
cố mà ông ghi lại. Lắm khi ông đã dùng Hi-văn cổ điển thật tài tình, nhiều
lúc khác ông lại diễn tả bằng ngôn ngữ A-ram của thế kỷ thứ nhất trong xứ
Palestine. Đây là điểm cho thấy Lu-ca có thói quen sử dụng hết sức thận
trọng ngôn ngữ nào là thích hợp tuỳ lúc và tuỳ nơi mô tả. Lu-ca dùng ngôn
ngữ A-ram khi mô tả các biến cố xảy ra trong xứ Palestine (1:1-12:25). Tuy
nhiên, khi sang các nước chịu ảnh hưởng văn hoá Hy Lạp, ngoài các lãnh
thổ có người nói tiếng A-ram sinh sống, thì ông thôi không dùng bút pháp
A-ram nữa.
3. Cách mô tả đầy kịch tính. Lu-ca khéo léo sử dụng cả văn nói để góp phần
tạo kịch tính cho việc trần thuật của ông. Chẳng những ông đã thận trọng
tách rời và cân nhắc thật kỹ để có sự quân bình giữa hai sứ đồ Phi-e-rơ và
Phao-lô, mà lời nói của một số cá nhân khác cũng tăng thêm tính cách đa
dạng và sống động cho phần ký thuật của ông. Lu-ca dùng các chi tiết đem
sự hoạt động đến cho cuộc sống. Trong văn học cổ thời, chưa hề có chỗ nào
khác, một ký thuật về chuyện đắm tàu lại vượt được Lu-ca về số chi tiết liên
hệ đến ngành hàng hải (27:1-44). Toàn thể quyển sách đều hết sức sinh động
và dễ gây xúc động.
4. Ký thuật khách quan. Lu-ca rất thận trọng trong việc sắp xếp tài liệu,
nhưng không hề thiếu chính xác trong việc ký thuật của mình bằng cách ghi
lại cả những thất bại lẫn những thành công, cả việc xấu lẫn việc tốt trong
Hội Thánh nguyên thuỷ. Chẳng những sự không hài lòng nhau giữa người
Hy Lạp, gốc Do Thái với người Do Thái chính gốc Hy-bá-lai đã được ghi
nhận (6:1), mà ông cũng ghi lại cả mối bất hoà giữa Phao-lô và Ba-na-ba
nữa (15:39). Tình trạng chia bè kết đảng và kỳ thị lẫn nhau đã được thừa
nhận (15:2; 21:20-21).
Bố cục:
Khi ghi lại các bước đầu và việc bành trướng của Hội Thánh, Lu-ca đã gộp
chung lại mọi mối quan tâm và những điểm nhấn mạnh khác nhau. Chủ đích
của quyển sách của ông xoay quanh 1. các nhân vật then chốt: Phi-e-rơ và
Phao-lô# 2. các đề mục và biến cố quan trọng: vai trò của Đức Thánh Linh,
công cuộc truyền giáo tiên phong đã đến với nhiều khu vực mới, việc đưa
người ăn năn quy đạo, sự tăng trưởng của Hội Thánh, và sinh hoạt trong
cộng đồng Cơ Đốc giáo# 3. các vấn đề có ý nghĩa: sự xung đột giữa người
Do Thái và người ngoại quốc, một số các phần tử theo Do Thái giáo bắt bớ
bách hại Hội Thánh, những cuộc xét xử trước cả người Do Thái lẫn La Mã,
những cuộc chạm trán với người ngoại quốc, và nhiều nỗi khó khăn gian khổ
khác nữa trong chức vụ: 4. những tiến bộ về mặt địa dư: đã có năm giai đoạn
rất có ý nghĩa.
I. Phi-e-rơ và sự khởi đầu của Hội Thánh trong xứ Palestine (1:1-12:25)
A. “Cả xứ Giu-đê, xứ Ga-li-lê, xứ Sa-ma-ri” (1:1-9:31; xem 9:31)
1. Dẫn nhập (1:1-2)
2. Chức vụ hậu phục sinh của Chúa Cứu Thế (1:3-11).
3. Giai đoạn chờ đợi Đức Thánh Linh (1:12-26)
4. Được đổ đầy Đức Thánh Linh (2:1-47)
5. Việc chữa lành người què và kết quả là Phi-e-rơ và Giăng bị bắt (3:1-
4:31)
6. Việc chia cơm xẻ áo cho nhau (4:32-5:11)
7. Mười hai sứ đồ bị bắt (5:12-42)
8. Chọn bảy thầy phó tế (6:1-7)
9. Ê-tiên bị bắt và chịu tuận đạo (6:8-7:60)
10. Các tín hữu tại Giê-ru-sa-lem đi tan lạc (8:1-4)
11. Chức vụ của Phi-líp (8:5-40)
a. Tại Sa-ma-ri (8:5-25)
b. Cho hoạn quan Ê-thi-ô-bi (8:26-40)
12. Sau-lơ ăn năn quy đạo (9:1-31)
B. “Đến tận Phê-ni-xi, Chíp-rơ và An-ti-ốt” (9:32-12:25; xem 11:19)
1. Chức vụ của Phi-e-rơ tại bờ Địa trung hải (9:32-11:18)
a. Cho Ê-nê và Đô-ca (9:32-43)
b. Cho Cọt-nây (10:1-11:18)
2. Hội Thánh ngoại quốc mới tại An-ti-ốt (11:19-30)
3. Hê-rốt bách hại Hội Thánh và cái chết tiếp theo đó của vua ấy (12:1-25)
II. Phao-lô và việc bành trướng Hội Thánh từ An-ti-ốt đến Rô-ma (13:1-
28:31)
A. “Trải qua xứ Phi-ri-gi và đất Ga-la-ti” (13:1-15:35; xem 16:6)
1. Vòng lưu hành truyền giáo đầu tiên của Phao-lô (13:1-14:40)
2. Giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem (15:1-35)
B. “Qua xứ Ma-xê-đoan” (15:36-21:16; xem 16:9)
1. Vòng lưu hành truyền giáo thứ hai của Phao-lô (15:36-18:22)
2. Vòng lưu hành truyền giáo thứ ba của Phao-lô (18:23-21:16).
C. “Đến thành Rô-ma” (21:17-28:31; xem 28:14)
1. Phao-lô bị cầm tù tại Giê-ru-sa-lem (21:17-23:35)
a. Bị bắt (21:17-22:29)
b. Bị xét xử trước Toà Công Luận (22:30-23:11)
c. Chuyển sang Sê-sa-rê (23:12-35)
2. Phao-lô bị giam tại Sê-sa-rê (24:1-26:32)
a. Bị xét xử trước Phê-lít (24:1-27)
b. Bị xét xử trước Phê-tu (25:1-12)
c. Tự biện hộ trước Phê-tu và Ạc-ríp-ba (25:13-26:32)
3. Chuyến đi sang Rô-ma (27:1-28:15)
4. Hai năm bị quản thúc tại gia ở Rô-ma (28:16-31)
Dẫn nhập Rô-ma
Trước giả:
Trước giả thư tín này là sứ đồ Phao-lô (xem RoRm 1:1). Từ thời Hội Thánh
nguyên thuỷ đã không hề có ai lên tiếng phản đối tác quyền của ông. Bức
thư gồm một số tài liệu lịch sử phù hợp với các sự kiện đã được biết về cuộc
đời Phao-lô. Nội dung giáo lý của sách này là giáo lý điển hình của Phao-lô,
điều sẽ trở thành hiển nhiên khi đem ra đối chiếu với những bức thư khác mà
ông đã viết.
Niên đại và địa điểm viết thư:
Sách này có lẽ đã được viết vào đầu mùa xuân năm 57 S.C. Rất có thể là
Phao-lô đang thực hiện vòng lưu hành truyền giáo thứ ba của ông, và đang
sẵn sàng trở về Giê-ru-sa-lem đem theo tiền cứu trợ của các Hội Thánh
thuộc các khu vực ông đã đến truyền giáo, cho các tín hữu bị nghèo thiếu tại
Giê-ru-sa-lem (xem 15:25-27). Câu 15:26 gợi ý rằng Phao-lô đã nhận tiền
đóng góp của các Hội Thánh ở Ma-xê-đoan và A-chai nên ông đã đến Cô-
rinh-tô rồi. Vì từ ngày ông viết thư cho Hội Thánh ấy đến lúc đó (tham chiếu
ICo1Cr 16:1-4; IICo 2Cr 8:9) ông vẫn chưa đến Cô-rinh-tô, cho nên việc
viết thư Rô-ma chắc phải xảy ra sau khi viết hai thư I và II Cô-rinh-tô (đã
được định niên đại là khoảng năm 55).
Địa điểm hợp lý nhất để viết thư này, hoặc là Cô-rinh-tô hoặc là Sen-cơ-rê
(cách đó khoảng sáu dặm), vì có những câu đề cập Phê-bê người Sen-cơ-rê
(RoRm 16:1) và Gai-út, người tiếp đãi Phao-lô (16:23), có lẽ là một người
Cô-rinh-tô (xem ICo1Cr 1:14). Ê-rát (RoRm 16:23) có lẽ vốn cũng là một
người Cô-rinh-tô (xem IITi 2Tm 4:20).
Những người nhận thư:
Những người nhận bức thư này đầu tiên là người của Hội Thánh tại Rô-ma
(RoRm 1:7), đa số là người ngoại quốc. Tuy nhiên có một thiểu số là trụ cột
của hội chúng ấy chắc phải là những người Do Thái (xem 4:1; 9:1-11:36;
cũng xem chú thích ở 1:13). Có lẽ Phao-lô nguyên gởi trọn bức thư này cho
Hội Thánh Rô-ma, nhưng sau đó, hoặc chính ông hoặc có ai khác đã dùng
một hình thức ngắn gọn hơn (1:1-14:23 hay 1:1-15:33) để có thể phân phối
sâu rộng hơn. Xem chú thích ở IIPhi 2Pr 3:15).
Luận đề chính:
Luận đề đầu tiên trong thư Rô-ma là Phúc âm căn bản, là kế hoạch cứu rỗi
và sự công chính của Đức Chúa Trời cho toàn thể nhân loại, cả cho người
Do Thái lẫn người ngoại quốc như nhau (RoRm 1:16-17). Tuy có một số
người gợi ý rằng sự xưng công chính bởi đức tin là luận đề của nó, dường
như còn một luận đề rộng rãi hơn nữa nhấn mạnh bức thông điệp của sách
này đầy đủ hơn. “Sự công chính từ Đức Chúa Trời” (1:17) bao gồm cả sự
xưng công chính bởi đức tin mà cũng gồm luôn cả các ý niệm liên hệ như tội
lỗi, sự thánh hoá và sự an toàn nữa.
Chủ đích:
Phao-lô có nhiều chủ đích khác nhau khi viết bức thư này:
1. Ông viết để dọn đường cho việc ông sắp đến thăm Rô-ma và cho chuyến
đi truyền giáo đến nước Tây-ban-nha mà ông đã dự định (1:10-15; 15:22-
29).
2. Ông viết để trình bày hệ thống cứu rỗi căn bản cho một Hội Thánh vẫn
chưa nhận được lời truyền dạy của một vị sứ đồ nào trước đó.
3. Ông tìm cách giải thích mối liên hệ giữa dân Do Thái với người ngoại
quốc trong kế hoạch cứu chuộc toàn diện của Đức Chúa Trời. Các Cơ Đốc
nhân người Do Thái bấy giờ đang bị nhóm người ngoại quốc đông hơn trong
Hội Thánh chối bỏ (14:1) vì các tín hữu người Do Thái vẫn còn cảm thấy bị
bó buộc phải tuân thủ các luật lệ về kiêng ăn và các ngày thánh (14:2-6).
Cơ hội:
Lúc viết bức thư này, có lẽ Phao-lô đang ở tại Cô-rinh-tô (Cong Cv 20:2-3)
nhân vòng lưu hành truyền giáo thứ ba của ông. Công tác của ông tại phần
cực Đông Địa trung hải hầu như đã hoàn tất (xem RoRm 15:18-23), và ông
rất ao ước được đến thăm Hội Thánh Rô-ma (xem 1:11-12; 15:23-24). Tuy
nhiên, lúc ấy ông không thể đi Rô-ma được vì cảm thấy phải đích thân trao
số tiền cứu trợ nhận từ các Hội Thánh người ngoại quốc về cho các Cơ Đốc
nhân đang gặp nghèo thiếu tại Giê-ru-sa-lem (xem 15:25-28). Cho nên, thay
vì đi Rô-ma, ông gởi đến đó một bức thư để chuẩn bị cho các Cơ Đốc nhân
ở đó, về ý định ông muốn sang truyền đạo bên Tây-ban-nha (xem 15:23-24).
Từ nhiều năm rồi, Phao-lô đã muốn đến thăm Rô-ma để phục vụ tại đó (xem
1:13-15), và bức thư này được dùng làm phần giới thiệu nền thần học thận
trọng và có hệ thống của ông cho chức vụ mà riêng ông hằng ao ước đó vì
ông chưa hề trực tiếp quen biết với Hội Thánh Rô-ma, nên ông chỉ nói rất ít
đến các vấn đề của nó (nhưng xem 14:1-15:13; cũng tham chiếu 13:1-7;
16:17-18).
Nội dung
Phao-lô bắt đầu đề cập tình trạng thuộc linh tổng quát của cả nhân loại. Ông
nhận thấy cả người Do Thái lẫn người ngoại quốc đều là tội nhân rất cần
được cứu rỗi như nhau. Sự cứu rỗi ấy đã được Đức Chúa Trời ban cho thông
qua công lao cứu chuộc của Chúa Cứu Thế Giê-xu trên thập tự giá. Tuy
nhiên, đây là một tặng phẩm phải tiếp nhận bởi đức tin - một nguyên tắc mà
Đức Chúa Trời luôn luôn vận dụng đối với loài người, như tấm gương của
Áp-ra-ham đã chứng minh. Vì sự cứu rỗi chỉ mới là từng trải đầu tiên của
Cơ Đốc nhân, Phao-lô tiếp tục chứng minh người tín hữu đã được giải thoát
khỏi tội lỗi luật pháp và sự chết như thế nào - một tặng phẩm chỉ có thể được
cung cấp nhờ người ấy hiệp làm một với Chúa Cứu Thế cả trong sự chết lẫn
sự sống lại, và nhờ sự hiện diện bằng cách ngự trị bên trong và bằng quyền
phép của Đức Thánh Linh. Rồi Phao-lô chứng minh rằng cả người Y-sơ-ra-
ên, tuy hiện sống trong tình trạng vô tín, vẫn có một chỗ đứng trong kế
hoạch cứu rỗi tể trị của Đức Chúa Trời. Tuy giờ đây họ chỉ là một phần sót
lại để những người ngoại quốc được phép ăn năn quy đạo sẽ có ngày “cả dân
Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” (11:26). Bức thư được kết thúc bằng một lời kêu
gọi các độc giả hãy tự tạo lấy đức tin vào Chúa Cứu Thế cho họ một cách
thực tế cả trong Hội Thánh lẫn ngoài đời. Chưa hề có bức thư nào khác của
Phao-lô lại nhấn mạnh thật sâu sắc nội dung của Phúc âm và các ngụ ý của
nó cả cho hiện tại và tương lai, cho bằng bức thư này.
Các điểm đặc sắc:
1. Bức thư có hệ thống hơn hết trong số các thư tín của Phao-lô. Khi đọc nó
người ta cảm thấy như đọc một sách khảo luận thật trau chuốt về thần học,
hơn là đọc một bức thư.
2. Nhấn mạnh trên giáo lý Cơ Đốc. Con số và tính cách quan trọng của các
luận đề thần học mà thư này đụng chạm đến đã gây ấn tượng sâu đậm trên
chúng ta: tội lỗi, sự cứu rỗi, ân điển, đức tin, sự công chính, sự xưng công
chính, sự cứu chuộc, sự chết và sự sống lại.
3. Trích dẫn Cựu Ước hết sức rộng rãi. Tuy Phao-lô vẫn thường trích dẫn
Cựu ược trong các thư tín của ông, các luận cứ trong thư Rô-ma nhiều khi
được khai triển theo chiều hướng của câu trích dẫn đó (xem đặc biệt các
chương 9:1-11:36)
4. Quan tâm sâu xa đến dân Y-sơ-ra-ên. Phao-lô viết về quy chế hiện nay
cho họ, mối liên hệ giữa họ với người ngoại quốc và sự cứu rỗi cuối cùng
dành cho họ.
Bố cục:
I. Dẫn nhập (1:1-15)
II. Luận đề: sự công chính từ Thương Đế (1:16-17)
III. Cả nhân loại đều bất chính (1:18-3:20)
A. Người ngoại quốc (1:18-32)
B. Người Do Thái (2:1-3:8)
C. Tóm lại: tất cả mọi người (3:9-20)
IV. Sự công chính được gán cho: sự xưng công chính (3:21-5:21)
A. Qua Chúa Cứu Thế (3:21-26)
B. Nhận được bởi đức tin (3:27-4:25)
1. Nguyên tắc quy định (3:27-31)
2. Nguyên tắc được minh hoạ (4:1-25)
C. Kết quả của sự công chính (5:1-11)
D. Tóm tắt: sự bất chính của loài người đặt tương phản với sự công chính
của Đức Chúa Trời (5:12-21)
V. Sự công chính được chia sẻ: sự thánh hoá (6:1-8:39)
A. Được cứu khỏi quyền lực tội lỗi (6:1-23)
B. Được cứu khỏi bị định tội của luật pháp (7:1-25)
C. Sống trong quyền năng của Đức Thánh Linh (8:1-39)
VI. Sự công chính của Đức Chúa Trời được thắng hơn: vấn đề dân Y-sơ-ra-
ên bị từ bỏ (9:1-11:36)
A. Công lý của sự từ bỏ (9:1-29)
B. Nguyên nhân bị từ bỏ (9:30-10:21)
C. Các sự kiện làm suy giảm khó khăn (11:1-36)
1. Sự từ bỏ không có tính cách toàn diện (11:1-10)
2. Sự từ bỏ không có tính cách dứt khoát (11:11-24)
3. Chủ đích tối hậu của Đức Chúa Trời là thương xót (11:25-36)
VII. Sự công chính thực tiễn (12:1-15:13)
A. Trong một thân thể - Hội Thánh (12:1-21)
B. Trong thế gian (13:1-13)
C. Giữa vòng các Cơ Đốc nhân mạnh mẽ và yếu đuối (14:1-15:13)
VIII. Kết luận (15:14-33)
IX. Gởi gắm và chào thăm (16:1-27)

Dẫn nhập I Cô-rinh-tô


Trước giả và niên đại:
Phao-lô được nhìn nhận là trước giả, cả bởi chính bức thư (ICo1Cr 1:1-2;
16:21) lẫn bởi các giáo phụ nguyên thuỷ. Tác quyền của ông đã được
Clement ở Rô-ma chứng thực rất sớm từ năm 95 S.C, và ngày nay trên thực
tế, toàn thể các học giả Tân Ước đều nhất trí với nhau. Bức thư đã được viết
vào khoảng năm 55, lúc sắp kết thúc ba năm tạm trú của Phao-lô tại Ê-phê-
sô (xem 16:5-9; Cong Cv 20:31). Theo câu ông viết, là ông sẽ cứ ở lại Ê-
phê-sô đến tận ngày lễ Ngũ tuần (ICo1Cr 16:8) cho nên rõ ràng là ông vốn
đã có ý định ở lại đó chưa đầy một năm khi ông viết thư ICô-rinh-tô.
Thành phố Cô-rinh-tô:
Có người ước lượng rằng vào thời của Phao-lô, Cô-rinh-tô đã có một dân số
khoảng 250.000 người tự do, cộng với 400.000 nô lệ. Theo nhiều phương
diện thì nó là thành phố lớn nhất xứ Hy Lạp.
1. Vấn đề thương mại. Nằm ngay tại eo đất Cô-rinh-tô, nó là giao lộ của các
du khách và các nhà buôn. Thành phố có hai hải cảng: 1. Sen-cơ-rê cách sáu
dặm về phía Đông trong vịnh Sa-ron, và 2. Lệ-chi cách một dặm rưỡi về
phương Tây trên vịnh Cô-rinh-tô. Hàng hoá được chuyên chở tấp nập qua eo
đất trên con đường Diolkos, một con lộ nhỏ mà nhiều tàu bè nhỏ phải chở
đầy hàng hoá có thể được chuyển qua eo đất, còn các tàu lớn hơn thì có thể
được những toa xe chuyển từ bờ biển bên này sang bờ biển bên kia. Hàng
hoá từ các nước Ý và Tây-ban-nha qua thành phố này có thể được đưa sang
phương Tây, còn hàng hoá từ Tiểu Á châu, Phê-ni-xi và Ai-cập thì được chở
qua phương Đông.
2. Vấn đề văn hoá. Tuy Cô-rinh-tô không phải là một thành phố Trường Đại
học như A-thên, nhưng nó rất đặc sắc vì tiêu biểu cho văn hoá Hy Lạp. Dân
chúng trong thành phố ấy rất chú ý đến triết học Hy Lạp, và tôn sự khôn
ngoan lên hàng đầu.
3. Vấn đề tôn giáo. Thành phố Cô-rinh-tô có ít nhất là 12 ngôi đền. Người ta
không biết chắc chắn rằng tất cả đều có được sử dụng vào thời của Phao-lô
hay không. Có một ngôi đền nổi tiếng hơn hết là đền thờ Aphrodite, nữ thần
tình yêu, với các tín đồ thực hành nghề mại dâm tôn giáo. Cách đó một phần
tư dặm về hướng Bắc là hí viện ở trong đền thờ Asclepius, là thần chữa
bệnh, còn chính giữa thành phố thì có đền thờ Apollo từ thế kỷ thứ sáu T.C.
Thêm vào đó, người Do Thái còn lập một nhà hội, tấm bảng treo trươc cửa
ngôi nhà hội ấy đã được tìm thấy và đặt trong viện bảo tàng của cổ thành
Cô-rinh-tô.
4. Vấn đề vô luân vô đạo. Cũng như bất kỳ một thành phố thương mại lớn
nào, Cô-rinh-tô là một trung tâm mở rộng cho đời sống vô luân vô đạo. Việc
thờ lạy nữ thần Aphrodite nuôi dưỡng tệ nạn mại dâm nhân danh tôn giáo.
Có đến 1.000 gái điếm đồng thời hành nghề trong đền thờ của họ. Nếp sống
vô luân vô đạo được phổ biến rộng rãi đến nỗi Cô-rinh-tô đã trở thành một
động từ trong Hi-văn, và “Cô-rinh-tô hoá” có nghĩa là “thực hành chuyện
dâm dục bất chấp luân lý đạo đức”. Trong một bối cảnh như thế, người ta
chẳng lạ gì việc Hội Thánh Cô-rinh-tô phải gặp rất nhiều vấn đề hết sức tai
hại.
Cơ hội và chủ đích:
Phao-lô nhận được tin tức từ nhiều nguồn, liên hệ đến hiện tình Hội Thánh
tại Cô-rinh-tô. Một số người nhà Cơ-lô-ê đã báo cho ông biết có nhiều phe
đảng nảy sinh trong Hội Thánh (ICo1Cr 1:11). Đã có ba người, là Sê-pha-na,
Phốt-tu-na và A-chai-cơ đã cũng đi với Phao-lô đến Ê-phê-sô để góp phần
vào chức vụ của ông tại đó (16:17) nhưng chúng ta không rõ chẳng hay họ
có phải là người nhà Cơ-lô-ê hay không.
Một số người đến Ê-phê-sô đã đem nhiều tin tức rất đáng ngại liên hệ đến
nhiều sinh hoạt bất bình thường về phương diện đạo đức trong Hội Thánh
(5:1-6:20). Tội dâm loạn đã hoành hành trong hội chúng người Cô-rinh-tô
hầu như ngay từ đầu. Theo 5:9-10 thì rõ ràng là trước đó, Phao-lô từng viết
cho họ một thư về tình trạng suy đồi đạo đức ấy. Ông đã khuyến cáo các tín
hữu “đừng làm bạn với kẻ gian dâm” (5:9). Do bị hiểu lầm, giờ đây ông
cảm thấy cần phải làm sáng tỏ lời chỉ dạy của mình (5:10-11) và đề nghị một
biện pháp mạnh và cấp bách (5:3-5,13).
Nhiều khách đến thăm thành phố Cô-rinh-tô khác đã đưa đến một bức thư
của Hội Thánh yêu cầu được chỉ bảo về nhiều chủ đề (xem 7:1; tham chiếu
8:1; 12:1; 16:1).
Điều hết sức rõ ràng là, tuy Hội Thánh vốn được rất nhiều ân tứ (xem 1:4-7),
nó vốn chưa trưởng thành, và không thuộc linh (3:1-4). Các chủ đích của
Phao-lô khi viết thư này là: 1. chỉ dạy và củng cố Hội Thánh trong các lãnh
vực có khuyết điểm, sửa lại các hành động sai lầm như chia bè lập đảng
(1:10-4:21), tà dâm (5:1-13; 6:12-20), kiện cáo nhau trước toà án ngoại đạo
(6:1-8), việc lợi dụng Tiệc Thánh (11:17-34). 2. sửa sai tà giáo liên hệ đến
sự sống lại (15:1-58) và 3. chỉ dạy về việc quyên trợ cho các tín hữu gặp
nghèo thiếu tại Giê-ru-sa-lem (16:1-4).
Luận đề:
Bức thư xoay quanh luận đề về các vấn đề ăn ở cư xử của Cơ Đốc nhân
trong hội thánh. Rõ ràng là Phao-lô rất quan tâm đến các vấn đề của người
Cô-rinh-tô, cho thấy ông vốn có tấm lòng của một vị mục sư chân chính, tán
tụng (người chăn hiền lành, tận tâm).
Tính cách hợp thời:
Bức thư này rất thích hợp cho hội thánh ngày nay, cả về phần giáo huấn lẫn
về phần linh cảm. Phần lớn các thắc mắc và các vấn đề mà Hội Thánh tại
Cô-rinh-tô phải đương đầu, cũng rất thật đối với chúng ta - các vấn đề về
tình trạng không trưởng thành, bất ổn định, bè phái, ghen tị, kiện tụng, rắc
rối gia đình, tà dâm và sử dụng sai lầm các ân tứ thuộc linh. Thế nhưng bất
chấp nhiều vấn đề dồn dập như thế, sách này chứa đựng một số chương quen
thuộc và được yêu mến nhất trong toàn bộ Kinh Thánh (chẳng hạn 13:1-13
tình yêu thương, và 15:1-58 vấn đề sống lại).
Bố cục:
I. Dẫn nhập (1:1-9)
II. Các phe đảng trong Hội Thánh (1:10-4:21)
A. Sự kiện có nhiều phe đảng (1:10-17)
B. Các nguyên nhân chia phè lập đảng (1:18-4:13)
1. Một quan niệm sai lầm về bức thông điệp Cơ Đốc giáo (1:18-3:4)
2. Một quan niệm sai lầm về chức vụ và người phục vụ Cơ Đốc giáo (3:5-
4:5)
3. Một quan niệm sai lầm về Cơ Đốc nhân (4:6-13)
C. Lời răn bảo chấm dứt sự chia rẽ (4:14-21)
III. Những rối loạn về luân lý và đạo đức trong sinh hoạt Hội Thánh (5:1-
6:20)
A. Kỷ luật lỏng lẻo trong Hội Thánh (5:1-13)
B. Kiện cáo trước các toà án ngoại đạo (6:1-11)
C. Dâm loạn (6:12-20)
IV. Lời chỉ giáo về hôn nhân (7:1-40)
A. Lời nói đầu: Các nguyên tắc cơ bản (7:1-7)
B. Các vấn đề về vợ chồng (7:8-24)
C. Các vấn đề của người độc thân (7:25-40)
V. Lời chỉ giáo về các tập quán gây thắc mắc (8:1-11:1)
A. Các nguyên tắc liên hệ (8:1-13)
B. Các nguyên tắc được minh hoạ (9:1-27)
C. Bài học cảnh cáo rút ra từ lịch sử dân Y-sơ-ra-ên (10:1-22)
D. Các nguyên tắc ứng dụng (10:23-11:1)
VI. Lời chỉ giáo về sự thờ phượng công cộng (11:2-14:40)
A. Đặc điểm trong sự thờ phượng (11:2-16)
B. Tiệc Thánh (11:17-34)
C. Các ân tứ (12:1-14:40)
1. Trắc nghiệm đối với ân tứ (12:1-3)
2. Thống nhất tính của các ân tứ (12:4-11)
3. Tính đa dạng của các ân tứ (12:12-31a)
4. Sự cần thiết phải thực thi các ân tứ trong tình yêu thương (12:31b-13:13)
5. Ân tứ nói tiên tri cao trọng hơn ân tứ nói tiếng lạ (14:1-25)
6. Các quy luật chỉ đạo việc thờ phượng công cộng (14:26-40)
VII Lời chỉ giáo về sự sống lại (15:1-58)
A. Sự sống lại là chắc chắn (15:1-34)
B. Khảo sát một số vấn nạn (15:35-57)
C. Lời kêu gọi cuối cùng (15:58)
VIII. Kết luận: Các vấn đề thực tiễn và cá nhân (16:1-24)

Dẫn nhập II Cô-rinh-tô


Trước giả:
Phao-lô là trước giả thư tín này (xem IICo 2Cr 1:1; 10:1). Bút pháp của ông
và nội dung gồm nhiều tài liệu có tính cách tiểu sử tự thuật của ông vốn in
đậm nét trong bức thư này hơn là trên nhiều thư tín khác.
Niên đại:
Có chứng cứ cho thấy năm 55 S.C là niên đại ước lượng hữu lý cho việc viết
bức thư này. Căn cứ vào ICo1Cr 16:5-8, chúng ta kết luận rằng thư ICô-
rinh-tô đã được viết tại Ê-phê-sô trước lễ Ngũ Tuần (trong mùa xuân) và thư
IICô-rinh-tô thì được viết sau trong cùng năm ấy, trước khi mùa đông bắt
đầu (IICo 2Cr 2:13; 7:5) cho thấy bức thư đã được viết tại Ma-xê-đoan.
Những người nhận thư:
Lời chào thăm mở đầu cho thấy bức thư này được gởi cho Hôi thánh tại Cô-
rinh-tô và các Cơ Đốc nhân trong toàn xứ A-chai (tỉnh của La Mã, gồm toàn
thể lãnh thổ Hy Lạp nằm về phia Nam xứ Ma-xê-đoan)
Chủ đích:
Nhiều giáo sư giả đã len lỏi xâm nhập Hội Thánh Cô-rinh-tô thách thức cả
sự thanh liêm của Phao-lô lẫn uy quyền sứ đồ của ông. Vì ông đã thông báo
thay đổi lộ trình mà hậu quả là giờ đây ông sẽ đến thăm họ một chuyến (dài
ngày) thay vì hai lần (ngắn hạn), các kẻ thù ông đã lợi dụng việc ấy để bảo
rằng lời ông nói là không đáng tin. Họ cũng bảo rằng ông không phải là một
sứ đồ chân chính, và ông đã bỏ vào túi riêng số tiền ông đã quyên trợ, bảo là
cho các tín hữu đang túng quẫn tại Giê-ru-sa-lem. Phao-lô yêu cầu người
Cô-rinh-tô hãy xét kỹ đời sống cá nhân của ông giữa vòng họ vốn luôn luôn
khả kính, và bức thông điệp cứu rỗi đồng thời cũng biến đổi cuộc đời con
người là đúng, là thật. Ông giục họ chuẩn bị cho lần thăm viết sắp tới của
ông bằng việc hoàn tất cuộc quyên trợ mà họ đã bắt đầu một năm trước đó
và đối phó với những kẻ gây rối giữa họ. Ông cảnh cáo họ rằng ông viết thế
nào, thì cũng sẽ làm theo đúng như vậy.
Cấu trúc:
Cấu trúc bức thư này liên hệ trước hết với chuyến thăm viếng Cô-rinh-tô lần
thứ ba sắp tới đây của Phao-lô. Bưc thư có thể được chia thật tự nhiên ra làm
ba phần:
1. Phao-lô giải thích lý do ông phải thay đổi lộ trình (1:1-7:15)
2. Phao-lô khích lệ người Cô-rinh-tô hoàn tất cuộc quyên trợ để chuẩn bị cho
ngày đến của ông (8:1-9:15)
3. Phao-lô nhấn mạnh rằng ông sẽ đến khẳng định thẩm quyền làm sứ đồ của
mình, và ở cương vị sứ đồ, ông sẽ sẵn sàng thi hành kỷ luật nếu cần (10:1-
13:14)
Tính nhất quán:
Một số người đã thắc mắc về tính nhất quán của bức thư này (xem chú thích
ở 2:3-4), nhưng nó vốn hợp thành một toàn thể có liên hệ chặt chẽ với nhau
như phần cấu trúc (trên đây) đã cho thấy. Truyền thống nhất trí trong việc
khẳng định tính nhất quán của bức thư (chẳng hạn các giáo phụ nguyên thuỷ
chỉ biết bức thư trong hình thức như hiện có mà thôi). Hơn nữa, đã không hề
có cổ bản Hy văn nguyên thuỷ nào có chỗ gián đoạn khi sao lại bức thư này.
Bố cục:
I. Sự biện giải căn bản: Phao-lô giải thích cách ăn ở cư xử cũng như chức vụ
sứ đồ của mình (1:1-7:16)
A. Lời chào thăm (1:1-2)
B. Lời cảm tạ Đức Chúa Trời vì đã an ủi ông trong cơn hoạn nạn (1:3-11)
C. Sự thanh liêm của Phao-lô trong các động cơ thúc đẩy và cách ăn ở ứng
xử (1:12-2:4)
D. Tha thứ cho những kẻ phạm tội tại Cô-rinh-tô (2:5-11)
E. Sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời trong chức vụ (2:12-17)
F. Các tín hữu tại Cô-rinh-tô - một bức thư từ Chúa Cứu Thế gởi đến (3:1-
11)
G. Được để mặt trần nhìn vinh quang Đức Chúa Trời (3:12-4:6)
H. Của báu đựng trong bình đất (4:7-16a).
I. Viễn ảnh về cái chết, và phần dành riêng cho Cơ Đốc nhân (4:16b-5:10)
J. Chức vụ hoà giải (5:11-6:10)
K. Một người Cha thuộc linh kêu gọi các con cái mình (6:11-7:4)
L. Cuộc gặp gỡ với Tít (7:5-16)
II. Phần răn bảo: Việc quyên trợ cho các Cơ Đốc nhân tại Giê-ru-sa-lem
(8:1-9:14)
A. Khuyên nên có lòng rộng rãi (8:1-15)
B. Tít và các bạn đồng hành được phái đến Cô-rinh-tô (8:16-9:5)
C. Kết quả của việc quyên góp cách rộng rãi (9:6-15)
III. Phần bút chiến: Phao-lô có đầy đủ uy quyền của chức sứ đồ (10:1-13:14)
A. Phao-lô bênh vực cho uy quyền sứ đồ và cho khu vực truyền giáo của
ông (10:1-18)
B. Phao-lô bị ép buộc phải thốt ra những lời khoe khoang dại dột (11:1-
12:21)
C. Những lời cảnh cáo cuối cùng (13:1-10)
D. Kết luận (13:11-14)

Dẫn nhập Ga-la-ti


Trước giả:
Câu đầu tiên cho thấy ngay trước giả thư Ga-la-ti là sứ đồ Phao-lô. Ngoài
một số ít học giả vào thế kỷ thứ mười chín, đã không có ai thắc mắc nghiêm
trọng tác quyền của ông.
Niên đại và nơi nhận thư:
Niên đại thư Ga-la-ti phần lớn tuỳ thuộc vào địa chỉ mà thư ấy được gởi đến.
Có hai quan điểm chính:
1. Thuyết miền Bắc Ga-la-ti: Thuyết xưa hơn này chủ trương rằng bức thư
vốn được gởi cho các Hội Thánh tại khu vực trung tâm phía Bắc Tiểu Á
châu (Pessimus, Aneyra và Tavium), nơi những người Gauls đã đến định cư
khi họ xâm chiếm khu vực này hồi thế kỷ thứ ba T.C. Thuyết này cho rằng
Phao-lô đã đến thăm khu vực ấy trong vòng lưu hành truyền giáo thứ hai của
ông, tuy sách Công vụ không hề ghi gì về một cuộc thăm viếng như vậy.
Thuyết này chủ trương thư Ga-la-ti được viết giữa năm 53 và 57 S.C, từ Ê-
phê-sô hoặc Ma-xê-đoan.
2. Thuyết miền Nam Ga-la-ti: Theo quan điểm này, thư Ga-la-ti được viết
cho các Hội Thánh tại khu vực cực Nam tỉnh Ga-la-ti của La Mã (An-ti-ốt,
Y-cô-ni, Lít-trơ và Đẹt-bơ) mà Phao-lô đã thành lập trong vòng lưu hành
truyền giáo thứ nhất của ông. Có người tin rằng thư Ga-la-ti được viết từ
An-ti-ốt xứ Sy-ri vào những năm 48-49 sau vòng lưu hành truyền giáo thứ
nhất và trước cuộc họp Giáo hội nghị tại Giê-ru-sa-lem (Cong Cv 15:1-41).
Nhiều người khác bảo rằng thư Ga-la-ti được viết tại An-ti-ốt xứ Sy-ri hoăc
Cô-rinh-tô, giữa các năm 51-53.
Cơ hội và chủ đích:
Có những Cơ Đốc nhân gốc người Do Thái tin rằng - ngoài nhiều điều khác
- một số lễ nghi hành đạo theo Cựu ước vẫn còn bị bó buộc đối với Hội
Thánh Tân ước. Sau chiến dịch hết sức thành công của Phao-lô tại Ga-li-lê,
họ nhất quyết đòi hỏi các tín hữu người ngoại quốc mới ăn năn quy đạo phải
giữ một số lễ nghi Cựu ước, nhất là phép cắt bì. Có lẽ động cơ thúc đẩy họ
vốn là sự mong muốn tránh được việc bị những người Do Thái nhiệt cuồng
bách hại - vì số người này phản đối việc họ xem người ngoại quốc là anh em
(xem GaGl 6:12). Số Cơ Đốc nhân vẫn còn lưu luyến với Do Thái giáo này
lý luận rằng Phao-lô không phải là một sứ đồ chân chính, và ngoài ý đồ
muốn cho bức thông điệp Phúc âm trở thành hấp dẫn hơn đối với người
ngoại quốc, ông còn cất khỏi Phúc âm một số các đòi hỏi hợp pháp nữa.
Phao-lô trả lời bằng cách thiết lập rõ ràng uy qyền làm sứ đồ của ông, và do
đó, đã chứng minh cho Phúc âm mà ông truyền giảng. Bằng việc thêm nhiều
đòi hỏi vào cho việc xưng công chính (nghĩa là thêm những công việc làm
theo luật pháp), các kẻ thù ông đã khiến cho Phúc âm của ân điển bị sai lệch
đi, và nếu không được ngăn chặn kịp thời, sẽ có thể đưa số người mà Phao-
lô vừa dẫn dắt đến chỗ ăn năn quy đạo vào ách nô lệ cho luật pháp chủ
nghĩa. Nếu người ta chỉ nhờ ân điển và bởi đức tin mà được xưng công
chính, thì người ta cũng chỉ nhờ một mình đức tin mà thôi, mới có thể sống
cuộc đời mới cách tự do trong Đức Thánh Linh.
Lời truyền dạy thần học:
Thư Ga-la-ti nổi bật như một sách biện giải hùng hồn và mạnh mẽ cho chân
lý thiết yếu của Tân ước rằng con người ta được xưng công chính là bởi đức
tin vào Chúa Cứu thế Giê-xu - không thể bớt đi mà cũng chẳng được phép
thêm gì vào đó - và rồi người ấy cũng sẽ được thánh hoá không phải là nhờ
vào các công việc theo luật pháp nhưng là nhờ sự vâng lời xuất phát từ đức
tin vào công việc mà Thượng Đế đã làm cho mình, trong mình và thông qua
mình bởi ân điển và quyền phép của Chúa Cứu Thế và của Đức Thánh Linh.
Chính việc tìm lại được bức thông điệp căn bản cho người Ga-la-ti đã làm
phát sinh công cuộc Cải chánh. Sách Ga-la-ti thường được đề cập như là
“quyển sách của Luther”, vì Martin Luther đã nương tựa vững chắc vào bức
thư này để viết ra các văn phẩm và các luận cứ chống lại nền thần học thịnh
hành vào thời của ông. Câu chìa khoá là 2:16 (xem chú thích ở đó).
Bố cục:
I. Dẫn nhập (1:1-9)
A. Lời chào thăm (1:1-5)
B. Lời tố giác (1:6-9)
II. Phần cá nhân: Tính cách xác thực của vị sứ đồ của tự do và đức tin (1:10-
2:21)
A. Phúc âm của Phao-lô vốn được ông tiếp nhận bằng sự mặc khải đặc biệt
(1:10-12)
B. Phúc âm của Phao-lô vốn độc lập đối với các sứ đồ tại Giê-ru-sa-lem và
các Hội Thánh trong xứ Giu-đê (1:13-2:21)
1. Được chứng minh bằng các hoạt động đầu tiên của ông với tư cách một
Cơ Đốc nhân (1:13-17)
2. Được chứng minh bằng chuyến viếng thăm Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất sau
khi ông ăn năn quy đạo (1:18-24)
3. Được chứng minh bằng chuyến viếng thăm Giê-ru-sa-lem lần thứ hai sau
khi ông ăn năn quy đạo (2:1-10)
4. Được chứng minh bằng lời ông trách Phi-e-rơ tại An-ti-ốt (2:11-21)
III. Phần giáo lý: Biện minh cho giáo lý về tự do và đức tin (3:1-4:31)
A. Từng trải về Phúc âm của người Ga-la-ti (3:1-5)
B. Từng trải của Áp-ra-ham (3:6-9)
C. Sự nguyền rủa của luật pháp (3:10-14)
D. Ưu quyền của lời hứa (3:15-18)
E. Chủ đích của luật pháp (3:19-25)
F. Con cái chớ không phải là nô lệ (3:26-4:11)
G. Lời kêu gọi hãy từ bỏ luật pháp để bước vào tự do (4:12-20)
H. Thí dụ của A-ga và Sa-ra (4:21-31)
IV. Phần thực tiễn: Đời sống tự do và bởi đức tin trong thực tế (5:1-6:10)
A. Khuyên tiếp nhận tự do (5:1-12)
B. Sống bởi Thánh Linh chớ không theo xác thịt (5:13-26)
C. Kêu gọi tương trợ (6:1-10)
V. Kết luận ((6:11-18)

Dẫn nhập Ê-phê-sô


Trước giả, niên đại và địa điểm viết thư:
Trước giả tự xưng là Phao-lô (Eph Ep 1:1; 3:1; tham chiếu 3:7,13; 4:1; 6:19-
20). Một số người viện việc thiếu vắng những lời chào thăm cá nhân thông
thường và nhiều câu nói giống nhau ở nhiều phần trong thư Cô-lô-se - trong
số nhiều lý do khác nữa - để làm cơ sở nghi ngờ tác quyền của sứ đồ Phao-
lô. Tuy nhiên, đây có thể là một bức thư luân lưu, nhằm vào nhiều Hội
Thánh khác nữa ngoài Hội Thánh tại Ê-phê-sô (xem các chú thích ở 1:1,15;
6:21-23). Có thể Phao-lô đã viết thư này đồng thời với thư Cô-lô-se - nghĩa
là khoảng năm 60 S.C trong lúc ông bị cầm tù tại Rô-ma (xem 3:1; 4:1;
6:20).
Thành phố Ê-phê-sô:
Ê-phê-sô là thành phố quan trọng nhất tại vùng cực Tây Tiểu Á châu (Thổ
nhĩ kỳ ngày nay). Nó có một hải cảng, thời bấy giờ được nối liền với sông
Cayster đổ ra biển Á-để-á. Vì nó cũng là một giao lộ của nhiều con đường
thương mại lớn, Ê-phê-sô vốn là một trung tâm buôn bán. Nó tự hào về một
ngôi đền thờ nữ thần La Mã Đi-anh (Diana, là nữ thần Artemis của Hy Lạp),
tham chiếu Cong Cv 19:23-31. Phao-lô đã dùng Ê-phê-sô làm một trung tâm
để truyền giảng Phúc âm trong khoảng ba năm (xem chú thích ở Cong Cv
19:10), và Hội Thánh tại đó rõ ràng là đã phát triển nhanh chóng một thời
gian, nhưng về sau cũng nhận được lời cảnh cáo cần thiết của KhKh 2:1-7.
Bức thông điệp:
Khác với nhiều thư khác mà Phao-lô đã viết, người Ê-phê-sô không được đề
cập đến việc có liên hệ với bất kỳ một lầm lỗi hay tà giáo cá biệt nào. Phao-
lô đã viết nhằm mở rộng tầm nhìn cho các độc giả của mình, để họ được
thấu hiểu thêm các chiều kích của chủ đích đời đời của Đức Chúa Trời và
của ân điển Ngài, hầu tán thưởng các mục tiêu cao cả mà Đức Chúa Trời
dành cho Hội Thánh Ngài.
Bức thư được bắt đầu bằng một chuỗi liên tục những lời phát biểu về các
phước hạnh của Đức Chúa Trời, chen vào rải rác là những câu hết sức khác
lạ lưu ý mọi người đến sự khôn ngoan, tư tưởng và chủ đích vốn có từ trước
vô cùng của Đức Chúa Trời, Phao-lô nhấn mạnh rằng chúng ta sở dĩ được
cứu chẳng những chỉ vì lợi ích cá nhân, mà còn là để cho Đức Chúa Trời
được ca ngợi và tôn vinh nữa. Tuyệt đỉnh của chủ đích của Đức Chúa Trời
“khi kỳ mãn” là nhằm “hội hiệp muôn vật lại trong Đấng Christ” (Eph Ep
1:10). Điều vô cùng quan trọng là người Ê-phê-sô hiểu được điều đó, cho
nên ở 1:15-23 Phao-lô đã cầu nguyện để họ thấu triệt được vấn đề (còn một
bài cầu nguyện thứ hai nữa trong 3:14-21).
Sau khi giải thích các mục tiêu quan trọng của Đức Chúa Trời cho Hội
Thánh, Phao-lô tiếp tục vạch rõ các bước tiến nhằm kiện toàn chúng. Thứ
nhất, Đức Chúa Trời đã phục hoà từng người một với Ngài như một hành
động do ân điển (2:1-10). Thứ hai, Đức Chúa Trời đã hoà giải những cá
nhân đã được cứu đó với nhau. Chúa Cứu Thế đã triệt hạ các bức tường
ngăn cách bằng chính sự chết của Ngài (2:11-22). Nhưng Đức Chúa Trời
còn làm một điều vượt xa hơn thế nữa: Ngài đã kết hợp tất cả các cá nhân đã
được hoà giải ấy lại với nhau thành một thân thể duy nhất, là Hội Thánh.
Đây là một “huyền nhiệm” vẫn chưa được ai biết rõ cho đến khi nó được
mặc khải cho Phao-lô (3:1-6). Bây giờ ông có thể vạch ra càng rõ hơn điều
mà Đức Chúa Trời muốn trên Hội Thánh, ấy là nhờ Hội Thánh Ngài sẽ phô
bày “sự khôn ngoan muôn mặt” của Ngài cho “những kẻ làm đầu và những
kẻ cầm quyền trong các nơi trên trời” (3:7-13). Nhờ nhiều lần nhắc đi nhắc
lại về “các nơi trên trời” (1:3,20; 2:6; 3:10; 6:12) thì rõ ràng đời sống của
Cơ-đốc nhân không phải chỉ có trên bình diện là đất này mà thôi. Nó còn
nhận được ý nghĩa từ thiên đàng, là nơi Chúa Cứu Thế từng được tôn cao
bên hữu Đức Chúa Trời (1:20).
Tuy nhiên, cuộc đời này vẫn còn phải được sống trên đất, là nơi sinh hoạt
thực tế của mỗi tín hữu vẫn phải tiếp tục để hoàn thành các chủ đích của
Đức Chúa Trời. Chúa đã thăng thiên ban “ân tứ” cho các thành viên của Hội
Thánh để giúp họ phục vụ lẫn nhau hầu xúc tiến sự hiệp một và trưởng thành
(4:1-16). Sự hiệp một của Hội Thánh dưới quyền lãnh đạo của “cái đầu” là
Chúa Cứu Thế, làm hình bóng về sự hiệp một của “muôn vật… cả ở trên trời
và ở dưới đất” dưới quyền tể trị của Chúa Cứu thế (1:10). Cuộc đời mới
thánh khiết và tôn trọng lẫn nhau sẽ tương phản rõ rệt với cuộc đời cũ không
có Chúa Cứu Thế (4:17-6:9). Những ai “mạnh dạn trong Chúa” sẽ chiến
thắng kẻ ác trong cuộc tranh chiến quan trọng này nhất là nhờ quyền năng
của sự cầu nguyện (6:10-20).
Bố cục:
I. Những lời chào thăm (1:1-2)
II. Chủ đích của Đức Chúa Trời: Sự vinh hiển và quyền làm Đầu của Chúa
Cứu Thế (1:3-14)
III. Cầu nguyện cho các tín hữu thấu hiểu chủ đích và quyền phép của Đức
Chúa Trời (1:15-23)
IV. Các bước tiến tới việc hoàn thành chủ đích của Đức Chúa Trời (2:1-
3:21)
A. Sự cứu rỗi từng cá nhân bởi ân điển (2:1-10)
B. Sự hoà giải giữa người Do Thái với người ngoại quốc nhờ thập tự giá
(2:11-18)
C. Người Do Thái và người ngoại quốc được họp lại một nhà (2:19-22)
D. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được bày tỏ thông qua Hội Thánh
(3:1-13)
E. Cầu nguyện xin được từng trải sâu nhiệm hơn về sự hoàn toàn đầy đủ của
Đức Chúa Trời (3:14-21)
V. Các phương pháp thực tiễn nhằm hoàn thành chủ đích của Đức Chúa Trời
trong Hội Thánh (4:1-6:20)
A. Sự hiệp một (4:1-6)
B. Sự trưởng thành (4:7-16)
C. Đổi mới đời sống cá nhân (4:17-5:20)
D. Sự tôn trọng lẫn nhau trong các mối liên hệ cá nhân (5:21-6:9)
1. Nguyên tắc (5:21)
2. Chồng với vợ (5:22-33)
3. Con cái và cha mẹ (6:1-4)
4. Tớ và chủ (6:5-9)
E. Sức mạnh trong cuộc chiến thuộc linh (6:10-20)
VI. Kết luận, những lời chào thăm và chúc phước cuối cùng (6:21-24)

Dẫn nhập Phi-líp


Trước giả, niên đại và địa điểm viết thư:
Hội Thánh nguyên thuỷ nhất trí cho rằng thư Phi-líp vốn được Phao-lô viết
(xem Phi Pl 1:1). Ngay bên trong bức thư đã cho thấy dấu ấn có tính cách
xác thực ấy. Nhiều câu mang tính cá nhân cho thấy trước giả quả phù hợp
với nhân vật mà chúng ta được biết là Phao-lô, căn cứ vào các sách khác của
Tân Ước.
Rõ ràng là Phao-lô đã viết bức thư này trong tù (xem 1:13-14). Có người lý
luận rằng nhà tù này ở Ê-phê-sô, có lẽ vào khoảng năm 53-55 S.C, nhiều
người khác lại cho rằng nó ở tại Sê-sa-rê, vào khoảng năm 57-59. Tuy nhiên,
chứng cứ hiển nhiên nhất dành cho Rô-ma, được xem như địa điểm bắt
nguồn của bức thư và niên đại là vào khoảng năm 61 S.C. Điều này rất phù
hợp với phần ký thuật về việc Phao-lô bị quản thúc tại gia trong Cong Cv
28:14-31. Lúc viết thư Phi-líp, ông đã không bị giam trong nhà ngục
Mamertine như khi ông viết thư IITi-mô-thê. Ông được ở trong nhà thuê
riêng, là nơi ông có cơ hội tự do chia sẻ Phúc Âm cho tất cả những ai đến
với ông suốt hai năm liền.
Chủ đích:
Chủ đích đầu tiên của Phao-lô khi viết thư này là để cám ơn người Phi-líp về
tặng phẩm mà họ đã gởi cho ông khi biết ông đang bị giam giữ tại Rô-ma
(Phi Pl 1:5; 4:10-19). Tuy nhiên, ông cũng nhân cơ hội này để hoàn thành
nhiều mong ước khác nữa: 1. kể lại hoàn cảnh của riêng ông (1:12-26; 4:10-
19), 2. khích lệ người Phi-líp đứng vững khi phải đương đầu với cuộc bắt bớ
bách hại và vui mừng luôn, bất chấp mọi hoàn cảnh (1:27-30; 4:4), 3. răn
bảo họ nên khiêm nhu hạ mình và đoàn kết lại với nhau (2:1-11; 4:2-5), 4.
gởi gắm Ti-mô-thê và Ép-bô-phô-đích cho Hội Thánh Phi-líp (2:19-30) và 5.
cảnh cáo người Phi-líp chống lại số Cơ Đốc nhân chủ trương giữ luật pháp,
và nhóm người chỉ lợi dụng danh nghĩa Cơ Đốc nhân (theo tự do chủ nghĩa)
giữa vòng họ (3:1-21).
Những người nhận thư:
Thành phố Phi-líp được đặt theo tên vua Phi-líp II xứ Ma-xê-đoan, cha của
A-lịch sơn Đại đế. Đây là một thuộc địa trù phú của La Mã, và điều đó có
nghĩa là các công dân của thành phố Phi-líp cũng là công dân của chính
thành phố Rô-ma nữa. Họ tự hào vì là công dân La Mã (xem Cong Cv
16:21), ăn mặc theo người Rô-ma và thường nói tiếng La-tinh. Chắc chắn đó
là bối cảnh để Phao-lô đề cập quyền công dân thiên đàng của người tín hữu
(Phi Pl 3:20-21). Nhiều người Phi-líp vốn là quân nhân về hưu, được cấp đất
trong vùng phụ cận, và ngược lại, họ phục vụ với cương vị các quân nhân
hiện diện tại thành phố nằm tại biên giới này. Việc Phi-líp là một thuộc địa
của La Mã giải thích được tại sao đã không có đông đảo người Do Thái cư
ngụ tại đây để lập lên một nhà hội và tại sao Phao-lô đã không trích dẫn Cựu
Ước trong thư Phi-líp.
Các đặc điểm:
1. Thư Phi-líp không có trích dẫn Cựu Ước
2. Nó là một bức thư cám ơn của một giáo sĩ, trong đó có các bản tường
trình về sự tiến triển của công tác của ông ta.
3. Nó biểu hiện một nếp sống Cơ Đốc nhân đặc biệt tráng kiện: 1. tự hạ
mình (2:1-4), 2. nhắm tới mục tiêu (3:13-14), 3. không âu lo xao xuyến
(4:6), 4. có khả năng làm mọi sự (4:13)
4. Đây là bức thư nổi bật hẳn lên trong Tân Ước về niềm vui, từ ngữ “vui
mừng” dưới nhiều hình thức khác nhau xuất hiện khoảng 16 lần.
5. Nó có một trong nhiều phân đoạn đề cập đến Chúa Cứu Thế sâu nhiệm
nhất trong Tân Ước (2:5-11). Thế nhưng, tuy là một khúc sách sâu nhiệm,
Phao-lô đưa nó vào đó chủ yếu là nhằm các chủ đích minh hoạ mà thôi.
Bố cục:
I. Lời chào: (1:1-2)
II. Lời cảm tạ và cầu nguyện cho người Phi-líp (1:3-11)
III. Tình hình của cá nhân Phao-lô (1:12-26)
IV. Những lời răn bảo (1:27-2:18)
A. Sống một cuộc đời xứng đáng với Phúc Âm (1:27-30)
B. Noi theo thái độ làm tôi tớ của Chúa Cứu Thế (2:1-18)
V. Số người cộng tác với Phao-lô trong việc truyền giảng Phúc Âm (2:19-
30)
A. Ti-mô-thê (2:19-24)
B. Ép-ba-phô-đích (2:25-30)
VI. Lời cảnh cáo chống lại các Cơ Đốc nhân chủ trương giữ luật pháp Do
Thái giáo và phái tự do (3:1-4:1)
A. Chống các Cơ Đốc nhân chủ trương giữ luật pháp (3:1-16)
B. Chống phái tự do: (3:17-4:1)
VII. Những lời răn bảo cuối cùng, cảm tạ và kết luận (4:2-23)
A.Những lời răn bảo liên hệ đến nhiều phương diện khác nhau của sinh hoạt
Cơ Đốc nhân (4:2-9)
B. Lời chứng kết thúc và nhắc lại những lời cảm tạ (4:10-20)
C. Những lời chào thăm và chúc phước (4:21-23)

Dẫn nhập Cô-lô-se


Trước giả, niên đại và địa điểm viết thư:
Ít có những tranh luận về việc thư Cô-lô-se có phải do Phao-lô viết hay
không. Trong Hội Thánh nguyên thuỷ, tất cả những người bàn về chủ đề tác
quyền đều cho rằng Phao-lô là trước giả. Tuy nhiên, hồi thế kỷ thứ 19 có
một số người nghĩ rằng tà giáo mà CoCl 2:1-23 bài bác, là Trí huệ phái của
thế kỷ thứ hai. Nhưng khi phân tích kỹ 2:1-23 ngưtời ta nhận thấy tà giáo
được đề cập trong đó rõ ràng là kém phát triển hơn Trí huệ phái của các giáo
sư Trí huệ phái hàng đầu của hai thế kỷ thứ hai và thứ ba. Hơn nữa, hột
giống mà về sau sẽ trở thành Trí huệ phái nở rộ của thế kỷ thứ hai vốn đã có
ngay từ hồi thế kỷ thứ nhất rồi, và đã len lỏi xâm nhập các Hội Thánh. Tóm
lại chẳng có gì cần thiết phải định niên đại cho thư Cô-lô-se là vào thế kỷ
thứ hai, vào một thời gian quá muộn màng để Phao-lô có thể viết nó.
Thay vào đó, phải định niên đại cho thư tín này trong thời kỳ Phao-lô bị cầm
tù lần đầu tiên tại Rô-ma, nơi ông đã chịu quản thúc tại gia suốt hai năm
(xem Cong Cv 28:16-31). Có người lý luận rằng Phao-lô đã viết thư Cô-lô-
se từ Ê-phê-sô hoặc Sê-sa-rê, nhưng phần lớn cứ liệu đều ủng hộ cho Rô-ma
là nơi Phao-lô đã viết tất cả các thư tín trong tù (Ê-phê-sô, Cô-lô-se, Phi-líp
và Phi-lê-môn). Thư Cô-lô-se phải được định niên đại vào khoảng năm 60
SCN, cùng năm với hai thư Ê-phê-sô và Phi-lê-môn.
Cô-lô-se, thành phố và Hội Thánh:
Nhiều trăm năm trước thời của Phao-lô, Cô-lô-se vốn đã là một thành phố
hàng đầu tại Tiểu Á châu (nay là Thổ-nhĩ-kỳ). Nó nằm trên sông Lycus và
trên con đường giao thương lớn từ đông sang tây, dẫn từ Ê-phê-sô trên biển
Á-để-á đến sông Ơ-phơ-rát. Đến thế kỷ thứ nhất SCN, Cô-lô-se đã suy thoái
để trở thành một thành phố thị trường hạng nhì, đã bị các thành phố lân cận
là Lao-đi-xê và Hi-ê-ra-bô-li qua mặt từ lâu về cả hai phương diện thế lực và
tầm quan trọng (xem CoCl 4:13).
Tuy nhiên, điều khiến cho Cô-lô-se của Tân ước trở thành quan trọng, là sự
kiện suốt ba năm Phao-lô thi hành chức vụ tại Ê-phê-sô, thì Ê-pháp-ra đã ăn
năn quy đạo và đã đem Phúc Âm đến Cô-lô-se (tham chiếu 1:7-8; Cong Cv
19:10). Kết quả là một Hội Thánh non trẻ đã được thành lập và trở thành
mục tiêu tấn công của tà giáo đưa đến việc Ê-pháp-ra phải đến thăm Phao-lô
tại Rô-ma và cuối cùng, Phao-lô đã viết thư Cô-lô-se này.
Có lẽ nhờ kết quả của các nỗ lực của Ê-pháp-ra hay nhiều người khác nữa đã
nhờ Phao-lô dìu dắt đến chỗ ăn năn quy đạo, mà các Hội Thánh Cơ Đốc
khác cũng đã được thành lập tại Lao-đi-xê và Hi-ê-ra-bô-li. Một số trong các
Hội Thánh đó là những Hội Thánh tư gia (xem CoCl 4:15; Phil Plm 1:2). Có
thể tất cả các Hội Thánh ấy nguyên là của người ngoại quốc.
Tà giáo tại Cô-lô-se:
Phao-lô đã không hề công nhiên mô tả tà giáo mà ông chống lại trong thư
Cô-lô-se. Chúng ta đành phải suy diễn ra bản tính của tà giáo ấy căn cứ vào
những câu nói mà ông đã đưa ra để chống lại các giáo sư giả. Nghiên cứu
phần bài bác của ông gợi ý rằng tà giáo này vốn có bản tính đa dạng. Một số
yếu tố của những lời truyền dạy đó là:
1. Lễ nghi chủ nghĩa. Nó chủ trương những quy luật khắt khe về các loại
thức ăn thức uống, các lễ lạc tôn giáo (CoCl 2:16-17) và phép cắt bì (2:11;
3:11)
2. Chủ nghĩa khổ hạnh: “chớ lấy, chớ nếm, chớ rờ!” (2:21; tham chiếu 2:23)
3. Thờ lạy thiên sứ (xem 2:18)
4. Chống Chúa Cứu Thế. Điều này ẩn tàng trong việc Phao-lô nhấn mạnh
trên tính cách cao trọng hơn của Chúa Cứu Thế (1:15-20; 2:2-3,9)
5. Tri thức bí nhiệm: Trí huệ phái vẫn khoe khoang về điểm này (xem 2:18
và điểm nhấn mạnh của Phao-lô trong 2:2-3 trên Chúa Cứu Thế, “mà trong
Ngài đã giấu kín mọi sự quý báu về khôn ngoan thông sáng”).
6. Trông cậy vào sự khôn ngoan và truyền khẩu của loài người (xem 2:4,8)
Các yếu tố trên đây dường như thuộc vào hai loại: Do Thái giáo và Trí huệ
phái. Do đó, có lẽ tà giáo tại Cô-lô-se là sự pha lẫn giữa một hình thức cực
đoan của Do Thái giáo với giai đoạn nguyên thuỷ của Trí huệ phái (xem
Nhập đề thư IGiăng, cũng xem chú thích ở 2:23).
Chủ đích và luận đề:
Chủ đích của Phao-lô là bài bác tà giáo tại Cô-lô-se. Nhằm đạt mục tiêu này,
ông đề cao Chúa Cứu Thế như chính là hình ảnh của Đức Chúa Trời (1:15),
là Đấng Tạo Hoá (1:16), là Đấng nâng đỡ bảo tồn muôn vật vốn có từ trước
vô cùng (1:17), là đầu của Hội Thánh (1:18), là Đấng phục sinh đầu tiên
(1:18), là sự đầy dẫy trọn vẹn của thần tánh (1:19; 2:9) và là Đấng hoà giải
(1:20-22). Như vậy Chúa Cứu Thế là Đấng đầy đủ trọn vẹn. Chúng ta “nhờ
Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự” (2:10). Mặt khác, tà giáo tại Cô-lô-se
hoàn toàn thiếu sót. Nó chỉ là một triết lý nông cạn, chuyên lừa dối người ta
(2:8), thiếu khả năng kìm hãm bản tính tội lỗi cũ (2:23).
Luận đề của thư Cô-lô-se là sự đầy đủ trọn vẹn của Chúa Cứu Thế, tương
phản với sự rỗng tuếch của triết lý suông của loài người.
Bố cục:
I. Dẫn nhập (1:1-14)
A. Chào thăm (1:1-2)
B. Cảm tạ (1:3-8)
C. Cầu nguyện (1:9-14)
II. Tính cách cao trọng của Chúa Cứu Thế (1:15-23)
III. Phao-lô làm việc lao khổ vì Hội Thánh (1:24-2:7)
A. Một chức vụ vì Hội Thánh (1:24-29)
B. Một mối bận tâm cho sự an vui phúc lợi thuộc linh của các độc giả (2:1-
7)
IV. Được giải phóng khỏi các quy tắc luật lệ của loài người nhờ sống với
Chúa Cứu thế (2:8-23)
A. Cảnh cáo phải coi chừng các giáo sư giả (2:8-15)
B. Khuyên nài hãy khước từ các giáo sư giả (2:16-19)
C. Phân tích tà giáo (2:20-23)
V. Các quy luật của một nếp sống thánh khiết (3:1-4:6)
A. Bản ngã cũ và bản ngã mới (3:1-17)
B. Các quy luật trong sinh hoạt gia đình của Cơ Đốc nhân (3:18-4:1)
C. Những lời chỉ dạy thêm (4:2-6)
VI. Những lời chào thăm cuối cùng (4:7-18)

Dẫn nhập I Tê-sa-lô-ni-ca


Bối cảnh của các thư Tê-sa-lô-ni-ca:
Thiết tưởng vạch lại các địa điểm cư trú của Phao-lô và các đồng bạn của
ông có liên hệ với các việc liên lạc thư tín với người Tê-sa-lô-ni-ca, là điều
hữu ích. Các chuyến đi đã được thực hiện như sau:
1. Hai sứ đồ Phao-lô và Si-la trốn khỏi Tê-sa-lô-ni-ca để đến Bê-rê (xem
Cong Cv 17:10). Vì Ti-mô-thê không được đề cập, rất có thể ông vẫn còn ở
lại Tê-sa-lô-ni-ca hoặc trở lại Phi-líp, để rồi sẽ đến sát nhập với Phao-lô và
Si-la tại Bê-rê (Cong Cv 17:14).
2. Do bị bắt bớ bách hại tại Bê-rê, Phao-lô trốn sang A-thên, bỏ Si-la và Ti-
mô-thê ở lại Bê-rê (xem Cong Cv 17:14)
3. Phao-lô gởi thư lại, bảo Si-la và Ti-mô-thê đến A-then với ông (xem Cong
Cv 17:15; cũng xem chú thích ở ITe1Tx 3:1-2)
4. Ti-mô-thê đến với Phao-lô tại A-then và được sai trở lại Tê-sa-lô-ni-ca
(xem ITe1Tx 3:1-5). Vì Si-la không được đề cập, có người phỏng đoán rằng
ông đã trở lại Phi-líp trong lúc Ti-mô-thê đi Tê-sa-lô-ni-ca.
5. Phao-lô chuyển sang Cô-rinh-tô (xem Cong Cv 18:1)
6. Si-la và Ti-mô-thê đến với Phao-lô tại Cô-rinh-tô (ITe1Tx 3:6; Cong Cv
18:5)
7. Phao-lô viết thư ITê-sa-lô-ni-ca và gởi cho Hội Thánh ấy
8. Khoảng sáu tháng sau (51/52 SCN) ông gởi thư IITê-sa-lô-ni-ca để hồi âm
cho những điều thăm hỏi thêm của Hội Thánh tại đó.
Trước giả, niên đại và địa điểm viết thư:
Cả các ngoại chứng lẫn nội chứng (xem ITe1Tx 1:1; 2:18) đều hậu thuẫn
cho quan điểm rằng Phao-lô đã viết thư ITê-sa-lô-ni-ca (từ Cô-rinh-tô, xem
chú thích ở 3:1-2). Các tác giả thời Hội Thánh nguyên thuỷ đều nhất trí về
vấn đề này, với nhiều lời chứng bắt đầu từ rất sớm vào năm 140 SCN
(Marcion). Những đặc điểm được biết là của Phao-lô xuất hiện rõ ràng trong
bức thư này (3:1-2,8-11 đối chiếu với Cong Cv 15:36; IICo 2Cr 11:28).
Những câu ám chỉ có tính cách lịch sử trong sách phù hợp với cuộc đời của
Phao-lô như đã được ký thuật trong sách Công vụ và trong các thư tín của
chính ông (ITe1Tx 2:14-16 đối chiếu với Cong Cv 17:5-10; ITe1Tx 3:6 đối
chiếu với Cong Cv 17:16). Đứng trước những chứng cứ hiển nhiên như thế,
đã có rất ít người chối bỏ tác quyền của Phao-lô.
Bức thư được mọi người định niên đại vào khoảng năm 51 SCN. Có hậu
thuẫn mạnh mẽ cho niên đại này trong một bia đá tìm thấy tại Delphi, Hy
Lạp định niên đại cho chức vụ trấn thủ của Ga-li-ôn mãi tận khoảng năm 51-
52. Theo chứng cứ này đã đặt Phao-lô tại đó vào cùng một thời kỳ (xem
Cong Cv 18:12-17). Ngoại trừ việc có thể có một niên đại sớm cho thư Ga-
la-ti (48-49?), thư ITê-sa-lô-ni-ca là bức thư sớm nhất của Phao-lô đã được
liệt vào Kinh điển.
Tê-sa-lô-ni-ca: thành phố và Hội Thánh:
Tê-sa-lô-ni-ca là một hải cảng rộn rịp nằm ở đầu vịnh Thermaic. Nó là một
trung tâm giao thương và luôn bán quan trọng, nằm tại giao điểm của quan
lộ Eguatian Way, và con đường dẫn tới miền Bắc sông Danube. Dân số
khoảng 200.000, khiến nó trở thành thành phố lớn nhất trong xứ Ma-xê-
đoan. Nó cũng là thủ phủ của tỉnh ấy.
Bối cảnh của Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca được tìm thấy trong Cong Cv 17:1-9.
Vì Phao-lô đã bắt đầu chức vụ của ông tại đó trong một nhà hội Do Thái, do
đó có lý do để cho rằng Hội Thánh mới tại đó gồm cả một số người Do Thái
là điều hợp lý. Tuy nhiên, ITe1Tx 1:9-10; Cong Cv 17:4 dường như cho
thấy thành viên của Hội Thánh ấy phần đông là người ngoại quốc.
Chủ đích:
Phao-lô đã đột ngột rời Tê-sa-lô-ni-ca (xem Cong Cv 17:5-10) sau một thời
gian rất ngắn dừng lại đó. Vì vậy các tín đồ ngoại giáo mới ăn năn quy đạo
(ITe1Tx 1:9) đã bị bỏ lại với rất ít sức hậu thuẫn ngoại tại giữa cơn bắt bớ
bách hại. Chủ đích của Phao-lô khi viết bức thư này là để khích lệ các tín
hữu mới đó trong cơn thử thách họ phải chịu (3:3-5), để chỉ dạy họ về nếp
sống tin kính (4:1-8), để khuyến giục họ chớ nên bỏ bê công việc hằng ngày
(4:11-12) và để bảo đảm với họ về tương lai của các tín hữu đã qua đời trước
khi Chúa Cứu Thế tái lâm (xem phần Luận đề, cũng xem các chú thích ở
4:13,15).
Luận đề:
Tuy lý do để viết bức thư này có nhiều (xem CHỦ ĐÍCH), chủ đề thế mạt
luận (giáo lý về những điều sau cùng) dường như đã nổi bật trong cả hai thư
Tê-sa-lô-ni-ca. Mỗi chương của ITê-sa-lô-ni-ca đều kết thúc bằng một câu
đề cập sự tái lâm của Chúa Cứu thế, với chương 4 dành cho việc chú trọng
xem xét đề tài ấy (1:9-10; 2:19-20; 3:13; 4:13-18; 5:23-24). Như vậy dường
như việc Chúa tái lâm nhuần thấm cả bức thư và theo một ý nghĩa, được
xem là luận đề của nó. Cả hai thư tín đều thường được gọi là các thư tín về
thế mạt luận của Phao-lô.
Bố cục:
I. Lời cảm tạ vì cớ người Tê-sa-lô-ni-ca (1:1-10)
A. Những cơ sở để cảm tạ (1:1-4)
B. Tính cách xác thực của các cơ sở ấy (1:5-10)
II. Biện minh cho các hành động và sự vắng mặt của vị sứ đồ (2:1-3:13)
A. Biện minh cho các hành động của vị sứ đồ (2:1-16)
B. Biện minh cho sự vắng mặt của vị sứ đồ (2:17-3:10)
C. Lời cầu nguyện (3:11-13)
III. Những lời răn bảo người Tê-sa-lô-ni-ca (4:1-5:22)
A. Trước hết liên hệ với sinh hoạt cá nhân (4:1-12)
B. Liên hệ với sự tái lâm của Chúa Cứu Thế (4:13-5:11)
C. Trước hết liên hệ với sinh hoạt của Hội Thánh (5:12-22)
IV. Bài cầu nguyện kết thúc, những lời chào thăm và chúc phước (5:23-28)

Dẫn nhập II Tê-sa-lô-ni-ca


Bối cảnh của các thư Tê-sa-lô-ni-ca:
Thiết tưởng vạch lại các địa điểm cư trú của Phao-lô và các đồng bạn của
ông có liên hệ với các việc liên lạc thư tín với người Tê-sa-lô-ni-ca, là điều
hữu ích. Các chuyến đi đã được thực hiện như sau:
1. Hai sứ đồ Phao-lô và Si-la trốn khỏi Tê-sa-lô-ni-ca để đến Bê-rê (xem
Cong Cv 17:10). Vì Ti-mô-thê không được đề cập, rất có thể ông vẫn còn ở
lại Tê-sa-lô-ni-ca hoặc trở lại Phi-líp, để rồi sẽ đến sát nhập với Phao-lô và
Si-la tại Bê-rê (Cong Cv 17:14).
2. Do bị bắt bớ bách hại tại Bê-rê, Phao-lô trốn sang A-thên, bỏ Si-la và Ti-
mô-thê ở lại Bê-rê (xem Cong Cv 17:14)
3. Phao-lô gởi thư lại, bảo Si-la và Ti-mô-thê đến A-then với ông (xem Cong
Cv 17:15; cũng xem chú thích ở ITe1Tx 3:1-2)
4. Ti-mô-thê đến với Phao-lô tại A-then và được sai trở lại Tê-sa-lô-ni-ca
(xem ITe1Tx 3:1-5). Vì Si-la không được đề cập, có người phỏng đoán rằng
ông đã trở lại Phi-líp trong lúc Ti-mô-thê đi Tê-sa-lô-ni-ca.
5. Phao-lô chuyển sang Cô-rinh-tô (xem Cong Cv 18:1)
6. Si-la và Ti-mô-thê đến với Phao-lô tại Cô-rinh-tô (ITe1Tx 3:6; Cong Cv
18:5)
7. Phao-lô viết thư ITê-sa-lô-ni-ca và gởi cho Hội Thánh ấy
8. Khoảng sáu tháng sau (51/52 S.C) ông gởi thư IITê-sa-lô-ni-ca để hồi âm
cho những điều thăm hỏi thêm của Hội Thánh tại đó.
Trước giả, niên đại và địa điểm viết thư:
Tác quyền của Phao-lô đối với IITê-sa-lô-ni-ca thường bị đặt vấn đề nhiều
hơn là đối với ITê-sa-lô-ni-ca, bất chấp sự kiện nó được sức hậu thuẫn nhiều
hơn của các tác giả nguyên thuỷ. Các thắc mắc được căn cứ vào các yếu tố
bên trong nhiều hơn là vào những lời phát biểu đầy đủ của các giáo phụ.
Người ta cho rằng có những dị biệt về dụng ngữ (có mười từ ngữ đã không
thấy được dùng ở bất cứ nơi nào khác), về bút pháp (người ta bảo là nó có vẻ
kiểu cách, hình thức hết sức bất ngờ), và về thế mạt luận (giáo lý về “kẻ
nghịch cùng luật pháp” không hề thấy được truyền dạy ở bất cứ nơi nào
khác). Tuy nhiên, các luận cứ ấy đã không thuyết phục được các học giả nói
chung. Một số đông vẫn chủ trương Phao-lô là trước giả IITê-sa-lô-ni-ca.
Vì thư này tương tự với ITê-sa-lô-ni-ca, chắc nó phải được viết chẳng bao
lâu sau bức thư thứ nhất - có lẽ chỉ trong vòng sáu tháng. Tình hình trong
Hội Thánh dường như vẫn như trước. Có lẽ chính Phao-lô đã tự tay viết lấy
(xem IITe 2Tx 1:1; 3:17) vào khoảng năm 51 hoặc 52 S.C tại Cô-rinh-tô, sau
khi Si-la và Ti-mô-thê đi trao thư ITê-sa-lô-ni-ca trở về.
Chủ đích:
Vì tình hình trong Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca đại khái không có gì thay đổi
chủ đích của Phao-lô khi viết bức thư này cũng rất giống với khi ông viết
cho họ bức thư thứ nhất. Ông viết: 1. để khích lệ các tín hữu đang chịu bắt
bớ bách hại (1:4-10), 2. để răn bảo người Tê-sa-lô-ni-ca hãy đứng vững và
phải tự làm việc để mưu sinh (2:13-3:15), và 3. để sửa sai một hiểu lầm về
vấn đề Chúa tái lâm (2:1-12).
Luận đề:
Cũng như ITê-sa-lô-ni-ca bức thư này đề cập sâu rộng giáo lý về thuyết mạt
thế (xem Dẫn nhập ITê-sa-lô-ni-ca: Luận đề). Thật vậy trong IITê-sa-lô-ni-
ca, có 18 trên 47 câu (38%) đề cập chủ đề này.
Bố cục:
I. Dẫn nhập (1:12)
A. Lời chào (1:1-2)
B. Cảm tạ về đức tin, tình yêu thương và sự kiên trì nhẫn nhục của họ (1:3-
10)
C. Cầu thay cho sự tiến bộ thuộc linh của họ (1:11-12)
II. Lời chỉ giáo (2:1-17)
A. Lời tiên tri liên hệ đến Ngày của Chúa (2:1-12)
B. Cảm tạ về việc họ được tuyển chọn và sự kêu gọi (2:13-15)
C. Cầu nguyện cho sự phục vụ và làm chứng của họ (2:16-17)
III. Các mạng lệnh (3:1-18)
A. Lời kêu gọi hãy cầu nguyện (3:1-3)
B. Truyền phải sửa trị kẻ gây rối và lười biếng (3:4-15)
C. Kết luận, lời chào thăm và chúc phước (3:16-18)

Dẫn nhập I Ti-mô-thê


Các giáo mục thư:
Các thư I, II Ti-mô-thê và Tít được biết dưới cái tên chung là Các Giáo Mục
Thư bởi vì đó là lời chỉ giáo cho Ti-mô-thê và Tít liên hệ đến việc chăm sóc
các Hội Thánh của những người ở cương vị mục sư. Cả ba thư tín này có lẽ
đều được viết không lâu sau các biến cố ở Cong Cv 28:1-31.
Sau thời gian bị cầm tù tại Rô-ma (khoảng 60-62 S.C), có lẽ Phao-lô đã bắt
đầu vòng lưu hành truyền giáo thứ tư của ông. Trong suốt cuộc hành trình,
Phao-lô đã uỷ thác cho Tít lưu lại tại đảo Cơ-rết như một đại diện của ông,
và giao cho Ti-mô-thê phụ trách Hội Thánh tại Ê-phê-sô. Sau đó, Phao-lô
đến Phi-líp ở miền cực Bắc Hy Lạp (xứ Ma-xê-đoan), nơi ông viết bức thư
thứ nhất cho Ti-mô-thê và bức thư cho Tít (khoảng 63-65). Rồi ông đi Rô-
ma, nơi ông bị bắt giam lần thứ hai và là nơi ông viết thư Ti-mô-thê thứ hai
chẳng bao lâu trước khi ông bị hành quyết (67 hoặc 68).
Có một số luận đề và nhóm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các
Giáo Mục Thư: 1. Đức Chúa Trời là Cứu Chúa (xem chú thích ở Tit Tt 1:3)
2. giáo lý thuần chánh (đạo lành), đức tin và việc dạy dỗ (xem chú thích ở
Tit Tt 1:9), 3. sự tin kính (xem chú thích ở ITi1Tm 2:2), 4. những cuộc tranh
luận (ITi1Tm 1:4; 6:4; IITi 2Tm 2:23; Tit Tt 3:9) 5. những lời nói đáng tin
(xem chú thích ở ITi1Tm 1:15).
Trước giả:
Cả truyền thống nguyên thuỷ lẫn những lời chào thăm của các Giáo mục thư
đều xác nhận Phao-lô là trước giả các sách ấy. Mấy năm gần đây có một vài
vấn nạn được đưa ra, căn cứ vào phần ngữ vựng và bút pháp được cho là
không có đặc điểm của Phao-lô (chẳng hạn, xem các chú thích ở ITi1Tm
1:15; 2:2), nhưng phần chứng cứ hiển nhiên vẫn còn đủ tính cách thuyết
phục để hậu thuẫn cho tác quyền của Phao-lô.
Bối cảnh và chủ đích:
Trong vòng lưu hành truyền giáo thứ tư của mình, Phao-lô đã bảo Ti-mô-thê
phải chăm sóc cho Hội Thánh tại Ê-phê-sô (1:3) trong khi ông sang xứ Ma-
xê-đoan (xem “Các Giáo Mục Thư”). Khi ông biết rằng mình sẽ không thể
trở lại Ê-phê-sô trong một tương lai gần (3:14-15), ông đã viết bức thư đầu
tiên cho Ti-mô-thê nhằm khai triển nhiệm vụ ông đã giao thác cho người
phụ tá trẻ tuổi của mình (1:3,18), để chống lại các tà giáo (1:3-7; 4:1-8; 6:3-
5,20-21), và để quản lý các công việc của Hội Thánh Ê-phê-sô đang tăng
trưởng (sự thờ phượng trong Hội Thánh, 2:1-15 việc bổ nhiệm và cấp lãnh
đạo có đầy đủ phẩm cách cho Hội Thánh, 3:1-13; 5:17-25)
Một vấn đề lớn của Hội Thánh Ê-phê-sô là tà giáo kết hợp Trí huệ phái (xem
phần Dẫn nhập thư IGiăng: Trí huệ phái), Do Thái giáo đã suy thoái (1:3-7)
và chủ nghĩa khắc khổ sai lầm (4:1-5).
Niên đại:
ITi-mô-thê được viết ít lâu sau các biến cố của Cong Cv 28:1-31 (khoảng
63-65) ít nhất cũng tám năm sau thời gian ba năm Phao-lô đã tạm trú tại Ê-
phê-sô (Cong Cv 19:8,10; 20:31).
Người nhận thư:
Như lời chào cho thấy (ITi1Tm 1:2) Phao-lô đã viết thư này cho Ti-mô-thê,
một người sinh ra tại Lít-trơ (Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Cha Ti-mô-thê là người
Hy Lạp còn mẹ ông là một Cơ Đốc nhân người Do Thái (Cong Cv 16:1).
Ngay từ tấm bé ông đã được truyền dạy Cựu ước (IITi 2Tm 1:5; 3:15).
Phao-lô đã gọi Ti-mô-thê là “con thật của ta trong đức tin” (ITi1Tm 1:2) có
lẽ vì đã đưa Ti-mô-thê đến với Chúa Cứu Thế lúc ông đến Lít-trơ lần đầu
tiên. Khi đến đó lần thứ hai, Phao-lô đã mời Ti-mô-thê cùng đi du hành
truyền giáo với mình, và đã làm phép cắt bì cho Ti-mô-thê để nguồn gốc Hy
Lạp của Ti-mô-thê khỏi gây trở ngại cho việc ông sẽ tiếp xúc với người Do
Thái (Cong Cv 16:3). Ti-mô-thê từng tham dự công tác truyền giáo trong xứ
Ma-xê-đoan và A-chai (Cong Cv 17:14-15; 18:5) và đã ở với Phao-lô suốt
thời gian dài của chức vụ truyền giảng của ông tại Ê-phê-sô (Cong Cv
19:22). Ông cũng du hành với Phao-lô từ Ê-phê-sô sang Ma-xê-đoan, đến
Cô-rinh-tô, trở lại Ma-xê-đoan rồi đến Tiểu Á châu (Cong Cv 20:1-6).
Dường như ông cũng còn theo cả Phao-lô suốt đoạn đường đến Giê-ru-sa-
lem nữa. Ông đã ở với Phao-lô trong lần vị sứ đồ bị cầm tù lần thứ nhất (Phi
Pl 1:1; CoCl 1:1; Phil Plm 1:1).
Sau khi Phao-lô được thả ra (Cong Cv 28:1-31), Ti-mô-thê lại cùng du hành
với ông, nhưng cuối cùng, đã ở lại Ê-phê-sô để đối phó với nhiều vấn đề tại
đó, trong khi Phao-lô sang xứ Ma-xê-đoan. Việc Phao-lô vẫn gần gũi và ái
mộ Ti-mô-thê được thấy rõ khi ông gọi Ti-mô-thê là bạn đồng công của
mình trong sáu thư tín của ông (IICô-rinh-tô, Phi-líp, Cô-lô-se, I và II Tê-sa-
lô-ni-ca và Phi-lê-môn) và khi ông đề cao Ti-mô-thê trong thư Phi-líp (Phi
Pl 2:19-22). Đến cuối cuộc đời mình, Phao-lô đã yêu cầu Ti-mô-thê đến gặp
ông tại Rô-ma (IITi 2Tm 4:9,21). Theo HeDt 13:23 chính Ti-mô-thê cũng bị
cầm tù rồi sau đó được thả ra - hoặc tại Rô-ma hoặc tại một nơi nào khác mà
chúng ta không được biết.
Ti-mô-thê không phải là một sứ đồ, và có lẽ ông cũng không phải là một
giám mục vì ông từng được chỉ giáo về nhiệm vụ của các giám mục
(ITi1Tm 3:1-7; 5:17-22). Có lẽ tốt hơn hết là nên xem ông là một đại diện
cho sứ đồ Phao-lô, từng được biệt phái đi thi hành công tác đặc biệt (xem Tit
Tt 1:5).
Bố cục:
I. Lời chào thăm (ITi1Tm 1:1-2)
II. Lời cảnh cáo chống các tiên tri giả (1:3-11)
A. Bản tính của tà giáo (1:3-7)
B. Chủ đích của luật pháp (1:8-11)
III. Ân điển của Đức Chúa Trời đối với Phao-lô (1:12-17)
IV. Chủ đích của việc Phao-lô dạy bảo Ti-mô-thê (1:18-20)
V. Những huấn thị liên hệ đến việc quản trị Hội Thánh (2:1-3:17)
A. Sự thờ phượng công cộng (2:1-26)
1. Sự cầu nguyện khi thờ phượng công cộng (2:1-8)
2. Phụ nữ trong giờ thờ phượng công cộng (2:9-15)
B. Phẩm cách của các chức sắc trong Hội Thánh ([dc 3:1-13;)
[mtc 1. Các giám mục (3:1-7)
2. Các chấp sự (3:8-13)
C. Chủ đích của các huấn thị này (3:14-16)
VI. Các phương pháp đối phó với tà giáo (4:1-22)
A. Mô tả tà giáo (4:1-5)
B. Giải thích các phương pháp đối phó (4:6-16)
VII. Các phương pháp đối phó với nhiều nhóm người khác nhau trong Hội
Thánh (5:1-6:2)
A. Phụ lão với thanh niên (5:1-2)
B. Các quả phụ (5:3-16)
C. Các trưởng lão (6:1-2)
VIII. Những vấn đề khác (6:3-19)
A. Các giáo sư giả (6:3-5)
B. Lòng tham tiền (6:6-10)
C. Nhiệm vụ được phó thác cho Ti-mô-thê (6:11-16)
D. Kẻ giàu (6:17-19)
IX. Lời kêu gọi kết thúc (6:20-21)
Dẫn nhập II Ti-mô-thê
Các giáo mục thư:
Các thư I, II Ti-mô-thê và Tít được biết dưới cái tên chung là Các Giáo Mục
Thư bởi vì đó là lời chỉ giáo cho Ti-mô-thê và Tít liên hệ đến việc chăm sóc
các Hội Thánh của những người ở cương vị mục sư. Cả ba thư tín này có lẽ
đều được viết không lâu sau các biến cố ở Cong Cv 28:1-31.
Sau thời gian bị cầm tù tại Rô-ma (khoảng 60-62 S.C), có lẽ Phao-lô đã bắt
đầu vòng lưu hành truyền giáo thứ tư của ông. Trong suốt cuộc hành trình,
Phao-lô đã uỷ thác cho Tít lưu lại tại đảo Cơ-rết như một đại diện của ông,
và giao cho Ti-mô-thê phụ trách Hội Thánh tại Ê-phê-sô. Sau đó, Phao-lô
đến Phi-líp ở miền cực Bắc Hy Lạp (xứ Ma-xê-đoan), nơi ông viết bức thư
thứ nhất cho Ti-mô-thê và bức thư cho Tít (khoảng 63-65). Rồi ông đi Rô-
ma, nơi ông bị bắt giam lần thứ hai và là nơi ông viết thư Ti-mô-thê thứ hai
chẳng bao lâu trước khi ông bị hành quyết (67 hoặc 68).
Có một số luận đề và nhóm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các
Giáo Mục Thư: 1. Đức Chúa Trời là Cứu Chúa (xem chú thích ở Tit Tt 1:3)
2. Giáo lý thuần chánh (đạo lành), đức tin và việc dạy dỗ (xem chú thích ở
Tit Tt 1:9), 3. sự tin kính (xem chú thích ở ITi1Tm 2:2), 4. những cuộc tranh
luận (ITi1Tm 1:4; 6:4; IITi 2Tm 2:23; Tit Tt 3:9) 5. những lời nói đáng tin
(xem chú thích ở ITi1Tm 1:15).
Trước giả, niên đại và bối cảnh:
Sau khi Phao-lô được thả ra khỏi nhà tù tại Rô-ma vào năm 62/63 S.C (Cong
Cv 28:1-31) và sau vòng lưu hành truyền giáo thứ tư của ông, trong đó ông
đã viết thư ITi-mô-thê và Tít, Phao-lô lại bị cầm tù một lần nữa bởi thời
Hoàng đế Nero (khoảng 66-67). Chính trong thời gian này, ông đã viết IITi-
mô-thê. Trái với lần bị giam giữ trước, là ông được sống tại nhà thuê riêng
(Cong Cv 28:30), lần này ông đang sống trong một nhà giam lạnh lẽo (IITi
2Tm 4:13), bị cùm như một kẻ phạm tội sát hơn thông thường (1:16; 2:9).
bạn bè ông còn phải qua một thời gian hết sức khó khăn, mới tìm thấy nơi
ông bị giam giữ (1:17). Phao-lô biết rõ rằng công tác của mình đã hoàn tất,
và ngày qua đời của ông đã gần kề (4:6-8).
Các lý do để viết thư:
Có ba lý do để Phao-lô viết thư cho Ti-mô-thê lần này:
1. Ông đang cô đơn. Phy-ghen và Hẹt-mô-ghen, “mọi người ở xứ A-si”
(1:15) và Đê-ma (4:10) đều đã bỏ rơi ông. Cơ-rết-xen, Tít và Ty-chi-cơ thì
đều đang ở xa (4:10-12), chỉ còn một mình Lu-ca ở lại với ông mà thôi
(4:11). Phao-lô rất muốn Ti-mô-thê cũng đến với ông nữa. Ti-mô-thê vốn là
“bạn đồng công” với ông (RoRm 16:21) là “như con ở với cha”, từng cộng
tác chặt chẽ với Phao-lô trong chức vụ (Phi Pl 2:22; xem ICo1Cr 4:17). Về
Ti-mô-thê, Phao-lô đã có thể nói “tôi không có ai như người” (Phi Pl 2:20).
Ông rất mong nhớ Ti-mô-thê (IITi 2Tm 1:4) và hai lần yêu cầu Ti-mô-thê
mau đến (IITi 2Tm 4:9,21). Về số thông tin đầy đủ hơn liên hệ đến Ti-mô-
thê, xem phần dẫn nhập thư ITi-mô-thê: Người nhận thư.
2. Phao-lô rất quan tâm đến sự an vui của các Hội Thánh trong thời gian bị
bắt bớ bách hại dưới thời Nero, và cũng khuyến cáo Ti-mô-thê phải bảo vệ
Phúc Âm (1:14), kiên trì nhẫn nhục trong đạo (3:14), cứ chuyên tâm truyền
giảng đạo (4:2), và nếu cần thì sẵn sàng chịu khổ vì đạo (1:8; 2:3).
3. Ông cần viết thư cho Hội Thánh Ê-phê-sô thông qua Ti-mô-thê (xem chú
thích ở 4:22).
Bố cục:
I. Dẫn nhập (1:1-4)
II. Phao-lô luôn luôn nghĩ đến Ti-mô-thê (1:5-14)
III. Tình hình của Phao-lô (1:15-18)
IV. Những huấn thị đặc biệt cho Ti-mô-thê (2:1-26)
A. Kêu gọi phải kiên trì nhẫn nhục (2:1-13)
B. Cảnh cáo về những cuộc tranh luận điên dại (2:14-26)
V. Cảnh cáo về những ngày sau rốt (3:1-17)
A. Những thời kỳ khủng khiếp (3:1-9)
B. Các biện pháp để đối phó (3:10-17)
VI. Những nhận xét của Phao-lô trước ngày qua đời (4:1-8)
A. Giao phó trọng trách truyền giảng Lời Chúa (4:1-5)
B. Viễn ảnh chiến thắng của Phao-lô (4:6-8)
VII. Những lời dặn dò và chào thăm sau cùng (4:9-22)

Dẫn nhập TÍT


Các giáo mục thư:
Các thư I, II Ti-mô-thê và Tít được biết dưới cái tên chung là Các Giáo Mục
Thư bởi vì đó là lời chỉ giáo cho Ti-mô-thê và Tít liên hệ đến việc chăm sóc
các Hội Thánh của những người ở cương vị mục sư. Cả ba thư tín này có lẽ
đều được viết không lâu sau các biến cố ở Cong Cv 28:1-31.
Sau thời gian bị cầm tù tại Rô-ma (khoảng 60-62 S.C), có lẽ Phao-lô đã bắt
đầu vòng lưu hành truyền giáo thứ tư của ông. Trong suốt cuộc hành trình,
Phao-lô đã uỷ thác cho Tít lưu lại tại đảo Cơ-rết như một đại diện của ông,
và giao cho Ti-mô-thê phụ trách Hội Thánh tại Ê-phê-sô. Sau đó, Phao-lô
đến Phi-líp ở miền cực Bắc Hy Lạp (xứ Ma-xê-đoan), nơi ông viết bức thư
thứ nhất cho Ti-mô-thê và bức thư cho Tít (khoảng 63-65). Rồi ông đi Rô-
ma, nơi ông bị bắt giam lần thứ hai và là nơi ông viết thư Ti-mô-thê thứ hai
chẳng bao lâu trước khi ông bị hành quyết (67 hoặc 68).
Có một số luận đề và nhóm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các
Giáo Mục Thư: 1. Đức Chúa Trời là Cứu Chúa (xem chú thích ở Tit Tt 1:3)
2. giáo lý thuần chánh (đạo lành), đức tin và việc dạy dỗ (xem chú thích ở
Tit Tt 1:9), 3. sự tin kính (xem chú thích ở ITi1Tm 2:2), 4. những cuộc tranh
luận (ITi1Tm 1:4; 6:4; IITi 2Tm 2:23; Tit Tt 3:9) 5. những lời nói đáng tin
(xem chú thích ở ITi1Tm 1:15).
Trước giả:
Trước giả là Phao-lô (xem phần Dẫn nhập thư ITi-mô-thê: Trước giả)
Người nhận thư:
Bức thư này được gởi cho Tít, một trong số người đã được Phao-lô dẫn dắt
đến chỗ ăn năn quy đạo (Tit Tt 1:4) và đã giúp ích nhiều cho Phao-lô trong
chức vụ của ông. Phao-lô rời An-ti-ốt để đi thảo luận về Phúc âm “của ông”
(IITi 2Tm 2:8) với các lãnh tụ tại Giê-ru-sa-lem, ông đã đem Tít cùng đi
(GaGl 2:1-3), việc Tít (một người ngoại quốc) được thừa nhận là Cơ-đốc
nhân mà khỏi phải chịu phép cắt bì là lập trường thắng lợi của Phao-lô tại đó
(GaGl 2:3-5). Tóm lại, tuy ít được sách Công vụ đề cập (nhưng được phần
còn lại trong Tân Ước đề cập 13 lần) ông đã cộng tác với Phao-lô tại Ê-phê-
sô trong vòng lưu hành truyền giáo thứ ba của ông. Từ đó, vị sứ đồ đã phái
ông đi Cô-rinh-tô để giúp đỡ công việc Hội Thánh tại đó (xem các chú thích
ở IICo 2Cr 2:12-13; 7:5-6; 8:6).
Sau khi Phao-lô được thả ra khỏi nhà tù tại Rô-ma lần thứ nhất (Cong Cv
28:1-31), ông và Tít đã cùng làm việc một thời gian ngắn tại đảo Cơ-rết (Tit
Tt 1:5), sau đó ông để Tít ở lại đấy với tư cách người đại diện cho ông hầu
hoàn tất một số công việc cần thiết (1:5; 2:15; 3:12-13). Phao-lô yêu cầu Tít
đến đảo Cơ-rết (3:12). Về sau, Tít lại đi thi hành một sứ mạng ở Đa-ma-ti
(Nam tư ngày nay, xem chú thích ở IITi 2Tm 4:10) là nơi cuối cùng chúng ta
được nghe nói về ông trong Tân Ước. Căn cứ vào các công tác đã được phó
thác cho ông mà xét, thì rõ ràng Tít là một lãnh tụ có khả năng và nhiều sáng
kiến.
Đảo Cơ-rết:
Là hòn đảo lớn đứng hàng thứ tư trong Địa Trung Hải, Cơ-rết nằm ngay tại
phía Nam biển Á-để-á (xem chú thích ở ISa1Sm 30:14; tham chiếu với từng
trải của Phao-lô tại đó trong Cong Cv 27:7-13). Trong thời Tân Ước, đảo
Cơ-rết đã sa sút thảm hại về phương diện luân lý đạo đức. Sự gian xảo, tham
ăn và lười biếng của dân đảo ấy đã trở thành tục ngữ (Tit Tt 1:12).
Cơ hội và chủ đích:
Rõ ràng là Phao-lô đã đưa Cơ-đốc giáo vào đảo Cơ-rết lúc ông và Tít viếng
thăm đảo ấy, sau đó, ông để Tít ở lại đấy để tổ chức số người mới ăn năn
quy đạo. Phao-lô nhờ Xê-na và A-bô-lô nhân một chuyến đi đảo Cơ-rết của
họ (3:13) đem thư này đến cho Tít để giao quyền cho ông chỉ đạo mọi việc
nếu gặp chống đối (1:5; 2:1,7-8,15; 3:9) đưa ra các huấn thị về đạo và cách
ăn ở cư xử, và cảnh cáo về các giáo sư giả. Phao-lô cũng cho Tít biết các kế
hoạch của ông trong tương lai (3:12).
Địa điểm và niên đại viết thư:
Có lẽ Phao-lô đã viết thư này tại Cô-rinh-tô, vì ông vẫn chưa tới Nê-cô-bô-li
(xem 3:12). Bức thư được viết sau khi ông được thả ra khỏi nhà tù tại Rô-ma
lần thứ nhất (Cong Cv 28:1-31), có lẽ giữa các năm 63-65 SCN, hoặc có thể
là muộn hơn nữa nếu ông viết sau chuyến đi Tây-ban-nha như có người đã
cho là có chuyến đi ấy.
Các đặc điểm phân biệt:
Điều đặc biệt có ý nghĩa sau khi khảo xét bản tính của tà giáo tại Cơ-rết, là
việc nhắc đi nhắc lại điểm nhấn mạnh “hãy làm những việc lành” (Tit Tt
1:16; 2:7,14; 3:1,8,14) và phần tóm tắt giáo lý Cơ-đốc (2:11-14; 3:4-7).
Bố cục:
I. Lời chào (1:1-4)
II. Vấn đề liên hệ đến các trưởng lão (1:5-9)
A. Lý do để Tít ở lại Cơ-rết (1:5)
B. Các phẩm cách của các trưởng lão (1:6-9)
III. Vấn đề liên hệ đến các giáo sư giả (1:10-16)
IV. Vấn đề liên hệ đến các nhóm người khác nhau trong các hội chúng (2:1-
15)
A. Các huấn thị cho những nhóm người khác nhau (2:1-10)
B. Nền móng của sinh hoạt Cơ-đốc nhân (2:11-14)
C. Nhiệm vụ của Tít (2:15)
V. Vấn đề liên hệ đến các tín hữu nói chung (3:1-8)
A. Những bó buộc đối với công dân (3:1-2)
B. Các lý do phải có cách ăn ở cư xử tốt đẹp (3:3-8)
VI. Vấn đề liên hệ đến việc trả lời sự sai lầm thuộc linh (3:9-11)
VII. Kết luận (3:12-15)

Dẫn nhập Phi-lê-môn


Trước giả, niên đại và địa điểm viết thư:
Có lẽ Phao-lô đã viết bức thư ngắn ngủi này đồng thời với thư Cô-lô-se
(khoảng 60 S.C, xem phần dẫn nhập thư Cô-lô-se: Trước giả, niên đại và điạ
điểm viết thư), và gởi cho cùng số người đã du hành đến đó - Ô-nê-sim và
Ty-chi-cơ. Rõ ràng là ông đã viết cả hai bức thư ấy trong nhà tù tại Rô-ma,
tuy cũng có thể là tại Ê-phê-sô (xem Dẫn nhập thư Phi-líp: Trước giả, niên
đại, và địa điểm viết thư).
Người nhận, bối cảnh và chủ đích:
Phao-lô viết thư này cho Phi-lê-môn, một tín hữu tại Cô-lô-se, là người cùng
với nhiều người khác nữa, vốn là một chủ nô lệ (tham chiếu CoCl 4:1; về
chế độ nô lệ trong Tân Ước, xem chú thích ở Eph Ep 6:5). Có một trong các
nô lệ dường như đã trộm cắp của ông ta (tham chiếu Phil Plm 1:18), và bỏ
trốn, một tội mà theo luật La Mã, có thể bị xử tử hình. Nhưng Ô-nê-sim đã
gặp Phao-lô và nhờ chức vụ của ông, đã trở thành một Cơ Đốc nhân (xem
1:10). Giờ đây, anh ta muốn trở về với chủ cũ, và Phao-lô viết bức thư riêng
này nhằm yêu cầu Phi-lê-môn hãy tiếp nhận Ô-nê-sim như một anh em trong
Chúa vậy (xem 1:16)
Bút pháp và cấu trúc:
Để Phi-lê-môn vui lòng tiếp nhận Ô-nê-sim, Phao-lô đã viết thật lịch duyệt
và bằng giọng điệu hết sức cởi mở, sử dụng cả cách “chơi chữ” nữa (xem
chú thích ở 1:11). Lời kêu gọi (1:4-21) đã được sắp xếp theo cách quy định
của các giáo sư Hi-lạp và La Mã đời xưa: phần tường trình (1:4-10), phần
thuyết phục (1:11-19) và phần tạo xúc động (1:20-21). Tên Ô-nê-sim đã
không được đề cập cho đến khi phần tường trình đã xong (1:10), và chính lời
kêu gọi thì chỉ được đưa ra vào gần cuối đoạn nhằm mục đích thuyết phục
(1:17)
Bố cục:
I. Những lời chào thăm (1:1-3)
II. Lời cảm tạ và cầu nguyện (1:4-7)
III. Lời Phao-lô nài xin thay cho Ô-nê-sim (1:8-21)
IV. Lời thỉnh cầu cuối cùng những lời chào thăm và chúc phước (1:22-25)

Dẫn nhập Hê-bơ-rơ


Trước giả:
Trước giả thư tín này không tự nêu tên, nhưng rõ ràng là số người nhận thư
ông lần đầu tiên rất quen biết ông. Tuy suốt khoảng 1.200 năm (từ khoảng
năm 400 đến 1.600 S.C) quyển sách này được gọi phổ biến là “thư tín của
Phao-lô gởi cho người Hê-bơ-rơ”, nhưng đã không có sự nhất trí trong
những thế kỷ sớm nhất liên hệ đến trước giả của nó. Kể từ sau cuộc Cải
chánh, dư luận rộng rãi đã thừa nhận rằng Phao-lô không phải là trước giả
của nó. Không có sự không hài hoà giữa lời truyền dạy của thư Hê-bơ-rơ với
lời truyền dạy trong các thư tín khác của Phao-lô, nhưng những điểm nhấn
mạnh đặc thù và các bút pháp thì khác nhau hết sức rõ rệt. Trái với thói quen
bình thường của Phao-lô, trước giả thư Hê-bơ-rơ đã không tự xưng tên ở bất
luận chỗ nào trong bức thư của mình - ngoại trừ khi bảo rằng ông là một
người đàn ông (xem chú thích ở HeDt 11:32). Hơn nữa câu viết rằng “là sự
cứu rỗi Chúa truyền ra trước hết, rồi có những kẻ nghe chứng nghiệm nó cho
chúng ta” (2:3) cho thấy trước giả vốn không hề ở với Chúa Giê-xu khi Ngài
thi hành chức vụ tại thế, mà cũng không hề trực tiếp nhận được sự mặc khải
đặc biệt của Chúa đã phục sinh như trường hợp của Phao-lô (GaGl 1:11-12).
Gợi ý đầu tiên về trước giả được tìm thấy trong sách De Pudicita của
Tertullian (khoảng năm 200), trong đó ông trích dẫn từ “một thư tín gởi cho
người Hê-bơ-rơ nhân danh Ba-na-ba”. Theo chính bức thư ấy thì rõ ràng là
trước giả chắc đã phải có uy quyền trong Hội Thánh thời các sứ đồ, và là
một Cơ Đốc nhân trí thức người Hê-bơ-rơ rất thông suốt Cựu Ước. Ba-na-ba
hội đủ các điều kiện ấy. Ông là một người Do Thái thuộc chi phái Lê-vi là
chi phái thầy tế lễ (Cong Cv 4:36), đã trở thành bạn thân với Phao-lô sau khi
ông ăn năn quy đạo. Theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh, Hội Thánh tại
An-ti-ốt đã biệt phái Ba-na-ba và Phao-lô cho công tác truyền giảng Phúc
Âm và sai họ ra đi trong vòng lưu hành truyền giáo đầu tiên (Cong Cv 13:1-
4)
Một ứng viên hàng đầu khác nữa giành tác quyền của bức thư này là A-bô-
lô, là người đã được Martin Luther gợi ý trước tiên, và được nhiều học giả
ngày nay ủng hộ. A-bô-lô quê quán ở A-léc-xan-tri, cũng là một Cơ Đốc
nhân người Do Thái nổi tiếng là trí thức và có khẩu tài. Lu-ca cho chúng ta
biết rằng ông “là tay khéo nói (bản Anh văn dịch là “học thức” - “learned
man”) và hiểu Kinh Thánh” (Cong Cv 18:24). Chúng ta cũng biết là A-bô-lô
từng cộng tác với Phao-lô trong những năm đầu của Hội Thánh tại Cô-rinh-
tô (ICo1Cr 1:12; 3:4-6,22).
Niên đại:
Thư Hê-bơ-rơ chắc được viết trước khi Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị phá huỷ
năm 70 SCN bởi vì: 1. nếu nó được viết sau năm ấy, chắc chắn trước giả
phải đề cập việc đền thờ đã bị phá huỷ và việc chấm dứt hệ thống tế lễ của
Do Thái giáo 2. trước giả luôn luôn dùng thì hiện tại của Hy văn khi đề cập
đền thờ và các hoạt động tế lễ liên hệ với đền thờ (xem HeDt 5:1-3; 7:23,27;
8:3-5; 9:6-9,13,25; 10:1,3-4,8,11; 13:10-11).
Những người nhận thư:
Bức thư được gởi trước hết cho các tín hữu người Do Thái vốn quen thuộc
với Cựu Ước và bị cám dỗ quay trở về với Do Thái giáo hoặc Do Thái giáo
hoá Phúc Âm (tham chiếu GaGl 2:14). Có người gợi ý rằng số người Do
Thái tự xưng là Cơ Đốc nhân được cho là nổi lên từ một hệ phái Do Thái
giáo, tương tự với hệ phái Qumran gần Biển Chết. Cũng có người gợi ý rằng
số người nhận thư này thuộc “phần lớn các thầy tế lễ đã tin theo đạo” (Cong
Cv 6:7)
Luận đề:
Luận đề của thư Hê-bơ-rơ là quyền tối cao và sự cao trọng tuyệt đối của
Chúa Cứu Thế Giê-xu với cương vị Đấng Mạc Khải và Trung Bảo của ân
điển Đức Chúa Trời. Lời nói đầu (HeDt 1:1-4) giới thiệu Chúa Cứu Thế là
sự mặc khải trọn vẹn và tối hậu của Đức Chúa Trời, vượt xa phần mặc khải
sơ khởi và hạn chế đã được ban truyền trong Cựu Ước. Những lời tiên tri và
lời hứa trong Cựu Ước đều ứng nghiệm trong “giao ước mới” (hay “Tân
Ước”) mà Chúa Cứu Thế đã được chứng minh là cao trọng hơn các nhà tiên
tri đời xưa, các thiên sứ, Môi-se (người đứng trung gian cho giao ước cũ) và
A-rôn cũng như hậu duệ thừa kế chức vụ tế lễ của ông. Có thể gọi thư Hê-
bơ-rơ là “quyển sách của những điều tốt hơn” vì hai từ ngữ Hy văn có nghĩa
“tốt hơn” và “cao trọng” xuất hiện 15 lần trong thư này.
Những ứng dụng thực tiễn luận đề này đã được nêu ra xuyên suốt quyển
sách. Các độc giả được cho biết không thể có việc quay trở lại hay tiếp tục
hệ thống Do Thái giáo cũ, vốn đã bị chức vụ tế lễ độc tôn của Chúa Cứu Thế
xoá bỏ đi rồi. Giờ đây, người thuộc về Đức Chúa Trời chỉ phải nhìn vào một
mình Ngài mà thôi, là Đấng bởi sự chết chuộc tội, sự sống lại và thăng thiên
của Ngài, đã mở đường vào nơi thánh đích thực trên trời, nơi có sự hiện diện
của chính Đức Chúa Trời. Các tín hữu phải chống lại sự cám dỗ từ bỏ cuộc
chiến đấu, phải kiên trì nhẫn nhục trong cuộc thi tài thuộc linh mà họ đã tự
nguyện dấn thân vào. Nếu làm khác đi, thì họ sẽ phải đối đầu với một cuộc
phán xét như thế hệ phản loạn của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng từng gặp
vậy.
Bố cục:
I. Lời nói đầu: Tính cách cao trọng hơn của sự mặc khải mới của Đức Chúa
Trời (1:1-4)
II. Tính cách cao trọng hơn của Chúa Cứu Thế so với các lãnh tụ của giao
ước cũ (1:5-7:28)
A. Chúa Cứu Thế cao trọng hơn các thiên sứ (1:5-2:18)
1. Chứng cứ về sự cao trọng trong Kinh điển (1:5-14)
2. Lời răn bảo không nên bỏ qua sự mặc khải của Đức Chúa Trời trong Con
Ngài (2:1-4)
3. Nêu thêm chứng cứ trong Kinh Thánh về sự cao trọng hơn các thiên sứ
(2:5-18)
B. Chúa Cứu Thế cao trọng hơn Môi-se (3:1-4:13)
1. Chứng minh sự cao trọng hơn của Chúa Cứu Thế (3:1-6)
2. Lời răn bảo hãy vào sự yên nghỉ do được cứu rỗi (3:7-4:13)
C. Chúa Cứu Thế cao trọng hơn các thầy tế lễ thuộc dòng dõi A-rôn (4:14-
7:28)
1. Lời răn bảo phải vững vàng (4:14-16)
2. Các phẩm cách của thầy tế lễ (5:1-10)
3. Lời răn bảo từ bỏ sự lười nhác thuộc linh (5:11-6:12)
4. Lời hứa của Đức Chúa Trời là chắc chắn (6:13-20)
5. Chức tế lễ của Chúa Cứu Thế vốn cao trọng hơn (7:1-28)
III. Công tác tế lễ cao trọng hơn của thầy tế lễ thượng phẩm chúng ta (8:1-
10:39;)
A. Một giao ước tốt hơn (8:1-13)
B. Một nơi thánh tốt hơn (9:1-12)
C. Một sinh tế tốt hơn (9:13-10:18)
D. Những lời răn bảo (10:19-39)
IV. Lời khuyên cuối cùng hãy bền lòng giữ đạo (11:1-12:29)
A. Gương của các anh hùng đức tin (11:1-40)
B. Khích lệ hãy bền lòng giữ đạo (12:1-11)
C. Răn bảo phải bền lòng giữ đạo (12:12-17)
D. Lý do để bền lòng giữ đạo (12:18-29)
V. Kết luận (13:1-25)
A. Các quy luật thực tiễn cho sinh hoạt Cơ Đốc nhân (13:1-17)
B. Điều kiện để cầu nguyện (13:18-19)
C. Lời chúc phước (13:20-21)
D. Những nhận xét cá nhân (13:22-23)
E. Lời chào thăm và chúc phước cuối cùng (13:24-25)

Dẫn nhập Sách Gia-cơ


Trước giả:
Trước giả tự xưng là Gia-cơ (Gia Gc 1:1) và có lẽ ông là em trai của Chúa
Giê-xu và là chủ toạ của giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem (Cong Cv 15:1-41).
Trong Tân ước có bốn người mang tên này. Trước giả bức thư này không thể
là sứ đồ Gia-cơ, đã chết quá sớm (44 S.C) để có thể viết ra nó. Hai người
khác nữa tên Gia-cơ đều không có tác phong hoặc ảnh hưởng mà trước giả
thư tín này vốn có.
Gia-cơ là một trong nhiều em trai của Chúa Giê-xu và có lẽ là người anh lớn
nhất, vì ông đứng đầu danh sách trong Mat Mt 13:55. Thoạt tiên ông đã
không tin Chúa Giê-xu, có thể còn thách thức Ngài và hiểu lầm chức vụ của
Ngài nữa (GiGa 7:2-5). Về sau ông trở thành một nhân vật lừng danh trong
Hội Thánh.
1. Ông vốn là một nhân vật trong số các cá nhân rất chọn lọc đã được Chúa
Cứu Thế hiện ra cho thấy sau khi Ngài sống lại (ICo1Cr 15:7)
2. Phao-lô đã gọi ông là một “cột trụ” của Hội Thánh (GaGl 2:9)
3. Phao-lô từng gặp Gia-cơ lúc đến Giê-ru-sa-lem lần đầu tiên sau khi ăn năn
quy đạo (GaGl 1:19)
4. Phao-lô cũng hành động y như vậy trong chuyến viếng thăm Giê-ru-sa-
lem lần cuối cùng của mình (Cong Cv 21:18)
5. Phi-e-rơ được cứu khỏi nhà tù, ông đã bảo các bạn mình báo tin ấy cho
Gia-cơ (Cong Cv 12:17)
6. Gia-cơ là một lãnh tụ trong giáo hội nghị quan trọng tại Giê-ru-sa-lem
(Cong Cv 15:13)
7. Gia-cơ vốn được nhiều người biết đến, cho nên Giu-đe chỉ cần tự xưng
hết sức đơn giản rằng ông là “em Gia-cơ” (Giu Gd 1:1)
Ông tử đạo năm 62 S.C
Niên đại:
Có một số người định niên đại cho bức thư này vào đầu thập niên 60. Tuy
nhiên có nhiều dấu chỉ cho thấy nó đã được viết trước năm 50 S.C.
1. Bản tính Do Thái rất phân biệt của nó gợi ý rằng bức thư này đã được
soạn thảo khi số người Do Thái còn là đại đa số trong Hội Thánh.
2. Nó phản ảnh một trật tự hết sức đơn giản trong Hội Thánh - các chức sắc
trong Hội Thánh được gọi là “trưởng lão” (Gia Gc 5:14) và “giáo sư” (3:1)
3. Không thấy nói gì đến chuyện tranh luận về phép cắt bì của người ngoại
quốc.
4. Từ ngữ Hy văn “nhà hội” (synagoge) đã được dùng chỉ nơi nhóm lại của
Hội Thánh (2:2).
Nếu việc định niên đại sớm cho bức thư này là đúng, thì nó là thư tín đã
được viết sớm nhất trong toàn thể các văn phẩm Tân ước - có lẽ chỉ ngoại
trừ thư Ga-la-ti.
Những người nhận thư:
Số người nhận thư đã được công khai chỉ định một lần duy nhất trong 1:1
“mười hai chi phái ở tan lạc”. Có người bảo nhóm từ này đề cập các Cơ Đốc
nhân nói chung, nhưng mấy chữ “mười hai chi phái” phải ám chỉ các Cơ
Đốc nhân người Do Thái thì mới tự nhiên hơn. Hơn nữa, một cử toạ người
Do Thái sẽ phù hợp với bản tính rõ ràng là Do Thái của bức thư (chẳng hạn
cách dùng danh hiệu Hy-bá-lai: Kyrios sabaoth: Chúa Toàn Năng 5:4 để chỉ
Đức Chúa Trời). Những người nhận thư là Cơ Đốc nhân thì thật rõ ràng, căn
cứ vào 2:1; 5:7-8. Có thể gợi ý khá hữu lý rằng số tín hữu này vốn thuộc về
hội thánh nguyên thuỷ tại Giê-ru-sa-lem, đã bị tan lạc sau cái chết của Ê-
tiên, và đã phiêu bạt thật xa đến tận xứ Phê-ni-xi, đảo Chíp-rơ và thành phố
An-ti-ốt xứ Sy-ri (Cong Cv 8:1; 11:19). Điều này có thể kể vào việc thư Gia-
cơ đã đề cập những thử thách và áp bức, chứng tỏ ông hiểu rất rõ các độc giả
và bản tính đầy uy quyền của bức thư. Là lãnh tụ của Hội Thánh Giê-ru-sa-
lem, Gia-cơ đã lấy tư cách một mục sư để chỉ giáo và khích lệ số tín đồ đang
bị tan lạc của mình khi phải đương đầu với đủ thứ khó khăn.
Những đặc điểm phân biệt:
Những đặc điểm khiến cho thư tín có thể được phân biệt với các thư tín
khác, ấy là: 1. bản tính Do Thái không nhầm lẫn vào đâu được của nó. 2.
việc nó nhấn mạnh vào một Cơ Đốc giáo sinh động, có những đặc điểm là
các công việc lành và đức tin được chứng minh bằng hành động (đức tin thật
phải và sẽ có một nếp sống trước sau như một đi kèm). 3. phần tổ chức đơn
giản của nó. 4. việc nó rất quen thuộc với những lời truyền dạy của Chúa
Giê-xu được ghi lại trong Bài giảng Trên Núi (đối chiếu Gia Gc 2:5 với Mat
Mt 5:3; Gia Gc 3:10-12 với Mat Mt 7:15-20; Gia Gc 3:18 với Mat Mt 5:9;
Gia Gc 5:2-3 với Mat Mt 6:19-20; Gia Gc 5:12 với Mat Mt 5:33-37), 5. nó
rất giống với các văn phẩm viết về sự khôn ngoan của Cựu ước, như sách
Châm ngôn, 6. Hy văn tuyệt diệu của nó.
Bố cục:
I. Lời chào thăm (Gia Gc 1:1)
II. Thử thách và cám dỗ (1:2-18)
A. Đức tin chịu thử thách (1:2-12)
B. Nguồn gốc của sự cám dỗ (1:13-18)
III. Nghe và làm (1:19-27)
IV. Cấm tây vị (2:1-13)
V. Đức tin và việc làm (2:14-16)
VI. Chế phục cái lưỡi (3:1-12)
VII. Hai thứ khôn ngoan (3:13-18)
VIII. Cảnh cáo chống lại lối sống theo thế gian (4:1-17)
A. Tranh cạnh bất hoà (4:1-3)
B. Bất trung thuộc linh (4:4)
C. Kiêu ngạo (4:5-10)
D. Nói hành (4:11-12)
E. Khoe khoang (4:13-17)
IX. Cảnh cáo kẻ giàu áp bức (5:1-6)
X. Những lời răn bảo khác (5:7-20)
A. Liên hệ đến lòng kiên trì nhẫn nhục trong khi chịu khổ (5:7-11)
B. Liên hệ đến việc thề thốt (5:12)
C. Liên hệ đến sự cầu nguyện bởi đưc tin (5:13-18)
D. Liên hệ đến số người đi sai lạc khỏi chân lý (5:19-20)

Dẫn nhập I Phi-e-rơ


Trước giả và niên đại:
Trước giả tự xưng là sứ đồ Phi-e-rơ (IPhi 1Pr 1:1) và nội dung cũng như đặc
tính của bức thư hậu thuẫn cho tác quyền của ông (xem các chú thích ở 1:12;
4:13; 5:1-2,5,13). Hơn nữa, bức thư phản ảnh lịch sử và chữ nghĩa của các
sách Phúc âm và công vụ các sứ đồ (nhất là cách nói của Phi-e-rơ), các luận
đề và ý niệm trong đó phản ảnh từng trải và sự cộng tác của Phi-e-rơ trong
giai đoạn Chúa chúng ta thi hành chức vụ tại thế và giai đoạn của các sứ đồ.
Chẳng hạn ông vốn quen thân với Phao-lô và biết rõ các thư tín của ông là
điều đã được làm sáng tỏ trong IIPhi 2Pr 3:15-16; GaGl 1:18; 2:1-21 và
nhiều chỗ khác. Do đó những trùng hợp về tự tưởng và từ ngữ với các văn
phẩm của Phao-lô chẳng có gì gây ngạc nhiên.
Ngay từ đầu, thư IPhi-e-rơ đã được thừa nhận là có thẩm quyền và là tác
phẩm của Phi-e-rơ. Câu đầu tiên đề cập việc ấy có lẽ là IIPhi 2Pr 3:1, là chỗ
chính Phi-e-rơ nói đến một bức thư trước đó mà ông đã viết. IClement (95
SCN) dường như cho thấy ông có quen biết Phi-e-rơ. Polycarp, một môn đệ
của sứ đồ Giăng có dùng IPhi-e-rơ trong bức thư ông viết cho người Phi-líp.
Tác giả sách Phúc Âm Của Chân Lý (140-150) vốn quen biết IPhi-e-rơ.
Eusebius (thế kỷ thứ tư) cho thấy sách này được tiếp nhận phổ quát.
Thư này đã được nhóm các giáo phụ, những người mà lời làm chứng dường
như đã chứng thực cho rất nhiều văn phẩm chân chính của Tân ước, tức là
Iranaeus (140-203 SCN) Tertullian (150-222), Clement ở Alexandria (155-
215) và Origen (185-253) gán cho Phi-e-rơ. Như vậy rõ ràng là tác quyền
của Phi-e-rơ trên sách này đã được hậu thuẫn rất sớm và rất mạnh mẽ.
Tuy nhiên có người cho rằng lối viết Hy văn bất chấp mạo luật nhưng thông
dụng (idiomatic Greek) của bức thư này vốn vượt quá khả năng của Phi-e-
rơ. Nhưng vào thời của ông tất cả các ngôn ngữ A-ram, Hy-bá-lai và Hy Lạp
đều thông dụng trong xứ Palestine, và rất có thể ông vốn thông thạo nhiều
ngôn ngữ. Việc ông không phải là một thầy thông giáo chuyên nghiệp đã
được đào tạo hẳn hoi (Cong Cv 4:13) không hề có nghĩa rằng ông không biết
gì về Hy văn. Thật vậy, là một người dân Ga-li-lê, rất có thể ông đã có sử
dụng nó. Ngay khi nếu ông vẫn chưa biết nó vào những ngày đầu tiên của
Hội Thánh, có thể ông đã học được nó như một trợ cụ quan trọng cho chức
vụ sứ đồ của mình trong những thập niên nằm giữa thời gian ấy với bức thư
IPhi-e-rơ được viết ra.
Tuy nhiên, thư IPhi-e-rơ quả thật là một áng văn Hy Lạp tuyệt vời, và cả khi
Phi-e-rơ chắc chắn phải nói được tiếng Hy Lạp như nhiều người sống trong
thế giới bao quanh Địa Trung Hải, rất khó có thể rằng chính ông đã viết ra
áng văn Hy Lạp trau chuốt này. Nhưng đến đây thì nhận định của Phi-e-rơ
trong IPhi 1Pr 5:12 liên hệ đến Si-la (Sin-vanh) có thể rất có ý nghĩa. Ở đây
vị sứ đồ bảo rằng “Tôi cậy Sin-vanh viết...” . Câu này không thể chỉ đề cập
Si-la là một người đưa thư. Như vậy ông là người đứng trung gian trong việc
viết thư. Có người bảo rằng phẩm cách của Si-la để viết lại bức thư của Phi-
e-rơ bằng Hy văn rất văn hoa được tìm thấy trong Cong Cv 15:22-29. Người
ta được biết vào thời đó, một thư ký riêng thường soạn thảo các tài liệu bằng
Hy văn rất trôi chảy cho những người không đủ khả năng về ngôn ngữ để
làm như thế. Như vậy ta có thể thấy Hy văn của Si-la ở thư IPhi-e-rơ, trong
khi ở thư IIPhi-e-rơ là Hy văn không mấy trau chuốt của chính Phi-e-rơ.
Có người cũng chủ trương rằng quyển sách này phản ảnh một tình hình chỉ
có sau khi Phi-e-rơ đã qua đời, gợi ý cuộc bắt bớ bách hại được đề cập trong
IPhi 1Pr 4:14-16; 5:8-9 nhằm mô tả thời trị vì của Domitian (81-96 SCN).
Tuy nhiên, tình hình diễn biến dưới thời trị vì của Nero (54-58) vốn cũng
khá đầy đủ theo như cách mấy câu ấy mô tả. Quyển sách có thể được tính
niên đại thoả đáng vào những năm đầu thập niên 60. Nó không thể được xếp
trước thư tín trong tù của Phao-lô (thí dụ hai thư Cô-lô-se và Ê-phê-sô vốn
không thể được định niên đại sớm hơn năm 60): đối chiếu IPhi 1Pr 1:1-3 với
Eph Ep 1:1-3; IPhi 1Pr 2:18 với CoCl 3:22; IPhi 1Pr 3:1-6 với Eph Ep 5:22-
24. Hơn nữa, nó không thể được định niên đại sau hai năm 67, 68 vì Phi-e-rơ
đã chịu tử đạo dưới thời trị vì của Nero.
ĐỊA ĐIỂM VIẾT THƯ:
Trong IPhi 1Pr 5:13, Phi-e-rơ cho biết ông đang ở Ba-by-lôn khi viết thư
IPhi-e-rơ. Trong số nhiều cách lý giải đã được gợi ý thì ông đã viết thư này
từ: 1. Ba-by-lôn ở Ai-cập, là một căn cứ quân sự. 2. Ba-by-lôn của xứ Mê-
sô-bô-ta-mi. 3. Giê-ru-sa-lem và 4. Rô-ma. Rất có thể Phi-e-rơ đã dùng tên
“Ba-by-lôn” theo nghĩa biểu tượng, như có lẽ nó cũng đã được dùng trong
sách Khải huyền (thí dụ, xem các chú thích ở KhKh 17:9-10. KhKh 17:1-18
viết về sự phán xét Ba-by-lôn. Câu 9 bảo rằng thành phố Ba-by-lôn có bảy
hòn núi. Nhưng thành phố Rô-ma cũng có một dãy bảy ngọn đồi nằm trên tả
ngạn sông Tiber. Các nhà văn La Mã (như Virgil, Martial, Cicero) thường
gọi Rô-ma là thành phố của bảy hòn núi). Truyền thống gắn chặt giai đoạn
cuối cùng của Phi-e-rơ với thành phố Rô-ma, và một số tác giả nguyên thuỷ
chủ trương rằng thư IPhi-e-rơ đã được viết ở đó. Mặt khác, người ta được
biết vào thế kỷ thứ nhất, Ba-by-lôn chỉ tồn tại như một thị trấn trên sông Ơ-
phơ-rát. Hơn nữa, có người đã vạch rõ rằng: 1. Chẳng có cứ liệu hiển nhiên
nào chứng minh rằng tên Ba-by-lôn đã được dùng theo nghĩa bóng để chỉ
Ba-by-lôn trước khi sách Khải huyền được viết ra (khoảng 95 SC), và 2.
Văn mạch của IPhi 1Pr 5:13 không hề có nghĩa bóng hay ám chỉ Ai-cập.
NGƯỜI NHẬN THƯ:
Xem chú thích ở 1:1
CÁC LUẬN ĐỀ:
Tuy thư IPhi-e-rơ là một thư tín ngắn, nó đụng chạm đến nhiều giáo lý và
phần lớn đều đề cập đời sống và các nhiệm vụ của Cơ Đốc nhân. Cho nên
chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu nhiều độc giả khác nhau đã nhận thấy nó
có nhiều luận đề khác nhau. Chẳng hạn nó có đặc điểm của một bức thư chia
lìa, chịu khổ nạn và bắt bớ bách hại, chịu khổ nạn và được vinh hiển, của hi
vọng, của việc hành hương, của lòng can đảm và như một bức thư đề cập ân
điển chân chính của Đức Chúa Trời. Phi-e-rơ bảo rằng sở dĩ ông viết là để
“khuyên anh em và làm chứng với anh em rằng ấy là ơn thật của Đức Chúa
Trời” (IPhi 1Pr 5:12). Đây là một phần mô tả tổng quát cuối cùng về bức
thư, nhưng nó không hề loại trừ việc thừa nhận nhiều luận đề thứ yếu và góp
phần khác nữa. Bức thư cũng gồm có một loạt những lời răn bảo (quyết
lệnh) chạy suốt từ 1:13 đến 5:11.
BỐ CỤC:
I. Lời chào (1:1-2)
II. Ca ngợi tán tụng Đức Chúa Trời về ân điển về sự cứu rỗi của Ngài (1:3-
12)
III. Những lời răn bảo hãy sống một cuộc đời thánh khiết (1:13-5:11)
A. Những đòi hỏi của sự thánh khiết (1:13-2:3)
B. Địa vị của các tín hữu (2:4-12)
1. Một ngôi nhà thuộc linh (2:4-8)
2. Một tuyển dân (2:9-10)
3. Những người xa lạ và ngoại quốc (2:11-12)
C. Vâng phục bậc cầm quyền (2:13-3:7)
1.Vâng phục các nhà cầm quyền (2:13-17)
2. Vâng phục chủ (2:18-20)
3. Gương vâng phục của Đấng Christ (2:21-25)
4. Vợ vâng phục chồng (3:1-6)
5. Nhiệm vụ tương ứng của chồng (3:7)
D. Nhiệm vụ của mọi người (3:8-17)
E. Gương của Đấng Christ (3:18-4:6)
F. Thái độ sống trước viễn ảnh tận thế (4:7-11)
G. Thái độ của người chịu khổ vì Đấng Christ (4:12-19)
H. Cách ăn ở của các trưởng lão (5:1-4)
I. Cách ăn ở của thanh niên (5:5-11)
IV. Chủ đích của bức thư (5:12)
V. Những lời chào thăm kết thúc (IPhi 1Pr 5:13-14)

Dẫn nhập II Phi-e-rơ


Trước giả:
Trước giả tự nhận diện mình là Si-môn Phi-e-rơ (IIPhi 2Pr 1:1). Người dùng
đại danh từ ngôi thứ nhất số ít trong một phân khúc hết sức riêng tư (1:12-
15) và xưng nhận mình đã mục kích quang cảnh Chúa hóa hình (1:16-18; so
với Mat Mt 17:1-5). Người xác quyết rằng đây là bức thư thứ nhì gửi các
bạn đọc (IIPhi 2Pr 3:1) và ám chỉ Phao-lô như “người anh thân yêu và thông
thái của chúng ta” (3:15; xem chú giải ở đó). Tóm lại, thư ghi rõ là của Phi-
e-rơ và đặc tính của thư cũng phù hợp với sự xưng nhận đó.
Dầu IIPhi-e-rơ không được biết đến và công nhận cách rộng rãi trong Hội
Thánh đầu tiên cho bằng IPhi-e-rơ, vài người đã dùng và chấp nhận là có
thẩm quyền rất sớm vào thế kỷ thứ 2, và có thể cả cuối thế kỷ thứ nhất nữa
(IClement, 95 S.C, ám chỉ điều đó). Thư không được qui cho Phi-e-rơ mãi
đến thời Origen (185-253 S.C) và người dường như phản ảnh chút nghi ngại
về điều đó. Eusibius (265-340 S.C) đặt thư vào trong số các sách khả nghi,
dầu người thừa nhận rằng hầu hết đều chấp nhận là của Phi-e-rơ. Sau thời
Eusebius, dường như nói chung thư được chấp nhận là thuộc Kinh điển Tân
Ước.
Tuy nhiên, vào các thế kỷ mới đây, tính xác thực của thư gặp thách thức của
phần lớn các học giả. Một trong các ý kiến phản đối được nêu lên là sự khác
biệt về văn phong với thư IPhi-e-rơ. Nhưng sự khác biệt không phải tuyệt
đối, có nhiều chỗ tương đồng đáng chú ý trong ngữ vựng và trong các vấn đề
khác. Thật vậy, chưa hề có bản viết nào giống thư IPhi-e-rơ bằng thư IIPhi-
e-rơ. Có những khác biệt, có lẽ là khác nhau về chủ đề, hình thức và mục
đích của hai thư, thời gian và hoàn cảnh viết thư, nguồn tin hoặc mẫu mực,
các thư ký được dùng biên thư. Có lẽ đáng chú ý nhất là lời phát biểu trong
IPhi 1Pr 5:12 rằng Si-la giúp trong sự biên thư IPhi-e-rơ. Trong IIPhi-e-rơ
không có lời phát biểu nào, điều đó có thể cắt nghĩa sự khác biệt đáng chú ý
về văn phong (xem Phần Dẫn Nhập sách IPhi-e-rơ: Trước giả và niên hiệu).
Các ý kiến phản đối khác dấy lên từ sự tái lập Sử ký Hội Thánh Cơ Đốc đầu
tiên hoặc vài sự hiểu lầm về các dữ kiện sẵn có. Thí dụ, có người biện luận
sự tham khảo đến các thư của Phao-lô trong IIPhi 2Pr 3:15-16 chỉ dấu một
niên hiệu quá trễ đối với thư này - vượt qua cả cuộc đời Phi-e-rơ. Nhưng rất
có thể các thư Phao-lô đã được thâu góp lại vào niên hiệu sớm, vì vài bức
thư đã hiện hữu và lưu hành cả trên 10 năm rồi (thư Tê-sa-lô-ni-ca đến 15
năm) trước khi Phi-e-rơ qua đời. Ngoài ra, điều Phi-e-rơ nói có lẽ chỉ dấu
rằng người cơ quen biết vài thư của Phao-lô (sự truyền thông trong thế giới
La-mã và trong Hội Thánh đầu tiên rất tốt), chớ không phải là sự chính thức
sưu tầm kinh sách giáo hội.
Niên hiệu:
Thư IIPhi-e-rơ viết gần cuối đời Phi-e-rơ (tham chiếu IIPhi 2Pr 1:12-15) sau
khi người đã viết thư trước (3:1) cho cùng số độc giả đó (có lẽ là IPhi-e-rơ).
Vì Phi-e-rơ chịu tuận đạo trong thời Neron trị vì, sự chết của người xảy ra
trước 68S.C, rất có thể người viết IIPhi-e-rơ giữa 65-68S.C.
Có người biện luận rằng niên hiệu này quá sớm đối với IIPhi-e-rơ, nhưng
không có gì trong thư cần đến niên hiệu muộn hơn. Sự sai lầm phải chiến
đấu được so sánh với loại tà giáo hiện có trong thế kỷ thứ nhất. Nhấn mạnh
việc chương 2 viết nhằm chống lại Trí Huệ giáo ở thế kỷ thứ 2 là giả định
qua điều nội dung của chương bảo đảm. Trong khi các tà giáo nói đến trong
IIPhi-e-rơ rất có thể ở giữa vòng những người báo trước về Trí Huệ giáo của
thế kỷ thứ 2, chẳng có gì nói về chúng chẳng thích hợp vào các năm cuối đời
Phi-e-rơ cả.
Vài người gợi ý một niên hiệu trễ hơn vì họ giải thích sự tham khảo đến các
tổ phụ trong 3:4 có nghĩa là một thế hệ Cơ Đốc nhân sớm hơn. Tuy nhiên, từ
ngữ đó có thể giải thích cách rất tự nhiên là các tộc trưởng thời Cựu Ước (so
sánh GiGa 6:31, “tổ tiên” Cong Cv 3:13; HeDt 1:1). Cũng một lẽ ấy, sự
tham khảo đến Phao-lô và các thư tín của người (IIPhi 2Pr 3:15-16; xem
Trước giả) cũng không cần đến niên hiệu vượt qua đời của Phi-e-rơ.
IIPhi-e-rơ và Giu-đe:
Có sự tương đồng dễ thấy giữa IIPhi-e-rơ và Giu-đe (so IIPhi 2Pr 2:1-21 với
Giu Gd 1:4-18), nhưng cũng có những khác biệt dễ thấy nữa. Người ta gợi ý
rằng bên này mượn của bên kia, hoặc cả hai đều rút ra từ một nguồn tài liệu
chung. Nếu có sự vay mượn ý kiến, thì cũng chẳng phải là mượn cách mù
quáng, nhưng mỗi bên phỏng theo cho hiệp với mục tiêu của trước giả.
Trong khi nhiều người nhấn mạnh Giu-đe đã dùng tài liệu của Phi-e-rơ, thì
cũng hợp lý mà giả định rằng bức thư dài hơn (Phi-e-rơ) kết nạp nhiều từ thư
ngắn hơn (Giu-đe). Sự mượn ý kiến như thế rất thông thường trong thời xưa.
Thí dụ, nhiều người tin rằng Phao-lô dùng nhiều phần của các Thánh ca sáng
tác sớm hơn như trong Phi Pl 2:6-11; ITi1Tm 3:16.
Mục đích:
Trong thư thứ nhất, Phi-e-rơ nuôi dưỡng chiên bằng cách chỉ thị cho họ cách
đối phó với sự bức hại đến từ bên ngoài Hội Thánh (xem thí dụ, IPhi 1Pr
4:12). Trong thư thứ hai người dạy họ cách đối phó với các giáo sư giả và
những kẻ làm ác xâm nhập vào Hội Thánh (IIPhi 2Pr 2:1; 3:3-4). Trong khi
những hoàn cảnh đặc biệt tự nhiên bắt buộc phải thay đổi nội dung và điểm
nhấn mạnh, trong cả hai thư, Phi-e-rơ như một Mục sư (“người chăn”) của
bầy chiên của Đấng Christ (GiGa 21:15-17) tìm cách giới thiệu cho các độc
giả sự kết hợp đức tin và thực hành Cơ Đốc lành mạnh. Đặc biệt hơn nữa,
mục đích của thư gồm 3 phần: (1) giục giả sự tăng trưởng Cơ Đốc (IIPhi 2Pr
1:1-21). (2) Chiến đấu với sự dạy dỗ sai lầm (2:1-22). (3) Khuyến khích thức
canh trông đợi ngày Chúa chắc chắn tái lâm (3:1-18).
Bố cục:
I. Lời giới thiệu (1:1-2)
II. Khuyên tăng trưởng trong các đức hạnh Cơ Đốc (1:3-11)
A. Sự ban khả năng thiên thượng (1:3-4)
B. Sự kêu gọi tăng trưởng (1:5-7)
C. Giá trị của sự tăng trưởng đó (1:8-11)
III. Mục đích và sự xác nhận sứ điệp của Phi-e-rơ (1:12-21)
A. Mục đích viết thư (1:12-15)
B. Căn bản của thẩm quyền Phi-e-rơ (1:16-21)
IV. Cảnh cáo chống lại giáo sư giả (2:1-22)
A. Tiên đoán sự đến của họ (2:1-3a)
B. Sự phán xét họ là chắc chắn (2:3b-9)
C. Những đặc điểm biểu thị của họ (2:10-22)
V. Sự thật về việc Chúa trở lại (3:1-16)
A. Nhắc lại mục đích viết thư (3:1-2)
B. Sự đến của những kẻ nhạo báng (3:3-7)
C. Chắc chắn Chúa sẽ tái lâm (3:8-10)
D. Những lời khuyên căn cứ vào sự kiện Đấng Christ tái lâm (3:11-16)
VI. Những nhận xét kết thúc (3:17-18)

Dẫn nhập I Giăng


Trước giả:
Trước giả là Giăng, con trai Xê-bê-đê (so sánh Mac Mc 1:19-20) - sứ đồ và
là trước giả của Phúc Âm Giăng và Khải thị (xem Phần Dẫn nhập của hai
sách: Trước giả). Người là em họ gần của Chúa Giê-xu (mẹ của Giăng là Sa-
lô-mê, em gái của Ma-ri, so sánh Mat Mt 27:56; Mac Mc 16:1; GiGa 19:25),
một ngư phủ, người trong vòng thân tín nhất của Chúa Giê-xu (cùng chung
với Gia-cơ và Phi-e-rơ) và “môn đệ mà Chúa Giê-xu yêu” (GiGa 13:23).
Không như hầu hết các thư tín trong Tân Ước, IGiăng không cho chúng ta
biết ai là trước giả. Sự nhận diện trước giả sớm nhất đến từ các giáo phụ:
Irenaeus (chừng 140-203 S.C.N.), Clement ở A-léc-xan-tri (chừng 155-215),
Tertullian (chừng 150-222) và Origen (chừng 185-253) hết thảy đều cho
rằng trước giả là sứ đồ Giăng. Theo chúng ta được biết, Hội Thánh đầu tiên
không gợi ý người nào khác.
Sự nhận diện truyền thống này được xác nhận bởi nội chứng trong chính
thư.
1. Văn phong của Phúc Âm Giăng được xác nhận là tương tự văn phong của
thơ. Cả hai đều viết trong Hy-văn đơn giản và dùng những hình ảnh trái
ngược, thí dụ như sáng và tối, sống và chết, lẽ thật và dối trá, thương yêu và
ghen ghét.
2. Những nhóm từ và thành ngữ thấy trong các phân đoạn sau đây thật giống
nhau:
IGi1Ga 1:1 so với GiGa 1:1,14
IGi1Ga 1:4 so với GiGa 16:24
IGi1Ga 1:6-7 so với GiGa 3:19-21
IGi1Ga 2:7 so với GiGa 13:34-35
IGi1Ga 3:8 so với GiGa 8:44
IGi1Ga 3:14 so với GiGa 5:24
IGi1Ga 4:6 so với GiGa 8:47
IGi1Ga 4:9 so với GiGa 1:14,18; 3:16
IGi1Ga 5:9 so với GiGa 5:32,37
IGi1Ga 5:12 so với GiGa 3:36
3. Lời chứng mắt thấy (IGi1Ga 1:1-4) hài hoà với sự kiện Giăng là người
theo Đấng Christ ngay từ ngày đầu nhất của thiên chức Ngài.
4. Phong cách đầy thẩm quyền toả khắp trong thơ (thấy trong những mệnh
lệnh, 2:15,24,28; 4:1; 5:21; những khẳng định vững chắc, 2:6; 3:14; 4:12; và
sự nhận dạng sai lầm cách sắc bén, 1:6,8; 2:4,22) là điều người ta kỳ vọng
nơi sứ đồ.
5. Những gợi ý về tuổi cao (xưng hô với các độc giả như “con cái” 2:1,28;
3:7), phù hợp với truyền thống Hội Thánh đầu tiên về tuổi tác của Giăng khi
người biên các thư được coi là của mình.
6. Mô tả những người theo tà giáo là Kẻ Phản Chúa (2:18), nói dối (2:22) và
con của Quỉ vương (3:10) phù hợp với lời Chúa Giê-xu biểu thị đặc sắc của
Giăng là con trai của Sấm sét (Mac Mc 3:17).
7. Những dấu chỉ sự liên hệ mật thiết với Chúa (IGi1Ga 1:1; 2:5-6,24,27-28)
thích hiệp với sự mô tả “môn đệ mà Chúa Giê-xu yêu” và “người dựa sát
vào ngực Chúa” (GiGa 13:23).
Niên hiệu:
Thật khó tính niên hiệu chính xác cho bức thư, nhưng các yếu tố như (1)
bằng cớ từ các văn sĩ Cơ Đốc đầu tiên (Irenaeus và Clement ở A-léc-xan-
tri), (2) Hình thức ban đầu của Trí huệ giáo ảnh hưởng trên những sự tố cáo
của bức thư và (3) Dấu chỉ tuổi tác của Giăng gợi ý vào cuối thế kỷ thứ nhất.
Vì trước giả của thơ IGiăng dường như xây dựng quan điểm và chủ đề trên
Phúc Âm thứ tư (xem IGi1Ga 2:7-11), cho nên rất hợp lý mà định niên hiệu
bức thư vào giữa 85 S.C.N. và 95, sau khi viết Phúc Âm có lẽ vào năm 85
S.C.N.(xem Phần Dẫn nhập Phúc Âm Giăng: Niên hiệu).
Những người nhận thư:
IGi1Ga 2:12-14,19; 3:1; 5:13 tỏ rõ rằng thư này được viết cho các tín hữu.
Nhưng chính bức thư không cho biết họ là ai và sống ở đâu. Thật sự thư
không ghi tên ai, gợi ý đây là thư luân lưu gởi cho các Cơ Đốc nhân ở vài
nơi. Bằng cớ từ các giáo phụ đầu tiên cho rằng sứ đồ Giăng ở tại Ê-phê-sô
trong hầu hết cuộc đời còn lại của người (chừng 70-100 S.C.N.). Vị sớm
nhất chứng nhận việc dùng thư IGiăng ở trong tỉnh Tiểu Á (hiện nay là Thổ
nhỉ kỳ), nơi Ê-phê-sô toạ lạc. Clement ở Alexandria chỉ dấu rằng Giăng đã
phục sự trong mấy Hội Thánh rải rác khắp tỉnh Tiểu Á. Vậy nên có thể giả
định rằng thơ IGiăng được gửi cho các Hội Thánh trong tỉnh A-si.
Trí huệ giáo:
Một trong số các tà giáo nguy hiểm nhất của Hội Thánh trong hai thế kỷ đầu
là Trí Huệ giáo. Sự dạy dỗ chủ yếu là thần linh hoàn toàn thánh thiện, còn
vật chất hoàn toàn hung ác. Từ đây mà nhị nguyên chủ nghĩa ngoài Thánh
Kinh lưu xuất 5 điều sai lầm quan trọng:
1. Thân thể con người là vật chất nên là ác. Nó thật trái ngược với Thượng
Đế, Đấng hoàn toàn là linh cho nên là thiện.
2. Sự cứu rỗi tức là sự đào thoát khỏi thân xác, được hoàn tất không phải
nhờ đức tin trong Chúa Cứu Thế, bèn là nhờ kiến thức đặc biệt (Từ Hy Lạp
cho “kiến thức” là Gnosis, do đó mệnh danh là Trí Huệ giáo).
3. Nhân tánh thật của Đấng Christ bị chối bỏ bằng 2 cách: (1) Có người cho
rằng Đấng Christ chỉ “dường như có một thân thể”, quan điểm gọi là
Docetism, có gốc từ Hy-văn là “Dokeo” (“dường như”), và (2) lại có người
khác nói Đấng Christ thần linh kết hợp chặt chẽ với người Giê-xu vào dịp lễ
báp-têm, và đã lìa bỏ người trước khi người chết, quan điểm này gọi là
thuyết Cerinthianism, theo tên của phát ngôn viên lỗi lạc nhất tên là
Cerinthus. Quan điểm này là bối cảnh của phần lớn thơ IGiăng (xem IGi1Ga
1:1; 2:22; 4:2-3).
4. Vì thân thể được coi là ác nên phải đãi nó cách nghiêm khắc. Hình thái
khổ hạnh này của Trí Huệ giáo là bối cảnh của một phần thơ Cô-lô-se (CoCl
2:21-23).
5. Theo cách nghịch lý, nhị nguyên chủ nghĩa cũng dẫn đến sự phóng túng
(dâm loạn). Lý luận là: Vì vật chất - và không phải là vi phạm luật pháp Đức
Chúa Trời (IGi1Ga 3:4) - được coi là ác, nên phạm luật Đức Chúa Trời
chẳng phải là hậu quả đạo đức.
Trí huệ giáo nói đến trong Tân ước chỉ là hình thức ban đầu của tà giáo, chớ
không phải hệ thống phức tạp phát triển trong thế kỷ thứ 2 và 3. Thêm vào
điều được thấy trong các thơ Cô-lô-se và IGiăng, sự nhận biết Trí Huệ giáo
ban đầu còn phản ảnh trong I, IITi-mô-thê, Tít và IIPhi-e-rơ có lẽ ICô-rin-tô
nữa.
Cơ hội và mục đích:
Bạn đọc thơ IGiăng đương đầu với hình thức sớm nhất của sự dạy dỗ Trí
Huệ với tính bất nhất của Cerinthus (xem Trí Huệ giáo). Tà giáo này cũng
phóng túng (dâm loạn) gạt bỏ mọi kiềm chế đạo đức.
Hậu quả là Giăng viết thư này với hai mục đích căn bản trong tâm trí: (1)
Phơi bày các giáo sư giả (IGi1Ga 2:26) và (2) bảo đảm tín hữu được cứu rỗi
chắc chắn (5:13). Phù hiệp với ý định chiến đấu chống với các giáo sư Trí
Huệ, Giăng đặc biệt tấn công vào điểm thiếu đạo đức của họ (3:8-10) và
bằng cách làm chứng điều mục kích sự nhập thể làm người của Chúa, sứ đồ
tìm cách chứng quyết niềm tin của độc giả vào việc Đấng Christ đã mang lấy
hình hài thể xác con người (1:3). Thành công trong vấn đề này sẽ đem lại
vui mừng cho trước giả vậy (1:4).
Bố cục:
I. Lời giới thiệu: Thực sự về nhập thể của Chúa (1:1-4)
II. Nếp sống Cơ Đốc như mối giao hảo Cha và Con (1:5-2:28)
A. Những thử nghiệm luân lý của mối giao hảo (1:5-2:11)
1. Tính chất đạo đức giống nhau (1:5-7)
2. Xưng nhận tội (1:8-2:2)
3. Vâng phục (2:3-6)
4. Tình yêu đối với anh em đồng đạo (2:7-11)
B. Hai phần lạc đề (2:12-17)
C. Thử nghiệm mối giao hảo trong sự khảo học về Đấng Christ (2:18-28)
1. Tương phản: Bội đạo chống với tín hữu (2:18-21).
2. Thân vị Chúa Cứu Thế: Điểm then chốt của sự thử nghiệm (2:22-23).
3. Tín ngưỡng bền bỉ: Chìa khóa cho sự giao hảo liên tục (2:24-28).
III. Nếp sống Cơ Đốc như phận làm con Chúa Thiên thượng (2:29-4:6)
A. Những thử nghiệm luân lý của phận làm con (2:29-3:24)
1. Đức công chính (2:29-3:10a)
2. Tình yêu (3:10b-24)
B. Những thử nghiệm phận làm con trong sự khảo học về Chúa Cứu Thế
(4:1-6)
IV. Nếp sống Cơ Đốc như một hợp nhất của luân lý học và Cứu Thế học
(4:7-5:12)
A. Sự thử nghiệm luân lý: Tình yêu (4:7-5:5)
1. Nguồn gốc tình yêu (4:7-16)
2. Bông trái của tình yêu (4:17-19)
3. Mối liên hệ của tình yêu đối với Đức Chúa Trời và tình yêu đối với anh
em thuộc linh (4:20-5:1).
4. Vâng phục: Bằng cớ của tình yêu đối với con dân Đức Chúa Trời (5:2-5).
B. Sự thử nghiệm do khảo học về Chúa Cứu Thế (5:6-12)
V. Kết luận: Những điều chắc chắn nhất của Cơ Đốc giáo (5:13-21)

Dẫn nhập II Giăng


Trước giả:
Trước giả là sứ đồ Giăng. Những tương đồng rõ nét với IGiăng và Phúc Âm
Giăng gợi ý cùng một người viết cả ba thơ. Hãy so sánh những câu sau đây:
IIGi 2Ga 1:5 so với IGi1Ga 2:7 và GiGa 13:34-35
IIGi 2Ga 1:6 so với IGi1Ga 5:3 và GiGa 14:23
IIGi 2Ga 1:7 so với IGi1Ga 4:2-3
IIGi 2Ga 1:12 so với IGi1Ga 1:4 và GiGa 15:11; 16:24
Xem các Phần Dẫn nhập của thơ IGiăng và Phúc Âm Giăng.
Niên hiệu:
Thơ này có lẽ được viết đồng thời với IGiăng (85-95 S.C) như các so sánh ở
trên gợi ý (Xem phần dẫn nhập của Phúc Âm Giăng: Trước giả).
Cơ hội và mục tiêu:
Trong hai đầu thế kỷ đầu, Phúc Âm được các nhà truyền đạo lưu hành và các
giáo sư truyền bá từ nơi này qua nơi khác. Tín hữu thường tiếp rước các giáo
sĩ này trong nhà mình, và chuẩn bị cho họ mọi sự đi đường khi họ lìa khỏi
nơi đó. Vì các giáo sư Trí Huệ cũng ỷ lại vào tập quán này (xem chú thích ở
IIIGi 3Ga 1:5), thơ IIGiăng được viết để khuyến giục sự nhận thức sáng suốt
trong việc cấp dưỡng các giáo sư lưu hành, bằng không, có người lại vô tình
đóng góp vào sự truyền bá tà giáo thay vì chân lý.
Bố cục:
I. Lời chào thăm (IIGi 2Ga 1:1-3)
II. Lời khen ngợi (1:4)
III. Lời khuyên và cảnh cáo (1:5-11)
IV. Kết luận (1:12-13)

Dẫn nhập III Giăng


Trước giả:
Trước giả là sứ đồ Giăng. Trong những câu đầu của thơ IIGiăng và IIIGiăng,
trước giả tự xưng mình là “trưởng lão”. Hãy chú ý vào các điểm tương đồng
khác “yêu thương trong lẽ thật” (câu 1 của cả hai thơ) “noi theo lẽ thật” (câu
4 của cả hai thơ) và các kết luận giống nhau. Xem Phần Dẫn nhập thơ
IGiăng và Phúc Âm Giăng: Trước giả.
Niên hiệu:
Thơ này được viết đồng thời với 2 thơ I và IIGiăng (85-95 S.C). Xem Phần
Dẫn nhập thơ IGiăng: Niên hiệu.
Cơ hội và mục đích:
Xem Phần Dẫn nhập thơ IIGiăng: Cơ hội và Mục đích. Các giáo sư lưu hành
do Giăng phái đi bị một lãnh tụ độc tài, là Đi-ô-trép, của một trong các Hội
Thánh xứ Tiểu Á chối từ. Thậm chí, còn dứt phép thông công những người
tỏ lòng khoản đãi các sứ giả của Giăng sai đến. Giăng viết thơ này để khen
ngợi Gai-út vì đã cấp dưỡng các giáo sư và gián tiếp cảnh cáo Đi-ô-trép.
Bố cục:
I. Lời chào thăm (IIIGi 3Ga 1:1-2)
II. Lời khen ngợi Gai-út (1:3-8)
III. Lời kết tội Đi-ô-trép (1:9-10)
IV. Lời khuyên Gai-út (1:11)
V. Gương sáng của Đê-mê-triu (1:12)
VI. Kết luận (1:13-14).

Dẫn nhập Giu-đe


Trước giả:
Trước giả tự nhận diện mình là Giu-đe (Giu Gd 1:1), hình thức khác của tên
Hê-bơ-rơ là Giu-đa (Hy Lạp: “Judas”), tên thường đặt giữa vòng người Do
Thái. Trong số những người mang tên đó trong Tân ước, mấy người sau đây
rất có thể là trước giả của thơ này: (1) Giu-đa, sứ đồ (LuLc 6:16; Cong Cv
1:13) - không phải là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt - và (2) Giu-đa, em của Chúa (Mat
Mt 13:55; Mac Mc 6:3). Rất có thể là người thứ hai. Ví dụ, trước giả không
xưng mình là sứ đồ, thậm chí còn muốn tách mình ra khỏi các sứ đồ (Giu Gd
1:17). Hơn nữa, trước giả mô tả mình là em của Gia-cơ (1:1). Thường một
người trong thời Giu-đe hay mô tả mình là con của ai chớ không xưng anh
em của ai. Lý do về ngoại lệ này có lẽ vì sự xuất chúng của Gia-cơ trong Hội
Thánh Giê-ru-sa-lem (xem Phần Dẫn nhập thơ Gia-cơ: Trước giả).
Dầu cả Giu-đe lẫn Gia-cơ đều không mô tả mình là các em của Chúa, nhưng
người khác không hề ngần ngại mà nói về họ theo cách này (xem Mat Mt
13:55; GiGa 7:3-10; Cong Cv 1:14; ICo1Cr 9:5; GaGl 1:19). Dường như
chính họ cũng xin đừng xưng hô như vậy vì cớ đặc quyền họ có như người
trong gia đình của Giô-sép và Ma-ri.
Có lẽ những lời tham chiếu đến thơ Giu-đe hoặc những trích dẫn từ thơ đó
được thay vào niên hiệu rất sớm: Thí dụ, trong sách của Clement ở La-mã
(chừng 96 S.C), Clement ở A-léc-xan-tri (155-215), Tertullian (150-222) và
Origen (185-253) đã chấp nhận thư đó, nó cũng được gồm lại trong Kinh
điển Muratorian (chừng 170) và được chấp nhận bởi Athanasius (298-373),
và bởi giáo hội nghị Carthage (397). Eusibius (265-340) liệt kê thơ này giữa
vòng các sách trong nghi vấn, dầu chính người thừa nhận nhiều người coi là
của Giu-đe viết.
Tuỳ theo Jérome và Didymus, có người không chấp nhận thơ thuộc Kinh
điển vì cớ không được cảm ứng hoặc có dùng văn chương Ngoại Kinh (xem
các chú thích ở Giu Gd 1:9,14). Nhưng sự phán đoán trung thực đã thừa
nhận rằng một trước giả được cảm ứng có thể chính thức sử dụng văn
chương không được cảm ứng - vô luận vì mục đích minh hoạ, hoặc chiếm
hữu như tài liệu lịch sử đáng tin cậy hoặc được chấp nhận cách khác - và sự
dùng như thế không nhất thiết xác nhận văn chương ấy được cảm ứng. Dưới
ảnh hưởng của Thánh Linh Hội Thánh đạt đến sự xác tín thẩm quyền Đức
Chúa Trời đứng đàng sau thơ Giu-đe. Sự kiện thơ bị nghi ngại và thử
nghiệm, tuy nhiên cuối cùng đã được các Hội Thánh chấp nhận, cho thấy
rằng sách thật có sức mạnh chứng thực.
Niên hiệu:
Không có gì trong thơ cần đến niên hiệu vượt qua sinh thời của Giu-đe, em
Chúa. Giống như thơ IIPhi-e-rơ, sự sai lạc mà trước giả đang chiến đấu
không phải là sự dạy tà giáo của thế kỷ thứ hai, nhưng đã được khai triển
vào niên hiệu sớm hơn (so Cong Cv 20:29-30; RoRm 6:1; ICo1Cr 5:1-11;
IICo 2Cr 12:21; GaGl 5:13; Eph Ep 5:3-17; ITe1Tx 4:6). Cũng xem Phần
Dẫn nhập thơ IIPhi-e-rơ: Niên hiệu). Tuy nhiên, cũng chẳng còn có gì trong
thơ cần đến niên hiệu sau thời các sứ đồ, như có người đã biện luận. Rất có
thể các độc giả thơ Giu-đe đã từng nghe vài sứ đồ giảng (Giu Gd 1:17-18).
Cũng một lẽ ấy, sự dùng từ “đức tin” trong ý nghĩa khách quan của toàn bộ
chân lý đã tin nhận (1:3) không phải buộc định niên hiệu trễ hơn cho thơ. Nó
đã được dùng theo ý nghĩa rất sớm như GaGl 1:23.
Vấn đề liên hệ giữa thơ Giu-đe và thơ IIPhi-e-rơ có ảnh hưởng đến niên hiệu
của Giu-đe. Nếu IIPhi-e-rơ dùng thơ Giu-đe, quan điểm thường được chấp
nhận (xem Phần Dẫn nhập thơ IIPhi-e-rơ: IIPhi-e-rơ và Giu-đe) - tất nhiên
Giu-đe phải viết trước IIPhi-e-rơ, có lẽ chừng 65 S.C. Bằng không cũng có
thể trễ nhất là năm 80.
Những người nhận thư:
Sự mô tả những người Giu-đe gửi thơ cho thật là chung chung (Giu Gd 1:1).
Nó có thể áp dụng cho Cơ Đốc nhân Do Thái, Cơ Đốc nhân người nước
ngoài, hoặc cả hai. Không chỉ rõ địa điểm của họ ở. Cũng không nên đoán
định rằng, vì IIPhi-e-rơ và Giu Gd 1:4-18 dường như mô tả hoàn cảnh giống
nhau thì đương nhiên thơ đều viết cho cùng số người đó. Loại tà giáo mô tả
trong hai khúc sách này lan tràn khắp nơi (xem Niên hiệu).
Cơ hội và mục đích:
Dầu Giu-đe rất tha thiết viết thơ cho các độc giả về sự cứu rỗi, người cảm
thấy mình phải thay vào đó cảnh cáo họ về số người vô luân xâm nhập giữa
vòng họ đang làm băng hoại ân phúc của Đức Chúa Trời (1:4). Dường như
những giáo sư giả này đang cố gắng thuyết phục các tín hữu rằng: được cứu
bởi ân phúc cho phép họ buông tuồng, tự do phạm tội, vì tội họ không còn
giữ lại nghịch cùng họ. Giu-đe nghĩ rằng bắt buộc các tín hữu phải cảnh giác
chống lại những người như thế, và phải chuẩn bị chống trả sự dạy dỗ băng
hoại của họ bằng chân lý của ân phúc cứu rỗi từ Đức Chúa Trời.
Người ta thường đoán định rằng các giáo sự giả này là thuộc Trí Huệ giáo.
Dầu sự nhận diện họ chắc chắn là đúng, nhưng họ chỉ là những người báo
trước về Trí Huệ giáo được hoàn toàn khai triển vào thế kỷ thứ 2 (xem phần
Dẫn nhập thơ IIPhi-e-rơ: Niên hiệu).
Bố cục:
I. Lời chào thăm (1:1-2)
II. Cơ hội viết thơ (1:3-4)
A. Thay đổi đề tài (1:3)
B. Lý do thay đổi: Sự hiện diện của kẻ bội đạo bất kỉnh (1:4)
III. Cảnh cáo chống lại giáo sư giả (dc 1:5-16;)
A. Những gương chứng về sự đoán phạt kẻ bội đạo (1:5-7)
1. Y-sơ-ra-ên vô tín (1:5)
2. Thiên sứ sa ngã (1:6)
3. Sô-đôm và Gô-mô-rơ (1:7)
B. Mô tả những kẻ bội đạo trong thời Giu-đe (1:8-16)
1. Lời vu khống đáng phàn nàn của họ (1:8-10)
2. Đặc tính của họ được mô tả cách gợi hình (1:11-13)
3. Dự ngôn về sự hủy diệt họ (1:14-16)
IV. Lời khuyên các tín hữu (1:17-23)
V. Lời tôn vinh kết thúc (1:24-25)

Dẫn nhập Khải huyền


Trước giả:
Có 4 lần trước giả tự nhận mình là Giăng (KhKh 1:1,4,9; 22:8). Từ thời
Justin Martyr trong thế kỷ thứ 2 SC, người ta đã chủ trương rằng Giăng này
là sứ đồ, con của Xê-bê-đê (xem Mat Mt 10:2). Chính sách bày tỏ trước giả
là người Do Thái, thông thạo Thánh Kinh, nhà lãnh đạo Hội Thánh được cả
7 Hội Thánh xứ Tiểu Á rất quen biết, và cũng rất sùng đạo xác tín rằng niềm
tin Cơ Đốc chẳng bao lâu sẽ chiến thắng những lực lượng của quỉ dữ đương
hoành hành trong thế giới.
Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 3, một giám mục Phi châu tên Dionysius khi so
sánh ngôn ngữ, văn phong và tư tưởng của sách Khải huyền với các sách
khác của Giăng, đã nhất định rằng sứ đồ Giăng không thể viết được sách
này. Giám mục gợi ý rằng trước giả là trưởng lão tên Giăng, mà tên người
xuất hiện trong các sách cổ xưa. Dầu có nhiều người ngày nay theo quan
điểm của Dionysius về quyền trước giả, nhưng ngoại chứng hầu như hoàn
toàn ủng hộ quan điểm truyền thống.
Niên hiệu:
Sách Khải huyền được viết khi các Cơ Đốc nhân bước vào thời kỳ bách hại.
Hai kỳ bách hại dữ dội nhất xảy ra vào phần cuối đời trị vì của Neron (54-68
SC) và phần cuối đời trị vì của Domitian (81-96 SC). Hầu hết các học giả
định niên hiệu sách chừng năm 95 SC. (Vài người gợi ý niên hiệu nhằm đời
trị vì của Vespasian, 69-79 SC).
Cơ hội:
Vì các nhà chức trách La Mã vào thời này khởi sự bắt buộc tôn trọng sự thờ
hoàng đế, nên Cơ Đốc nhân - những người chủ trương Chúa Cứu Thế, chứ
không phải Sê-sa, là Chúa - phải đối diện với sự hận thù ngày càng tăng. Các
tín hữu tại Si-miệc-nơ được cảnh giác đối với sự chống đối (KhKh 2:10), và
Hội Thánh Phi-la-đen-phi được cho biết về giờ thử thách đến trên thế gian
(3:10). An-ti-ba đã phó mạng sống mình (2:13) chung với những người khác
(6:9). Giăng bị đày ra đảo Bát-mô (có lẽ là địa điểm của trại hình phạt La
Mã) vì hoạt động truyền giáo Cơ Đốc (1:9). Vài người trong Hội Thánh chủ
trương chính sách hòa hoãn (2:14-15,20) cần được sửa đổi trước khi ảnh
hưởng tinh tế của nó có thể phá hoại ngầm quyết tâm của tín hữu đứng vững
trong những ngày nguy hiểm đang chờ đợi trước mặt.
Mục đích:
Giăng viết để khuyến khích người trung tín vững vàng chiến đấu chống lại
sự đòi hỏi phải thờ hoàng đế. Người báo tin cho các độc giả biết sự thử thách
cuối cùng giữa Đức Chúa Trời và Sa-tan sắp xảy đến nơi rồi. Sa-tan gia tăng
sự bách hại các tín hữu, nhưng họ phải đứng vững dầu phải chết. Họ cũng đã
được niêm phong chống mọi sự tổn hại thuộc linh và chẳng bao lâu sẽ được
biện minh chính nghĩa khi Chúa tái lâm, kẻ ác sẽ bị hủy diệt đời đời, và khi
con dân Đức Chúa Trời bước vào cõi vĩnh viễn đầy vinh quang và phước
hạnh.
Hình thức văn học:
Để hiểu đầy đủ về sách Khải huyền, bạn đọc phải thừa nhận đây là một loại
văn chương đặc biệt. Khải huyền là sách khải thị rất mực tượng trưng. Dầu
các khải tượng đôi khi khác lạ với độc giả, điểm thuận lợi là sách chuẩn bị
một số đầu mối cho sự giải nghĩa (thí dụ, các ngôi sao là thiên sứ, chân đèn
là các Hội Thánh, KhKh 1:20; “đại dâm phụ”, 17:1 là Ba-by-lôn (La Mã?),
17:5,18; và thành Giê-ru-sa-lem trên trời là Vợ của Chiên Con, 21:9-10).
Những nét đặc biệt:
Nét đặc biệt thường dùng là số 7 (52 lần). Có bảy lời phước lớn (xem chú
thích ở 1:3), bảy Hội Thánh (1:4,11), bảy linh (1:4), bảy chân đèn vàng
(1:12), bảy ngôi sao (1:16), bảy ấn (5:1), bảy sừng và bảy mắt (5:6), bảy kèn
(8:2), bảy tiếng sấm (10:3), bảy dấu (12:1,3; 13:13-14; 15:1; 16:14; 19:20),
bảy mão miện (12:3), bảy tai vạ (15:6), bảy bát vàng (15:7), bảy ngọn núi
(17:9), bảy vua (17:10) và còn nhiều số 7 khác. Nói cách tượng trưng, số bảy
chỉ về tính chất hoàn toàn, trọn vẹn.
Sự giải thích:
Nhà giải nghĩa Khải huyền thường chia làm 4 nhóm:
1. Nhóm quá khứ hiểu rằng sách độc quyền quan hệ với khung cảnh của thế
kỷ thứ nhất, công nhận hầu hết các biến cố đã xảy ra rồi.
2. Nhóm lịch sử coi sách mô tả chuỗi dài các biến cố từ đảo Bát-mô cho đến
cuối cùng lịch sử.
3. Nhóm tương lai trước hết đặt sách vào thời đại cuối cùng.
4. Nhóm lý tưởng quan niệm các bức tranh tượng trưng những chân lý vô
tận như là sự đắc thắng điều thiện trên điều ác.
Thật may mắn là những lẽ thật cơ bản của sách Khải huyền không tùy thuộc
vào sự chấp nhận một quan điểm đặc biệt nào. Chúng sẵn sàng giúp những
ai đọc sách để hiểu sứ điệp toàn bộ và chống trả với sự cám dỗ trở thành quá
say mê về các chi tiết.
Bố cục:
I. Lời giới thiệu (1:1-8)
A. Đoạn mở đầu (1:1-3)
B. Lời chào thăm và tôn vinh (1:4-8)
II. Chúa Giê-xu giữa vòng bảy Hội Thánh (1:19-20)
III. Các thư gửi bảy Hội Thánh (2:1-3:22)
A. Ê-phê-sô (2:1-7)
B. Si-miệc-nơ (2:8-11)
C. Bẹt-găm (2:12-17)
D. Thi-a-ti-rơ (2:18-29)
E. Sạt-đe (3:1-6)
F. Phi-la-đen-phi (3:7-13)
G. Lao-đi-xê (3:14-22)
IV. Ngai, Cuốn Sách và Chiên Con (4:1-5:14)
A. Ngai ở trên trời (4:1-11)
B. Cuốn sách niêm bảy ấn (5:1-5)
C. Chiên Con đã bị giết (5:6-14)
V. Bảy ấn (6:1-8:1)
A. Ấn thứ nhất: Con ngựa bạch (6:1-2)
B. Ấn thứ hai: Con ngựa hồng (6:3-4)
C. Ấn thứ ba: Con ngựa ô (6:5-6)
D. Ấn thứ tư: Con ngựa xám (6:7-8)
E. Ấn thứ năm: Những linh hồn ở dưới bàn thờ (6:9-11)
F. Ấn thứ sáu: Trận động đất lớn (6:12-17)
G. Sự đóng ấn 144.000 người (7:1-8)
H. Đoàn dân đông vô số (7:9-17)
I. Ấn thứ bảy: Sự yên lặng ở trên trời (8:1)
VI. Bảy cây kèn (8:2-11:19)
A. Lời giới thiệu (8:2-5)
B. Kèn thứ nhất: Mưa đá và lửa trộn với huyết (8:6-7)
C. Kèn thứ hai: Núi bị quăng vào lòng biển (8:8-9)
D. Kèn thứ ba: Ngôi sao ngải cứu (8:10-11)
E. Kèn thứ tư: Một phần ba mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao bị đánh
(8:12-13)
F. Kèn thứ năm: Tai vạ châu chấu (9:1-12)
G. Kèn thứ sáu: Buông tha bốn vị thiên sứ (9:13-21)
H. Thiên sứ và cuốn sách nhỏ (10:1-11)
I. Hai chứng nhân (11:1-14)
J. Kèn thứ bảy: Những cuộc phán xét và phần thưởng (11:15-19)
VII. Vài nhân vật và biến cố khác nhau (12:1-14:20)
A. Phụ nữ và con rồng (12:1-18)
B. Hai con thú (13:1-18)
C. Chiên Con và 144.000 người (14:1-5)
D. Mùa gặt trên đất (14:6-20)
VIII: Bảy bát (15:1-16:21)
A. Lời giới thiệu: Bài ca Môi-se và 7 thiên sứ với 7 tai vạ (15:1-8)
B. Bát thứ nhất: Ung nhọt độc địa ghê tởm (16:1-2)
C. Bát thứ hai: Biển biến thành huyết (16:3)
D. Bát thứ ba: Sông và suối nước trở thành huyết (16:4-7)
E. Bát thứ tư: Mặt trời thiêu đốt loài người bằng lửa (16:8-9)
F. Bát thứ năm: Tối tăm (16:10-11)
G. Bát thứ sáu: Sông Ơ-phơ-rát khô cạn (16:12-16)
H. Bát thứ bảy: Cơn động đất lớn mạnh (16:17-21)
IX. Ba-by-luân: Đại dâm phụ (17:1-19:5)
A. Ba-by-luân được mô tả (17:1-18)
B. Ba-by-luân sụp đổ (18:1-24)
C. Ca ngợi về thành Ba-by-luân sụp đổ (19:1-5)
X. Bài ca ngợi về Lễ cưới Chiên Con (19:6-10)
XI. Sự tái lâm của Chúa Cứu Thế (19:11-21)
XII. Ngàn năm bình an (20:1-6)
XIII. Sa-tan bị kết án (20:7-10)
XIV. Toà án chung thẩm trắng và lớn (20:11-15)
XV. Trời mới, đất mới, Giê-ru-sa-lem mới (21:1-22:5)
XVI. Kết luận (22:6-21)

You might also like