You are on page 1of 150

Gỉảng Đạo và Dạy Đạo

Tác giả: W. Ernest Pettry

GIỚI THIỆU MÔN HỌC .


ĐƠN VỊ 1: CHỨC VỤ GIẢNG VÀ CHỨC VỤ DẠY .
Bạn và chức vụ.
Bạn hãy tự chuẩn bị chính mình.
Bạn hãy chuẩn bị tài liệu.
ĐƠN VỊ 2: CHỨC VỤ GIẢNG ĐẠO .
Ý nghiã của sự giảng đạo.
Sứ điệp của sự giảng đạo.
Phương pháp của sự giảng đạo.
ĐƠN VỊ 3: CHỨC VỤ DẠY ĐẠO .
Ý nghĩa của sự dạy đạo.
Trọng tâm của sự dạy đạo.
Phương pháp của sự dạy đạo.
Hướng tới một chức vụ quân bình.
NHỮNG CÂU TRẢ LỜI BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM CÁ NHÂN .

Giới Thiệu Môn Học


Bạn sắp sửa học một đề tài rất quan trọng. Đó là làm thế nào để truyền thông
Lời của Đức Chúa Trời cách có hiệu quả bằng việc giảng đạo và dạy đạo.
Hai phương pháp Thánh Kinh này nhằm truyền thông Lời của Đức Chúa
Trời ở nhiều khía cạnh rất giống nhau. Tuy nhiên trong lịch sử của Hội
Thánh Cơ đốc, mỗi phương pháp đều đã phát huy môt số các đặc tính khác
nhau đưa đến sự tương phản khác nhau. Cả hai phương pháp này nếu biết
kết hợp với nhau thì nó sẽ đem lại cho bạn một phương pháp truyền giảng
cho người chưa được cứu và gây dựng đời sống thuộc linh của những người
mà bạn đang phục vụ một cách có hiệu quả.
Môn học này được chia làm ba đơn vị. Đơn vị thứ nhất giới thiệu với bạn
bản chất của chức vụ, các phẩm chất của chức vụ theo lời dạy của Kinh
Thánh và các định nghĩa về giảng đạo và dạy đạo. Bạn sẽ xem xét sự chuẩn
bị cá nhân cho chức vụ nhằm đáp ứng thật sự các nhu cầu của quần chúng.
Đồng thời bạn sẽ nghiên cứu những cách chuẩn bị kỹ thuật một cách thực tế,
trong sự giảng đạo và dạy đạo để bạn có thể phân phát đúng đắn Lời của Lẽ
thật.
Đơn vị thứ hai đề cập đến chức vụ đặc biệt của sự giảng đạo. Ở đây bạn sẽ
xem xét đến ý nghĩa rộng rãi hơn của sự giảng đạo, những lý do và những
thí vụ của sự giảng đạo. Bạn sẽ xem xét nội dung của sự giảng đạo - sứ điệp
bạn giảng - bạn sẽ học biết làm thế nào để thu thập và sắp đặt tài liệu bài
giảng đồng thời truyền thông điệp đó một cách hiệu quả nhất.
Đơn vị ba đề cập đến ý nghĩa của sự dạy đạo và lý do căn bản của sự dạy
đạo cũng như các thí dụ trong Kinh Thánh về sự dạy đạo. Bạn sẽ xem xét
đến sự dạy dỗ như một mạng lệnh, theo đó gợi ý tính chất chung của chức
vụ giáo sư, và những lời chỉ dẫn giúp bạn đem lại sự lớn lên và sự trưởng
thành về phương diện thuộc linh trong đời sống của những người mà bạn
phục vụ. Bạn sẽ học biết giá trị của những đối tượng được dạy dỗ, tầm quan
trọng của sự thu thập, sắp xếp và truyền thông các tài liệu bài học một cách
có hiệu quả. Bạn sẽ xem xét ý nghĩa của các mục tiêu được thành đạt. Cuối
cùng, bạn sẽ xem xét nhu cầu của sự quân bình giữa chức vụ giảng đạo và
dạy đạo của bạn.
Mong rằng những bài học này sẽ hướng dẫn, và gây hứng thú cho bạn phát
triển các kỹ thuật giảng và dạy để giúp bạn truyền đạt cách có hiệu quả ý
muốn tốt lành mà Chúa dành cho chức vụ bạn.
MÔ TẢ BÀI HỌC.
Giảng đạo và dạy đạo là môn học căn bản của hai phương pháp truyền thông
Lời của Đức Chúa Trời . Học viên được hướng dẫn để thấu triệt các phương
pháp thực tế để chuẩn bị và trình bày các bài học cũng như các bài giảng từ
Kinh Thánh.
CÁC MỤC TIÊU CỦA BÀI HỌC:
Khi kết thúc bài học này bạn phải có thể:
1. Phân tích và giải thích nhu cầu giảng đạo và dạy đạo của Cơ đốc nhân.
2. Thừa nhận các phẩm chất của những giảng sư và giáo sư có hiệu quả như
đã được mô tả trong Kinh Thánh.
3. Phát triển cách cá nhân những phẩm chất vốn là đặc tính của các giảng sư
và giáo sư có hiệu quả được ghi nhớ trong Kinh Thánh.
4. Bày tỏ sự hiểu biết và sự sử dụng các kỹ thuật cần thiết trong việc học
Kinh Thánh và sửa soạn các bài giảng cùng bài học.
5. Sửa soạn một bài giảng và một bài học từ Kinh Thánh, mỗi bài thích hợp
với một hoàn cảnh.
SÁCH GIÁO KHOA.
Bạn sẽ sử dụng quyển sách giáo khoa tự học này “ Giảng đạo và dạy đạo “
của W. Ernest Pettry làm sách học chính của khóa học này. Ngoài ra Kinh
Thánh là sách giáo khoa khác cần có. Hầu hết các câu Kinh Thánh trưng dẫn
đều rút ra từ bản Kinh Thánh: bản dịch Anh ngữ ngày nay (Today’s English
Version - TEV ). Trong một vài trường hợp chúng tôi trích dẫn từ bản King
James (KJV) hoặc bản Tân Quốc tế (New International Version - NIV) là
những bản dịch rõ hơn và sát nguyên bản Hy Bá Lai hay Hy Lạp hơn được
dùng để viết Kinh Thánh.
THỜI GIAN HỌC TẬP:
Thời gian thực sự bạn dùng để nghiên cứu mỗi bài học một phần tùy thuộc
vào sự hiểu biết của bạn về đề tài và khả năng học tập của bạn trước khi bạn
bắt đầu môn học. Thời gian học
cũng tùy thuộc vào mức độ bạn theo dõi phần hướng dẫn và kỹ năng phát
triển cần thiết trong vấn đề tự học. Hãy lập thời khóa biểu học tập của bạn để
bạn có đủ thì giờ đạt mục tiêu do tác giả loạt bài học đã đề ra cũng như
những mục tiêu cá nhân của bạn đã đề ra.
ĐỀ CƯƠNG BÀI HỌC VÀ CÁCH HỌC:
Mỗi bài gồm có (1) đề bài, (2) nhập đề, (3) dàn ý, (4) các mục tiêu của bài
học, (5) các hoạt động học tập, (6) những chữ căn bản, (7) triển khai bài học
bao gồm các câu hỏi nghiên cứu bài học, (8) bài tự trắc nghiệm, (9) các câu
trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu.
Dàn ý và mục tiêu bài học sẽ giúp bạn tổng lượt đề tài, tập trung sự chú ý
vào những điểm chính khi bạn học tập và cho bạn biết nội dung bạn sẽ học.
Hầu hết các câu hỏi nghiên cứu trong phần triển khai bài học có thể trả lời
trong những chỗ trống có chừa sẵn trong sách. Những câu trả lời dài hơn
phải được ghi vào tập. Khi bạn viết những câu trả lời trong tập, phải nhớ ghi
số của câu hỏi và đề tài của bài học. Việc này giúp bạn việc ôn bài để làm
bản tường trình học tập.
Đừng xem trước câu trả lời cho sẵn cho đến khi bạn đã tự trả lời. Nếu bạn tự
trả lời, bạn sẽ nhớ kỹ những gì bạn đã học sau khi đã trả lời những câu hỏi
nghiên cứu, hãy kiểm tra lại câu trả lời của mình với phần giải đáp được đưa
ra ở cuối bài học. Sau đó hãy sửa lại những câu bạn đã trả lời sai.
Những câu trả lời không theo thứ tự bình thường nên bạn không thấy trước
câu trả lời của câu hỏi tiếp theo.
Những câu hỏi nghiên cứu này vô cùng quan trọng. Chúng sẽ giúp bạn nhớ
lại những ý chính đã được trình bày trong bài học và áp dụng những nguyên
tắc bạn đã học được.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI:
Có nhiều loại câu hỏi nghiên cứu và những câu hỏi trắc nghiệm trong bài
học này. Dưới đây là vài loại câu hỏi và cách trả lời. Nếu có các loại câu hỏi
khác sẽ được chỉ dẫn cụ thể.
Câu hỏi LỰA CHỌN : Bạn chọn câu trả lời trong những câu đã được cho
sẵn.
Chẳng hạn:
Kinh Thánh gồm có:
100 sách.
66 sách.
27 sách.
Câu trả lời đúng là b) 66 sách. Trong phần bài làm của bạn hãy khoanh tròn
chữ b) giống như sau đây:
1. Kinh Thánh gồm:
a) 100 sách.
66 sách.
27 sách.
( Có vài câu hỏi lựa chọn có thể có nhiều hơn một câu trả lời đúng. Trong
trường hợp đó, bạn có thể khoanh tròn mẫu tự ở mỗi câu trả lời đúng).
Câu hỏi ĐÚNG- SAI : Bạn chọn một hoặc vài câu trả lời đúng .
Chẳng hạn:
Câu nào dưới đây là ĐÚNG ?
Kinh Thánh gồm 120 có sách.
Kinh Thánh là một sứ điệp cho các tín hữu ngày nay.
Tất cả các tác giả Kinh Thánh đều viết bằng tiếng Hêbơrơ.
Đức Thánh Linh đã hà hơi trên các người viết Kinh Thánh.
Các câu b) và d). Bạn có thể khoanh tròn cả hai mẫu tự để chứng tỏ sự lựa
chọn của bạn, như trong thí dụ.
Câu hỏi TƯƠNG HỢP : Yêu cầu bạn chọn những câu trả lời phù hợp với
câu hỏi. Chẳng hạn nhân vật với đặc tính nhân vật, hay các sách của Kinh
Thánh với trước giả của sách ấy.
Chẳng hạn:
Hãy viết số của tên người lãnh tụ ở phía trước câu mô tả việc họ đã làm.
….1…a. Nhận lãnh Luật pháp ở núi Sinai.
….2…b. Lãnh đạo dân Ysơraên đi ngang qua sông Giôđanh.
….2…c. Đã đi vòng quanh Giêricô.
….1…d. Đã sống trong cung điện của Pharaôn.
1) Môise
2) Giôsuê
Câu a. và d. chỉ về Môise còn câu b. và c. chỉ về Giôsuê. Bạn hãy viết 1
trước a. và d., còn viết 2 trước b. và c. như bạn đã thấy trong thí dụ.
PHƯƠNG PHÁP HỌC LOẠT BÀI NÀY:
Nếu bạn tự học loạt bài Hàm thụ Quốc Tế (ICI) này bạn hãy gởi phần bài
làm bằng thư đến Văn phòng chúng tôi. Mặc dù bài Hàm thụ này giúp bạn tự
học nhưng bạn vẫn có thể học trong một nhóm hay một lớp học; Nếu thế
người hướng dẫn có thể triển khai thêm những điều hiểu biết khác ngoài bài
học. Vì vậy, bạn hãy vâng theo lời chỉ dẫn của người hướng dẫn.
Có lẽ bạn thích sử dụng môn học này trong nhóm học Kinh Thánh tại gia, tại
lớp học ở Nhà thờ hoặc trong trường Kinh Thánh. Bạn sẽ thấy nội dung của
đề tài và các phương pháp học đều giúp ích rất nhiều cho mục đích này.
BẢN TƯỜNG TRÌNH HỌC TẬP
Nếu bạn đang tự học với Viện Hàm Thụ Quốc Tế, với một nhóm người hay
trong một lớp học, bạn đều phải làm bài báo cáo theo từng đơn vị học. Đây
là những câu bạn phải trả lời theo sự hướng dẫn trong bài học và trong các
báo cáo của học sinh. Bạn phải hoàn tất và gửi bản trả lời về cho người
hướng dẫn của bạn để sửa chữa và ghi nhận xét về bài làm của bạn.
CHỨNG CHỈ:
Sau khi hoàn tất loạt bài và phần tường trình học tập, nếu người hướng dẫn
học tập nhận xét bạn đạt thành tích tốt, bạn sẽ nhận được cấp chứng chỉ
(Certificate of Award)
TÁC GIẢ CỦA MÔN HỌC NÀY:
Ernest Pettry là một Mục sư ở miền Đông Nam Hoa Kỳ. Ông đã làm Mục sư
20 năm và từng làm giáo sư Trường Công lập trong 9 năm. Do kinh nghiệm
phong phú trong sự giảng và dạy, ông đã thành công khi làm diễn giả ở các
Trại thanh niên, Viện Dưỡng Lão của các Mục sư và người Hưu trí cũng như
trong các khóa Huấn Luyện Nhân Sự bên ngoài Hoa Kỳ.
Sau khi tốt nghiệp hạng ưu tại Viện Thần Học Miền Đông Nam ở Laklland,
Florida, ông Pettry tiếp tục học và tốt nghiệp cử nhân văn chương tại Đại
Học Nam Florida ở Lakland, Florida.
Ông đã thành lập gia đình với bà Idell Eades ở Birmingham, Alabama, ông
bà có bốn người con.
HƯỚNG NGƯỜI DẪN BẠN HỌC HÀM THỤ:
Người hướng dẫn bạn học chương trình Hàm Thụ Quốc Tế này sẽ rất vui
lòng giúp bạn. Nếu bạn có bất cứ thắc mắc nào về môn học hay bản tường
trình học tập, xin hãy cứ tự nhiên nêu câu hỏi. Nếu một số người muốn học
môn này với nhau. Xin hãy yêu cầu vị ấy sắp xếp thì giờ thuận tiện cho cả
nhóm.
Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho bạn khi bắt đầu nghiên cứu môn học
GIẢNG ĐẠO và DẠY ĐẠO . Mong rằng những bài học này sẽ làm phong
phú đời sống và sự hầu việc Chúa của bạn, đồng thời giúp bạn hoàn thành
cách hiệu quả vai trò của bạn trong thân thể Đấng Christ.

BẠN VÀ CHỨC VỤ .
BẠN HÃY TỰ CHUẨN BỊ CHÍNH MÌNH .
BẠN HÃY CHUẨN BỊ TÀI LIỆU .
Bạn và Chức Vụ
“Tôi vẫn còn cảm thấy xấu hổ và thất vọng. Tôi đã giảng hết sức mình,
nhưng không ai cảm động. Khi các tín đồ cầu nguyện, tôi đã quì gối xuống
trong một góc phòng và khóc lóc thảm thương: bài giảng… cách giảng
đạo… tất cả hoàn toàn thất bại… tệ hại hơn cả, không có ai lên tòa giảng xin
tiếp nhận sự cứu rỗi”. Phải chăng Đức Chúa Trời đã phạm sai lầm? Không,
chính tôi đã phạm sai lầm. Đó là lý do… Đức Chúa Trời đã không kêu gọi
tôi. Tôi không được Chúa kêu gọi… tôi sẽ không bao giờ giảng đạo nữa.
“Khi tôi đang cầu nguyện thổn thức, thì một bàn tay đã chạm đến vai tôi.
“Thầy ơi, xin Thầy giúp đỡ chúng tôi cầu nguyện cho những người đã lên
tòa giảng xin tin Chúa?” Tôi đã không tin nổi ở mắt mình! Có đến mười một
người xin tiếp nhận sự cứu rỗi! Có đến mười một người tin nhận Chúa!”
Tác giả những dòng chữ này đã trở thành một Mục sư thành công và một
giảng sư xuất sắc, nhưng ông đã viết những dòng này khi ông mới bắt đầu
giảng dạy. Kinh nghiệm của ông chứng tỏ rằng một người yêu mến linh hồn
người ta có thể rao giảng Tin Lành và chinh phục họ về cho Đấng Christ.
Bạn là một người trong một đoàn người to lớn của các tín hữu đã đáp lời kêu
gọi của Chúa. Giảng đạo và dạy đạo là những phương pháp bạn có thể dùng
để cứu vớt những người hư mất và giúp đỡ các tín hữu trở thành những Cơ
đốc nhân mạnh mẽ. Môn học này sẽ giúp bạn đạt những kỹ năng cần thiết để
chuẩn bị và trình bày các bài học cùng các bài giảng một cách thành công và
tự tin.
Bài học này sẽ giúp bạn biết hạng người mà Chúa muốn bạn trở thành và
loại công việc mà Ngài muốn bạn làm.
Bố Cục bài Học :
Khái niệm về chức vụ.
Các phẩm chất của chức vụ.
Hai chức vụ đặc biệt.
Mục tiêu Của bài Học :
Khi học xong bài học này bạn sẽ có khả năng:
Mô tả các phẩm chất của người hầu việc Chúa thời Tân ước.
Thảo luận về chức vụ của người hầu việc Chúa thời Tân ước.
Trau dồi đời sống của bạn về phẩm chất mà Tân ước đòi hỏi ở một người
hầu việc Chúa.
Các sinh Hoạt Học Tập
Đọc cẩn thận phần đầu trong sách tự học này bạn sẽ biết cách sử dụng sách
giáo khoa này cùng cách trả lời cho mỗi câu hỏi.
Hãy nghiên cứu bố cục và các mục tiêu của bài học. Việc này sẽ giúp bạn
xác định rõ những điều bạn phải đạt được khi nghiên cứu bài học này.
Hãy đối chiếu phần chú giải thuật ngữ ở cuối sách để xem các định nghĩa
của những chữ căn bản mà bạn chưa hiểu.
4. Hãy đọc bài học và làm bài tập trong phần triển khai bài học.
Hầu hết những câu trả lời của bạn đều nằm trong phần hướng dẫn học tập
này. Tuy nhiên có một số câu hỏi buộc phải trả lời dài, thì bạn nên viết vào
sổ tay. Kiểm tra phần trả lời của mình với phần giải đáp ở cuối bài học.
5. Cuối mỗi bài bạn hãy làm bài trắc nghiệm cá nhân và hãy kiểm tra cẩn
thận những câu trả lời của bạn so với những phần mà bạn trả lời không
đúng.
những chữ căn bản :
Tìm hiểu những chữ căn bản chúng tôi đã liệt kê ở phần đầu của mỗi bài học
sẽ giúp bạn trong quá trình học tập. Bạn sẽ tìm thấy những chữ này được
định nghĩa theo thứ tự ABC trong phần giải nghĩa thuật ngữ ở cuối sách.
Nếu bạn không hiểu nghĩa của bất cứ chữ nào trong sách thì hãy xem xét lại
những chữ này khi bạn gặp phải trong khi đọc bài.
khai triển bài học : khái niệm về chức vụ : Mục tiêu 1: Chọn những câu có
khái niệm về chức vụ đã đươc trình bày trong các thư tín Giám mục . KIỂU
MẪU THUỘC VỀ KINH THÁNH: Chức vụ là gì? Làm thế nào tôi biết
cách phục vụ có hiệu quả hơn? Tôi phải làm gì? Tôi phải trở thành một
người như thế nào? Tôi phải giảng như thế nào? Tôi phải dạy như thế nào?
Đây là những câu hỏi có thể có trong tâm trí của Timôthê khi ông mới bước
vào chức vụ. Ông Tít, một người hầu việc của Chúa thời Tân ước, cũng đã
từng đối diện với những câu hỏi tương tự. Việc bạn quan tâm đến môn học
này liên hệ đến các chức vụ trong Hội Thánh hoặc là trong các chức vụ bạn
muốn phục vụ sau này. Có lẽ bạn cũng có những câu hỏi như thế. Nếu vậy
Kinh Thánh có thể giúp bạn. Hãy học các thư tín Giám mục (I Timôthê, II
Timôthê và Tít) là những Thư tín do Sứ đồ Phaolô viết ra. Đây là những chỉ
dẫn đặc biệt dành cho những người có liên hệ đến công tác hầu việc Chúa.
Bạn phải đọc kỹ những thư tín này vì bạn sẽ phải trưng dẫn khi bạn hầu việc
Chúa và có lẽ bạn sẽ dự phần trong chức vụ giảng đạo và dạy đạo. Những
thư tín này không phải bao gồm hết tất cả những điều Tân ước dạy về chức
vụ, nhưng đây là những sự dạy dỗ căn bản.
1. Hãy liệt kê sau đây ba thư tín Giám mục.

2. Hãy đọc qua các thư tín Giám mục và nắm vững quan điểm tổng quát về
những lời chỉ dạy dành cho những người liên quan đến chức vụ. Hãy ghi dấu
kiểm tra đã đọc trước các câu Kinh Thánh để tỏ ra bạn đã hoàn thành công
tác được giao…
3. Hãy khoanh tròn mẫu tự đầu các câu mà bạn tin là đúng.
Các thư tín Giám mục được viết do 1 sứ đồ kỳ cựu gởi cho hai thanh niên đã
dâng mình phục vụ Hội Thánh. Những thư tín này đã đem lại những lời chỉ
dẫn hữu ích cho những người đang thiết tha với những chức vụ của Hội
Thánh.
Các thư tín Giám mục khi đưa ra những phẩm chất của các chức vụ Cơ đốc
và mô tả thái độ của những người hầu việc Chúa, nhằm mục đích làm nản
lòng những tín đồ muốn dự phần trong chức vụ.
Những lời chỉ dẫn của sứ đồ Phaolô trong thư tín Giám mục không bao gồm
mọi khía cạnh của các phẩm chất người hầu việc Chúa, nhưng bao gồm
những điểm chính theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh về sự lãnh đạo Cơ đốc.
Phaolô đã xem chức vụ như là một đặc ân. Ông ân hận những ngày tháng xa
xưa khi ông bắt bớ Hội Thánh và chống nghịch Chúa Giê Xu (ITi1Tm 1:12-
14). Khi ông liệt kê những thành đạt của mình ông kể như rơm rác phải ném
bỏ đi. Đối với ông mọi sự điều là sự lỗ ngoại trừ sự nhận biết Đấng Christ
(Phi Pl 3:8-11). Ngay cả những sự đau khổ và những sự bách hại ông chịu vì
cớ Tin Lành đều được ông xem như là một vinh dự vì được chia sẻ sự
thương khó với Đấng Christ. Ông đã xem sự yếu đuối về thể xác của ông
như là một cơ hội để Đấng Christ bày tỏ quyền phép của Ngài. Những lời
nói của ông là, “Tôi hài lòng những sự yếu đuối, những sự sỉ nhục, những
gian lao những sự bách hại và những khó khăn vì cớ Đấng Christ. Vì khi tôi
yếu đuối, đó là lúc tôi mạnh mẽ” (IICo 2Cr 12:10).
Trong các thư tín Giám mục, Phaolô đã viết về sự lãnh đạo Hội Thánh cho
những người trong đức tin của ông. Trong phần kế tiếp chúng ta sẽ thấy ông
nói với Timôthê và Tít về tư cách người phục vụ Tin Lành và loại công việc
mà ông được kêu gọi để làm.
4. Hãy khoanh tròn mẫu tự chỉ câu mô tả quan niệm của Phaolô về chức vụ
đã được trình bày trong các thư tín Giám mục. Ông đã coi chức vụ như là:
Một công việc phải làm giống như mọi công việc khác.
Một sự tín nhiệm ủy thác thiêng liêng
Một đặc ân
Một cơ hội để kiếm địa vị và để được kính trọng.
Một sự chia sẻ sự thương khó của Đấng Christ với nhiều gian khổ.
Một công việc để hưởng lương cao.
CÁC CHỨC VỤ CHUNG VÀ CÁC CHỨC VỤ ĐẶC BIỆT:
CHỨC VỤ CHUNG:
Mục tiêu 2: Nhận diện về quan niệm của chức vụ chung như Hội Thánh đầu
tiên mô tả .
Chức vụ là gì? Chúng ta đã hỏi câu hỏi này trong phần đầu của bài học.
Chúng ta hãy để Kinh Thánh trả lời. Trong cơ cấu của Hội Thánh, có nhiều
người được kêu gọi nhưng không phải tất cả được kêu gọi để giảng và dạy.
Điều này được thấy trong ITi1Tm 3:8-13. Những người giúp việc này (đôi
khi chỉ về các chấp sự) không phục vụ những người được mô tả ở câu 1 đến
câu 7, những danh sách khác về những người hầu việc Chúa còn được thấy ở
sách ICo1Cr 12:28 và RoRm 12:4-8. Bạn thấy rằng mọi thành viên của thân
thể Đấng Christ đều có một chỗ đứng nào đó để phục vụ. Tất cả những sự
phục vụ này đều quan trọng mặc dù có một vài vị trí nổi bật hơn. Mỗi chức
vụ là một công tác khác nhau để cho thân thể Hội Thánh được trưởng thành.
Phaolô giải thích điều này trong Eph Ep 4:12, “Ngài đã lập các sứ đồ, các
tiên tri, các thầy giảng Tin Lành, các và các giáo sư để chuẩn bị mọi công
dân của Đức Chúa Trời tham gia vào công tác phục vụ nhằm mục đích xây
dựng thân thể của Đấng Christ”. Sách Công vụ các sứ đồ cũng cho ta nhiều
thí dụ.
Khi Hội Thánh đầu tiên đối diện với vấn đề khó khăn trong việc phân phối
thực phẩm cho những góa phụ, các sứ đồ đã lựa chọn bảy người và giao cho
họ công tác này do đó các sứ đồ có thể dâng mình hoàn toàn vào chức vụ
giảng đạo và cầu nguyện (Cong Cv 6:1-4) Bà Đôca bằng cách may áo ngắn,
áo dài cho họ (9:36-41). Tên Giô sép đã đổi thành tên Banaba vì cớ ông đã
thành người yên ủi người khác (4:36). Ông này đã kết hợp với Phaolô và
tiến cử Phaolô cho các sứ đồ và Hội Thánh tại Giêrusalem (9:26-27).
Về sau ông đã đi tìm Phaolô tại Tạtsơ và đưa Phaolô về Antiốt để phục vụ
cho Hội Thánh đó (11:56-26). Banaba cũng phục vụ như là Giáo sư và Tiên
tri (13:1) và sau đó Hội Thánh đã sai ông cùng với Phaolô để làm công tác
truyền giáo (13:2). Các Cơ đốc nhân thời Tân ước đã tìm thấy nhiều cách để
hầu việc Chúa. Cũng có những người được kêu gọi nhiều chức vụ đặc biệt.
5. Khoanh tròn mẫu tự đầu tiên tả đúng quan niệm về chức vụ chung như
Hội Thánh đầu tiên đã đề cập về tài liệu này.
Chức vụ đã được coi như địa vị lãnh đạo quan trọng có uy thế và giá trị mà
một người có được do địa vị của người đó trong Hội Thánh.
Chữ chức vụ nói về một nhóm nhỏ những cá nhân hướng dẫn đời sống thuộc
linh của Hội Thánh thông qua các hoạt động giảng và dạy của họ.
Chức vụ đã được hiểu như là sự phục vụ Chúa vì cớ thân thể của Ngài trên
mặt đất này.
CHỨC VỤ ĐẶC BIỆT:
Mục tiêu 3: Chọn một câu đề cập đến mục đích của các chức vụ đặc biệt
trong thân thể của Đấng Christ .
Giữa nhiều chức vụ khác nhau của Hội Thánh Chúa đã đạt một số người vào
một chức vụ đặc biệt. Phaolô dùng thân thể con người để minh họa chức vụ
này.
Đấng Christ là đầu của thân thể Ngài tức là Hội Thánh (Eph Ep 1:22-23).
Mỗi tín đồ là một chi thể của thân Ngài. Có một công dụng khác nhau
(ICo1Cr 12:4-6). Mặc dầu tất cả các tín đồ đều được kêu gọi vào chức vụ
một cách tổng quát, nhưng có một số người được ban cho một chức vụ đặc
biệt trong Hội Thánh: (Ấy chính Ngài đã cho người này làm sứ đồ kẻ kia
làm tên tri, người khác làm thầy giảng Tin Lành, kẻ nữa làm và giáo sư (Eph
Ep 4:11). Sự giảng đạo và dạy đạo là hai chức vụ đặc biệt được ban cho Hội
Thánh để cho con dân của Chúa phương cách hầu việc Chúa cũng như đưa
cả Hội Thánh đến sự hiệp nhất và trưởng thành (4:12-13). Đây là những
chức vụ đặc biệt được đề cập trong môn học này.
6. Khoanh tròn mẫu tự của câu đề cập đến mục đích các chức vụ đặc biệt
trong Hội Thánh để:
Đề bạt người có tài năng nhất lên địa vị lãnh đạo.
Phát triển một hệ thống hành chánh để Hội Thánh có thể hoạt động cách hữu
hiệu theo phương cách của ngành thương mại.
Phát triển sự trưởng thành thuộc linh và sự hiệp một của thân thể cùng sự đi
ra làm chứng đạo.
Nững phẩm chất của chức vụ:
Các phẩm chất theo Kinh Thánh dạy:
Mục tiêu 4: Phân biệt các phẩm chất được Kinh Thánh dạy rõ và những điều
Kinh Thánh không dành cho những người ở trong các chức vụ .
Khi chúng ta xem xét các vấn đề trước mắt, hãy đọc Kinh Thánh trong tinh
thần cầu nguyện. Hãy tự hỏi. Kinh Thánh dạy tôi điều gì ? Đức Thánh Linh
sẽ giúp bạn hiểu ý nghĩa và áp dụng Kinh Thánh như thế nào.
Một số những phẩm chất của người lãnh đạo thời Tân ước được nêu ra trong
ITi1Tm 3:1-7. Những câu này mô tả phẩm chất người giữ chức vụ trong Hội
Thánh. Hãy đọc cẩn thận khúc Kinh Thánh này trước khi tiếp tục. Hãy lưu ý
rằng Phaolô bắt đầu khen ngợi những người muốn bước vào chức vụ hầu
việc Chúa. Ước vọng muốn bước vào chức vụ là một bằng chứng về sự kêu
gọi của Chúa dành cho đời sống bạn. Nhưng ước muốn và ngay cả sự kêu
gọi cũng chưa đủ. Đức Chúa Trời đưa ra những đòi hỏi căn bản mà bạn phải
đáp ứng. Trước hết bạn phải là người Đức Chúa Trời muốn bạn trở thành rồi
bạn mới có thể làm được điều Đức Chúa Trời muốn bạn phải làm.
Ở đây bạn cần phải dò xét tấm lòng của bạn. Mỗi một người muốn hầu việc
Chúa phải tự hỏi tại sao mình muốn hầu việc Chúa. Tại sao bạn muốn dạy
dỗ? giảng đạo? phục vụ? Chỉ có một mình bạn mới có thể trả lời những câu
hỏi này đúng với lương tâm bạn và với Đức Chúa Trời.
7. Hãy đọc lại 3:1 cẩn thận rồi lưu ý điều kiện người hầu việc Chúa phải có,
rồi khoanh tròn câu trả lời nói về các phẩm chất của chức vụ theo Kinh
Thánh đã dạy.
George là một tân tín hữu có nhiều tài năng thiên nhiên. Anh tự thấy mình là
“một người quan trọng”. Đối với anh dường như chức vụ được mọi người
nhận biết quan trọng hơn hầu việc âm thầm, vì thế anh đã quyết định tham
gia vào chức vụ.
Alfred đã là Cơ đốc nhân được 3 năm rồi. Anh trung tín trong sự nhóm lại
với Hội Thánh, thường xuyên đọc Kinh Thánh và hay làm chứng đạo cho
người chưa biết Chúa. Anh cảm biết rằng Chúa muốn anh tham gia tích cực
hơn trong chức vụ của Hội Thánh. Anh đang học Kinh Thánh cách nghiêm
túc và cầu xin Chúa mở cửa ban cơ hội cho anh. Anh đã thưa với các nhà
lãnh đạo của Hội Thánh rằng anh sẵn sàng phục vụ bất cứ khi nào và bất cứ
ở đâu anh được yêu cầu.
Phaolô bắt đầu liệt kê các phẩm chất của người hầu việc Chúa bằng cách nói
rằng họ phải không chỗ tránh được. Điều này không có nghĩa rằng họ phải là
người trọn vẹn mà họ phải là người có tiếng tốt, họ không bị tố cáo là vô
luân hoặc theo tà giáo. Một người hầu việc Chúa phải là người chân thật,
thánh sạch và ngay thẳng. Đây là nhân cách tốt đẹp của người Cơ đốc. Sự
đòi hỏi này đã được nhắc lại hai lần trong Tit Tt 1:6-7.
Trong thư thứ nhất gởi cho Timôthê, Phaolô đã đưa ra những mẫu mực gia
đình của người hầu việc Chúa trong Hội Thánh. Để đạt được yêu cầu này,
người ấy phải là chồng của một vợ và biết cai trị gia đình mình cách tốt đẹp.
Người hầu việc Chúa phải luôn luôn làm gương mẫu cho nếp sống đạo đức
Cơ đốc trong một gia đình mình. Ông phải biết cai trị gia đình riêng bằng sự
ngay thẳng và tình yêu thương đến nỗi các người trong gia đình đều kính
trọng ông khiến họ tôn trọng quyền lãnh đạo của ông. Vị sứ đồ tỏ ra tương
đồng giữa đời sống gia đình và Hội Thánh. Nếu một người không thể quản
trị gia đình mình thì ông ta cũng không thể chăm lo cho Hội Thánh được.
Chúa Jêsus đã dạy nguyên tắc này trong câu: “Ngươi đã trung tín trong việc
nhỏ, ta sẽ lập ngươi chăm sóc nhiều” (Mat Mt 25:21).
Một người hầu việc Chúa phải là người bén nhạy tự chế, tiết độ và có trật tự.
Đây là những đặc tính của một người lịch sự, trang nghiêm. Không nên có
lời nói hay thái độ sỗ sàng, lỗ mãng, mất lịch sự. Tất cả cách cư xử và bề
ngoài của ông phải tiêu biểu tốt cho Tin Lành mà ông rao giảng.
8. Khoanh tròn mỗi câu đúng sau đây, người lãnh đạo Cơ đốc phải:
Là một gương mẫu và trọn lành
Có được tiếng tốt giữa các tín đồ lẫn người chưa tin Chúa.
Phải làm gương chân thật và thánh khiết cũng như biết cai trị nhà riêng
mình.
Phải lịch sự với mọi người đồng thời trong cách ăn mặc cũng như trong cử
chỉ phải là một người tiêu biểu vẻ đẹp của Tin Lành.
Đối với chính chức vụ, Phaolô đã đề cập ba điều trong bức thư gởi cho
Timôthê. Trước hết, người hầu việc Chúa phải ân cần tiếp khách, vì trong
thời Timôthê những người đi hầu việc Chúa cần nơi ở trong chuyến lưu hành
của họ. Điều này cũng tăng cường, ý nghĩa của phong tục hiếu khách rất phổ
biến giữa vòng những người Đông Phương. Đón tiếp một người nào đó vào
nhà mình để họ nghỉ ngơi qua đêm và dùng bữa đều là những dấu hiệu của
sự hiếu khách.
Thứ hai, Phaolô nói rằng người hầu việc Chúa phải có tài dạy dỗ. Vì trách
nhiệm chính của người hầu việc Chúa là dạy Kinh Thánh cho những người
khác. Nên phải là một người dạy có tài năng. Một người tự thấy mình không
có khả năng dạy dỗ phải cố gắng học tập để trở thành người thầy giáo giỏi.
Cuối cùng, Phaolô không khuyến khích người mới tin Chúa bước vào chức
vụ. Một người mới tin Chúa giống như một hạt giống mới nẩy mầm. Người
đó cần có thời gian để lớn, để phát triển và để mang quả. Cần có thời gian để
trau giồi các phẩm chất lãnh đạo mà chức vụ đòi hỏi, vì quá trình làm tín đồ
giúp họ lớn lên và trở thành một người hầu việc Chúa có hiệu quả và tài
năng. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là (một người mới tin Chúa không
thể có) một vị trí có ý nghĩa trong chức vụ chung hoặc sự phục vụ như đã
mô tả ở phần trước.
9. Những phẩm chất nào sau đây do Kinh Thánh dạy cho những người có
chức vụ trong Hội Thánh? Những người hầu việc Chúa.
Phải hiếu khách
Phải phát triển khả năng dạy dỗ
Phải có ý chí mạnh mẽ
Cần một nền học vấn cao cấp
Phải trưởng thành phần thuộc linh
Phải thực thi sự kiểm soát đầy uy quyền.
Những người phục vụ Chúa được cảnh cáo về nguy cơ yêu mến tiền bạc.
Không ai bị khinh bỉ cho bằng người bước vào chức vụ chỉ vì lợi lộc vật chất
cá nhân. Đức Chúa Trời đã đáp ứng các nhu cầu của bạn, bạn phải trông cậy
Ngài tiếp trợ cho bạn. Sự rủa sả và sự định tội sẽ đến thật nhanh chóng cho
ai hầu việc Chúa vì tham lam tiền bạc, tài sản.
Người hầu việc Chúa phải kiên nhẫn, không nghiền rượu, không phải là
những kẻ ưa đình công, những người hay cãi nhau. Thay vì say sưa, tàn bạo
và tranh giành, họ phải nổi tiếng là người tử tế, nhân hậu và hiền hòa.
Điều rất quan trọng là người hầu việc Chúa phải được những người ngoài
Hội Thánh kính trọng, người đi dạy dỗ người khác thì chính mình phải là
người xứng đáng. Nếu có sự thiếu thành thật, bất trung hoặc không trung
định trong đời sống của người lãnh đạo, thì ông đánh mất ảnh hưởng trên
những người mà ông đang cố gắng dẫn dắt họ đến cùng Chúa. Dù cho chúng
ta có sùng đạo, kỉnh kiền, đúng đắn hay thành thật trong sự rao giảng và cầu
nguyện đến bao nhiêu, nếu đời sống chúng ta làm gương xấu thì mọi nỗ lực
của chúng ta đều vô ích.
10. Hãy chọn câu trả lời đúng nhất trong các câu sau. Sự tử tế, nhân hậu và
kiên nhẫn của người hầu việc Chúa phải là bằng chứng cho.
Những người nhóm lại trong Hội Thánh
Những người trong cộng đồng không phải là Cơ đốc nhân
Mọi người: Anh em Cơ đốc nhân, những người chưa tin Chúa và các thành
viên trong gia đình.
Những đòi hỏi của Đức Chúa Trời từ trong Kinh Thánh dành cho những
người hầu việc Chúa dường như là nghiêm khắc và nặng nề quá? Tuy nhiên,
cũng do yêu cầu đó mà một người được kêu gọi vào thánh chức được mọi
người dành cho sự tôn kính xứng đáng. Một người hầu việc Chúa phải luôn
luôn ý thức rằng ông đang lãnh đạo những người khác bằng những gì ông có
chứ không phải những gì ông nói. Trách nhiệm càng lớn thì vinh dự càng
cao. Chúa Jêsus phán: “Vì ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều”
(LuLc 12:48).
11. Một bản liệt kê phẩm chất khác của người hầu việc Chúa đã được ra
trong Tit Tt 1:6-9. Hãy đọc và so sánh với phẩm chất ở ITi1Tm 3:1-7. Rồi
làm bài tập sau đây.
Hãy liệt kê năm phẩm chất có trong cả hai khúc Kinh Thánh trên.

Có hai phẩm chất tương tự nhau trong cả hai sách. Đó là những phẩm chất
gì?

Một lời khích lệ cổ vũ trong Tít liên quan đặc biệt đến chức vụ và không
được liệt kê trong danh sách ở Timôthê.

Trong thư Tít có nói gì về các con của người lãnh đạo Hội Thánh mà thư
Timôthê đã không nói đến?

Hãy liệt kê những phẩm chất còn lại trong thư Tít mà không được liệt kê
trong danh sách Timôthê.

12. Để làm sáng tỏ những phẩm chất theo Kinh Thánh dạy cho những người
hầu việc Chúa. Bạn hãy ghi số 1 ở trước mỗi câu trên cách đặc biệt trong
Kinh Thánh và số 2 ở trước những câu KHÔNG có trong Kinh Thánh.
Không chỗ trách được (không có lỗi)
Chỉ có một vợ
Phải được sự chấp thuận của Tổng Giáo Hội của Hội Thánh.
Phải hiếu khách
Hoàn tất chương trình huấn luyện theo như cấp lãnh đạo Hội Thánh đòi hỏi.
Phải tự chế, mềm mại, yêu hòa bình.
Phải có khả năng cai trị nhà riêng mình, thực hành sự lãnh đạo thuộc linh
xứng đáng trong gia đình.
NHỮNG PHẨM CHẤT CHUNG:
Nghiên cứu:
Mục tiêu 5: Tầm quan trọng của việc nghiên cứu Kinh Thánh của những
người hầu việc Chúa .
Mục tiêu 6: Nhận diện ra sự mô tả về chức vụ của Đức Thánh Linh trong
tiến trình nghiên cứu Kinh Thánh .
Mỗi người có trách nhiệm hầu việc Chúa phải là người học trò của Kinh
Thánh. Nếu bạn giảng đạo hay dạy đạo phải rất quen thuộc, thông thạo với
quyển Kinh Thánh mà bạn đang sử dụng. Bất cứ ai được kêu gọi phục vụ
Lời Chúa cũng được kêu gọi để nghiên cứu Lời Chúa, vì chức vụ này đòi hỏi
công việc kia. Nếu bạn dạy người ta đọc thì trước hết bạn phải biết đọc. Bạn
nghĩ gì nếu một giáo sư âm nhạc mà không biết gì về nhạc lý không? Bạn có
nghĩ như vậy nếu một giáo sư Kinh Thánh mà không biết gì về Kinh Thánh
không? Nghiên cứu, học tập là cái giá bạn phải trả để đạt nếu bạn muốn làm
người truyền đạo có hiệu quả và làm thầy dạy Lời Chúa thành công. Chúng
ta hãy xem xét một số gợi ý về nghiên cứu. Bạn cần phát huy thói quen
nghiên cứu hằng ngày và trung tín dữ thói quen đó. Phải hết sức tránh xa
những gì ngăn trở hoặc những gì làm xao lãng nghiên cứu học hỏi. Hãy giữ
cuốn Kinh Thánh và cuốn sổ tay bên cạnh. Bất cứ điều gì bạn đọc được hãy
sẵn sàng dùng đến khi bạn cần.
Cũng như bạn cần có thì giờ đều đặn để học tập, thì bạn cũng cần một nợi để
học tập đều đặn. Dù nơi bạn học được dùng làm gì vào thì giờ khác nhau
nhưng khi đến giờ Kinh Thánh bạn cứ dùng nơi đó để học. Như vậy bạn
đánh giá đúng đắn về tầm quan trọng của công việc hầu việc Chúa của bạn.
13. Hãy đọc IPhi 1Pr 3:15 và so sánh với IITi 2Tm 2:15. Theo những câu
Kinh Thánh này, giải thích tầm quan trọng của việc học Kinh Thánh đối với
các Cơ đốc nhân nói chung và đặc biệt là cho những người hầu việc Chúa.
Hãy sử dụng cuốn sổ tay của bạn để trả lời câu hỏi này.
14. Hãy đọc những câu sau đây vốn giải thích tầm quan trọng của việc dành
một thì giờ đặc biệt và một chỗ đặc biệt để học Kinh Thánh.
Hãy suy nghĩ đến hoàn cảnh của bạn và kiểm soát xem nơi nào thích hợp
cho việc học dù nơi đó bạn đã hài lòng (H) hay cần cải thiện thêm (C)
….. …. Tạo được một thái độ thích đáng cho việc học.
….. …. Làm cho tôi dễ đi vào kỷ luật học tập.
….. …. Tất cả các tài liệu tôi cần đến có sẵn để giúp tôi trong việc học
…. …. Tạo cho tôi sự riêng tư cần thiết để tôi tập trung vào việc học.
…. …. Hãy để người khác biết rằng tôi đang bận vào giờ đó.
…. …. Hãy để người khác biết rằng tôi đang dùng chỗ ấy vào giờ đó.
…. …. Giúp tôi lập kế hoạch các hoạt động của tôi quanh việc học Kinh
Thánh của tôi.
…. …. Có đủ ánh sáng và bàn ghế cho việc học tập có hiệu quả.
Hãy viết vào trong sổ tay của bạn về điều bạn có thể làm để cải thiện chỗ
học tập của bạn và làm thế nào bạn có thể sắp xếp thì giờ hầu cho bạn có
được một thì giờ đều đặn và đặc biệt cho việc học tập
Hãy nhớ rằng việc học Kinh Thánh khác với các sách thông thường. Mục
tiêu chính của bạn là biết Kinh Thánh nói gì và hiểu Kinh Thánh có nghĩa gì.
Nguồn giúp đỡ chính yếu của bạn là Đức Thánh Linh. Chúa Jêsus đã phán :
“Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” (GiGa
16:13).
Kinh Thánh là sự khải thị thiên thượng. Vì lý do đó chúng ta phải tùy thuộc
vào chức vụ dạy dỗ của Đức Thánh Linh để đưa dẫn chúng ta vào mọi lẽ
thật. Có hai lý do tại sao chúng ta phải được Đức Thánh Linh dạy dỗ. Trước
hết, chỉ có Đức Thánh Linh mới biết được mọi sự thuộc về Đức Chúa Trời.
Thứ hai, chỉ có Đức Thánh Linh mới có thể bày tỏ những sự thuộc về Đức
Chúa Trời.
15. Đọc ICo1Cr 2:9-15 và giải thích tại sao chúng ta rất cần được Đức
Thánh Linh dạy dỗ trong hai lãnh vực này. Hãy viết câu trả lời của bạn trong
sổ tay.
Làm thế nào Đức Thánh Linh biết các mục đích của Đức Chúa Trời
Làm thế nào để chân lý của lời Chúa được soi sáng cho chúng ta?
Có nhiều phương tiện hỗ trợ chúng ta đọc Kinh Thánh nhưng quan trọng
hơn hết là chúng ta phải nhận được sự giúp đỡ đặc biệt từ Đức Thánh Linh
bên trong. Hãy mở sách Mat Mt 16:13-17 và đọc biết thể nào Phierơ để hiểu
biết Chúa Jêsus chính là Đấng Christ bạn sẽ để ý rằng chân lý này đã được
đến với ông do sự khải thị của Đức Chúa Cha chứ không phải do sự hiểu
biết hay kinh nghiệm của loài người.
16. Chức vụ của Đức Thánh Linh trong sinh hoạt nghiên cứu Kinh Thánh có
thể được miêu tả tốt nhất như là.
Sự hướng dẫn cung cấp cho mọi người bên ngoài Kinh Thánh.
Ban sự nhận thức vào trong Lời Chúa và bày tỏ làm thế nào Lời đó áp dụng
vào đời sống và chức vụ của một người.
Cung cấp sự linh cảm mà một người thỉnh thoảng cần đến khi nghiên cứu
Lời Chúa.
Yêu thương
Mục tiêu 7: Hãy giải thích tại sao tình yêu thương phải là động cơ tiềm ẩn
của chức vụ hầu việc việc Chúa .
Tình yêu thương của Đấng Christ phải là sức mạnh tể trị trong đời sống mọi
người hầu việc Chúa. Phaolô đã nói: “Vì yêu thương của Đấng Christ cảm
chúng tôi, và chúng tôi tưởng rằng nếu có một người chết vì mọi người, thì
mọi người chết, lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống
không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại
cho mình”. (IICo 2Cr 5:14-15)
Không có động cơ nào thúc đẩy chức vụ tiến mạnh và thành công nếu không
có tình yêu của Đấng Christ. Một luật sư hay một bác sĩ hoặc một thương
gia có thể phục vụ người ta vì những động cơ nhỏ bé hơn nhưng mọi người
hầu việc Chúa phải được tình yêu của Đấng Christ thúc đẩy, cảm động. Một
lần kia, một trẻ đã nói: “Tôi thích giảng đạo!” Một Mục già đã trả lời: “Vâng
nhưng ông yêu thích người ta không? “ “Vì sự yêu thương của Đức Chúa
Trời rải khắp trong lòng của chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho
chúng ta.” (RoRm 5:5) giống như Phaolô, bạn cũng có thể được tình yêu
thương của Chúa chiếm hữu.
17. Hãy đọc ICo1Cr 13:1-13. Hãy đặc biệt lưu ý các câu 1 và 2 và giải thích
bằng ngôn ngữ của bạn tại sao tình yêu thương phải là động cơ tiềm ẩn của
người hầu việc Chúa.

Thái độ:
Mục tiêu 8: Hãy nhận diện những phẩm chất quen thuộc với một người chăn
bầy tốt và một tốt. Căn cứ trên bốn khúc Kinh Thánh nói về người chăn
chiên .
Hãy mở ra IPhi 1Pr 5:1-7 và đọc những lời chỉ dẫn của Phierơ về thái độ
đúng đắn một người phải có đối với chức vụ. Ông so sánh vai trò của người
hầu việc Chúa với một người chăn bầy. Ông đã nghe đến hình ảnh mà Chúa
Jêsus đã dùng sau khi Ngài Phục sinh (GiGa 21:15-19). Chỉ một vài ngày
trước đó, Phierơ đã chối mình không phải là môn đệ của Chúa Jêsus. Để đưa
ông trở lại mối thông công của Ngài. Chúa Jêsus đã hỏi ông ba lần về việc
xác nhận tình yêu thương và ý nghĩa của mỗi lần Ngài hỏi Phierơ và giao
trách nhiệm chăn chiên của Ngài. Trách nhiệm đó bao gồm cả việc nuôi
chiên và chăm sóc tất cả mọi nhu cầu của cả những chiên con và chiên đã
lớn. Đây là một hình thức rất đẹp về sự chăm sóc của Ngài chăn chiên tốt
đối với bầy chiên.
18. Hãy đọc HeDt 5:11; 6:3; IPhi 1Pr 2:2; ICo1Cr 3:1-3 và trả lời những câu
hỏi sau đây: Hãy khoanh tròn chữ đầu của mỗi câu ĐÚNG.
Chiên con cần khẩn phần sữa thường ngày để giúp cho đời sống thuộc linh
của chúng được lớn lên trong những kinh nghiệm đầu tiên của sự cứu rỗi.
Sữa không dành cho con chiên đã lớn chúng cần đồ ăn cứng để giúp chúng
tạo ra sự trưởng thành thuộc linh.
Người chăn bầy chiên phải rất nhạy bén với những nhu cầu của những em bé
thuộc linh lẫn những người đã trưởng thành để chuẩn bị chức vụ mình trên
cơ sở này cũng như theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh.
Những con trẻ thuộc linh thường bơ vơ, không tự lực được và hay xa lánh
người chăn. Cần giúp đỡ cho họ vượt qua khỏi tình trạng con trẻ thuộc linh
là trách nhiệm chính của người hầu việc Chúa.
19. Căn cứ trên bản liệt kê về phẩm chất của trang bên cạnh rồi trả lời những
câu hỏi sau đây trong sổ tay của bạn.
CÁC PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI CHĂN BẦY THUỘC LINH
Thi Tv 23:1-6
Người chăn chiên cung cấp:
Mọi sự con chiên cần: Thức ăn, nước uống, nghỉ ngơi để chúng lớn lên và
phát triển
Hướng dẫn: Người chăn dẫn chiên vào những con đường ông lựa chọn.
Bảo vệ và sửa dạy: Cây trượng và cây gậy của người chăn lo việc bảo vệ cho
nên con chiên không hề sợ hãi.
Đáp ứng mọi nhu cầu -ngay cả khi kẻ thù đe dọa.
GiGa 10:16
Người chăn chiên hiền lành
Cung cấp sự cứu rỗi cho chiên Ngài.
Biết chiên Ngài, chiên biết và tin cậy Ngài
Dẫn chiên vào lối đường đúng, nuôi chiên, bảo vệ chiên và chăm sóc chiên
các nhu cầu của chiên.
Là một gương tốt và bầy chiên tin cậy đi theo Ngài.
Quan tâm đến bầy chiên Ngài và sẵn sàng chết vì chiên.
Quan tâm đến mọi chiên vì Ngài có tấm lòng và tầm nhìn của một người
chăn chiên.
LuLc 15:4-7
Người chăn chiên :
Để bầy chiên ở nơi an toàn khi người đi tìm con chiên lạc mất.
Cố tìm cho được con chiên bị mất.
Đưa con chiên lạc trở về chuồng chiên.
Vui mừng vì sự trở về của con chiên lạc.
IPhi 1Pr 5:1-7
Người chăn bầy
Chăm sóc chiên cách vui lòng
Phục vụ vì cớ yêu chiên chứ không phải đó chỉ là công tác.
Biết lòng phục vụ và khiêm nhường.
Lãnh đạo một cách nhẹ nhàng chứ không kiểm soát khắt khe.
Làm gương tốt cho bầy chiên
Sẵn sàng thuận phục những người chăn lớn tuổi.
Không lo lắng gì khi phục vụ vì người tin cậy nơi Đấng chăn chiên trưởng.
Một người chăn bầy chăm sóc bầy chiên của mình trong ít nhất ba cách: Ông
cung cấp, ông dẫn dắt, vì ông tìm kiếm. Hãy dùng những chữ này làm tiêu
đề và lập ra danh sách trong sổ tay của bạn. Dưới mỗi đầu đề tương ứng hãy
viết những chữ tronh Kinh Thánh mô tả việc chăm sóc của người chăn chiên
dành cho bầy chiên.
Danh sách nào trong câu a là dài nhất? Điều này gợi ý gì về chức vụ bạn với
tư cách là người chăn giữ dân sự của Đức Chúa Trời?
Là một người chăn bầy của Đức Chúa Trời, bạn có phải quan tâm đến những
con chiên lạc hay không? Hãy chứng minh bằng một trong những câu Kinh
Thánh này.
Bạn có nghĩ rằng một người giữ chức vụ chăn bầy mà không phải là một của
một Hội Thánh không?
Một người không quan tâm đến bầy chiên đã được so sánh với một người
chăn thuê trong GiGa 10:12-13. Một như thế có thật sự cung cấp được cho
những nhu câu thuộc linh của người tín đồ không?
Năng lực thuộc linh:
Mục tiêu 9: Hãy liệt kê hai phẩm chất thuộc linh cần thiết phục vụ những
người khác .
Để làm một người hầu việc Chúa có hiệu quả, bạn phải có cả năng lực thuộc
linh lẫn sự hiểu biết thuộc linh. Sự sống thuộc linh bạn đã nhận được cần
phải được chăm sóc như một cây non. Sự đọc Kinh Thánh và cầu nguyện
hằng ngày rất cần để nuôi dưỡng cho sự sống đó mới lớn lên. Khi bạn nhận
lãnh chức vụ, thì công việc chủ yếu là bạn phải đáp ứng các nhu cầu thuộc
linh cho các tín hữu. Phaolô nói rằng Đức Chúa Trời đã ban Đức Thánh
Linh để chúng ta có thể biết tất cả những gì Ngài đã cung cấp cho Hội Thánh
(ICo1Cr 2:9-12). Khi biết Đức Chúa Trời đã cung cấp cho mọi nhu cầu, họ
có thể phục vụ trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Các môn đồ biết về
sự Giáng sinh, cuộc đời, sự chết và sự Phục sinh của Chúa Jêsus, nhưng
Ngài bảo họ chờ đợi để được đầy dẫy Đức Thánh Linh rồi mới làm chứng
cho những người khác. Ngài đã hứa ban quyền phép cho những ai chờ đợi sự
hiện đến của Đức Thánh Linh (Cong Cv 1:4-8) liệu chúng ta có dám làm ít
hơn họ để chuẩn bị chính mình hầu phục vụ người khác hay không?
Bạn thấy rằng nhiều phẩm chất cần cho chức vụ. Một số phẩm chất do Kinh
Thánh dạy, một số thuộc về truyền thống, văn hóa thuộc về dân tộc. Tất cả
đều phải được đáp ứng đầy đủ như yêu cầu trong các luật lệ khác phải được
vâng phục, nhưng phải không chống lại nguyên tắc của Kinh Thánh mức độ
làm theo truyền thống hay văn hóa bạn phải thận trọng quyết định. Sự cầu
nguyện, học Kinh Thánh và sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh sẽ giúp bạn có
khôn ngoan giải quyết những vấn đề này. Bạn sẽ trưởng thành khi bạn tiếp
tục hầu việc Chúa.
20. Hãy liệt kê hai phẩm chất thuộc linh để phục vụ người khác có hiệu quả.

HAI CHỨC VỤ ĐẶC BIỆT:


Chức vụ giảng đạo:
Mục tiêu 10: Nhận diện rõ những định nghĩa về sự giảng như đã được mô tả
trong phần này .
Chúng ta hãy ôn lại những gì nói về chức vụ. Chức vụ nghĩa là phục vụ, và
vì có cách để phục vụ nên cũng có nhiều cách để hầu việc Chúa. Nhưng
cũng có những chức vụ đặc biệt cho thân thể của Đấng Christ như là chức vụ
người truyền giảng Tin Lành, các và Giáo sư . Bây giờ chúng ta sẽ xét các
chức vụ giảng và dạy như là một phương pháp của Kinh Thánh để truyền
thông Lời Chúa.
Giảng là gì?
Tự điển nói rằng giảng là “Công bố cách công khai, thúc giục người ta giao
tiếp nhận hay từ bỏ một ý tưởng hoặc một hành động. Trình bày một bài
giảng” (Định nghĩa theo quan niệm của Kinh Thánh mà chúng ta sẽ đề cập
đến sau). Từ định nghĩa này chúng ta thấy rằng giảng là sự trình bày một bài
giảng của một hay thầy giảng với một hội chúng một cách công khai và có
nghi thức. Thông thường trong khi giảng một bài giảng thì không có ai ngắt
lời. Sứ điệp của sự giảng đạo là Chúa Jêsus Christ được trình bày như là
Chúa. Sự kêu gọi chủ yếu của bài giảng Tin Lành cứu rỗi người hư mất là sự
ăn năn, đức tin qua sự phó thác. Giảng cũng là phương tiện qua đó các Cơ
đốc nhân nhận được chất bổ dưỡng thuộc linh và có thể lớn lên trong đức
tin.
Mạng lệnh giảng đạo đã được Chúa truyền khi Ngài phán “Hãy đi khắp thế
gian giảng Tin Lành cho mọi người” (Mac Mc 16:15). Phaolô đã hai lần trao
trách nhiệm giảng đạo cho Timôthê: “Ta… răn bảo con rằng: Hãy giảng đạo,
cố khuyên…” (IITi 2Tm 4:2) trong một chỗ khác ông đã nói “Hãy chịu cực
khổ làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải
làm cho đầy đủ” (4:5). Giảng đạo là phương pháp quan trọng mà Đức Chúa
Trời đã chọn để đem Tin Lành đến cho mọi người.
21. Đặt số 1 ở trước những câu định nghĩa chức vụ giảng đạo và số 2 trước
những câu không định nghĩa sự giảng đạo.
Một trình bày công khai trước một hội chúng mà không bị sự ngắt lời và có
sự đáp ứng của thính giả.
Một bài diễn thuyết được đánh dấu bằng vài lời thuyết trình cộng thêm vài
câu hỏi và vài câu trả lời.
Một sứ điệp dài, cấp bách và không bị ngắt lời được một diễn giả trình bày
với một nhóm người, để thúc giục họ tiếp nhận một hành động hoặc một
quan điểm.
Một buổi họp thân mật trong đó một người trình bày cho những người tham
dự biết sử dụng lời giáo huấn thí dụ hay kinh nghiệm, có thể bị các thính giả
ngắt lời.
CHỨC VỤ DẠY ĐẠO:
Mục tiêu 11: Định nghĩa chức vụ dạy đạo
Mạng lệnh dạy đạo đã được Chúa truyền khi Ngài phán “Hãy đi dạy dỗ
muôn dân và dạy cho họ giữ hết thảy mọi điều mà ta đã truyền cho các
ngươi” (Mat Mt 28:19-20) Phaolô đã dạy Timôthê “Hãy đem lòng rất nhịn
nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (IITi 2Tm 4:2).
Trong phần mô tả người đầy tớ tốt của Chúa Jêsus Christ (ITi1Tm 4:4-16)
Phaolô đã truyền lệnh rằng “Kìa là điều con phải rao truyền và dạy dỗ” (C.
11). Dạy dỗ là một phương pháp chính yếu khác mà Chúa đã chọn để đem
Tin Lành đến cho mọi người khắp mọi nơi.
Dạy là gì?
Dạy là làm cho người ta hiểu biết hoặc giúp đỡ người khác đạt được kiến
thức hoặc kỹ năng giải thích cách chi tiết về những điều đã được công bố và
đã được tiếp nhận bằng đức tin. Một giáo sư là một người hướng dẫn các
học sinh đi vào những kinh nghiệm học tập. Trong khi dạy, mặt này có thể
bao gồm sự nghi thức, trật tự, và thường thường có mở rộng quan điểm về
một đề tài, thì mặt khác cũng bao gồm cả sự thảo luận các ý tưởng khi các
học sinh có sự tác động qua lại về đề tài với nhau và với giáo sư. Dạy liên
quan đến sự sắp xếp và quản lý các tài liệu hướng dẫn và sự cung cấp một
môi trường học hỏi tốt đẹp. Một số kinh nghiệm học tập trong những lớp
học và một số được ngoài lớp học.
Mạng lệnh của Chúa Jêsus bao gồm việc khiến người ta theo Ngài và làm lời
dạy của Ngài trở thành qui luật trong đời sống họ (Mat Mt 28:19-20). Phaolô
tạ ơn Đức Chúa Trời về các Cơ đốc nhân La Mã đã vâng theo lời dạy của
ông (RoRm 6:17). Sau sứ điệp của Phierơ, những người nghe ông ở Thành
Giêrusalem muốn biết họ phải làm gì và cần được chỉ dẫn (Cong Cv 2:36-
42). Nội dung của sự dạy dỗ Cơ đốc là Kinh Thánh. Là để hiểu biết và thực
hành và làm theo đời sống Cơ đốc nhân được trưởng thành.
22. Khoanh tròn chữ đầu của câu định nghĩa đúng chức vụ dạy.
Dạy là sự công bố rộng rãi hoạc rao báo Tin Lành do một truyền cho hội
chúng. Trong đó về phần thính giả không có phản ứng gì với sứ điệp đó cả.
Dạy là chức vụ khiến cho người ta học được kiến thức hay kỹ năng bằng lời
giáo huấn, bằng thí dụ hoặc bằng kinh nghiệm do một phương cách trình bày
và trong đó thường có sự thảo luận giữa các giáo sư và các học sinh.
Dạy là một diễn thuyết một đề tài định sẵn trong một lớp học. Các học sinh
lắng nghe và mong muốn hiểu biết bằng cách nghe những gì giáo sư nói ra.
KẾT LUẬN:
Sự giảng đạo và dạy đạo của Tân ước thực sự là hai khía cạnh diễn tả một
chức vụ. Vậy thật là sai lầm khi giới hạn ý nghĩa của các chữ Giảng và Dạy
bằng cách nói rằng các truyền đạo Tân ước hoặc chỉ giảng đạo cho người hư
mất hoặc chỉ dạy giáo lý cho Hội Thánh. Kinh Thánh chứng tỏ rằng có một
mức độ dạy dỗ trong sự giảng đạo của Chúa Jêsus và các sứ đồ, cũng như có
một mức độ giảng đạo trong sự dạy dỗ của họ. Hãy lưu ý rằng có một sự
phân biệt giữa chức vụ giảng và dạy của Chúa Jêsus trong các Hội Thánh
(Mat Mt 4:23 LuLc 4:44) Mac Mc 1:21, 22, 27, 38). Cũng một thể ấy,
Phaolô đã giảng và dạy trong nhà hội tại Côrinhtô thuyết phục cả người Do
Thái lẫn người ngoại bang rằng Chúa Jêsus là Đấng Messiah. (Cong Cv
18:4, 5, 11) người hư mất đã được cứu rỗi (19:8, 18-19). Sau khi người đề
lao ở thành PhiLíp trở lại đạo, Phaolô đã giảng về phép báp têm bằng nước
và sự phục vụ thực tế của Cơ đốc nhân (16:30-34). Nói chung, ta có thể suy
ra từ các sách trong Tân ước rằng giảng liên quan hơn nhiều đến nền tảng
của kinh nghiệm Cơ đốc nhân và dạy liên quan hơn nhiều đến thượng tầng
kiến trúc. Một kiến trúc cần cả hai công tác được hoàn thành. Mạng lệnh
toàn diện của Đại mạng lệnh là Hội Thánh phải đi đến với mọi quốc gia
(1:18), mọi nền văn hóa (Mat Mt 28:19-20) và mọi con người (Mac Mc
16:15) bằng cách làm chứng, bằng cách dạy dỗ và bằng cách giảng đạo.
Đây là những sự suy nghĩ đầu tiên về sự giảng đạo và dạy đạo. Chúng ta sẽ
nghiên cứu mỗi phần đầy đủ hơn trong các đơn vị học tiếp theo.
Bài tập trắc nghiệm cá nhân
Sau khi bạn đã ôn lại bài học này, bạn hãy làm bài trắc nghiệm. Rồi sau đó
bạn hãy xem lại câu trả lời của mình so với những câu trả lời có sẵn ở phần
cuối cuốn sách hướng dẫn này. Hãy học ôn lại bất cứ câu nào bạn trả lời
không đúng.
Một trong những phẩm chất chủ yếu cần cho sự lãnh đạo là
Ước vọng một Cơ đốc nhân muốn thực hành là kiểm soát các Cơ đốc nhân
khác
Thừa nhận rằng nhu cầu của các nhà lãnh đạo là thật sự trong thân thể của
Đấng Christ.
Thừa nhận rằng mọi Cơ đốc nhân đều được kêu gọi để phục vụ.
2. Khoanh tròn ở mẫu tự đầu những câu sau đây? Không phải là phẩm chất
của người hầu việc Chúa. Người hầu việc Chúa phải?
Có tiếng tốt như là kết quả của thái độ và giáo lý của Ông.
Là người trọn vẹn nếu ông được phục vụ.
Chân thật, lương thiện, thanh sạch và ngay thẳng.
3. Trong gia đình và trong đời sống riêng, chúng ta học biết rằng một người
lãnh đạo phải.
Là người chồng của một vợ
Biết cai trị nhà riêng mình
Phải biết tự chế, cư xử đúng đắn, làm gương trong lời nói, việc làm và cách
ăn mặc.
Có tất cả những điều trên.
4. Khoanh tròn những chữ đầu của tất cả lời tuyên bố dưới đây mô tả những
phẩm chất của người muốn hầu việc Chúa trong Hội Thánh người đó phải.
Là một người hiếu khách.
b) Phục vụ vì cớ yêu mến Đức Chúa Trời và người khác.
c) Thể hiện sự kiên nhẫn, tử tế và tự chế.
Thu vén những thất bại cá nhân bằng cách làm ra vẻ mạnh mẽ trong chức
vụ.
5. Những phẩm chất Kinh Thánh đòi hỏi ở người hầu việc Chúa rất cao bởi
vì:
Người ta tin cậy nhiều hơn ở người lãnh đạo hơn là người không lãnh đạo.
Những ai thấy sự đòi hỏi nhiều hơn cấp lãnh đạo sẽ nản lòng không muốn
làm người lãnh đạo.
Người ta luôn luôn được thúc đẩy làm việc hướng về các mục đích cao cho
dù họ không thể đạt đến được.
6. Hãy nhận diện các phẩm chất mô tả đặc tính chức vụ giảng và dạy trong
Tân ước dưới đây bằng cách đặt chữ số 1 ở trước các đặt tính của sự giảng
và chữ số 2 ở trước các đặt tính của sự dạy:
Do một công bố lời Chúa cho một nhóm người.
Hướng dẫn người khác trong tiến trình học hỏi, thảo luận và đặt các câu hỏi.
“Gieo giống” trên các cánh đồng.
Những cây riêng được trồng trong vườn.
7. Chức vụ giảng đạo và dạy đạo giống như công việc của một người chăn
chiên là vì

8. Mạng lệnh hãy ân cần tiếp khách rất quan trọng bởi vì

9. Người hầu việc Chúa phải là một người học trò của Lời Chúa là vì

10. Chức vụ của Đức Thánh Linh là tối cần trong đời sống những người hầu
việc Chúa, vì Ngài cung cấp

Trả Lời Những câu Hỏi trong bài Học


Những câu trả lời trong bài tập của bạn được trình bày không theo thứ tự,
nhằm giúp cho bạn khỏi lười biếng. Hãy tìm số câu hỏi mà bạn cần và đừng
có xem trước câu trả lời khác.
12. a (1) Hợp Kinh Thánh
b (1) Hợp Kinh Thánh
c (2) Không hợp Kinh Thánh
d (1) Hợp Kinh Thánh
1. I Timôthê, II Timôthê, và Tít
e (2) Không hợp Kinh Thánh
f (1) Hợp Kinh Thánh
g (1) Hợp Kinh Thánh
13. Người hầu việc Chúa phải luôn nghiên cứu lời Chúa để phát triển phần
thuộc linh. Như vậy chúng ta mới có thể trả lời thích đáng cho những ai hỏi
lẽ về đức tin và hy vọng Cơ đốc.
2. Hãy làm bài trắc nghiệm để chứng tỏ rằng bạn đã hoàn tất công tác được
giao.
14. a) Câu trả lời riêng của bạn
b) Điều quan trọng là sự cải thiện nơi học tập và quyết tâm để riêng một thì
giờ đều đặn hằng ngày để học tập.
a) Đúng
b) Sai
c) Đúng
15. a) Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, ngay cả những câu Kinh Thánh của
các mục đích của Đức Chúa Trời. Ngài biết rõ ý muốn của Đức Chúa Trời
và những nhu cầu của tất cả chúng ta nữa. Khi chúng ta cầu nguyện trong
Thánh Linh, Đức Thánh Linh đáp ứng những nhu cầu của chúng ta theo ý
muốn của Đức Chúa Trời.
b) Khi chúng ta trông đợi trước mặt Chúa trong sự cầu nguyện, nghiên cứu
lời Chúa và suy gẫm, chúng ta được Đức - Thánh Linh ngự trị trong lòng. Lẽ
thật thuộc linh và sự áp dụng lẽ thật ấy trong đời sống riêng của chúng ta và
những người nghe chúng ta chỉ có hiệu quả khi chúng ta thực sự sống và
bước đi trong Thánh Linh.
4. b) Một sự tin cậy thiêng liêng.
c) Một đặc ân
e) Một sự chia sẻ và sự thương khó của Đấng Christ có thể gồm cả sự gian
khổ.
16. b) Ban sự hiều biết Lời Chúa và bày tỏ cách làm thế nào để áp dụng Lời
Chúa vào đời sống và chức vụ của một người.
5. c) Chức vụ đã được hiểu như là phục vụ Chúa vì cớ thân thể của Ngài trên
mặt đất.
17. Câu trả lời riêng của bạn. Nếu chúng ta phát huy mọi khả năng trong
việc soạn và trình bày bài giảng đồng thời thi hành một chức vụ xức dầu,
nhưng nếu không có tình yêu thương làm chất liệu cho lời nói của chúng ta,
chúng ta sẽ thất bại hoàn toàn.
6. c) Thăng tiến sự tăng trưởng thuộc linh và sự hiệp một bên trong thân thể
và sự ra đi đến với thế gian.
18. Tất cả những đều này là đúng. Bằng cách nhạy cảm với những nhu cầu
của tất cả các con chiên, người chăn chiên có thể dành cho bày chiên sự
chăm sóc và hỗ trợ cần thiết để giúp cho bầy chiên phát triển có kết quả và
khỏe mạnh, trưởng thành phần thuộc linh.
7. b) Alfred là một Cơ đốc nhân được ba năm.
19. a) Ông cung cấp Thi Tv 23:1-6
- Mọi nhu cầu cho đời sống, sự lớn lên và sự phát triển
- Sự hướng dẫn
- Những bữa tiệc, sự vui vẻ và sự xức dầu
- Làm bạn đồng hành trong những lúc thử thách
- Thức ăn khi kẻ thù chống nghịch
GiGa 10:1-42
- Mọi nhu cầu cho sự lớn lên và phát triển của bầy chiên
- Chăm sóc chiên bằng tình yêu thương
- Bảo vệ chiên sẵn sàng binh vực hoặc chết vì chiên.
LuLc 15:1-32
- Tìm kiếm những người bị mất một ví dụ vui mừng đối với việc cứu được
người hư mất.
IPhi 1Pr 5:1-14
- Chăm sóc toàn diện cho bầy chiên
- Một thí dụ về sự tin cậy
Ông dẫn dắt:
- Vào những con đường đúng
- Chiên mình đến đồng cỏ trên con đường đúng
- Lãnh đạo cách nhẹ nhàng
Ông tìm kiếm:
- Khôi phục linh hồn lầm lạc
- Những chiên khác
- Cố tìm chiên bị mất
b) Danh sách đầu tiên là dài nhất. Điều này gợi ý rằng việc cung cấp cho
chiên là trách nhiệm chính.
Vâng. Trong Giăng 10:16; chúng ta thấy người chăn chiên quan tâm đến
những chiên khác chưa thuộc về chuồng.
Vâng, tôi xin chức vụ chăm sóc cho các nhu cầu là trách nhiệm của hết thảy
phần tử trong gia đình của Đức Chúa Trời. Là “ những chiên” chúng ta có sự
phân biệt sâu xa về nhu cầu của những con chiên khác và chúng ta biết rằng
trong mọi nan đề Đấng chăn chiên trưởng đều có giải pháp cả.
Câu trả lời của bạn. Tôi nói rằng “Không!” Một người như thế có những tư
lợi trong lòng, không phải vì sự an ninh thuộc linh của cả bầy chiên. Đây là
lý do chúng tôi đã nói trước rằng bạn phải tự hỏi lòng mình và Đức Chúa
Trời tại sao bạn lại muốn tham gia vào chức vụ.
8. b) Có được tiếng tốt
c) Là gương mẫu của sự trung thực và thanh sạch.
d) Tự trình diện mình như một người lịch sự biết cư xử tốt đẹp…
20. Chúng ta phải có sự hiểu biết thuộc linh nhờ đọc và suy gẫm lời Chúa
cùng sự cầu nguyện. Rồi chúng ta cần quyền phép và sự hướng dẫn của
Chúa Thánh Linh để chiến thắng sự sợ sệt trong lòng và những trở lực bên
ngoài. Quyền phép của Đức Thánh Linh giúp chúng ta tiến hành công việc
Chúa.
9. a) Là ân cần tiếp khách
b) Phải phát huy khả năng dạy dỗ
e) Phải trưởng thành thuộc linh
21. a) 1) Thí dụ đúng
b) 2) Không phải thí dụ
c) 1) Thí dụ đúng
d) 2) Không phải thí dụ
10. c) Mọi người: Những Cơ đốc nhân khác, người chưa tin Chúa và các
thành viên trong gia đình.
22. b) Dạy là chức vụ khiến người khác học tập.
11. a) Không chỗ trách, chỉ một vợ, tự chế, không say sưa, không tàn bạo.
b) 1) Phải không ham tiền - Không tham tiền
2) Phải tiếp khách lạ - Phải hiếu khách
c) Phải nắm vững sứ điệp
d) Con cái phải là tín đồ và không mang tiếng là hư hỏng và không vâng lời.
e) Không khoe khoang, không nhạy giận, phải yêu mến điều lành, đều phải
ngay thẳng, phải thanh khiết, phải có kỷ luật.
Bạn hãy chuẩn bị chính mình
Có bao giờ bạn đứng xem một họa sĩ đang vẽ tranh chưa? Việc đầu tiên là
ông phát họa toàn cảnh của bức tranh: Một cái ao, một hàng rào, và một nhà
kho cũ. Cũng bức tranh đó một vài ngày sau ông vẽ thêm vào đó một mặt
trời xế chiều, môt vài đám mây, một hàng rào có lan can bao quanh và một
cành cây vắt ngang. Sau đó, ông tô màu lần cuối. Việc học Kinh Thánh có
nhiều nét tương tự như vậy. Ta không nghiên cứu một đề tài hay soạn một
bài giảng mà có thể làm xong chỉ trong một lần ngồi xuống. Học tập là một
quá trình tích lũy, chồng chất mãi lên, mọi đều bạn học được cộng thêm
những đều bạn đã biết. Chân lý Kinh Thánh giống như một bức tranh chưa
bao giờ hoàn tất hẳn. Là một sinh viên của lời Chúa. Bạn sẽ cứ nghiền ngẫm
Kinh Thánh luôn luôn. Khi bạn học tập và mỗi lần bạn học, bạn đều nhận
được một đều gì đó để làm cho bức tranh chân lý được thêm phần hoàn tất
thêm một chút.
Trong bài này chúng ta sẽ thảo luận phương pháp học Kinh Thánh và hiểu
biết Kinh Thánh tốt hơn. Khi bạn chuẩn bị chính mình để phục vụ cho nhu
cầu người khác qua việc giảng đạo và dạy đạo.
Bố cục bài học :
Đọc để bồi linh cho cá nhân.
Đọc để hiểu biết.
Tiếp tục phát triển cá nhân.
Mỗi lần thêm vào một ít thì bức tranh chân lý càng lúc càng hoàn tất hơn.
Những mục tiêu của bài học :
Khi học xong bài học này bạn phải:
Giải thích được việc học Kinh Thánh là đáp ứng cho nhu cầu bồi linh cá
nhân.
Đọc Kinh Thánh nhằm những mục đích đặc biệt.
Mô tả nhu cầu tiếp tục phát triển cá nhân.
Những sinh hoạt học tập :
1- Nghiên cứu sự phát triển của bài học và trả lời những câu hỏi trong bài
như thường lệ.
2- Học hiểu ý nghĩa những chữ chìa khóa quan hệ mới mẽ đối với bạn.
3- Làm trắc nghiệm cá nhân ở cuối phần bài học rồi so sánh những câu trả
lời của bạn với những câu trả lời có sẵn ở sách hướng dẫn này. Hãy học ôn
lại những mục mà bạn trả lời không đúng.
4- Hãy thực tập thường xuyên việc đánh giá chính mình, sử dụng hình thức
đánh giá cá nhân trong bài học này. Sẽ giúp bạn trở thành một Cơ đốc nhân
sâu sắc hơn.
Những từ căn bản :
Analogy: Tương Trợ
Anlytical Method: Phương pháp phân tích, phân chia ra thành nhiều phần
nhằm mục đích nghiên cứu kỹ từng chi tiết.
Crises: những biến cố đầy cảm xúc ý nghĩa, hoặc những thay đổi căn bản
trong đời sống của một người
Devotional: Thuộc về sự bồi linh
Devotions: Thờ phượng, cầu nguyện, lời cầu xin
Prayer: Cầu thay, cầu xin ân huệ cho người khác
Involved: Dính dáng, liên hệ
Involvement: Hành động có dính dáng đến
Perspective: Phối cảnh tầm nhìn
Practical: Thực tế, có liên hệ đến hành động hơn là lý thuyết
Method: Phương pháp tổng hợp nhìn nhiều phần như là toàn bộ nhằm mục
đích nghiên cứu
Systematic:Có hệ thống
Khai triển bài học
ĐỌC ĐỂ BỒI LINH CHO CÁ NHÂN
Mục tiêu 1: Giải thích tại sao sự bồi linh cá nhân (sự tĩnh nguyện ) là quan
trọng trong đời sống người hầu việc Chúa
Bill Balse làm việc cho một Công ty lớn trong thành phố và đang dạy một
lớp Kinh Thánh cho người lớn hằng tuần tại Hội Thánh địa phương của anh.
Công việc của anh bắt đầu lúc 8 giờ, nhưng Bill đến văn phòng lúc 7 giờ 15
để dành thì giờ tĩnh nguyện. Anh nói, “Tôi bắt đầu bằng sự ngợi khen và cầu
nguyện khi tôi đọc xong phần Kinh Thánh, tôi ngồi yên lặng và suy gẫm về
những lời tôi đã đọc. Đôi khi tôi viết một điều gì đó vào cuốn sổ tay của tôi.
Việc dành thì giờ bồi linh những buổi sáng giúp tôi khởi đầu một ngày rất
tốt đẹp”.
Giờ tĩnh nguyện rất quan trọng đối với một Cơ đốc nhân và nhất là với bạn
là người hầu việc Chúa giữa những người khác, Ngài muốn bạn gần gũi với
sự hiện diện của Đức Chúa Trời để bạn phản ánh vẻ đẹp của Ngài, ân điển
của Ngài và bản tính của Ngài. Khi bạn phát huy mối quan hệ này với Ngài
thì những nhận thức của bạn về chức vụ và nhu cầu của người sẽ càng tăng
trưởng và khi sự phát triển thuộc linh của bạn về mối quan hệ giữa sự tình
nguyện cá nhân và sự phục vụ có thể được tăng cường. Hãy suy nghĩ đến
một hình ảnh một con bò cái đi ra ăn cỏ vào lúc sáng tinh mơ trong ngày.
Rồi nó tìm nước uống và nghỉ ngơi trong bóng mát. Cuối cùng, trời về chiều,
nó trên đường trở về chuồng nhai những gì nó đã ăn. Sữa không hề đến với
tâm trí con bò. Nó không đi vào đồng cỏ để tạo ra sữa. Nó ra đồng để ăn cỏ,
uống nước và nằm nghỉ dưới bóng râm. Đối với bạn và sự tĩnh nguyện riêng
của bạn cũng vậy: bạn không bước vào góc phòng để cầu nguyện để tạo ra
những bài giảng và những bài học. Bạn tĩnh nguyện là nhằm ích lợi và hạnh
phước cá nhân bạn. Tuy nhiên, chỉ khi bạn nuôi dưỡng được đời sống tinh
thần của bạn thì bạn mới có thể nâng đỡ người khác, thêm sức mạnh cho
người khác khi bạn phục vụ họ.
Là một người hầu việc Chúa, bạn chỉ có thể chia sẻ với những người khác
những điều thuộc linh vốn thực sự là của bạn. Khi bạn phục vụ người khác.
Lời giảng hoặc dạy phải là lời sống và có thực đối với bạn. Khi lời ấy dầm
thấm cả lòng và tâm trí bạn, thì nó mới đem lại phước hạnh cho những người
nghe, chỉ khi nào bạn tìm thấy được mối quan hệ thực sự có nghĩa với Đức
Chúa Trời thì bạn mới có thể dẫn dắt những người khác đến với Ngài. Khi
Đức Thánh Linh hướng dẫn bạn và ban quyền năng cho bạn, thì bạn mới có
thể giúp đỡ người khác bước vào kinh nghiệm như bạn chỉ khi nào bạn có
được kinh nghiệm cá nhân bạn mới chia sẻ cho người khác.
Người chăn chiên thuộc linh phải đi tìm cho đồng cỏ xanh tươi, mé nước
bình tịnh của Lời Chúa cho chính mình và rồi hướng dẫn cho người khác
vào những nơi phước hạnh đó. Điều gì bạn có thì bạn mới có thể ban cho
người khác (Cong Cv 3:6) và người ta cũng sẽ biết khi bạn đã từng ở trong
mối thông công với Ngài.
CHỈ KHI NÀO BẠN NUÔI DƯỠNG ĐƯỢC ĐỜI SỐNG THUỘC LINH
CỦA RIÊNG MÌNH THÌ MỚI CÓ THỂ NÂNG ĐỠ NGƯỜI KHÁC KHI
BẠN PHỤC VỤ HỌ
1. Khoanh tròn mẫu tự đầu của mỗi câu ĐÚNG sau đây.
Sự tĩnh nguyện cá nhân chủ yếu dùng để phát triển những kỹ năng và sự
hiểu biết có cần cho chức vụ.
Một người hầu việc Chúa có thể dẫn dắt người khác bước vào những kinh
nghiệm thuộc linh sâu sắc hơn khi ông chỉ ra được những gương mẫu trong
Kinh Thánh và trong lịch sử những người đã trở thành những người “Khổng
lồ thuộc linh” mặc dầu chính mình ông thì không tăng trưởng phần thuộc
linh chút nào.
Một người không thể dẫn dắt người khác bước vào những Kinh nghiệm mà
mình không từng trải gì cả.
Để hướng dẫn có hiệu quả, một người phải nuôi dưỡng đời sống thuộc linh
riêng của mình và mối quan hệ với Đấng Christ.
Những đề nghị trong giờ tĩnh nguyện riêng của bạn. Hãy thành hình một thói
quen cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa hằng ngày. Hãy để thì giờ ở riêng
với Chúa. Đaniên đã lập thói quen cầu nguyện hằng ngày và tiếp tục như vậy
ngay cả khi ông đối diện với sự chết trong hang sư tử (DaDn 6:10). Khi Đức
Chúa Trời lập Giôsuê lên làm lãnh tụ của dân Ysơraên. Ngài hứa ban cho
ông sự thành công và thịnh vượng nếu ông đọc và làm theo toàn bộ luật
pháp của Đức Chúa Trời (Gios Gs 1:6-9). Bí quyết thành công chức vụ mà
Đức Chúa Trời kêu gọi bạn sẽ tùy thuộc phần lớn trên mối quan hệ của Ngài
và sự chuyên cần vâng phục Lời Chúa của bạn. Bạn có thể thức khuya và
dậy sớm, nhưng bạn cần phải dành thì giờ để thông công riêng hằng ngày
với Đức Chúa Trời.
2. Hãy đọc Mat Mt 26:36-46, Mac Mc 14:32-42, LuLc 22:39-46. Kinh
nghiệm này dạy chúng ta điều gì về.
Sự cầu nguyện:
………………………………………………………………………………
………………………………………………….
………………………………………………………………………………
………………………………………………...
Sự đáp ứng của con người với những thay đổi căn bản thuộc linh:
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………….
Thánh Linh và xác thịt:
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….

Hãy bắt đầu giờ tĩnh nguyện bằng việc ngợi khen và thờ phượng. Hãy nuôi
dưỡng trong lòng bạn một tinh thần cảm tạ và ngợi khen Đức Chúa Trời.
Hãy suy nghĩ đến sự thương xót của Ngài, sự tốt lành nhân hậu của Ngài, và
tình yêu thương của Ngài trong khi bạn dâng lời cảm tạ lên Ngài. Hãy cầu
nguyện cùng cha Thiên Thượng thân mật như con nói chuyện với cha nói ra
cách tự do những cảm nghĩ sâu kín nhất của bạn trong giờ cầu nguyện riêng.
Qua những Thi Thiên của mình Đavít đã diễn tả những cảm xúc của ông, dù
đó là lời phàn nàn về kẻ thù của ông (Thi Tv 28:1-5) hoặc đó là lời ngợi
khen Đức Chúa Trời của ông (30:1-12). Hãy để lòng bạn trống không,
không còn cay đắng, giận dữ và thất vọng bằng sự cầu nguyện, rồi hãy chờ
đợi sự hiện diện của Ngài. Khi nào những tư tưởng của Ngài đúng đắn và
ngay thẳng, thì đời sống bạn sẽ được đúng đắn và ngay thẳng (ChCn 4:23)
3. Sự cầu nguyện và ngợi khen Chúa trong giờ tĩnh nguyện cá nhân bao gồm
các đặc điểm sau.
Đều đặn, kiên trì cầu xin những nhu cầu cá nhân và Hội Thánh
Bày tỏ tình yêu thương, lòng biết ơn, và chờ đợi sự hiện diện của Đức Chúa
Trời để Ngài làm tươi mới tâm linh bạn bằng ân điển và sự nhân từ của
Ngài.
Đem mọi nan đề và những nhu cầu đến trước mặt Chúa với một lòng tin
quyết mạnh mẽ.
Một kế hoạch đọc Kinh Thánh có hệ thống là đặt Kinh Thánh ở vị trí trung
tâm của giờ tĩnh nguyện. Nếu bạn đọc ba đoạn mỗi ngày trong tuần và năm
đoạn mỗi ngày Chúa Nhật, thì bạn có thể đọc hết Kinh Thánh trong một
năm. Một kế hoạch khác đề nghị buổi sáng bạn đọc ba đoạn trong Cựu ước
và buổi tối hai đoạn trong Tân ước. Hãy chọn một trong hai kế hoạch và
thực hành liên tục. Thức ăn có giá trị thế nào đối với thân thể thì Lời Chúa
đối với tâm linh bạn cũng vậy. Bạn có thể bỏ ăn một bữa, bạn vẫn sống,
nhưng nếu bạn liên tục không ăn gì cả thì bạn sẽ chết. Đối với đời sống
thuộc linh bạn cũng thế ấy, bạn phải nhờ Lời Chúa để sống. Đừng chán nản
nếu bạn không hiểu hoặc không nhớ tất cả những gì bạn đọc. Có lần một
người đã nói, “Thưa Mục sư, tôi đọc Kinh Thánh nhưng không nhớ gì cả.
Đầu óc của tôi không ghi nhận được những gì tôi đã học”. Vị Mục sư nói với
người đó, “Anh hãy cứ tiếp tục đọc đi, một cái rổ không giữ được nước
nhưng khi nước chảy qua cái rổ đó sẽ được rửa sạch”.
Khi bạn đọc Kinh Thánh, hãy để Lời Chúa phán với bạn. Đừng vội vã. Phải
có đủ thời gian để Đức Chúa Trời phán điều gì đó với bạn. Hãy dành thì giờ
với Đức Chúa Trời và đừng vội vàng bỏ qua cơ hội để cho Đức Chúa Trời
phán với bạn bằng Lời Chúa.
Bạn có thể dùng Lời của Đức Chúa Trời để cầu nguyện và ngợi khen. Khi
bạn tìm thấy một câu, một khúc Kinh Thánh diễn tả được lời cầu nguyện và
ngợi khen của lòng bạn, hãy dâng lời ấy lên cho Đức Chúa Trời. Chẳng hạn,
Thi Tv 51:1-19 là lời cầu xin sự tha thứ. Eph Ep 1:15-23 là lời cầu nguyện
của Phaolô cho các tín hữu ở Êphêsô. Bạn có thể thờ phượng Chúa với Thi
Thiên 66, một trong số rất nhiều bài hát ngợi khen. Bạn sẽ tìm thấy nhiều
khúc Kinh Thánh khác để tùy lúc sử dụng. Những Lời Kinh Thánh đó sẽ ban
phước và phục vụ bạn khi bạn dùng để cầu nguyện và ngợi khen Chúa.
MỘT KẾ HOẠCH ĐỌC KINH THÁNH CÓ HỆ THỐNG SẼ GIỮ KINH
THÁNH Ở VỊ TRÍ TRUNG TÂM TRONG GIỜ TĨNH NGUYỆN CỦA
BẠN
Hãy đọc thuộc lòng một số câu Kinh Thánh bạn ưa thích. Hãy viết câu Kinh
Thánh đó lên tấm cạt và ghi địa chỉ câu Kinh Thánh đó ở mặt sau tấm cạt.
Hãy mang tấm cạt theo với bạn, để trong ngày bạn xem đi xem lại cho đến
khi thuộc lòng câu Kinh Thánh lẫn địa chỉ của nó. Nếu có cơ hội, hãy sử
dụng và chia sẻ câu Kinh Thánh đó với một người nào đó. Khi trí óc và tấm
lòng của bạn đầy dẫy Lời của Đức Chúa Trời thì Lời ấy sẽ đem lại phẩm
chất tốt đẹp cho đời sống bạn bao gồm cả tư tưởng lẫn hành vi của bạn. Thái
độ tốt đẹp sẽ giống như không khí trong lành tươi mới cho mọi người bạn
tiếp xúc. Một người trung tín học Kinh Thánh và cầu nguyện và lấy Lời
Chúa làm qui tắc cho cuộc sống thì người ấy đã thực hiện một bước quan
trọng trong công việc chuẩn bị phục vụ cho người khác.
4. Có lẽ điều này sẽ đem lại ích lợi cho bạn để xem thử bạn có thường xuyên
lợi dụng cơ hội để cầu nguyện và học Kinh Thánh. (Hằng ngày, Đều đặn,
Thường xuyên, Đôi khi, Ít khi, Không bao giờ)
- Tĩnh nguyện riêng
- Gia đình lễ bái
- Cảm ơn Chúa trước khi ăn
- Duy trì thái độ cầu nguyện lúc làm việc
- Cầu nguyện hoặc suy gẫm khi đi từ nơi này qua nơi khác.
- Cầu nguyện trên giường ngủ
- Cầu nguyện khi bạn mất ngủ
- Cầu nguyện khi bạn thức dậy buổi sáng sớm
- Cầu nguyện với một người đang có nhu cầu
- Cầu nguyện với những người đến thăm nhà bạn
- Cầu nguyện khi đi thăm người khác
- Cầu nguyện với một nhóm cầu nguyện hay CN luân phiên
- Đọc Kinh Thánh có hệ thống
- Học thuộc lòng Kinh Thánh
- Dự các khóa học Kinh Thánh
- Suy gẫm theo Kinh Thánh
- Quyết định hành động theo các tiêu chuẩn của Kinh Thánh
- Noi gương trong Kinh Thánh
- Dùng Kinh Thánh đang khi phục vụ
5. Hãy giải thích tại sao sự tĩnh nguyện cá nhân là quan trọng trong đời sống
hầu việc Chúa. Hãy trả lời và ghi vào sổ tay.
Đọc Để Hiểu Biết:
Đọc để có cái nhìn toàn diện:
Mục tiêu 2: Mô tả phương pháp tổng hợp của sự nghiên cứu Kinh Thánh .
Thật khó nói đến sự chuẩn bị cá nhân kết thúc tại đâu và sự chuẩn bị để hầu
việc Chúa khởi sự tại đâu. Có lẽ không có sự kết thúc cho điều này và sự bắt
đầu cho điều kia, nhưng theo sự suy nghĩ của chúng ta, chúng ta hãy xem
việc đọc Kinh Thánh làm khởi đầu cho sự chuẩn bị hầu việc Chúa.
Môt người cung phụng Lời Chúa trong chức vụ giảng và dạy cần múc từ
nguồn hiểu biết vô tận của Kinh Thánh. Để có cái nhìn toàn diện về Kinh
Thánh ta cần đọc từ Sáng thế ký đến Khải huyền để biết được nội dung và sự
dạy dỗ của Kinh Thánh. Đọc để hiểu biết bối cảnh bài giảng hay bài học.
Phục vụ bằng cả tâm trí và tấm lòng đầy dẫy Lời Chúa sẽ mang lại phước
hạnh cho các thính giả của bạn và làm phần thưởng cho bạn.
Để thưởng thức môt bức tranh ta phải nhìn hai lần, một lần nhìn xa và một
lần nữa nhìn gần. Hoặc, nếu bạn thích bạn có thể nhìn gần rồi sau đó lùi ra
xa để nhìn lần thứ hai. Dù nhìn cách nào bạn đều thưởng thức tốt hơn khi
bạn xem xét bức tranh vừa toàn diện, vừa chi tiết. Cũng vậy có hai cách để
nhìn Kinh Thánh, một là tổng hợp phương pháp này cho ta cái nhìn toàn
diện bức tranh Kinh Thánh. theo phương pháp nghiên cứu này ta thấy nhiều
phần của Kinh Thánh được sắp xếp với nhau để tạo thành một quyển sách và
các chi tiết được nhìn như là một phần nhỏ của cả sự khải thị. Toàn bộ bức
tranh này trình bày sự hiệp nhất của nhiều phần Kinh Thánh và mối liên hệ
của chúng với nhau.
6. Khoanh tròn mẫu tự ở mỗi câu ĐÚNG sau đây:
Khi chúng ta đọc Kinh Thánh để hiểu biết về bối cảnh, chúng ta có thể đọc
đều đặn để chúng ta có thể cung cấp sự hiểu biết Kinh Thánh một cách
phong phú.
Để thấu triệt Kinh Thánh chúng ta cần có cách nhìn xa (để thấy cả bức
tranh) và cái nhìn gần (để thấy những chi tiết).
Áp dụng phương pháp tổng hợp để nghiên cứu Kinh Thánh người ta nhận
thấy được sự hiệp nhứt của Kinh Thánh đó là cách đọc suốt qua toàn bộ
quyển Kinh Thánh
7. Hãy mô tả phương pháp tổng hợp của việc nghiên cứu Kinh Thánh. Hãy
dùng sổ tay của bạn nếu bạn cần thêm chỗ trống để viết.
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………….
Đọc để biết qua
Mục tiêu 3: Chọn câu diễn tả giá trị của phương pháp tổng hợp áp dụng vào
việc nghiên cứu Kinh Thánh .
Cậu bé đứng cạnh cửa sổ và lắng nghe tiếng sấm sét đang nổ tung ở bên
ngoài. Mưa rơi hàng giờ và điện thì tắt cả bên trong lẫn bên ngoài đều tối
tăm. Thình lình một tia chớp lóe lên, và một tiếng sấm sét làm nổ tung cửa
sổ. Trong giây phút ngắn ngủi, mắt cậu nhìn thấy toàn bộ khung cảnh: Mưa
như thác đổ, nước mưa trắng xóa, cây quằn xuống trước gió, một dòng nước
trào lên - Toàn cảnh là màu đen và trắng bức tranh được ghi lại trong đầu óc
cậu bé.
Cũng vậy, lần đầu đọc trọn quyển Kinh Thánh, bạn đã thấy được toàn bộ
bức tranh (đây là phương pháp tổng hợp đã nói trước khi áp dụng để nghiên
cứu một cách hay một đoạn); Chỉ cần nhớ các chi tiết quan trọng để có ấn
tượng chung và bố cục chính. Hãy đọc nhanh để tránh sự vẩn vơ của đầu óc
và chỉ nhận thấy những gì bạn nhận được mà không cần cố gắng lắm. Việc
đọc nhanh lần này rất quan trọng cho sự đọc lần kế tiếp.
8. Hãy đọc nhanh Mat Mt 14:23-32 để biết qua và ấn tượng chung. Rồi xếp
Kinh Thánh lại và tóm lượt cảm tưởng chung của bạn về khúc Kinh Thánh
này trong một hoặc hai câu.
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………
9. Câu nào giải thích đúng tại sao dùng phương pháp tổng hợp để nghiên
cứu Kinh Thánh có giá trị? Phương pháp tổng hợp có giá trị vì:
Cho những chi tiết quan trọng cần thiết để hiểu toàn bộ Kinh Thánh hoặc
một sách đọc lần đầu tiên.
Cho ấn tượng chung và bố cục chính của toàn bộ bức tranh.
Mang lại tinh thần, giọng điệu và toàn bộ mục đích của Kinh Thanh hay một
cách ngay lập tức.
Đọc để hiểu nghĩa:
Mục tiêu 4: Mô tả phương pháp phân tích của việc nghiên cứu Kinh Thánh .
Sáng hôm sau cậu bé đứng cạnh bên cửa sổ đó và nhìn thấy mặt trời xuất
hiện trên bầu trời trong vắt. Ngoại trừ việc mưa rơi và gió thổi đêm qua,
cảnh vật đều y nguyên - và nhiều hơn nữa. Cái nhìn thứ hai đã thêm chi tiết
và màu sắc cho mọi vật chung quanh.
Tương tự như vậy khi bạn đọc một khúc Kinh Thánh lần thứ hai hoặc lần
thứ ba, bạn sẽ thấy thêm nhiều chi tiết hơn ở lần đọc thứ hai. Màu sắc được
thêm vào trong ấn tượng chung. Bạn có thể cần phải đọc đi đọc lại cùng một
khúc Kinh Thánh nhiều lần trước khi các chi tiết hiện ra, nhưng khi bạn làm
như thế khúc Kinh Thánh sẽ cung cấp nhiều điều cho tâm trí và trong lòng
của bạn. Chính ở điểm này bạn sẽ bắt đầu đạt được một cảm nghĩ không chỉ
về sự kiện nhưng cả ý nghĩa của Kinh Thánh nữa.
10. Khoanh tròn mẫu tự đầu của các câu ĐÚNG sau đây:
Trong khi đọc để hiểu nghĩa chúng ta còn mong đạt được thêm tin tức bằng
cách tiếp tục đọc Kinh Thánh cách nhanh chóng để lập lại việc đọc qua để
viết.
Đọc để hiểu nghĩa là đọc chậm hơn, trong đó chúng ta cố gắng tập trung chú
ý vào những chi tiết qua trọng, thêm ý nghĩa vào cảm tưởng chung chúng ta
đã đạt được trong việc đọc để hiểu qua.
Đọc để hiểu nghĩa chỉ có nghĩa là chúng ta đọc đi đọc lại cùng các tài liệu để
gắn chặt điều đó trong tâm trí chúng ta, để cho chúng ta có một cảm nghĩ về
khúc Kinh Thánh đó nói gì và giúp chúng ta hiểu được nó có ý nghĩa gì.
Vậy phương áp dụng trong việc nghiên cứu Kinh Thánh đòi hỏi chúng ta
đọc cẩn thận các khúc Kinh Thánh nhiều lần. Việc này giúp bạn phân tích
toàn phần ra thành những phần nhỏ để bạn dễ tìm thêm ý nghĩa khác. Bạn
cũng có thể khám phá các phần liên hệ với nhau và liên hệ với toàn phần
như thế nào. Việc đọc Kinh Thánh theo phương pháp phân tích được áp
dụng cho từng sách, từng đoạn, từng câu, từng chữ. Sẽ giúp bạn thấu triệt
Kinh Thánh. rõ ràng, đây là một hình thức học mở rộng trải qua nhiều năm,
thậm trí cả đời người, nhưng đây là phương pháp có giá trị giúp chúng ta
hiểu biết thông suốt Lời Chúa. Đọc Kinh Thánh cách có hệ thống, cẩn thận
và suy nghĩ chuẩn bị việc phục vụ Chúa trong công tác giảng và dạy.
11. Hãy đọc Mat Mt 14:23-32 kỹ nhất hai lần. Sau đó hãy viết lại những cảm
nghĩ bạn nhận được vào sổ tay của bạn.
12. Mô tả phương pháp học Kinh Thánh bằng cách phân tích. Hãy trả lời ghi
vào sổ tay của bạn.
Tiếp tục pháp triển cá nhân:
Mục tiêu 5: Giải thích tại sao đời sống cá nhân của người hầu việc Chúa cần
tăng trưởng một cách liên tục .
Mọi sinh vật đều tăng trưởng! Chúng phát triển và mang kết quả. Mối quan
hệ của bạn với Đức chúa Trời là mối quan hệ thuộc linh. Theo đó, bạn cần
tăng trưởng, phát triển và kết quả. Phierơ thách thức chúng ta, hãy tấn tới
trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Chúa
Jêsus Christ (IIPhi 2Pr 3:18). Không nghi ngờ gì nữa. Lý do thách thức để
chúng ta tiếp tục lớn lên là khuynh hướng tự nhiên để “Tiến bộ”.
Đôi khi có những người hầu việc Chúa “Tiến bộ” rất nhanh trong chức vụ
của họ. Đối với một số người khuynh hướng này xuất hiện khi họ mới bắt
đầu chức vụ. Một người khác tiến bộ do họ có cơ hội để giảng hoặc dạy cách
đều đặn. Một số nữa hầu việc Chúa lớn lên và phát triển trong những năm
đầu chức vụ của họ và rồi những năm về sau lại không còn tiến bộ nữa. Có
lẽ họ “Tiến bộ” khi họ thấy mình đạt đến mục đích hoặc đạt được một mức
độ thừa nhận nào đó. Hoặc họ không thể tiến lên những thách thức to lớ hơn.
Là Cơ đốc nhân, chúng ta phải trưởng thành và tiến bộ liên tục. Là người
hầu việc Chúa càng phải lớn lên và tiến bộ nhanh hơn để phục vụ những
người khác. Mỗi mức độ phát triển đều có phần thưởng riêng của nó, nhưng
không có sự thành đạt nào đem lại sự thỏa lòng hoàn toàn được. Có những
đỉnh cao khác cần phải đạt đến, vì ân điển và sự hiểu biết của Chúa Jêsus
Christ không thể nào bị khô cạn hết được.
Một vài lãnh vực trong đời sống của bạn cần được sự chú ý thường xuyên vì
bạn cần đạt được đến sự trưởng thành cân đối. Lời Chúa và Đức Thánh Linh
cung cấp một khuôn mẫu trong đó bạn học tập để trở thành người quân bình,
trưởng thành và kết quả. Chúng ta hãy suy nghĩ về những lãnh vực phát triển
về trí năng thuộc linh xã hội và có thể trong đời sống của Chúa Jêsus qua đó
Ngài đã nêu lên một kiểu mẫu cho sự tăng trưởng và phát triển (LuLc 2:40).
13. Giải thích tại sao cần có sự phát triển cá nhân liên tục trong đời sống
những người hầu việc Chúa.

Về phương diện trí năng:


Mục tiêu 6: Hãy lựa chọn những câu mô tả thật đúng nhu cầu phát triển trí
năng liên tục trong đời sống người hầu việc Chúa .
Bạn không thể nào cho rằng mình đã hiểu đầy đủ hết Kinh Thánh Lời Chúa
của Đức chúa Trời là một nguồn chân lý vô tận đầy cảm hứng và lời giáo
huấn. Cùng một đoạn Kinh Thánh và cùng bài học cũ nếu chuyên cần nghiên
cứu sẽ đem lại cho bạn những nhận thức tươi mới. Điều này sẽ gia tăng sự
thỏa lòng cho bạn và khiến cho kinh nghiệm Cơ đốc nhân của bạn được tươi
mới hơn, khi bạn phát triển sự hiểu biết lớn lao hơn về Đấng Christ.
Có thể so sánh và phát triển trí năng của bạn với những kinh nghiệm ở nhà
trường. Chẳng hạn, lần đầu tiên con của bạn đến trường và học được nhiều
điều trong trình độ sơ cấp thì bạn rất thích thú. Nhưng nếu sự hiểu biết của
nó, khả năng lý luận của nó và các kỹ năng của nó không hề thăng tiến, thì
bạn có lo nghĩ không? Dĩ nhiên là bạn sẽ lo nghĩ lắm! Và nếu sự hiểu biết
thuộc linh của bạn không tăng trưởng, thì những người bạn phục vụ có
những lý do để lo âu. Chắc chắn một người muốn ban phát cho người khác
thì người đó phải có lương thực.
Khi bạn bắt đầu nghiên cứu Kinh Thánh, hãy sử dụng sách Kinh Thánh Phù
Dẫn và một cuốn Kinh Thánh Từ Điển. Và bạn cũng cần có bản Kinh Thánh
nhuận chánh quốc tế mới nhất “New International Version” Hãy nhờ những
người có kinh nghiệm và có kiến thức về Kinh Thánh chỉ dẫn thêm những
sách nào thích hợp nhất giúp bạn tham khảo trong khi học.
Khi bạn tiếp tục trau dồi trí năng, bạn nên ghi tên học thêm những môn học
hàm thụ khác sẽ có lợi cho bạn như khoa học Kinh Thánh ngắn hạn hoặc
ngay cả một khóa học dài hạn của trường Kinh Thánh. Dù thế nào, điều
quan trọng là bạn cũng phải được tiếp tục lớn lên và phát triển sự hiểu biết
và sự thông thạo Kinh Thánh bạn cũng thường nên đọc các tiểu sử của
những danh nhân Cơ đốc để mở rộng kiến thức về những người dâng mình
hầu việc Chúa như bạn và đã trưởng thành trong đức tin. Lời làm chứng của
họ về ân điển của Đức Chúa Trời sẽ cảm thúc bạn và cung cấp những thí dụ
tốt cho các bài học và bài giảng của bạn trong tương lai.
14. Hãy khoanh những mẫu tự đầu của câu dưới đây mô tả đúng nhu cầu tiếp
tục phát triển trí năng trong đời sống người hầu việc Chúa.
Sự phát triển trí năng đem lại sự thỏa mãn, cảm hứng cá nhân và tăng cường
khả năng phục vụ lẽ thật của Lời Chúa.
Ưu tiên tối cao theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh về việc chuẩn bị người hầu
việc Chúa là tăng trưởng trong lãnh vực trí năng.
Sự tăng trưởng hiểu biết là một trong những đặt tính của một đời sống thuộc
linh khỏe mạnh.
Sự phát triển trí năng phải tiến tới nếu một người muốn tiếp tục phục vụ
cách hiệu quả trong sự ban phát Lời Chúa. Nghĩa là, một người phải nhận
lãnh cũng tốt y như ban phát ra các chân lý thuộc linh.
VỀ PHƯƠNG DIỆN THUỘC LINH:
Mục tiêu 7: Giải thích nhu cầu tiếp tục phát triển phương diện thuộc linh
trong đời sống người hầu việc Chúa .
Sự tăng trưởng thuộc linh là một tiến trình liên tục. Khi bạn phục vụ người
khác bạn có trách nhiệm hướng dẫn và dìu dắt họ. Khi phần thuộc linh tăng
trưởng mạnh mẽ thì bạn chăm sóc họ tốt hơn. Mục đích của đời sống thuộc
linh của chúng ta là trở nên giống như Đấng Christ. Ý chỉ của Chúa đối với
mỗi người chúng ta là chúng ta được biến đổi trở nên giống như hình ảnh
của Ngài (RoRm 8:29). Khi chúng ta tương giao với Chúa và lớn lên trong
sự hiểu biết Lời Chúa, chúng ta trở nên giống như Ngài. Luôn luôn có một
điều gì đó về ân điển về sự hiểu biết của Chúa Jêsus cần phải được học hỏi
và từng trải (IIPhi 2Pr 3:18) Phaolô không bao giờ mơ ước đánh mất niềm
mơ ước nóng cháy này. Sau nhiều năm hầu việc Chúa, Ông đã bộc lộ điều
này khi ông nói “Mọi điều tôi mơ ước là được biết Đấng Christ, và kinh
nghiệm quyền phép sự sống lại của Ngài, chia sẻ thương khó của Ngài và trở
nên giống như Ngài” (Phi Pl 3:10). Kinh nghiệm riêng của bạn trong Đấng
Christ làm cho bạn hiểu biết về Ngài, và điều này sẽ phát triển đặt tính thuộc
linh trong đời sống bạn. Bạn sẽ dần dần phát lộ ra lòng thương xót , sự cảm
thông, sự kiên nhẫn đối với những sự yếu đuối của người khác và bạn có đầy
dẫy tình yêu của Ngài. Đây là tiến trình Đức Chúa Trời phát triển tấm lòng
của người chăn chiên trong chúng ta.
Kinh nghiệm của sứ đồ Phaolô cho chúng ta một thí dụ đặc biệt về phát triển
thuộc linh. Ngay từ đầu trong chức vụ truyền giáo, Phaolô có một lập trường
rất nghiêm khắc, cứng rắn trong đời sống và chức vụ của người Cơ Đốc. Khi
Giăng Mác từ giã Phaolô và Banaba trong cuộc hành trình truyền giáo lần
thứ nhất. Phaolô đã phải giải thích hành động này như là một sự đào ngũ và
đã không chịu để cho Giăng Mác có một cơ hội khác để tự chứng tỏ con
người của mình (Cong Cv 15:36-41). Tuy nhiên, khi Phaolô đã học tập sống
theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh (RoRm 8:4-11). Ông đã mềm mỏng
hơn và dịu dàng hơn trong thái độ đối với những người khác. Qua ảnh
hưởng mềm dịu của Đức Thánh Linh nhân tính của ông đã được Đức Thánh
Linh kiểm soát vốn mang lại sự sống và bình an. Chúng ta thấy sự thay đổi
rõ ràng đã xảy ra trong đời sống ông và do kết quả của sự phát triển thuộc
linh. Trong đời sống ông nhắn nhủ với Timôthê “Hãy đem Mác đến với con,
vì người thật có ích cho ta trong việc hầu việc lắm” (IITi 2Tm 4:11).
Khi chúng ta thấy những thái độ cũ những thành kiến cũ và những giá trị cũ
của ta thay đổi do công việc của Đức Thánh Linh ngự trong chúng ta, chúng
ta phải thừa nhận rằng những thay đổi mà Đức Thánh Linh muốn mỗi chúng
ta đạt được sự phát triển thuộc linh đích thực của chúng ta.
Ngay khi đã trưởng thành và là một sứ đồ đã được thử thách, và hầu việc
Chúa trung tín, Phaolô vẫn cảm thấy nhu cầu tiến tới hướng về mục đích
cuối cùng (Phi Pl 3:12-14). Và ông luôn luôn cảnh giác mọi người hầu việc
Chúa và chính bản thân ông về sự thối lui hay không sống đúng như những
gì mình dạy dỗ. (ICo1Cr 9:24-27) nên ông đã nói, “Tôi đãi thân thể tôi cách
nghiêm khắc, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi giảng dạy kẻ khác mà
chính mình phải bị bỏ chăng” (câu 27). Đức Chúa Trời không hài lòng và
khiển trách những người thối lui khi Ngài đã sẵn sàng cung ứng mọi sự để
cho đời sống thuộc linh của họ được trưởng thành (HeDt 10:38-39).
Sự khó khăn chính là cơ hội giúp ta trưởng thành thuộc linh. Những thử
thách xảy ra cho bạn có thể giúp bạn có kinh nghiệm phục vụ người khác,
khi bạn đã nhận biết Đức Chúa Trời là nguồn giúp đỡ riêng của bạn mạnh
thêm, những giờ phút khó khăn sẽ dạy cho bạn nhiều bài học tốt lành.
Đức Chúa Trời đã ban cho mỗi chi thể của thân thể Đấng Christ một chức vụ
hay công việc để làm. Khi bạn sử dụng chức vụ, thì chức vụ của bạn sẽ phát
triển, nếu bạn từ chối, chức vụ đó sẽ mất đi khi bạn trưởng thành thuộc linh
bạn sẽ gây ảnh hưởng rộng lớn, chức vụ hầu việc Chúa của bạn sẽ có kết
quả.
15. Hãy giải thích nhu cầu tiếp tục phát triển thuộc linh.

VỀ PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI:


Mục tiêu 8: Nhận diện ích lợi do mối liên hệ với xã hội đem lại .
Chúa Jêsus là người hòa mình vào xã hội. Ngài đã tham dự tiệc cưới, những
bữa ăn tối và những cuộc họp xã hội khác. Ngài thăm viếng những ngư phủ
ở bờ biển, Ngài đi lại trong các thành phố, Ngài giảng trong các nhà Hội và
Ngài dạy dỗ ngoài bờ biển. Nhiều người trong đám đông đã theo Chúa đến
những ngọn đồi và các làng mạc để nghe Lời Chúa và những phước lành của
Ngài. Ở nơi nào có người thì nơi đó có Chúa Jêsus. Nơi nào có Chúa Jêsus
thì nơi đó có người. Chúa Jêsus đã phán, “Cánh đồng là thế giới” (Mat Mt
13:38) và John Wesley, một trong những đại lãnh tụ phục hưng ở nước Anh
nói “Thế giới là giáo khu của tôi” điều này cho chúng ta một số chỉ dẫn về
nhu cầu cần liên hệ vào đời sống sinh hoạt của cộng đồng chúng ta.
Khi bạn giao tiếp với quần chúng, bạn mới có thể phục vụ họ. những bài học
và những bài giảng phát xuất từ tiếp xúc cá nhân sẽ giúp bạn đáp ứng những
nhu cầu của quần chúng. Chúa Jêsus đã phục vụ những cá nhân. Đôi khi
người ta cởi mở những tấm lòng của họ và bày tỏ các nhu cầu vào những
giây phút tiếp xúc riêng tư, khắp nơi ta đều cần gíúp đỡ và cần được yêu
thương. Hãy gây ấn tượng tốt đẹp về bạn. Mỗi lần tiếp xúc với một cá nhân
đều có thể là 1 cơ hội để bạn phục vụ.
Chức vụ thành công đòi hỏi bạn phải thông suốt với mọi người khác, quan
hệ tốt đẹp với mọi người khác. Mỗi người là một phần thân thể của Đấng
Christ, là Hội Thánh là chúng ta phải học cách hiệp tác với họ. Mỗi người
đều cần người khác, không một ai trong chúng ta là sống độc lập cả.
Một số cơ hội phục vụ sẽ đến khi bạn liên hệ cộng đồng. Bạn sẽ tỏ ra sự
quan tâm của bạn đối với điều kiện đạo đức và thuộc linh ở nơi bạn đang
sống khi bạn tiếp xúc liên hệ.
Người ta có thể phê bình bạn vì đã liên hệ nhiều với xã hội như người ta đã
làm như vậy đối với Chúa Jêsus (Mat Mt 11:19). Nhưng Ngài phục vụ họ
theo cách đó và bạn cũng có thể làm như vậy. Hãy nhớ rằng Cơ đốc nhân là
muối của đất và để có hiệu quả họ phải liên kết với thế gian và đem phước
hạnh đến cho thế gian qua sự tiếp xúc với họ. Nhưng sự tiếp xúc này có một
mục đích là phục vụ nhu cầu quần chúng, để họ có thể biết Chúa và vui
hưởng sự cứu rỗi của Ngài.
16. Khoanh tròn trước mẫu tự câu nào nhận diện đúng những ích lợi cho sự
tiếp xúc với xã hội đem lại. Sự liên hệ với xã hội.
Đưa một người đến trung tâm hoạt động của cộng đồng, ở đó người ấy có
thể tiếp xúc cá nhân dẫn đến các cơ hội phục vụ.
Là quả tim của sự phục vụ, vì các hoạt động xã hội là mục đích của Hội
Thánh.
Đem lại ảnh hưởng của đời sống Cơ đốc nhân làm tăng gia vị vào trong đời
sống đạo đức và thuộc linh của cộng đồng.
Về phương diện thể chất:
Mục tiêu 9: Giải thích tại sao người hầu việc Chúa phải lo chăm sóc thân thể
của mình .
Phaolô đã ám chỉ sự lo lắng thân thể trong những lời dạy Timôthê: “Vì sự
tập tành thân thể chẳng bao lâu, còn như sự tin kính là ích lợi cho mọi việc,
vì nó có lời hứa về đời này và về đời sau nữa” (ITi1Tm 4:8). Kinh Thánh
dạy rõ ràng đời sống thuộc thể không cao quí bằng đời sống thuộc linh. Tuy
nhiên, Kinh Thánh cũng dạy cách rõ ràng không kém rằng thân thể là đền
thờ của Đức Thánh Linh . (ICo1Cr 3:16). Rõ ràng là mỗi chúng ta có trách
nhiệm chăm sóc thân thể riêng của mình. Sự chăm sóc đúng đắn, sẽ đem lại
sức khỏe tốt. Tập thể dục cũng cần thiết cho đời sống của mỗi chúng ta .
Nếu bạn chăm sóc thân thể của bạn là bạn coi trọng đền thờ của Chúa. Nếu
bạn không chăm sóc hoặc làm thiệt hại cho thân thể của bạn phạm luật bảo
tồn sự sống và bạn phải trả giá về việc đó, việc gì cũng cần phải cân đối,
không nên lạm dụng thân thể của mình bằng cách bắt hoạt động nhiều, hoặc
không hoạt động gì cả. Bạn sẽ cảm thấy khỏe mạnh hơn, suy nghĩ tốt hơn và
cả thái độ của bạn đối với cuộc sống cùng sự phục vụ sẽ tốt đẹp hơn.
17. Hãy mô tả bằng ngôn ngữ của bạn tại sao bạn cần sự phát triển thể chất
và sự tập luyện thân thể. Hãy viết ra sổ tay của bạn, sự tăng trưởng trong các
lãnh vực trên đây đều quan trọng cho đời sống quân bình của chức vụ người
hầu việc Chúa. Tuy nhiên, bạn không cần phải chú ý vào chính sự lớn lên,
thì sự lớn lên sẽ xảy ra một cách tự nhiên. Một em bé có thể đào hạt giống
lên để xem nó có đang lớn không. Nhưng một nông dân trồng tỉa hạt giống,
và thực sự những việc cần thiết cho hạt giống đó nẩy mầm, tăng trưởng, thì
đến mùa ông sẽ gặt hái là điều tự nhiên.

Bài tập trắc nghiệm cá nhân


Nhu cầu tình nguyện cá nhân trong đời sống người hầu việc Chúa được giải
thích tốt nhất là:
Phát triển mối quan hệ thuộc linh căn bản giữa một người và Chúa
Giúp một người nhận được các bài học và các bài giảng khi người đó tĩnh
nguyện.
Thiết lập một khuôn mẫu tốt đẹp của trách nhiệm về công việc.
2. Nhu cầu đọc Kinh Thánh và tĩnh nguyện cá nhân (trong đời sống người
hầu việc Chúa) được so sánh tốt nhất trong bài học này với nhu cầu của:
Linh hồn vì sự thông công với những người cùng khác cùng đức tin.
Tâm linh vì sự tươi mới đến được từ sự hiện diện của Chúa.
Thân thể vì lương thực hằng ngày của nó.
3. Khi tâm trí một người đầy dẫy Lời Đức Chúa Trời và duy trì một đời sống
thuộc linh bền đổ, thì người đó sẽ bày tỏ ra một.
Tâm trí nhạy bén, câu trả lời nhanh chóng và nắm vững những vấn đề thuộc
linh.
Tâm linh ngọt ngào, một thái độ đẹp đẽ và những tư tưởng cùng hành động
tốt giống như thở hít không khí trong lành.
Rút lui khỏi xã hội để cuối cùng dẫn đến chỗ xa lánh mọi người và mọi vật
của thế gian.
4. Khi một người đọc Kinh Thánh để nhận được bức tranh toàn diện của
Kinh Thánh thì người đó dùng phương pháp gì?
Phân tích
Tổng hợp
Phản đề (phép đối chiếu)
5. Phương pháp đọc Kinh Thánh cẩn thận giúp phân chia toàn bộ thành từng
phần để bạn có thể hiểu cách chi tiết tốt hơn, đó là phương pháp nào?
Tổng hợp
Phản đề
Phân tích
6. Kinh Thánh dạy rằng Chúa Jêsus khôn ngoan càng thêm, thân hình càng
lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta (LuLc 2:40). Phierơ nói
rằng Chúa Jêsus để lại chúng ta một gương hầu cho chúng ta noi dấu chơn
Ngài (IPhi 1Pr 2:21). Từ những câu này chúng ta thấy rằng ý muốn của
Chúa đối với chúng ta là:
Tiếp nhận sự cứu rỗi như là kinh nghiệm cuối cùng và không bao giờ mong
muốn lớn lên và phát triển, vì Chúa Jêsus đã làm hết cả mọi việc rồi.
Phát triển phần trí năng, thể chất, thuộc linh và phần quan hệ xã hội.
Mong rằng đời sống thuộc linh một khi đã bắt đầu có thể dẫn đến sự lớn lên
và phát triển.
7. Một trong những lý do tại sao Phierơ thách thức các Cơ đốc nhân lớn lên
trong ân điển và trong sự thông biết Chúa là người có khuynh hướng.
Cảm thấy rằng mình đã nhận được tất cả mọi sự có cần vào lúc mới ăn năn
tin Chúa (quy đạo).
Thỏa lòng với kinh nghiệm cứu rỗi và sự hiểu biết rằng mình là một người
Cơ đốc nhân rồi.
Nghỉ ngơi không chịu nỗ lực để lớn lên và trở thành trong sự phát triển cá
nhân.
8. Người hầu việc Chúa cần lớn lên trong sự hiểu biết Lời Chúa vì:
Khi người không bao giờ làm cạn hết được sự phong phú của Kinh Thánh,
vì mỗi lần đọc là người ta nhận được những nhận thức mới mẻ và các chân
lý sâu xa.
Đây là mạng lệnh của Chúa và là lời chứng của kinh nghiệm của chúng ta
càng lớn lên phong phú chừng nấy.
Cả hai lý do trên a) và b).
9. Trong điều kiện phát triển đời sống thuộc linh cá nhân, nếu một người
không thực tập và phát triển chức vụ mình thì chức vụ đó sẽ:
Không thể có hiệu quả trong việc tiến hành mạng lệnh của Chúa.
Sẽ bị hư mất.
Cuối cùng sẽ vô hiệu quả trong những năm sau đó.
10. Lãnh vực phát triển quan hệ xã hội là cần thiết vì:
Chúng ta được kêu gọi để cứu rỗi thế gian qua các hoạt động xã hội.
Các Cơ đốc nhân được kêu gọi để làm việc bước đi và làm chứng cho những
người dựng nên xã hội.
Khi chúng ta có mối liên hệ với xã hội, chúng ta trở nên quen thuộc với
những người của cộng đồng.
Trả lời những câu hỏi trong bài học
a) Sai
b) Sai
c) Đúng
d) Đúng
2. a) Sự cầu nguyện vô cùng quan trọng, sự cầu nguyện chuẩn bị năng lực
cho chúng ta đương đầu với những thử thách. Đây cũng là mạng lệnh thực
tế. Chúa Jêsus là gương mẫu cho tất cả chúng ta, nếu chúng ta thực sự cảm
thấy gánh nặng của một thế giới hư mất, chúng ta phải nắm bắt khải tượng
bằng sự quì gối cầu nguyện của chúng ta.
b) Hầu hết chúng ta, giống như các môn đồ, đều chậm hiểu về sự cấp bách
của việc bền đổ cầu thay. Thực ra một số đã cầu nguyện vì bắt buộc. Hãy
nhớ rằng: Các môn đồ không thưa với Chúa Jêsus “Hãy dạy chúng con
phương pháp cầu nguyện” nhưng “Hãy dạy chúng con cầu nguyện”.
c) Tâm linh loài người vội vã nói rằng: ”Vâng, tôi sẽ cầu nguyện”. Nhưng
khi đến giờ cầu nguyện chúng ta phải áp dụng mọi cố gắng để lập thì giờ cầu
nguyện và cố gắng để bền đỗ trong sự cầu nguyện.
3. b) Sự diễn tả tình yêu thương và lòng biết ơn, cộng với việc chờ đợi sự
hiện diện của Đức Chúa Trời khi Ngài làm tươi mới tâm linh của một người
bằng ân điển và sự nhơn từ của Ngài.
4. Tôi hết sức hy vọng bạn có thể đánh dấu vào nhiều mục sinh hoạt hằng
ngày. Nếu không, tôi cầu nguyện để bạn sẽ nhắm mục đích sinh hoạt hướng
về sự cải thiện trong những lĩnh vực quan trọng của sự sống thuộc linh.
5. Sự tĩnh nguyện cá nhân phát triển mối quan hệ thuộc linh căn bản giữa
Chúa và người hầu việc Chúa. Khi mối quan hệ này phát triển, ta nhận được
những sự phong phú của ân điển Đức Chúa Trời và theo phương cách đó
chúng ta có thể đáp ứng cho nhu cầu loài người. Một người không thể nào
dẫn dắt người khác đến một đời sống sâu nhiệm hơn nếu chính người đó
chưa kinh nghiệm. Trong khi cầu nguyện ta giao phó hết mọi lo âu cho Chúa
và nhận đầy dẫy ân điển của Đức Chúa Trời. Và khi nghiên cứu Kinh Thánh
ta được soi sáng và biết rõ ý muốn của Chúa và được thanh tẩy, để cho thích
hợp với chức vụ của mình.
6.Tất cả những câu này đều đúng.
7. Phương pháp tổng hợp là liên kết những phần khác nhau của Kinh Thánh
lại với toàn bộ sự khải thị của Lời Đức Chúa Trời. Phương pháp này cho
chúng ta thấy được sự hiệp nhất của nhiều phần Kinh Thánh với nhau và với
toàn bộ sự khải thị khi chúng ta đứng nhìn từ xa.
8. Câu trả lời của bạn. Mười hai môn đồ chiến đấu với trận bão trên biển
Galilê. Khi Chúa Jêsus hiện ra trên mặt nước, Phierơ cố gắng đi đến với
Ngài.
9. b) Cung cấp một ấn tượng chung và một bố cục chính của toàn bộ bức
tranh.
10. a) Sai
b) Đúng
c) Đúng.
11. Câu trả lời của bạn ở đây, có lẽ nhiều chi tiết hơn câu trả lời của bạn
trong câu số 8. Nó bao gồm cả sự kiện Chúa Jêsus sai các môn đồ qua bên
kia bờ sông trong khi Ngài cho dân chúng giải tán, để Ngài lên núi cầu
nguyện một mình. Trong lúc đó, các môn đồ gặp cơn sóng to, gió ngược. Và
lúc sáng sớm Chúa Jêsus xuất hiện trên mặt nước. Trước hết các môn đồ
hoảng sợ, rồi Ngài tự tỏ mình. Phierơ nhìn biết đó là Chúa Jêsus liền đi bộ
trên mặt nước đến với Ngài, nhưng khi ông không nhìn xem Chúa Jêsus nữa
mà lại nhìn vào sóng to gió lớn thì ông bắt đầu chìm. Chúa Jêsus cứu ông và
ông bị quở trách là ít đức tin.
12. Đây là phương pháp học Kinh Thánh nhờ đó chúng ta xem xét mỗi một
lần để biết ý của phần đó là gì. Nhờ sự nghiên cứu cẩn thận, sâu nhiệm từ
phần một chúng ta có sự hiểu biết chung về Kinh Thánh cách tốt hơn.
13. Câu trả lời của bạn. tôi xin lưu ý rằng không có một ai trong chúng ta đã
từng đạt đến nơi mà không còn sự phát triển được nữa. Chúng ta được thách
thức phải tiếp tục lớn lên trong Lời Chúa. Chỉ khi nào chúng ta lớn lên phần
thuộc linh thì chúng ta mới được hóa nên một ảnh tượng đối với Đấng
Christ.
14. Bạn khoanh tròn các câu a), c) và d).
15. Nhu cầu lớn nhất của chúng ta là biết Chúa Jêsus, trở nên giống như
Ngài hơn, chúng làm được việc này bằng sự tương giao với Ngài trong sự
cầu nguyện, hoàn toàn gần gũi bên Ngài.
16. Hãy khoanh tròn các mẫu tự câu a) và c).
17. Câu trả lời của bạn. vì thân thể là đền thờ Đức Thánh Linh, nên phải
được chăm sóc cách cẩn thận. Thân thể chúng ta đủ sức hoàn thành công
việc tốt đẹp khi được ăn uống nghỉ ngơi đầy đủ, và sự tập luyện thường
xuyên, thể xác mang dấu ấn rất quan trọng đối với thái độ tâm trí và tâm linh
của bạn.

Bạn hãy chuẩn bị tài liệu


Trong bài học đầu tiên chúng ta đã mô tả những nguyên tắc chung của chức
vụ và định nghĩa chức vụ giảng và dạy theo nghĩa đặc biệt. Bài học vừa qua
chúng ta đã đề cập đến sự chuẩn bị cá nhân cho chức vụ. Trong bài này
chúng ta nói về sự chuẩn bị tài liệu giảng và dạy.
Kinh Thánh là sứ điệp của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Vì thế, đây là
nguồn tài liệu chính cho sự giảng đạo và dạy đạo. Khi bạn giảng và dạy điều
quan trọng là phải theo lời Phaolô dạy Timôthê về lẽ thật hầu việc Chúa,
“Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công
không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật. (II Tim
2 :15). Trong bài học này bạn sẽ học về hai khía cạnh quan trọng của việc
giải nghĩa Kinh Thánh; 1) Việc sử dụng văn mạch và 2) Tầm quan trọng của
ngôn ngữ nghĩa đen và nghĩa bóng. Những điều này sẽ giúp bạn chuẩn bị
cách thích đáng các bài học, các bài giảng và truyền đạt chân lý của Đức
Chúa Trời cho người khác cách hiệu quả.
Phần cuối của bài học này giúp bạn tổ chức và thu thập tài liệu theo phương
pháp có hệ thống.
Bố cục bài học .
Sử dụng khúc Kinh Thánh liên hệ.
Những câu hỏi kích động tư tưởng.
Ngôn ngữ nghĩa đen và nghĩa bóng.
Thâu thập và tổ chức tài liệu.
Các mục tiêu của bài học
Khi bạn học xong bài này bạn phải có khả năng để:
Sử dụng đoạn Kinh Thánh liên hệ để giải nghĩa chính xác Lời Chúa.
Sử dụng những câu hỏi có ý nghĩa để kích thích tư tưởng về đoạn Kinh
Thánh liên hệ.
Phân biệt nghĩa đen và nghĩa bóng của Kinh Thánh.
Thâu thập và tổ chức tài liệu giảng và dạy.
Những sinh hoạt học tập :
Nghiên cứu sự phát triển bài học và trả lời các câu hỏi học tập như thường
lệ.
Học nghĩa các chữ căn bản mới mẻ đối với bạn
Làm bài tập kiểm tra ở cuối phần bài học và xem xét lại cẩn thận những câu
trả lời của bạn so với những câu trả lời có sẵn ở cuối sách hướng dẫn này.
Hãy đọc ôn lại những mục mà bạn trả lời không đúng.
Hãy ôn lại cách cẩn thận đơn vị 1(Bài học 1 - 3) rồi làm bài tường trình tổng
kết đơn vị 1 và gởi về cho người hướng dẫn Viện Hàm thụ Quốc tế của bạn.
Những chữ căn bản
Context: Những phần của bài văn bao quanh một chữ hay một câu và chiếu
sáng ý nghĩa cho chữ hoặc câu đó, mạch văn, văn cảnh.
Figurative: Diễn tả điều này bằng cách sử dụng điều khác, nghĩa bóng.
Literal: Dùng những chữ theo nghĩa thông dụng của nó, không khoa trương
hay tưởng tượng, nghĩa đen.
Simile: Một lối so sánh hai điều không giống nhau và thường giới thiệu bằng
chữ giống như, (Ví dụ: Má em giống như hoa hồng) lối so sánh sự so sánh.
Khai triển bài học
SỬ DỤNG MẠCH VĂN (Đoạn Kinh Thánh liên hệ)
Định nghĩa về mạch văn:
Mục tiêu 1: Chọn được nghĩa thích đáng về chữ “Mạch văn ”
Mạch văn của một khúc Kinh Thánh bao gồm tất cả những phần xung quanh
khúc Kinh Thánh đó. Những câu, những phân đoạn và những đoạn trước và
sau một câu tạo nên mạch văn trực tiếp của câu đó. Mạch văn mở rộng bao
gồm khúc Kinh Thánh liên hệ với đoạn văn và có thể gồm các phân đoạn,
một đoạn, hay cả toàn bộ một sách trong Kinh Thánh. Sử dụng mạch văn để
giải thích Kinh Thánh sẽ giúp bạn giảng dạy phù hợp với chân lý của Kinh
Thánh. Những sai lầm về giáo lý và thực hành là do lấy một câu ra khỏi
mạch văn và giải nghĩa sai. Không được lấy một câu ra khỏi bối cảnh của nó
và sử dụng để “chứng minh” một điều nào đó mà một người nào đó muốn
tin. Kinh Thánh cảnh giác rằng người ngu dốt và bất định có thể giải nghĩa
sai Kinh Thánh (IIPhi 2Pr 3:16) và Kinh Thánh khích lệ những người hầu
việc Chúa phải tìm hiểu ý chỉ của Đức Chúa Trời một cách ngay thẳng, đúng
đắn giảng dạy lẽ thật của Đức Chúa Trời (IITi 2Tm 2:15).
Mạch văn Kinh Thánh có thể định nghĩa tốt nhất như là.
Nỗ lực gắn một ý nghĩa nào đó một khúc Kinh Thánh căn cứ trên ý kiến
riêng của một người về Kinh Thánh.
Ý nghĩa rõ ràng của một câu nào đó đứng một mình.
Bối cảnh của đoạn văn Kinh Thánh, bao gồm những câu, những phân đoạn
và những đoạn trước và sau đoạn văn đó.
Thí dụ về mạch văn:
Mục tiêu 2: Mô tả sử dụng mạch văn đúng đắn để quyết định ý nghĩa của
một khúc Kinh Thánh .
Một sợi chỉ không bày tỏ hết cả kiểu mẫu của một tấm thảm, cũng vậy một
khúc Kinh Thánh không bao gồm đầy đủ ý nghia của lẽ thật. Cũng như
trường hợp tấm thảm, sự toàn vẹn của chân lý đươc nhìn thấy khi tất cả
những sợi dây chỉ của Kinh Thánh được dệt lại với nhau cách thích đáng.
Khi bạn sử dụng mạch văn hãy dùng Kinh Thánh để giải nghĩa Kinh Thánh.
Chúng ta hãy xem mạch văn có thể được dùng để giải nghĩa Kinh Thánh
như thế nào.
Hãy đọc Mat Mt 13:24-30. Thí dụ về cỏ lùn. Hãy lưu ý khi đám đông đã giải
tán. Chúa Jêsus giải nghĩa thí dụ này cho các môn đồ. Bây giờ hãy đọc mạch
văn, Mat Mt 13:36-43, để xem chính lời giải nghĩa trên của Chúa Jêsus. Hầu
hết các thí dụ đều được giải thích nếu bạn để ý cẩn thận đến mạch văn.
Hãy đọc LuLc 11:5-10 và trả lời các câu hỏi sau đây:
a) Chủ đề chính của đoạn văn này
………………………………………………………………………………
……………………………………………………
b) Qua thí dụ này Chúa Jêsus dạy chúng ta.
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….
Kể chi tiết về chuyến viếng thăm Giêrusalem của Chúa Jêsus nhân lễ Lều
Tạm được chép ở GiGa 7:10-39. Vào ngày cuối của kỳ lễ Chúa Jêsus đã
đứng lên và kêu lớn tiếng “kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy
trong lònh mình” (câu 38). Những lời này được giải thích trong mạch văn:
“Ngài phán điều đó chỉ về Đức Thánh Linh mà người nào tin Ngài sẽ nhận
lấy, bởi bấy giờ Đức Thánh Linh chưa ban xuống, vì Đức Chúa Jêsus chưa
được vinh hiển” (câu 39). Lời giải thích được nêu ra trong mạch văn là sự
giải nghĩa đúng đắn bởi vì tác giả đã viết trực tiếp trong Kinh Thánh.
3. Hãy đọc 2:13-20 và trả lời câu hỏi sau đây để chứng tỏ bạn hiểu cách
dùng mạch văn cách thích đáng. Khi Chúa Jêsus phán rằng người Do Thái
hãy “phá đền thờ này đi và trong ba ngày ta sẽ dựng lại”, là Ngài đang chỉ
về.
Một phép lạ mà Ngài làm ra để chứng tỏ quyền năng của Ngài.
Sự sụp đỗ đền thờ do người La Mã tàn phá ba ngàn năm lịch sử trước khi
Ngài sẽ xây dựng lại.
Thân thể của Ngài, mà các môn đồ chỉ hiểu được sau khi Ngài từ kẻ chết
sống lại.
Những từ ngữ được định nghĩa do mạch văn
Mục tiêu 3: Chứng tỏ cách dùng mạch văn để định nghĩa các từ ngữ .
Mạch văn có thể giúp ích cho việc tìm hiểu ý nghĩa các từ ngữ. Chúng ta
phải cẩn thận để cho mạch văn của một từ ngữ quyết định ý nghĩa và tầm
quan trọng của nó bởi vì mạch văn giới hạn rõ ý nghĩa của nó và giữ cho nó
khỏi bị giải thích bằng nghĩa khác. Mac Mc 12:18 kể lại chút ít ý về niềm tin
của Phe Sađusê: “Các người Sađusê, là những kẻ nói rằng không có sự sống
lại, đến gần mà hỏi Ngài…” và Cong Cv 23:8 diễn ý đức tin này và kết luận
một câu về niềm tin của người Pharisi.
Sử dụng văn mạch
Những từ ngữ được định nghĩa bởi văn mạch
Thí dụ văn mạch
Định nghĩa văn mạch
4. Về việc sử dụng văn mạch để quyết định ý nghĩa của các từ ngữ, hãy đọc
những câu Kinh Thánh sau đây và ghi ra mạch văn cung cấp cho mỗi chữ in
nghiêng.
Trong Mat Mt 1:23 chữ EMMANUEN có nghĩa
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
b) Trong 1:21 chữ JESUS có nghĩa
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
c) Trong 27:33 chữ GOGOTHA có nghĩa
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
d) Trong Mac Mc 3:17 chữ BÔ-A-NẸT có nghĩa
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….
Những câu kích thích tư tưởng:
Bối cảnh là gì?
Mục tiêu 4: Mô tả cách dùng bối cảnh của Kinh Thánh để giải nghĩa cách
phân đoạn của Kinh Thánh .
Bạn sẽ hiểu ý nghĩa của khúc Kinh Thánh tốt hơn nếu bạn biết được bối
cảnh lời nói hay câu văn. Mọi lời của Chúa Jêsus nói ra đều nhằm đáp ứng
cho từng hoàn cảnh. Dạy dỗ của Ngài về sự tái sanh là câu trả lời cho nhu
cầu nội tâm của một người mộ đạo (GiGa 3:1-21). Bài giảng về “Nước sự
sống” của Ngài được giảng ra trong bối cảnh của Giếng GiaCốp (GiGa 4:1-
30). Khi các môn đồ từ làng Samari trở lại, Ngài được thúc dục dạy dỗ họ về
thức ăn và ý muốn của Đức Chúa Trời (GiGa 4:31-35) và nhu cầu của con
gặt trong mùa gặt (GiGa 4:36-38). Trong mỗi trường hợp bối cảnh là rất
quan trọng để hiểu đầy đủ về sự dạy dỗ của Kinh Thánh.
5. Hãy đọc mỗi khúc Kinh Thánh sau đây và viết vào sổ tay của bạn bối
cảnh của mỗi trường hợp.
GiGa 5:35-40…
Mat Mt 19:27…
Để hiểu chính xác sự dạy dổ của Chúa Jêsus về những thí dụ (con chiên,
đồng bạc, đứa con bị mất) trong LuLc 15:4-32 bạn cần biết bối cảnh câu
chuyện Chúa kể. Luca đã giới thiệu một ngày kia hết thảy các người thâu
thuế và người có tội đến gần Đức Chúa Jêsus đặng nghe Ngài giảng. Các
người Pharisi và các thầy thông giáo lằm bằm mà nói rằng: Người tiếp
những kẻ tội lỗi và cùng ăn với họ! Vì vậy, Ngài bèn phán cho họ lời thí dụ
này. (LuLc 15:1-3). Thái độ của người chăn chiên, người đàn bà và người
cha đối với những vật bị mất trái ngược hẳn với thái độ của người Pharisi và
các thầy Thông giáo. Tuy nhiên người anh cả tức giận đối với đứa em được
cha tha thức là một thí dụ rất đúng khi so sánh với thái độ của người Pharisi
đối với những tội nhân mà Chúa Jêsus đã tha thứ.
6. Thí dụ về người Samari nhân lành (10:30-37) được đưa ra.
Để trả lời câu hỏi của thầy dạy luật: “ai là kẻ lân cận tôi?”
Vì câu hỏi “làm sao để thành người lân cận tốt” do mười hai sứ đồ đặt ra.
Cho một thầy dạy luật không hiểu biết trách nhiệm với cộng đồng.
Điều quan trọng là hiểu được các bối cảnh trong Kinh Thánh. chẳng hạn,
sách Rôma được Phaolô viết ra do gánh nặng trong lòng ông muốn đi thăm
viếng Hội Thánh Rôma (RoRm 1:8-15) “Các thư tín Côrinhtô (ICo1Cr 1:11,
7:1, 8:1, 12:1).
Những từ hay những cụm từ trong bản văn đôi khi gợi ý về sự phân chia
quan trọng hoặc sự chuyển mục các biến cố trong cuốn sách. Chẳng hạn, ở
Sêsarê, Philíp, Chúa Jêsus đã bắt đầu một giai đoạn mới trong chức vụ của
Ngài với môn đồ (Mat Mt 16:21). Điều gì thay đổi quan trọng trong sự dạy
dỗ của Ngài? Câu trả lời được tìm thấy trong mạch văn (16:13-20), khi
Phierơ nói “Ngài là Đấng Christ (Messiah), Con Đức Chúa Trời hằng sống”.
Bạn có thể nhớ lại rằng Chúa Jêsus đã thành một nữa phần chức vụ của Ngài
để dạy dỗ họ rằng. Đấng Massiah phải chịa khổ, chịu chết và được sống lại
khi thấy khúc quanh quan trọng của các biến cố này chúng ta sẽ dễ hiểu hơn
về sự nhấn mạnh về cái chết của Ngài vốn được chia ra trong các đoạn kế
tiếp của sách Mathiơ.
Đôi khi sự phân chia cuốn sách do sự lập lại các cụm từ hoặc các từ. Ví dụ:
ICo1Cr 7:1, 7:25, 8:1, 12:1. Hai trong số những sự thay đổi chính yếu trong
chức vụ ở sách Công vụ sứ đồ được chép trong Cong Cv 8:1 và 13:46.
Một vài từ hay cụm từ được lặp lại gợi ý nghĩa của các phân đoạn Kinh
Thánh mà bạn đang đọc. Một trong những cụm từ được lặp đi lặp lại trong
sách Tin Lành Mathiơ là “mọi việc đã xảy ra như vậy, để cho ứng nghiệm
Lời Chúa đã dùng Đấng tiên tri mà phán rằng “Câu này được lặp lại trong
Mat Mt 1:22, 2:15, 2:17, 2:23 v.v…
Hãy tự đặt những câu hỏi về bối cảnh của Kinh Thánh mà bạn đang nghiên
cứu. Một số các câu hỏi đó có nên bao gồm là. Hoàn cảnh ở đây là gì? Điều
đã tạo nên việc này? Lời nói này? Tại sao những lời này đã được lặp lại? Lời
này được nói với ai? Viết cho ai? Và tại sao? Hãy trở lại với mạch văn để
tìm câu trả lời. Điều đó sẽ làm phong phú sự hiểu biết của bạn về đoạn văn
đồng thời giúp cho những thí dụ, những lời minh họa để dùng trong sự giảng
và dạy.
7. Hãy mô tả thế nào bối cảnh của Kinh Thánh giúp chúng ta giải nghĩa các
phân đoạn Kinh Thánh.
Ai đang nói đây?
Mục tiêu 5: Hãy lựa chọn một câu Kinh Thánh nói và giải thích tại sao biết
người đang nói trong khúc Kinh Thánh đó là điều rất quan trọng .
“Tại sao ông không rủa sả Đức Chúa Trời và chết đi?” (Giop G 2:9). Nếu
những chữ này nghe có lạ đến từ Kinh Thánh đó là vì bạn không hiểu biết ai
nói câu đó và nói trong trường hợp nào. Bà vợ ông Gióp đã phát biểu như
thế khi bà thấy chồng bà gặp hoàn cảnh khủng khiếp sau khi mất hết mọi sự
ngoại trừ mạng sống ông. Mạch văn cho thấy ông Gióp đã từ khước lời nói
của bà và vẫn kiên định đức tin nơi Đức Chúa Trời. Nếu bạn biết ai đang nói
và nói trong trường hợp nào thì bạn sẽ được nhiều ích lợi hơn khi giải nghĩa
câu nói đó. Hãy nắm cho rõ người nói câu nói đó là người lành hay người
dữ, vì cả hai đều được ghi chép trong Kinh Thánh. Những lời của ma quỉ
(SaSt 3:1-5, Mat Mt 4:1-11v.v… cùng với những lời của những người ác
như Vua Nêbucátnétsa. (DaDn 4:28-30) và Ha-man (EtEt 3:8-9) đều có chép
trong Kinh Thánh. Rõ ràng, bạn sẽ suy nghĩ đến những lời của người lành.
Cả Kinh Thánh đều là lời bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, nhưng tất cả mọi
người trong Kinh Thánh không nhằm mục đích để làm gương cho chúng ta
noi theo đâu. Vì lý do này là điều quan trọng là cần thiết ai đang nói đây.
8. Hãy so sánh TrGv 1:1-2 với NeNe 13:26 và trả lời các câu hỏi sau đây:
Ai đang nói trong TrGv 1:1- 2?
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….
Các hoàn cảnh bao quanh quan điểm của ông trong sách Truyền đạo là gì?
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
…………………………………..
Nêhêmi dùng gương sai ngã của Salômôn nhằm lý do gì?
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….
Lời nói sẽ có thêm ý nghĩa khi bạn thấy được hoàn cảnh và người đang nói
đó. chẳng hạn, việc Phierơ biện hộ về việc giảng Tin Lành cho người ngoại
bang (Cong Cv 11:1-18) càng có ý nghĩa thêm nhiều khi bạn biết ông đã
chống lại khải tượng Chúa ban cho ông (10:8 - 21) trước khi ông đi giảng
cho người ngoại bang ở nhà Cọtnây. Những lời của Phaolô nói về sự chung
thành của ông với khải tượng Chúa ban cho ông (26:19) càng cảm động hơn
khi bạn biết được ông đã chịu biết bao nhiêu khổ sở khi vâng theo khải
tượng đó (IICo 2Cr 11:22-30). Khi ông viết thư cho Hội Thánh Philíp ông
nói mình đã tập thỏa lòng trong mọi cảnh ngộ (Phi Pl 4:12 -13) là ông đang
viết từ trong mọi cảnh ngộ (4:12-13) là ông đang viết từ trong nhà ngục
(1:12-14). Điều quan trọng là biết được tính chất của người đang nói khi bạn
đọc người đó nói gì. Mạch văn sẽ làm sáng tỏ điều này.
9. Hãy lựa chọn câu nói dưới đây giải thích tốt nhất tại sao bạn phải biết
người đang nói khi bạn suy xét ý nghĩa của một khúc Kinh Thánh .
Nếu bạn biết được người đang nói đó là ai, sẽ giúp ích cho ta rất nhiều khi
giải nghĩa Kinh Thánh và bởi vì điều này chúng ta biết câu nói đó là đúng
không
Điều rất quan trọng để biết ai nói gì và ở trong trường hợp nào bởi vì việc
này giúp chúng ta biết đây có phải là mạng lệnh chỉ vâng theo hay chỉ là câu
nói không liên quan gì đến mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời.
Biết ai đang nói một điều và trong trường hợp nào chỉ quan trọng để có được
bức tranh toàn diện, chứ không phải để đánh giá câu nói đó.
Ngôn ngữ nghĩa đen và nghĩa bóng
Giải thích:
Mục tiêu 6: Nhận diện những thí dụ về ngôn ngữ nghĩa đen và nghĩa bóng
trong Kinh Thánh ,
Ngôn ngữ nghĩa đen là cách dùng chữ và câu cách bình thường và tự nhiên.
Theo qui luật chung. Thông thường bạn có thể hiểu các từ trong Kinh Thánh
theo nghĩa đen. Chỉ khi nào ngôn ngữ rõ ràng không phải là nghĩa đen thì
bạn mới tìm nghĩa bóng. Không có lý do để nghi ngờ Êđen, Ađam và Êva,
Nôê, Giôna nước Ysơraên, Hội Thánh hay Giêrusalem mới là những người
thật, nhân vật thật và địa điểm thật. Ngôn ngữ theo nghĩa đen của Kinh
Thánh không có gì khó hiểu cả.
Ngôn ngữ theo nghĩa bóng thường được dùng để ngụ ý về một điều khác.
Thí dụ trong Kinh Thánh từ liệu một vầng đá, một đồn lũy và một cái khiên
được dùng để chỉ Đức Chúa Trời. Ysơraên được xem như một vườn nho, và
ma quỉ thì như sư tử rống đi rình mò xung quanh để bắt mồi. Ngôn ngữ dùng
nghĩa bóng rất phổ thông trong mọi nền văn hóa như một phương tiện truyền
thông để thêm sự hiểu biết. Kinh Thánh thường dùng các từ cuộc sống hằng
ngày trong nhà và ngoài đồng ruộng. Điều đó giúp cho mọi người bình dân
thích thú và để hiểu Lời Chúa Jêsus khi đọc. Nhờ đó dễ gây ấn tượng vào
tâm trí và để cho người ta ghi nhớ Kinh Thánh .
Cách nói bóng được dùng rất nhiều trong Kinh Thánh và không phải lúc nào
cũng dễ dàng hiểu được nghĩa của nó. Làm thế nào để bạn nói rằng đoạn văn
này thuộc nghĩa đen hay nghĩa bóng? Đây là qui luật đơn giản: “Kinh Thánh
phải được hiểu theo nghĩa đen bất cứ khi nào có thể và chỉ theo nghĩa hình
bóng nếu không chấp nhận nó theo nghĩa đen.
Mạch văn có nghĩa thông thường sẽ giúp bạn hiểu rõ phần Kinh Thánh này
theo nghĩa đen hay nghĩa bóng và ngay cả ngôn ngữ dùng nghĩa bóng cũng
chứa đựng một chân lý hay giãi bày một chân lý theo nghĩa đen. Để hiểu
ngôn ngữ theo nghĩa bóng chúng ta phải xem xét cách dùng của nó trong
Kinh Thánh và chúng ta cần học hỏi bối cảnh của cả Tân lẫn Cựu ước. Chỉ
có cách này chúng ta mới thật sự hiểu được nghĩa bóng của một câu đã
dùng.
Một trong những câu nói hình bóng thông dụng nhất là lối so sánh. Lối so
sánh được diễn tả để so sánh hai điều hay hai ý tưởng khác nhau trong đó
điều này được gọi là: “giống” hoặc “như” điều kia. Hãy đọc Thi Tv 103:13-
16 và ChCn 26:14 chẳng hạn.
KINH THÁNH PHẢI ĐƯỢC HIỂU THEO NGHĨA ĐEN
BẤT CỨ KHI NÀO CHỈ CÓ THỂ HIỂU THEO NGHĨA BÓNG
NẾU KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN NÓ THEO NGHĨA ĐEN
10. Trong thí dụ ở dưới đây hãy chỉ ra mỗi câu dùng nghĩa hình bóng hay
nghĩa đen bằng cách đặt số 1 cho nghĩa đen và 2 cho nghĩa hình bóng.
Giacốp từ đó đi lên và sống ở Bêtên .
Giống như chiên con sắp bị làm thịt …….. Ngài chẳng hề mở miệng
Tất cả các cửa lụt ở trên trời đều mở ra
Lâu năm về trước, trong những ngày trước khi dân Ysơraên có một vị vua đã
có một nạn đói xảy ra trong xứ.
Minh họa:
Mục tiêu 7: Giải thích đúng các thí dụ về ngôn ngữ hình bóng trong Kinh
Thánh .
Nicôđem đã bối rối khi Chúa Jêsus phán rằng một người phải được tái sanh
mới thấy được nước Đức Chúa Trời (GiGa 3:1-8). Câu hỏi của ông là “Làm
thế nào để một người tái sanh được?…
Người đó chắc chắn không thể vào lòng mẹ và sanh ra lần thứ hai! (câu 4).
Chúa Jêsus dùng ngôn ngữ hình bóng, còn Nicôđem thì hiểu theo nghĩa đen.
Việc tương tự đã xảy ra với người đàn bà Samari: bà suy nghĩ rằng Chúa
Jêsus đang chỉ về nước từ giếng Giacốp khi Ngài nói về nước ban sự sống
(4:7-15).
Chúng ta sẽ gặp khó khăn khi hiểu nghĩa bóng thành nghĩa đen. Khi Chúa
Jêsus nói về thân thể của Ngài như là bánh thì dân chúng bắt đầu bàn cãi
(6:48-52). Làm thế nào người này cho thịt mình để chúng ta ăn được? (câu
52). Rồi Chúa Jêsus nói về thịt Ngài thật là đồ ăn, huyết Ngài thật là đồ
uống. Lúc này vì nhiều môn đồ của Ngài không đi theo Ngài nữa vì những
lời đó khó hiểu đối với họ (6:60-66). Mặc dầu mạch văn diễn tả điều đó,
nhưng nghĩa thông thường cho họ thấy rằng Chúa Jêsus không cho họ ăn thịt
Ngài và uống huyết Ngài theo nghĩa đen. Chính Phierơ đã hiểu điều này.
Khi đám đông đã đi rồi ông bày tỏ lòng tin rằng những Lời của Chúa Jêsus
ban sự sống đời đời (6:66-69) Ngay đến cả ngày hôm nay một số các tín đồ
vẫn còn hiểu lầm về vấn đề này. Một số lại tin rằng thịt và rượu của Lễ Tiệc
Thánh đã trở thành huyết thật và thịt của Chúa Jêsus.
11. Hãy đọc Mat Mt 26:26-28 và ICo1Cr 11:23-29 và hãy điền vào cho đủ ý
các câu sau đây.
Khi Chúa Jêsus phán về bánh, “này là thân thể ta” Ngài ngụ ý rằng bánh bể
ra là.
………………………………………………………………………………
………………………………………………………..
………………………………………………………………………………
………………………………………………………..
Khi Chúa Jêsus tuyên bố về chén rằng “này là huyết ta đóng ấn giao ước của
Đức Chúa Trời” là Ngài ngụ ý rằng.
………………………………………………………………………………
………………………………………………………..
………………………………………………………………………………
………………………………………………………..
Sử dụng ngôn ngữ hình bóng, Chúa Jêsus đã ứng dụng các biến cố thật để
dạy các chân lý thuộc linh trong một số trường hợp: ngày lễ và nước sống
(GiGa 7:37-39), sự chữa lành người mù (9:1-41), sự chết của Laxarơ (11:1-
27). Và sự rửa chân cho các môn đồ (13:1-17). Khi bạn đọc những khúc
Kinh Thánh này bạn có phân biệt dễ dàng những biến cố xảy ra thực sự với
ngôn ngữ hình bóng hay không?
Sự giải nghĩa theo nghĩa đen
Sự tiêu biểu theo nghĩa hình bóng.
12. Đôi khi thật khó để nói rằng phân đoạn Kinh Thánh này theo nghĩa đen
hay nghĩa bóng. Hãy mở Mat Mt 19:16-26, Mac Mc 10:17-27, và LuLc
18:18-27 và đọc Lời Chúa Jêsus về con lạc đà chui qua lỗ kim.
Đây là nghĩa đen hay nghĩa bóng?
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
Bạn có thể quyết định điều này trên cơ sở của mạch văn, của nghĩa thông
dụng hay cả hai?
Bài học gì đã được dạy trong thí dụ này, ngôn ngữ ở đây theo nghĩa đen hay
nghĩa bóng?
………………………………………………………………………………
………………………………………………………..
………………………………………………………………………………
……………………………………………………….
Thâu thập và tổ chức tài liệu:
Làm thế nào để băt đầu “Khu vườn bài giảng”
Mục tiêu 8: Giảng làm thế nào và tại sao bạn xây dựng một khu vườn bài
giảng .
Tài liệu giảng và dạy phải được thu thập, sắp đặt có thứ tự và lưu trữ để
dùng khi cần. Giống như phải gom thức ăn để chuẩn bị một bữa ăn, cũng
vậy phải thâu thập tài liệu để chuẩn bị bài giảng và bài dạy. Điều quan trọng
không kém là làm thế nào để tìm được tài liệu cách nhanh chóng khi bạn cần
đến. Vì đó bạn cần một hệ thống sưu tập tài liệu.
Bạn có thể thiết lập một hệ thống đơn giản với độ 25 kẹp hồ sơ và một thùng
cạt hay một hộp gỗ. Nếu được, nên làm kẹp hồ sơ mang đi theo được hoặc
một tủ hồ sơ nhỏ là tốt nhất.
Hầu hết những bài giảng “lớn lên” từ hạt giống tư tưởng hoặc những câu
Kinh Thánh đầy ý nghĩa trong một giây phút nào đó. những ý tưởng này, dù
thâu thập được từ việc đọc sách, quan sát, kinh nghiệm, nhu cầu v.v… đều
phải được gìn giữ và phát triển thành các bài giảng. Những bước tiếp theo sẽ
giúp bạn tổ chức một “khu vườn bài giảng” để dùng vào việc phát triển các
bài giảng từ giai đoạn tư tưởng cho đến sự trưởng thành đầy trọn.
13. Lý do chúng ta xem hệ thống thâu thập, lưu trữ và phát triển các tài liệu
bài giảng như một “khu vườn bài giảng” là
Sự giảng và dạy rất giống với việc làm vườn
Sự khác nhau trong các đề tài bài giảng rất giống như việc làm vườn.
c) Hầu hết các bài giảng “lớn lên” và “trưởng thành” rất giống như tiến trình
trồng một cây trong vườn.
Bước 1: Đặt tên nhãn hiệu một kẹp hồ sơ là “Các Hạt giống”.
Kẹp hồ sơ này sẽ chứa đựng tất cả các ý tưởng cho những bài giảng giữ một
tập giấy nhỏ trong túi của bạn và bên cạnh giường ngủ để ghi lại tóm tắt
những ý tưởng chợt đến. Chuyển những ghi chú đó vào tấm giấy đúng cỡ và
đặt vào tập hồ sơ “Các hột giống”. Đây là những sự khởi đầu cho những bài
giảng. Một số tài liệu bạn sẽ sử dụng, một số khác bạn sẽ bỏ qua. Nhưng
mỗi tài liệu cần được giữ gìn và xem xét đến.
Bước 2: Đặt tên hồ sơ thứ hai là “Thân cây”.
Khi một ý tưởng bắt đầu trưởng thành bạn sẽ di chuyển nó từ hồ sơ “Các hạt
giống sang hồ sơ “Thân cây”. Khi tài liệu được thêm vào những ý tưởng
được gia tăng kích thước và sức mạnh thì nó trở thành thân bài giảng. Khi
bạn làm nhiều bài giảng thì bạn chuẩn bị thêm nhều hồ sơ sưu tập.
Bước 3: Viết tên tập tin hồ sơ thứ ba là “Kết quả” hoặc “Trái cây”.
Hồ sơ này gồm chứa bài giảng đã xong hoặc gần xong. Đây là kết quả công
khó của bạn. Ý tưởng đã phát triển, hạt giống đã trưởng thành đầy trọn.
Bạn có thể sử dụng cùng một tập hồ sơ sưu tập đó để thu thập và lập hồ sơ
tin tức thí dụ để dùng trong việc soạn các bài giảng. Bạn sẽ cần đến bốn tập
hồ sơ, mỗi tập hồ sơ dùng cho mỗi đề tài sau đây: “Sự cứu rỗi” “Sự giảng
hòa” “Sự nên thánh” “Sự hy vọng”. Mỗi đề tài nên dùng một tập hồ sơ lưu
trữ. Đây là bốn đề tài chính mà chúng ta sẽ đề cập đến trong bài học số năm.
Các thí dụ và tin tức có thể thu thập và lưu trữ bằng một trong bốn tập hồ sơ
này. Một số các tài liệu soạn bài giảng sẽ được sử dụng từ những nguồn này.
Bạn cần có môt tập hồ sơ khác để giữ những bài giảng đã giảng rồi. Hãy đặt
tên tập hồ sơ này là “Các bài giảng”. Hãy lập danh sách bài giảng để trong
các tập hồ sơ lưu trữ này với các tiêu đề sau đây: Số bài giảng, đề tài bài
giảng, nội dung kinh văn. Ngày giảng. Nơi giảng. Khi lập hồ sơ này nên ghi
đầy đủ các nhận xét về mỗi bài giảng. Hãy gìn giữ các bài giảng theo thứ tự
con số để tìm kiếm sắp xếp nhanh chóng. Sau khi có 50 cho tới 100 bài
giảng hoặc một năm giảng, hãy bắt đầu một tập hồ sơ lưu trữ khác.
Đây là hệ thống đơn giản có thể bổ sung và mở rộng khi cần. Bạn có thể sử
dụng nó, thay đổi nó, hoặc lập một hồ sơ khác, nhưng bạn hãy bắt đầu thu
thập tài liệu và lưu trữ các ý tưởng và tài liệu một cách có hệ thống. Điều
này sẽ giúp bạn chuẩn bị bài giảng và bài dạy dễ dàng và thuận tiện hơn.
14. Giải thích và làm thế nào và tại sao bạn phải xây dựng một vườn bài
giảng.
Bài giảng không tự nhiên có nhưng do sự tích lũy qua việc đọc Kinh Thánh
nên cần phải xây dựng một vườn bài giảng qua những ý tưởng chúng ta
được Chúa mang đến.
Hạt giống: Ý tưởng đầu tiên
Thân cây: Bắt đầu phát triển những ý tưởng phụ xung quanh
Trái cây: Bài giảng đang hình thành về cơ bản
Bài tập trắc nghiệm
ĐÚNG - SAI: Đặt chữ Đ trước những câu nói đúng, chữ S trước những câu
nói sai.
Mạch văn của câu Kinh Thánh bao gồm tất cả những câu bao xung quanh
câu đó.
Những sai lầm về giáo lý và thực hành đều do trích dẫn 1 câu Kinh Thánh
đơn độc tách ra khỏi mạch văn và gán cho nó một nghĩa sai.
Khuôn mẫu đầy đủ của chân lý được thấy khi một vài sợi chỉ của câu Kinh
Thánh được dệt lại với nhau.
Hầu hết thí dụ đều được giải thích nếu một người cẩn thận chú ý về mạch
văn.
Mạch văn hữu ích trong việc quyết định ý nghĩa của các phân đoạn Kinh
Thánh, nhưng mạch văn không giúp đỡ nhiều trong việc tìm ra ý nghĩa của
các chữ riêng.
Chúng ta dễ tìm hiểu câu Kinh Thánh có nghĩa gì nếu chúng ta biết bối cảnh
của câu nói, câu viết, các biến cố v.v…
Kinh Thánh đề cập đến các đề tài phổ quát nếu chúng ta không biết được các
bối cảnh của sách ấy được viết ra thì chúng ta chẳng được ích lợi gì.
Việc sử dụng những câu hay những chữ được lập lại thường báo hiệu sự
thay đổi đề tài hay sự nhấn mạnh.
Bao lâu các chữ đã xuất hiện trong Kinh Thánh rồi thì được thực sự chúng ta
không cần quan tâm đến ai nói câu đó và hoàn cảnh ở đó làm chi.
10- Trong việc quyết định chọn câu Kinh Thánh nào làm qui luật của đức tin
và thực hành thì điều cần thiết cho chúng ta là phải biết những gì Đức Chúa
Trời đã truyền thông trực tiếp cho chúng ta.
11 -Một sự hướng dẫn chung để dùng trong việc quyết định một câu Kinh
Thánh phải được giải nghĩa theo nghĩa đen hay nghĩa bóng là: Kinh Thánh
phải được hiểu theo nghĩa đen trừ khi nó không thể được chấp nhận theo
nghĩa bóng được.
12- Khi Kinh Thánh nói, “Vì vậy ta sẽ tấn công ngươi như một sư tử rống”,
chúng ta hiểu đây là theo nghĩa đen.
13- Ngôn ngữ hình bóng có thể được mô tả cách tượng trưng.
Một trong những lý do chủ yếu tại sao chúng ta cần một “Khu vườn bài
giảng” là những tư tưởng và các ý nghĩ thường đến với chúng ta khi chúng
ta không có thì giờ để phát triển chúng cách đầy đủ.
Tạo một “Khu vườn bài giảng” là một loại kỹ thuật giúp bạn phát huy các tài
liệu bạn cần cho chức vụ của bạn trước khi bạn cần đến chúng
Trước khi bạn nghiên cứu bài học 4, hãy chắc là bạn đã làm xong bài tập
tường trình đơn vị 1 rồi gởi bài tập cho giáo viện hướng dẫn Viện Hàm Thụ
Quốc tế của bạn.
TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1. c) Bối cảnh của một câu Kinh Thánh bao gồm các câu, các phân đoạn, các
đoạn trước và sau câu Kinh Thánh đó.
2. a) Cầu nguyện
b) Khi một người cầu nguyện người ấy phải bền đổ (xem Gia Gc 5:17, Êli
sốt sắng cầu nguyện)
3. c) Thân thể của Ngài, một sự kiện mà các môn đồ chỉ hiểu được sau khi
Ngài từ kẻ chết sống lại (chúng ta thu thập các câu chân lý này từ các câu 21
và 22)
4. a) Đức Chúa Trời ở với chúng ta
b) Ngài sẽ cứu dân Ngài ra khỏi tội của họ
c) Nơi Đồi sọ
d) Con trai của Sấm sét
5. a) Chúa Jêsus đã dạy dỗ điều này khi đám đông đã theo Ngài vì họ muốn
thấy phép lạ hóa bánh cho 5000 người được tái diễn.
b) Các môn đồ mới vừa nghe Chúa Jêsus bảo một người nhà giàu hãy bán
hết của cải mà đi theo Ngài. khi người đó bỏ đi, Chúa Jêsus bảo rằng người
giàu vào nước Trời còn khó là dường nào. Rồi Phierơ nói, “Chúng tôi sẽ
được gì khi chúng tôi bỏ hết mọi sự để theo Thầy?”
6. a) Để đáp lại câu hỏi của Thầy dạy luật “Ai là kẻ lân cận tôi?”
7. Câu trả lời của bạn. bối cảnh của câu Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu hoàn
cảnh nó được viết, vấn đề cần sửa chữa, viết cho ai và nhằm mục đích gì?
8. a) Salômôn
b) Dầu ông đã từng là một vị vua lớn và đạo đức, ông đã rơi vào tội lỗi và tỏ
thái độ rất bi quan đối với cuộc sống.
c) Ông dùng thí dụ này để cảnh cáo dân sự bị lưu đầy trở về kẻo họ tái phạm
lỗi lầm bi thảm của Salômon.
9. b) Điều quan trọng là biết ai đã nói một điều gì đó…
10. a. 1) Nghĩa đen
b. 2) Nghĩa bóng
c. 2) Nghĩa bóng
d. 1) nghĩa đen
11. a) Tượng trưng cho thân thể Ngài sẽ bị bể ra vì cớ chúng ta, Êsai nói,
“Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an , bởi lằn roi Ngài chúng
ta được lành bệnh” (EsIs 53:5)
b) Cái chén được tượng trưng cho huyết Ngài đã hy sinh để xóa sạch tội lỗi
nhân loại.
12. a) Nghĩa bóng
b) Mạch văn
c) Rằng những ai yêu mến sự giàu có rất khó đầu phục Đấng Christ và dâng
đời sống và của cải mình cho Ngài.
13. c) Hầu hết các bài giảng đều “lớn lên” “phát triển” và “trưởng thành” rất
giống tiến trình trồng một cây xanh.
14. Khi dùng một túi đựng bài (bì thơ lớn) bạn có thể phân loại “Những hạt
giống bài giảng” để bạn triển khai sau này là giữ chúng an toàn cũng như có
thứ tự. Khi những hạt giống này đã được triển khai, chúng được đặt trong
kẹp “Thân cây”, với những ý tưởng bài giảng đang soạn. Cuối cùng, khi bài
giảng được soạn xong, bạn đặt vào kẹp “Trái cây” để dùng trong tương lai.
Thực hành công việc này một cách liên tục và nề nếp sẽ giúp chúng ta có các
tài liệu bài giảng để sử dụng trong những trường hợp có cần.
Ý NGHĨA CỦA SỰ TRUYỀN GIẢNG
SỨ ĐIỆP CỦA SỰ TRUYỀN GIẢNG
PHƯƠNG PHÁP CỦA SỰ TRUYỀN GIẢNG
Ý nghĩa của sự Truyền Giảng
Trong đơn vị 1, chúng ta đã xem xét đến chức vụ là gì và người hầu việc
Chúa phải như thế nào. Chúng ta đã đề cập đến sự chuẩn bị cá nhân và thực
tế cần thiết cho chức vụ. Bây giờ chúng ta lưu ý nhiều hơn về chức vụ truyền
giảng, nói một số lý do tại sao giảng là một phương tiện của chức vụ và đưa
ra một số thí dụ trong Kinh Thánh về sự giảng đạo.
Định nghĩa về sự giảng đạo đã được đưa ra trong bài 1, sẽ được mở rộng để
bao gồm các tư liệu của Tân ước giúp chúng ta hiểu trọn vẹn hơn chữ giảng.
Chúng ta sẽ xem xét chữ này trong nguyên văn vốn giúp chúng ta hiểu ý
nghĩa đầy đủ của chữ giảng như các Cơ đốc nhân đầu tiên đã hiểu chữ này.
Chúng ta thấy rằng truyền giảng là một phương pháp vững chắc của sự
truyền thông Lời của Chúa, là một phương tiện hữu hiệu để truyền bá Tin
Lành ngày hôm nay.
Khi bạn tập trung vào ý nghĩa của chữ giảng, tôi cầu xin Chúa thách thức và
ban quyền năng chinh phục linh hồn hư mất và khả năng củng cố sức mạnh
cho những tín hữu để chuẩn bị Hội Thánh cho ngày Chúa trở lại qua chức vụ
giảng đạo của bạn.
BỐ CỤC BÀI HỌC :
Định nghĩa của sự giảng đạo.
Các lý do của sự giảng đạo.
Các thí dụ của sự giảng đạo.
CÁC MỤC TIÊU CỦA BÀI HỌC :
Khi học xong bài học này bạn sẽ có thể:
Giải thích ý nghĩa của Kinh Thánh về sự giảng đạo.
Bênh vực sự giảng đạo như là phương tiện theo Kinh Thánh dạy về sự
truyền bá Tin Lành.
Chứng minh từ cách dùng chữ và thí dụ trong Kinh Thánh rằng sự giảng đạo
bao gồm những phương pháp khác nhau trong sự truyền thông chân lý Thiên
Thượng.
CÁC SINH HOẠT HỌC TẬP :
Nghiên cứu sự phát triển của bài học và trả lời các câu hỏi học tập theo
thường lệ.
2. Học ý nghĩa bất cứ chữ then chốt mới mẻ đối với bạn.
Làm bài tập trắc nghiệm ở phần cuối bài học và kiểm soát lại các câu trả lời
có sẵn ở cuối sách. Học ôn lại câu nào bạn trả lời không đúng.
NHỮNG CHỮ THEN CHỐT :
Ambassador: Đại sứ toàn quyền hay sứ giả.
Ambassadorial: Của đại sứ hay thuộc về đại sứ.
Authoritative: Có thẩm quyền.
Dialegomai: Mở cuộc đàm thoại.
Dialogue: Đàm thoại giữa hai hoặc nhiều người
Disputation: Tranh luận , tranh cãi về một vấn đề.
Euangellizo: Nói ra tin mừng
Formal discourse: Bài thuyết trình theo đúng hình thức, qui luật.
Herald: Sứ giả.
Katangello: Nói cách thông suốt và có uy quyền.
Kerruso: Công bố như một sứ giả.
Laleo: Nói chuyện, kể lại, đối thoại.
Martureo: Làm một chứng nhân, làm chứng.
Parresiazomai: Nói công khai, dạn dĩ.
Plero: Nói công khai, dạn dĩ.
Structural: Của cơ cấu, liên quan hay ảnh hưởng đến cơ cấu.
KHAI TRIỂN BÀI HỌC
ĐỊNH NGHĨA SỰ GIẢNG ĐẠO
Theo truyền thông:
Mục tiêu 1: Nhận biết những yếu tố trong định nghĩa truyền thông về sự
giảng đạo .
Giảng là truyền thông chân lý từ một người sang nhiều người khác. Trong
đó có hai yếu tố chính. Chân lý và nhân cách. Không đủ hai yếu tố này
không phải là giảng đạo nữa. Chúng ta thấy đây là một trong những định
nghĩa rõ ràng và cô đọng nhất về sự giảng đạo. Phillips Brooks, một nhà
truyền đạo nổi danh người Mỹ ở thế kỷ thứ 19 đã định nghĩa giảng đạo được
mô tả như là việc tuôn trào ra sự sống, gieo rắc chân lý Thiên Thượng qua
nhân cách con người.
Giảng là một phương tiện chính được Đức Chúa Trời lựa chọn và sử dụng
trong Hội Thánh đầu tiên để truyền đạt Tin Lành cho dân chúng. Và mặc dù
trải qua nhiều thế kỷ sự giảng đạo đã đổi thay, nó vẫn còn giữ lại những yếu
tố nguyên thủy của sự công bố, sự truyền Tin Lành được hướng dẫn trong
thời Tân ước.
Theo định nghĩa truyền thông thì sự giảng đạo có chứa các yếu tố của
Chú giải, giải nghĩa và chất vấn.
Chân lý và nhân cách.
Uy quyền, hợp lý và thực tế.
Theo Kinh Thánh
Mục tiêu 2: Thảo luận hai định nghĩa chính về sự giảng đạo rút ra từ Tân
ước .
Một trong những định nghĩa chính về sự giảng đạo trong Tân ước là “Công
bố như một sứ giả”. Sứ điệp của sự giảng đạo trong Tân ước là Tin Lành. Sự
kêu gọi là phải ăn năn và phải tin, còn mục đích là truyền Tin Lành cho
người hư mất. Tin Lành cần được công bố công khai vì lần đầu tiên người ta
được nghe và hiểu ý nghĩa của sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa
Jêsus Christ.
Mặc dầu sự giảng đạo được nhắc đến nhiều lần trong Tân ước, ít khi Kinh
Thánh đề cập đến sự giảng đạo như là một bài thuyết trình theo đúng hình
thức. Thường thường nó chỉ về việc công bố sứ điệp Tin Lành. Ngày nay
nhiều nơi trên thế giới, sứ điệp Tin Lành mới được công bố cho dân chúng
lần đầu tiên. Theo Tân ước thì sự giảng này mang ý nghĩa công bố ra như
một sứ giả.
Hãy xem thử định nghĩa này có phù hợp với tầm cỡ và thực tế của sự giảng
đạo ngày nay không ? Vâng, có. Chẳng hạn các nhà truyền giảng Tân ước đã
có cơ hội đặc biệt để công bố Tin Lành ngay lập tức sau khi Chúa sống,
chết, sống lại và thăng thiên. Tin Lành là tin tức mới mẻ cho cả người Do
Thái lẫn người ngoại bang, vì thế mục tiêu rõ rệt của sự giảng đạo là sự cứu
rỗi người hư mất. Đây là lý do rõ rệt tại sao các thí dụ trong Tân ước về sự
giảng đạo nhấn mạnh đến sự chinh phục người hư mất. Tân ước tuy nhiên,
sau khi Hội Thánh đã trưởng thành hơn một phần Tân ước được ghi lại nên
Phaolô đã khích lệ Timôthê, như một mục sư “ Hãy giảng đạo, cố khuyên. . .
bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (IITi 2Tm 4: 2). Đây là
mạng lệnh trong thời Tân ước được chúng ta khai triển ngày nay. Vì sự
giảng đạo ngày nay không chỉ bao gồm sự công bố Tin Lành cho người hư
mất, mà bao gồm sự giảng Lời Chúa cho tín đồ để khích lệ và gây dựng họ
trong đức tin. Vì vậy, theo mạng lệnh và thí dụ trong Tân ước, cả hai mục
đích này của sự giảng đạo đã được đề cập trong Tân ước.
Khoanh tròn mẫu tự của câu ĐÚNG sau đây:
a) Nói chung sự giảng đạo trong Tân ước chỉ về sự tuyên bố hay công bố
công khai về Tin Lành cho người chưa được cứu.
b) Khi chúng ta nói về sự giảng đạo trong Tân ước, chúng ta hiểu rằng điều
này chỉ về một bài thuyết trình đúng hình thức mà ông Mục sư truyền ra qua
một bài giảng, rồi người ta đặt các câu hỏi và đưa ra các nhận thức thuộc
linh của chính họ về đề tài đang được thảo luận.
c) Trong những năm đầu của Hội Thánh sự nhấn mạnh trong khi giảng là
đến với người hư mất, trong khi về sau, sự giảng đạo còn nhấn mạnh đến sự
lớn lên và trưởng thành thuộc linh của người tin đồ.
d) Sứ điệp Tin Lành được truyền thông bằng lời nói cũng như bằng gương
sáng của người Cơ đốc.
Một định nghĩa quan trọng khác của Tân ước về chữ giảng đạo là nói ra tin
tức tốt lành. Chúng ta thấy hình thức giảng đạo này được ghi lại trong sách
Công vụ sứ đồ. Trong đó các tín đồ đã nói về Chúa Jêsus, mọi nơi họ đi đến.
Họ đã giảng sứ điệp của họ bằng cách trò chuyện tại nhà riêng, trên đường
cái, nơi chợ búa hoặc bất cứ nơi nào họ có cơ hội. Họ đã là chứng cách dạn
dĩ về quyền phép của Tin Lành đã biến đổi đời sống của họ, khi nói chuyện
với những người chưa tin Chúa, kể lại thông suốt và thuyết phục họ về Tin
Lành của sự cứu rỗi. Những người tín đồ này, được đầy dãy Đức Thánh
Linh, đã làm chứng đạo cách dạn dĩ và đầy quyền năng trong các nhà hội lẫn
nhà tù. Họ đã tranh luận với những người trí thức, tức là những người đã ảnh
hưởng thái độ và nếp suy nghĩ của quần chúng thời bấy giờ, họ đã làm
chứng trước những nhà lãnh đạo chính trị, và họ đã biện hộ với những nhà
lãnh đạo tôn giáo, vốn là những người chống đối chân lý Tin Lành. Họ đã
thường sử dụng cùng một cách bắt đầu giải quyết như lý luận, làm chứng và
biện hộ với những người đang sống giữa vòng họ, thuyết phục những người
đó tiếp nhận sứ điệp Tin Lành. Thực ra, khi Chúa Jêsus sai các môn đồ đi ra
hoàn thành sứ mạng “giảng Tin Lành cho mọi người” thì Ngài đã chỉ dạy họ
hãy sử dụng tất cả phương tiện truyền thông như giảng dạy, làm chứng và
biện hộ. Sứ mạng của họ là đưa người ta đến chỗ thấy, hiểu và kinh nghiệm
về quyền phép của Tin Lành.
Khi giảng đạo được định nghĩa như là kể về tin mừng thì định nghĩa này chủ
yếu có nghĩa.
Sự trình bày Tin Lành cách hình thức trong những buổi thờ phượng thường
kỳ nghiêm túc.
Sự chia sẻ Tin Lành không theo hình thức, thân mật, bởi các nhà truyền đạo
không chuyên.
Sự truyền bá Tin Lành bằng mọi phương tiện ở khắp mọi nơi.
Như vậy, Tin Lành được lan tràn do cá nhân chứng đạo và sự công bố công
khai. Vô số tín đồ đã dâng mình chia sẻ sứ điệp với một mục đích: đến với
những người chưa được cứu, đem hy vọng duy nhất đến với những người
tuyệt vọng và những người bị giam hãm trong bóng tối của cuộc đời, và mặc
dầu những chứng nhân này giống như chiên ở giữa bày muông sói trong một
thế giới ngoại đạo thù nghịch, sứ điệp Tin Lành đã lan tràn nhanh chóng cả
trong và ngoài đế quốc La Mã nữa. Điều đó đã chứng minh rằng ngay cả các
cửa Âm phủ cũng không thể thắng được Hội Thánh của Chúa Jêsus Christ
(Mat Mt 16:18). Như vậy Tin Lành đã tác động rất mạnh mẽ và lâu dài trên
thế giới do kết quả trực tiếp của sứ điệp Tin Lành. Và từ những ngày đầu
tiên đó, sự sống thuộc linh và quyền phép của Hội Thánh đã tiến hay thoái là
do Hội Thánh đặt tầm quan trọng cho sự rao giảng Lời Chúa. Mỗi cuộc phục
hưng lớn lao của đời sống thuộc linh trong Hội Thánh đều do việc trở về
đúng với đường lối của Thánh Kinh về sự rao giảng Lời Chúa.
Hãy viết trong sổ tay của bạn một phần thảo ngắn gọn về một trong hai định
nghĩa chính của Kinh Thánh Tân ước về sự giảng đạo nêu lên trong phần
này. Ngoài phần định nghĩa, hãy đưa ra những khía cạnh quan trrọng của
mỗi định nghĩa đó.
NHỮNG CHỮ GIẢNG ĐẠO TRONG TÂN ƯỚC:
Mục tiêu 3: Nhận định các khía cạnh của sự giảng đạo qua các từ ngữ khác
nhau liên hệ đến chữ này .
Chúng ta đã xem một số các định nghĩa của Tân ước về sự giảng đạo và đã
thấy ngôn ngữ Kinh Thánh gợi ý về một số các phương pháp mà
Hội Thánh đầu tiên đã dùng để trình bày Tin Lành cho những người chưa
được cứu. Khi chúng ta nghiên cứu đề tài giảng đạo thông suốt hơn, chúng
ta để ý thấy vẫn còn những phương pháp khác của sự truyền thông đã được
gợi ý bởi nguyên văn của Kinh Thánh. Một số những từ ngữ Hy Lạp gợi ý
đến sự giảng đạo cá nhân, thân mật trong khi những chữ khác nói đến sự rao
truyền một sứ điệp có hình thức, không bị ngắt lời trên toà giảng (giống như
sự giảng đạo ngày nay). Hãy để ý những phương pháp truyền Tin Lành khác
nhau đã được gợi ý qua những từ ngữ của Tân ước như sau đây.
Kerruso có nghĩa là “ Công bố như một sứ giả”. Chữ này chỉ về sự công bố
công khai. Chữ này bao gồm hình ảnh của một sứ giả thực hiện một lời rao
báo và hình ảnh của một vị đại sứ đại diện cho một nước. Giảng Tin Lành
bao gồm cả hai ý tưởng này, vì người giảng đạo có hai nhiệm vụ như một
người rao báo và như một đại sứ của Đấng Christ (IICo 2Cr 5:20). Chữ này
đã được dùng độ 60 lần trong Tân ước. Bao gồm những câu sau đây: Mat Mt
3:1; Cong Cv 8:5; RoRm 10:8, 14-15; IITi 2Tm 4:2.
Euangellizo nghĩa là “ kể lại tin mừng, rao giảng Tin Lành”. Cũng do từ này
chúng ta có các chữ Evangelize , Evangelist và Evangel . Vì cớ nội dung của
sứ điệp rất gần gũi với chính việc giảng đạo, nên chữ này mô tả cả phương
pháp lẫn sứ điệp: giảng (kể lại) là phương pháp, “Tin Lành” là sứ điệp. Chữ
này được dùng độ 70 lần trong Tân ước, bao gồm Mat Mt 11:5; LuLc 3:18
và Cong Cv 5:42.
Từ hai chữ trong Tân ước đã nói ở trên liên quan đến sự giảng đạo của Hội
Thánh đầu tiên, chúng ta có thể kết luận rằng sự giảng đạo là:
Trách nhiệm chủ yếu của chương trình lễ ngày sabát hoặc các hoạt động của
ngày thánh.
Được xem như trách nhiệm của mọi tín đồ ở khắp mọi nơi trong mọi thời
đại.
Bạn sẽ thấy rằng hai chữ đã nói ở trên cho thấy trong hầu hết các trường
hợp, một bài diễn thuyết có hình thức như chúng ta thường thấy ngày nay.
Ngược lại thì những chữ sau đây lại mô tả những phương pháp thân mật
hơn, không có hình thức nghiêm túc như là diễn thuyết, để chia sẻ sứ điệp
cứu rỗi cho người hư mất. Hãy lưu ý Kinh Thánh Tân ước nói rất ít về giảng
các bài giảng hoặc diễn thuyết, trong khi đó hầu hết đều ghi lại sự kể chuyện
Tin Lành, và sự trò chuyện với người khác về Chúa Cứu thế Jêsus.
Laleo nghĩa là” nói chuyện” “đàm thoại” “kể chuyện”. Trong nguyên văn
nghĩa là “nói chuyện”. Nó cho chúng ta gợi ý về cuộc nói chuyện có tính
cách cá nhân. Chữ này thường được dịch là“nói”hay“nói chuyện”trong Kinh
Thánh. Chữ này được dùng hơn 250 lần trong Tân ước. 11:19 minh hoạ
phương pháp này rất tốt.
Martureo có nghĩa là “làm một nhân chứng” hay “làm chứng”. Chữ này cho
chúng ta ý niệm về lời làm chứng có sức thuyết phục căn cứ trên sự tin
tưởng thật và bằng cớ rõ ràng. Giăng Báptít là một chứng nhân như thế,
được Đức Chúa Trời sai phái để làm chứng về sự sáng của sự cứu rỗi của
Đức Chúa Trời. Phương pháp truyền thông Tin Lành này đã được dùng hơn
70 lần trong Tân ước. GiGa 1:7, 8, 15; Cong Cv 1:8; 5:32, và 14:3 là những
thí dụ của phương pháp này.
Dialegomai có nghĩa là “mở cuộc đối thoại”. Chữ này gợi ý về sự trao đổi
quan điểm, một cơ hội để thắc mắc và trả lời về sứ điệp đã trình bày. Đây là
sự phản nghĩa của sự độc thoại, trong đó chỉ có một người nói, ở đây còn có
nghĩa là dạy và học. Chữ này liên hệ đến sự giảng đạo là vì nó liên hệ vớ sự
thuyết phục người khác tiếp nhận sứ điệp Tin Lành và được cứu rỗi. Chữ
này chỉ xuất hiện vài lần trong tu, sau đây là các thí dụ của phương pháp
này: Mac Mc 9:34; Cong Cv 17:2, 17; 18:4.
Katangello có nghĩa là “kể chuyện cách thông suốt và có uy quyền. Hai chữ
khác: Plero và Parresiazomai , cộng thêm vào ý niệm về sự thông suốt và uy
quyền ở trên, các khía cạnh ý nghĩa về sự “làm cho đầy” và “ nói cách công
khai, dạn dĩ”. Các chữ này được tìm thấy trong 13:38; 15:36 và 17:3.
6. Bốn chữ sau trên đây được Tân ước dùng có liên quan đến sự giảng đạo
cho thấy tất cả những điều sau đây ngoại trừ .
Lời làm chứng, tức là bao gồm sự giải thích có uy quyền và hợp lý về công
tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong đời sống một cá nhân.
Sự đối thoại, gợi ý sự ảnh hưởng lẫn nhau và sự trao đổi các quan điểm.
Sự đàm thoại nói về sự nói chuyện thân mật, cá nhân với nhau.
Sự diễn thuyết vốn liên quan đền một người như là một diễn giả và không có
sự trao đổi quan điểm với nhau.
Làm rõ ý nghĩa sự giảng đạo như đã được hiểu trong Hội Thánh đầu tiên
bằng cách ghi số 1 ở trước câu mô tả chữ Tân ước dùng chỉ về sự giảng đạo
và số 2 ở rước những ý tưởng được phát triển về sau.
. . . a) Giảng đạo được nhìn thấy chủ yếu như là những phương tiện để phát
triển và làm cho đời sống thuộc linh người tín đồ được trưởng thành.
. . . b) Trong một thế giới hoàn toàn không biết gì về sự cứu rỗi của Đức
Chúa Trời,sự giảng đạo là phương tiện để rao báo sứ điệp và truyền Tin
Lành cho người hư mất.
.. . . c) Giảng đạo là chia sẻ tin mừng trong cuộc nói chuyện với tư cách một
người tín đồ làm chứng rõ ràng và có uy quyền về cách Đức Chúa Trời đã
thay đổi họ.
. . . d) Giảng đạo bao gồm sự trao đổi các quan điểm, sự tác động lẫn nhau
và sự đối thoại về những lời kêu gọi của Tin Lành.
. . . e) Giảng đạo bao gồm việc truyền rao một sứ điệp cho một nhóm người
hay một hội chúng để chinh phục ngưới hư mất và phát huy đời sống thuộc
linh trong những người tín đồ.
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ GIẢNG ĐẠO
ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI LỰA CHỌN:
Mục tiêu 4: Hãy chọn một câu nói cho thấy cơ sở Kinh Thánh dạy về việc
Đức Chúa Trời chọn sự giảng đạo như là một phương pháp chủ yếu để rao
truyền sứ điệp cứu rỗi .
Đức Chúa Trời đã chọn việc giảng đạo để truyền bá sứ điệp cứu rỗi của
Ngài. Giăng Báp tít đến trong đồng vắng xứ Giuđê và khởi sự giảng đạo !
Ông nói :” Hãy quay bỏ khỏi tội lỗi vì nước Thiên đàng đã gần “(Mat Mt
3:1-2) Nhiều dấu hiệu chứng tỏ ông là một sứ giả, là một đại sứ, đi công bố
sứ điệp cho người khác, dọn đường cho đấng đến sau ông và làm đại diện
cho một nước (xem câu 3).
Khi Đức Chúa Jêsus công bố sứ mạng của Ngài, trong sự truyền thông Tin
Lành của Ngài cho nhân loại thì sự giảng đạo đóng vị trí hàng đầu, Ngài đọc
lời tiên tri của Êsai, “Thần của Chúa ngự trên ta, vì Ngài đã xức cho ta đặng
truyền Tin Lành (euangellizo) cho kẻ nghèo. Ngài đã sai ta để rao (Kerusso)
cho kẻ bị cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị hà hiếp được tự do và để
đồn ra (Kerusso) năm lành của Chúa” (LuLc 4:18-19). Một lần khác, Chúa
Jêsus cũng đã mô tả tầm quan trọng của chức vụ giảng đạo của Ngài: “Ta
cũng phải rao Tin Lành (euangellzo) của nước Đức Chúa Trời nơi các thành
khác vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến” (4:43) Phạm vi của chức vụ giảng
đạo được thấy ở câu kế đó” Vậy Ngài giảng dạy (Kerusso) trong các nhà hội
xứ Galilê (4:44). Khi truyền các môn đồ đại sứ mạng, Ngài phán cùng họ
rằng” Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành cho mọi người “ (Mac Mc
16:15) “ Về phần các môn đồ, đi thì ra giảng đạo (Kerusso) khắp mọi nơi,
Chúa cùng làm với môn đồ, và lấy các phép lạ cặp theo lời giảng mà làm
cho vững đạo “ (16:20). Khi họ vâng theo mạng lệnh giảng đạo thì các phép
lạ xảy ra xác nhận cho sứ điệp của họ, nhiều người đã tin Chúa và Hội
Thánh đã trở nên một đạo quân hùng mạnh, tiến lên.
Hãy điền các tên bên phải vào cho hợp với các câu bên trái chứng tỏ Đức
Chúa Trời dùng sự giảng đạo vào sự truyền bá, truyền thông sứ điệp cứu rỗi.
- Chúa Jêsus.
- Giăng Báp tít
- Êsai
- Các môn đồ
. . . a) Công bố nước trời đã đến gần:
. . . b) Đi khắp nơi rao giảng sứ điệp về Chúa Jêsus:
. . . c) Đã đến giảng Tin Lành.
. . . d) Nói tiên tri rằng Chúa Jêsus sẽ giảng đạo cho người nghèo và người bị
áp bức.
Hãy lưu ý rằng khi Phaolô viết thư cho Hội Thánh Côrinhtô. Ông mô tả sự
giảng đạo như phương pháp Đức Chúa Trời chọn để cứu những người tin, từ
chối sự khôn ngoan cuả người Hy Lạp và các dấu lạ mà người Do Thái tìm
kiếm (ICo1Cr 1:21-25).
Chúng ta giảng Đấng Christ bị đóng đinh trên cây thập tự, là sự người Giuđa
lấy làm gương xấu, dân ngoại đạo cho là rồ dại, song le, về những người
được gọi, bất luận người Giuđa hay người Gờréc, thì Đấng Christ là quyền
phép của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời (1:23-24).
Phaolô cũng bênh vực mạnh mẽ sự giảng đạo trong bức thư của ông gởi đến
Hội Thánh Rôma. Ông tuyên bố rằng sự cứu rỗi là dành cho mọi người
(RoRm 1:5-12), rồi ông tiếp tục “ Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu
(10:13). Rồi ông phát huy cách có hệ thống dòng lý luận sau đây:
Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được ? Chưa nghe nói về Ngài thì
làm thế nào mà tin ? Nếu chẳng ai rao giảng thì nghe làm sao ? Lại nếu
chẳng ai được sai đi thì rao giảng (Kerusso) thế nào ?
Như vậy đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe là khi Lời của
Đấng Christ được rao giảng (RoRm 10:14-18).
Nhu cầu giảng đạo rất rõ ràng: người ta tin nơi Đấng Christ để được cứu rỗi
do việc được nghe giảng Tin Lành. Đây cũng là phương pháp truyền thông
đã được Tân ước đề cập đến sự giảng đạo.
Vì vậy, ta không cần phương pháp mới nào để mở rộng nước trời trong đời
sống nhân loại. Chúa đã chọn sự giảng đạo như là phương tiện chủ yếu để
truyền bá Tin Lành. Bạn sẽ để ý thấy rằng Ngài không dùng các phương tiện
chính trị để xây dựng Vương quốc thuộc linh. Ngài cũng không dùng các
hoạt động xã hội hay văn hóa. Vì chỉ có Tin Lành mới thực sự thay đổi đời
sống con người.
Hãy đọc lại 10:14-15. Hãy liệt kê theo thứ tự trong đó xảy ra năm bước được
Phaolô gợi ý trong việc đem sứ điệp đến cho người chưa được cứu.
a)
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………….
b)
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………….
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………
KIỂU MẪU CỦA TÂN ƯỚC:
Mục tiêu 5: Nhận biết những câu nói nêu lên tính chất về các kiểu mẫu giảng
Tin Lành của Tân ước .
Sự giảng đạo của Tân ước trong bước đầu tiên là sự rao báo về sự cứu rỗi
được Đức Chúa Trời cung cấp sẵn cho tất cả mọi người. Mục đích của sự
giảng đạo là truyền ra sứ điệp của Tin Lành. Không có ai “ giảng “ chỉ vì cớ
giảng. Các sứ đồ đã rao giảng “ Tin Lành của Đấng Christ “, “ sự ăn năn và
sự tha tội “. “ Đấng Christ đã chịu đóng đinh “ và những đề tài tương tự.
Hành động giảng đạo ở giai đoạn này không bao giờ được phân rẽ khỏi sứ
điệp của sự cứu rỗi.
Các tín đồ của Hội Thánh đã lập tức bắt đầu công bố Tin Lành tại
Giêrusalem, như Chúa đã truyền dạy (Cong Cv 1:8). Phierơ cùng với những
môn đồ khác, đã công bố Tin Lành đó lần đầu tiên vào lễ Ngũ Tuần (2:14-
42). Được thúc giục bởi Chúa Thánh Linh, Phierơ đã chứng minh như những
lời tiên tri trong quá khứ đang ứng nghiệm qua những biến cố trong hiện tại.
Rồi ông kêu gọi đám đông tiếp nhận lấy sự cứu rỗi Đức Chúa Trời đã cung
hiến, đám đông người chưa tin Chúa đã cảm động do nghe sứ điệp này. Khi
người ta hỏi họ phải làm gì, thì Phierơ dạy họ phải ăn năn tội và chịu phép
báp têm. Kết quả cuả sứ điệp này, có ba ngàn người được cứu thêm vào Hội
Thánh. Khuôn mẫu này được thành lập lại, Hội Thánh đã được lớn lên và
các tín đồ đã đi khắp mọi nơi rao giảng Tin Lành.
10. Bắt đầu với ngày lễ Ngũ Tuần và thời gian tiếp ngay sau đó, các sứ đồ và
các lãnh tụ Hội Thánh đã thiết lập gương mẫu đầu tiên của sự giảng đạo
bằng cách
Công bố sứ điệp Tin Lành khắp mọi nơi họ đã đi đến.
Thành lập những nhóm nhỏ, có tổ chức để gieo rắc Tin Lành.
Hướng dẫn những buổi nhóm truyền giảng vốn được tổ chức vào một thời
gian nào đó tại một địa điểm nào đó.
Như chúng ta đã thấy, giảng đạo công khai của một đám đông, không phải là
một phương pháp duy nhất để truyền bá Tin Lành mà Hội Thánh đầu tiên đã
dùng. Do sự bách hại các tín đồ phải dùng những phương tiện khác để rao
giảng. “ trừ các tín đồ, còn hết thảy tín đồ đều phải chạy tan lạc trong các
miền Giuđê và xứ Samari “(8:1). “Vậy, những kẻ đã bị tan lạc đi từ nơi này
đến nơi khác, truyền giảng đạo Tin Lành” (8:4). Đây là sự chứng đạo cá
nhân, sự nói chuyện và kể chuyện về Tin Lành trên một quy mô lớn. Phương
pháp này rất có hiệu quả và lan ra một cách nhanh chóng” Những kẻ bị tản
lạc bởi sự bắt bớ xảy đến về dịp Êtiên, bèn đi đến xứ Phênixi, đảo Chíprơ và
thành Antiốt, chỉ giảng đạo cho người Giuđa thôi. Nhưng trong đám đông
nhưng người ấy có một vài người quê ở Chíprơ và Syren đến thành Antiốt
cũng giảng đạo cho người Gơréc nữa, truyền Tin Lành của Đức Chúa Jêsus
cho ho. Tay Chúa ở cùng mấy người đó, nên số người tin và trở lại cùng
Chúa rất nhiều” (11:19-21).
Không có chi tiết nào cho thấy những tín đồ này, vốn rất trung tín giảng Tin
Lành, được chính thức thừa nhận như là những chức viên Hội Thánh do các
trưởng lão ở Giêrusalem bổ nhiệm. Họ cũng không giảng trên tòa giảng hay
thuyết trình ở các buổi họp công cộng, mà họ chỉ đi ra” nói về Tin Lành” bất
cư nơi nào mà họ có thể đến được. Sự tản lạc của Hội Thánh do cơn bách hại
xảy ra trong sách Công vụ đã trở thành một khúc quanh mới khi họ ra khỏi
Giêrusalem, xứ Giuđê và Samari cho đến tận cùng trái đất để truyền bá Tin
Lành ( xem 1:8)
11. Chẳng bao lâu, số lớn tín đồ tập trung ở Giêrusalem đã tản lạc bởi cuộc
bắt bớ và kết quả của sự giảng đạo.
a) Đã chỉ được tiến hành khi các sứ đồ đi du lịch đến những nhóm Cơ đốc
nhân tản lạc để thờ phượng Chúa với họ.
Đã không áp dụng phương pháp giảng đạo công khai mà phần lớn áp dụng
phương pháp truyền đạo cá nhân.
Đã bị rơi vào chỗ không còn sử dụng nữa và không còn là sức mạnh chính
của sự truyền Tin Lành.
Cá nhân chứng đạo là phương pháp khác của Tân ước dùng để truyền bá Tin
Lành. Người đàn ông bị mù đã làm chứng lại việc mình được chữa lành cho
những người hỏi đến anh (GiGa 9:25). Phaolô đã làm chứng về sự qui đạo
của mình ba lần trong sách Công vụ các sứ đồ. Trong mỗi trường hợp ông đã
kể lại một cách ngắn gọn những việc gì đả xảy ra khi ông được tái sanh và
việc đó đã có ý nghĩa gì cho đời sống của ông (22:1-22; 24:10-21; 2:1-29).
Phaolô cũng thường sử dụng sự đối thoại để truyền giảng Tin Lành. Do thói
quen và do lương tâm ông đã vào các nhà hội địa phương và thảo luận hoặc
tranh luận với người Do Thái cùng những người khác về Chúa Jêsus là Đấng
Mêsi (17:1-3). Một số người được thuyết phục, những người khác thì không
( 17:4-5). Những cuộc thảo luận này thường đưa đến sự bàn cãi, tranh luận
và trả lời những câu hỏi của những người nghe. Mục đích của sự đối thoại là
thuyết phục các thính giả tin nơi sứ điệp Tin Lành để được cứu rỗi ( Hãy
xem những thí dụ khác Phaolô dùng phương pháp này được chép trong 18:1-
4, 19; 19:8-10).
Hội Thánh Tân ước đã dùng các phương pháp khác nhau để truyền bá Tin
Lành. Tân ước tuy nhiên, có hai điều luôn luôn giống nhau: sứ điệp và mục
tiêu. Họ giảng Tin Lành trong giai đoạn này chủ yếu là cứu người hư mất.
12. Hãy khoanh tròn mẫu tự của mỗi câu ĐÚNG
Khuôn mẫu của Tân ước về sự giảng đạo là sự giảng Tin Lành có một mục
đích đặc biệt: sự cứ rỗi cho các tội nhân.
Lúc đầu Hội Thánh đầu tiên đã lớn lên như là một kết qủa của sự giảng Tin
Lành công khai của các sứ đồ nhằm mục đích truyền Tin Lành cho người hư
mất.
Sự bách hại đã làm cho các tín đồ tản lạc khắp nơi xa xôi do đó sự giảng đạo
đã chấm dứt.
Các tín đồ đã đi xa nhau khi Êtiên chết là do các trưởng lão chính thức sai
phái họ đi như là những thầy “truyền đạo”.
Tin Lành đã được truyền bá do sự làm chứng cá nhân, sự trò chuyện riêng tư
và qua sự đối thoại.
SỰ HIỆU QUẢ SỰ GIẢNG ĐẠO TRONG LỊCH SỬ VÀ TRONG HIỆN
TẠI
Mục tiêu 6: Thảo luận sự hiệu quả của việc giảng đạo trong kinh nghiệm của
Hội Thánh .
Chúa Jêsus đã chứng tỏ rằng Ngài đã xây dựng Hội Thánh và ngay cả các
cửa âm phủ vẫn không thắng được Hội Thánh của Ngài (Mat Mt 16:18) và
từ ngày lễ Ngũ Tuần trở đi vai trò của sự giảng đạo và quyền năng của sự
giảng đạo đã được thiết lập. Các kẻ thù của Phaolô đã công nhận về quyền
năng giảng đạo của ông khi họ tố cáo rằng ông đã lật đổ thế giới (nghĩa đen
là làm lung lay trật tự của xã hội) (Cong Cv 17:6). Và trong quá trình đó,
ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ trên các thành phố lớn và thậm chí cả các tỉnh
nữa.(19:26).
Phaolô đã nhắc nhở các tín đồ ở Côrinhtô rằng những thành quả to lớn đạt
được giữa vòng họ là do kết quả của sự giảng đạo được Thánh Linh xức dầu
(ICo1Cr 2:1-5). Như vậy, Tin Lành đã lan tràn một cách quyền phép có sức
thuyết phục và không gì cưỡng lại được. Và đến đầu thế kỷ thứ 4, Tin Lành
đã chiến thắng cả sự bách hại, sự chống đối của chính quyền, chống lại các
sai lầm về một số giáo lý và về sự ấu trĩ của giáo hội thời đó. Tin Lành cũng
được chấp nhận trong cả Đế quốc La mã và có một khải tượng tươi mới đã
vượt qua những biên giới của Đế quốc La mã cho đến tận cùng trái đất.
Lịch sử Hội Thánh đã ghi lại những giai đoạn phát triển rộng lớn, cũng như
những giai đoạn suy đồi. Nhưng bất cứ khi nào Hội Thánh kinh nghiệm sự
phục hưng trong đời sống thuộc linh của mình, thì luôn luôn có kèm theo
việc công bố Lời Đức Chúa Trời cách đầy quyền năng.
Trong các thế kỷ từ lúc Hội Thánh được khai sanh, phương cách giảng đạo
có nhiều thay đổi. Nhưng vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất để truyền bá
chân lý mà Đức Chúa Trời đã lựa chọn và đã được Hội Thánh đầu tiên sử
dụng hữu hiệu. Ngày nay sự giảng đạo càng tỏ ra hữu hiệu đối với quần
chúng đang sống trong những đô thị đông đúc trên thế giới. Ngày nay các
nhà truyền giảng đang công bố Tin Lành để cứu người hư mất, và rất đông
người đang tìm kiếm Chúa Jêsus Christ làm Chúa Và Cứu Chúa.
Ngoài ra, hàng triệu khán thính giả đang nghe truyền giảng Tin Lành hằng
tuần qua đài phát thanh và chương trình truyền hình. Ngoài ra các băng
Cassette ghi âm sứ điệp Tin Lành cũng được giảng ra cho vùng xa xôi hẻo
lánh đáp ứng cho những tấm lòng khao khát. Các truyền đạo đơn Tin Lành
mang cùng một sứ điệp Tin Lành trên bình diện cá nhân đến với hàng triệu
người khác, trong khi lời chứng hữu hiệu và sự chứng đạo trung thành
hướng dẫn nhiều người về với Đấng Chrrist. Và trong vô số các nhà thờ, sự
giảng đạo hằng tuần đã đưa Lời Chúa đến người đang hư mất và làm tăng
trưởng đời sống thuộc linh của người tín đồ. Sự giảng đạo ngày nay vẫn còn
quan trọng như ngày xưa. Đặc biệt điều này là đúng khi Đức Thánh Linh
đang sửa soạn Hội Thánh Cho ngày Chúa tái lâm.
13. Hãy viết vào sổ tay của bạn một phần thảo luận ngắn về vị trí của sự
giảng đạo trong kinh nghiệm của Hội Thánh.
CÁC THÍ DỤ CỦA SỰ GIẢNG ĐẠO:
Mục tiêu 7: Hãy lựa chọn một câu nói mô tả chính xác những nét đặc biệt
chung trong các thí dụ về sự giảng đạo ở Cựu ước và Tân ước .
Thời Cựu ước:
Trong Cựu ước, chúng ta thấy các tiên tri là những phát ngôn viên của Đức
Giêhôva và phục vụ như những đại sứ cho Ngài. Chẳng hạn, Giêrêmi cứ lập
đi lập lại rằng: “ Đức Giêhôva phán cùng tôi….”(Gie Gr 1:4; 2:1, 5) Ông và
những tiên tri khác đã ban bố sứ điệp cho dân chúng để bày tỏ ý muốn của
Đức Chúa Trời đối với tình hình hiện hữu, cũng như Êli, Êsai, Ôsê và những
sứ giả khác đã rao báo sứ điệp của Đức Chúa Trời trong bối cảnh Cựu ước
và họ đã trung tín làm đại diện của Đức Chúa Trời cho dân sự Ngài là
Ysơraên. Chức vu của họ là kêu gọi dân tộc hãy ăn năn và trung tín phục vụ,
khuyến khích họ tin cậy Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi.
Thời Tân ước:
Trong thời Tân ước, phần lớn các sứ điệp giảng đạo là những lời kêu gọi
mọi người chú ý tới Kinh Thánh Cựu ước đồng thời công bố rõ ràng và có
uy quyền về sự sống, sự chết, sự phục sinh và sự thăng thiên của Chúa Jêsus
Christ và lời kêu gọi các thính giả hãy tin Chúa để được sự cứu rỗi. Sứ điệp
của Phierơ tại Giêrusalem (2:1-47) và tại đền thờ (3:1-26) cũng như Êtiên đã
giảng cho Quốc hội Do Thái (6:1-15) và sứ điệp của Phierơ tại nhà Cọtnây
(10:1-48) cùng các sự công bố thời Tân ước đều nhằm mục đích truyền Tin
Lành cho người hư mất. Sứ điệp của Phaolô trên đồi Mars (17:1-34) là một
thí dụ về sự thảo luận và đối thoại nhằm mục đích chỉ dẫn cho người hư mất
đến sự cứu rỗi.
14. Khi chúng ta khảo sát các thí dụ của sự giảng đạo thời Cựu ước và Tân
ước chúng ta thấy rằng sự giảng đạo đó bao gồm những nét nổi bật của
Sự giảng dạy hình thức trong buổi thờ phượng dùng trong ngày Sabát.
Sự công bố, phục vụ như là vị đại sứ của Đức Chúa Trời và giảng đạo vì
những kết quả.
Những buổi thờ phượng không có qui củ, thiếu sự lãnh đạo hữu hiệu và các
kết quả lâu dài.
BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM :
Quan niệm của Kinh Thánh về sự giảng đạo có thể được mô tả cách tốt nhất
như là:
Một phương tiện Đức Chúa Trời đã chọn nhằm đem Tin Lành đến cho dân
chúng trong một thời điểm đặc biệt tại một địa điểm đặc biệt.
Phương tiện Đức Chúa Trời đã và đang dùng để giảng cho ngưi hư mất đồng
thời gây dựng cho tín đồ mau trưởng thành chuẩn bị họ cho sự chờ đón Chúa
Jêsus tái lâm.
Một phương pháp truyền thông Đức Chúa Trời đã dùng khi Hội Thánh đầu
tiên đem Tin Lành đến cho mọi người, nhưng không còn thích hợp nữa.
Khi nói đến quan điểm của Kinh Thánh về sự giảng đạo, chúng ta nói:
Về một chức vụ có hình thức, có tòa giảng do một người hướng dẫn mà
không có sự tác động qua lại của thính giả.
Về một lớp học trong đó một người thuyết trình và thỉnh thoảng nêu lên các
câu hỏi và khuyến khích các thính giả đáp ứng đối với đề tài.
Về các phương pháp truyền thông chân lý khác nhau bao gồm sự công bố,
sự đàm thoại cá nhân, lời chứng, làm chứng, đối thoại và làm gương.
Chúng ta có thể bênh vực cho giảng đạo như là phương tiện truyền thông
Tin Lành tốt nhất theo Kinh Thánh bằng cách chỉ ra.
Sự hợp lý của sự giảng đạo, vì đây là phương tiện duy nhất nhờ đó Hội
Thánh có thể thi hành đại Mạng lệnh của Chúa.
Truyền thông của Hội Thánh đã dùng sự giảng đạo như một trong những
phương tiện chủ yếu để truyền thông các quan điểm của Hội Thánh.
Gương của Giăng Báptít, các mạng lệnh của Chúa Jêsus về sự giảng đạo và
phương cách Hội Thánh Tân ước đã dùng rất có hiệu quả.
4. Trong Tân ước, tiếng Hylạp Kerusso và Euangellizo diễn tả sự giảng đạo
nói về một người:
Hành động như một sứ giả và một đại sứ cho Đấng Christ nhằm mục đích
truyền Tin Lành cho người hư mất.
Góp một phần trong cuộc đàm thoại hay thảo luận nhằm chinh phục những
người cứng lòng với Tin Lành.
Làm chứng và hành động như một chứng nhân trước các giới chức chính
quyền chống đối Tin Lành.
5. Nhìn lại lịch sử Hội Thánh, ta thấy sự giảng đạo là.
Một lực lượng mạnh mẽ lúc đầu bây giờ vô dụng và không còn hiệu quả
nữa.
Không có hiệu quả trong những năm đầu không được dân chúng và chính
phủ tiếp nhận.
Phương tiện lúc đầu để chinh phục người hư mất và về sau là một phương
tiện để phát huy và làm cho các tín đồ trưởng thành.
Hãy điền cho hợp các mục sau đây( bên trái) với câu mô tả thích đáng (bên
phải).
…..a) Công bố như một sứ giả và đại diện cho người khác như là đại sứ
nhằm mục đích chinh phục người hư mất.
…..b) Giảng Tin Lành, kể lại tin mừng.
…..c) Giảng đạo được xem là phương tiện phát huy sự sống thuộc linh và sự
trưởng thành của người Cơ đốc.
…..d) Là người làm chứng hay tuận đạo, tiếng Hylạp là Martureo.
…..e) Mở cuộc đối thoại, vì mục đích là thuyết phục dân chúng tiếp nhận
Tin Lành.
Quạn niệm về sau của sự giảng đạo.
Giăng Báptít là một thí dụ của phương pháp giảng đạo này.
Phaolô đã dùng phương pháp này cách rất hiệu quả.
Chữ Hylạp Euangellizo cho ta định nghĩa này về sự giảng đạo.
Quan niệm ban đầu về sự giảng đạo.
PHẦN TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI TRONG BÀI HỌC
b) Chân lý và nhân cách
2. a) Đúng
b) Sai
c) Đúng
d) Đúng
3.c) Truyền bá Tin Lành bằng mọi phương tiện ở bất cứ mọi nơi.
So sánh câu trả lời của bạn với phần thảo luận trong bài học.
b) Là trách nhiệm của mỗi tín hữu ở mọi thời đại và mọi nơi.
13. Câu trả lời của bạn : Tôi nhận thấy rằng sự truyền giảng có nhiều kết
quả. Khi Hội Thánh nỗ lực truyền bá Tin Lành. Lịch sử Hội Thánh tiến bộ
hay suy thoái là do công tác truyền giảng mạnh mẽ hay yếu đuối. Ngày nay
sự giảng đạo vẫn là phương tiện có hiệu quả trong việc truyền bá Tin Lành
cho người hư mất.
d) Diễn thuyết, liên hệ đến một người là diễn giả và không có sự tác động
qua lại của người khác.
a 2) Kinh nghiệm sau này.
b 1) Kinh nghiệm tiên khởi
c 1) Kinh nghiệm tiên khởi
d 1) Kinh nghiệm tiên khởi
e 2) Kinh nghiệm sau này.
8. a 2) Giăng Báptít
b 4) Các môn đồ
c 1) Chúa Jêsus
d 3) Êsai
9. a) Gởi đi một sứ điệp
b) Giảng hay công bố một sứ điệp
c) Nghe sứ điệp
d) Tin sứ điệp
e) Kêu gọi giúp đỡ
10. a) Công bố sứ điệp Tin Lành bất cứ nơi nào họ đi đến
11. b) Ít giảng công khai, thực hành phương pháp cá nhân nhiều hơn để
truyền bá Tin Lành.
12. a) Đúng
b) Đúng
c) Sai
d) Sai
e) Đúng
14. b) Công bố, phục vụ Đức Chúa Trời như một đại sứ và giảng đạo nhằm
các kết quả.

Sứ Điệp Truyền Giảng


Chúng ta đã học biết rằng sự giảng đạo thời Tân ước, bao gồm các phương
pháp truyền bá Tin Lành khác nhau. Các tín đồ đã đi khắp mọi nơi giảng sứ
điệp cứu rỗi, nói chuyện và kể về Tin Lành. Qua các bài làm chứng cá nhân
và sự làm chứng đầy quyền năng, họ đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên thế giới
của họ. sự giảng đạo thời Tân ước cũng chỉ về một phương pháp có hình
thức hơn và về nghi thức hơn trong đó người hầu việc Chúa giảng một vài
tương tự như sự giảng đạo ngày nay. Dầu họ nói chuyện với một người hay
giảng đạo cho nhiều người, thì sứ điệp của họ vẫn y như nhau. Đó là Tin
Lành của Chúa Jêsus Christ. về sau Phalô khuyên dạy Timôthê hãy giảng
Lời Chúa cho các tín đồ “để bể trách, nài khuyên, sửa trị” và “đem lòng rất
nhịn nhục dạy dỗ chẳng thôi” (IITi 2Tm 4:2). Chức vụ sau này phục vụ để
đem những người tín đồ đến sự trưởng thành và giúp đỡ họ tránh được tà
giáo.
Trong bài học này chúng ta xem xét về bốn lĩnh vực về các đề tài chính của
sự giảng đạo thời Tân ước áp dụng trong những tình huống giảng đạo có
hình thức và nghi lễ. Hai đề tài đầu tiên liên quan đến sự cứu rỗi và sự giảng
hòa, chủ yếu cho người chưa được cứu trong khi sự nên thánh và sự hy vọng
chủ yếu dành cho Hội Thánh. tài liệu dành cho mỗi đề tài không phải sắp
xếp thành một bài giảng, trái lại đây là hình thức thu gọn nội dung quan
trọng để bạn triển khai thêm khi bạn muốn rao giảng đầy đủ ý muốn của
Đức Chúa Trời trong bạn sẽ tìm thấy ở đây sự giúp ích cụ thể.
Bối cục bài giảng:
Sứ điệp của sự cứu rỗi
Sứ điệp của sự giảng hòa
Sứ điệp của sự nên thánh
Sứ điệp của sự hy vọng
Các mục tiêu của bài học:
Khi học xong bài này bạn phải có khả năng để:
Tóm lược nội dung của bốn đề tài giảng đạo quan trọng.
Giải thích tại sao nội dung của sự giảng đạo bao gồm nhiều hơn một đề tài.
Nhận biết vài trò của niềm hy vọng phước hạnh trong sự động viên người tín
đồ hầu việc Chúa.
Các sinh hoạt học tập:
Đọc phần mở đầu, bố cục và các mục tiêu.
Đọc ý nghĩa của những chữ quan hệ mà bạn chưa biết.
Nghiên cứu qua sự phát triển của bài học theo thường lệ. Khi học xong hãy
làm bài tự kiểm tra và xem lại các câu trả lời.
Những chữ quan hệ:
Accountability: Trách nhiệm
Antagonist: Người hay chống nghịch, đấu tranh, hoặc tranh cạnh người
khác, địch thủ, người đối lập.
Bema: Tòa phán xét cuối cùng
Reconciliation: Giảng hòa, đem lại sự thông công, dàn xếp các bất đồng.
Santification: Sự nên thánh, tình trạng lớn lên trong ân điển, thiên thượng
như là kết quả của đời sống phó thác sau khi tin chúa.
Khai triển bài học :
Sứ điệp của sự cứu rỗi:
Trong tất cả các đề tài truyền giảng Kinh Thánh, không có đề tài nào quan
trọng hơn là truyền bá Tin Lành cứu rỗi. Đây là đề tài căn bản, nếu được áp
dụng thì nó sẽ làm đối tượng cho những sứ điệp khác. Chúa Jêsus đã ra lệnh
các môn đồ của Ngài, “Hãy đi, khiến muôn dân trở nên môn đồ của ta (Mat
Mt 28:19; 24:14). Hơn nữa Chúa Jêsus đã nói rõ: “Ai tin và chịu phép báp
têm sẽ được cứu, ai không tin sẽ bị đoán phạt” (Mac Mc 16:16; GiGa 3:15-
21, 36). Khi sứ điệp cứu rỗi được rao giảng nếu họ tin nhận thì sẽ được sự
sống đời đời nếu không chắc chắn là họ sẽ bị chết đời đời.
Trong khi trình bày sứ điệp cứu rỗi, có hai điều ta phải nhấn mạnh: 1) rằng
mọi người đều là tội nhân và 2) rằng Đấng Christ là Chúa Cứu Thế của họ.
Nếu họ nghe và tiếp nhận thì sẽ được cứu rỗi. tuy vậy, nhiều người không
hiểu tình trạng hư mất của họ và cũng không biết làm cách nào để thay đổi
tình trạng của họ. Chúng ta hãy chứng minh cho họ thấy rằng nan đề chính
là mọi người đều là tội nhân.
Mọi người đều là tội nhân:
Mục tiêu 1: Hãy chứng minh mọi người đều là tội nhân và hậu quả tội lỗi
cùng cho biết phương cách giải quyết nan đề này .
Hãy quan sát chung quanh. Bạn sẽ thấy một thế giới bệnh tật, đau khổ, tham
lam, ghen ghét, tàn bạo, chiến tranh và chết chóc. Nếu bạn đọc các nhựt báo
và tập chí, bạn sẽ thấy rằng những nan đề đó ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Nhiều người tự hỏi: Nguồn gốc của những nan đề này là gì? Đâu phải là
những giải pháp của những nan đề? Vâng, Kinh Thánh cho chúng ta biết
nguồn gốc của nan đề của nhân loại là tội lỗi. Nhưng tội lỗi là gì? Tội lỗi là
sự thất bại, không sống theo luật pháp của Đức Chúa Trời hoặc là công khai
vi phạm luật pháp ấy. Đây là sự bất tuân, sự không chịu vâng lời; Tội còn là
sự tự nâng mình lên và tự hạ Đức Chúa Trời xuống. Tự nâng mình lên là sự
không quan tâm đến phần thiêng liêng của đời sống mình, từ khước và loại
bỏ Đức Chúa Trời ra khỏi tư tưởng kế hoạch, lời nói và những hành động
của mình. Đây là điều không đẹp lòng Chúa.
1. Mọi người trở thành tội nhân theo hai cách. Hãy đọc những câu Kinh
Thánh sau đây và đặt tên hai cách đó.
a) RoRm 5:12-19
b) 3:10-18, 23
Tội lỗi của Ađam đã bị lụy cho toàn thể nhân loại, bởi vì Ađam là cái đầu
đại diện của dòng giống loài người. Và ông sa ngã dòng giống loài người sa
ngã và thừa hưởng bản tính tội lỗi. Con người biểu lộ sự cứng lòng, chống
nghịch lại và bất tuân luật pháp của Đức Chúa Trời (GaGl 5:19-21). Vì đó,
bản tính tội lỗi gây cho người ta phạm phải những hành vi tội lỗi.
Hậu quả của tội lỗi của loài người là sự phân cách khỏi Đức Chúa Trời và sự
phân rẽ lẫn nhau. Hậu quả của tội lỗi khiến cho mọi người bại hoại, bản tính
của con người như cảm tình, trí tuệ và ý chí - đều đã bị ảnh hưởng. Mọi
người đều hoàn toàn tuyệt vọng không phương tự cứu mình. Tâm trí bại
hoạn cho tội lỗi đến nỗi họ không thể hiểu và đánh giá đúng những sự việc
thuộc linh (ICo1Cr 2:14). Đối với họ những việc thuộc linh là điên rồ và vô
ý. Không có sự hiểu biết thuộc linh họ không thể hiểu những sự thuộc về
Đức Chúa Trời.
2. Hãy đọc các câu Kinh Thánh sau đây và trả lời.
RoRm 6:15-20 nói rằng người chưa tin Chúa là của tội lỗi.
8:6 cho chúng ta biết rằng ai đã bị bản tính nhân loại của họ kiểm soát chỉ có
thể trông đợi sự thuộc linh
8:7 nói rõ rằng khi một người đã bị bản tính nhân loại kiểm soát thì người đó
trở nên không phục và cũng không thể
8:8 tuyên bố rằng kẻ vâng theo bản tính nhân loại của mình thì không thể
8:1-17 và IICo 2Cr 5:17 cho chúng ta biết rằng nếu một người ở trong Đấng
Christ, người ấy trở nên …………….. và đời sống người đó được kiểm soát
bởi
Sau khi phân tích các vấn đề trên đây chúng ta có thể kết luận rằng:
Mọi người đều bị ảnh hưởng bởi sự sa ngã của Ađam cho nên họ không thể
suy nghĩ và làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Có một ít trường hợp, nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, người ta có thể làm
việc lành và xem là tương đối tốt. Nhưng đời sống của họ không thể làm đẹp
lòng Đức Chúa Trời khi họ còn bị bản ngã kiểm soát
Khả năng con người lựa chọn và hành động bị hạn chế do sự nô lệ cho sự tội
lỗi của họ (RoRm 6:17, 20).
Sự giải phóng duy nhất ra khỏi ách nô lệ cho tội lỗi của loài người là sự cứu
rỗi của Đức Chúa Trời. Khi đời sống được Đức Thánh Linh kiểm soát con
người mới có thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.
3. Hãy phân tích Cong Cv 17:16-31. Về sứ điệp của Phaolô cho Hội Đồng
Thành Phố tại Athên. Và trả lời những câu hỏi sau:
Phaolô nói rằng trước đây Đức Chúa Trời tội lỗi, bởi vì người ta không cần
thiết về Chúa và luật pháp của Ngài
Tuy nhiên, trong bài giảng của mình, Phaolô tuyên bố rằng khi Tin Lành
được rao giảng Đức Chúa Trời ra lệnh ở khắp mọi nơi hãy
Mọi người phải quay đầu từ bỏ khỏi tội lỗi của mình, bởi vì ngày sắp đến
khi Đức Chúa Trời sẽ
Sự đáp ứng với sứ điệp cứu rỗi của Phaolô là một
người………………………..
trong khi những người
khác…………………………………………………………………………
………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………..
4. Hãy so sánh lời kêu gọi của Phierơ với dân chứng khi ông kết luận sứ điệp
của mình tại đền thờ (Cong Cv 3:17-26) với lời kêu gọi của Phaolô cho Hội
Đồng Thành Phố Athên (17:29-31). Hãy dùng sổ tay bạn trả lời câu này.
Như vậy chúng ta nhận thấy tội lỗi là nguồn gốc mọi nan đề của nhân loại,
nên trong những bài giảng chúng ta phải đề cập nguyên nhân, hậu quả của
tội lỗi, và phương pháp giải thoát. Bạn có thể bắt đầu nghiên cứu về sự sa
ngã, hậu quả nó trên nhân loại và sự cung ứng con đường giải cứu cho
những tội nhân ngay trong câu chuyện ở Sáng thế ký (đoạn 1-3). Hoặc bạn
có thể giảng về thư Rôma của Phaolô, đặc biệt là các đoạn 3-8. Hoặc bạn là
người phân tích lá thư tuyệt vời của Giacơ nói về tội lỗi đã lừa gạt loài người
(Gia Gc 1:12-15). Việc Chúa Jêsus bị cám dỗ trong câu chuyện ở sách Phúc
âm cho ta thấy các loại hoạt động của Satan là kẻ tìm cách tiêu diệt loài
người qua sự cám dỗ (cũng xem Eph Ep 6:10-18 và IGi1Ga 2:15-17). Tuy
nhiên, trong đề tài này điều quan trọng là sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời
dành cho nhân loại và phương pháp chiến thắng cuộc tranh chấp thuộc linh
mà họ phải đương đầu.
5. Những hậu quả của tội lỗi là gì và phương pháp giải quyết nan đề này?
Hãy viết vào sổ tay của bạn câu trả lời.
Đấng Christ là Chúa Cứu Thế:
Mục tiêu 2: Hãy chọn lựa một câu chứng minh Đấng Christ, Chúa Jêsus Cứu
Thế là giải pháp cho tội lỗi và sự chết thuộc linh của nhân loại .
Phần thứ hai của chủ đề sự cứu rỗi: Chúa Jêsus chính là giải pháp cho vấn đề
tội lỗi. Vì tội lỗi đem lại sự chết phần thuộc linh, cho nên con người phải
sanh lại phần thuộc linh. Phải luôn luôn nhớ rằng khi rao giảng về vấn đề tội
lỗi, bạn phải kèm theo sứ điệp về sự hy vọng mà Chúa Cứu Thế đã ban cho.
Giống như một người được sanh ra về phần thân thể, họ phải được sanh ra
về phần thuôc linh trong gia đình của Đức Chúa Trời. Sự sanh lại thuộc linh
đòi hỏi một người phải ăn năn (Cong Cv 2:37-39) và hoàn toàn từ bỏ tội lỗi
và đặt lòng tin cậy nơi Chúa Jêsus là Đấng tha thứ tội lỗi cho mình (16:30-
31) đồng thời xưng nhận rằng Ngài là Chúa của đời sống họ (RoRm 10:9-
10). Khi tiếp nhận sự cúu rỗi được Chúa cung ứng cho thì họ được Đức
Thánh Linh của Đức Chúa Trời tái sanh (IICo 2Cr 5:17). Khi được Đức
Thánh Linh kiểm soát, thì họ được sống lại sự sống thuộc linh (RoRm 8:10)
và họ ý thức được mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời như những con
cái của Ngài (RoRm 8:14-16).
Thật phước hạnh biết bao khi chúng ta được tự do quay về với Đức Chúa
Trời, để ăn năn và tin nhận Chúa. Điều này được Kinh Thánh bảo đảm.
6. Hãy đọc Mat Mt 3:2; 18:3; LuLc 13:3, 5; GiGa 6:29; Cong Cv 2:38; 3:19.
Và cho biết Kinh Thánh dạy chúng ta điều gì về sự tự do của loài người?
Hãy dùng sổ tay của bạn để trả lời câu này.
Kinh Thánh truyền lệnh mọi người phải ăn năn tội lỗi và quay về cùng Chúa
Cứu Thế. Nếu mạng lệnh này không được đáp ứng thì chẳng khác gì trò giễu
cợt đối với những kẻ nô lệ cho tội lỗi và không có tác dụng gì cả. Tuy nhiên,
nhờ giúp đỡ của Đức Thánh Linh cảm động người ta sẽ vừa muốn vừa làm
được theo mục đích tốt lành của Đức Chúa Trời: ăn năn tội, tin Chúa Cứu
thế và tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài (Phi Pl 2:12-13).
Sứ điệp Tân ước về Đấng cứu rỗi là Chúa Jêsus (Cong Cv 8:5; Phi Pl 1:15)
sứ điệp Tin Lành của Chúa Jêsus bao gồm sự giáng sanh bởi nữ đồng trinh,
đời sống vô tội, sự chết, sự phục sinh của Ngài và việc Ngài thăng thiên ngồi
hữu Đức Chúa Trời. Hội Thánh đầu tiên đã rao giảng sứ điệp duy nhất này.
Sứ đồ Phaolô chỉ giảng về sứ điệp Đấng Christ đóng đinh trên Thập Tự Giá
(ICo1Cr 2:2) và Phierơ cũng rao giảng bằng danh Chúa Jêsus Christ là
phương tiện cứu rỗi duy nhất (Cong Cv 4:12).
7. Hãy phân tích các bài giảng của Phierơ (2:14-41; 3:12-26; 10:34-43) và
của Phaolô (13:16-41) về nội dung các bài giảng đó. Viết ra một câu hay các
câu nói rõ hay ngụ ý trong bài giảng về các mục đã nêu dưới đây:
* Của Chúa Jêsus 2:14-41 3:12-26 10:34-43 13:16-41
- Thuộc dòng Vua Đa Vít
- Đời sống vô tội
- Chức vụ đã được Đức Chúa Trời công nhận
- Sự đóng đinh đã được định trước
- Sự phục sinh
- Sự tôn cao
- Sự kêu gọi hãy đáp ứng
Nói tóm lại, sứ điệp của Tân ước về sự truyền giảng gồm có hai đề tài chính:
1) Những lời tiên tri của Cựu ước về Christ, Jêsus là Chúa và Cứu Chúa đã
được ứng nghiệm. 2) kêu gọi thính giả ăn năn, tin và xưng nhận Chúa Jêsus
là Chúa. Phương cách này được ghi lại trong Tân ước. Thí dụ như : Buổi đại
tiệc” (Trong LuLc 14:16-24).
Trong thời Tân ước sứ điệp của các đầy tớ Chúa căn cứ trên Kinh Thánh
Cựu ước và lời dạy của Chúa Jêsus để kêu gọi các thính giả hãy lấy đức tin
tiếp nhận sứ điệp họ đã nghe. Những ai tin đều được cứu qua đó quyền phép
của Tin Lành đều được ban bố khắp mọi nơi (RoRm 1:16-17).
8. Khoanh tròn mẫu tự của câu mô tả Đấng Christ là giải pháp cho tội lỗi và
sự chết thuộc linh.
Nếu họ hiểu biết nhiều hơn về Đấng Christ thì họ sẽ gia nhập một nhà thờ.
Vì khi họ ăn năn tội lỗi của mình, tin cậy Đấng Christ và tiếp nhận Ngài làm
Chúa, thì họ được tái sanh phần thuộc linh.
Nếu họ tin quyết về khả năng cứu rỗi Đấng Christ, họ có thể được cứu do
đức tin của họ.
Sứ điệp giảng hoà:
Con người với Đức Chúa Trời:
[gr9 Mục tiêu 3: Hãy lựa chọn một câu nói cho thấy ý nghĩa của sự giảng
hòa như Kinh Thánh đã dùng .
Một khía cạnh khác của sứ điệp cứu rỗi là sự giảng hòa. Giảng hòa là làm
cho hai người hòa thuận khôi phục lại sự thông công đã bị đổ vỡ. Mọi người
đều là tội nhân vì thế họ chống nghịch lại Đức Chúa Trời (RoRm 5:10-11).
Như chúng ta đã thấy, mối liên hệ giữa loài người đã gây nên. SaSt 3:8-10,
EsIs 59:2). Nhưng Đấng Christ đã chết vì tội lỗi của họ, là nguyên nhân gây
nên sự thù nghịch và sự phân rẽ với Đức Chúa Trời. Để khôi phục lại mối
thông công này, Đức Chúa Jêsus đã chịu chết “Trong khi chúng ta còn là kẻ
có tội… Đấng Christ đã vì chúng ta chịu chết” (RoRm 5:8). Hơn nữa “Vì
chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian hòa lại với
Ngài” (IICo 2Cr 5:19). Vì thế sứ điệp giảng hòa dùng để điều chỉnh sự khác
biệt giữa Đức Chúa Trời và loài người. Khiến mọi sự trở nên ngay thẳng tốt
đẹp. Qua Chúa Jêsus Christ những người đã được cứu chuộc lại có thể đồng
bước với Đức Chúa Trời.
Vì vậy, Hội Thánh có một chức vụ và một sứ điệp giảng hòa. Là một tín đồ,
bạn đã lập lại hòa bình với Đức Chúa Trời. Bây giờ, bạn hãy giúp những
người đang xa cách Chúa và đang gặp khó khăn, có cơ hội phục hòa với Đức
Chúa Trời (IICo 2Cr 5:18-21).
9. Có bao giờ bạn làm mích lòng một người bạn tốt sau đó bạn làm hòa lại
với người bạn đó không? Người bạn tốt của bạn nghĩ gì? và bạn cảm thấy ra
sao? Hãy đọc Luca 15. Bạn học được gì từ đoạn này và hãy thử viết lên cảm
nghĩ của Đức Chúa Trời? Hãy viết vào sổ tay của bạn.
Con người với con người:
Sau khi chúng ta được hòa thuận lại với Đức Chúa Trời, chúng ta có trách
nhiệm phải làm cho các tội nhân được phục hòa với Đức Chúa Trời (5:18).
Giống như Đức Chúa Trời làm hòa với thế gian qua Đấng Christ, tất cả
chúng ta là người tín đồ được thách thức để làm những đại sứ cho Đấng
Christ. Và Đức Chúa Trời đang kêu gọi nhân loại thông qua chúng ta. Hành
động này là điều cấp bách trong giai đoạn hiện nay? Chúng ta hãy giục giã
các tín hữu của chúng ta tích cực trong công tác chinh phục linh hồn hoặc
giải quyết nhanh chóng những ngăn trở trong nhóm của mình để phục vụ
Đấng Christ, vì nhân loại đang đi vào sự chết đời đời mà không có Đức
Chúa Trời, những Cơ đốc nhân không hoạt động chẳng bao lâu sẽ trở thành
bất lực, không có khải tuợng, hay chỉ trích và chia rẽ. Công tác của bạn
chứng tỏ rằng đây là một vinh dự cho những ai thuyết phục người ta làm hòa
với Đức Chúa Trời bằng cách tiếp nhận Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa. Đối
tượng bạn phục vụ có thể là người chinh phục linh hồn một cách quyền năng
và có phước hạnh của Đức Chúa Trời. Hoặc họ có thể là những người vị kỷ,
không có khải tượng, cứ thực hành các động tác thờ phượng mà không hề
làm tròn trách nhiệm Đức Chúa Trời giao.
Hai đường tròn ốc trên đây có thể minh họa về hiệu quả kinh nghiệm Cơ đốc
nhân của bạn. hãy bắt đầu vẽ từ ngoài chu vi và dần dần đi lần vào trung
tâm. Phương pháp này giới hạn kích thước của tròn ốc. Một hình vẽ khác bắt
đầu ở trung tâm và mở rộng vòng tròn ra. Phương pháp sau này không giới
hạn kích của vòng tròn. Nhưng nó không đứng yên một chỗ, nó cần phải tiến
tới, không có giới hạn, đến với những người khác đang ở ngoài sự bình yên
của Đức Chúa Trời.
10. Chữ “Giảng hòa” trong Kinh Thánh diễn tả ý niệm rằng:
Khi một người đã bị bán cho ách nô lệ của tội lỗi, thì người đó phải được
mua chuộc lại.
Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời trên tội lỗi của dân chúng phải được nguôi
ngoai.
Sự thông công giữa Đức Chúa Trời với loài người, vốn bị đứt đoạn bởi tội
lỗi, đã được phục hồi.
Sứ điệp của sự nên thánh
Chủ đề thứ ba của sự giảng đạo của thời Tân ước là sự nên thánh. trong khi
các đề tài trước đề cập chủ yếu đến kinh nghiệm cứu rỗi của một người thì
sự nên thánh liên hệ đến sự lớn lên và sự trưởng thành của kinh nghiệm này.
Nếu những người mà bạn phục vụ không được nghe về sứ điệp liên quan
đến sự nên thánh, thì họ sẽ cứ ở mãi trong tình trạng con trẻ (ICo1Cr 3:1-3),
và không đạt đến sự sống như Đấng Christ vốn là mục đích của đời sống Cơ
đốc nhân (RoRm 8:29). Vì vậy, đề này rất quan trọng cho chức vụ giảng dạy
của bạn.
Đời sống Cơ đốc nhân:
Mục tiêu 4: Nhận định rõ những câu giải thích ý nghĩa ý của từ ngữ “nên
thánh” Như đã được Kinh Thánh dùng .
“nên thánh” là phân rẽ khỏi thế tục, để biệt riêng cho sự phục vụ thánh. Con
người, nơi chốn hoặc đồ vật đều có thể biệt riêng ra cho Chúa. Chẳng hạn,
một cái quán hay một cái tiệm trước đây là nơi mua bán bây giờ dùng làm
nhà thờ. Tại vì nó được biệt riêng hoặc dâng hiến cho công việc Chúa. Các
Cơ đốc nhân là những người đã được biệt riêng ra khỏi cách sống xưa cũ và
dâng hiến cho một nếp sống mới.
Đời sống thuộc linh bắt đầu khi một người từng trải sự tái sanh (GiGa 3:1-
8), và sự sống mới này phải lớn lên, phát triển và cuối cùng trưởng thành
trong Đức Thánh Linh (15:1-17). Là những tân tạo vật trong Đấng Christ,
chúng ta cần được trở nên giống như Ngài trong những tư tuởng, lời nói và
việc làm (Eph Ep 4:20-24). Niềm mơ ước trở nên giống như Ngài là sự đáp
ứng bước đầu của chúng ta đối với kinh nghiệm tái sanh, tuy nhiên, những
thói quen cũ vẫn để lại dấu vết trên chúng ta và ngăn cản sự phát triển này.
Cuộc đời quá khứ chúng ta được đánh dấu bằng sự vị kỷ, lấy cái tôi làm
trung tâm, vì chúng ta còn ở dưới sự kiểm soát của bản tính tội lỗi của nhân
loại (GaGl 5:19-21 RoRm 8:5-9). Nhưng bây giờ chúng ta bằng lòng để Đức
Thánh Linh kiểm soát thì Ngài sẽ tạo ra bông trái trong chúng ta (GaGl 5:22-
26).
Thí dụ một em bé. Em đã có tiềm năng trở thành người lớn ngay sau khi mới
sinh ra, nhưng em chỉ trưởng thành người lớn sau một quá trình phát triển.
Cũng vậy, là những trẻ em thuộc linh, chúng ta đã có tiềm năng trở thành
người lớn thuộc linh, nhưng chúng ta chỉ trưởng thành đời sống thuộc linh
khi chúng ta tiếp tục bước đi với Thánh Linh (5:25) và khi chúng ta lớn lên
trong ân điển và trong sự thông biết Chúa Jêsus (IIPhi 2Pr 3:18). Khi chúng
ta bước đi theo Thánh linh thì những ham muốn trong con người cũ của
chúng ta sẽ bị tê liệt, vậy mỗi ngày chúng ta hãy quyết định sống cho Chúa
bằng cách vâng theo sự dẫn dắt của Thánh Linh (RoRm 8:5-9)
Các Cơ đốc nhân ở Côrinhtô đã kinh nghiệm sự thay đổi thuộc linh rất lớn
đó là kết quả kinh nghiệm tái sanh của họ (ICo1Cr 6:9-11), nhưng khi họ
tiếp tục bước đi trong đức tin họ sẽ phải trải qua tình trạng từ con đỏ thuộc
linh đến người trưởng thành thuộc linh (so sánh ICo1Cr 3:1-4 với 6:1-11).
Họ và chúng ta sẽ được phước khi những tôi tớ của Ngài cung cấp lời chỉ
dẫn đúng đắn để gây dựng đức tin của chúng ta trưởng thành thì chúng ta
càng ngày càng trở nên giống Đấng Christ hơn (Eph Ep 4:10-16).
11. Bài tập sau đây, giải thích ý nghĩa của từ “nên thánh” bạn hãy khoanh
tròn câu đúng:
Sự nên thánh chỉ về đời sống tuyệt đối hoàn hảo trong đó người Cơ đốc
không còn phạm tội hay lầm lỡ nữa.
Sự nên thánh liên hệ đến việc biệt riêng một người, một nơi hay một vật
khỏi sự sử dụng thế tục và dâng hiến điều ấy cho sự phục vụ thánh.
Đời sống thuộc linh vốn mang đặc tính của sự lớn lên, phát triển và trưởng
thành giống như Đấng Christ, là yếu tố của nên thánh .
Sự nên thánh chỉ dành định cho những người có chức vụ hầu việc Chúa là
người cần ơn và sự hiểu biết đặc biệt. Tất cả những Cơ đốc nhân khác là một
phần của hệ thống thế gian và không được dâng mình cho Đấng Christ.
LỜI CHÚA HƯỚNG DẪN CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA:
Mục tiêu 5: Mô tả vai trò của Lời Đức Chúa Trời trong quá trình nên thánh
Cơ đốc nhân mới tái sinh cần khuyến khích để theo đuổi sự nên thánh.
Chúng ta được cảnh cáo cách nghiêm trang rằng chúng ta phải “cố sống đời
sống thánh khiết vì nếu không nên thánh thì không ai thấy được Đức Chúa
Trời” (HeDt 12:14, ICo1Cr 7:1). Sự theo đuổi sự thánh khiết sẽ dẫn đến với
Lời của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus đã phán trong lời cầu nguyện của Ngài
với Đức Chúa Cha, “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh, lời Cha tức là
tức là lẽ thật (GiGa 17:17). Và Phaolô lại tuyên bố rằng: “Cả Kinh Thánh
đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy
người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn
vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (IITi 2Tm 3:16).
Lời Chúa phô bày tội lỗi, khuấy động lương tâm của chúng ta, bày tỏ bản
tính của Đức Chúa Trời và gương mẫu của Đấng Christ, đem lại ảnh hưởng
và quyền phép của Đức Thánh Linh giành cho chúng ta, và lời Chúa là uy
quyền tối hậu cho mọi vấn đề liên hệ đến sự dạy dỗ và thực hành trong đời
sống Cơ đốc nhân. Vì thế, Lời Chúa là tối cần cho đời sống Cơ đốc nhân.
Khi chúng ta lắng nghe và để ý đến Lời Chúa, chúng ta xây dựng đời sống
Cơ đốc nhân trên một nền tảng vững chắc, không giống như người dại xây
dựng nhà mình trên cát (Mat Mt 7:24-26). Và qua Lời Chúa chúng ta được
tẩy sạch (GiGa 15:3; Eph Ep 5:26), được biệt riêng cho Đức Chúa Trời đã
phán với Giôsuê về Lời Chúa trong cuộc sống chúng ta, “Quyển sách luật
pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận
làm theo mọi điều đã chép ở trong. Vì như vậy người mới được may mắn
trong con đường mình và mới được phước” (Gios Gs 1:8).
“Cả khi Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ,
bẻ trách sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức
Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành (IITi 2Tm 3:16).
12. Hãy mô tả vai trò của Lời Đức Chúa Trời trong tiến trình nên thánh. Hãy
viết câu trả lời trong sổ tay của bạn.
ĐỨC THÁNH LINH LÀ SỰ GIÚP ĐỠ CỦA CHÚNG TA:
Mục tiêu 6: Hãy chọn lựa những câu nói về Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng
ta sống một sống Cơ đốc nhân đẹp lòng Chúa .
Chúng ta thấy rằng sự tái sanh đem lại sự sống mới và Lời Chúa hướng dẫn
chúng ta trong cuộc sống mới. Bây giờ chúng ta xem xét vai trò của Đức
Thánh Linh là Đấng ban cho chúng ta sự khao khát sống đời sống Cơ đốc
nhân thánh khiết.
Tín đồ thời Cựu ước khi có luật pháp của Môise hướng dẫn, nhưng họ vẫn
không khoát khỏi tội lỗi được bởi vì bản tính con người là yếu đuối (RoRm
8:3). Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Đức Thánh Linh của Ngài để giúp
chúng ta làm theo điều Ngài muốn chúng ta làm và cứu chúng ta khỏi sự
kiểm soát của bản ngã (8:5-6, 9) Đức Thánh Linh ở bên trong chúng ta
không chỉ bày tỏ lẽ thật và bày tỏ điều Đức Chúa Trời đòi hỏi mà còn ban
quyền năng để chúng ta vâng theo các mạng lệnh của Ngài khi chúng ta đầu
phục Ngài thì Đức Thánh Linh sẽ giúp chúng ta thoát ly tội lỗi (8:12-13) và
tạo ra trái Thánh Linh (GaGl 5:22-25). Đức Thánh Linh ban cho chúng ta
ước muốn nội tâm để làm theo điều hay lẽ phải.
Chúng ta có thể so sánh vai trò của Đức Thánh Linh trong sự nên thánh với
vai trò của người lính trên chiến trường. Trước khi tái sanh, người cũ ở dưới
sự kiểm soát của bản tính tội lỗi, thì tội lỗi cai trị và không có sự thuôc linh.
Tuy nhiên, vào lúc được tái sanh, Đức Thánh Linh là Đấng đã đến ngự trong
lòng của chúng ta và Ngài bước vào cuộc tranh chấp và nắm thế chủ động.
Khi một người được Đức Thánh Linh kiểm soát, thì miền đất đã bị con
người cũ chiếm lĩnh dần dần được chinh phục và biến đổi nhờ Đức Thánh
Linh ngự trị bên trong và chúng ta được “hóa nên cùng một ảnh tượng với
Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển” (IICo 2Cr 3:18).
Sứ điệp nên thánh rất cần thiết cho sự duy trì và phát triển đời sống thuộc
linh khi bạn giảng về đề tài này với nhiều ánh sáng mới sẽ giúp ích rất nhiều
cho người nghe bạn.
13. Hãy ghi số 1 trước các câu chỉ về Đức Thánh Linh giúp chúng ta sống
đời sống Cơ đốc nhân đẹp lòng Chúa và số 2 ở trước những câu KHÔNG
nói như thế.
Đức Thánh Linh tạo ra sự ước muốn nội tâm để ta sống đời sống lấy Chúa
làm trung tâm.
Vì bản chất chống nghịch của bản ngã, mà Đức Thánh Linh khiến chúng ta
hầu việc Đấng Christ cách đẹp lòng.
Công tác của Đức Thánh Linh bên trong đời sống con người liên hệ đến mức
độ mà người ấy đều phục sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh
Đức Thánh Linh bày tỏ lẽ thật cho chúng ta, để chúng ta biết điều Đức Chúa
Trời đòi hỏi và giúp chúng ta khả năng để làm điều Đức Chúa Trời muốn
chúng ta làm.
SỨ ĐIỆP CỦA SỰ HY VỌNG:
Mục tiêu 7: Nhận định câu giải thích niềm hy vọng về sự tái lâm của Đấng
Christ, và sự phán xét cuối cùng về công tác của người tín đồ có ảnh hưởng
đến đời sống Cơ đốc nhân .
Hội Thánh Tân ước là một Hội Thánh hy vọng. Vì Chúa Jêsus đã phán:
“Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở…Ta sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi
ta đã đi và đã sắm sẵn cho các người một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi
đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các người cũng ở đó”. (GiGa 14:2-3).
Các tín đồ Hội Thánh đầu tiên rất sốt sắng trông đợi sự tái lâm của Chúa. Họ
tin rằng thế hệ của họ sẽ không qua đi truớc khi Chúa trở lại. Niềm hy vọng
phước hạnh này giữ cho đời sống của họ trong sạch. Thúc giục họ trong mọi
công tác phục vụ và mang đến sự can đảm sốt sắng cho họ ở giữa cơn bách
hại nặng nề. Các tín đồ nhận thức được rằng bên kia cuộc sống hiện tại là
nơi họ phải khai trình và có trách nhiệm về mọi sinh hoạt mà họ đã làm sự
phán xét sắp đến dạy cho họ sống điều độ, điềm tĩnh và nhắm mục đích sống
làm sao cho ban thưởng và tránh sự hình phạt. Hy vọng này đã giúp ích cho
Hội Thánh suốt 2000 năm qua và vẫn còn giúp ích cho Hội Thánh ngày nay.
Khi bạn rao giảng sứ điệp này, bạn sẽ làm dấy lên niềm hy vọng cho một thế
giới tuyệt vọng ngoài Đấng Christ. Đồng thời sẽ khích lệ những đời sống Cơ
đốc nhân có trách nhiệm.
CHIẾM CHỖ TRONG CÔNG TÁC VÀ SỰ PHỤC VỤ:
Hội Thánh Tân ước sống và làm việc trong niềm hy vọng về sự tái lâm của
Chúa. Chính niềm hy vọng này đã giúp cho nhiều người chịu đựng nổi cơn
bách hại khủng khiếp (ITe1Tx 1:3; IITe 2Tx 1:4). Sứ đồ Phaolô thấy trước
các nhu cầu của những tín đồ này và ông khuyến khích họ bằng những lời
chỉ dẫn đặc biệt về sự tái lâm của Chúa (ITe1Tx 4:13-18). Bạn thấyrằng ông
không muốn các Cơ đốc nhân không biết gì về sự tái lâm của Chúa, cũng
như không biết về những trách nhiệm của họ trong khi họ chờ đợi biến cố
này. Và dĩ nhiên Chúa Jêsus đã từng thúc giục về nhu cầu trung tín hầu việc
Chúa trong chức vụ Chúa giao.
14. Hãy đọc Mat Mt 24:45-51, 25:14-30, LuLc 12:35-40 và Cong Cv 1:6-8
rồi trả lời những câu hỏi sau đây.
Chủ đề quen thuộc với những khúc Kinh Thánh này là nhu cầu
Những câu này chứng tỏ rằng chúng ta không chỉ quan tâm đến chính mình
với củ sự tái lâm của Chúa nhưng cũng với
Ở đây chứng tỏ rằng thật là tốt cho một đầy tớ nếu Chủ thấy anh và thật là tệ
hại cho nếu anh không
Chúa không muốn các môn đồ của Ngài cứ biếng nhát trong khi chờ đợi sự
tái lâm của Ngài. Đó là lý do Ngài thách thức họ hãy giảng Tin Lành khắp
mọi nơi (1:8) Phaolô lặp lại mối quan tâm này khi ông nói, “Hãy cầu nguyện
cho chúng tôi hầu cho đạo Chúa được dồn ra và được sáng danh” (IITe 2Tx
3:1). Tuy nhiên, khi thời gian trôi qua và Chúa chưa trở lại, thì Phaolô cũng
đã khuyến khích các tín đồ ở Têsalônica hãy can đảm trong niềm hy vọng và
sự cứu rỗi cuối cùng dầu họ sống hay chết (xem ITe1Tx 5:1-11). Ông đặc
biệt chống lại sự biếng nhát (ITe1Tx 5:14, IITe 2Tx 3:6-12) Ông và những
người cùng làm việc với ông đã làm gương tốt cho người Têsalônica bằng
cách tự túc để hầu việc Chúa.
Người ta thường thất vọng và mệt mỏi khi thấy lời hứa chưa được thực hiện.
Nó có thể biến người ta thơ ơ lãnh đạm đối với sự tái lâm của Đấng Christ.
Là người hầu việc Chúa Jêsus, bạn hãy chứng tỏ biết rằng không chỉ Chúa
Jêsus hứa sẽ trở lại, nhưng các thiên sứ cũng làm chứng cho biến cố này, khi
nói rằng “Giêxu này… sẽ trở lại” (Cong Cv 1:11). Phierơ cũng lưu ý rằng
trong những ngày sau rốt người ta coi nhẹ lời hứa này (IIPhi 2Pr 3:3-9), vì
họ không hiểu lý do của sự trễ nãi này. Trong hiện tại, chúng ta phải lưu ý
đến lời của sứ đồ Phaolô “Hãy hầu việc Chúa cách dư dật luôn vì biết rằng
công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (ICo1Cr 15:58).
15. Sứ điệp về sự tái lâm của Chúa phải tác dụng đến đời sống Cơ đốc nhân
bằng cách.
Khuyến khích các Cơ đốc nhân chịu đựng sự gian khổ và sự bách hại vì nó
có niềm hy vọng này.
Kích thích các Cơ đốc nhân phải thi hành mạng lệnh của Chúa để rao giảng
Tin Lành cho hết thảy mọi người.
Nhắc nhở chúng ta về sự phán xét sắp đến mà chúng ta sẽ khai trình về mọi
công tác hầu việc Chúa của chúng ta.
Tất cả các điều được nhắc đến trong các câu a), b) và c) ở trên.
Chỉ những điều nhắc đến ở câu a) và b) ở trên.
ĐỜI SỐNG THÁNH KHIẾT:
Trông đợi sự tái lâm của Đấng Christ nhắc nhở mỗi Cơ đốc nhân sống đời
sống kỉnh kiền trong thế gian tội ác hiện nay. Chúa Jêsus thường cảnh báo
các môn đồ khi họ có thái độ hờ hững với sự tái lâm của Ngài. Trong Mac
Mc 13:32-37, Chúa dùng thí dụ sự tái lâm của Ngài để dạy dỗ họ.
“Về ngày và giờ đó, chẳng ai biết chi hết, các thiên sứ trên trời, hay là Con
cũng chẳng biết nữa, song chỉ Cha mà thôi. Hãy giữ mình, tỉnh thức, vì các
ngươi chẳng biết kỳ đó đến khi nào. Ấy cũng như người kia đi đường xa bỏ
nhà, giao cho đầy tớ đứa cai quản một việc, và cũng biểu đứa canh cửa thức
canh vì không biết chủ nhà về lúc nào, hoặc chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy
hay la sớm mai, e cho người về thình lình gặp các ngươi ngủ chăng. Điều mà
ta nói cùng các ngươi, ta cũng nói cho mọi nguời: Hãy tỉnh thức”.
Chúng ta được Chúa giao công tác: truyền Tin Lành cho cả thế gian. Chúng
ta cũng được thách thức sống đời sống thánh khiết, lớn lên và yêu thương
lẫn nhau, trong khi chúng ta chờ đợi sự tái lâm của Ngài (ITe1Tx 3:12-13)
và như đã thấy, chúng ta đã được khuyến khích hãy tỉnh thức trông mong sự
tái lâm của Ngài.
Những trách nhiệm này nhắc nhở chúng ta tiết độ và giữ mình khỏi rơi vào
các thú vui tiệc tùng, rượu chè và những lo lắng đời này, nhờ đó ngày Chúa
sẽ không đến thình lình trên chúng ta như luới bủa (LuLc 21:34).
16. Hãy đọc mỗi câu Kinh Thánh sau đây và trả lời các câu hỏi liên quan đến
trách nhiệm chúng ta đối với ngày Chúa tái lâm.
Trong LuLc 22:35-40 chủ đề của phân đoạn này là:

b) 21:34-36 lưu ý chúng ta

c) Mat Mt 24:42-51 nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức để chúng ta khỏi trở
nên

ITe1Tx 5:6 thúc giục chúng ta

Khi chúng ta chờ đợi ngày Chúa tái lâm.


Trong IPhi 1Pr 4:7. Phierơ thách thức chúng ta

Cơ sở niềm hy vọng của Cơ đốc nhân là sự tái lâm của Chúa. Hướng về sự
kiện này, trách nhiệm của chúng ta là phải hầu việc Chúa Jêsus, sống đời
sống thánh khiết và trưởng thành nên giống như Đấng Christ như thế khi
Ngài tái lâm chúng ta sẽ không sợ hãi, xấu hổ hay tuyệt vọng.
Ngày kia có một cậu bé được giao nhiệm vụ coi sóc nông trại nhỏ của gia
đình. Hôm nọ cha mẹ cậu phải đi lên thành phố có việc cần. Cha cậu giao
cho cậu một số việc phải và cảnh báo cậu không được rời khỏi nông trại.
Cậu nhanh chóng hoàn thành tất cả mọi việc được giao nhưng bất chấp lời
cảnh cáo của Cha mình, cậu đã rời khỏi nông trại để thăm một người bạn ở
một nông trại gần đó. Trong khi đang chơi với bạn, thình lình một trận giông
tố sấm sét nổi lên. Cậu vội vã chạy về nhà và hoảng hồn khi thấy cả nhà đều
ước đẫm nước mưa vì các cửa sổ mở toang, một cuốn Kinh Thánh qúi báu
của gia đình đã bị hư hại vì nước mưa. Khi câu nhìn thấy cuốn Kinh Thánh
lòng cậu rất bất an và khốn khổ vì sợ sệt khi cậu suy nghĩ đến vẻ mặt của
Cha khi ông trở về. Vì đã không trung tín trong trách nhiệm của mình, nên
cậu rất xấu hổ sợ sệt khi đối diện với cha mẹ cậu khi họ trở về nhà. Đây
cũng là tâm trạng cho những ai không vâng theo mạng lệnh của Chúa, chúng
ta sẽ hổ thẹn khi gặp Ngài lúc Ngài tái lâm. Giăng đã ngụ ý đến diều này khi
ông viết: “Vậy bậy giờ, hỡi các con cái bé mọn ta, hãy ở trong Ngài, hầu cho
nếu Ngài hiện đến, chúng ta cũng đầy sự vững lòng, không bị hổ thẹn và
quăng xa khỏi Ngài kỳ Ngài ngự đến” (IGi1Ga 2:28).
Niềm hy vọng phước hạnh về sự tái lâm của Chúa là một trong những động
cơ lớn nhất để người tín đồ sống đời sống trong sạch và có kết quả (3:3l).
17. Khoanh tròn các mẫu tự của mỗi câu giải thích niềm hy vọng về sự tái
lâm của Đấng Christ ảnh hưởng đời sống của Cơ đốc nhân.
Biết rằng Đấng Christ có thể trở lại bất cứ lúc nào, các Cơ đốc nhân phải cố
gắng tuyên đoán khi nào Ngài đến ngõ hầu họ có thể ngưng công việc của
họ và chờ đợi Ngài hiện đến.
Sự hiểu biết và sự tái lâm của Chúa giúp cho mỗi Cơ đốc nhân thánh hóa đời
sống của mình để chuẩn bị sẵn cho sự sống đời đời trong sự hiện diện thánh
của Chúa.
Sự Kiện Ngài sắp tái lâm phải kích thích mỗi người chúng ta trung tín trong
sự làm trọn mạng lệnh của Chúa giảng Tin Lành cho thế gian và phản ảnh
bản tính của Ngài.
Sự hiểu biết và sự tái lâm của Đấng Christ giúp chúng ta tránh khỏi điều ác
và khỏi những điều gì giữa Ngài xen vào giữa chúng ta, khiến cho chúng ta
bất xứng với Thiên đàng.
SỰ PHÁN XÉT VÀ PHẦN THƯỞNG:
Phaolô đã dùng hình ảnh của thế vận hội để mô tả đời sống Cơ đốc nhân
(ICo1Cr 9:24-27) Ông đưa ra các phần thưởng trong các cuộc thi đua để so
sánh với các phần thưởng của Chúa ban tại tòa phán xét của Đấng Christ.
chữ tòa phán xét do tiếng Hy Lạp là chữ BEMA nghĩa đen, trong mạch văn
ở đây là “chỗ hồi tưởng: hoặc “nơi nhớ lại”. Chữ Bema là một cái bục cao
nơi các giám khảo ngồi xem các cuộc thi và ban các phần thưởng. Phaolô
ngụ ý đến điều này khi ông viết cho người Côrinhtô.
“Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thế này, dầu ra khỏi, cũng làm hết sức
để đẹp lòng Chúa. Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước Tòa án Đấng
Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã
làm lúc còn trong xác thịt” (IICo 2Cr 5:9-10).
Sự phán xét các Cơ đốc nhân sẽ xảy ra chẳng bao lâu sau khi họ đã được cất
lên và trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Ở đó chỉ có các Cơ đốc nhân
hiện diện mà thôi. Mục đích của sự phán xét này là để đánh giá sự phục vụ
của mỗi Cơ đốc nhân để ban thưởng chứ không phải để cứu rỗi (RoRm
14:10-12). Phaolô cũng đã kể chính bản thân ông vào trong sự đánh giá này.
Mọi công việc chúng ta đã làm trong khi còn ở đời này sẽ thử nghiệm một
cách cẩn thận. Những việc đã làm cho những động cơ bất khiết (xem ICo1Cr
3:1-3) sẽ được tiêu biểu như gỗ, cỏ khô hay rơm rạ sẽ bị lửa thiêu hủy. Đối
với những công việc như vậy đều không được ban phần thưởng. Trong sự
hiện diện của Chúa việc làm của họ “chỉ dành cho lửa”. Tuy nhiên, những
công tác hay những phục vụ do tình yêu của Đức Chúa Trời và sự quan tâm
đến công việc của Ngài sẽ được tiêu biểu như vàng, bạc và bửu thạch không
thể bị cháy thiêu hủy. Ngài kể họ là người được xứng đáng nhận phần
thưởng (3:14). Một lần nữa, điều cần nhấn mạnh ở đây là sự phán xét dành
cho tín đồ không phải là để định cho họ được cứu hay hư mất, mà là để định
phần thưởng cho các công việc họ đã làm trong thế gian này.
Chúa Jêsus đã nói về phần thưởng của sự trung tín. Thí dụ về những nén bạc
(LuLc 19:11-27). Khi chúng ta càng quan tâm đến việc chúng ta gặp Chúa
và khai trình về việc hầu việc Chúa của chúng ta, chúng ta sẽ làm hết sức
mình để có thể hầu việc Chúa bằng tấm lòng thành thật và những hành động
trong sáng.
18. Hãy đọc ICo1Cr 3:10-15 cẩn thận và chọn một câu tóm lược nhất điều
mà khúc Kinh Thánh dạy về lúc người Cơ đốc và sự phán xét cũng như phần
thưởng cho sự phục vụ.
Các Cơ đốc nhân xây dựng đời sống thuộc linh trên một nền tảng là Đấng
Christ. Vâng theo các mạng lệnh của Chúa, trung tín hầu việc Ngài bằng
những động cơ xứng đáng sẽ được phần thưởng, làm khác đi có nghĩa là mất
phần thưởng.
Chất lượng phục vụ của một người sẽ đem lại phần thưởng cho người đó, ai
làm nhiều sẽ được phần thưởng nhiều. Vậy tùy theo công việc mà được phần
thưởng.
Một người không nên quan tâm đến số lượng việc đã làm, những gánh nặng
chia sẻ cho Chúa hay ngay cả những động cơ phục vụ nữa. Chất lượng là
điều quan trọng hơn số lượng lớn các công việc một người làm.
Các công việc của các tín đồ đều được ban thưởng tại Tòa Phán xét của
Đấng Christ. Những người không tin Chúa ở tất cả các thời đại sẽ phán xét ở
Tòa Phán xét cuối cùng, tất cả những người không tiếp nhận Đấng Christ
không được ghi tên trong sách sự sống, sẽ bị hình phạt đời đời (KhKh 20:11-
15). Vì tình yêu của Đấng Christ thúc giục hãy rao giảng Tin Lành cho
những người hư mất trước khi quá trễ.
Tại một thành phố lớn ở Hoa Kỳ, một nhóm thợ đang đào một hố sâu để
chôn dây cáp điện thoại. Thình lình đất sập và chôn sống ba người công
nhân. Lập tức người ta tiến hành cấp cứu những người công nhân sắp chết
này. Một đám đông kéo đến xem. Một người đàn ông đứng bên cạnh nhìn,
chẳng quan tâm bao nhiêu đến việc cấp cứu những người khác đang làm hết
sức để cứu người bị chôn dưới đất. Lúc đó một người chạy vội tới nói với
người đàn ông kia rằng, “Anh Jim em ruột của anh bị chôn dưới hố sâu đó!”
Khi nghe tin ấy, người đàn ông liền vội vàng cởi áo khoác, nhảy vào cuộc,
phụ làm hết sức để cứu em mình.
Khi chúng ta nhận thức rằng mọi người đều là anh em, chị em của chúng ta,
mà Chúa Jêsus đã chết thay họ, thì chúng ta sẽ làm hết sức cho họ được cứu.
Tình yêu thương của Đức Chúa Trời đổ vào lòng chúng ta bơi Đức Thánh
Linh sẽ giúp chúng ta yêu thương họ như Đấng Christ đã yêu thương họ. Và
chúng ta sẽ giải cứu họ khỏi hố tội lỗi và đưa họ về cùng Đức Chúa Trời.
Khi chúng ta rao giảng chân lý liên quan đến phước hạnh tương lai và sự
khai trình trong tương lai, bạn sẽ làm gương cho những đời sống Cơ đốc
nhân yếu đuối, không kết quả, có dịp tiện noi gương bạn. Đồng thời, bạn
cũng có thể khuyến khích những ai đang chịu khổ vì Chúa để họ thắng được
nghịch cảnh nhờ ân điển Chúa Jêsus. Các tài liệu dùng để rao giảng “Sứ điệp
hy vọng” thật phong phú, đầy dẫy trong Kinh Thánh Bạn sẽ học hỏi được
nhiều lợi ích nếu bạn nghiên cứu đề tài này.
19. Hãy giải thích về sự phán xét và sự ban thưởng cho các tín đồ là động cơ
khuyến khích ta sống đời sống Cơ đốc nhân có hiệu quả. Hãy dùng sổ tay
của bạn để trả lời câu này.
Bài trắc nghiệm cá nhân
ĐÚNG - SAI. Hãy viết chữ Đ ở trước câu Đúng và chữ S trước câu sai.
- “Sứ điệp cứu rỗi” là sứ điệp căn bản vì nếu không có sự đáp ứng tích cực
với sứ điệp này thì không cần sứ điệp nào khác.
- Tội lỗi đã phân rẽ loài người với Đức Chúa Trời và loài người với nhau,
chính là nguồn gốc của mọi nan đề của loài người.
- Giải pháp cho vấn đề tội lỗi là sự giáo dục, làm nhiều sự lành và hiểu biết
khả năng riêng của mình.
- Sự chết thuộc linh do tội lỗi gây nên chỉ có thể được giải cứu nhờ sự tái
sanh, là việc xảy ra khi chúng ta đặt đức tin mình nơi Đấng Christ là Chúa
Cứu Thế.
- Lý do chúng ta có nhiều đề tài giảng đạo vì có các đòi hỏi khác nhau của
dân chúng và chúng cần sự ủng hộ của họ.
- Đời sống thuộc linh phải được nuôi dưỡng bằng lời của Đức Chúa Trời,
được tăng cường sức mạnh bởi sự thông công với Chúa và hoạt động bằng
cách chia sẻ Tin Lành cho những người chúng ta gặp.
- Sự giảng hòa là một đề tài điều chỉnh những sự khác biệt giữa Đức Chúa
Trời và loài người.
- Mặc dầu những tín đồ đã được giảng hòa với Đức Chúa Trời, họ không có
trách nhiệm trực tiếp trong việc giảng hòa người khác với Đức Chúa Trời, vì
nơi đây chỉ là trách nhiệm của những nhà lãnh đạo Hội Thánh mà thôi.
- “Sứ điệp nên thánh” đề cập đến đề tài lớn lên và phát triển trong kinh
nghiệm Cơ đốc nhân.
- “Sứ điệp nên thánh” cho rằng Cơ đốc nhân dần dần trở nên vô tội và trọn
vẹn ở một thời điểm nào đó sau khi họ tái sanh.
- “Sứ điệp hy vọng” có giá trị lớn khuyến khích ta cấp bách hầu việc Chúa,
sống thánh khiết, can đảm vững vàng trong những thời điểm khó khăn và có
trách nhiệm trong việc thi hành những công tác được giao cho.
- Sự tái lâm của Chúa sẽ xảy ra vào một thời điểm do Đức Chúa Trời định
trước từ rất lâu rồi và không liên hệ gì đến bất cứ công tác nào của người Cơ
đốc .
- Lời khuyên bảo “Hãy thức canh” được ban cho các mọi tín đồ vì khuynh
hướng hay lơ là bất cẩn - khi chờ đợi quá lâu một biến cố dường như chưa
xảy đến.
- Sẵn sàng, chờ đợi sự tái lâm của Đấng Christ có liên hệ trực tiếp đến trách
nhiệm của người Cơ đốc.
- Các Cơ đốc nhân sẽ được phán xét để đánh giá đời sống của họ căn cứ trên
sự hầu việc Chúa, động cơ hầu việc Chúa và các kết quả đạt được của họ.
Trả lời những câu hỏi trong bài:
1. a) Vì tội lỗi của Ađam, mọi người đều gánh chịu hậu quả của nó.
b) Mọi người đều phạm những hành vi tội lỗi.
2. a) Những nô lệ
b) Sự chết
c) Một kẻ thù của Đức Chúa Trời…
Vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời.
d) Làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.
e) Một tân tạo, Đức Thánh Linh.
3. a) Bỏ qua
b) Mọi người… ăn năn
c) Phán xét thề gian cách công bình
d) Giễu cợt ông, theo ông và tin Chúa.
4. Câu trả lời của bạn. Tôi đã lưu ý rằng cả hai ông đều nhắc đến thiếu hiểu
biết về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và cả hai đều kêu gọi mọi người ăn
năn để được tha tội. Phierơ nói về sự tha thứ và sự tiếp nhận các phước hạnh
của Chúa, tuy nhiên, ông cũng cho biết muốn hưởng các phước hạnh cần
phải vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời. Phaolô thì đề cặp về sự phán
xét sắp đến và khuyên mọi người ta phải quay khỏi tội lỗi để phục sự Đức
Chúa Trời hằng sống Ông đã ra lệnh cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi
hãy từ bỏ tội lỗi của mình.
5. Câu trả lời của bạn. tôi đã lưu ý rằng tội lỗi đã ảnh hưởng mọi phần của
bản tính loài người. Bản chất tội lỗi là chống nghịch với Đức Chúa Trời và
không thể nào làm hài lòng Ngài. Như vậy người ta làm nô lệ cho tội lỗi và
bị phân rẽ khỏi Đức Chúa Trời. Họ đối diện sự hình phạt đời đời vì tội lỗi
của mình. Giải pháp duy nhất là sự tái sanh thuộc linh bằng cách tin cậy
Chúa Jêsus Christ, là sự cung cấp của Đức Chúa Trời cho cứu rỗi.
6. Câu trả lời của bạn. Những khúc Kinh Thánh này đều hướng dẫn người ta,
thúc giục họ phải làm một cái gì đó. Nếu không được tự do để đáp ứng, thì
những mạng lệnh này trở nên vô nghĩa.
7. Cứu Chúa Jêsus Cong Cv 2:14-41 3:12-26 10:34-43 13:16-41
a)Thuộc dòng Vua Đa vít: 2:30 3:22 13:23-25
b) Đời sống vô tội: 2:22 3:14 10:39 13:28
c) Chức vụ đã đựơc Đức Chúa Trời công nhận: 2:22 3:25 10:38 13:30-31
d) Sự đóng đinh được định trước: 2:23 3:15, 18 13:28-29
e) Sự phục sanh: 2:24-30 3:15 10:40-41 13:33-37
f) Sự tôn cao vinh hiển: 2:33-36 3:13, 21 10:36 13:34
g) Sự kêu gọi hãy đáp ứng: 2:38-39 3:19-20, 22-23 10:43 13:38-40
8. b) Vì khi họ ăn năn tội của họ…
9. Câu trả lời của bạn. Chúng biết rằng có niềm tin vui thỏa lớn lao trong sự
kiện của Đức Chúa Trời khi chúng ta trở về với Ngài.
10. c) Sự thông công giữa Đức Chúa Trời và loài người vốn bị tội lỗi là hư
hỏng, đã đựơc phục hồi.
11. a) Sai
Đúng
Đúng
Sai
12. Câu trả lời của bạn. Lời Đức Chúa Trời là phương tiện để chúng ta có
thể biết ý chỉ Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta, thái độ nào Đúng, thái
độ nào Sai, làm thế nào chúng ta trở nên lớn lên và giống Đấng Christ,
quyền năng nào sẵn sàng giúp chúng ta sống cho Đấng Christ cho một thế
giới gian ác, làm thế nào để phân biệt giữa linh lầm lạc và Thánh Linh của lẽ
thật cũng như Đức Chúa Trời phán gì về những vấn đề đức tin và thực tế.
13. a. 1) Cách Đức Thánh Linh giúp đỡ
b. 2) Không đúng với Thánh Linh
c. 1) Cách Đức Thánh Linh giúp đỡ
d. 1) Cách Đức Thánh Linh giúp đỡ.
14. a) Hầu việc trung tín.
b) Thời gian, việc làm công việc của Ngài
c) Trung tín trong các trách nhiệm của mình thi hành các mạng lệnh của
mình.
15. e) Chỉ những điều nhắc đến trong a) và b) ở trên.
16. a) Phải sẵn sàng
b) Phải cẩn thận và thức canh
c) Bất cẩn thờ ơ.
d) Tỉnh thức và dè giữ
e) Tự chế và tỉnh táo.
17. b) Sự hiểu biết về sự tái lâm của Ngài sẽ giúp mỗi Cơ đốc nhân…
c) Sự kiện Chúa sắp tái lâm phải kích thích mỗi người chúng ta hãy…
d) Sự hiểu biết Đấng Christ tái lâm giữ chúng ta khỏi…
18. a) Các Cơ đốc nhân bắt đầu đời sống thuộc linh của họ bằng cách xây
dựng trên nền tảng của Đấng Christ .
19. Câu trả lời của bạn. Tôi đã nhấn mạnh các Cơ đốc nhân đang sửa soạn
khai trình đời sống của mình, cho nên họ phải hết lòng thi hành, sống thanh
sạch và phục vụ bằng những động cơ đúng đắn. Vì những người không tin
Chúa sẽ bị hư mất đời đời phải là động lực thúc đẩy các Cơ đốc nhân làm
mọi đều có thể làm để nhiều người hư mất có thể được cứu trong số đó có
những người thuộc trong gia đình, bà con và bè bạn của chúng ta.
Phương pháp giảng đạo
Trong bài học thứ năm, chúng ta đã thảo luận bốn chủ đề hay sứ điệp chính
và tầm quan trọng của những chủ đề đó. Chúng ta biết rằng nguồn tài liệu
phong phú đang có sẵn để những người chuyên tâm hầu việc Chúa tham
khảo và sử dụng. Bây giờ chúng ta bàn về phương pháp của sự giảng đạo.
Bạn nghiên cứu chuẩn bị và trình bày, những bài giảng cách đặt mục đích
cho mỗi bài giảng, sự thu nhập và sắp xếp tài liệu dựa trên Kinh Thánh, và
truyền đạt sứ điệp cách hiệu quả, ngoài kỹ thuật xây dựng bài giảng, bạn sẽ
học cách phê phán bài giảng của mình xem thử có đạt được mục đích yêu
cầu không và xem bạn có cung cấp khẩu phần thuộc linh cân đối cho những
người bạn phục vụ được lớn lên và phát triển trong đức tin hay không.
Khi bạn đọc cách soạn và trình bày bài giảng, nên nhớ rằng quyền phép của
sự cứu rỗi không ở nơi người giảng hay phương pháp người ấy giảng mà do
Tin Lành của Chúa Jêsus Christ. Sứ Phaolô đã diễn tả chân lý ấy cho chúng
ta: “Tôi hoàn toàn tin tưởng ở Tin Lành, vì đây là quyền phép của Đức Chúa
Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Do Thái sau là ngoại bang” (RoRm
1:16). Bạn không bao giờ hổ thẹn về Tin Lành! Đây là sứ điệp của Đức
Chúa Trời, được hỗ trợ bởi chính quyền phép của Ngài và chắc chắn có kết
quả. Hãy rao giảng với lòng tin quyết như thế và xem những gì có thể Đức
Chúa Trời đã làm!
Bố cục bài giảng
Quyết định mục đích
Thâu thập tài liệu
Sắp đặt tài liệu
Truyền thông sứ điệp
Phierơ, một gương mẫu
Các mục tiêu của bài học
Khi học xong bài này bạn phải có khả năng để:
Giải thích tại sao “nhằm mục đích” để giảng đạo làm bước căn bản để chức
vụ giảng đạo có hiệu quả.
Thảo luận nhiệm vụ để thu thập tài liệu bài giảng.
Giải thích rõ được nhu cầu sắp xếp tài liệu bài giảng.
Lập kế hoạch, chuẩn bị và truyền thông sứ điệp để đạt cho được mục đích
đặc biệt.
Các sinh hoạt học tập
Đọc phần mở đầu, bố cục và các mục tiêu.
Học biết ý nghĩa của những từ ngữ quan hệ và mới đối với bạn.
Làm bài trắc nghiệm ở phần cuối bài học và xem lại câu trả lời của bạn.
Ôn cẩn thận đơn vị 2 (bài 4 - 6), rồi làm bài báo cáo cho đơn vị 2 và gởi về
các thầy hướng dẫn Viện Hàm Thụ Quốc tế của bạn.
Những chữ quan hệ
Homilly : Một bài giảng không nghi ngờ hay bài giảng nghĩa một khúc Kinh
Thánh .
Khai triển bài học
Quyết định mục đích
Mục tiêu 1: Nhận diện những câu giải thích tại sao chúng ta phải chọn điều
gì là mục đích sự giảng đạo của chúng ta .
Bạn không thể lập hành trình cho bạn cho đến khi bạn biết mình sắp đi đâu.
Lúc đó bạn mới lập kế hoạch để đến tại đó được. Cũng vậy, bạn hãy nêu
mục đích cho mỗi một bài giảng, rồi tập trung mọi việc hướng về mục đích
đó. Nếu bạn muốn thành công khi giảng đạo bạn phải nêu ra mục đích rõ
ràng và bạn phải cần xem xét đến hai điều sau đây:
Trước hết, bạn phải tìm hiểu nhu cầu của người nghe. Chúa Jêsus đã biết
nhu cầu chung của tất cả mọi người (Mat Mt 6:31-32) cũng như nhu cầu của
mỗi người (GiGa 1:43-50). Nhu cầu cần được yêu thương, cần được cứu rỗi,
cần được người ta để ý đến mình, cần được giúp ích cho những thí dụ về các
nhu cầu chung của mọi người. Nhu cầu cá nhân cũng được áp dụng nữa! Và
Chúa Jêsus đã làm được việc đó. Ngài đã phục vụ trực tiếp cho mỗi người
với những nhu cầu riêng của họ (Mat Mt 9:27-31, 12:9-14, Mac Mc 1:40-45,
GiGa 3:1-14, 4:1-26)
1. Mục đích của bài giảng là giúp chúng ta trả lời câu nào trong những câu
hỏi sau đây:
Tôi muốn sứ điệp này hoàn tất điều này.
Bản văn nói cái gì?
Tôi phải áp dụng những lẽ thật này cho những thính giả của tôi như thế nào?
Thứ hai, phải đáp ứng nhu cầu của người nghe.
Chúa Jêsus đáp ứng các nhu cầu của con người khi Ngài phán về người bệnh
cần thầy thuốc (Mac Mc 2:17). Truyền giảng là để đáp ứng một nhu cầu đặc
biệt, thì nhiều người cũng cần được đáp ứng nhu cầu như thế. Khi mọi người
thợ đi săn vịt trời, ông ta chỉ nhắm một con vât đặc biệt, chứ không phải vào
cả bầy, sự giảng đạo cũng vậy. Bạn sẽ giúp cho nhiều người hơn nếu bạn có
một mục đích cho mỗi sứ điệp và đạt cho được mục đích đó.
Khi bạn đã quyết định được nhu cầu, câu hỏi kế đó là, tôi phải giảng gì để
đáp ứng nhu cầu đó? Hãy nhớ rằng Đức Thánh Linh sẽ hướng dẫn bạn khi
bạn tìm cách đáp ứng các nhu cầu của dân chúng. Khi bạn tìm kiếm, tin cậy,
và đi theo sự lãnh đạo của Ngài, Ngài sẽ ban cho bạn một sứ điệp sẽ phục vụ
được các nhu cầu của họ (ICo1Cr 2:10-12).
Những người hầu việc Chúa thường tìm một câu Kinh Thánh gây ấn tượng
trong lòng họ, khi họ đang cầu nguyện về nhu cầu của người nghe thì Đức
Thánh Linh ban cho họ câu Kinh Thánh (lời Rhéma) để làm đề tài bài giảng,
nhưng chúng ta sẽ thấy sau trong bài học, bài giảng là lời giải thích đúng đắn
và áp dụng câu Kinh Thánh đó, và khi câu Kinh Thánh đó đến với bạn, nó sẽ
giúp bạn tìm được nội dung và mục đích bài giảng.
Đôi khi các nhu cầu hiện ra và bạn tìm một câu Kinh Thánh để trả lời cho
những nhu cầu đang thắc mắc, dù trường hợp nào, bạn cũng phải chọn một
mục đích cho những sứ điệp, và chuẩn bị để đáp ứng nhu cầu được nêu ra .
Nếu đã thấy rõ nhu cầu cần được áp dụng thì ta phải nhắm vào mục đích mà
giảng. Câu nói của Alexander về việc viết văn có thể áp dụng được cho sự
giảng đạo:
Trong mọi việc liên quan đến mục đích của nhà văn. Không có việc gì vượt
quá sự viết văn của họ.
2. Khoanh tròn các mẫu tự đầu của các câu giải thích ĐÚNG, tại sao chúng
ta phải chọn mục đích rõ rệt của bài giảng.
Không có một mục đích rõ rệt cho bài giảng của mình, làm sao người hầu
việc Chúa có thể đáp ứng cho bài giảng của mình được.
Những người nghe giảng những bài giảng không có mục đích có thể bối rối
không biết ông Mục sư đang giảng gì, mục đích ông ra sao.
Những bài giảng không có mục đích người giảng thường hay nhảy từ chủ đề
này sang chủ đề khác và không tập trung được điều gì cho thính giả nắm lấy.
Sự kiện một người không có mục đích cho bài giảng của mình là dấu hiệu
cho thấy người ấy hoàn toàn nương dựa vào Đức Chúa Trời.
Thu thập tài liệu Kinh Thánh nói điều gì?
Mục tiêu 2: Giải thích tại sao bước đầu tiên trong việc soạn 1 bài giảng là
quyết định Kinh Thánh nói gì về đề tài .
Khi đã thấy được nhu cầu và mục tiêu đã được xác định thì câu hỏi kế tiếp
là: Kinh Thánh nói điều gì ? Trong khi bạn tìm hiểu Kinh Thánh nói gì về
một vấn đề nào đó, hãy tránh việc xuyên tạc văn bản hay thêm điều gì mà
Kinh Thánh không nói đến. Chẳng hạn sứ đồ Phaolô bảo đảm rằng “chẳng ai
trong vòng các ngươi sẽ mất một sợi tóc trên đầu mình” (Cong Cv 27:34) thì
đó không có ý đây là giải pháp cho người bị hói đầu. Tuy nhiên, đây là câu
nói mô tả rõ rệt về mức độ bảo vệ vô hình của Đức Chúa Trời. Trong bài ba
chúng ta thấy rằng mạch văn sẽ quyết định ý nghĩa của một câu Kinh Thánh
và ý nghĩa một khúc Kinh Thánh phải được hiểu rõ trừ khi không hiểu theo
nghĩa đen được. Vì vậy, nếu bạn trích một câu Kinh Thánh và tìm hiểu câu
đó, bạn sẽ tránh được việc bẻ cong Kinh Thánh. Và nếu sứ điệp của bạn căn
cứ trên những lời truyên bố ngay thẳng và đơn giản của Kinh Thánh, bạn sẽ
giảng được với uy quyền và sứ điệp của bạn sẽ được tiếp nhận như “Lời của
Đức Chúa Trời”. Khi bạn tìm kiếm Kinh Thánh, mục đích phải là Kinh
Thánh nói gì. Rồi bạn công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời với sự tin tưởng
trông mong Đức Chúa Trời đáp ứng các nhu cầu của những người bạn đang
phục vụ.
3. Hãy viết vào sổ tay của bạn hai hoặc ba câu giải thích lời này, khi soạn
một bài giảng, một người phải hiểu Kinh Thánh nói gì về đề tài đó.
Tôi đã Kinh nghiệm và đã nhìn thấy gì?
Mục tiêu 3: Hãy chọn những câu giải thích về kinh nghiệm và về quan sát
cần thiết cho việc thâu thập tài liệu bài giảng .
Các bài giảng được hình thành không giống nhau như trái cây được lớn lên.
Chúng tôi cũng không giống như xây dựng những ngôi nhà, vì các bài giảng
là những sứ điệp. Thế nhưng về khía cạnh ý nghĩa, các bài giảng được làm
ra và xây dựng lên theo tiến trình của tư duy, suy gẫm và nghiên cứu. Bạn
hãy tự hỏi “Tôi đã quan sát thế nào hay đã do kinh nghiệm nào giúp cho tôi
tìm hiểu câu Kinh Thánh này có ý nghĩa hơn? Chân lý nào của khúc Kinh
Thánh tôi đã kinh nghiệm hoặc nhìn thấy ở kinh nghiệm của một người
khác? Tuy vậy, bạn phải có chắc chắn rằng khi bạn rao giảng, dù dùng Kinh
Thánh cá nhân hay của người khác nên tránh việc gây thương tổn hoặc bực
mình cho người nghe. Hãy cẩn thận điều bạn sẽ nói để người nghe dễ tiếp
nhận, không cần phải đề cao kinh nghiệm cá nhân dầu bạn có thể dùng
những kinh nghiệm này cách ích lợi. Những câu và các thí dụ được dẫn
chứng tăng thêm ý nghĩa và sức mạnh cho một câu Kinh Thánh nếu bạn có
kinh nghiệm trình bày. Thường thường những kinh nghiệm như thế giúp
chúng ta thấy được cách áp dụng chân lý vào trong đời sống hằng ngày.
4. Hãy khoanh tròn mẫu tự câu ĐÚNG dưới đây giải thích một cách đầy đủ
về kinh nghiệm và sự quan sát là cần thiết trong việc thu thập tài liệu bài
giảng.
Những sự quan sát được và những kinh nghiệm cá nhân rất quan trọng bài
giảng vì chúng có khả năng giải trí cho người nghe.
b) Tài liệu minh họa rất cần thiết cho bài giảng vì nó khiến cho khúc Kinh
Thánh có ý nghĩa hơn và chứng tỏ chân lý của Kinh Thánh là thực tế.
c) Kinh nghiệm của dân chúng và sự quan sát của họ giúp chúng ta áp dụng
các chân lý của Lời Chúa vào hoàn cảnh riêng của chúng ta. Như thế, việc
Đức Chúa Trời làm cho những người khác, Ngài cũng sẽ làm cho tôi nữa.

Tôi biết điều gì?


Mục tiêu 4: Hãy nêu ra tầm quan trọng của sự hiểu biết cá nhân trong việc
thu thập tài liệu cho bài giảng .
Bạn hãy tự hỏi, tôi đã từng đọc, nghe, thấy, hay nghĩ gì về đều này chưa?
Yếu tố thời gian, sự cầu nguyện và sự suy gẫm đều cần thiết. Hãy gợi lại
trong trí óc của bạn mọi điều gì có ý nghĩa liên quan đến đề tài. Hãy để cho
lời Kinh Thánh hành động giống như một cục nam chăm thu hút mọi tin tức
đề tài của mình. Khi bạn sử dụng tài liệu, bạn hãy bắt đầu liên tưởng ra
những gì hiện ra trên đường đi của bạn. Hãy nhớ Chúa Jêsus đã sử dụng rất
nhiều thí dụ trong thế giới thiên nhiên để minh họa các chân lý thuộc linh.
Vì thế hãy sử dụng những gì bạn có, giữ nó lại và từ đó rút ra nguồn tài liệu
cần cho bài giảng.
Thêm vào những điều bạn đã kinh nghiệm, nghiên cứu và quan sát, bạn hãy
dùng bất cứ tài liệu nào bạn thu thập được và lưu trữ được về đề tài. Và như
chúng ta đã thấy trong bài 3, sự thu thập đức tin để gia tăng cho tài liệu
giảng hữu dụng của bạn rất cần thiết.
5. Hãy nêu ra tầm quan trọng của sự hiểu biết cá nhân trong sự thu thập tài
liệu cho bài giảng, hãy dùng sổ tay của bạn để trả lời câu hỏi này.
Sắp xếp tài liệu: lập kế hạch giảng đạo
Mục tiêu 5: Lựa những câu nói thảo luận cách đúng đắn tầm quan trọng của
việc lập kế hoạch trong sự chuẩn bị bài giảng .
Lập kế hoạch rất cần thiết cho sự giảng đạo cách tốt đẹp. Mỗi năm bạn nên
nhìn trở lại đôi lần để biết bạn đang ở nơi nào và đang huớng về nơi nào bạn
sắp đi đến trong sự giảng đạo. Hãy tránh việc giảng hoài cùng một câu, cùng
một chủ đề hay cùng một sứ điệp. Giống như Phaolô, ta hãy giảng toàn bộ ý
muốn của Đức Chúa Trời(Cong Cv 20:26-27). Hãy nghiên cứu những khuôn
mẫu giảng đạo cách cẩn thận để xem bạn có bỏ qua những chân lý quan
trọng và những câu Kinh Thánh quan hệ với Kinh Thánh chăng?
Chẳng hạn bạn có thể lập kế hoạch giảng một loạt các sứ điệp về mười điều
răn, các cuộc hành trình của Dân Ysơraên, các thí dụ của sách Mathiơ, các
phép lạ của sách Tin Lành Giăng, hoặc các bài giảng “Ta là” trong sách
Giăng? Và những loạt bài giảng khác khi bạn tiếp tục chức vụ giảng đạo.
Trên hết, phải tránh việc chọn đề tài một cách tùy hứng. Như thế bạn và
những người nghe sẽ được ích lợi nhiều do chương trình giảng đạo có kế
hoạch chu đáo của bạn.
Không chỉ việc lập kế hoạch là quan trọng cho tổng thể chức vụ giảng dạo
của bạn nhưng điều cũng quan trọng đối việc sửa soạn và trình bày mỗi bài
giảng nữa. Người ta không thể trồng tưới và thu hoạch một bài giảng tốt
trong vòng một tuần lễ vì vậy sự xây dựng một bài giảng có tiến trình có liên
hệ đến một khía cạnh của đời sống “người giảng đạo” đó là một tiến trình
phát triển suốt đời.
Một bài giảng là một nhịp cầu giúp bạn đưa người nghe từ chỗ họ đang đứng
đến chỗ họ cần phải đứng. Một kế hoạch tốt và đầy đủ tài liệu sẽ giúp bạn
xây dựng được chiếc cầu đó. Một kế hoạch có thứ tự và hướng về phía trước
sẽ giúp đỡ được người ta lớn lên và phát triển đời sống thuộc linh. Ngoài ra,
khi giảng những chủ đề lớn của Kinh Thánh, sẽ thách thức họ về sứ điệp bạn
giảng, mỗi một bài giảng phải có sự sống mới mẻ và xin Đức Thánh Linh áp
dụng chân lý của Lời Chúa vào trong đời sống chúng ta. Một kế hoạch giảng
đạo có thứ tự và hướng về phía trước sẽ giúp cho sứ điệp hấp dẫn, dễ hiểu và
dễ nhớ. Thính giả có thể suy gẫm về những chân lý như thế khá lâu dù giọng
nói bạn đã phai nhòa.
6. Hãy khoanh tròn mẫu tự câu ĐÚNG giải thích tầm quan trọng của việc
lập kế hoạch chuẩn bị các bài giảng.
Khi có kế hoạch giảng đạo ông ta có thể tránh được việc giảng trùng lập một
câu Kinh Thánh và cùng một đề tài luôn bởi vì ông biết những gì ông đã làm
và vì thế ông trù hoạch một cách thông minh hơn những điều ông cần phải
làm.
Sự lập kế hoạch giảng đạo của một người giúp người đó có thể giảng tất cả
những sự dạy dỗ của Kinh Thánh và như vậy tránh được việc bỏ sót những
câu chân lý lớn lao và những câu Kinh Thánh quan trọng.
Bằng cách dự trù cẩn thận kế hoạch giảng đạo của mình, bạn có thể đưa
người tín đồ ấu trĩ thuộc linh tiến lên sự trưởng thành trong Chúa và càng
giống Đấng Christ hơn.
Khi bạn lập kế hoạch giảng đạo, bạn chứng tỏ rằng mình tự tin và không còn
lệ thuộc vào Chúa nữa.
Một kế hoạch theo thứ tự và hướng về phía trước sẽ giúp đỡ cho các thính
giả sẽ giúp bạn hiểu được điều bạn giảng và những chủ đề khác nhau để giúp
đỡ họ trưởng thành đời sống thuộc linh.
Quyết định lẽ thật trung tâm:
Mục tiêu 6: Hãy chọn một câu định nghĩa lẽ thật trọng tâm của một bài
giảng và giải thích tầm quan trọng của nó .
Một bài giảng có một lẽ thật trọng tâm phát triển từ câu Kinh Thánh làm nền
tảng. Trọng tâm lẽ thật là quả tim của bài giảng. Điều quan trọng là biết
được lẽ thật trọng tâm đó xuống trong một câu. Việc này tuy rất khó khăn
nhưng rất ích lợi bạn soạn một bài giảng.
Một khi bạn đã chọn lựa được lẽ thật trọng tâm rồi, hãy vận dụng mọi lý
luận, mọi thí dụ về tài liệu tập trung chứng minh một cách hòa hợp để hỗ trợ
cho lẽ thật đó. Đừng để các ý tưởng phụ làm chi phối ý tưởng của bạn. Hãy
tập trung vào lẽ thật trọng tâm này. Hãy cầu nguyện và suy gẫm cho tới khi
lẽ thật này thành sự sống của bạn và khi bạn sẵn sàng để viết bố cục bài
giảng thì bạn hiểu mình sẽ giảng gì. Mục đích của bạn sẽ trong suốt như pha
lê.
7. Sự lựa chọn lẽ thật trọng tâm cho một bài giảng rất quan trọng cho sự
chuẩn bị bài giảng và giúp ta trình bày rõ ràng lẽ thật trọng tâm.
Phục vụ để hắp dẫn trí tưởng tượng của thính giả và chủ yếu là phương tiện
gây chú ý.
Là sứ điệp toàn bộ được cô đọng lại và gây sự tập trung chú ý cho cả người
giảng lẫn người nghe.
Chỉ ra hạng thính giả nào người giảng đang cố đạt tới và nhận dạng được
nhu cầu đặc biệt gì ông đang cố gắng đáp ứng.
SẮP XẾP CÁCH THỨ TỰ:
Mục tiêu 7: Nhận rõ năm phần của một bài giảng và giải thích các phần đó
phải được sắp xếp như thế nào để giảng .
Đến đây bạn cần kết quả tài liệu trong một trật tự hợp lý và hữu dụng, bố
cục bài giảng được hình thành là do kết quả của việc sắp và tổ chức tài liệu.
Bố cục đối với bài giảng cũng như bộ xương đối với thân thể, sườn nhà đối
với ngôi nhà, và khung thép với một toàn nhà trọc trời. Điều này rõ ràng,
không thể thiếu được! Bây giờ chúng ta hãy suy nghĩ đến việc tổ chức bài
giảng và phương pháp triển khai bài giảng.
Một bài giảng không nghi thức (homily) là sự chia sẻ đơn sơ, thân mật,
không nặng nghi thức. Bài giảng này thường giải nghĩa từng câu trong một
khúc Kinh Thánh. Có ba hình thức của loại bài giảng nghi thức này. Giải
nghĩa từng câu một khúc Kinh Thánh, giảng chủ đề, hoặc phối hợp cả hai
gồm bài giảng, theo từng câu của bài giảng theo chủ đề. Một hình thức giảng
cao hơn gồm có thêm một lời giới thiệu và một lời kết luận và phần giải
luận. Đâu là hình thức cao hơn của bài giảng và chúng ta sẽ đề cập đến. Bài
giảng này gồm có (sau phần Kinh văn và lẽ thật trọng tâm) lời giới thiệu,
thân bài và lời kết luận.
1- Lời giới thiệu : cửa chính vào nhà như thế nào thì lời giới thiệu bài giảng
cũng như vậy. Mục đích lời giới thiệu là để lôi cuốn sự chú và tạo ra sự thích
thú đối với thính giả. Lời giới thiệu có thể phát xuất từ mạch văn, bối cảnh
Kinh Thánh, trường hợp các biến cố hiện thời v.v... hãy chuẩn bị lời giới
thiệu cách cẩn thận và nên viết ra để bảo đảm sự thành công cho buổi truyền
giảng. Nên giới thiệu ngắn gọn, khoảng chừng hai hoặc ba phút. Lời giới
thiệu phải liên hệ đến toàn thể bài giảng. Khi xong phần giới thiệu bạn nên
có một câu chuyển mạch để đưa tư tưởng từ phần giới thiệu sang phần thân
bài giảng.
2- Thân bài : thân bài giảng gồm có việc giải nghĩa từng câu Kinh Thánh.
Hãy nghiên cứu các câu Kinh Thánh cẩn thận khi nhắm được thứ tự của
nhóm câu xuất hiện, nhất là trong những đoạn Kinh Thánh dài hơn. Hãy giới
thiệu thân bài vào ba hay bốn phần chính. Việc này sẽ giúp bạn dễ nắm bài
giảng. Sau đây là phương pháp chia phần thân bài khúc Kinh Thánh: 1)
Dùng vài câu nói lên nội dung khúc Kinh Thánh.2) Ứng dụng sự dạy dỗ vào
đời sống các thính giả v.v... 3) Minh họa chân lý rút ra ví dụ từ thiên nhiên,
từ Kinh Thánh, từ sự quan sát hoặc kinh nghiện cá nhân. 4) Tóm lược toàn
bộ vấn đề trong một câu. Rồi chuyển qua các câu khác như là đã làm ở phần
trên.
8. Dựa vào bố cục gợi ý sau đây của sách....ICo1Cr 13:1-13, hãy điền phần
nội dung của các câu đã được phân chia.
Kinh văn : 3:13 “nhưng lớn lên trong ba điều đó là tình yêu thương”.
Lẽ thật trọng tâm : Điều lớn nhất thế gian là tình yêu thương.
a. I (câu 1-3)
b. II (câu 4-7)
c. III (câu 8-13)
9. Trong phần bố cục sau đây bạn hãy liệt kê bốn điều ích lợi của sự hoạn
nạn được rút ra từ Kinh Thánh (Thi Tv 119:17) và do kinh nghiệm sống của
chúng ta.
Kinh văn : 119:71 (tôi đã bị hoạn nạn thật lấy làm phải, hầu cho học theo
luật lệ của Chúa).
Lẽ thật trọng tâm : Sự hoạn nạn thường là điều cần thiết của cuộc sống.
I Sự hoạn nạn
II Sự hoạn nạn
III Sự hoạn nạn
IV Sự hoạn nạn
10. Căn cứ trên câu trả lời của Chúa Jêsus về ba khía cạnh câu hỏi của Giăng
Báp Tít (Mat Mt 11:4-6), hãy đặt ra câu hỏi làm thành những điểm chính
cho thân bố cục bải giảng này.
Kinh văn : Mathiơ 11: 3 “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng ta còn
phải đợi Đấng khác chăng?
Lẽ thật trọng tâm : Có phải Đấng Christ là Đấng mà thế gian cần đến không?
a. I Chúa Jêsus phán (C, 4)
b. II Chúa Jêsus phán (C, 5)
c. III Chúa Jêsus phán (C, 6)
11. Một người giảng Kinh Thánh “Đối với tôi sống là Christ chết là lợi”
(Phi Pl 1:21). Bốn điểm chính của ông là 1) Ông có thể chạy trốn khỏi cuộc
sống. 2) Ông có thể chạy theo cuộc sống. 3) Ông có thể giữ được sự sống
cách chắc chắn. 4) Ông có thể đặt chính mình vào tay của một Đấng lớn hơn
ông và để Ngài sống thay ông. Căn cứ trên những điểm này “lẽ thật trọng
tâm” của ông ta là.
Sự bất trắc của cuộc sống.
Sự có thể có của đời sống tốt lành.
Phải làm gì với cuộc sống hiện nay.
Khi bạn chuẩn bị giảng một sứ điệp, hãy nhớ rằng lẽ thật trọng tâm giống
như trục bánh xe. Sự chia phần khác nhau của thân bài giảng giống như
những nan hoa của bánh xe đó. Những nan hoa chạy đi từ trục bánh xe thế
nào thì uy quyền lẽ thật của bài giảng cũng đến từ lẽ thật trung tâm bài giảng
đó. Và lẽ thật của mỗi phần làm bằng chứng cho lẽ thật trọng tâm. Mỗi phần
của thân bài giảng phải phát xuất và mở rộng từ trong khúc Kinh Thánh mà
bạn trích giảng.
3- Lời kết luận : lời kết luận là thời điểm cuối cùng và tốt nhất để đem chân
lý của sứ điệp đến lòng của những người nghe. Câu hỏi quan trọng của
chúng ta phải đáp ứng như thế nào? (Cong Cv 2:37) Tùy theo từng đối tượng
buổi nhóm mà đặt câu hỏi và phần kết luận phải đưa ra câu trả lời. Đây là lời
kêu gọi cuối cùng gíup cho thính giả quyết định. Phải viết lời kết luận và
không nên dài hơn phần mở đầu. Những chữ cuối cùng phải đầy sức thuyết
phục, kể một câu chuyện cảm động ngắn gọn hay tóm tắt những điều quan
trọng, một câu thánh ca liên hệ tới bài giảng tất cả đều có thể sử dụng để tạo
thành sức mạnh toàn diện cho sứ địệp. Lời kết luận phải như mũi tên nhắm
vào quả tim của những người nghe. Hãy để cho thính giả ra về và suy nghĩ
rằng họ không chỉ là kẻ nghe nhưng sẽ là kẻ làm theo lẽ thật (Mat Mt 7:24-
27)
12. Hãy nhận dạng các phần của bài giảng được mô tả bằng cách đặt con số
vào phần thích hợp phía trước các câu.
1./ Kinh văn
2./ Lẽ thật trung tâm
3./ Lời giới thiệu
4./ Thân bài
5./ Lời kết luận
...... a) Khúc Kinh Thánh mà bài giảng lập căn cứ để xây dựng.
...... b) Phương cách thu hút sự chú ý của mọi người ta và dẫn họ vào bài
giảng.
...... c) Giải nghĩa nội dung nói gì, đưa ra thí dụ và áp dụng nội dung đó.
...... d) Mục đích của bài giảng trong hình thức cô đọng.
...... e) Giai đoạn hành động của bài giảng khi các thính giả được thách thức
để đáp ứng.
13. Dùng sổ tay của bạn và giải thích năm phần bài giảng phải được sắp xếp
theo thứ tự.
TRUYỀN THÔNG SỨ ĐIỆP
Mục tiêu 8: Liệt kê thuộc lòng bốn lời chỉ dẫn về phương pháp truyền thông
có hiệu quả .
Truyền thông là thông tin bằng cách nói, viết v.v… tiến ttrình của sự truyền
thông chỉ được hoàn tất khi sứ điệp được ban ra và được nhận lãnh, khi các
thính giả của bạn hiểu được bạn, được vấn đề bạn đã trình bày… bạn đã
hoàn tất truyền thông. Có lời chỉ dẫn sau đây sẽ giúp bạn kiểm tra và đánh
giá được truyền thông của bạn có hoàn thành không.
Đi theo kế hoạch:
Một số người viết ra đầy đủ bài giảng rồi đọc cho Hội Thánh chúng nghe,
người khác lại giảng tự do theo bố cục viết sẵn gợi ý. Dù chọn phương pháp
nào nếu bạn chuẩn bị bài giảng rồi mà không đi theo kế hoạch đã định thì
bạn thành đạt được rất ít. Tuy nhiên, nếu bạn chuẩn bị tài liệu tốt và rồi làm
theo kế hoạch bạn đã lập, thì bạn sẽ truyền thông sứ điệp của bạn một cách
tốt đẹp.
14. Hãy chọn câu trả lời hoàn toàn nhất cho câu nói sau đây. Một kế hoạch
soạn giảng tốt là phải được giữ theo các bước đã vạch ra cẩn thận.
Bởi vì nó là ông chủ của bài giảng, ông là nô lệ của nó.
Để người nghe sẽ cảm biết người giảng biết ông đang làm gì và ông sắp đi
đâu.
Để biết chắc rằng mình đang nhắm vào mục đích đã định trước và giảng ra
đúng kế hoạch đã chuẩn bị.
Ngắn gọn, cụ thể:
Mọi người cần diễn đạt điều mình cần muốn nói một cách rõ ràng và chính
xác. Mỗi người giảng cũng phải chuẩn bị sứ điệp truyền giảng Tin Lành một
cách rõ ràng và chính xác như vậy! Hãy tránh những câu vô nghĩa và lập đi
lập lại. Hãy nhắm mục đích. Hãy nói sao cho dễ hiểu, nhưng không dông
dài. Những lời không cần thiết trong bài giảng giống như những rong biển
hay những con hàu cuốn theo làm dơ dòng nước trong sạch, chạy theo con
tàu, nên chấm dứt trước khi người ta muốn bạn ngưng đi.
Hãy dùng ngôn ngữ rõ ràng và đơn giản, hãy dùng những chữ mô tả hành
động. Hãy minh họa bài bằng những con người, những nơi chốn và những
sự vật thật hãy dùng ngôn ngữ cụ thể, tránh dùng những từ ngữ gợi hình,
những điều có thể rờ mó được, nghe được, ngửi được và thấy được, những
thí dụ soi sáng chân lý bạn đang truyền giảng, giống như những cửa sổ chiếu
ánh sáng vào trong căn nhà. Tuy nhiên, ngôi nhà không phải toàn là cửa sổ!
Và bài giảng của bạn không thể là một loạt các thí dụ, dù nó làm vui tai, hấp
dẫn, nhưng không làm no đủ sự đói khát và trống rỗng cho những thính giả
của bạn.
15. Khoanh tròn các mẫu tự đầu của câu ĐÚNG. Căn cứ vào nội dung bài
giảng phải “ngắn gọn cụ thể”, chúng ta kết luận rằng:
Một số các Mục sư truyền đạo có khuynh hướng nói dong dài những điều
không liên quan gì đến mục đích chung của bài giảng.
Một người thật sự nhạy cảm với các nhu cầu và cảm giác của dân chúng,
được Đức Thánh Linh dẫn dắt và khôn ngoan sẽ không phí thời giờ để nói
những điều vô nghĩa không cần thiết hoặc công kích vu vơ mà lại không tấn
công tội lỗi vàsatan.
Một người giảng đạo thì phải cố giữ sự cân đối cho bài giảng mình, nên
không dùng các câu chuyện, các thí dụ và các kinh nghiệm bản thân, vì lợi
ích riêng nhưng chủ yếu là để minh họa chân lý đã được truyền giảng.
Giảng theo mục đích đã đặt ra:
Mọi chi tiết trong bài giảng đều phục vụ cho việc hoàn tất tốt mục đích đã
đặt ra của bài giảng. Vậy khi giảng, bạn lưu ý đến mục đích của sứ điệp.
Hãy đến với thính giả, thông cảm với họ, tỏ ra thân thiện với họ ngay khi
bạn bắt đầu để đưa họ đến nới mà bạn muốn họ đến khi bạn kết thúc, trong
một ý nghĩa rộng hơn mỗi phần trong bài giảng phải là sứ điệp của bạn cần
truyền đến cho người nghe. Mục đích của sứ điệp là một phần của mục đích
sứ điệp của bạn: công bố toàn bộ mục đích cho Đức Chúa Trời (Cong Cv
20:27) để những người hư mất tìm được Đấng Christ và những tín đồ sẽ
trưởng thành trong đức tin.
16. Hãy đọc các câu Kinh Thánh và trả lời các câu hỏi cho mỗi câu:
Trong 20:24 sứ đồ Phaolô đã nói với các trưởng lão của Hội Thánh Êphêsô
rằng mục đích chức vụ của ông là

b) Trong 20:20-21, 26-27 Phaolô nói rằng sự giảng đạo của ông bao gồm

c) Trong khi so sánh ICo1Cr 9:24-27 với Phi Pl 3:14-15, Phaolô khuyến
khích các thính của ông hãy

d) Trong ITi1Tm 4:6-8, Phaolô đã tuyên bố rằng ông đã hoàn tất xong chạy
thi, đã đạt được mục đích và đang chờ đợi

Hãy lưu ý để thấy Phaolô có một mục đích rõ ràng trong chức vụ của ông,
dù đó là công khai hay riêng tư (Cong Cv 20:20) ông đều đưa các tôị nhân
đến cùng Đức Chúa Trời và tuyên bố trọn vẹn sứ điệp và ân điển của Ngài.
Ông tự cảnh giác mình phải nghiêm khắc với bản thân e rằng trong lúc ông
đã cố chinh phục người khác về cho Đấng Christ mà chính mình bị bỏ chăng
(ICo1Cr 9:24-27), (Phi Pl 3:7-16). Chúng ta hãy tự nhắc nhở mình nếu lưu
tâm đến lời khuyên răn và gương mẫu của ông Phaolô.
THÂU GẶT KẾT QUẢ:
Khi giảng Lời Chúa, Đức Chúa Trời sẽ ban cho bạn các kết quả. Ngài bảo
đảm điều ấy (EsIs 55:11, Thi Tv 126:6) các kết quả bạn đang tìm kiếm - cứu
vớt người hư mất và gây dựng người tin Chúa, do chức vụ ban lời được Đưc
Thánh Linh xức dầu.
Sau khi đã rao giảng, bạn hãy:
1. Để cho Đức Thánh Linh có cơ hội làm việc trong lòng người nghe. Ngài
sẽ thuyết phục ho nhận biết các nhu cầu của họ và cho họ thấy rằng Đức
Chúa Trời sẽ cung ứng các nhu cầu đó cho họ (GiGa 16:8)
2. Hãy đưa ra những lời chỉ dẫn ngắn gọn, đơn sơ. Phierơ đã chỉ dẫn đám
đông cách rõ ràng điều họ phải làm để đáp ứng sứ điệp của ông (Cong Cv
2:38-39).
3. Hãy để cho hội chúng có cơ hội để đáp ứng. Nếu lời kết luận của sứ điệp
là một lời kêu gọi thì bạn có thể trông đợi sự đáp ứng.
Có một vị truyền đạo đến với ông H. Spurgeon là nhà truyền đạo lừng danh
và hỏi “Làm thế nào ông giảng luôn cùng một sứ điệpTin Lành mà có hiệu
quả, còn tôi thì không? “ ông Spurgeon trả lời “ mỗi lần bạn giảng bạn có
trông đợi kết quả không ?” “không”, người đó trả lời. Ông Spurgeon la lên,
“vậy đó chính là lý do tại sao bạn không có kết quả” Khi bạn giảng, hãy
trông đợi Đức Chúa Trời thực hiện việc gì đó xảy ra.
17. Hãy liệt kê thuộc lòng bốn sự chỉ dẫn truyền thông sứ điệp có hiệu quả.

18. Bốn lời chỉ dẫn liên quan đến sứ điệp họ giảng dạy đã được hoạch định
là:
Trở thành diễn giả bậc thầy cách dùng trau chuốt ngôn từ cho đẹp đẽ, những
câu đố thách thức và mẫu chuyện hay nhằm mục đích lôi cuốn sự chú ý của
dân chúng.
Đạt được mục đích họ đặt ra cho bài giảng bằng sự truyền thông cách có
hiệu quả cho người nghe.
Thức hành một cách máy móc phương pháp giảng đạo để người nghe sẽ
nhận ra tài khéo vào sự huấn luyện chính qui của họ.
PHIERƠ, MỘT THÍ DỤ ĐIỂN HÌNH:
Mục tiêu 9: Hãy chọn những câu chứng tỏ Phierơ tiêu biểu cho một nhà
truyền đạo thời Tân ước .
Simôn Phierơ là một thí dụ điển hình về một người bình dân đã trở thành
một nhà truyền đạo có hiệu quả. Sau khi ông chối Chúa trước mặt đầy tớ gái
(Mat Mt 26:72). Ông đã giảng đạo tại Giêrusalem trước hàng ngàn người
(2:1-42). Quyền phép của Đức Thánh Linh đã giáng xuống trên ông trong
ngày lễ Ngũ Tuần khiến cho ông dạn dĩ (1:8).
Phương pháp giảng đạo của Phierơ, như đã chép trong công vụ sứ đồ, không
sắp xếp theo phương pháp soạn bài giảng của chúng ta. Tuy nhiên, ông đã
bắt đầu từ nhu cầu của con người đã đáp ứng trong các nhu cầu đó. Trước
hết ông nói về những điều của thính giả đã biết để liên hệ và giải thích
chương trình cứu rỗi nhân loại được thực hiện trọn vẹn trong Đấng Christ.
Ngoài ra, ông còn chứng minh sự giáng sinh, sự sống lại, sự chết, sự phục
sinh và sự thăng thiên của Chúa Jêsus là Đấng Christ ứng nghiệm các lời
tiên tri Cựu ước. Cuối cùng trong phần kết luận, ông kêu gọi các thính giả
hãy ăn năn và tin Chúa Jêsus để được phục hòa với Đức Chúa Trời: sự tha
tội, bình an, thời gian tươi mới và sự bảo đảm an toàn khỏi sự phán xét trong
tương lai.
Nếu chú ý bạn sẽ thấy rằng Phierơ không thấu triệt về phương pháp giảng
đạo cho dân chúng trong một thời gian ngắn đâu. Ta nhận thấy ông càng
trưởng thành trong chức vụ qua các đoạn sách trong Công vụ sứ đồ đoạn 2,
3, 4, 5, và 8 đến 10 là bài giảng tại nhà Cọt nây. Sự phát triển chúng ta nhận
thấy không phải là phương pháp của Phierơ, mà là sự ông vâng theo lời chỉ
dẫn của Đức Thánh Linh về sự truyền giảng Tin Lành cho dân ngoại.
Trước khi ông rao giảng Tin Lành tại nhà Cọt nây Chúa đã hành động lạ
lùng và Ngài đã thúc giục Phierơ bằng các khải tượng (10:9-17), phán bảo
ông hãy đi qua xứ Sêsarê (10:19-20) và bày tỏ cho ông rằng Ngài đã chuẩn
bị đầy đủ cho sự truyền giảng Tin Lành khắp thế giới.
Sau những kinh nghiệm thuộc linh kỳ diệu này, chức vụ Phierơ dễ dàng hơn,
vì ông nhận biết rằng vì ông chỉ la một ống dẫn qua đó Lời Chúa tuôn chảy
ra cho những người khác.
Trọng tâm sứ điệp của Phierơ là công bố Tin Lành. Kinh nghiệm của ông
chứng tỏ rằng quyền năng không nằm nơi con người hay phương pháp,
nhưng là nơi Tin Lành (RoRm 1:16). Đức Chúa Trời có đào tạo dùng những
người tài năng, nhưng họ vẫn thừa nhận rằng Tin Lành đã rao giảng không
phải do sự khôn ngoan của loài người bèn do là quyền phép của Đức Thánh
Linh (ICo1Cr 2:3-5).
Tôi khuyến khích các bạn hãy cố gắng chuyên cần học tập các kỹ năng cần
thiết để rao giảng Tin Lành. Nhưng tôi cũng kêu gọi các bạn phải luôn luôn
ý thức rằng quyền năng của sự cứu rỗi không nằm nơi các kỹ năng, tài khéo
bạn học được hay nơi tài sức riêng của bạn, nhưng là trong sứ điệp bạn
giảng: Đó là Tin Lành của Chúa Jêsus Christ.
19. Khoanh tròn trước câu Đúng giải thích bằng những cách nào Phierơ đã
làm tiêu biểu điển hình cho một nhà truyền đạo thời Tân ước.
Phierơ là một thí dụ điển hình vì ông có một chủ đề chính yếu: Tin Lành
Chúa Jêsus Christ.
Phierơ đã làm như thế nào để tiến hành bài giảng trong việc truyền rao Tin
Lành cho dân ngoại.
Khi đánh giá chức vụ của Phierơ, chúng ta nhận thấy sự thuyết phục của Tin
Lành là do quyền phép của Đức Thánh Linh .
Sách công vụ chứng tỏ rằng Phierơ luôn luôn có một mục đích rõ ràng trong
trí, Ông bắt đầu nói về những nhu cầu của thính giả và đưa ra lời giải đáp
cho những câu của họ.
Có phải chức vụ của Phierơ chứng tỏ rằng giáo dục, học vấn, không cần
thiết cho chức vụ giảng dạy Tin Lành và người hầu việc Chúa không cần
tăng trưởng thuộc linh, vì Đức Chúa Trời dùng “những cái bình trống
không”
Kỹ thuật về chức vụ Phierơ trong công vụ từ đoạn 1-10 cho chúng ta biết
rằng Đức Chúa Trời đã dùng sự hiểu biết của Phierơ về: Lịch sử của
Ysơranê, đời sống và lời dạy của Chúa Jêsus, mối quan hệ của ông đối với
dân chúng về Kinh Thánh Cứu ước, và sự lệ thuộc hoàn toàn của ông vào
Đức Thánh Linh - tất cả những điều này được làm phong phú khả năng
truyền giảng có hiệu quả của ông không?
Trắc nghiệm cá nhân :
Chọn câu đúng nhất :
Trong mỗi câu hỏi bạn hãy chọn một câu trả lời đúng nhất.
1. Trong những lời diễn đạt sau lời nào không nêu lý do rằng quyết định mục
tiêu là điều căn bản.
Không có một mục đích rõ rệt, người giảng không hy vọng được thính giả
đáp ứng nồng nhiệt.
Thính giả sẽ khó nắm được điểm chính của bài giảng nếu họ không thấy
mục đích rõ rệt.
Người nghe sẽ cảm thấy “không có mục đích” thì tương đương với sự nhờ
cậy Đức Thánh Linh nhiều hơn.
Diễn giả mà không có mục đích rõ rệt thường có thói quen khi từ chủ đề này
sang chủ đề khác cho nên không tập trung những yếu tố chứng minh giúp
thính giả hiểu vấn đề để họ quyết định.
2. Có một mục đích rõ ràng giúp cho người giảng đạo Chúa.
Biết được những sở thích của thính giả.
Tập trung vào hình thức giảng mà ông thấy hấp dẫn.
Tuân theo cách giảng mà hầu hết các người giảng đều tuân theo.
Đáp ứng các nhu cầu của quần chúng.
3. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của sự thâu thập tài liệu, theo bài học
này là để.
Tìm ra Kinh Thánh nói gì về đề tài bạn đã chọn.
Phát triển một hệ thống lưu trữ và sử dụng tài liệu cách chính qui, giống như
những nhà văn lớn hay diễn giả thượng thặng thường làm.
Gây ấn tượng cho quần chúng rằng ông có tài năng, có tổ chức, và có tri
thức đối với đề tài Kinh Thánh nào.
Phát huy kỷ luật tự giác trong việc nghiên cứu với hy vọng sẽ giúp đỡ được
trong sự hầu việc Chúa.
4. Những điều do quan sát và từng trải là một phần quan trọng của nguồn tài
liệu cần thiết mà một người thu thập được.
Có giá trị hấp dẫn để giải trí cho quần chúng.
Được coi như những phương tiện để chuyển giao và ứng dụng lẽ thật Lời
Chúa vào đời sống hằng ngày.
Giúp cho bài giảng có nội dung phong phú, đa dạng và hấp dẫn người nghe.
Chứng tỏ sự hiểu biết rộng rãi của người giảng đạo.
5. Tôi biết được nhiệm vụ quan trọng của việc thu thập tài liệu bởi vì nó
giúp cho.
Sự hiểu biết của tôi lớn lên và phát triển nhờ những kinh nghiệm, sự quan
sát, sự nghiên cứu, sự suy gẫm và sự cầu nguyện và tất cả những lời này
giúp tôi áp dụng lẽ thật cách hiệu quả hơn.
Toàn bộ những gì tôi biết tôi sẽ chia sẻ cho thính giả của tôi để cuối cùng họ
cũng nhận được như tôi vì vậy tôi phải liên tục nghiên cứu học hỏi nếu
muốn là người truyền thông có hiệu quả.
Kiến thức của tôi là điều rất quan trọng cho hoạt động giảng đạo và đây là
động cơ khuấy động lòng để tôi học tập suốt đời.
6. Sắp xếp tài liệu lập kế họach giảng đạo là những cần yếu để.
Giúp một người có một chức vụ giảng đạo đầy trọn .
Phát triển sự hiểu biết sâu nhiệm về những đề tài lớn của Kinh Thánh.
Xây dựng mỗi bài giảng là một công cụ truyền thông có hiệu quả đáp ứng
được nhu cầu quần chúng.
Bao gồm tất cả các ý kiến a, b và,c.
Chỉ bao gồm ý kiến a và b ở trên.
7. Trọng tâm lẽ thật của bài rất quan trọng là vì nó.
Là phần gây chú ý.
Giúp cho ông biết ông đang giảng cho ai và ông mong đợi kết quả gì nơi họ.
Là một sứ điệp có hình thức thu gọn.
Đòi hỏi một sự đáp ứng từ thính giả.
8. Sắp xếp thứ tự bài giảng đáp ứng tất cả các mục đích sau đây NGOẠI
TRỪ.
Sự chú ý của các thính giả.
Việc giải thích, minh họa và áp dụng nội dung của khúc Kinh Thánh.
Bảo đảm sự áp dụng thuộc linh.
Chỉ ra cho các thính giả một loạt các hành động rõ rệt như là kết quả của sứ
điệp.
9. Có ý kiến cho rằng diễn giả là người luôn luôn có câu trả lời cho những
thính giả chưa hề hỏi- vâng ông có thể có những nan đề nào sau đây không?
Có lẽ ông đã không hiểu bản chất của sự truyền thông.
Có lẽ ông không nhạy cảm với các nhu cầu của người nghe và trách nhiệm
của ông là giúp đỡ các nhu cầu đó.
Có lẽ ông không có các mục đích liên hệ đến người nghe.
Dường như ông chỉ có một nan đề nêu ra trong câu a) và b) ở trên.
Ông đã chịu trách nhiệm tất cả vấn đề đã mô tả trong các câu a) b) và c).
ĐÚNG - SAI. Hãy viết Đ ở trước các câu đúng và chữ S trước các câu sai.
….. Để truyền thông có hiệu quả một người chỉ cần lập một kế hoạch.
….. Người giảng đạo Chúa phải dùng ngôn ngữ trực tiếp, rõ ràng, tránh
những chữ không cần thiết, dùng ngôn ngữ gợi hình và nhạy cảm với Đức
Thánh Linh cùng những người ông phục vụ.
…. Người giảng đạo Chúa hữu hiệu nhằm đạt đến mục đích mà ông đã đặt
ra cho sứ điệp.
….. Người giảng đạo Chúa trông đợi đạt được các kết quả mỗi lần ông giảng
là điều không thực tế.
Trả lời các câu hỏi trong bài
a. Tôi muốn sứ điệp này thành đạt điều gì ?
a. Đúng
b. Đúng
c. Đúng
d. Sai (Đây thường là dấu hiệu của sự lười biếng. Chúa Jêsus phán rằng Đức
Thánh Linh sẽ nhắc lại những lời của Ngài cho chúng ta (GiGa 14:26),
nhưng trách nhiệm của chúng ta là trước hết phải chứa đầy lời Ngài vào trí
óc của chúng ta.
Lời khuyến khích của Phaolô trong IITi 2Tm 2:15 là một sự thách thức cho
mọi người được kêu gọi vào chức vụ hầu việc Chúa.
3. Câu trả lời của bạn. Điều thiết yếu tuyệt đối cho chúng ta là hãy xem Kinh
Thánh nói gì về một đề tài và dựa trên nền tảng cơ bản đó chúng ta tìm kiếm
ý muốn của Đức Chúa Trời về vấn đề đó và thái độ chúng ta phải có đối với
vấn đề đó.
4. a) Sai
Đúng
Đúng
6. a) Đúng
b) Đúng
c) Đúng
d) Sai
e) Đúng
7. b) Là toàn bộ sứ điệp trong hình thức cô đọng.
8. a) Tầm quan trọng của tình yêu thương.
b) Các phẩm chất của tình yêu thương.
c ) Sự vĩnh cữu của tình yêu thương.
9. a) Giúp cho một người nhớ lại cuộc đời quá khứ của họ.
b) Khích lệ một người biết sử dụng các cơ hội tương lai cách khôn ngoan
hơn.
c) Mở rộng kiến thức một người về sự đau khổ và mục đích của nó hoặc áp
dụng ý nghĩa của đau khổ trong đời sống con người.
d) Có thể khiến cho mối quan hệ của một người với Chúa có ý nghĩa hơn.
10. a. Hãy hỏi những người đã gặp ta.
b. Hãy quan sát những người đã đến cùng ta.
c. Hãy tự thử nghiệm ta.
11. c. Phải làm gì với đời sống hiện nay.
12. a 1) Bảng văn Kinh Thánh
b 3) Lời giới thiệu
c 4) Thân bài
d 2) Lẽ thật trọng tâm
e 5) Lời kết luận
13. Câu trả lời của bạn. Năm phần của một bài giảng phải được sắp xếp
giống như cấu trúc của một tòa nhà. khúc Kinh Thánh dùng để làm bài giảng
là nền nhà. Rồi lẽ thật trọng tâm được xây trên nền tảng đó, phải đưa ra câu
nói cô đọng về nội dung bài giảng. Lời giới thiệu cần hấp dẫn sự chú ý của
thính giả là một khối đá xây dựng. Thân bài phải thêm những khối đá xây
dựng cần thiết vào khi nó minh họa, áp dụng và tóm lược phần Kinh Thánh.
Lời kết luận, tảng đá cột trụ của bài giảng, phải đưa các thính giả đến một
quyết định.
14. c) Để biết chắc rằng mục đích đã định trước sẽ đạt được và các nhu cầu
đáp ứng được. 5. Câu trả lời của bạn. sự hiểu biết cá nhân của bạn rất quan
trọng. Đấy là vốn sống của bạn khi bạn suy gẫm bản văn Kinh Thánh, Đức
Thánh Linh sẽ giúp bạn rút ra từ vốn sống cá nhân này để áp dụng chân lý
thuộc linh. Những thí dụ bài giảng có giá trị hầu hết đều do vốn hiểu biết cá
nhân của một người.
15. a) Đúng
b) Đúng
c) Đúng
16. a) Hoàn thành sứ mạng và làm xong công việc Chúa Jêsus đã giao cho
các ông làm: công bố Tin Lành
b) Các sứ điệp đều cần thiết cho sự sanh lại thuộc linh, sự lớn lên và sự tăng
trưởng.
c) Tập trung vào một mục đích làm cho họ hiểu được điều Đức Chúa Trời
mong muốn trong đời sống họ trong Thánh Linh.
d) Phần thưởng thuộc về những ai đạt mục đích cách thành công.
17. Kiểm tra lại câu trả lời của bạn với bốn điểm đã cho.
18. b) Đạt được mục đích họ đặt ra cho bài giảng bằng sự truyền thông cách
có hiệu quả của người nghe.
19. a) Đúng
b) Sai
c) Đúng
d) Đúng
e) Sai
f) Đúng.
BẠN VÀ CHỨC VỤ
BẠN HÃY CHUẨN BỊ CHÍNH MÌNH
BẠN HÃY CHUẨN BỊ TÀI LIỆU
Ý NGHĨA CỦA SỰ GIẢNG ĐẠO
SỨ ĐIỆP CỦA SỰ GIẢNG ĐẠO
PHƯƠNG PHÁP CỦA SỰ GIẢNG ĐẠO
Ý NGHĨA CỦA SỰ DẠY ĐẠO
TRỌNG TÂM CỦA SỰ DẠY ĐẠO
PHƯƠNG PHÁP CỦA SỰ DẠY ĐẠO
HƯỚNG TỚI MỘT CHỨC VỤ QUÂN BÌNH
Ý NGHĨA CỦA SỰ DẠY ĐẠO
TRỌNG TÂM CỦA SỰ DẠY ĐẠO
PHƯƠNG PHÁP CỦA SỰ DẠY ĐẠO
HƯỚNG TỚI MỘT CHỨC VỤ QUÂN BÌNH

Ý nghĩa của sự dạy học


Sau khi đã chinh phục được linh hồn tội nhân rồi người truyền giảng phải lo
gây dựng đời sống thuộc linh của họ. Phải dạy dỗ họ biết sống như thế nào
trong thế gian này. Họ phải kinh nghiệm sự tha tội và bước đi trong ánh sáng
Lời Chúa mỗi này. Hội Thánh đầu tiên cũng đã dạy cho tín hữu biết sống đời
sống cá nhân cũng như nếp sống cộng đồng.
Vì vậy việc dạy dỗ rất cần thiết để bảo tồn các thành quả truyền giáo, qua sự
dạy đạo những tân tín hữu được Chúa muốn họ làm gì và điều gì Chúa sẽ
cung ứng cho họ trong đời sống Cơ đốc nhân. Nhờ đó họ lớn lên và trưởng
thành đời sống thuộc linh .
Khi chúng ta vâng theo sự dạy dỗ của Lời Đức Chúa Trời, chúng ta trở nên
những người đàn ông, đàn bà trưởng thành, có đức tin và can đảm vượt qua
những thử thách trong đời sống thuộc linh và thắng hơn sự lừa dối của ma
quỉ (Eph Ep 4:14). Và chúng ta dần dần trở nên giống như hình ảnh của
Chúa Jêsus. Khi chúng ta ngắm xem sự vinh hiển của Ngài (IICo 2Cr 3:18).
Mong rằng mục đích của chúng ta mãi mãi được đáp ứng với công việc của
Ngài trong đời sống chúng ta (Eph Ep 3:20).
Bố cục bài giảng :
Định nghĩa sự dạy đạo.
Các lý do của sự dạy đạo.
Các thí dụ củasự dạy đạo.
Các mục tiêu của bài học :
Khi học xong bài học này bạn có thể:
Nhận thức và giải thích ba ý nghĩa đặc biệt của sự dạy đạo.
Thảo luận lý do Kinh Thánh đã nêu ra về chức vụ dạy đạo.
Chứng minh chức vụ dạy đạo bằng các thí dụ trong Cựu ước và Tân ước.
Các hoạt động học tập :
1- Ôn lại phần chức vụ dạy đạo trong bài học 1. Phần này sẽ cung cấp một
bối cảnh thật đẹp cho sự nghiên cứu mở rộng về chức vụ dạy đạo.
2- Hãy đọc phần mở đầu, bố cục và các mục tiêu của bài học này và làm bài
như thường lệ.
3- Học nghĩa của những chữ then chốt mới mẻ đối với bạn.
Các chữ then chốt :
Convert: Quy đạo, một người thay đổi từ sự vô tín đến đức tin.
Disciple: Môn đồ, người tiếp nhận và hỗ trợ trong việc truyền bá giáo huấn
của người khác.
Discipleship: Tình trạng làm một môn đồ.
Indoctrinate: Dạy giáo lý, miền tin, nguyên tắc cho người khác.
Maturity: Phẩm chất hay tình trạng của sự phát triển đầy đủ, thành nhân.
Moral: Tha thiết khuyên bảo hay cảnh cáo bằng.
Exhortation: Lời nói hay lời giảng, để sống cách đạo đức theo tiêu chuẩn văn
minh của điều đúng và điều sai.
Khai triển bài học
ĐỊNH NGHĨA DẠY ĐẠO:
Trong bài học chúng ta đã định nghĩa chung về giảng đạo và dạy đạo là
những phương tiện truyền thông cùng diễn tả một chức vụ. Dù cũng có khác
nhau một ít về phương cách truyền thông. Tuy nhiên, sau bài nghiên cứu
Kinh Thánh một cách cẩn thận, chúng ta có thể kết luận rằng theo sự dạy dỗ
chung của Tân ước thì chức vụ giảng đạo là nền móng của thuộc linh. Nói
một cách khác, theo Tân ước thì mục đích của sự giảng đạo là đưa tội nhân
đến tin nhận Chúa trong mục đích của sự dạy đạo là làm cho tân tín hữu
được trưởng thành.
Dầu vậy, không phải sự giảng đạo là hoàn toàn để cứu người hư mất (xem
bài 4), và sự dạy đạo không phải là hoàn toàn để các tín đồ được trưởng
thành. Có những chỗ trong Tân ước nói về sự dạy đạo mang bản tính của sự
truyền giảng Tin Lành. Thí dụ trong trường hợp Phaolô dạy đạo ở các nhà
hội (Cong Cv 18:4; 19:8) và các trường triết học (19:9) sứ điệp ở Đồi Mars
và tiếp theo là những cuộc thảo luận mở rộng trong nhà hội và quảng trường
công cộng (17:16-31).
Tại Têsalônica, Phaolô đã vào một nhà hội của người Do Thái và mở các
cuộc thảo luận tranh cãi đến ba tuần lễ, ông giải thích rằng chứng minh Chúa
Jêsus. Đấng Christ mà ông rao giảng chính là Đấng Christ, chức vụ dạy đạo
của ông đã có kết quả vì một số người lớn nghe đã chịu thuyết phục và gia
nhập vào Hội Thánh ông (17:1-4). Mục tiêu truyền giáo chính là quá trình
dạy đạo này.
Dạy sứ điệp Tin Lành cho người chưa được cứu là thực hành theo Kinh
Thánh dạy. Đây cũng là một phương tiện có ích cho công cuộc truyền giáo
ngày nay, đã được nhiều người thực hành rất thành công. Tuy nhiên, khuôn
mẫu chung của Hội Thánh Tân ước thì sự giảng đạo nhằm khiến những
người mới tin Chúa trở nên những môn đồ của Chúa.
Chữ dạy có một ý nghĩa. Một số ý nghĩa đó là: “hướng dẫn học tập”, “tiếp
thu sự hiểu hoặc các kỹ năng”, “tạo ra sự học tập” và “tạo ra sự thay đổi”.
Đặc biệt lưu ý rằng sự dạy đạo tạo ra nhiều điều. Đây là một hoạt động có
năng lực mạnh mẽ tạo ra những kết quả. Chúng ta hãy xem xét một số ý
nghĩa của sự dạy đạo.
ĐEM LẠI KIẾN THỨC:
Mục tiêu 1: Nêu hai lý do tại sao các tín đồ sở hữu kiến thức Kinh Thánh là
quan trọng .
Một yếu tố quan trọng của sự dạy đạo là “truyền thụ kiến thức, thông tin”.
Sự dạy đạo Tân ước đã căn cứ trên Kinh Thánh Cựu ước. Chẳng hạn, dạy về
sự sáng tạo, sự sa ngã, Đức Chúa Trời đã chọn lựa và đối xử với một số
nước và một dân tộc là Ysơraên, sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, bản tính
tội lỗi của loài người và nhu cầu về Đấng Cứu Thế Những sự hiểu biết này
và hiểu điều khác do Kinh Thánh Cựu ước cung cấp. Ngoài ra, Kinh Thánh
Tân ước còn cho biết về sự Nhập Thể. Ngôi Lời trở nên xác thịt, đã được ghi
lại trong các sách Tin Lành; Lời tiên tri về chương trình của Đức Chúa Trời,
để có cái nhìn chung về giáo lý và sự hiểu biết để áp dụng vào thực tế các
mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Tất cả những sự kiện này về sự khải thị của
Đức Chúa Trời cho loài người cả hai giao ước đều quan trọng đối với chúng
ta. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ về bản chất và kế hoạch của Ngài cho chúng
ta thì chúng ta mới phục vụ cách đẹp lòng Chúa và mới trưởng thành đời
sống thuộc linh. Vì thế: một phần quan trọng của sự dạy đạo là truyền thụ tri
thức và Kinh Thánh, sự khải thị thành văn của Đức Chúa Trời là nội dung sự
dạy đạo của chúng ta.
Khi Luca đã giới thiệu sách Tin Lành của ông cho Thêôphilơ. Ông đưa ra lý
do viết sách. “Tôi cũng theo thứ tự những điều mà tôi đã viết mà tỏ cho ông
để ông biết những điều mình đã học là chắc chắn” (LuLc 1:4). Luca cho
Thêôphilơ biết các sự kiện của Tin Lành bao gồm sự giáng sinh, đời sống,
sự chết, sự phục sinh và sự thăng thiên của Chúa Jêsus. Trước khi dạy về
những vấn đề này thì phải dạy những sự kiện căn bản. Như thế, thông qua
nội dung Kinh Thánh là bước đầu tiên của môn Cơ đốc giáo dục. Đây là viên
đá căn bản trong việc học tập Kinh Thánh.
1. Hãy kể ra hai lý do tại sao các tín đồ cần có tri thức Kinh Thánh.
a)
b)
ĐEM LẠI SỰ HIỂU BIẾT:
Mục tiêu 2: Nhận dạng các thí dụ về sự dạy đạo bao gồm sự giải thích và
giải nghĩa .
Dạy là giải thích, thông giải và dẫn giải. Sự dạy đạo của Chúa Jêsus liên
quan đến sự thông giải nghĩa Kinh Thánh. Ngài cho một nghĩa mới thay cho
ý nghĩa cũ của luật pháp (Mat Mt 5:17-20). Thí dụ nói về sự nóng giận (Mat
Mt 5:21-25) sự tà dâm (5:27-30), sự ly dị (5:31-32), những lời thề (5:33-37),
sự trả thù và tình yêu thương (5:38-48). Ngài đã giải thích những nguyên tắc
sống với một phương cách mới mẻ và trong sáng. Chúa cũng dạy về tình
thương người, sự cầu nguyện và kiêng ăn, cũng như đánh giá tài sản của một
người trong (6:1-34). Quần chúng rất ngạc nhiên về sự dạy dỗ của Ngài. Vì
Ngài đã đem đến cho họ sự hiểu biết về Kinh Thánh một cách thực tế, áp
dụng vào cuộc sống hằng ngày. Và Ngài dạy một cách xác quyết và có uy
quyền -Gây ấn tượng mạnh mẽ đối với các thính giả của Ngài (7:28-29).
Bạn có để ý thấy rằng đôi khi người ta dạy đạo theo quan điểm cũ vì hiểu sai
Lời Chúa hay không? Chẳng hạn trường hợp Chúa Jêsus dạy cho các thính
giả của Ngài biết rằng luật pháp chống lại hành động tà dâm, nhưng nếu một
người nhìn một người khác phái với lòng ham muốn cũng vi phạm luật pháp
như là một người hành động tà dâm vậy, vì người đó đã phạm tội tà dâm
trong lòng (Mat Mt 5:27-28). Sự dạy dỗ này đã kết án những ai phục vụ Đức
Chúa Trời bằng đầu môi chót lưỡi, chỉ khắt khe kiêng kỵ, hành vi tội lỗi
nhưng lòng thì xa cách Chúa thì đã vi phạm tinh thần của luật pháp rồi
(15:1-9). Đôi khi người ta thường rơi vào thói quen thờ phượng Chúa một
cách máy móc và chuộng hình thức, trong khi lòng của họ thì lại chống
nghịch và xa cách Ngài. Một thái độ như thế không thể nào đẹp lòng Chúa
và phải được thay đổi. Êsai đã dạy dân chúng thời đại ông những chân lý
này (Êsai 1). Sự dạy dỗ thực tế này giúp chúng ta thấy được mục đích của
Đức Chúa Trời muốn chúng ta thờ phượng Ngài. Và nó còn chỉ cho chúng ta
phương hướng để sống theo tiêu chuẩn mà Ngài đề ra trong Lời Ngài.
2. Hãy đọc LuLc 10:25-37 và trả lời câu hỏi sau:
Câu 26 là lời giải đáp của Chúa Jêsus cho thầy dạy luật hỏi Ngài trong câu
25 bằng một câu hỏi của chính Ngài: “Trong luật pháp có phép điều gì ?
Ngươi đọc gì trong đó?”
Thầy dạy luật đã học được gì từ câu trả lời của Chúa đối với câu hỏi của ông
về cách nhận lãnh sự sống đời đời?
………………………………………………………………………………
………………………………………………………..
………………………………………………………………………………
……………………………………………………….
b) Khi thầy dạy luật ( câu 29) đã hỏi ai là kẻ lân cận ông, Chúa Jêsus đã kể
thí dụ người Samari nhân lành. Qua thí dụ này Chúa Jêsus đã thực sự giải
thích rằng kẻ lân cận của chúng ta
…………………………………………………...
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
Trong thí dụ trên, các thính giả của Chúa Jêsus hiểu rằng tình yêu thương
không giới hạn ở những người ta yêu hay những người yêu ta. Trái lại mạng
lệnh của Chúa còn là”Hãy yêu mến Đức Chúa Trời và yêu người lân cận
như mình” để cho các thính giả của Ngài có thể thấy những kẻ lân cận của
mình, thí dụ này nêu ra các sự kiện mà họ đã biết để ứng dụng một cách hữu
hiệu về sự dạy dỗ của Ngài có liên quan đến các điều răn (sự hiểu biết về các
sự kiện). Khi đã giải thích, và chứng minh rằng nếu một người thực sự muốn
làm điều thiện và nếu họ thực sự yêu mến Đức Chúa Trời thì họ cũng yêu
mến người lân cận của mình và sẵn sàng giúp họ bất kể người đó là ai.
Hãy quan sát cách Chúa Jêsus dạy dỗ khi Ngài đi với hai môn đồ đang thất
vọng trên đường về làng Emmaút. Khi Ngài đã đóng đinh, họ mất hy vọng
về Ngài là Đấng Cứu Thế. Dù rằng Ngài đã cùng đi với họ và giải nghĩa
Kinh Thánh cho họ. Ngài bắt đầu từ các tác phẩm của Môisê và tiếp tục qua
các tiên tri, và giải thích cho họ thế nào là Đấng Cứu Thế phải chịu khổ và
phải sống lại (24:13-35). Ở đây Ngài đã giải thích các biến cố vừa xảy ra
trong ánh sáng của Kinh Thánh. Ngài đặt những biến cố này vào chính bối
cảnh của nó, và chiếu rọi ánh sáng mới trên ý nghĩa của những biến cố đó.
Hãy lưu ý sự đáp ứng của hai môn đồ này (câu 32) Khi Chúa Jêssus dạy họ:
lòng họ trở nên nóng cháy trong khi Ngài nói chuyện với họ trên đường và
khai mở Kinh Thánh cho họ (khiến họ hiểu).
Chữ “Môn đồ” ngụ ý của bản văn Tân ước xác nhận. Một môn đồ là một
người tin nơi Đấng Christ (Cong Cv 11:26), một người học trò, học về
những điều thuộc về Đấng Christ, một người tận hiến cuộc đời cho Chúa
(LuLc 14:26-27, 33.), trách nhiệm cao cả của một môn đồ: là đào tạo người
tín hữu mới phải được giải thích đầy đủ ý nghĩa và kinh nghiệm cứu rỗi của
mình. Người đó phải được chỉ dạy công việc phải làm.
Ta hãy xem trường hợp của Philíp. Khi ông giảng về Chúa Jêsus cho hoạn
quan Êthiôphi và ông này đã tin Chúa (Cong Cv 8:35), thì Philíp đã giải
thích sự báp têm bằng nước cho ông ta. Khi họ thấy có nước người Êthiôpi
đã xin được làm báp têm (8:36-38). Điều này hoàn toàn phù hợp với mạng
lệnh của Chúa .
Chúa Jêsus : Khiến người ta trở nên môn đồ, làm báp têm bằng nước cho họ
và dạy họ giữ các mạng lệnh của Đấng Christ (Mat Mt 28:19-20). Kiểu mẫu
này đã được Philíp thực hiện ở Samari (Cong Cv 8:5-17). Anania với Saulơ
(9:5, 17-19) và Phaolô tại Philíp (16:30-34).
3. Qua bài học này chúng ta thấy ngoài mục tiêu của sự dạy đạo là đem lại
kiến thức, chúng ta có thể nói rằng:
Người thầy giáo còn làm nhiều việc hơn là chỉ trao kiến thức về sự kiện cho
các học viên.
Để áp dụng kiến thức về sự kiện, một người phải hiểu sự kiện có nghĩa gì
đối với cá nhân mình.
Với sự hiểu biết ý nghĩa về tri thức sự kiện, chúng ta phải biết áp dụng vào
hoàn cảnh riêng của chúng ta.
Tất cả những câu trên a) b) c) đều đúng.
Chỉ có a) và b) ở trên là đúng.
Khi nhiều người được cứu và thêm vào Hội Thánh tại An-ti-ốt, Banaba được
phái từ Giêrusalem đến đó để gây dựng đức tin của họ. Kết quả đã có nhiều
người tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của họ. Để bảo vệ kết quả thuộc
linh này. Banaba đã mời Saulơ từ Tạtsơ đến và trong suốt một năm họ đã
dạy dỗ rất nhiều người (11:19-26). Thật là có ý nghĩa. Do biết phối hợp việc
truyền đạo và dạy đạo với nhau mà tại Antiốt người ta đã gọi những môn đồ
đầu tiên là Christian, những người đi theo Đấng Christ không những tiếp
nhận Lời Ngài mà còn hiểu mối quan hệ mật thiết của họ với Chúa, khuôn
mẫu Tân ước thật rõ ràng: Khi Tin Lành đã được rao giảng và nhiều người
được cứu thì họ được dạy để sống đời sống Cơ đốc nhân như những môn đồ
của Chúa Jêsus.
4. Hãy đọc NeNe 8:1-12 và trả lời những câu hỏi sau:
a) Khi Êxơra đọc luật pháp cho những người trưởng thành (câu 2 - 3), Ông
đã phô diễn khía cạnh nào của sự dạy đạo?
………………………………………………………………………………
………………………………………………………
b) Khi những người Lêvi đứng lên tiếp tục phần việc của họ trong chức vụ
dạy đạo (câu 7 - 8) họ đã minh họa khía cạnh gì của sự dạy đạo?
…………
…………
c) Khi dân chúng nắm vững ý nghĩa của những điều luật pháp đòi hỏi, sự
đáp ứng của họ là gì?
…………
…………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….
5. Khoanh tròn mẫu tự các câu ĐÚNG và các thí dụ dạy dỗ vốn bao gồm cả
sự giải nghĩa và thông giải.
Hai môn đệ đã biết Kinh Thánh Cựu ước, được dạy dỗ về ý nghĩa của sự
chết và sự sống lại của Đấng Christ.
Thầy giáo của John quan tâm đến các sự kiện, nên ông diễn thuyết nhanh
chóng và đưa ra số lượng lớn các thông tin về sự kiện của các học sinh.
Tác giả sách Hêbơrơ đã lý luận tại sao điều quan trọng là các độc giả không
nên từ khước sự cứu rỗi lớn chừng ấy (HeDt 2:1-4).
Phaolô, trong thư tín Giám mục ITi1Tm 3:1-7, đã dạy về các đòi hỏi của
chức vụ lãnh đạo làm sáng tỏ những đòi hỏi này.
ĐEM LẠI SỰ BIẾN ĐỐI:
Mục tiêu 3: Giải thích tạo sao một sự thay đổi thái độ và cách sống là mục
đích của sự dạy đạo .
Dạy là đem lại sự biến đổi, cả tâm trí lẫn hành động, vì đây là mục đích của
sự dạy Kinh Thánh. Bất cứ ai làm theo mạng lệnh của Chúa Jêsus, thì cuộc
sống sẽ được thay đổi. Họ sẽ lớn lên và trưởng thành. Các môn đồ thời Tân
ước là những người học trò và là những người theo Chúa. Họ học những sứ
điệp của thầy và noi gương thầy. Đây là mục tiêu mà Chúa Jêsus đã đặt ra
cho các môn đồ Ngài truyền lệnh cho họ dạy đạo (Mat Mt 28:19-20). Dạy
Kinh Thánh không những chỉ là cung cấp các sự kiện và giải thích Kinh
Thánh mà còn phải áp dụng những điều học hằng ngày. Chân lý phải đem ra
thực hành. Chúa Jêsus phán rằng “Nếu các người hằng ở trong đạo ta, thì
thật là môn đồ ta, các người sẽ biết lẽ thật và lẽ thật sẽ buôn tha các người
(GiGa 8:31-32). Biết lẽ thật và thực hành lẽ thật, thì lẽ thật đem lại sự tự do
cho chúng ta.
“Dạy là tạo ra sự biến đổi ”
Nếu chúng ta chỉ giữ bề ngoài hoặc làm theo luật pháp thì chưa đủ. Điều
Chúa Jêsus quở trách người Pharisi nhiều nhất là họ chỉ giữ các lễ nghi và
truyền thống tôn giáo, nhưng không quan tâm đến phần tâm linh. Ngài dạy
chúng ta phải vâng giữ những điều làm đẹp lòng Chúa chứ không để cho
người khác thấy. Trước hết Ngài quan tâm đến bản chất, sau đó tới việc làm
của chúng ta (thái độ của chúng ta có kết quả của sự biến đổi thuộc linh nội
tâm).
Khi kết thúc dạy dỗ, Ngài thường lưu ý đến việc người ta có làm theo những
gì họ đã nghe được không?. Ngài phán rằng những nghe mà không làm theo
thì giống như xây nhà trên cát. Nhưng đối với những người nghe Lời Chúa
và làm theo được ví sách với những người xây nhà trên vầng đá. Chúa Jêsus
phán, chỉ những kẻ nghe và làm theo (do sự biến đổi nội tâm) mới là những
người tồn tại (Mat Mt 7:24-27).
6. Ghép cho đúng các câu sau đây bằng cách đặt con số của mỗi sự mô tả ở
trước câu mô tả thái độ.
1) Người quan sát bên ngoài:
2) Người nghe mà không hành động
3) Môn đồ kiểu mẫu
a) 23:25-28
b) 7:26-27
c) 7:24-25
e) Gia Gc 1:25-26
f) Người này suy xét các điều kiện thuộc linh của mình bằng tất cả những
điều người ấy không làm.
g) Người này, dù không liên hệ với những người khác, cứ nói liên tục về đức
tin của mình và luôn học về đức tin.
h) Người này không nói về các ân tứ hay đức tin của mình, nhưng các việc
lành của người đó chứng tỏ người đó có đức tin.
Phaolô đã khuyến khích Timôthê dạy Lời Chúa, sống theo Lời Chúa và bày
tỏ cho những người khác sự tăng trưởng thuộc linh của mình. Phaolô đã
cảnh cáo ông đã sống theo những điều ông được dạy để dỗ để chính mình và
những nghe ông được cứu (ITi1Tm 4:11-16). Phaolô tin tưởng cách giải
quyết rằng kết quả cuối cùng của sự dạy đạo phải là những đời sống được
thay đổi. Hãy để ý sự trưng dẫn của ông về sự hiểu biết Kinh Thánh của
người Do Thái trong RoRm 2:18 và noi theo. Nếu họ biết luật pháp là điều
Đức Chúa Trời muốn họ làm, mà họ không sống theo tiêu chuẩn của luật
pháp thì sẽ bị kết án. Biết Kinh Thánh và giải nghĩa Kinh Thánh đúng đắn
thì chưa đủ. Chúng ta phải được biến đổi nhờ Lời Chúa. Chúng ta mới có thể
dạy dỗ người khác làm môn đồ của Đấng Christ bằng gương sáng và lời nói
của chúng ta.
7. Giả sử có một người đến thăm cộng đồng bạn đang phục vụ. Người đó tỏ
ra rất có khả năng trong việc dạy dỗ người khác. Nhưng khi sống chung với
người đó trong một thời gian, bạn để ý thấy rằng người đó không làm theo
những điều mà anh ta dạy dỗ người khác phải làm. Khi khám phá ra điều
này bạn suy nghĩ gì về người thầy dạy ấy? Hãy dùng sổ tay của bạn để trả
lời. Khi hầu việc Chúa, chúng ta hãy làm theo những gì Ngài dạy (LuLc
6:46). Mỗi thầy giáo phải đạt được những tiêu chuẩn đòi hỏi ở những người
lãnh đạo (ITi1Tm 3:1-13; 6:11-12; Tit Tt 1:5-9) Những hành động của
chúng ta nói to hơn những lời của chúng ta. Và nếu thái độ của chúng ta
không phù hợp với những gì chúng ta giảng và dạy, thì người ta sẽ không
bao giờ có thể nghe được sứ điệp của chúng ta.
8. Giải thích tại sao sự đổi mới nếp sống và thái độ cư xử hằng ngày là mục
đích của sự dạy đạo. Cũng hãy dùng sổ tay của bạn để trả lời.
CÁC LÝ DO CỦA SỰ DẠY ĐẠO: ĐỂ LÀM THÀNH MẠNG LỆNH CỦA
KINH THÁNH:
Mục tiêu 4: Chọn một câu gốc làm nền tảng cho chức vụ dạy đạo trong Tân
ước .
Mạng lệnh dạy đạo của Chúa Jêsus là cơ sở căn bản cho chức vụ dạy đạo.
Ngài truyền lệnh các môn đồ: “Vậy hãy đi dạy dỗ muôn dân… làm phép báp
têm cho họ và dạy họ giữ hết cả mọi điều ta đã truyền cho các ngươi” (Mat
Mt 28:19-20).
Phaolô đã ra lệnh cho Timôthê hãy cứ dạy chẳng thôi (IITi 2Tm 4:2). Ông
cũng nói “những điều con đã nghe nơi ta ở trước mặt nhiều người chứng,
hãy giao phó cho người trung thành có tài dạy dỗ kẻ khác” (2:2). Lại nữa,
ông đã ra lệnh cho người Côlôse hãy dạy và khuyên nhau (CoCl 3:16) và
khuyên giục người Galati hãy cung cấp sự cần dùng cho những người dạy
đạo (GaGl 6:6).
Trong bản liệt kê các chức vụ của Tân ước đều có chức vụ dạy hay giáo sư.
Phaolô viết cho người Rôma “Ai dạy dỗ… hãy chăm sóc và dạy dỗ” (RoRm
12:6-7) Nhắc đến các giáo sư trong thư Êphêsô, ông viết “Ấy chính Ngài đã
cho… kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư” (Eph Ep 4:11). Dạy đạo còn giữ
một địa vị quan trọng trong một danh sách khác: “Đức Chúa Trời đã lập
trong Hội Thánh, thứ nhất là sứ đồ, thứ nhì là đấng tiên tri, thứ ba là thầy
giáo” (ICo1Cr 12:28).
9. Chức vụ của Tân ước được căn cứ trên:
Các phương pháp giáo dục hiện hành và các kỹ thuật truyền thông
Phương tiện dạy được thử thách bởi thời gian đã được thiết lập từ thời Cựu
ước.
Mạng lệnh và gương mẫu của Đấng Christ và các sứ đồ.
LÀM CHO TÍN ĐỒ TRƯỞNG THÀNH:
Mục tiêu 5: Nhận dạng những câu nói giải thích làm thế nào những tân tín
hữu trở thành những Cơ đốc nhân trưởng thành .
Những người mới tin Chúa bước vào trong gia đình của Đức Chúa Trời như
những em bé. Họ rất trẻ con trong kinh nhgiệm Cơ đốc nhân và giống như
trẻ con cần lớn lên. Sự trưởng thành thuộc linh phải là mục đích của mỗi
người tín đồ (IPhi 1Pr 2:2). Với những tín đồ đã trưởng thành Đức Chúa
Trời có mục đích phát triển một thân thể Hội Thánh có khả năng phục vụ
người khác (Eph Ep 4:13-16). Là người hầu việc Chúa bạn biết rằng các Cơ
đốc nhân được tăng trưởng không phải là do tình cờ mà là do mối quan hệ
thuộc linh sống động của người ấy đối với Chúa Jêsus. Như vậy đời sống Cơ
đốc nhân được trưởng thành là do áp dụng những bài học thuộc linh đã học,
được thử thách và được chứng minh trong cuộc đời và qua đó đời sống
thuộc linh được tăng trưởng .
Tiến trình phát triển thuộc linh này giống như việc xây cất một ngôi thánh
đường với các loại đá quý khác nhau đã được ghép lại với nhau để xây thành
nơi ngự của Đức Chúa Trời (Eph Ep 2:19-22, IPhi 1Pr 2:5). Dạy đạo là một
phương tiện quan trọng để giúp đỡ các tín hữu, vốn là những viên đá với
chương trình của Đức Chúa Trời khi họ trưởng thành đời sống thuộc linh.
Phaolô xem sự trưởng thành đời sống Cơ đốc nhân là mục đích của người tín
đồ nên ông đã cố gắng hết sức giúp đỡ họ lớn lên (CoCl 1:28-29). Ông đã
khuyến khích những người tin Chúa hãy đứng vững như những Cơ đốc nhân
trưởng thành hoàn toàn vâng theo ý Chúa (4:12). Phierơ cũng thách thức các
tín đồ trưởng thành trong ân điển và trong sự thông biết Chúa chúng ta
(IIPhi 2Pr 3:18) Cơ đốc nhân Hêbơrơ cũng phải vượt qua các giáo lý sơ bộ
về Đấng Christ và tiến tới sự trưởng thành thuộc linh (HeDt 6:1).
Sự dạy dỗ Kinh Thánh đóng vai trò quan trọng đối với sự trưởng thành đời
sống Cơ đốc nhân, mục đích của các ân tứ chức vụ, trong đó có chức vụ dạy
đạo, là nhằm mục đích chuẩn bị các tín đồ cho công tác phục vụ để họ xây
dựng đức tin và càng trở nên giống Đấng Christ hơn (Eph Ep 4:11-13, IICo
2Cr 3:18, RoRm 8:29). Trở nên giống Đấng Christ là một phước hạnh dịu
dàng biết bao! Nhưng chỉ những ai nghe và làm theo Lời Chúa mới đạt đến
được. Tuy nhiên, đây không phải là tiến trình tự động mà có được đâu. Sự
trưởng thành và phát triển thuộc linh sẽ đòi hỏi sự dâng mình và phó thác
của mỗi một người trong chúng ta, giống như từng trải của Phaolô vậy (Phi
Pl 3:10-17).
Sự trưởng thành của người Cơ đốc rất giống với sự trưởng thành và phát
triển trẻ em. Lúc sinh ra, trẻ em hoàn toàn lệ thuộc. Sự sống của các em lệ
thuộc vào sự chăm sóc của người khác. Đến khi trưởng thành trọn vẹn, các
em có khả năng nhận lãnh trách nhiệm lo gia đình cho chính mình. Cũng
một thể ấy, trong Hội Thánh các em trẻ mới sinh trong Đấng Christ cần sự
yêu thương chăm sóc và chức vụ của Lời Chúa. Lúc đầu thức ăn của họ rất
đơn sơ (IPhi 1Pr 2:2). Sau đó, họ áp dụng Lời Đức Chúa Trời và sinh hoạt
hằng ngày, họ phát triển và càng lớn mạnh (HeDt 5:14). Là những người
trưởng thành thuộc linh, họ tự lo cho chính mình. Và là những Cơ đốc nhân
trưởng thành, có thể ăn đồ ăn cứng (so sánh ICo1Cr 3:2 với HeDt 5:14) sự
phục vụ người khác của họ là bằng chứng trưởng thành của họ. Sự dạy đạo
là một phương tiện quan trọng Đức Chúa Trời đã ban cho Hội Thánh để giúp
đỡ trẻ em trong Đấng Christ được trưởng thành đời sống thuộc linh.
10. (Hãy chọn một câu chính xác) đề cập về việc dạy đạo cho người mới tin
Chúa để họ trưởng thành, so sánh sự tương đồng giữa đời sống thuộc linh và
đời sống 1 em bé.
Vì sự sống của cả hai trường hợp, nếu muốn trưởng thành thì phải được nuôi
sống và phát triển.
Vì có sự tương tự trong qui trình đời sống sinh ra, lớn lên, trưởng thành và
chết.
Vì cả hai chủ yếu liên hệ đến giá trị vĩnh cửu.
Chức vụ dạy đạo có hai mục tiêu chính. 1) dạy dỗ những tân tín hữu trở
thành những Cơ đốc nhân trưởng thành và 2) Dạy các tín hữu trưởng thành
và trang bị cho sự hầu việc Chúa hữu hiệu. Một điều cần chú ý ở đây là cần
có sự quân bình. Bản chất chưa đủ. Một người trưởng thành sẽ làm điều tốt
vì người ấy là người tốt. Lời của Đức Chúa Trời giúp đem lại sự quân bình
cần thiết.
Lời của Đức Chúa Trời trang bị đầy đủ cho thầy giáo để dạy dỗ, quở trách,
sửa sai và hướng dẫn thầy giáo sử dụng Lời Chúa trang bị cho người tín đồ
để họ phục vụ mọi lãnh vực. Đức Chúa Trời người thầy giáo trong Hội
Thánh để hoàn thành công tác này (IITi 2Tm 3:6-17).
11. Khoanh tròn mẫu tự đầu của câu ĐÚNG giải thích làm thế nào để có các
tân tín hữu trở thành những Cơ đốc nhân trưởng thành.
Tân tín hữu trở thành Cơ đốc nhân trưởng thành một cách tự động, tức là
không cần phải cố gắng, đạt mục đích hay hướng dẫn họ trưởng thành gì cả.
Khi những trẻ em thuộc linh tiếp nhận chất dinh dưỡng thuộc linh và thực
hành các khả năng thuộc linh, thì chúng phát triển và từ từ thành nhân.
Tiến trình trưởng thành được đánh dấu bằng thức ăn thuộc linh Cơ đốc và
khả năng của người đó tự lo cho mình và phục vụ nhu cầu của những người
khác.
CÁC GƯƠNG MẪU VỀ SỰ DẠY ĐẠO:
Các gương mẫu thời Cựu ước:
Mục tiêu 6: Nhận biết các nhu cầu nói về sự kiện thực sự liên quan đến sự
dạy trong thời Cựu ước .
Môise là một giáo sư xuất sắc đầu tiên của Cựu ước. Đức Chúa Trời ban cho
ông luật pháp để dạy dỗ dân Ysơraên (PhuDnl 4:14). Ông khuyên dạy các
bậc cha mẹ hãy dạy dỗ luật pháp cho con cái họ hằng ngày và trong mọi tình
huống (6:7). Thực ra, toàn bộ đời sống cá nhân, đời sống tôn giáo và đời
sống quốc gia của Ysơraên đều dựa trên luật pháp của Môise. Luật pháp là
uy quyền tối thượng trong mọi sinh hoạt về lễ nghi tôn giáo, đạo đức, công
bằng xã hội, hành chánh dân sự và các hoạt động ngoại giao. Trong quá trình
thời gian, các thầy tế lễ và người Lêvi hỗ trợ cho việc dạy dỗ các pháp luật
này (Nêhêmi 8).
Bằng sự kiên nhẫn vượt bực và tài khéo léo của mình. Môise đã dạy dỗ dân
Ysơraên các mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Ngoài giai đoạn dạy dỗ trí thức
và luật pháp. Ông còn giải thích các ý nghĩa luật lệ cho đời sống cá nhân, xã
hội và quốc gia. Ông đã trình bày cho người ta hiểu được các phước hạnh
của sự vâng lời (7:12-26; 28:1-14) và hậu quả của sự không vâng lời (28:15-
68), cũng như các điều kiện cho sự phục hồi thuộc linh (30:1-30). Những
năm dạy đạo của ông đã được ban thưởng phong phú, vì dân Ysơraên đã
phục vụ Đức Chúa Trời cách trung tín trong nhiều năm trời sau khi ông chết
(Gios Gs 24:31). Đây là kết quả thực tế trong sự dạy đạo của ông: nó tạo
những sự thay đổi to lớn trong các thái độ và cử chỉ của dân tộc Ysơraên.
12. Hãy đọc Cac Tl 2:6-15 và trả lời các câu hỏi sau đây. Điều gì giải thích
cho sự kiện toàn thế hệ (câu 10) nổi lên đã không biết Chúa cũng như không
biết những việc Ngài đã làm cho dân Ysơraên?
………….
Các cuộc phục hưng to lớn trong lịch sử của dân tộc Ysơraên đều xuất phát
từ việc trở về với công tác dạy dỗ luật pháp. Chẳng hạn Samuên. Vua
Giêhôsaphát, Exơra và Nêhêmi, đã giúp dân chúng trở về cùng Đức Chúa
Trời bằng cách dạy luật pháp cho họ (ISa1Sm 12:1-5, IISu 2Sb 17:7, Exo Er
7:10, NeNe 8:1-8).
13. Khoanh tròn mẫu tự đầu mỗi câu ĐÚNG nói về gương mẫu của sự dạy
đạo thời Cựu ước.
Sự dạy trong thời Cựu ước đơn giản là sự phát xuất từ nhu cầu căn bản của
loài người.
Cùng với việc ban Luật pháp, Đức Chúa Trời truyền những lời chỉ dẫn rõ
ràng về việc dạy dỗ liên tục về chuyên cần các mạng lệnh của luật lệ của
Ngài.
Các giai đoạn phục hưng thuộc linh của dân Ysơraên trong thời Cựu ước đều
do kết quả trực tiếp của việc dạy luật pháp của Đức Chúa Trời.
Các thầy tế lễ và người Lêvi để giúp đỡ tiến hành sự dạy dỗ và các hoạt
động huấn luyện dân Ysơraên trong thời Cựu ước.
CÁC GƯƠNG MẪU CỦA THỜI TÂN ƯỚC:
Mục tiêu 7: Liệt kê hai gương mẫu của sự dạy đạo thời Tân ước .
Chúa Jêsus là giáo sư bậc thầy. Ngoài việc Ngài được xức dầu để giảng đạo
Chúa Jêsus được mọi người nhìn nhận là một giáo sư. Các lời dạy dỗ của
Ngài đã được các sứ đồ ghi lại trong rất nhiều chi tiết trong các sách Tin
Lành. Chúng ta thấy một thí dụ xuất sắc của chức vụ này trong Mathiơ 5 - 7.
Sau khi đưa ra gương mẫu của sự dạy đạo. Chúa ra lệnh các môn đồ Ngài
“hãy đi dạy đạo, muôn dân” và dạy đạo cho các tín hữu (Mat Mt 28:13-20).
Hội Thánh Tân ước đã noi theo gương và vâng theo mạng lệnh “hãy dạy
đạo” của Ngài. Các lãnh tụ Hội Thánh đã dạy những tân tín hữu và môn đồ
hóa các tín đồ. Cùng với sự giảng đạo, họ đã đi khắp nơi dạy dỗ Lời Chúa,
hầu hết các sách Tân ước là sự dạy đạo của Hội Thánh đầu tiên trong hình
thức hàm thụ cho các Hội Thánh và các cá nhân.
14. Hãy liệt kê hai gương mẫu về sự dạy đạo thời Tân ước
…………
SỰ TRAO ĐỔI THƯ TÍN THỜI TÂN ƯỚC:
Mục tiêu 8: Chọn một câu nói về sự trao đổi thư tín thời Tân ước đã hoàn
thành được chức vụ đạo .
Trước khi về trời, Chúa Jêsus đã chuẩn bị cho các môn đồ nhận lãnh thêm
các sự dạy dỗ mà Ngài truyền đạt cho họ qua Đức Thánh Linh (GiGa 16:12-
15). Vì lúc ấy họ không thể nhận lãnh hết mọi điều Ngài đã phán nên Đức
Thánh Linh đã dạy dỗ, hướng dẫn và đưa họ vào mọi lẽ thật (14:26). Căn cứ
trên lời dạy của Chúa Jêsus, sự dạy dỗ khác đã được các sứ đồ truyền lại.
Các giáo lý thí dụ như sự xưng nghĩa, vốn chỉ được Chúa Jêsus nhắc đến
(LuLc 18:14) thì đã được các sứ đồ mở rộng và giải thích (RoRm 3:21, 5:2).
Phaolô cứ nhắc đi nhắc lại “Lời của Chúa” trong các tác phẩm của ông, chỉ
về sự dạy dỗ của Chúa Jêsus mà ông đã nhận được do Ngài khải thị (ICo1Cr
11:23, ITe1Tx 4:15, GaGl 1:11-12). Giáo lý đã được che dấu nhiều thế kỷ đã
được bày tỏ và được bảo tồn trong các tác phẩm thư tín (CoCl 1:26, ICo1Cr
4:1, Eph Ep 3:3-5).
15. Hãy đọc GiGa 16:12 và trả lời mỗi câu hỏi sau đây, bạn hãy dùng sổ ta
tay để trả lời những câu hỏi này.
Giải thích tại sao các môn đồ không thể nhận thêm sự dạy dỗ nữa vaò lúc
bấy giờ.
Chúng ta có thể học được gì về chức vụ dạy đạo từ thí dụ này?
Các thư tín Tân ước giải tại sao Đấng Christ phải chết, và sự chết của Ngài
đem lại hiệu quả gì, và ý nghĩa của nó đối với cả vũ trụ (IICo 2Cr 5:18, IITi
2Tm 1:10, Tit Tt 1:2-3. HeDt 2:14). Nội dung rõ ràng theo sát các lời dạy dỗ
của các sứ đồ trong các Hội Thánh.
Toàn bộ hệ thống giáo lý Cơ đốc nhân được chứa đựng trong các thư tín Tân
ước. Có 21 bức thư gởi đến cho các cá nhân và các Hội Thánh, bắt đầu là
thư Rôma và cuối cùng là thư Giuđe. Sách Khải huyền, được giăng viết cho
các Hội Thánh xứ A-si, có tính chất tiên tri, những thư tín này tạo nên toàn
bộ nền giáo lý Tân ước cho Hội Thánh đầu tiên và các tín hữu ngày nay.
Kinh Thánh linh cảm được ban cho để hướng dẫn Hội Thánh (IIPhi 2Pr
1:20-21). Các sách này cũng ban cho để dạy các tín đồ làm thế nào sống đời
sống Cơ đốc nhân và trở thành các thánh đồ được trưởng thành (IITi 2Tm
3:16-17).
16. Các thư tín Tân ước đã hoàn thành chức vụ dạy đạo trong việc.
Đưa ra các giáo lý mới khi các sứ đồ nhận lãnh mỗi giáo lý tại các hội nghị
của Hội Thánh được triệu tập đều đặn.
Giải thích ý nghĩa của sự nhập thể, đời sống, sự chết và sự phục sinh của
Đấng Christ cho mọi người nhằm cứu rỗi các tội nhân và giúp các tín đồ
trưởng thành.
Bảo tồn các ý kiến của các lãnh tụ Hội Thánh vốn có thể giúp ích như một
lời chỉ đạo cho các Hội Thánh địa phương trong các thời điểm khó khăn,
căng thẳng.
Bài trắc nghiệm cá nhân
1. Các giáo lý của Phúc âm phải được chúng ta truyền thông qua công tác
dạy đạo. Đây là những điều cần yếu khiến cho người ta.
Hiểu
Thay đổi (biến đổi)
Biết
2. Khía cạnh dạy đạo liên quan đến sự giải nghĩa thông giải và bày tỏ chân
lý có thể áp dụng vào đời sống hằng ngày đã được đề cập đến như là điều
khiến người ta.
Hiểu
Biết
Thay đổi
3. Sự dạy đạo ảnh hưởng đến sự khác nhau trong các hành động và thái độ
của một người là điều khiến người đó.
a) Hiểu
b) Thay đổi (biến đổi)
c) Biết
4. Một trong các lý do Kinh Thánh truyền cho Hội Thánh tiến hành chức vụ
dạy đạo được căn cứ và ý tưởng .
Một khi một người trở thành tín đồ trong Đấng Christ, thì người ấy cũng cần
trở thành một môn đồ nữa.
Mọi người phải có mối liên hệ với sự dạy dỗ trong thân thể của Đấng Christ.
Sự giảng đạo chỉ đưa một người đến chỗ cứu nhưng không thể tạo ra thêm
sự tăng trưởng thuộc linh trong một người tín đồ.
5. Sự dạy đạo chứng minh cho Lời của Chúa như là một phương tiện đưa
người tín đồ đến sự trưởng thành thuộc linh bởi vì:
Đây là một phương pháp truyền thông được đem lại áp dụng cho các nhóm
nhỏ hay trong các nhóm hội đông người.
Sự giảng đạo chỉ đề cập đến vấn đề sơ bộ của đời sống thuộc linh và vì thế
không cung cấp chất dinh dưỡng cho sự trưởng thành thuộc linh.
Tất cả các tân tín hữu bắt đầu đời sống thuộc linh như những em bé, vì thế
họ phải được nuôi lớn lên bằng một thức ăn thích đáng, những kinh nhgiệm
thích hợp và những cơ hội thử nghiệm.
6. Điều nào sau đây các gương mẫu về dạy đạo thời Cựu ước? Hãy khoanh
tròn mẫu câu ĐÚNG.
Trong khi Môise truyền luật pháp cho dân Ysơraên. Ông chưa dạy dỗ dân
chúng theo ý nghĩa trung thực nhất của từ ngữ dạy đạo.
Cựu ước ghi lại kết quả chức vụ dạy đạo của Môise đã khiến cho dân
Ysơraên vẫn trung tín với Đức Chúa Trời trong nhiều năm sau cái chết của
Môise.
Khi dân tộc Ysơraên thất bạn trong công tác dạy đạo. Thì họ cũng thất bại
thuộc linh và đem đến sự suy đồi của cả dân tộc.
Sự khôi phục và sự phục hưng đã được hứa trên dân Ysơraên nếu người ta
chỉ giữ các hình thức lễ nghi mà họ đã từ khước.
Chúng ta học biết rằng trong khi dân chúng nghe đọc luật pháp, họ vẫn cần
được giải nghĩa và thông giải luật pháp cho họ nghe ngõ hầu họ có thể đáp
ứng cách thích đáng.
7. Các thí dụ trong Tân ước về sự dạy đạo bày tỏ một số chân lý. Khoanh
tròn mẫu tự đầu câu ĐÚNG.
Chúa Jêsus cho phép mỗi môn đồ của Ngài lựa chọn hoặc là giảng đạo hoặc
là dạy đạo cho các tín hữu.
Chúa Jêsus đã dạy nhiều trong các chức vụ của Ngài còn ở trên đất và đã
nêu gương sáng cho những kẻ theo Ngài. Ngoài ra, Ngài còn truyền lệnh cho
họ hãy khiến người ta trở nên môn đồ và truyền dạy giáo lý cho họ, như
Ngài thiết lập tầm quan trọng của sự dạy đạo.
Ngoài gương mẫu của Chúa Jêsus có nhiều gương mẫu khác về sự dạy đạo
rõ ràng trong Tân ước với hình thức trao đổi thư tín gởi cho các Hội Thánh
hay các cá nhân.
8. Sự trao đổi thư tín thời Tân ước đã hình thành một chức vụ dạy đạo có giá
trị. Khoanh tròn mẫu tự đầu câu ĐÚNG.
Hầu hết sự thay đổi thư tín thơi Tân ước là thuộc giáo lý và bắt nguồn từ các
lãnh tụ Hội Thánh là người hình thành các niềm tin của họ theo phong tục
địa phương.
Phaolô và các sứ đồ khác đã lập lại nhiều lần Lời của Chúa mà họ đã trực
tiếp hoặc nhận được sự khải thị của Chúa khi họ mở rộng và giải thích các
sự dạy dỗ của Chúa Jêsus.
Sự trao đổi thư tínTân ước bao gồm sự khải thị thêm về chân lý của Đức
Chúa Trời vốn chưa có trong những sự giáo huấn của Chúa Jêsus.
Trả lời các câu hỏi trong bài
1. Bất cứ thứ tự nào.
Để họ ý thức về điều Đức Chúa Trời mong muốn ở họ.
Bởi vì sự hiểu biết nằm trên nền tảng của trí thức căn bản.
2. a) Ông đã học biết rằng tất cả các điều răn đã được tóm lại trong sự yêu
Chúa và yêu kẻ lân cận của mình.
b) Bất cứ người nào đang cần sự giúp đỡ của người lân cận.
3. d) Tất cả các câu a) b) c) ở trên đều đúng.
4. a) Ông đang khiến cho họ biết. Ông đang truyền đạt ý thức.
b) Họ đã minh chứng rằng sư dạy dỗ tạo ra sự thông hiểu, và họ đã giải thích
luật pháp để cho dân chúng có thể hiểu được ý nghĩa của luật pháp.
c) Họ đã cảm động sâu xa vì nhận biết mình đã không còn giữ theo luật pháp
để được Chúa tiếp nhận. Nhưng khi những lãnh tụ của họ thách thức họ hãy
có hành động tích cực, thì họ đáp ứng một cách vị tha và họ đã chia sẻ cho
người khác và lòng đầy dẫy sự vui mừng.
5. a) Đúng
b) Sai
c) Đúng
d) Đúng
6. a. 1) Người quan sát bên ngoài
b. 2) Người nghe mà không hành động
c. 2) Người nghe mà không hành động
c. 3) Môn đồ kiểu mẫu
c. 3) Môn đồ kiểu mẫu
f. 1) Người quan sát bên ngoài
g. 2) Người nghe mà không hành động
h. 3) Môn đồ kiểu mẫu
7. Câu trả lời của bạn. Hầu hết chúng ta đều không tin tưởng nơi chức vụ
dạy đạo của người này.
8. Câu trả lời của bạn.
Sự thay đổi thái độ vào lối sống ai là cần thiết, chứng tỏ rằng sự dạy đạo của
chúng ta có hiệu quả, sự thay đổi này là bằng cớ cho chúng ta thấy rằng do
nhận lãnh và áp dụng sự dạy dỗ trong Lời Chúa mà đời sống thuộc linh của
một người được lớn lên.
9. c) Mạng lệnh và gương mẫu của Đấng Christ và các sứ đồ.
10. a) Vì sự sống của hai trường hợp, nếu muốn trở thành thì phải được nuôi
dưỡng và phát triển.
11. a) Sai
b) Đúng
c) Đúng
12. Câu trả lời của bạn. rõ ràng những lời cảnh cáo của Môise về sự dạy đạo
(PhuDnl 6:7 và các chỗ khác) đã bị quên lãng. Việc dạy đạo trên bình diện
quốc gia và cộng đồng cũng như tại gia đã bị từ bỏ và hậu quả là sự thất bại
thuộc linh lan tràn ở mọi bình diện.
13. a) Sai
b) Đúng
c) Đúng
d) Đúng
14. Câu trả lời của bạn. Sự dạy đạo của Chúa Jêsus là một trong gương mẫu
chính của Tân ước. Ngoài ra các môn đồ của Chúa cũng đã dạy và viết các
thư tín để dạy các tín hữu, họ giải thích những chân lý khác đã được Chúa
Jêsus ban cho.
Vì thế, sự dạy đạo của Chúa Jêsus và các thư tín của các sứ đồ là gương mẫu
về sự dạy đạo thời Tân ước.
15. a) Câu trả lời của bạn. Tôi đã nêu câu Kinh Thánh nói về sự bất khả của
các môn đồ trong việc hiểu và tiếp thu các chân lý vì họ vẫn còn ở tình trạng
chưa trưởng thành. Họ cần nhận lãnh sự soi sáng và ơn ban của Đức Thánh
Linh để hiểu đầy đủ và có kinh nghiệm về vai trò của người môn đồ của
Chúa.
b) Chúng ta học biết rằng trong công tác dạy đạo chúng ta nên bắt đầu với
những chân lý đơn sơ trước rồi mới đưa vào những chân lý phức tạp sau để
các thính giả của chúng ta dễ tiếp thu các sự dạy dỗ trong đời sống thuộc
linh hơn.
16. b) Giải thích ý nghĩa của sự nhập thể, đời sống, sự chết và sự phục sinh
của Đấng Christ cho mọi người nhằm cứu rỗi các tội nhân và giúp các tín đồ
trưởng thành.
Trọng tâm của sự dạy đạo
Trong bài học vừa qua chúng ta đã khảo sát hai lý do của chức vụ dạy đạo.
Chúng ta thấy rằng sự dạy đạo thời Tân ước đã làm ứng nghiệm mạng lệnh
của Kinh Thánh và chủ yếu là hướng dẫn người tín đồ đến sự trưởng thành.
Bây giờ chúng ta xem xét đến một mạng lệnh rõ ràng của Tân ước về chức
vụ dạy đạo toàn diện trong Cong Cv 20:28-30, mà tôi gọi là sự dạy đạo bắt
buộc. Chúng ta sẽ xem xét phương cách thi hành chức vụ dạy đạo này để
tiến hành các mục đích Kinh Thánh đã yêu cầu chúng ta.
Có một người đã so sánh, Kinh Thánh của chúng ta với cuốn sổ tay chỉ nam
của người thợ máy sử dụng để bảo quản và sửa chữa chiếc xe tải to lớn của
chúng ta. Cuốn sổ tay chỉ nam ấy giúp họ khám phá ra nan đề và giải pháp
giải quyết nan đề và như vậy tránh được sự hư hỏng không cần thiềt. Tương
tự như thế. Quyển Kinh Thánh cũng cho chúng ta những lời chỉ dẫn để ta
sống đẹp lòng Chúa và cảnh cáo về những nguy hiểm có thể phá hỏng mối
quan hệ của chúng ta với Ngài và cung cấp những điều cần yếu có thể giúp
mỗi chúng ta phát triển và trưởng thành đời sống thuộc linh và có kết quả
cho Chúa. Vì vậy. Chúng ta phải xây dựng chức vụ giảng đạo và dạy đạo
của chúng ta trên Lời của Đức Chúa Trời.
Khi chúng ta xem xét những điều quý báu trong kho tàng Lời của Đức Chúa
Trời, tôi cầu xin Chúa thách thức bạn bước vào chức vụ dạy đạo trong tinh
thần sốt sắng, nồng nhiệt đầy hy vọng. Vì dù bạn để suốt cả đời mình học
tập không bao giờ vơi cạn nguồn tài nguyên thiêng liêng đang chờ bạn khám
phá, phát huy và áp dụng.
BỐ CỤC BÀI HỌC :
Mạng lệnh dạy đạo bắt buộc.
Lãnh đạo bầy chiên.
Nuôi dưỡng bầy chiên.
Bảo vệ bầy chiên.
CÁC MỤC TIÊU CỦA BÀI HỌC :
Khi bạn học xong bài học này bạn phải có khả năng để:
Đưa ra mạng lệnh bắt buộc của sự dạy đạo theo Lời Kinh Thánh dạy bảo.
Định nghĩa giáo lý Cơ đốc và phân tích nhiệm vụ của giáo lý.
Tìm kiếm và sắp xếp tài liệu từ Kinh Thánh để trình bày bài học theo đề tài.
Bày tỏ việc sử dụng phương pháp khảo cứu Kinh Thánh để nghiên cứu nội
dung của những khúc Kinh Thánh mở rộng.
CÁC SINH HOẠT HỌC TẬP :
Hãy đọc thư I và II Timôthê cùng thư Tít qua nhanh một lần để có cái nhìn
tổng quát. Rồi trở lại hết các sách này và ghi chú nhiều lãnh vực khác nhau
trong sự chỉ dẫn mà Phaolô nhấn mạnh phải dạy. Những tài liệu này là một
kho tàng phong phú cho chức vụ dạy đạo của bạn.
Nghiên cứu phần mở đầu, bố cục và các mục tiêu bài học. Rồi học tiếp hết
cả bài theo thông lệ. Sau khi học xong bài, hãy làm bài tập trắc ngiệm cá
nhân và xem lại các câu trả lời của bạn.
NHỮNG CHỮ QUAN HỆ :
Discrimination: Khả năng phân biệt sự khác nhau.
Expository preaching: Giảng giải Kinh .
Methodically: Làm theo phương pháp hoặc theo cách có trật tự.
Strategy: Kế hoạch khéo léo hay chiến lược
Survey: Khảo sát hay nghiên cứu.
Theological: Liên quan đến bản tính và ý chí của Đức Chúa Trời.
Topical: Thuộc về đề tài hay chủ đề.
Trilogy: Nhóm ba, cùng tạo ra một loạt liên hệ, tác phẩm bộ ba
Undershepherdd: Tư liệu được dùng chỉ về người phụ trách một nhóm tín
hữu địa phương. Một người hầu việc Chúa nhận trách nhiệm trước Đấng
chăn chiên lớn (Iphierơ 5: 4) để chăm sóc đời sống thuộc linh của những
người được phục vụ.
KHAI TRIỂN BÀI HỌC :
MẠNG LỆNH DẠY ĐẠO BẮT BUỘC :
Mục tiêu 1: Liệt kê ba yếu tố chức vụ mà Phaolô đã chứng minh cho các nhà
lãnh đạo ở Êphêsô và giải thích ý nghĩa của mỗi yếu tố .
Là một người hầu việc Chúa, bạn cần biết những nguồn tiềm năng phong
phú trong Kinh Thánh đã dành sẵn cho bạn khai thác. Vài năm trước đây tôi
có nghe về một thanh niên phải di chuyển đến một nơi hầu việc Chúa khác.
Vì sau 3 năm người ấy đã chẳng còn để tài nào trong Kinh Thánh để dạy và
giảng cho các tín đồ. Tôi cũng biết một người khác đã hầu việc Chúa tại một
địa điểm trong hơn hai mươi năm với chức vụ đầy quyền năng và thách thức
và đã thành công.
Có sự khác biệt gì giữa hai người cùng đáp ứng tiếng kêu gọi của Đức Chúa
Trời tham gia vào chức vụ ?
Một người rất hiếm khi sửa soạn hay nghiên cứu cho chức vụ dạy của mình,
trong khi đó, người kia đã đào sâu, nghiên cứu, cầu nguyện và phục vụ
người khác do đó ông ta càng già dặn trong chức vụ. Người đầu tiên đã cạn
hết tài liệu quen thuộc và không có kỷ luật hay động cơ cần thiết để nghiên
cứu và chuẩn bị. Người đó chẳng bao lâu di chuyển đến một nơi khác để lặp
lại những gì anh ta đã biết trong ba năm tiếp đó. Người thứ nhì rất quan tâm
đến sự tăng trưởng và phàt triển bầy chiên của mình, cho nên từ buổi nhóm
này qua buổi nhóm khác nuôi bầy chiên bằng những thức ăn phong phú lấy
từ lời của họ. Ông biết rằng chức vụ ông cũng kích thích sự trưởng thành
trong các thính giả của ông về một khả năng phân biệt thuộc linh sâu sắc. Họ
phải biết chân lý khỏi sự sai lầm. Vì thế ông quyết tâm chuẩn bị cách chuyên
cần để chức vụ của ông sẽ đáp ứng các nhu cầu thuộc linh của bầy chiên của
ông.
Phaolô thách thức các trưởng lão Êphêsô (Cong Cv 20:18-35) ba yếu tố căn
bản, sống động mà chức vụ dạy đạo và giảng giải Kinh phải có.Trong các
câu 28-30 chúng ta thấy trách nhiệm đặc biệt của nhà lãnh đạo là bảo vệ bầy
chiên của mình. Họ cần quan tâm đến sự lãnh đạo, nuôi dưỡng và bảo vệ bầy
chiên của Đức Chúa Trời. Ba phận sự này gợi ra nguồn cung cấp tài liệu bài
học vô tận.
Trong sổ tay của bạn, hãy liệt kê ba yếu tố chức vụ mà Phaolô đã biện hộ
trước các trưởng lão Êphêsô và giải thích ý nghĩa của mỗi yếu tố.
LÃNH ĐẠO BẦY CHIÊN:
Mục tiêu 2: Nhận dạng các đặc tính người lãnh đạo phải có .
Phaolô đã thách thức những trưởng lão ở Êphêsô hãy tự giữ lấy mình và giữ
lấy bầy của Đức Chúa Trời đã giao cho họ coi sóc. Là người lãnh đạo, thầy
giáo phải nhạy cảm phần thuộc linh, có thể có những quyết định sửa sai và
động viên người ta đi theo, có những mục tiêu rõ rệt và khả năng để nhận
biết vai trò của mình trong chương trình của Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy
xem xét một số những phẩm chất về sự lãnh đạo mà Phaolô đã nói rõ trong
các thư tín gởi cho Timôthê và Tít.
2. Đọc Tit Tt 1:7-8; 2:6-7, 11-12; IITi 2Tm 3:10 và ITi1Tm 4:16. Là giáo sư
của những người khác, Phaolô cho chúng ta thấy rằng có một phương cách
rất quan trọng để dạy đạo. Hãy dùng sổ tay của bạn để mô tả phương cách
đó là gì.
Thứ hai là người lãnh đạo quần chúng, thầy giáo có quyền quyết định. Khi
một số người trong thân thể Đấng Christ kháng cự lại sự dạy dỗ của Lời
Chúa và không theo sự dạy dỗ trong Lời Kinh Thánh, thì thầy giáo phải
hành động quyết định vì lợi ích của cả bầy (IITi 2Tm 4:5 Tit Tt 1:9; 2:15).
Khi sửa sai hay quở trách phải có tình yêu và cần có sự khuyến khích (IITi
2Tm 4:2) khuyên lơn.
Trách nhiệm thứ ba của người dạy đạo là nhận biết mục đích của Đức Chúa
Trời dành cho mình và cho những người mình đang phục vụ. Để nhận biết
mục đích ngươi ấy phải thiết lập những mục đích và ra sức thực hiện mục
đích ấy. Nếu mục đích của Đức Chúa Trời là các chi thể phải là những
chứng nhân có hiệu quả, thì nhiệm vụ của ông là huấn luyện các tín đồ để họ
lại trở nên những chứng nhân (2:2). Phải có mục tiêu chính chung cho công
tác này và những mục tiêu phụ để đạt được mục tiêu chính. Nếu không thì
người hầu việc Chúa sẽ làm việc một cách tùy hứng và ông sẽ không đáp
ứng được các nhu cầu thuộc linh và bầy chiên của ông cũng không thể làm
những chứng nhân đem lại kết quả. Phaolô nhắc Timôthê về mục đích của
ông trong cuộc đời vốn được nêu rõ trong Kinh Thánh (3:14-17).
Có lẽ bạn sẽ hỏi, làm sao các tín đồ của tôi có thể chia sẻ gánh nặng mà Đức
Chúa Trời đã ban cho tôi và hiểu được mục đích của Kinh Thánh đã nêu ra ?
Để dẫn dắt họ, bạn phải biết sử dụng các bài học theo chủ đề. Các nhân vật
Kinh Thánh, các địa danh quan trọng vì những sự vật có thể dùng trong việc
học Kinh Thánh để dạy họ các nguyên tắc Cơ đốc nhân trưởng thành để cuối
cùng thực hiện mục đích của Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy sử dụng cách
hữu hiệu các đề tài để dẫn dắt bầy chiên của Đức Chúa Trời.
Các nhân vật Kinh Thánh : Bạn có thể dùng nhiều nhân vật Kinh Thánh
khác nhau làm đề tài để gây cảm hứng cho bầy chiên của bạn. Có thể dùng
phương pháp so sánh và đối chiếu đời sống của hai nhân vật. Thí dụ như
Giacốp và Êsau (SaSt 25:19; 49:33;). Bạn có thể so sánh và đối chiếu 1) thời
niên thiếu của họ 2) những năm trưởng thành của họ và 3) những bài học họ
đã học được. Qua sự phân tích kỹ lượng những nhân vật này. Chúng ta có
thể thấy được sự thành công hay thất bại của họ, những nguyên tắc chi phối
đời sống họ là gì, và áp dụng những nguyên tắc sống này vào đời sống thuộc
linh của họ. Nếu được bạn phải dùng khuôn mẫu của Tân ước đánh gía về
các nhân vật trong Cựu ước. Những cặp nhân vật khác bạn có thể nghiên
cứu là Ysác và Íchmaên, Đavít và Saulơ, Mari và Mathê…
3. Chúng ta có thể gây cảm hứng cho những người chúng ta đang phục vụ để
họ nhận biết và tìm kiếm mục đích của Đức Chúa Trời cho đời sống của họ
bằng cách học các bài học theo chủ đề các nhân vật trong Kinh Thánh,
những bài học thuộc loại này được.
Tổ chức rất tốt đến nỗi chúng bao hàm những biến cố quan trọng cách nhanh
chóng và dễ cho các học viên học tập.
Từ những cuộc đời của những người đã sống đẹp lòng Đức Chúa Trời bạn
hãy rút ra một phước hạnh làm nguồn cảm hứng cho những người khác.
Cấu tạo để bao gồm cách dư dật mọi khía cạnh của đời sống một nhân vật
Thánh Kinh.
Những bài học này không chỉ liệt kê ra những việc nên làm hay không nên
làm trong đời sống Cơ đốc nhân mà còn phải trình bày trong sự yêu thương
từ đó thiết lập một khuôn mẫu cho đời sống đẹp lòng Đức Chúa Trời, Phục
vụ người khác, xây dựng đức tin người ta và đưa ra một tiến trình cho sự
trưởng thành của người Cơ đốc.
Các địa danh : Những thành phố, làng xóm, chiến địa, những vị trí địa lý nổi
bật - tất cả đều là những đề tài nghiên cứu hấp dẫn. Hãy sử dụng tài liệu
trong cả Cưụ ước lẫn Tân ước, đưa ra một loạt các bài học về những cuộc
hành trình của dân Ysơraên, ý nghĩa của những địa danh dân chúng đã đóng
trại, những điều học tập được từ bản tính và mục đích của Đức Chúa Trời và
phương pháp lãnh đạo của Ngài. Ý nghĩa của việc dân Ysơraên từ đâu mà
đến, họ đã đi qua đâu và hướng về đâu. Bạn cũng có thể xem xét những địa
danh Phaolô đã thành lập các Hội Thánh trong những cuộc hành trình truyền
giáo của ông, những nơi này nằm trong chiến lược truyền giáo của ông, và
sự thành công to lớn đã đạt được là kết quả của việc ông theo đuổi một kế
hoạch đơn giản để đạt đến một mục đích thuộc linh. Chúng ta hãy áp dụng
việc nghiên cứu như thế nào các thư tín ông đã gởi cho những Hội Thánh
ông đã thành lập.
4. Khoanh tròn câu ĐÚNG.
Những địa danh trong Kinh Thánh có thể được dùng để dạy và áp dụng chân
lý thuộc linh, vì thường khi các tên đó phản ảnh những kinh nghiệm có ý
nghĩa trong sự phát triển thuộc linh của dân sự Đức Chúa Trời.
Những địa danh ở những nơi Phaolô giảng đạo không có ý nghĩa bao nhiêu,
vì ông chỉ giảng hoặc dạy ở bất cứ nơi nào ông có thể mà thôi.
Việc nghiên cứu những thành phố là những nơi mà Phaolô hầu việc Chúa,
chẳng hạn như thành phố Côrinhtô, có thể dạy chúng ta rất nhiều về nền văn
hóa và các phong tục của dân chúng cũng như làm thế nào Đức Chúa Trời
thực hiện được mục đích của Ngài và thể hiện sự lãnh đạo của Ngài trong sự
phát triển Hội Thánh giữa trung tâm một xã hội rất suy đồi.
Các sự vật : khi bạn đã chỉ dẫn bầy chiên, hiểu biết chân lý của Đức Chúa
Trời, Kinh Thánh có những điều giúp bạn truyền thông cách hữu hiệu.
Chẳng hạn, bạn có thể dạy ý nghĩa của các dụng cụ trong đền tạm, làm hình
bóng điều gì đó tốt hơn và bền vững hơn trong thời Tân ước, hoặc, dùng
cách Hêbơrơ làm tài liệu hướng dẫn học tập, bạn có thể xem xét sự cao cả
hơn trong chức vụ thầy tế lễ đời đời của Đấng Christ đối với chức tế lễ của
người Lêvi thời Cựu ước. Những lời cầu nguyện trong Kinh Thánh, những
phép lạ, hôn lễ, gia đình, những thí dụ, và những bữa tiệc là một trong số
những sự vật khác mà bạn có thể nghiên cứu để bạn hướng dẫn nhân sự
Chúa cách hữu hiệu hướng về một đời sống thuộc linh phong phú hơn.
Và cuối cùng, bạn phải động viên, thúc đẩy người khác tham gia hầu việc
Chúa với bạn. Phierơ nói về Chúa Jêsus, vị giáo sư bậc thầy, rằng Ngài đã để
lại cho chúng ta một gương hầu cho chúng ta đi theo dấu chân của Ngài
(IPhi 1Pr 2:21). Và ước vọng của lòng Phaolô là trở nên giống như Ngài
(Phi Pl 3:10). Khi bạn dạy đạo, phải lấy tình yêu thương của Chúa Jêsus làm
động cơ đến nỗi những người khác cũng muốn dâng đời sống của họ cho
Đấng mà bạn đang phục vụ ( ITi1Tm 4:15-16).
5. Hãy nhận dạng các gương mẫu Kinh Thánh về sự lãnh đạo được thầy giáo
trình bày bằng cách đặt số 1 ở trước các gương đúng và số 2 trước các
gương không diễn tả những nguyên tắc Kinh Thánh về sự lãnh đạo.
Thầy giáo lãnh đạo hữu hiệu bằng việc tuân giữ các luật lệ cách nghiêm
khắc cứng ngắc.
Thầy giáo hữu hiệu cảm hứng người khác đi theo bởi cớ thái độ và hành
động của ông.
Thầy giáo thành công hiểu rõ mục đích dạy đạo của mình.
Thầy giáo thành công là người làm cho học sinh bận rộn và để hết tâm trí
vào ( theo mục đích chính của ông).
Người thầy giáo khôn ngoan là người quyết tâm, có khả năng đưa ra những
quyết định ảnh hưởng đến công tác của mình như một người chăn.
Người thầy giáo khôn ngoan là một người được hướng dẫn chủ yếu bởi
những ước muốn của những người mà thầy đang phục vụ để lựa chọn những
điều phải dạy.
NUÔI DƯỠNG BẦY CHIÊN:
Mục tiêu 3: Giải thích việc nuôi bầy có nghĩa gì ?
Mục đích của chức vụ hầu việc Chúa là cung cấp cho các thính giả của
chúng ta những cơ hội để học biết về Lời Chúa và đáp ứng chân lý để họ sẽ
lớn lên và dần dần trưởng thành trong đức tin. Là những nhà lãnh đạo, chúng
ta sử dụng một số các hoạt động dạy đạo và giảng đạo căn cứ trên lời thẩm
quyền của Đức Chúa Trời ngõ hầu đưa các thính giả của chúng ta đến sự
trưởng thành. Và điều thiết yếu là chúng ta truyền thông toàn diện Lời của
Đức Chúa Trời. Không những đưa người ta đến sự biết Lời Chúa, nhưng còn
đưa họ đến kinh nghiệm với Chúa Jêsus Christ có kết quả trong các việc
lành, đời sống kỉnh kiền và trưởng thành thuộc linh.
Sự nuôi bầy, mà bạn đã được giao thác, chỉ về việc trình bày những chủ đề
lớn của đời sống ( thực tế và thuộc linh, những mối quan hệ, thái độ….) với
bầy chiên của bạn là một việc đều đặn của thức ăn thuộc linh. Đó là học về
bản chất và nguồn gốc của Kinh Thánh, nhưng niềm tin liên quan đến Đức
Chúa Trời, đến Đấng Christ, đến Đức Thánh Linh, đến con người, tội lỗi, thế
giới thần linh, nhiệm vụ của Hội Thánh, sự phán xét và những sự việc sau
cùng. Các kinh nghiệm có liên quan đến cá nhân trong đời sống Cơ đốc
(chẳng hạn, thờ phượng và hầu việc), cũng như ý niệm về gia đình Cơ đốc
và làm thế nào để thiết lập và duy trì sự hòa hợp trong gia đình.
Bạn cũng phải dạy về sự đáp ứng của Cơ đốc nhân với những vấn đề xã hội
và trách nhiệm của Cơ đốc nhân đối với cộng đồng của mình và với thế giới.
Và bạn phải tìm cách phát triển sự lãnh đạo đố nũa. Như vậy bạn thấy rằng
sứ điệp dạy đạo bao gồm một khu vực to lớn và đụng chạm cách thực sự vào
mọi khía cạnh của cuộc sống.
Phương tiện hữu hiệu đáp ứng những nhu cầu của bầy chiên về thực phẩm
thuộc linh là khảo cứu Kinh Thánh. Đây là sự khao cứu toàn diện một phần
Kinh Thánh. Sự khảo cứu Kinh Thánh có thể bao gồm sự nghiên cứu thông
suốt qua một sách trong Kinh Thánh hoặc một phân đoạn mở rộng, một đoạn
hay một số đoạn Kinh Thánh. Hãy lưu ý sự khảo cứu phải được tiến hành
như thế nào.
Khảo cứu một đoạn Kinh Thánh : sự chia đoạn Kinh Thánh thường là thâu
thập các câu lại với nhau theo cùng một đề tài. Một số đoạn gồm có một chủ
đề trọn vẹn. GiGa 17:1-26 - Lời cầu nguyện của chúng ta, ICo1Cr 13:1-13-
Tình yêu thương, 15:1-58- Sự sống lại của thân thể. Mỗi một đoạn như thế
có đủ tài liệu tuyệt vời cho sự khảo cứu Thánh Kinh. Một danh sách những
đoạn Kinh Thánh khác thích hợp với việc soạn hàng loạt các bài học như:
Cựu ước- SaSt 3:1-24; 22:1-24. XuXh 12:1-50; 24:1-18. PhuDnl 32:1-52;
Gios Gs 1:1-18; IIVua 2V 5:1-18; Thi Tv 51:1-19; 90:1-17 và EsIs 53:1-12;
Tân ước- LuLc 15:1-32; GiGa 11:1-57; 15:1-27; Eph Ep 2:1-21; IITi 2Tm
2:1-26; IGi1Ga 1:1-10 và KhKh 22:1-21.
Một số đoạn có thể tập hợp thành từng nhóm và nghiên cứu với nhau. Thi
Tv 22:1-23:6; 24:1-10 thành hình một bộ ba Thi Thiên có thể đặt tên như
sau: 22:1-31- Cứu Chúa, 23:1-6- Đấng chăn chiên và 24:1-10 - Vị Vua. Mat
Mt 5:1-6:34; 7:1-29 có thể được dùng như là một loạt bài học về” bài giảng
trên núi”. Và KhKh 2:1-3:22 bao gồm những sứ điệp của Chúa Jêsus gởi cho
bảy Hội Thánh ở Asi.
Sau đây là một số tài liệu và gợi ý để giúp bạn chuẩn bị và dạy ICo1Cr 13:1-
13, đoạn Kinh Thánh về tình yêu thương. Đoạn này có sự phân chia dễ dàng
thành ba phần. Một bố cục đơn giản về đoạn này có thể nhìn thấy như sau:
13:1-13- Chương sách về tình yêu thương.
Sự vĩ đại của tình yêu thương (câu 1-3).
Đặc tính của tình yêu thương ( câu 4-7).
Sự vĩnh cửu của tình yêu thương (câu 8-13).
Bạn còn có thể nghiên cứu những đoạn Kinh Thánh khác nói về tình yêu
thương cũng như các thí dụ trong Kinh Thánh để minh họa cho chân lý của
đoạn này. Và bạn nên khảo sát đoạn này trong vị trí thích đáng bằng cách
xem xét mạch văn của nó. Bạn có thể dùng đoạn này làm một bài học hoặc
mở rộng thành ba bài hoặc hơn nữa nếu tài liệu và thời gian cho phép.
Bạn phải có chủ đề trung tâm, là tình yêu thương, với những câu hỏi phát
xuất từ nội dung của nó. Chẳng hạn: Tình yêu thương là gì ? Đặc tính của nó
ra sao? Nó tự bày tỏ như thế nào? Mối quan hệ của nó với những ân tứ thuộc
linh khác là gì ? Nó có ảnh hưởng bao lâu ? Nó tạo ra điều gì ? Nếu bạn
khảo cứu bài học này như thế, thì bạn sẽ không bị lạc đề.
Bạn có thể lấy một phân đoạn rồi chia ra những phần nữa để nghiên cứu và
dạy dỗ. Để dạy phân đoạn này hoặc những phân đoạn khác, bạn cần có cái
nhìn tổng quát để biết có bao nhiêu phần bạn cần để trình bày bài học. Kinh
nghiệm của bạn trong việc chuẩn bị và dạy các đoạn Kinh Thánh sẽ giúp bạn
khi bạn hoạch định một loạt các bài học khảo cứu một sách trong Kinh
Thánh.
6. Hãy đọc GiGa 17:1-26. Ở đây chúng ta có đoạn sách thường gọi là”Lời
cầu thay trong tư cách Thầy Tế lễ Thượng phẩm Của Chúa Jêsus”. Hãy liệt
kê chủ đề trung tâm cho mỗi phân đoạn gồm ba nhóm câu được tìm thấy
trong đoạn này.
a) Câu 1-5
………………………………………………………………………………
………………
b) Câu 6-19
………………………………………………………………………………
………………
c) Câu 20-26
………………………………………………………………………………
…………………
Chúng ta thấy rằng có ba phần được địng nghĩa rõ ràng trong Giaăng 17,
mỗi phần cho phép ta mở rộng và phát triển đề tài. Và chúng ta có thể tìm
được nhiều ý tưởng phong phú trong các phân đoạn ở mỗi phần chính trên
đây. Qua suốt đoạn Kinh Thánh chúng ta nhận thấy rằng sự cầu nguyện
chiếm phần quan trọng trong cuộc đời của Chúa chúng ta. Từ đó chúng ta có
thể rút ra được sức mạnh và nguồn cảm hứng từ Thầy Tế lễ Thượng phẩm
của chúng ta là Đấng luôn cầu thay cho chúng ta. (HeDt 7:25).
Khảo cứu một sách trong Kinh Thánh . Sự nghiên cứu có hệ thống một sách
trong Kinh Thánh sẽ đem ích lợi và phước hạnh đến cho bầy chiên của bạn.
Có thể bạn tốn nhiều tháng hoặc cả năm cho việc soạn một loạt các bài học,
tùy theo chiều dài của sách và các chi tiết nghiên cứu của bạn. Bạn phải lập
kế hoạch sơ bộ trước về qui trình khảo cứu sách. Có một số điều cần xem
xét trong kế hoạch ban đầu.
Sự lựa chọn một sách trong Kinh Thánh để khảo cứu toàn diện phải liên
quan đến nhu cầu của lớp học. Và các tài liệu sẵn có để tham khảo. Một
cuốn sách giải Kinh và một cuốn Thánh Kinh Phù dẫn sẽ giúp ích nhiều cho
sự lập kế hoạch và chuẩn bị các bài học. Tuy nhiên nếu những sách này
không có sẵn thì bạn hãy dùng Kinh Thánh và sổ tay của bạn.
Hãy thu thập càng nhiều tài liệu càng tốt để dùng trong các loạt bài học,
trước khi bắt đầu. Hãy quyết định mục tiêu chính của việc khảo cứu của bạn.
Khi đánh gía các tài liệu bạn đã thu thập được hãy quyết định xem bạn cần
bao nhiêu phần để dùng cho các tài liệu ấy. Rồi bạn đặt ra ngày tháng cho
loạt bài học. Hãy cho mọi người biết trước loạt bài học sẽ học khoảng ba hay
bốn tuần trước khi trình bày phần đầu. Phải tiên liệu cho các bài học sắp đến
bằng cách khuyến khích các học viên của bạn đọc trước sách sẽ khảo sát
(nếu được, nên công bố vài ba lần). Hãy chuẩn bị kỹ trước như vậy trong
mỗi bài học để bạn có thể thu nhập và sắp xếp tài liệu các phương tiện nghe,
nhìn, và hẹn trước với người nghe nếu cần.
Cách tốt nhất là chọn một trong các sách Tin Lành để nghiên cứu đầu tiên
trong việc học Kinh Thánh. Nếu bạn có quyển Kinh Thánh, bản dịch
Today’s English Version (TEV- Bản dịch anh ngữ ngày nay thì bạn sẽ có bố
cục tổng quát cho sẵn trong mỗi sách.
Ngoài ra, bản dịch này còn cho biết các phân đoạn phụ được chia suốt cả
sách, giúp đỡ cho bố cục sách rất nhiều. Tuy nhiên, đây chỉ là bố cục chung,
bạn cần soạn bố cục chi tiết. Khi bạn nghiên cứu cẩn thận bố cục gợi ý và
các phân đoạn phụ của bản dịch TEV và thêm chi tiết, thì bạn sẽ hình thành
được một bố cục dạy hàng loạt bài học theo từng câu Kinh Thánh của bất cứ
sách Tin Lành nào. Khi bạn tiến hành việc soạn bố cục, bạn sẽ có kinh
nghiệm soạn các sách trong Kinh Thánh để dạy (và giảng). Đây là công tác
quan trọng trong việc chuẩn bị và dạy một sách. Vì vậy, các ích lợi của sự
nghiên cứu đối với bạn và với bầy chiên của bạn khiến cho việc nghiên cứu
này rất đáng kể.
Bạn sẽ tìm thấy một kho tài liệu phong phú trong các bài học thư tín giám
mục (lương thực thuộc linh) làm cho đời sống Cơ đốc nhân được tăng
trưởng. Trong những bài tập sau, chúng ta sẽ thấy Phaolô hướng dẫn cho
những người đồng sự về vấn đề trách nhiệm dạy đạo toàn diện của họ.
Những chi tiết chỉ dẫn liên quan đến nội dung sự dạy đạo này tỏ ra công tác
này rất vĩ đại.
7. Hãy đọc các câu Kinh Thánh và trả lời các câu hỏi liên quan đến các câu
đó.
Tit Tt 1:1-3, 9 chỉ ra rằng mạng lệnh của Phaolô về sự chỉ đạo liên hệ
đến……………………………………………………………………………
……………………………………………của những người được lựa chọn
của Đức Chúa Trời và hầu dẫn đến sự tin kính. Những điều này đặt cơ sơ
trên sự hy vọng của…………………………………
Tit Tt 1:2, 3 tuyên bố rằng
………………………………………………………………………của Đức
Chúa Trời và sự sống đời đời đã được cưu mang từ cõi đời đời. Và đến thời
gian thích hợp Ngài ……………………………………………..Lời của
Ngài vốn được giao thác cho sứ đồ Phaolô để xây dựng đức tin của những
người tín đồ.
1:9 tuyên bố rằng người thầy giáo có trách nhiệm giữ vững ………….
………………………………………………………… mà ông đã được dạy
bảo và khuyến khích những người khác bằng lời khuyên dỗ và cách sống tốt
đẹp và cũng để bác lại những người chống trả.
d) 1:9 tỏ ra rằng sự dạy dỗ giáo lý đúng là cần thiết để phơi
bày…………………………. của những người chống lại sứ điệp của những
chân lý đã được bày tỏ và Tit Tt 1:10-14 bày tỏ rằng mục đích của các giáo
sư giả, trong trường hợp này
là…………………………………………………Vị sứ đồ tin rằng các giáo
sư giả phải được quở trách để họ có thể có…………………..hoặc được phục
hồi đức tin, và không có giữ…………………………………… và sự sai lầm
của con người căn cứ trên sự khước từ lẽ thật.
Hãy đọc ITi1Tm 2:3-6, 4:10; Tit Tt 2:11 rồi khoanh tròn chữ đầu của câu
ĐÚNG Ý. Những câu Kinh Thánh này tỏ ra rằng một chủ đề dạy đạo của vị
sứ đồ là.
Sự cung cấp của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi cho tất cả mọi người.
Sự giới hạn việc ban ơn cứu rỗi cho người được lựa chọn.
Công tác cứu rỗi của Đấng Christ có hiệu lực cho những người tin.
Trong ITi1Tm 4:1-7. Phaolô đã cảnh cáo rằng trong những ngày đến khi lẽ
thật căn cứ trên Kinh Thánh, được rao giảng thì sẽ có một số người từ chối.
Họ sẽ thay thế vào đó bằng những sự dạy dỗ phát xuất.
Từ những người trí thức của thế gian và người dựa trên triết lý loài người.
Trong những nơi con người bị thất học hình thức học tập không có tác dụng.
Tà linh và ma quỉ tìm cách bẻ cong lẽ thật làm cho nhiều người hướng về
những sự dạy dỗ gian tà của họ.
ANH EM HÃY GIỮ LẤY MÌNH VÀ LUÔN CẢ BẦY MÀ ĐỨC THÁNH
LINH ĐÃ LẬP ANH EM LÀM KẺ COI SÓC .
Cong Cv 20:28
Sắp xếp cho hợp các đề tài với những phần Kinh Thánh thích hợp.
- Vì cớ lòng thương xót ngay cả tội nhân thấp hèn nhất vẫn có thể được cứu
- Cầu nguyện là cơ sở cho sự hòa hợp xã hội
- Như thế bạn muốn lãnh đạo
- Trách nhiệm công tác xã hội của Hội Thánh.
- Hỗ trợ cho người hầu việc Chúa mạng lệnh của Kinh Thánh
- Các trách nhiệm của người nô lệ, làm tôi tớ
- Giá trả của sự theo Chúa và hầu việc Chúa
- Làm thế nào mỗi Cơ đốc nhân phải sống cách có hiệu quả trong xã hội của
mình
- Trách nhiệm dân sự của các Cơ đốc nhân
…… a ITi1Tm 2:1-7
…….b IITi 2Tm 3:10-17
…… c ITi1Tm 5:3-16
…… d 6:1-2
…… e 1:15-16
…… f Tit Tt 2:1-10
…… g ITi1Tm 5:17-18
…… h 3:1-7
…… i Tit Tt 3:1-2
Giải thích sự nuôi chiên có nghĩa gì ?
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………………
BẢO VỆ BẦY CHIÊN:
Mục đích 4: Ghép những câu Kinh Thánh mô tả những hiểm họa thuộc linh
và nguyên tắc rắc rối cho đúng với mỗi trường hợp .
Cũng như người chăn chiên đối diện với những hiểm họa khi ông chăn bầy
của mình trong vùng đất thù nghịch, thì những người chăn bầy thuộc linh
cũng đối diện những hiểm nguy trầm trọng có thể xảy ra gây đổ vỡ sự nhất
của bầy chiên. Những hiểm họa như thế rất nhiều có thể chia rẽ bầy chiên,
phá hủy đức tin của một số người và dẫn dụ những người khác bằng những
lời êm dịu của các giáo sư giả. Do đó là kẻ chăn chiên được giao thác nhiệm
vụ bảo vệ bầy chiên, bạn phải rất cẩn thận canh bầy.
Hãy đọc Cong Cv 20:28-30 một lần nữa và khoanh tròn mẫu tự đầu câu
ĐÚNG (những câu nào nói lên mối hiểm họa và bạn tìm thấy nó ở đâu).
Khi Phaolô cảnh cáo về sự tàn bạo của muông sói đến trong vòng các tín
hữu tại Êphêsô, Ông đang ám chỉ về những hiểm họa đến từ bên ngoài nhóm
của họ.
Sự quan tâm của Phaolô ở đây là sai lầm. Vì Hội Thánh Êphêsô đang được
Đức Thánh Linh bảo vệ.
Câu 30 chỉ về những người trong nhóm ở Êphêsô sẽ bóp méo chân lý và
hướng dẫn những người tín đồ theo họ. Câu này nói về những hiểm họa bên
trong túc là những vấn đề nổi lên từ trong Hội Thánh Êphêsô.
Phương tiện để bạn chuẩn bị cho bầy chiên của bạn sống đời sống Cơ đốc và
tránh những hiển họa họ sẽ đối diện: đó là sự dạy cho họ giáo lý đúng đắn
cách có hệ thống. Mục đích của việc dạy giáo lý là hướng dẫn người tín hữu
cách có phương pháp trong các bài học về lẽ thật của Tin Lành. Mục đích
của môn thần học là trả lời những câu hỏi căn bản nhất mà người ta thắc
mắc. Chẳng hạn, giáo lý về Đức Chúa Trời, trả lời các câu hỏi thắc mắc về
sự dựng nên vũ trụ, và về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời. Giáo lý về con
người giúp cho chúng ta biết con người có thể hiểu được ý nghĩa của đời
sống và mối tương giao với Đức Chúa Trời cùng hầu việc Ngài. Giáo lý về
sự cứu rỗi trả lời những câu hỏi liên quan đến sự cứu chuộc con người khỏi
sự sa ngã để vươn lên bình diện cao cả mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta
đạt được.
Sự nhấn mạnh căn bản trong các bài học giáo lý là những chân lý đã được
khải thị trong Lời Đức Chúa Trời. Đồng thời nhấn mạnh về nhu cầu áp dụng
chân lý vào đời sống Cơ đốc nhân. Đối với người thầy giáo trình bày một bài
học mà không đưa ra áp dụng thì cũng giống như một bác sĩ thuyết trình cho
bệnh nhân về tình trạng sức khỏe của họ và lại quên cho toa.
Khi bạn dạy các bài học giáo lý, bạn có thể tập trung vào một nhóm sách
Kinh Thánh. Một sách hoặc trong một đoạn Kinh Thánh. Chẳng hạn, bạn có
thể nghiên cứu giáo lý về sự tái lâm của Chúa trong I và II Têsalônica, hoặc
giáo lý về Đấng Christ trong Côlôse hoặc giáo lý về Đức Thánh Linh trong
Rôma 8. Trong những đoạn này, các giáo lý được trình bày cách trực tiếp.
Khi bạn bắt đầu nghiên cứu một giáo lý Kinh Thánh, bạn nên thu thập tất cả
các câu Kinh Thánh liên quan đến giáo lý đó. Và tìm hiểu một danh từ thần
học trực tiếp trong Kinh Thánh. Bạn có thể dùng Thánh Kinh phù dẫn. Khi
tìm các câu Kinh Thánh liên hệ, bạn phải cẩn thận định nghĩa và so sánh câu
đó với nhau. Bạn cũng nên dùng tự điển toàn thư, nếu bạn có sẵn. Những
câu trưng dẫn giáo lý phải liên quan chặt chẽ với mạch văn của Kinh Thánh
và trong khuôn mẫu chung của chân lý Kinh Thánh.
Vậy, một trong những công tác quan trọng nhất của bạn, là dạy giáo lý một
cách chính xác. Vì giáo lý này soi sáng cho bầy chiên biết kế hoạch của Đức
Chúa Trời, xây dựng đức tin và đời sống thuộc linh của họ. Thứ hai, chuẩn
bị cho họ khi đối diện với những hiểm họa thuộc linh của cuộc sống cả bên
trong lẫn bên ngoài Hội Thánh. Tuy nhiên, chúng ta không phải chỉ tự vệ mà
còn chống lại sự tấn công của kẻ thù trong lúc chúng ta chờ đợi sự tái lâm
của Chúa. Vì vậy khi ta đáp ứng lời kêu gọi của Đấng Christ để chia sẻ đức
tin của chúng ta và thi hành đại mạng lệnh, chúng ta sẽ được tăng cường sức
mạnh để chống lại sự tấn công của kẻ thù.
Chúng ta sẽ trải qua những sự tấn công, những sự thử thách chắc chắn xảy
đến trên đường chúng ta đi, và chúng ta phải chịu sự bắt bớ và gian khổ khi
chúng ta đánh trận tốt lành của đức tin (IITi 2Tm 2:3; 3:10-12; IPhi 1Pr
2:20-25). Đây là đặc ân của những người theo Chúa vì Ngài đã phán trong
sự đắc thắng khải hoàn: “Hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi” (GiGa
16:33). Ở đây Chúa Jêsus nêu ra những điều tương phản. Trong thế gian các
môn đồ sẽ gặp hoạn nạn, nhưng trong Ngài họ sẽ có sự bình an. Được báo
trước về những hiểm họa này thì tốt hơn là chúng ta nên chuẩn bị trước để
đương đầu với những sự tấn công bên ngoài, và chống lại những kẻ thù bên
trong như giáo lý giả dối, sự tự tôn đang đe dọa đời sống những người chúng
ta đang phục vụ.
Bạn hãy sắp xếp cho hợp với ý nghĩa các vấn đề thuộc linh được mô tả trong
mỗi câu Kinh Thánh với nguồn gốc rắc rối rõ rệt.
- Tấn công bên ngoài
- Tấn công bên trong
- Sự bội đạo cá nhân
…… a ITi1Tm 1:3-7
…… b 1:19-20
…… c 4:1-7
…… d 6:3-10
…… e 6:20-21
…… f IITi 2Tm 2:14-18, 23-26
….. g 3:1-9, 10-13
…… h 4:3-5
…… i 4:10
…… j 4:14-15
…… k Tit Tt 1:10-14
…… l 3:9-10
Như vậy, chúng ta đã thấy sự dạy đạo là mạng lệnh, một mạng lệnh bắt
buộc. Chúng ta cũng đã trình bày sự mô tả đầy đủ về công tác của một người
lãnh đạo bầy chiên là hướng họ đến sự trưởng thành và phát triển thuộc linh.
Chúng ta cũng thấy rằng nhiều tài liệu và bài học sẵn có trong Kinh Thánh
và những chất liệu khác nhau để giúp chúng ta trình bày các bài học đó.
Nhưng trong tất cả mọi sự chúng ta hãy quan tâm đến mục đích của chúng
ta. Đó là chúng ta muốn thông tin, khích lệ, điều chỉnh và khôi phục cho bầy
chiên thuộc linh của chúng ta để họ được trang bị đầy đủ để làm mọi việc
lành (IITi 2Tm 3:17).
BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM CÁ NHÂN
ĐÚNG- SAI viết chữ Đ ở trước câu đúng và chữ S ở trước câu sai.
………1. Mạng lệnh dạy đạo được liệt kê trong các trách nhiệm thuộc linh
của người lãnh đạo dùng để duy trì, phát triển và làm cho đời sống thuộc
linh của bầy chiên được trưởng thành.
………2. Đôi khi giáo sư đưa ra những bài học khuyến khích người nghe để
họ rập khuôn đời sống của các nhân vật nổi danh trong Kinh Thánh và
những gương mẫu này là có hiệu quả vì họ sống đẹp lòng Đức Chúa Trời.
……..3. Giáo lý Cơ đốc chủ yếu dạy Hội Thánh Cơ đốc tiếp nhận niền tin
của Hội Thánh từng hồi từng lúc.
……..4. Giáo lý Cơ đốc là dạy người ta các chân lý của Tin Lành một cách
có phương pháp.
……..5. Các bài học giáo lý trả lời những câu hỏi căn bản, những thắc mắc
về đời sống con người.
……..6. Những sự dạy dỗ, trong I và II Têsalônica là chủ đề về sự tái lâm
của Chúa.
……..7. Nghiên cứu theo các đề tài về các nhân vật Thánh kinh, là so sánh
và đối chiếu đời sống thời niên thiếu, những năm phát triển và những kinh
nghiệm có ý nghĩa của đời sống họ, chúng ta có thể chỉ dẫn bầy chiên hướng
về sự trưởng thành thuộc linh cho hợp lẽ.
……..8. Hiệu quả của việc khảo cứu Thánh Kinh bị giới hạn trong đề tài
nghiên cứu.
……..9. Tài liệu chúng ta dùng để khảo cứu Thánh Kinh được trình bày
trong bài học này thường đến từng nhóm lớn các đoạn hay, các sách, chứ
không đến từ những đoạn riêng hay vài đoạn, vì các đề tài trong Thánh kinh
thường hơi dài.
………10. Khi chúng ta khảo cứu Thánh Kinh, chúng ta phải bao quát đề tài
khảo cứu bằng những câu hỏi phát xuất từ mạch văn của bài học.
……..11. Nếu bạn muốn hướng dẫn khảo cứu toàn bộ các sách Kinh Thánh,
bạn chỉ cần lập kế hoạch trước thật tốt để chuẩn bị chính mình và các tài liệu
mà bạn sẽ cần.
…….12. Chúng ta có khuynh hướng tìm kiếm sự dạy dỗ trong các thư tín
giám mục vì sứ đồ Phaolô rất nhạy cảm về các nhu cầu thuộc linh của bầy
chiên. Và trong những thư tín này, ông cẩn thận mô tả trách nhiệm làm thế
nào để cung cấp cho toàn bộ cuộc chiến thuộc linh của dân sự Đức Chúa
Trời.
…….13. Một trong những phương cách bảo vệ tốt bầy chiên là dạy giáo lý
đúng, vì nó cho ta căn bản vững chắc về chân lý xây dựng những đời sống
thuộc linh.
…….14. Các thư tín giám mục nói rằng, khi từ bỏ giáo lý đúng, thì con
người sẽ đi theo sự dẫn dắt sai lạc do giáo lý phát xuất từ ma quỉ.
…….15. Sự nhấn mạnh chủ yếu của một bài giáo lý là áp dụng nó vào đời
sống hơn là chỉ hiểu biết chân lý suông.
TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI TRONG BÀI
1. Bất cứ thứ tự nào cũng được. Sự lãnh đạo là một yếu tố cần thiết của một
chức vụ ngụ ý đến sự hướng dẫn thuộc linh có mục đích cho những người
theo Chúa. Yếu tố thứ hai là nuôi chiên. Nuôi chiên là cung cấp khẩu phần
cân đối để chiên được tăng trưởng và trưởng thành. Yếu tố thứ ba là bảo vệ
chiên, bao gồm việc chuẩn bị cho bầy chiên Chúa biết phân biệt giữa lẽ thật
và sự giả dối.
2. Câu trả lời của bạn. Một trong những cách, có ý nghĩa nhất để dạy đạo là
làm gương sáng. Điều gì thực tế trong đời sống người thầy giáo đặc biệt hấp
dẫn những người nghe ông dạy. Sứ điệp dạy đạo được hỗ trợ do một đời
sống Cơ đốc gương mẫu là bằng chứng hùng hồn cho những người nghe,
thấy và tin.
3. b) Rút ra từ cuộc đời của những người vốn là một sự phước hạnh và là
nguồn cảm hứng cho những người khác, và đời sống của họ đã đẹp lòng
Chúa.
4. a) Đúng.
b) Sai (Phaolô đã được Đức Thánh Linh hướng dẫn như bạn đã thấy trong
Cong Cv 16:6-10. Ông đã bắt đầu từ những địa điểm chiến lược quan trọng
lan rộng ra các miền xung quanh).
c) Đúng.
5. a 2) Không đúng.
b 1) Đúng.
c 1) Đúng.
d 2) Không đúng.
e 1) Đúng.
f 2) Không đúng.
6. a) Chúa Jêsus cầu nguyện cho chính mình Ngài.
b) Chúa Jêsus cầu nguyện cho các môn đồ Ngài.
c) Chúa Jêsus cầu nguyện cho tất cả các tín đồ.
7 a. Đức tin, trí thức, sự sống đời đời.
b. Lời hứa, đã bày tỏ ra.
c. Sứ điệp Tin Lành, sự dạy đạo, chống đối.
d. Sự sai lầm, kiếm tư lợi (làm tiền), đức tin mạnh mẽ, các truyền thuyết Do
Thái.
a) Sự cung cấp của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi cho tất cả mọi người.
c) Công tác cứu rỗi của Đấng Christ có hiệu lực cho những người tin.
c) Với các tà linh và ma quỉ.
a 2) Câu chuyện là cơ sở cho sự hòa hợp xã hội.
b 7) Gía trả của sự theo Chúa và hầu việc Chúa.
c 4) Trách nhiệm công tác xã hội của Hội Thánh.
d 5) Trách nhiệm của người đầy tớ.
e 10) Vì cớ lòng thương xót ngay cả tội nhân thấp hèn nhất vẫn có thể được
cứu.
f 8) Làm thế nào mỗi Cơ đốc nhân phải sống cách có hiệu quả trong xã hội
của mình.
g 5) Hỗ trợ cho người hầu việc Chúa: mạng lệnh của Kinh Thánh.
h 3) Như thế bạn muốn lãnh đạo.
i 9) Trách nhiệm dân sự của Cơ đốc nhân.
Câu trả lời của bạn. Chúng ta biết rằng bầy chiên phải được nuôi bằng lương
thực thuộc linh (cứng) bổ dưỡng để lớn lên và mạnh khỏe. Dạy những lẽ thật
đơn sơ (sữa của đạo) là điều cần thiết đối với các tân tín hữu. Tuy nhiên họ
cũng phải ăn được thức ăn cứng đó là những lẽ thật của Lời chúa vì khi áp
dụng Lời chúa vào các hoàn cảnh đời sống họ sẽ lớn lên và phát triển trong
những sự thuộc về Đức Chúa Trời. Cung cấp các chất dinh dưỡng thuộc linh
cho cả bầy là điều chúng ta nói đến trong sự nuôi bầy.
12 a) Đúng.
b) Sai. Đức Thánh Linh xức dầu cho người lãnh đạo, nhưng nếu họ vô trách
nhiệm, thì công việc luôn luôn bị thiết hại. Đức Thánh Linh cai trị những đời
sống đầu phục và không trực tiếp. Đó là lý do tại sao chúng ta đòi hỏi một
cách nghiêm khắc về phẩm chất của người lãnh đạo. Đức Chúa Trời tìm
kiếm những người lãnh đạo cho Ngài cách hữu hiệu.
Đúng.
13 a 1) Sự tấn công bên trong.
b 3) Sự bội đạo cá nhân.
c 1) Sự tấn công bên trong.
d 1) Sự tấn công bên trong.
e 3) Sự bội đạo cá nhân.
f 1) Sự tấn công bên trong.
g 2) Sự tấn công bên trong.
h 1) Sự tấn công bên trong.
i 3) Sự bội đạo cá nhân.
j 2) Sự tấn công bên ngoài.
k 1) Sự tấn công bên trong.
l 1) Sự tấn công bên trong.
Hướng tới một chức vụ quân bình
Bạn vừa học xong chín bài học. Bạn đã biết chức vụ theo tiêu chuẩn Kinh
Thánh dạy và những phẩm hạnh thuộc linh của một người lãnh đạo giỏi. Bạn
đã biết các phương pháp và kỹ thuật người lãnh đạo phải dùng không chuẩn
bị một cách thực tế trong lúc phục vụ người khác. Nếu bạn kiên trì và áp
dụng những nguyên tắc này, bạn có thể giảng và dạy bài học một cách khéo
léo tự tin. Cầu xin Chúa Trời giúp đỡ bạn trong sự truyền thông chân lý cho
người khác. Bây giờ tôi muốn tha thiết nói với bạn về một số điều mà tôi tin
rằng rất quan trọng cho bạn trong chức vụ hầu việc Chúa.
Bạn đã từng thấy một người cố chèo một chiếc thuyền bằng một máy chèo
chưa? Tôi đã thấy rồi. Anh ta thật khó nhọc lắm mới đưa con thuyền tiến tới,
và đã từng thấy một con lừa chất đầy hàng hóa chỉ một bên hông mà phải leo
lên một con dốc nguy hiểm, hay là con đò có quá nhiều người ngồi hẳn qua
một bên? Đó là những cảnh trạng trong cuộc sống thực tế nói lên những sự
mất quân bình. Trong bài học này chúng ta sẽ thảo luận về sự quân bình.
Giảng và dạy hai phương tiện Đức Chúa Trời đã chọn để truyền thông chân
lý Thiên Thượng cho những người đang cần. Dù bạn thực hiện cả hai
phương tiện cách khéo léo với đầy đủ khả năng, thì đừng bao giờ quên rằng
hiệu quả của công tác bạn chính là Đấng Christ. Cầu xin Chúa bạn cho bạn
càng ngày nương tựa vào Ngài và học tập cách chờ đợi và hiện diện của
Ngài để Ngài giúp bạn thành công trong chức vụ Chúa giao.
Bố cụ bài học :
Lời này xin cho sự quân bình.
“ Tôi nài xin Anh…
Những mục tiêu của bài học :
Khi học xong bài này bạn phải có khả năng để
Thảo luận ý nghĩa của sự quân bình trong chức vụ giảng và dạy.
Phân tích bí quyết thành công trong việc giảng và dạy.
Đánh giá đúng chức vụ toàn diện của Đức Thánh Linh trong công tác xây
dựng và làm cho thân thể Đấng Christ trưởng thành.
Các sinh hoạt học tập :
1. Ôn lại cẩn thận đơn vị 3 (bàihọc 7-10), rồi làm bài tường thuật đơn vị 3 và
gởi bài cho giáo viên phụ trách của bạn.
Những chữ quan hệ :
Fanaticism: Sự cuồng tín, nhiệt thành cực đoan
Formalism: Giữ theo hình thức và lễ nghi bề ngoài cách khắt khe, nhất là
trong sự thờ phượng tôn giáo chủ nghĩa hình thức.
Khai triển bài học :
LỜI CẦU NGUYỆN CHO CHỨC VỤ ĐƯỢC QUÂN BÌNH.
Mục Tiêu 1: Thảo luận ý nghĩa của sự quân bình trong chức vụ giảng và dạy
.
Nếu bạn muốn chức vụ giảng đạo và dạy đạo có hiệu quả, bạn phải biết quân
bình. Mất quân bình là mối nguy hiểm thường xuyên. Bạn có thể mất quân
bình trong sứ điệp hoặc phương pháp của bạn hoặc mất cả hai.
Ta hãy suy nghĩ đến hoàn cảnh gia đình sau đây. Một bà mẹ có đứa con trai
ba tuổi. Cậu trai nhỏ ăn rất ngon miệng, nhưng cậu chỉ thích thức ăn lỏng,
mềm. Người con trai lớn thích mọi thứ thức ăn - ăn càng nhiều càng tốt, và
cậu cũng thích thịt, một số thịt rất khó ăn. Vì bà yêu thương cả hai đứa con,
nên bà cố gắng sắm sửa những thức ăn ấy trong thực đơn hằng ngày, khi nào
có thể được, để nuôi dưỡng cả hai đứa con, và cả hai đứa con này đều cần sự
tăng trưởng và phát triển.
Là người hầu việc Chúa, theo một phương diện sẽ gặp hoàn cảnh như vậy.
Co một số tín hữu trưởng thành, thì cũng có những tín hữu khác tái sanh và
bắt đầu đời sống thuộc linh của họ, bạn phải tìm cách cung ứng ngon miệng
cho những trẻ em cho Đấng Christ (IPhi 1Pr 2:2) và đồng thời cũng chia sẻ
những chân lý sâu nhiệm và những nguyên tắc thuộc linh để bồi dưỡng cho
những tín đồ trưởng thành hơn (HeDt 5:11-14). Đều là việc khó, nhưng khi
bạn tìm kiếm để có được những tài liệu thích đáng, thì Ngài sẽ ban cho bạn
điều cần thiết để đáp ứng nhu cầu của tất cả con dân Ngài.
1. Giả sử bạn đã đến thăm một Hội Thánh có độ ba trăm người nhóm lại vào
buổi sáng Chúa nhật. Vị Mục sư giảng một bài giảng Tin Lành xuất sắc và
nhiều linh hồn được cứu. Lần nữa vào buổi tối thứ tư trong “Lớp học Kinh
Thánh”, bạn lại nghe một lời truyền giảng khác có lời kêu gọi. Bạn được biết
rằng đây là tiêu chuẩn sinh họat cho một thuộc viên Hội Thánh đó về số
người quyết định tin Chúa, người đó trả lời “Vâng”, chúng tôi có nhiều linh
hồn được cứu, nhưng người ta dường như không muốn ở đây và coi đây như
Hội Thánh nhà. Họ đi qua những nhà thờ khác và sinh hoạt ổn định tại đó?
hãy viết câu trả lời của bạn trong sổ tay của bạn.
Khi tín đồ không được nuôi dưỡng phần thuộc linh đầy đủ, họ bị đói khát về
đời sống thuộc linh. Họ có thể di chuyển sang một nhóm khác, hoặc dần dần
bỏ nhóm, trở thành những người lưu vong thuộc linh. Vậy vị mục sư này
phải thay đổi cả sứ điệp lẫn phương pháp bằng cách giảng và dạy đáp ứng
được nhu cầu cho tín hữu cả mới lẫn cũ thì chắc chắn ông sẽ thành công
hơn.
Vậy, khi hầu việc Chúa bạn cố gắng giữ quân bình giữa sự giảng đạo và dạy
đạo. Phaolô đã căn dặn Timôthê phải thức hiện cả hai công tác “hãy chăm
chỉ đọc sách, khuyên bảo (giảng) và dạy dỗ cho đến chừng ta đến” (ITi1Tm
4:13). Một phương pháp truyền thông có thể giữ sự quân bình giữa sự giảng
đạo và dạy đạo là Giảng giải Kinh . Bài giảng giải Kinh được căn cứ trên
một khúc Kinh Thánh mở rộng vốn được giải nghĩa trong mối liên hệ với
một chủ đề hay ý tưởng trung tâm. Phần chính tài liệu bài giảng loại này
được lấy trực tiếp từ Kinh Thánh. Mục đích là bày tỏ ý nghĩa của khúc Kinh
Thánh và chứng tỏ làm thế nào chân lý Kinh Thánh có liên hệ đến cuộc sống
của những người nghe. Nếu dùng phương pháp này 1 cách có hệ thống bạn
sẽ thâu gặt được nhiều ích lợi lại có thể dùng để truyền giảng nhằm hướng
dẫn và giáo dục sự tăng trưởng của Cơ đốc nhân. Nhiều người thành công
nhờ phương pháp giải Kinh này.
Nội dung của sứ điệp dù là giảng hay dạy đều gây ảnh hưởng trên thính giả
của bạn. Chẳng hạn, ở cấp một, bạn sẽ thấy các em có khả năng chú ý rất
thấp. Để duy trì sự chú ý của các em, cô giáo giảng phải dùng ngôn ngữ
sống động, với nhiều phương tiện nghe nhìn, và không kéo dài quá lâu một
đề tài làm cho các em chán nản. Trẻ em là những học giả “tí hon”ngược lại ở
trên đại học, các sinh viên chăm chú nghe lời thuyết trình của giáo sư hàng
giờ.
Hai loại đáp ứng này là đối tượng trong những buổi nhóm của bạn. Những
trẻ em trong Đấng Christ thường tỏ ra khó chịu, và không quan tâm khi bạn
trình bày những giáo lý khó hiểu và sâu rộng có lẽ tài liệu này quá nặng nề
đối với giai đoạn mới phát triển của họ, có thể phương cách trình bày của
bạn cần được bổ sung. Bạn nên áp dụng phương pháp thính thị để giúp họ
tiếp thu tốt hơn. Những đề tài giảng không đáp ứng được nhu cầu của những
tín đồ trưởng thành của bạn vì họ đang khao khát thức ăn cứng, nên bạn phải
giải đáp nhu cầu của họ và cố gắng giữ cho toàn bộ chức vụ của bạn được
quân bình. Khi bạn ý thức được các nhu cầu khác nhau của tất cả các tín đồ
và bạn nhạy cảm đối với sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, thì bạn sẽ phục
vụ được tất cả nhu cầu của tất cả mọi người.
KHI BẠN HẦU VIỆC CHÚA HÃY TÌM CÁCH GIỮ GÌN
SỰ QUÂN BÌNH GIỮA VIỆC GIẢNG ĐẠO VÀ DẠY ĐẠO
Trong công tác phục vụ Hội Thánh. Bạn hãy khai thác các nguồn tài nguyên
phong phú trong Lời Chúa. Từ kho tàn này bạn có thể lấy ra những món đồ
cổ xưa qúi giá cũng như những món đồ tân thời đẹp đẽ để cung cấp mọi
phước hạnh dồi dào cho bày chiên của bạn. Khi đời sống thuộc linh của họ
tăng trưởng bạn rất hài lòng vì họ có thể thưởng thức mọi hương vị tốt lành
về Đức Chúa Trời.
2. Khoanh mẫu tự đầu của mỗi câu ĐÚNG
Chúng ta có thể suy luận sự kiện vừa nói và bài học trước rằng tất cả những
học viên, nhất là những người mới bắt đầu học đạo, sẽ học tốt hơn khi chúng
ta trình bày dễ hiểu và những thí dụ đồng thời có những trợ huấn cụ nghe,
nhìn để tăng cường khả năng học tập.
Sự sống thuộc linh của một người cũng giống như sự sống của một sinh vật
phải cung cấp thức ăn tùy theo nhu cầu tăng trưởng của nó. Điều đó có nghĩa
là những trẻ em thuộc linh cần sữa, trong khi những người lớn thuộc linh cần
thức ăn đặc.
Bạn nuôi tín đồ như thế nào và bằng gì cũng không phải là vấn đề cho bạn
làm một điều gì đó cho họ. Vì Lời Đức Chúa Trời trong bất cứ trường hợp
nào cũng không trở về cách luống nhưng mà chắc sẽ thành đạt được một
điều gì đó.
Giảng và dạy là hai phương tiện truyền thông chân lý. Một số người cho
rằng giảng đạo kêu gọi đến tình cảm còn dạy đạo kêu gọi đến trí năng. Tuy
nhiên, sự phân biệt này hoàn toàn chủ quan, vì dù ít hay nhiều cả hai đều có
ảnh hưởng đến nhau. Cả giảng và dạy đều quan trọng.
Chân lý phải được hiểu biết thấu triệt và cảm nhận sâu sắc. Phaolô nhắc đến
cả hai kinh nghiệm này ở thư Rôma: “Tạ ơn Thượng Đế, anh em trước kia
vốn làm nô lệ cho tội lỗi, nhưng nay đã thành tâm vâng phục của các lời giáo
huấn của Chúa” (RoRm 6:17 - Bản diễn ý). Chân lý ảnh hưởng mọi khía
cạnh của một con người. Lúc đầu nó đến với trí năng, rồi sau đó kích thích
tình cảm và cuối cùng cảm động đến ý chí. Chân lý ảnh hưởng toàn bộ con
người chứ không chỉ một phần nào đó thì sẽ tạo ra được kết quả lâu dài.
3. Chân lý tạo ra sự thay đổi thuộc linh nhứt định của một người thì:
Phải coi trọng vấn đề trí năng, chỉ một chút cảm xúc về ảnh hưởng khi ý chí
được thay đổi.
Thì chủ yếu là vấn đề cảm xúc, vì lý trí (hay trí năng) nằm ở ngoài lãnh vực
thuộc linh.
Thì cảm động qua trí năng, ảnh hưởng đến những tình cảm và cảm động ý
chí để thay đổi.
Sự quân bình trong công tác giảng đạo và dạy đạo sẽ đem lại sự quân bình
trong sự truyền giảng huấn luyện, nhu cầu truyền giảng và huấn luyện tín đồ
đều cần thiết không nên từ bỏ một điều nào phải giữ quân bình. Có người cứ
cho rằng mình chỉ giữ sự quân bình. Có người cứ cho rằng mình chỉ giảng
đạo vì vậy không dạy đạo, có người lại quả quyết rằng chức vụ của học là
huấn luyện cho tín đồ nên họ không thể chinh phục người hư mất. Chúng ta
phải làm cả hai loại công tác này mạng lệnh của Chúa là “hãy giảng Tin
Lành cho mọi người” (Mac Mc 16:15) nhưng Ngài cũng truyền bảo hãy
khiến muôn dân trở nên môn đồ của Ngài” (Mat Mt 28:19-20). Chúng ta hãy
làm những gì Chúa truyền bảo chứ không phải làm những gì tiện lợi cho
chúng ta.
Sự quân bình trong giảng và dạy sẽ tạo ra sự quân bình trong thờ phượng.
Chúa Jêsus nói với người đàn bà Samari về sự thờ phượng Cha ưa thích:
“Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà
thờ phượng” (GiGa 4:24). Lời Chúa đã được rao giảng và dạy dỗ mà không
được Đức Thánh Linh xức dầu sẽ dẫn đến hình thức chủ nghĩa. Và khi nào
người ta nhấn mạnh đến kinh nghiệm chủ quan về Đức Thánh Linh mà
không có Lời Chúa thì sẽ dẫn đến tình trạng cuồng tín cực đoan. Sự thờ
phượng thật là sự quân bình trọn vẹn giữa Lời Chúa và Đức Thánh Linh.
4. Khoanh tròn mẫu tự của câu ĐÚNG.
Đại mạng lệnh chủ yếu là lời kêu gọi truyền giáo.
Qua các mạng lệnh Chúa để lại chúng ta có thể kết luận rằng chức vụ phục
vụ con người phải toàn diện nghĩa là đề tài bạn phải dạy bao gồm sự tái
sanh, nếp sống mới, thái độ mới và sự tăng trưởng. Nói tóm lại, chức vụ này
phải đáp ứng mọi nhu cầu.
Sự thờ phượng Đức Chúa Trời một cách đúng đắn phải đáp ứng quân bình
giữa Lời Chúa và Đức Thánh Linh.
Cong Cv 2:42-47 cho chúng ta thấy rằng yếu tố truyền giảng trong cộng
đồng Cơ đốc là rõ ràng vì nhiều người đã chịu ảnh hưởng qua sự làm chứng
của những người tin Chúa Jêsus. Thứ hai, những người này đã chuyên cần
học tập sự dạy dỗ của các sư đồ để trở nên môn đồ. Yếu tố thứ ba cũng rất
quan trọng đó là những mối quan hệ giữa những người tín đồ với nhau. Họ
ăn chung với nhau, cầu nguyện chung với nhau, ngợi khen Đức Chúa Trời
và chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Và điều này tạo ra tinh thần hiệp nhất
đẹp đẽ. Nếu ba yếu tố này diễn ra nhịp nhàng trong nhóm của bạn, thì kết
quả sẽ tốt đẹp, nếu không thì nhóm của ban sẽ mất mát rất nhiều.
Sự cực đoan của một số tín đồ là khuynh hướng chú tâm đến những yếu tố
này. Ta hãy quan sát kết quả của nhóm người chỉ nhấn mạnh đến sự dạy
Kinh Thánh và từ chối truyền giảng bỏ qua sự thành công thì chúng ta sẽ
thấy họ lạnh nhạt và thuần lý. Một nhóm khác nhấn mạnh đến sự thông công
và bỏ qua truyền giảng cùng sự dạy Kinh Thánh thì trở nên nông cạn và hay
cảm xúc. Nếu chỉ nhấn mạnh đến truyền giảng nhưng bỏ qua sự thông công
cùng sự dạy Kinh Thánh thì sẽ tạo ra những tín đồ cô đơn và nghèo đói
thuộc linh.
Còn trường hợp một nhóm chỉ nhấn mạnh đến việc dạy Kinh Thánh và sự
thông công nhưng lại bỏ qua truyền giảng thì nhóm đó sẽ không còn sống
động. Nhóm này hay mắc bệnh tự mãn, nhưng thiếu sự sống. Còn nhóm nào
chỉ nhấn mạnh đến sự thành công và truyền giảng nhưng không quan tâm
đến sự dạy Kinh Thánh thì thường gặp nguy cơ tà giáo và bị chia cắt thành
những nhóm nhỏ. Còn nhóm nào chỉ nhấn mạnh đến việc dạy Kinh Thánh
và truyền giáo nhưng lại không phát triển mối thông công giữa những Cơ
đốc nhân khác thì dù biết Lời Chúa có khả năng chia sẻ Lời Chúa, nhưng
không bao giờ phát huy được mối quan hệ có ý nghĩa, với những tín hữu
khác ở đâu có truyền giáo dạy đạo cho môn đồ thì ở đó có những yếu tố cần
thiết để tạo ra sự trưởng thành thuộc linh. Thực hành những yếu tố này cách
quân bình đầy đủ chúng ta có thể có những cộng đồng tín hữu mạnh khỏe,
vui tươi phát triển.
Bạn cần thường xuyên có lòng lưu ý đến việc duy trì một chức vụ quân bình.
Hãy tránh cực đoan bất cứ phương pháp hoặc sứ điệp nào. Bạn hãy nhớ rằng
khi ta quá nhấn mạnh điều này thì những điều kia ít được chú ý hơn. Bạn có
thể giữ được sự quân bình nếu bạn luôn luôn cảnh giác và tỉnh thức.
TRUYỀN GIÁO - DẠY ĐẠO - THÔNG CÔNG
Nếu ba yếu tố này được quân bình
bạn sẽ thấy được những kết quả tích cực
5. Khảo sát kỹ 2:42-47. Ta có thể rút ra kết luận:
Sự thực hành đầy đủ những yếu tố cần thiết trong chương trình của Hội
Thánh được trưởng thành đời sống thuộc linh, đó là sự làm chứng cho người
chưa tin Chúa giữ được sự thông công với các thánh đồ. Những yếu tố cần
thiết này đã tạo ra sự tăng trưởng và sống động.
Chương trình phát triển xuất phát do nhu cầu của cuộc sống quân bình
thường nhắm đến việc giải quyết càng nhiều vấn đề thuộc linh càng tốt.
Những gì đã thực hiện là kết quả của hoàn cảnh địa phương và chương trình
không phải là khuôn mẫu bình thường của các Cơ đốc nhân trưởng thành.
Luca ghi nhận rằng “Chúa Jêsus khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn,
càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta” (LuLc 2:52). Thực sự đây
là một thí dụ vể sự tăng trưởng quân bình. Vì theo ngôn ngữ thực tế thì điều
này có nghĩa là Ngài lớn lên cả phần trí dục, thể dục, đức dục và quan hệ xã
hội. Qua một chức vụ giảng đạo và dạy đạo quân bình cũng như sự phát
triển mối quan hệ sâu sắc xảy ra đồng thời, bầy chiên của chúng ta sẽ phát
triển thể chất thuộc linh, sự làm chứng mạnh mẽ, sự thông công thật sự có ý
nghĩa và chúng ta sẽ cảm thấy sự thành đạt trong chức vụ của chúng ta.
Kinh Thánh là nguồn trợ giúp to lớn nhất, bạn muốn phát triển một chức vụ
quân bình hãy đọc Kinh Thánh có hệ thống chuyên cần. Hãy lấy Kinh Thánh
làm nền tảng cho sứ điệp và phương pháp của bạn.
Hãy lập danh sách để nhớ những đề tài và những khúc Kinh Thánh bạn đã
giảng và đã dạy. Hãy kiểm tra lại hồ sơ của bạn ít nhất mỗi năm một lần.
Hãy chắc chắn rằng bạn đang nghiên cứu và giảng dạy toàn bộ lẽ thật của
Kinh Thánh. Hãy coi chừng về những đề tài mà bạn ưa thích. Bạn muốn
thay đổi món ăn, thì những người bạn đang phục vụ cũng cần cung cấp các
sứ điệp khác nhau trong sự giảng và dạy đạo của bạn.
Hãy cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giúp đỡ bạn khi bạn nỗ lực công bố toàn
bộ sứ điệp của Lời Chúa. Ngài sẽ giúp bạn duy trì một chức vụ giảng đạo và
dạy đạo quân bình, cân đối.
6. Thảo luận ý nghĩa của sự quân bình trong chức vụ giảng đạo và dạy đạo
hãy trả lời và ghi vào sổ tay.
“tôi nài xin anh em …”
Mục tiêu 2: Hãy chọn những câu chứng tỏ những đặc tính của chức vụ thuộc
linh thành công .
Lời định nghĩa của Philíp Brooks về chức vụ giảng đạo đã được chúng ta
trưng dẫn ở phần đầu sách giáo khoa này. Ông là một diễn giả học rộng và
có tài, ông đưa hàng ngàn người đến cùng Đấng Christ, người ta không biết
lý do nào ông đưa đến sự thành công. Một người bạn của ông đã khám phá
ra bí quyết đó trên một chuyến tàu cùng đi với tác giả xuyên đại dương.
Bỗng nhiên người bạn này thấy vắng nhà đại diễn giả mấy tiếng đồng hồ.
Sau khi đi tìm ông ở mấy nơi, người bạn trở lại phòng của ông và mở cửa ra.
Tại đó, ông bạn tìm thấy ông Philíp Brooks đang qui gối. Giơ hai tay hướng
lên trời và lập đi lập lại lời cầu nguyện kính lạy Đức Chúa Trời, “xin ban
cho con quyền năng!”. Đây chính là biết quyết để nhận lãnh nguồn năng lực
của nhà đại diễn giả từ Đức Chúa Trời và cung ứng cho loài người của ông.
7. Hãy đọc các câu Kinh Thánh sau đây và trả lời những câu học liên hệ.
Mac Mc 1:35-38 tỏ rằng trước khi Chúa Jêsus bắt đầu một ngày phục vụ các
nhu cầu của dân chúng,
Ngài…………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………
………………………………………………………….
Khi các tín đồ tìm thấy Ngài, Ngài tỏ ra rằng Ngài phải tới làng xóm khác để
.....
bởi vì . . . . .
LuLc 5:16 và 9:18 tỏ ra rằng Chúa Jêsus lánh khỏi đám đông và đi vào nơi
vắng vẻ để Ngài có thể
9:28-36 tỏ ra Chúa Jêsus đã hóa hình tron khi Ngài ………
6:12-16 tỏ ra rằng trước khi chọn mười hai sứ đồ Chúa Jêsus
………………………..
Mac Mc 9:29 chứng minh rằng một số cuộc chiến tranh thuộc linh đòi
hỏi……………………………………………………………………………
…………………………………………………….
trước khi có thể đạt được chiến thắng.
Cong Cv 6:4 tỏ ra rằng các sứ đồ đã đặt vị trí cao cho việc ………….
Eph Ep 6:18 khuyến khích các tín đồ ………..
…………………………. . . . . .
Khi bạn hầu việc Chúa bạn cần biết không có tài năng hay sự huấn luyện
nào có thể thay thế cho quyền năng thuộc linh trong đời sống của bạn được.
Không có quyền năng thì sự giảng đạo chỉ là một bài giảngvà sự dạy đạo chỉ
là một bài học thuyết trình. Nó không ban sự sống của Đức Thánh Linh cho
người nghe mà chỉ đem lại sự chết (IICo 2Cr 3:6). Vì vậy, đừng thỏa lòng
với việc giảng những bài giảng và trình bày những bài thuyết trình. Hãy chờ
đợi Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện cho đến khi Lời Chúa giống như lửa
bọc kín trong xương bạn, hãy chờ đợi cho đến khi bạn có thể nói ra như một
phát ngôn viên của Đức Chúa Trời. Hãy noi gương Phaolô khi ông hầu việc
Chúa.
“Hỡi anh em, về phần tôi, khi tôi đến cùng anh em, chẳng dùng lời cao xa
hay lời khôn sáng mà rao giảng cho anh em biết chứng cớ của Đức Chúa
Trời. Vì tôi đã đoán định rằng ở giữa anh em, tôi chẳng biết sự gì khác ngoài
Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên cây thập tự. Chính tôi đã ở giữa anh
em, yếu đuối, sợ hãi, run rẩy lắm. Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải
bằng bài diển thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏa ra Thánh
Linh có quyền phép, hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn
ngoan loài người, bèn là trên quyền phép của Đức Chúa Trời” (ICo1Cr 2:1-
5).
Khi bạn công bố Lời của Đức Chúa Trời trong quyền phép của Đức Thánh
Linh là bạn đang noi theo mẫu mực chức vụ của Tân ước. Hãy chờ đợi trước
mặt Đức Chúa Trời cho đến khi quyền năng của Đức Thánh Linh giáng
xuống trên bạn như Ngài đã giáng xuống các tín đồ Hội Thánh đầu tiên
(Cong Cv 2:1-4). Sự xức dầu của người hầu việc Chúa chỉ đến từ Đức Chúa
Trời. Không có con đường tắt nào đi đến khả năng thuộc linh này cả. Và
người ta sẽ không bao giờ cảm động bởi những sứ điệp không được xức dầu.
Hãy nhớ rằng con người tìm kiếm những phương pháp tốt hơn, nhưng Đức
Chúa trời tìm kiếm những người đàn ông, đàn bà tốt hơn. Ngài muốn những
người công bố sứ điệp của Ngài hoàn toàn nương tựa nơi Ngài và những
người Ngài được khuyến khích hãy có tinh thần sốt sắng hầu việc Chúa
(RoRm 12:11)
8. Sự ban quyền phép cho loại chức vụ tạo ra những kết quả thuộc linh đáng
kể.
Được căn cứ trên kinh nghiệm thuộc linh cá nhân của một người và vì thế
không có khả năng, sức lực hay sự huấn luyện nào là cần thiết cho chức vụ.
Đến từ sự dâng hiến hoàn toàn tài năng, kỹ năng và kinh nghiệm học tập lên
cho Chúa dùng khi Ngài dẫn dắt.
Tuỳ thuộc trên tài liệu mà một người dâng cho Chúa, như vậy một người
càng dâng cho Chúa ngay từ đầu bao nhiêu thì Đức Chúa Trời càng hành
động với người ấy bấy nhiêu.
Có một Cơ đốc nhân kia có một lần đã viết cho ban quản trị truyền giáo Hoa
Kỳ rằng “Xin hãy gởi đến đất nước tôi những con người có lòng nóng cháy
để nói cho chúng tôi về tình yêu của Đức Chúa Trời”. Cùng với quyền năng
của Đức Thánh Linh, bạn cần có tấm lòng nóng cháy để giảng dạy Tin Lành,
chức vụ của Chúa Jêsus với hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út gợi
cho thấy lòng nhiệt thành của họ dường bao (LuLc 24:13-35). Chúa Jêsus đã
tháp tùng với họ, nhưng họ không nhận biết và Ngài đã lắng nghe câu
chuyện của họ về sự đóng đinh và về ngôi mộ trống, rồi giải thích cho họ đã
nói về Ngài trong suốt cả Kinh Thánh từ Môise cho đến các tiên tri, nhưng
cho đến khi Ngài chúc phước và bẻ bánh, họ mới nhận biết rằng Ngài, và
Ngài đã biến đi khỏi họ. Họ bèn nói với nhau (câu 32) “Khi nãy đi đường
người nói cùng chúng ta và cắt nghĩa Kinh Thánh, lòng chúng ta há chẳng
nóng sao? Lòng của bạn sẽ được bùng cháy khi được Ngài bày tỏ Lời Ngài
cho bạn. Hãy tìm kiếm điều này! Khi bạn cầu nguyện hãy chờ đợi Ngài phán
với bạn Lời Ngài sẽ nhen lên ngọn lửa tâm linh bạn. Và khi bạn đứng lên
hầu việc, không ai nghi ngờ nguồn tài năng của bạn. Bầy chiên của bạn sẽ
cảm nhận được rằng bạn đã từng ở với Chúa Jêsus, và họ sẽ đáp ứng sứ điệp
mà chủ của bạn sẽ ban cho họ qua bạn.
Có một câu chuyện kể về một Mục sư khi bắt đầu thi hành chức vụ giảng
Tin Lành, ông ít nhờ cậy Đức Chúa Trời nhưng tin nơi tài năng và học vấn
của mình. Ông ít dành thì giờ để quỳ gối cầu nguyện nên chức vụ của ông
càng ngày càng yếu đuối và hao hụt sự sống. Ý thức được tình trạng suy sụp
thuộc linh này, một số trưởng lão quan tâm đến nhà Chúa đã đặt một tờ giấy
nhỏ trên tòa giảng là nơi ông Mục sư chắc chắn phải thấy. Trong đó họ ghi
rõ “Thưa Mục sư, chúng tôi muốn thấy Chúa Jêsus” (xem GiGa 12:21). Khi
vị Mục sư đọc được mảnh giấy đó, ông bị cáo trách ăn năn và tan vỡ. Ông
đã đi vào phòng riêng quyết tâm cầu nguyện cho đến khi khôi phục lại
quyền phép của Đức Chúa Trời trong đời sống mình. Khi ông ra khỏi nơi kín
nhiệm của sự cầu nguyện. Ông đã nhận được sự khôn ngoan. Từ đó ông
không bao giờ giám bước lên tòa giảng mà lại dựa vào khả năng riêng của
mình. Và như mọi người mong đợi, ông đã khôi phục lại được ngọn lửa,
lòng nhiệt thành và khải tượng mà ông đã từng có trước đây. Những người
tín đồ biết ông bấy giờ lại đặt một mảnh giấy khác lên tòa giảng. Lần này
ông đọc thấy “Các môn đồ vào thấy Chúa thì đầy sự mừng rỡ” (20:20)
Trong sự hầu việc Chúa không có tài năng hay sự huấn luyện nào có thể
thay thế cho quyền năng thuộc linh trong đời sống bạn được .
Lời cầu nguyện của bạn sẽ giảng và dạy với cả nhiệt thành và đầy quyền
phép. Mong rằng bạn luôn luôn nhận biết công tác hầu việc Chúa là một ân
tứ đến từ Đức Chúa Trời và bạn sẽ không bao giờ đánh mất sự tươi mới,
năng lực mạnh mẽ và sự thách thức ban đầu khi bạn đáp lại tiếng kêu gọi
của Chúa Cứa Thế,”Có tôi đây xin hãy sai tôi!”
9. Khoanh tròn mẫu tự đầu câu ĐÚNG nói về các đặc tính của chức vụ thuộc
linh thành công.
Một người thực sự tìm cách hầu việc Chúa và dân sự của Ngài sẽ dần dần
không còn tiếp xúc với dân chúng.
Một người càng liên hệ với dân chúng thì người đó càng ngày đi vào sự cầu
nguyện và cầu thay cho họ.
Dấu hiệu xác nhận phẩm chất của người thuộc linh thực sự là yếu đuối và
nhút nhát.
Khi một người không nương tựa nơi tài năng thiên nhiên của mình để hầu
việc Chúa, khi người đó nhận biết mình chỉ là người phát ngôn của Đức
Chúa Trời và được Chúa xức dầu thì người đó sẽ hầu việc Chúa với sự dạn
dĩ, quyền phép và uy quyền và sẽ được dân chúng chú ý.
Vì mỗi người đều khác nhau nên người hầu việc Chúa không cần nhiệt tình
và năng động, sốt sắng và mạnh mẽ trong khi làm việc với Chúa. Vì làm thế
nào cho xong việc là được dù có khải tượng hay không cũng vậy.
Bài trắc nghiệm cá nhân
ĐÚNG-SAI. Hãy viết chữ Đ trước câu Đúng và chữ S trước câu Sai.
……..Nhu cầu quân bình trong chức vụ giảng và dạy của người hầu việc
Chúa mới được khám phá gần đây và không tiêu biểu cho mạng lệnh Kinh
Thánh hay sự thực hành trong Hội Thánh đầu tiênộF SYIRYS.
……..Giảng và dạy chỉ là hai phương thức của sự truyền thông chân lý, cho
nên điều này không quan trọng hơn điều kia.
……..Thông thường người ta cho rằng sự giảng đạo tác động đến những
cảm xúc, còn dạy đạo tác động đến lý trí.
……..Dù phương tiện truyền thông có tác động như thế nào, thì mục đích
vẫn là ảnh hưởng đến toàn bộ con người, trí năng, tình cảm và ý chí.
……..Một số người xem sự giảng đạo là phương tiện truyền giáo còn dạy
đạo là phương tiện đào tạo môn đồ của Chúa.
……..Đại mạng lệnh của Chúa liên hệ đến trực tiếp công tác truyền giáo,
còn công tác đào tạo môn đệ được tìm thấy ở chỗ khác trong Kinh Thánh.
……..Điều quan trọng là nhấn mạnh đến Đức Thánh Linh trong sự thờ
phượng hay nhấn mạnh đến Lời Đức Chúa Trời. Thánh linh trong sự thờ
phượng.
……..Một người phải đánh giá một trong những phương pháp và sứ điệp
của mình dựa trên những kết quả của chức vụ của mình hơn là bởi bất cứ
tiêu chuẩn tuyệt đối nào.
……..Người hầu việc Chúa phải thay đổi khẩu phần thuộc linh khác nhau để
cung ứng cho những người mà mình phục vụ.
……. Bí quyết của sự thành công trong chức vụ giảng và dạy là biết kết hợp
những phương pháp một cách khéo léo và áp dụng nhân cách đáng yêu và sự
thông minh trên mức bình thường.
……..Những giáo sư danh tiến và những diễn giả tài ba trong mọi thời đại
điều nhận biết nguồn quyền năng của họ đến từ sự cầu nguyện họ không thể
thích hợp với chức vụ thuộc linh.
……..Một trong những đặc tính của người giảng và dạy trong quyền năng
của Đức Thánh Linh là sự nhiệt thành được sự cảm thúc.
……...Đức Thánh Linh phải hướng dẫn người hầu việc Chúa trong sự lựa
chọn và chuẩn bị các bài học và bài giảng, xức dầu cho người đó khi hầu
việc Chúa và động chạm đến tấm lòng của những thính giả khi những phước
hạnh thuộc linh được thực hiện.
……..Theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, người nào giảng đạo thì không thể
dạy đạo, vì những tài năng của chức vụ này rất khác nhau. Cho nên, mỗi
công việc phải đòi hỏi một người khác nhau.
……..Giảng đạo và dạy là hai phương thức khác nhau của sự truyền thông,
nhưng sự khác nhau này không quá lớn đến nỗi một người không thể vừa
giảng để chinh phục người hư mất và dạy đạo để huấn luyện các môn đồ.
Hãy nhớ rõ là bạn phải làm xong bài tường trình đơn vị 3 và nộp tập trả lời
cho giáo viên hướng dẫn của bạn.
Trả lời những câu hỏi trong bài
1. Câu trả lời của bạn. Rõ ràng sứ điệp của Hội Thánh này hướng đến phục
vụ nhu cầu tuyền giáo chứ không nhằm giữ sự quân bình giữa sự truyền giáo
với sự tăng trưởng và sự trưởng thành của Hội Thánh
2. a. Đúng
b. Đúng
c. Sai (giống như người chăn chiên, chúng ta có trách nhiệm nuôi dưỡng con
chiên con và lẫn những chiên lớn. Và chúng ta phải làm tất cả điều chi có thể
làm để nuôi bầy chiên được mạnh khỏe về phần thuộc linh).
3. c. Thì cảm động qua trí năng, ảnh hưởng đến những tình cảm và cảm
động ý chí để thay đổi.
4. a. Sai
b. Đúng
c. Đúng
5. a) Có một sự toàn diện và đầy trọn trong Hội Thánh đầu tiên.
6. Câu trả lời của bạn. Sự quân bình trong chức vụ vô cùng quan trọng, vì
trách nhiệm của bạn phục vụ là truyền giáo và gây dựng Hội Thánh cũng
như đào tạo môn đồ và giúp cho sự trưởng thành của đời sống Cơ đốc nhân.
Những nhu cầu khác nhau này sẽ ảnh hưởng đến sứ điệp của bạn, phương
pháp của bạn và sự nhấn mạnh của bạn. Sự quân bình còn giúp bạn khỏi rơi
vào tình trạng suy đồi thuộc linh và tránh được tình trạng cuồng tín, cực
đoan nếu bạn biết dành một vị trí thích đáng cho Lời Chúa và Đức Thánh
Linh trong sự thờ phượng. Nói tóm lại sự quân bình giúp chúng ta đưa một
người đến với Đấng Christ, cung cấp lương thực thuộc linh cho họ và tạo ra
mối quan hệ và toàn diện dẫn người đó đến sự trưởng thành thuộc linh.
7. a. Đi vào nơi vắng vẻ vầu nguyện, giảng đạo, đó là lý do Ngài đã đến.
b. Đều đặn, thường xuyên, hoặc theo thói quen, cầu nguyện.
c. Đang cầu nguyện
d. Đã cầu nguyện suốt đêm
e. Cầu nguyện hay cầu nguyện và kiêng ăn.
g. Thường xuyên cầu nguyện trong Thánh Linh về những nhu cầu của chức
vụ của thân thể Đấng Christ.
8. b. Đến từ sự dâng hiến hoàn toàn khả năng…
9. a. Sai
b. Đúng
c. Sai (xem bài khuyên của Phaolô cho Timôhê trong IITi 2Tm 1:7)
d. Đúng
e. Sai (Người nào đọc câu chuyện ký thuật về chức vụ của Chúa Jêsus không
thể không cảm động trước sự phục vụ sốt sắng của Ngài. Xem GiGa 9:4 và
Mat Mt 9:36-38. Chúng ta đã phục vụ một cách sốt sắng như Ngài vì Tin
Lành phải được công bố cho mọi dân trước khi Chúa Jêsus đến (24:14).

You might also like