You are on page 1of 164

Theo ý nghĩa nào, Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời?

Trong Thi Tv 19:7-9, có sáu tên được dùng để gọi Kinh Thánh, kết hợp với
sáu đặc tính và sáu hiệu quả Kinh Thánh được định nghĩa là 1. Luật pháp, 2.
Chứng cớ, 3. Giềng mối, 4. Điều răn, 5. Sự kính sợ, 6. Mạng lịnh, của Đức
Giê-hô-va.
Trong 119:1-176 cũng có mười tên như vậy để gọi lời phán của Đức Chúa
Trời 1. Đường lối, 2. Chứng cớ, 3. Giới mạng (precept), 4. Điều răn, 5. Đoán
ngữ, 6. Luật lệ, 7. Mạng lịnh, 8. Sự công bình, 9. Giềng mối, 10. Lời, của
Đức Chúa Trời.
Từ ngữ luật lệ (hay luật pháp) không hề có ý ám chỉ riêng các điều răn được
ban bố trên Núi Si-nai, nhưng là một từ ngữ tổng quát, chỉ chung toàn bộ
Kinh Thánh mà Đa-vít có trong tay, gồm Ngũ Kinh Môi-se và toàn bộ sưu
tập được gọi là Kinh Toral hay Sách Luật pháp của người Do Thái (Kinh
điển Cựu Ước).
Cần chú ý là ở đây có sáu mệnh đề được đưa ra để định nghĩa Kinh điển.
Mỗi mệnh đề đều có giá trị như 19:1-14. Quả thật, luật pháp của Đức Giê-
hô-va là trọn vẹn, đầy đủ, thuyết phục linh hồn; chứng cớ của Đức Giê-hô-
va là chắc chắn làm cho người ngu dại nên khôn ngoan; giềng mối của Đức
Gê-hô-va là ngay thẳng, làm cho lòng vui mừng; điều răn của Đức Giê-hô-
va là trong sạch, làm cho mắt sáng sủa; sự kính sợ Đức Giê-hô-va là thánh
khiết hằng còn đến đời đời; và mạng lịnh của Đức Giê-hô-va là chân thật
thảy đều công bình cả.
Mọi điều kể trên đều đúng, như hai với hai là bốn vậy.

Sự linh cảm của Kinh Thánh.


Kinh Thánh được thần cảm như thế nào?
Đây là ý kiến của Tiến sĩ James H.Brookes khi viết về “Phạm vi của Thần
cảm”.
“Người ta vẫn chống lại những câu khẳng định trong Kinh Thánh liên hệ đến
chủ đề này, ấy là việc Kinh Thánh lại tự làm chứng cho Kinh Thánh. Tất
nhiên sự việc quả có như vậy, và chứng cớ đó không thể tránh được. Luận
cứ chúng ta đưa ra ở đây không nhằm vào những người chưa tin Chúa, tuy
nhiên rất dễ thấy mục đích và nền tảng của những lời tự chứng đó. Nhưng
luận cứ nhằm vào những người tin nhận toàn bộ Kinh Thánh, do đó, cũng
thừa nhận các chứng cớ là đáng tin. Giả sử có một nhân vật nổi tiếng là luôn
nói thật được mời đến để làm chứng về một việc gì đó, thì lời chứng của ông
ta phải được tin nhận cả khi nó đụng chạm đến quyền lợi riêng hay có thể
được dùng để chống lại chính ông ta nữa. Vậy, Kinh Thánh đã nói gì về
phạm vi thần cảm của chính Kinh Thánh?
“Cả Kinh Thánh đều bởi Đức Chúa Trời soi dẫn (IITi 2Tm 3:16) hoặc có thể
dịch là 'Cả Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời hà hơi vào cũng có ích cho
sự dạy dỗ...' đã khiến cho luận cứ trên đây càng vững vàng thêm, vì nó ám
chỉ toàn bộ Kinh điển Cựu Ước như chúng ta hiện có ngày nay. Lời chứng
không hề bảo rằng các trước giả đều được thần cảm, nhưng bèn là các kinh
văn; mà kinh văn vốn được cấu tạo bằng lời, bằng chữ họp thành lời văn. Do
đó, chính lời lẽ trong Kinh Thánh mới được thần cảm, được Đức Chúa Trời
hà hơi vào, kể cả mọi nghĩa bóng, mọi cách hiểu ngầm (inflection) của các
từ ngữ, và từng phân tử nhỏ bé nhất trong đó. Nầy là điều chắc chắn nếu chỉ
có phần tư tưởng của các trước giả là được linh cảm, rồi họ bị phó mạc cho
sự tình cờ, dung rủi để chọn chữ chọn từ, có thể rất yếu kém, rất khiếm
khuyết và vì phần đông các vị vốn thiếu học lại phải tự chọn lấy cách diễn tả
tư tưởng của mình, thì chúng ta sẽ không nhận được sự linh cảm nào cả.
Chúng ta chỉ có thể nắm bắt được tư tưởng của người khác qua lời lẽ họ nói
ra, và nếu lời lẽ trong Kinh điển không được chuẩn bị thật chính xác, thật
thích đáng như một chiếc xe thích hợp để chuyên chở và truyền đạt tư tưởng
của các trước giả, thì đối với những người có hiểu biết trung bình có quan
tâm đến vấn đề, những tư tưởng gọi là 'được thần cảm' đó sẽ chẳng còn giá
trị gì nữa.
Nhưng may thay, chúng ta đã không bị phó mạc cho những lý luận vô bổ đó
lung lạc trong vấn đề tối quan trọng này. Chính Kinh Thánh tuyên bố rằng
tất cả các nhà tiên tri và trước giả phần Cựu Ước đều là những người thánh
của Đức Chúa Trời “được Đức Thánh Linh cảm động mà nói bởi Đức Chúa
Trời” (IIPhi 2Pr 1:21) hay như Alford dịch là “những người được Đức
Thánh Linh cảm động đã nói ra lời của chính Đức Chúa Trời”. Họ không chỉ
suy nghĩ, nhưng đã nói ra theo sự cảm thúc của Đức Thánh Linh; dĩ nhiên
thường là các tư tưởng mà họ không hiểu rõ ý nghĩa về tầm hạn. Họ cũng
thường dùng những từ ngữ trái với ý muốn và chủ đích tự nhiên, như chúng
ta thấy trong Dan Ds 22:35-38; ISa1Sm 19:20-24; IVua 1V 13:11-22; GiGa
11:49-52.

Đức Chúa Trời tự mạc khải.


Tại sao chúng ta có thể tin được rằng Kinh Thánh vốn từ Đức Chúa Trời
đến?
Vì sách ấy tự chứng minh được là trong đó, chính Đức Chúa Trời đã tự mạc
khải, tự bày tỏ mình ra. Xin trích lời của Frederic Bettex:
“Có Đức Chúa Trời không? Có. Nếu không có Ngài, thế giới vật chất và tâm
linh này sẽ chỉ là một cảnh hỗn mang vô lý, vô nghĩa, chẳng đi đến một mục
đích, một cứu cánh nào cả. Đức Chúa Trời đó phải là một thân vị, một Đức
Chúa Trời hằng sống. Một Đức Chúa Trời phi thân vị không phải là Đức
Chúa Trời; một Đức Chúa Trời im lìm bất động, một Đức Chúa Trời chết, là
chuyện điên dại.
“Nếu Đức Chúa Trời của sự sống đó đã tạo ra chúng ta thì tạo sao Ngài lại
làm như một kẻ chết đối với chúng ta? Ấy vì chúng ta đã lìa xa Ngài. Ngài
vốn rất quan tâm đến sự an vui tạm thời và đời đời của chúng ta. Nhưng làm
thế nào chúng ta biết được? Chỉ do Ngài tự mạc khải, tự bày tỏ mình ra cho
chúng ta biết mà thôi.
“Ngài có tự mạc khải cho chúng ta như vậy hay không? Có. Qua các thời
đại, Ngài vẫn tự tỏ mình ra như vậy cho nhiều cá nhân bằng cách hiện ra
trước mắt họ, cho họ thấy khải tượng, chiêm bao, và cho toàn thể loài người
nói chung qua Lời thành văn của Ngài, là Kinh Thánh.
“Vậy Kinh Thánh là gì? Đó là sự mạc khải của Đức Chúa Trời là điều “mắt
chưa từng thấy, tai chưa từng nghe... mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta bởi
Thánh Linh Ngài”. “Sự mặc thị của Đức Chúa Giê-xu Christ mà Đức Chúa
Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ ra cùng tôi tớ Ngài những điều kíp phải
xảy đến” (KhKh 1:1) “Sự mầu nhiệm của Đấng Christ đã được mạc khải cho
các sứ đồ thánh và các nhà tiên tri, bởi Thánh Linh Ngài”.
“Sự mạc khải ấy đã xảy ra như thế nào? Theo cách là Đức Thánh Linh trong
Ba Ngôi Đức Chúa Trời luôn luôn thúc giục, đầy dẫy, gây hứng khởi trên
một người, để người ấy nói hoặc viết ra những gì Ba Ngôi Đức Chúa Trời
muốn chia sẻ cho nhân loại qua người ấy”. Bởi Đức Thánh Linh cảm động
mà các đấng thánh tiên tri nói ra bởi Đức Chúa Trời” (IIPhi 2Pr 1:21). “Lời
Đức Thánh Linh đã nhờ miệng vua Đa-vít mà nói tiên tri... phải được ứng
nghiệm” (Cong Cv 1:16) “Ta đã để lời nói ta trong miệng ngươi” (EsIs
51:16; 59:21; Gie Gr 1:9...).
“Cơ Đốc nhân có phải tin toàn bộ Kinh Thánh không? Vâng. Kinh Thánh là
một khối hợp nhất, và người ta không dám chọn lấy điều gì để tin hay không
tin. Ai không tin Cựu Ước, thì cũng không thể tin Tân Ước nữa. Phao-lô
từng làm chứng trước mặt Phê-lít rằng “Tôi tin mọi điều chép trong sách luật
và các sách tiên tri” (Cong Cv 24:14). Đấng Christ sở dĩ đến thế gian là để
“mọi sự đã chép về ta (Ngài) trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng
các thi thiên phải được ứng nghiệm” (LuLc 24:44).
“Có thể nào một người tôn vinh Đấng Christ, yêu mến Ngài, phấn đấu noi
theo Ngài tự xưng là Cơ Đốc nhân, mà không thừa nhận thần tánh của Ngài,
hay không? Không; như thế chỉ là tự dối mình. Người như thế “thì cho Ngài
là nói dối, vì chẳng tin đến chứng Đức Chúa Trời đã làm về Con Ngaì”
(IGi1Ga 5:10). Và cuối cùng sẽ rất khủng khiếp: “Nếu các ngươi chẳng tin
ta là Đấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi” (GiGa 8:24). Đấng
Christ là Chúa tể muôn loài vạn vật “Ngài lấy lời quyền năng Ngài nâng đỡ
muôn vật” (HeDt 1:3). “Dân Y-sơ-ra-ên là dân sanh hạ bởi các tổ phụ và
theo phần xác, bởi dân ấy sanh ra Đấng Christ là Đấng trên hết mọi sự, tức
là Đức Chúa Trời đáng ngợi khen đời đời (RoRm 9:5). Chúng ta phải tin
như vậy, hoặc chẳng tin gì cả.
Vậy thì lý trí có phần gì trong đó? Lý trí chẳng có vai trò gì hết.
“Thế thì Đức Chúa Trời cho người ta có lý trí để làm gì?
Để vun trồng và xây dựng, để mua và bán, để cưới vợ và gả chồng.
“Đức Chúa Trời há chẳng ban cho chúng ta lý trí, cũng là để phê phán Lời
Ngài sao? Không. Muốn phê bình Lời Đức Chúa Trời bằng lý trí là vô lý, vì
Kinh Thánh được lập nên trên các phép lạ, điều mà lý trí không tài nào lãnh
hội nổi. Nếu lý trí của tôi được dùng làm tiêu chuẩn để cho tôi biết phải tin
bao nhiêu điều trong Kinh Thánh, thì người khác cũng vậy. Căn cứ vào cái
quyền tương tự; mỗi người đều có lý trí riêng. Và nếu chúng ta cứ hết nghe
người này đến nghe người khác, thì không còn một lời, một chữ nào trong
Kinh Thánh là có giá trị cả.
“Nhưng phải chăng sách vở về văn chương, triết học và khoa học cũng có
giá trị giúp chúng ta phê phán và nghiên cứu Kinh Thánh? Không. “Hỡi
Cha, là Chúa của trời đất, tôi khen ngợi Cha, vì Cha đã giấu những điều này
với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ, mà tỏ ra cho những con trẻ hay” (Mat Mt
11:25).
“Cơ Đốc nhân phải trả lời thế nào với kẻ nhạo báng muốn chứng minh cho
người ấy thấy rằng Kinh Thánh chứa đựng đủ thứ sai lầm, mâu thuẫn, những
điều không thể nào chấp nhận được? Chẳng cần trả lời gì cả. Kẻ như thế vốn
không biết gì hết về cái lý do ở trong bạn, khiến bạn có đức tin (IPhi 1Pr
3:15) mà chỉ biết nói ra sự không ngoan mà người ấy tự nghĩ là mình có, liên
hệ đến những vấn đề thuộc linh. Chúng ta không nên quăng các vật thánh
cho chó, cũng không nên chấp nhất quan niệm của một người mù về ánh
sáng và màu sắc. Vì đức tin vào Kinh Thánh của mình, Cơ Đốc nhân phải
chịu để cho người thế gian cho rằng mình là ngu dại.
“Chúng ta phải dứt khoát từ bỏ mọi hi vọng nhằm sáng chế ra một thứ đức
tin vào Kinh Thánh khiến người đời chấp nhận và khen ngợi. “Sự khôn
ngoan của thế gian là điên dại trước mặt Đức Chúa Trời thế nào, thì sự khôn
ngoan của Đức Chúa Trời vốn là và mãi mãi vẫn còn là sự điên dại đối với
người thế gian thể ấy. Nếu đức tin của bạn vào Kinh Thánh không khiến cho
bạn bị người thế gian, những kẻ gọi là học thức, bác học của đời chế nhạo,
chê bai và thù ghét, thì bạn khá căn cứ vào đó để biết rằng mình chưa có đức
tin thật. Hay là bạn tự cho mình hơn hẳn Thầy mình? Ngài “giảng ra lời của
sự sống đời đời” nhưng “chúng nhạo báng Ngài”.
“Ai là người có được đức tin như vậy vào Kinh Thánh? Ấy là những người
bởi đức tin đã thắng hơn thế gian; ấy là các nhà tiên tri; các sứ đồ và các
thánh tử đạo.
“Nhưng tại sao chỉ có thái độ đó mới thật sự là đức tin đúng, thật, của một
Cơ Đốc nhân vào Kinh Thánh? Bởi vì đó vốn là đức tin của Đấng Christ”.

Kinh Thánh dành cho ai?


Có người hỏi tôi câu này, và tôi xin hỏi lại ông: Nếu quả thật Kinh Thánh đã
dành nhiều chỗ đề cập việc khôi phục nước Y-sơ-ra-ên hơn bất cứ một chủ
đề nào khác, vậy tại sao không thể nói là Kinh Thánh vốn chú trọng vào
người Do Thái hơn vào chúng ta?
Không ai chối cãi được, là Kinh Thánh trước hết vốn là một quyển sách của
dân Do Thái viết ra trước nhất cho người Do Thái, như có chép rằng: “Lời
phán của Đức Chúa Trời đã phó cho dân Giu-đa” (RoRm 3:2). Chính Tin
Lành cũng dành cho người Do Thái trước tiên “trước là người Giu-đa”
(RoRm 1:16). Chỉ sau khi họ không chịu tin nhận Tin Lành “sự cứu rỗi mới
đến cho dân ngoại, hầu để giục lòng ganh đua của họ” (RoRm 11:11). Hơn
nữa, chỉ do sự cứu rỗi tương lai của họ với tư cách một dân tộc, một quốc
gia, phước hạnh phổ quát mới lan truyền đến cho các dân ngoại. “Vì nếu sự
dứt bỏ họ đã làm sự hoà thuận cho thiên hạ, thì sự họ trở lại trong ân điển há
chẳng phải là sự sống lại từ trong kẻ chết sao?” (RoRm 11:15).

Chú giải
Có người khẳng định rằng mỗi một khúc sách trong Kinh Thánh chỉ có một
cách giải nghĩa đúng mà thôi. Nếu vậy, làm sao chúng ta biết được cách giải
nghĩa nào là đúng?
Không có khúc sách nào trong Kinh Thánh có thể có hai cách giải nghĩa
chống lại nhau. Tôi tin chắc rằng nhiều khúc trong cách sách tiên tri có một
cách ứng dụng cho địa phương đó lúc ấy, và một cách ứng dụng cho một
thời gian lâu dài về sau, nhưng đó lại là một vấn đề khác.

Nghĩa đen và nghĩa bóng


Có phải Kinh Thánh luôn luôn được hiểu theo nghĩa đen không?
Tiến sĩ C.I. Scofield nói rằng có chỗ khác nhau giữa các phần nói về lịch sử
và các phần có tính cách tiên tri trong Kinh Thánh. Về phần Kinh điển có
tính cách lịch sử, ông nói: “Chúng vốn 1. đúng theo nghĩa đen. Các biến cố
được ký thuật lại quả thật đã có xảy ra. Thế nhưng 2. chúng cũng có một
nghĩa bóng, một nghĩa thuộc linh (có lẽ còn nhiều hơn điều chúng ta nghĩ).
Thí dụ như câu chuyện về Y-sác và Ích-ma-ên (GaGl 4:22-31). Có ai dám
nghi ngờ việc các phần ký thuật trong Kinh Thánh vốn có nhiều ý nghĩa
thuộc linh nếu chúng ta hiểu chúng theo nghĩa bóng? Thí dụ câu chuyện về
Mê-phi-bô-sết (IISa 2Sm 9:13) câu chuyện về sự tẩy sạch (trong EsIs 6:1-8)
v.v.. Như thế, chúng ta được phép chủ trương chắc chắn rằng phần lịch sử
trong Kinh Thánh là sự thật, do đó, cũng kính cẩn thuộc linh hoá phần sử ký
của Kinh điển”.
Tiến sĩ Scofield lại nói tiếp về các sách tiên tri: “Ở đây, chúng ta đạt tới
phần nền tảng của nghĩa đen tuyệt đối. Các hình ảnh thường thấy trong các
sách tiên tri, nhưng các hình ảnh đó luôn luôn ứng nghiệm theo nghĩa đen.
Không hề có thí dụ nào về sự ứng nghiệm một lời tiên tri theo nghĩa bóng
hay nghĩa thuộc linh. Vì Đức Chúa Trời đã luôn luôn làm ứng nghiệm lời
tiên tri theo đúng nghĩa đen của nó, qui luật về việc giải nghĩa lời tiên tri
theo nghĩa đen đã được chính Đức Chúa Trời thiết đặt. Giê-ru-sa-lem luôn
luôn là Giê-ru-sa-lem. Y-sơ-ra-ên luôn luôn là dân Y-sơ-ra-ên, Si-ôn thì bao
giờ cũng là Si-ôn. Tuy nhiên qui luật được linh cảm trong IIPhi 2Pr 1:20
phải được người nghiên cứu lời tiên tri tuân thủ “Phải biết rõ rằng chẳng có
lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được”. Nói khác đi,
không thể có một lời tiên tri nào lại có thể tự nó giải nghĩa được, nhưng phải
được gắn liền với tất cả các lời tiên tri khác đã được công bố liên hệ đến
cùng một đề tài ấy. Tổng số những phần mạc khải liên hệ đến một chủ đề
nào đó, là giáo lý đích thực của Kinh Thánh về chủ đề ấy. Có một điểm cần
phải thận trọng khác nữa vốn là khuôn vàng thước ngọc cho việc chú giải
Kinh Thánh: đó là hãy nghiên cứu thật kỹ toàn bản văn. Trong nhiều trường
hợp, chỉ cần đọc các phần thượng hạ văn của một khúc sách cũng đủ cho
chúng ta thấy rõ văn mạch, khiến những phần khó hiểu trở thành sáng tỏ”.
Xin đơn cử một thí dụ khẳng định “Các hình ảnh thường thấy trong cách
sách tiên tri, nhưng các hình ảnh đó luôn luôn ứng nghiệm theo nghĩa đen”
như sau “Có lẽ phải nói chính xác hơn là điều được tượng trưng bằng hình
ảnh hay ý nghĩa ẩn trong hình ảnh đó, vốn được ứng nghiệm theo nghĩa đen.
Thí dụ trong Êxê 37, nhà tiên tri thấy khải tượng về một thung lũng đầy hài
cốt khô. Rồi càng nhìn chăm vào số xương khô ấy, ông thấy có thịt xuất hiện
trên đó, rồi có da bao bọc. Rồi tất cả đều đứng lên, trở thành một đạo quân
vô cùng đông đảo. Đây là hình ảnh. Câu 11 đến 14 giải nghĩa hình ảnh ấy.
Các xương đó là cả nhà Y-sơ-ra-ên và ý nghĩa của sự sống mới được ban
cho các hài cốt đó đã được giải thích là việc dân Y-sơ-ra-ên sẽ được phục
hồi địa vị, sẽ được lập lại tại chính xứ họ là xứ Palestine trong tương lai. Cái
hình ảnh mà khải tượng về thung lũng đầy hài cốt khô sẽ được ứng nghiệm
theo nghĩa đen. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ được đưa trở về xứ sở của họ theo nghĩa
đen, như mấy câu 11-14. Tiếp theo đó là hình ảnh về hai cây gậy trở thành
một mà thôi trong tay nhà tiên tri. Việc này được giải nghĩa là trong tương
lai, vương quốc mười chi phái sẽ lại được kết hợp, được thống nhất với hai
chi phái Giu-đa và Bên-gia-min. Sẽ không còn là hai nước nữa, nhưng chỉ có
một mà thôi, cũng như từ hai cây gậy, đã nhập lại để chỉ thành một cây gậy
duy nhất, và việc ấy sẽ ứng nghiệm theo nghĩa đen. Nói khác đi, chúng ta đã
được cho biết chắc chắn về ý nghĩa của hình ảnh đó, được tiết lộ cho biết
một phần của kế hoạch Đức Chúa Trời sẽ ứng nghiệm theo nghĩa đen”.

Kinh điển thời Chúa chúng ta.


1. Lúc Chúa Giê-xu thi hành hành chức vụ trên đất, các sách Cựu Ước có
đúng như bộ Cựu Ước của chúng ta ngày nay không?
2. Ngài có trích dẫn sách nào khác ngoài bộ Kinh Thánh đã được qui định
như hiện nay không?
3. Trong Tân Ước, chúng ta có gặp các câu trích dẫn từ tất cả các sách của
Cựu Ước không?
1. Các Kinh điển thời Chúa chúng ta sống trên thế gian này cũng đúng là 39
sách như bộ Cựu Ước ngày nay, dù không được xếp theo cùng một thứ tự.
Các sách ấy vốn được tập họp thành ba nhóm. a. Sách Luật pháp, b. Sách
Tiên tri; và c. Các Thi thiên. Đó chính là thứ tự mà Chúa chúng ta đã in vào
tâm trí khi Ngài nói câu LuLc 24:44 lời xác nhận đó đã bao gồm toàn bộ các
sách Cựu Ước vậy.
2. Chắc chắn Chúa chúng ta biết rõ tất cả các văn phẩm tự xưng là được thần
cảm; nhưng tôi không rõ Ngài có chỉ trích dẫn các sách đã được thừa nhận là
Kinh điển hay không.
3. Tân Ước không trích dẫn toàn bộ Cựu Ước, nhưng có rất nhiều sách mà
đặc biệt về sau này đã trở thành đối tượng cho những kẻ phủ nhận tính cách
thần cảm của Kinh Thánh nhắm vào để chỉ trích nghiêm khắc nhất; chẳng
hạn các sách Phục truyền luật lệ ký, Ê-sai, Đa-ni-ên, Giô-na v.v.. Chính
Chúa chúng ta và các trước giả và các vị sứ đồ đã phê chuẩn cho các sách bị
kẻ thù tấn công đó.

Kinh Thánh của Giáo hội La Mã.


Quyển Kinh Thánh của Giáo hội La Mã, theo một phương diện nào đó có
giống như bộ Kinh Thánh của Hội Thánh Tin Lành không?
Quyển Kinh Thánh của Giáo hội La Mã vốn cũng được dịch ra từ những cổ
bản giống như quyển Kinh Thánh của Hội Thánh Tin Lành. Kinh Thánh của
Giáo hội La Mã còn bao gồm bảy sách Ngoại kinh của thời giữa Cựu và Tân
Ước, vốn bị các Hội Thánh Tin Lành loại ra: Tobit, Giu-đít, 1,2 Ma-ca-bê
sách khôn ngoan Huấn ca, và sách Ba-rúc.

Các điểm dường như mâu thuẫn.


Trước đây, tôi vẫn tin vào chân lý của Kinh Thánh từ đầu chí cuối. Nhưng
tôi mới gặp khó khăn. Chẳng hạn IISa 2Sm 23:8 chép rằng Giô-sép Ba-sê-
bết, người Tách-kê-môn giết đi 800 người trong một trận đụng độ, nhưng
ISu1Sb 11:11 lại chép là Gia-sô-bê-am, con trai của Hác-mô-ni, giết 300
người trong một lượt. Như vậy, trong hai câu đó phải có một câu sai.
Lại nữa, hãy đối chiếu ISa1Sm 28:6 với ISu1Sb 10:14. Ta không thể nào tin
cả hai.
Trên đây chỉ là hai chỗ để làm mẫu, và chúng ta tin hay không thì chẳng có
gì là quan trọng. Nhưng Chúa Giê-xu có phán “Kinh Thánh không thể bỏ đi
được” Vậy Kinh Thánh đó là gì?
Các thí dụ trên đây rõ ràng là do sai lầm của người sao chép. Chỉ có nguyên
bản là không bị sai lầm mà thôi. Tuy nhiên điều hết sức kỳ diệu là cả các bản
dịch cũng không bị sai lầm, nghĩa là không có những sai lầm quan trọng ảnh
hưởng đến phần chính yếu của giáo lý.
Các điểm dường như tương phản.
Xin giải thích điều dường như mâu thuẫn với nhau giữa IIVua 2V 18:5 với
23:25. Theo phần ký thuật thì dường như mỗi vị trong cả hai vua này đều
'hơn' vua kia.
Chỗ khác nhau dường như là lòng thành của Giô-si-a vốn “theo trọn luật
pháp của Môi-se. Cơn phục hưng dưới thời vua ấy là sự phục hưng của
quyển Kinh Thánh, trong đó dân sự được thức tỉnh để biết khát khao và vâng
theo những lời Kinh Thánh dạy dỗ.

Một chỗ khó hiểu.


Xin vui lòng giải thích chỗ dường như trái nhau sau đây, để tôi có thể trả lời
cách hợp lý cho người không tin:
XuXh 9:6 có chép “hết thảy súc vật của người Ê-díp-tô đều chết”. Nhưng
trong câu 20 và 21 cũng cùng chương đó, thì dường như người Ai Cập còn
súc vật.
Chúng ta không được cho biết giữa hai câu 7 và 8 đã có một thời gian bao
lâu trôi qua. Trong thời gian đó, người Ai Cập có thể phục hồi các đàn súc
vật của họ, bằng cách mua lại của dân Y-sơ-ra-ên hoặc các dân tộc ở các
nước láng giềng.

Huyền nhiệm về Ba Ngôi.


Có người hỏi tôi về vấn đề Ba Ngôi: “Đức Chúa Trời là Cha, Đức Chúa
Trời là Con và Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh”. Chúng ta phải nghĩ về
Ba Ngôi như ba thân vị khác nhau, hay chỉ là một?
Huyền nhiệm về Ba Ngôi Đức Chúa Trời là tối quan trọng, không ai dám
chối cãi. Riêng tôi, thì không bao giờ nói như trên: “Đức Chúa Trời là Cha,
Đức Chúa Trời là Con, và Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh” vì nói thế thì
như ngụ ý có đến ba thân vị khác nhau, ba Đức Chúa Trời. Trong khi thật ra,
thì Cha là Đức Chúa Trời, Con cũng là Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh
cũng là Đức Chúa Trời, nhưng không phải là ba Đức Chúa Trời, mà là ba
Thân vị của chỉ một Đức Chúa Trời mà thôi. Dĩ nhiên điều đó vượt quá khả
năng lãnh hội của chúng ta. Thế nhưng, đó là sự dạy dỗ hết sức rõ ràng của
Kinh Thánh. Thỉnh thoảng lại có cùng một khúc Kinh Thánh, nhưng đề cập
đến cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Thí dụ Mat Mt 3:16, 17 chúng ta được nghe
Đức Chúa Cha từ trời phán xuống, Đức Chúa Con thì đang đứng dưới nước,
còn Đức Thánh Linh thì lấy hình chim bồ câu đậu trên Ngài.
Ngay câu đầu tiên của Kinh Thánh “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời
đất”, đã có sự gợi ý về Ba Ngôi trong sự kiện tên Đức Chúa Trời: “Ê-lô-
him” theo Hy-bá-lai thuộc số nhiều, trong khi động từ 'dựng nên' lại là số ít.
Như vậy, chúng ta được nhấn mạnh một cách “âm thầm” rằng Đức Chúa
Trời vừa là ba, mà cũng vừa là một. Cùng một nguyên tắc ấy cũng được
chứng minh trong SaSt 1:26 trong đó Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy
làm nên loài người như hình (chúng) ta...v.v...) Đại danh từ thuộc số nhiều
này chỉ về Ba Ngôi; nhưng trong câu 27 chúng ta lại đọc thấy là Đức Chúa
Trời dựng nhên một người giống như hình của chính Ngài (số ít chứ không
phải số nhiều) “Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời,
Ngài dựng nên người nam cùng người nữ”.
Người ta kể rằng có một cậu bé ngây ngô muốn gia nhập một Hội Thánh nọ
và khi được yêu cầu hãy xưng nhận đức tin của mình thì cậy đưa ba ngón tay
lên và nói: “Ba là một, mà một là ba; và Đấng ở chính giữa đã chịu chết thay
cho tôi”. Có lẽ đây là một trong số những câu định nghĩa sâu nhiệm nhất về
Ba Ngôi Đức Chúa Trời mà cũng không có ai trong chúng ta có thể định
nghĩa thật thoả đáng huyền nhiệm kỳ diệu này.

Đức Chúa Cha. Đức Chúa Trời là Cha chung của loài người.
Tôi vừa nghe một nhà truyền đạo đưa ra một luận cứ mạnh mẽ về Đức Chúa
Trời là Cha chung của nhân loại, căn cứ vào chương ba sách Lu-ca chép gia
phổ của Đức Chúa Giê-xu trở lui tận “A-đam, và A-đam con Đức Chúa
Trời”. Ông đã củng cố luận cứ của mình bằng Cong Cv 17:28 “Chúng ta
cũng là dòng dõi của Ngài”. Tôi không chấp nhận thuyết đó, nhưng phải trả
lời thế nào cho những người rất thích cái ý niệm về Đức Chúa Trời là Cha
chung của nhân loại, và mọi người đều là anh em với nhau?
Chẳng có gì để nghi ngờ việc loài người vốn là “dòng dõi” của Đức Chúa
Trời theo ý nghĩa của câu Kinh Thánh đã được trích dẫn, nghĩa là chúng ta
đều là dòng dõi A-đam, mà A-đam vốn trực tiếp ra từ tay Đức Chúa Trời.
Nhưng cũng dạy rằng sau khi sa ngã, loài người đã trở thành “con cái của sự
thạnh nộ”, và muốn trở thành con cái Đức Chúa Trời, họ phải được sanh lại.
Hãy làm chứng như thế với những người “thích cái ý niệm về Đức Chúa
Trời là Cha chung của nhân loại, và loài người vốn là anh em với nhau”,
nhưng xin đừng bận tâm chứng minh cho họ cái chân lý đó trước khi họ
được tái sanh, vì nếu chưa tái sanh thì họ sẽ không thể hiểu được những điều
đó. Lịnh truyền mà chúng ta phải tuân theo không phải là chứng minh Tin
Lành, nhưng là truyền giảng Tin Lành.

Đức Chúa Trời bất biến.


Cựu Ước trình bày Đức Chúa Trời như một người sống, hiện ra và trò
chuyện với người ta. Hiện nay, Đức Chúa Trời còn làm như vậy không?
Vâng, Đức Chúa Trời vốn không thay đổi, và chắc chắn là Ngài vẫn còn
hiện ra và trò chuyện với người ta. Nếu Ngài không trò chuyện với người
trên thế gian này, thì chắc chắn Ngài vẫn hiện ra và trò chuyện với những
người trên thiên đàng. Ngày nay, người ta không có nhu cầu như trong quá
khứ, để Ngài phải hiện ra với người sống trên thế gian này, vì họ đã có sự
mạc khải đầy đủ về Ngài trong Lời Ngài (Kinh Thánh) rồi.

Đức Chúa Trời của các thần.


Ông giải thích thế nào PhuDnl 10:17 “Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi
là Đức Chúa Trời của các thần, và Chúa của các chúa” Phải chăng là có
nhiều thần, nhiều chúa?
Sa-tan đã được gọi là chúa đời này (IICo 2Cr 4:4) Kinh Thánh chép các
thần, các chúa của người ngoại đạo là các quỉ (ICo1Cr 10:20). Ngoài ra, dĩ
nhiên là còn nhiều thần nhiều chúa do người ta tưởng tượng ra nữa. Nhưng
Đức Giê-hô-va cầm quyền tể trị trên tất cả và theo nghĩa tuyệt đối, thì chỉ có
một mình Ngài mới là Thần, là Đức Chúa Trời mà thôi.

Nhiều thần nhiều chúa.


Ông giải thích ICo1Cr 8:5, 6 như thế nào? “nhiều thần nhiều chúa” có nghĩa
gì?
Chính khúc sách ấy đã giải thích khá rõ rồi. Cuối câu 4 chép: “Chúng ta biết
thần tượng trong thế gian thật là hư không; chỉ có một Đức Chúa Trời, chớ
không có thần nào khác”. Tuy người (ngoại đạo) bảo là có các thần các chúa
khác hoặc ở trên trời hoặc ở dưới đất (như thế thì có rất nhiều thần nhiều
chúa), nhưng với chúng ta thì chỉ có một Thần, một Đức Chúa Trời là Cha
mà thôi, muôn vật do Ngài mà có, và chúng ta vốn cũng ở trong Ngài; lại
“cũng chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Giê-xu Christ...” v.v...

Đức Chúa Trời là Thần (Linh)


Tại sao chúng ta nói Đức Chúa Trời là Thần? Nếu Ngài có một thân thể, có
thể đi đứng, trò chuyện, thì làm sao chúng ta nói được Ngài là Thần Linh?
Sở dĩ chúng ta nói Đức Chúa Trời là Thần (Linh) vì Kinh Thánh đã chép
như vậy. Sự kiện Ngài hiện ra với một thân thể - như trường hợp của Đức
Chúa Giê-xu suốt hơn 30 năm trên thế gian này - không hề khiến Ngài
không phải là Thần Linh. Tuy loài người chúng ta đều có thân thể, nhưng
chúng ta cũng là thần linh.

Danh Ngài sẽ là rất lớn.


Thi Tv 113:3 và MaMl 1:11 đề cập đến thời gian hay không gian?
Thành ngữ dùng ở đây có nhiều ý nghĩa thi ca, ngụ ý rằng sẽ có lúc danh
Đức Chúa Trời sẽ là cao trọng giữa các dân các nước. Việc ấy, sẽ xảy ra khi
thế gian “tràn ngập sự hiểu biết về Đức Giê-hô-va như nước tràn ngập trên
các biển” vậy.

Nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài.


Xin giải thích Mat Mt 6:33 “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa
Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy
nữa” 1. Xin định nghĩa chính xác “nước Đức Chúa Trời” là gì? 2. “Các
ngươi” ở đây ám chỉ ai? 3. “Mọi điều ấy” là gì? 4. Bao giờ thì “Ngài sẽ ban
cho các ngươi mọi điều ấy nữa”?
Xin đáp ngay rằng “nước Đức Chúa Trời” trong đoạn văn trên đây chỉ về
thời trị vì của Đức Chúa Trời. Các con cái Chúa cần chú ý là Đức Chúa Trời
chẳng những phải cầm quyền tể trị trên đời sống từng người một, mà cả trên
thế giới này và toàn thể vũ trụ nữa. Chúng ta phải tin như vậy trước nhất, khi
có ý muốn làm một điều gì, trước khi muốn đặt một chương trình, một kế
hoạch nào đó cho đời sống mình.
Đại danh từ “các ngươi” có thể ám chỉ bất cứ ai đồng ý với các điều kiện đã
được nêu ra. Dĩ nhiên người đó phải là con cái Đức Chúa Trời, vì không thể
có ai khác chịu “trước hết tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình
của Ngài. “Mọi điều ấy” là những điều đã được đề cập trong mấy câu trước
đó, tức là các thức ăn, thức uống, đồ mặc. Cha chúng ta ở trên trời vốn biết
chúng ta cần các thứ ấy, và sẽ cung cấp cho những ai biết trước hết tìm kiếm
nước Ngài và sự công chính của Ngài.
Khi nào “mọi điều ấy” sẽ được thêm cho chúng ta là tuỳ thuộc ý chỉ và chủ
đích của chính Đức Chúa Trời. Lắm khi Đức Chúa Trời cố ý để cho con cái
Ngài phải trải qua một thời gian bị thiếu thốn. Tuy nhiên, điều chắc chắn là
“Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được
gọi theo ý muốn Ngài đã định” (RoRm 8:28).

Đức Chúa Cha. Tổ tiên của Chúa Giê-xu.


Bảng gia phổ trong LuLc 3:23-38 phải chăng là gia phổ của bà Ma-ri, mẹ về
phần xác của Chúa chúng ta, qua ông tổ tên là Na-than? Na-than là ai? Kinh
Thánh có cho chúng ta biết tên cha mẹ của bà Ma-ri không? Nếu Lu-ca
chương 3 chép gia phổ của bà Ma-ri, tại sao tên bà lại không được kể ra?
Phải chăng bảng gia phổ trong Ma-thi-ơ chương 1 là của Giô-sép, qua Sa-lô-
môn?
Na-than là con trai của Đa-vít và Bát-sê-ba, như thế là em một của Sa-lô-
môn (ISu1Sb 3:5). Cha của bà Ma-ri tên là Ê-li (hay Hê-li LuLc 3:29), Kinh
Thánh không thấy chép gì cả, nhưng truyền khẩu rằng đó là tên ông, còn tên
mẹ bà Ma-ri là An-ne. Sở dĩ tên Giô-sép được kể ra trong bảng gia phổ ở
Lu-ca 3, vì trong cả bảng đó, không có tên người đàn bà nào cả. Bảng gia
phổ trong Ma-thi-ơ 1 ghi tên Giô-sép, hậu duệ của Đa-vít qua Sa-lô-môn.
Theo Gie Gr 22:24-30, thì Giô-sép hoặc hậu duệ ông, không thể nối ngôi
cho Đa-vít. Cô-nia (trong 22:24) chính là Giê-cô-nia (Mat Mt 1:11, 12. Vì
Chúa Giê-xu là dòng dõi của Ma-ri, là “dòng dõi của người nữ” (SaSt 3:16)
chớ không phải dòng dõi của Giô-sép, cho nên Ngài mới được thừa kế ngôi
của Đa-vít.
Sự sanh ra của Chúa chúng ta.
Giáo lý về Chúa Giê-xu được một trinh nữ sanh ra có thật sự quan trọng và
chính yếu cho Cơ Đốc giáo không?
Vâng... Kinh Thánh Cựu Ước đòi hỏi Ngài được một trinh nữ sanh ra (EsIs
7:14) và Tân Ước đã công bố như vậy (Mat Mt 1:18-25). Ngoài ra, nếu Ngài
quả thật là con trai Giô-sép, thì Ngài bị cất quyền được nối ngôi Đa-vít, vì
Giô-sép là hậu duệ của Giê-cô-nia mà trong Gie Gr 22:24-30, Đức Chúa
Trời đã tuyên bố rằng không hề có hậu duệ nào của Cô-nia được ngồi trên
ngôi Đa-vít. Ma-thi-ơ đoạn 1 cho thấy Giô-sép là con cháu của Giê-cô-nia,
một hình thức khác của tên Cô-nia, trong khi Lu-ca đoạn 3 cho thấy Chúa
Giê-xu vốn là con cháu Đa-vít theo phía bà Ma-ri, hậu duệ của một con trai
của Đa-vít là Na-than chớ không phải theo phía Giô-sép, hậu duệ của Sa-lô-
môn qua Cô-nia. Không có ai là Cơ Đốc nhân mà phủ nhận việc Chúa chúng
ta vốn do một trinh nữ sanh ra.

Được Đức Chúa Cha sanh ra.


HeDt 1:5 có nghĩa gì? Đức Chúa Con vốn luôn luôn ở cùng Đức Chúa Cha,
hay Ngài được Đức Chúa Cha 'sanh ra' sau buổi tạo thiên lập địa?
Con Đức Chúa Trời không hề được 'Đức Chúa Cha sanh ra' theo nghĩa là
đến một lúc nào đó, Ngài mới bắt đầu hiện hữu. Ngài vốn 'không có ngày
đầu mới sanh, cũng không có ngày rốt qua đời' (HeDt 7:3), 'gốc tích của
Ngài bởi từ xưa, từ trước vô cùng' (MiMk 5:2). Câu HeDt 1:5 vốn được trích
dẫn từ Thi Tv 2:7 'Ngươi là con ta, ngày nay, ta đã sanh ngươi' còn những
câu khác thì trích từ IISa 2Sm 7:14 “Ta sẽ làm Cha người, người sẽ làm Con
ta” không hề phủ nhận tính cách tự hữu hằng hữu từ đời đời đến đời đời của
Chúa chúng ta.
Câu trích dẫn từ Thi Tv 2:7 “Ngày nay ta đã sanh ngươi” ám chỉ ngày Chúa
Giê-xu sống lại sau khi Ngài đã chịu chết rồi được sanh lại một lần nữa (đối
chiếu với CoCl 1:18, Cong Cv 13:33). Trong CoCl 1:15, Ngài được gọi là
“Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên”. Trong KhKh 3:14, Ngài
được gọi là “Đấng làm đầu cội rễ cuộc sáng thế của Đức Chúa Trời”. Ý
nghĩa của mấy câu Kinh Thánh này, là trong cõi thọ tạo, Ngài vốn đứng
hàng đầu, như địa vị của người con đầu lòng, là trưởng nam đứng đầu trong
gia đình vậy. Ngài vốn là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng và địa vị của
Ngài là “con trai quản trị nhà Chúa” (HeDt 3:6). Thần tánh trọn vẹn của
Chúa chúng ta đã được chứng minh trong nhiều khúc Kinh Thánh (chẳng
hạn, xin đọc những trích dẫn từ Cựu Ước ứng dụng cho Ngài trong Hê1, và
đối chiếu với GiGa 1:1-5 và CoCl 1:16, 17).
Thần tánh của Chúa chúng ta.
Làm sao chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời? Thần tánh của
Chúa chúng ta được chứng minh như sau:
1. Tất cả các tên của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước đều hàm chứa trong
Chúa Giê-xu Christ.
2. Chúa Giê-xu nhận cho người ta thờ lạy Ngài.
3. Ngài tha tội.
4. Ngài tỏ ra là toàn năng.
5. Ngài tỏ ra là toàn tri.
6. Ngài khẳng định mình toàn tại.
7. Tân Ước khẳng định thần tánh của Chúa Giê-xu.

Chúa Giê-xu phải là Đức Chúa Trời không?


Con gái tôi là cô giáo, và có mấy học sinh hỏi nó có tin rằng Chúa Giê-xu là
Đức Chúa Trời không? Con gái tôi nói: “Có” và trích dẫn những câu Kinh
Thánh như GiGa 1:1-15. Chúng yêu cầu con gái tôi giải thích 14:28 “Các
ngươi từng nghe ta nói rằng: Ta đi, và ta trở lại cùng các ngươi. Nếu các
ngươi yêu mến ta, thì sẽ vui mừng về điều ta đi đến cùng Cha, bởi vì Cha
tôn trọng hơn ta”. Chúng bảo rằng câu này chứng minh là Đức Chúa Trời
vốn cao trọng hơn Chúa Giê-xu, và thêm rằng khi Chúa Giê-xu sống trên thế
gian này, Ngài vẫn cầu nguyện với Cha ở trên trời. Phải trả lời câu hỏi này
như thế nào?
Câu trả lời là trong việc nhập thể, Con Đức Chúa Trời đã trở thành Con
người. Cả câu chuyện đã được kể lại trong đoạn sách hết sức kỳ diệu bắt đầu
ở sách Phi Pl 2:5 “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có. Ngài
vốn có hình (hoặc địa vị đẳng cấp) Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình
đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình
đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một
người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây
thập tự”. Chúa Giê-xu làm người nhất định phải nói về Đức Chúa Trời rằng
“Cha tôn trọng hơn ta”; nhưng Đức Chúa Giê-xu với tư cách Con Đức Chúa
Trời, sẽ không bao giờ nói như vậy.

Con đời đời.


Chúa Giê-xu có hiện hữu trước khi được bà Ma-ri sanh ra không? Có người
nói là Ngài vốn chưa có, trong khi Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Ngài
vốn ở trong lòng Đức Chúa Cha từ trước vô cùng, và bất chấp GiGa 1:12, họ
hỏi: “Nếu Chúa Giê-xu là Ngôi Lời, thì có phải là chính Ngài đã đến với
Giê-rê-mi hay không, khi Kinh Thánh chép rằng Lời của Đức Giê-hô-va đến
cùng Giê-rê-mi?
Con Đức Chúa Trời vốn có từ trước vô cùng và sẽ tồn tại đời đời, vì Ngài
vốn “không có ngày đầu mới sanh, cũng không có ngày rốt qua đời” (HeDt
7:3). Ngài cũng chính là (Ngôi) Lời đời đời của Đức Chúa Trời, cho nên tôi
không có chút gì để nghi ngờ việc chính Ngài đã tiếp xúc với Giê-rê-mi và
tất cả các nhà tiên tri khác trong Cựư Uớc Ngài vốn luôn luôn là Đấng mạc
khải Đức Chúa Trời cho loài người. Đó chính là ý nghĩa thật sự của 1:18
“Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha là Đấng đã
giải bày Cha cho chúng ta biết”. Vì trước khi nhập thể để trở thành con trai
của trinh nữ Ma-ri, Ngài không hề có tên là Giê-xu. Như thế, với tư cách
Con người, Ngài có ngày đầu mới sanh nhưng với tư cách Con Đức Chúa
Trời, Ngài không hề có khởi điểm.

Gia phổ của Ma-ri.


Có chỗ nào trong Cựu Ước chép về gia phổ của bà Ma-ri là mẹ phần xác của
Chúa Giê-xu, bắt đầu từ bà Ma-ri trở lui về tận Đa-vít không?
Dĩ nhiên là tên bà Ma-ri không hề được chép trong Cựu Ước, nhưng việc gia
phổ của bà được chép trong Lu-ca đoạn 3 thì chẳng bị ai phản đối cả. Cần
chú ý là trong câu 23 của chương sách đó, Giô-sép được đề cập với tư cách
“con Hê-li”, nhưng chữ con vốn được in nghiêng ngụ ý là nó do các dịch giả
thêm vào chớ thật ra không có trong nguyên văn Hi Lạp. Đây là luật chung
cho cả bảng gia phổ của Lu-ca. Tiến sĩ Scofield có nhận định qua về khúc
sách ấy trong Lu-ca là đúng, chẳng có gì để nghi ngờ cả. “Trong Ma-thi-ơ
mà chúng ta có bảng gia phổ của Giô-sép không bị ai vấn nạn, chúng ta
được cho biết rằng Giô-sép là con trai của Gia-cốp (Mat Mt 1:16). Vậy, theo
ý nghĩa nào, trong sách Lu-ca, ông lại được bảo là con Hê-li? Theo lẽ tự
nhiên, ông không thể vừa là con của Gia-cốp, vừa là con của Hê-li. Nhưng
Lu-ca không hề viết rằng Hê-li sanh Giô-sép, cho nên cách giải nghĩa tự
nhiên nhất là Giô-sép là con rể của Hê-li, cũng là hậu duệ của Đa-vít. Như
vậy, việc ông được bảo là 'con Hê-li' (chữ con không có trong nguyên bản Hi
văn mà do các dịch giả thêm vào) sẽ phù hợp với cách nói của người Do
Thái (đối chiếu với ISa1Sm 24:16). Do đó, kết luận không tránh vào đâu
được, là phổ hệ trong sách Lu-ca là phổ hệ của bà Ma-ri, và Giô-sép là “con
Hê-li” vì ông cưới con gái của Hê-li. Bảng gia phổ trong sách Lu-ca là của
bà Ma-ri mà cha là Hê-li, vốn là hậu duệ của Đa-vít” (Theo Scofield).
Em-ma-nu-ên.
Tại sao trong Mat Mt 1:23 chép: “Ngài ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-
nu-ên”, nhưng Ngài đã không được gọi bằng tên Em-ma-nu-ên?
Quả thật Chúa Giê-xu đã không được gọi bằng tên Em-ma-nu-ên trong Kinh
Thánh, nhưng hãy chú ý là Ma-thi-ơ viết: “Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó
là Em-ma-nu-ên; nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”. Vậy Ngài vẫn
được người thuộc về Ngài gọi là “Em-ma-nu-ên” cũng như vẫn nói rằng
“Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”. Như thế là lời tiên tri ấy quả đã được ứng
nghiệm.

Chức vụ theo ba phương diện của Chúa chúng ta.


Chúa Giê-xu làm thế nào để thực hiện đầy đủ cả ba chức vụ tiên tri, thầy tế
lễ và vua?
Trong những ngày sống trong xác thịt, Chúa chúng ta đã thi hành chức vụ
tiên tri bằng cách truyền giảng thông điệp của Đức Chúa Trời. Ngài thi hành
công tác ấy chẳng những chỉ bằng lời nói, mà bằng cả hành động và chính
con người của Ngài nữa. Ý nghĩa của từ ngữ “nói tiên tri” là “nói ra, nói lên,
quảng bá”. Hiện nay, Ngài đang thi hành chức vụ thầy tế lễ bằng việc đảm
đương mọi trọng trách của một thầy tế lễ bên hữu Đấng Oai Nghiêm, để cầu
thay cho dân Ngài Ngài sẽ phô bày tính cách đế vương của Ngài khi sẽ tái
lâm, làm “Đấng Chủ tể hạnh phước, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi
Chúa (ITi1Tm ITi6:15).

Vấn đề Chúa Giê-xu được một trinh nữ sanh ra.


Phải chăng chúng ta tin rằng Chúa Giê-xu vốn được một trinh nữ sanh ra là
đều hết sức cần thiết để tách rời nhơn tánh của Đấng Christ khỏi tánh hay
phạm tội mà cả dòng giống loài người đều thừa hưởng của A-đam? Nếu quả
như thế, thì vấn đề chỉ được giải quyết có phân nửa mà thôi. Vì ảnh hưởng
của người mẹ vốn rất quan trọng, vượt hẳn ảnh hưởng của người cha trong
thời kỳ thai nghén. Bà Ma-ri vẫn san sẻ bản tính hay phạm tội của mình cho
con, hay là Đức Chúa Trời ngăn chận việc di truyền đó? Nếu vậy tại sao
Ngài lại không ngăn chận phần di truyền của cả hai người, mà chỉ ngăn chận
phần di truyền của chỉ một người thôi?
Dĩ nhiên là Ngài vốn có thể làm như vậy, nhưng vấn đề chính là Ngài đã thật
sự làm gì theo phần ký thuật, thì Ngài đã tạo ra cho Con Ngài một thân thể
và gởi nó vào lòng một trinh nữ cũng như trong buổi tạo thiên lập địa. Ngài
đã tạo ra hình hài của con người đầu tiên và đặt người ấy trong vườn Ê-đen
vậy. Tại sao chúng ta lại nghĩ rằng việc Đức Chúa Trời đã làm như vậy là
“khó tin nổi”? Chỗ khó tin đích thực đối với những người chối bỏ lời chứng
của Kinh Thánh, chối bỏ những việc siêu nhiên, là do họ có một quan niệm
sai lầm về Đức Chúa Trời là ai, và Ngài có thể làm được gì.

Chúa Giê-xu chịu cám dỗ.


Phải chăng Chúa Giê-xu phải chịu ma quỉ cám dỗ, vì Ngài vốn có một thân
thể có thể phạm tội giống như chúng ta, hầu có thể cứu giúp những kẻ bị
cám dỗ?
Kinh Thánh chép rằng: “Ngài phải chịu làm giống như anh em mình trong
mọi sự, hầu cho đối với Đức Chúa Trời, trở nên thầy tế lễ thượng phẩm, hay
thương xót và trung tín đặng đền tội cho chúng dân. Vả, vì chính mình Ngài
chịu khổ trong khi chịu cám dỗ, nên có thể cứu những kẻ chịu cám dỗ vậy”
(HeDt 2:17, 18). Chúng ta cần thận trọng, e có thể tiếp nhận hoặc đưa ra một
định nghĩa sai chữ 'cám dỗ' đã được dùng cho Ngài. Ngài vốn chịu cám dỗ
về đủ mọi phương diện y như chúng ta, nhưng chẳng phạm tội (HeDt 4:15).
Nghĩa là Ngài không hề bị tội lỗi vốn có sẵn từ bên trong thử thách hay cám
dỗ Ngài. Nhưng Ngài vốn thấu rõ mọi người chúng ta, do đó, đã trở thành
nguồn tiếp cứu trợ giúp không hề thất bại cho chúng ta “Vậy chúng ta hãy
vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn
để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (HeDt 4:16).

Tính cách trọn vẹn, không chỗ chê trách của Đấng Christ.
Phải chăng ông dạy rằng Chúa Giê-xu không thể phạm tội được? Vậy thì
Ngài đã chịu cám dỗ ở đâu? Phải chăng Kinh Thánh dạy rằng Ngài từng
chịu cám dỗ y như chúng ta? Và phải chăng Kinh Thánh cũng chép rằng
Ngài cũng là một người yếu đuối như chúng ta? Không, Kinh Thánh không
hề dạy như vậy. Bạn đã lẫn lộn Ngài với Ê-li hoặc Phao-lô hay Ba-na-ba đó
(Gia Gc 5:17; Cong Cv 14:15). Chúa chúng ta quả thật là một Con người,
nhưng khác với những người khác, là Ngài vốn không có tội lỗi từ bên
trong. Điều này giải thích cho mệnh đề chót của HeDt 4:15 không phải là
Ngài “không thể phạm tội” nhưng là “chẳng phạm tội”. Ngài tự phân rẽ khỏi
tội, không để cho bị nhiễm tội. Khi chúng ta gặp cám dỗ thì có sự quyến rũ,
lôi kéo từ bên trong nhưng với Chúa Giê-xu thì không có như vậy, vì trong
Ngài không có tội lỗi phục sẵn ở đó. Nếu có ai cho rằng người không thể
phạm tội thì cũng không bao giờ chịu cám dỗ, thì chỉ cần trả lời rằng sự cám
dỗ thật sự có nghĩa là gặp thử thách. Nếu nói rằng Chúa chúng ta không thể
chịu cám dỗ, thì chẳng khác gì bảo rằng vàng thật không thể bị thử lửa,
không thể chịu thử thách, kiểm nghiệm xem có phải đó là vàng ròng hay
không. Hoặc như nói rằng một chiến luỹ bất khả xâm phạm là một thành trì
không hề bị tấn công. Mặc dầu có chỗ khác nhau quan trọng giữa Chúa Giê-
xu với chúng ta, Ngài vẫn có thể thông cảm với chúng ta vì biết rằng trong
mỗi người chúng ta đang có sẵn điều gì, và nhờ tình yêu thương Ngài, nhờ
mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài như các chi thể đối với thân, khi chúng ta
chịu khổ, thì chính Ngài cũng cùng chịu khổ với chúng ta. Nếu Chúa Giê-xu
người Na-xa-rét đã thất bại khi chịu thử thách, đã chịu thua sự cám dỗ của
Sa-tan thì điều ấy không hề có nghĩa là Đức Chúa Trời trong xác thịt có thể
phạm tội, nhưng chứng minh rằng Chúa Giê-xu người Na-xa-rét không phải
là Đức Chúa Trời nhập thể. Tạ ơn Đức Chúa Trời về cuộc cám dỗ trong
đồng vắng mà kết quả đã chứng minh rằng Chúa Giê-xu người Na-xa-rét quả
thật là Em-ma-nu-ên, là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Hơn nữa, nếu bảo
rằng Chúa Giê-xu đã có thể phạm tội lúc Ngài sống trên đất này, thì giờ đây,
Ngài đã được cất lên trời rồi, Ngài sẽ còn có thể phạm bao nhiêu tội nữa?
Xin đừng bao giờ nghĩ như thế! Con người ngự bên hữu Đức Chúa Cha vốn
là một với Đức Chúa Cha trong Ngài cũng như trong Đức Chúa Cha không
hề có gì thay đổi hay cả đến bóng dáng của sự đổi thay nữa.

Sự vô tội của Đấng Christ.


Làm thế nào việc Đấng Christ được trinh nữ sanh ra lại cứu được loài người
khỏi tội đầu tiên của A-đam? Phải chăng một đứa trẻ chỉ nhận phần bản tính
của cha chớ không nhận của mẹ, cho nên, vì Đấng Christ vốn được thai
dựng bởi Đức Thánh Linh nên sanh ra ngoài vòng nguyên tội, vì không có
bản tính của người cha?
Việc Chúa chúng ta ở ngoài vòng nguyên tội không phải là hậu quả do việc
Ngài vốn được một trinh nữ sanh ra. Dĩ nhiên là một đứa trẻ nhận cả hai
phần bản tính của cha và mẹ. Nhưng trong trường hợp của Chúa Giê-xu vấn
đề là cả một phép lạ, và bởi quyền phép Đức Thánh Linh, Con Đức Chúa
Trời đã được bảo vệ được biệt riêng khỏi mọi dấu vết của nguyên tội. Cùng
một Đức Chúa Trời đã tạo ra một thân thể cho A-đam và đặt ông vào vườn
Ê-đen, cũng đã tạo ra một thân thể cho Con Ngài và đặt con đó vào lòng một
trinh nữ. Xem HeDt 10:5.
Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng giáo lý về việc Chúa chúng ta được
một trinh nữ sanh ra là không quan trọng. Thật ra, giáo lý ấy là một phần
thiết yếu cho đức tin chúng ta. Nếu Chúa Giê-xu quả thật là con trai Giô-sép,
thì Ngài không bao giờ được quyền nối ngôi tổ phụ mình là Đa-vít, vì trong
trường hợp đó, ông không phải là người duy nhất còn lại của dòng dõi Đa-
vít (về mặt này thì ông còn phải bị tra xét theo thứ bậc để được nối ngôi);
ông lại là một hậu duệ của Cô-nia, con trai Giê-hô-gia-kim mà con cháu bị
truất quyền nối ngôi nữa (đối chiếu Cong Cv 22:24-30 với Gie Gr 23:5, 6).

Một lịnh truyền kỳ lạ.


Việc Chúa Giê-xu thường ra lịnh cho những người được Ngài chữa bịnh cho
không được nói lại hành động của Ngài cho người khác biết, có nghĩa gì?
Xem LuLc 8:56; Mat Mt 9:30 và những khúc sách tương tự.
Tiến sĩ Scofield có một nhận định về 16:20 khiến chúng ta được sáng tỏ về
vấn đề trên như sau: “Các môn đệ Chúa từng truyền giảng rằng Chúa Giê-xu
là Đấng Christ, nghĩa là Nhà Vua của giao ước, của Vương quốc được hứa
với dân Do Thái, và “nước ấy đã gần kề”. Trái lại, Hội Thánh Ngài cần được
thiết lập trên nền tảng của Đấng bị đóng đinh, từ kẻ chết sống lại thăng thiên
làm “đầu của Hội Thánh trong mọi sự” (Eph Ep 1:20-23). Lời chứng trước
đã kết thúc, nhưng lời chứng sau vẫn chưa sẵn sàng, vì huyết của giao ước
mới vẫn chưa bị đổ ra, và Chúa chúng ta chỉ mới bắt đầu nói đến sự chết và
sống lại của Ngài (c.21). Đây là một khúc quanh có ý nghĩa vô cùng quan
trọng”. Hơn nữa, về Mac Mc 8:22-26, ông viết: “Hành động của Chúa chúng
ta ở đây vốn có ý nghĩa hơn hết. Sau khi đã phó mạc Bết-sai-đa cho sự phán
xét (Mat Mt 11:21-24) Ngài sẽ không còn chữa bịnh hay để cho các môn đệ
Ngài làm chứng đạo tại đó nữa (c.26). Ngài xem Bết-sai-đa là một cộng
đồng đã bị bỏ đi, nhưng Ngài vẫn còn muốn tỏ lòng thương xót với những cá
nhân. Hãy đối chiếu với KhKh 3:20. Đấng Christ đang đứng ngoài cửa của
Hội Thánh, nhưng “Nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì v.v...”

Lời Chúa chúng ta đã nói với Cai-phe.


Trong câu Chúa Giê-xu nói với Cai-phe chép ở Mat Mt 26:64 Ngài muốn
nói về thời kỳ nào?
Nhằm trả lời câu hỏi của Cai-phe: “Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng
sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Con Đấng Christ, Con
Đức Chúa Trời chăng?” Chúa chúng ta đã nói với ông ta: “Thật như lời
chính ngươi đã nói), vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy
Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời
mà xuống”.
Đây là câu Chúa chúng ta trả lời với Cai-phe một cách chính thức, công
khai, chớ không phải chỉ với tính cách cá nhân, riêng tây mà thôi. Cai-phe là
đại diện của toàn dân Y-sơ-ra-ên, cho nên bức thông điệp ấy là nhằm vào
toàn dân Y-sơ-ra-ên chớ không phải chỉ cho riêng một mình ông ta. Việc ấy
sẽ ứng nghiệm đúng kỳ khi Chúa tái lâm.

Hai lần xức dầu.


Chúa chúng ta đã được ai xức dầu, và xức dầu mấy lần? Tôi muốn nói đến
lần (hay bao nhiêu lần?) xức dầu, theo Mat Mt 26:7; Mac Mc 14:3; LuLc
7:37 GiGa 1:12; 12:1-8.
Có hai lần xức dầu, cách nhau khoảng hai năm một lần tại xứ Giu-đê và một
lần tại Ga-li-lê. Cả hai lần này thì chẳng có điểm nào giống nhau, ngoại trừ
cả hai lần đều xảy ra trong hai nhà của hai người cùng có tên là Si-môn. Si-
môn vốn là một cái tên hết sức phổ thông, cho nên chúng ta chẳng có gì phải
ngạc nhiên khi hai người khác nhau lại được kết hợp lại với nhau trong
những lần ký thuật này. Chỉ một mình Lu-ca đã cho chúng ta biết về lần xức
dầu thứ nhất trong LuLc 7:36-50. Biến cố này xảy ra rất sớm trong thời gian
Chúa Giê-xu thi hành chức vụ, lúc Ngài ở tại xứ Ga-li-lê. Người đàn bà lấy
dầu xức chơn Ngài rồi lấy tóc mình mà lau, được mô tả là “một người đờn
bà xấu nết ở thành đó” (c.37). Câu này chắc chắn ngụ ý rằng bà ta là một
phụ nữ trắc nết. Không hiểu vì sự kết hợp lạ lùng và không thể giải nghĩa
được nào, người ta lại cho rằng người phụ nữ ấy chính là Ma-ri Ma-đơ-len.
Dĩ nhiên là do sự việc đó, “Ma-đơ-len” đã trở thành một cái tên ám chỉ một
phụ nữ trắc nết. Nguyên cái tên ấy không hề có nghĩa như vậy. Sở dĩ người
ta gọi bà là Ma-đơ-len, vì quê quán bà là Ma-đa-la, và trong Kinh Thánh,
không hề có chỗ nào bảo rằng bà là một “tội nhơn” theo nghĩa là “trắc nết”
cả. Ma-ri Ma-đơ-len vốn bị quỉ ám và đã được Chúa Giê-xu đuổi quỉ ra để
giải thoát cho. Nhưng trong Kinh Thánh cũng không có câu nào ám chỉ bà là
người đã xức dầu cho Chúa trong LuLc 7:1-50.
Lần xức dầu thứ hai xảy ra hai năm sau đó, lúc Chúa chúng ta sắp bị phản
nộp vào tay những kẻ có tội và chịu đóng đinh vào thập tự giá. Lần xức dầu
này được mô tả trong Mat Mt 26:6-13; Mac Mc 14:3-9; GiGa 12:1-8. Việc
xảy ra “trong nhà Si-môn, là người phung” (Mat Mt 26:6; Mac Mc 14:3).
Nhà này ở trong làng Bê-tha-ni, theo cả ba trước giả các sách Tin Lành.
Giăng cho chúng ta biết rằng lần xức dầu này xảy ra trong một bữa tiệc tối
nhằm thết đãi Chúa Giê-xu; và trong bữa tiệc này có “Ma-thê hầu bàn” còn
anh nàng là “La-xa-rơ, là một người trong đám ngồi đồng bàn với Ngài”.
Tuy nhiên, ông không hề nói với chúng ta rằng việc ấy xảy ra trong nhà của
Ma-thê và La-xa-rơ. Có nhiều phỏng đoán về lai lịch của “Si-môn là người
phung” này, nhưng phần ký thuật không giúp được gì cho chúng ta nhận
diện được ông ta. Sách không vạch rõ ông “Si-môn là người phung” này đã
có mặt trong bàn tiệc nên chúng ta có thể suy diễn mà không sợ sai lầm rằng
nếu ông Si-môn ấy có mặt, thì ông ta không còn là người phung nữa. Không
hế có ai bị bịnh phung mà còn mang chứng bịnh ấy đến trước hiện diện của
Chúa chúng ta. Người phụ nữ xức dầu cho Chúa trong bữa tiệc này là Ma-ri
người Bê-tha-ni. em gái của Ma-thê và La-xa-rơ.
Hai sứ đồ Ma-thi-ơ và Mác cho chúng ta biết rằng Ma-ri đã xức dầu trên đầu
Chúa chúng ta, còn Giăng cho biết thêm là bà cũng xức dầu cho chân của
Chúa và lấy tóc mình mà lau nữa. Tuy nhiên, chẳng có chi mâu thuẫn nhau ở
đây. Cả đầu và chân Ngài đều được xức dầu. Tiến sĩ Scofield nói: “Cách xức
dầu thông thường để tôn vinh và tỏ ra hiếu khách, là dưới chân (LuLc 7:38)
và trên đầu (LuLc 7:46). Nhưng Ma-ri ở Bê-tha-ni là người duy nhất trong
số các môn đệ của Chúa chúng ta đã thấy hiểu câu nói nhắc đi nhắc lại ba
lần của Ngài rằng Ngài sắp chịu chết rồi sống lại, nên đã khoác cho việc xức
dầu một ý nghĩa sâu sắc hơn về việc chuẩn bị xác Ngài để chôn cất. Ma-ri ở
Bê-tha-ni không thuộc số phụ nữ đã đến mộ Chúa với ý định ướp xác Chúa
Giê-xu bằng thuốc thơm”.
Nên nhớ là Chúa chúng ta đã hết sức đẹp lòng về hành động tận hiến của
Ma-ri xuất phát từ đức tin đơn sơ nhằm làm chứng cho Ngài về cái chết và
sự sống lại sắp xảy đến cho Ngài, nên Ngài đã phán với các môn đệ rằng:
“Trong khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin Lành này được giảng ra, việc người
đã làm cũng sẽ được nhắc lại để nhớ đến người”.

Được treo lên khỏi đất.


Xin giải thích GiGa 12:32. Phải chăng việc “được treo lên khỏi đất” ở đây
ám chỉ việc đề cao Chúa Giê-xu bằng cách truyền giảng đạo Ngài?
Không phải như vậy. Cả đến nhà truyền đạo trung tín nhất cũng không thể
nào “kéo mọi người” đến cùng Chúa Giê-xu được dầu số người đó thuộc vào
một cộng đồng rất ít người. Ý nghĩa của khúc sách này vốn khác xa. Xin
nghiên cứu cả bản văn. Từ câu thứ hai mươi trở đi. Phi-líp và Anh-rê đến
với Chúa Giê-xu cho biết có một số người ngoại bang muốn diện kiến Ngài.
Hãy nhận xét thật kỹ phản ứng lạ lùng của Chúa Giê-xu đối với lời yêu cầu
đó. Chưa bao giờ Ngài tỏ ra bị xúc động mạnh như lúc ấy. Dường như trong
việc những người ngoại bang đến thăm viếng Ngài cách bất thường này, vốn
có một ý nghĩa khác lạ không hiện ra ngay trên bề mặt. Trong câu 24, Chúa
chúng ta tự ví mình như hột lúa mì. Những người ngoại bang này lại đang
muốn gặp mặt Ngài. Đây là một khúc quanh quan trọng trong chức vụ của
Ngài. Dường như Ngài không muốn tự tỏ mình ra cho họ, mà lý do là vì
chức vụ của Ngài lúc ấy không phải là dành cho họ, ngoại trừ việc Ngài sẽ
chịu chết thay cho họ. Như hột lúa nếu không rơi xuống đất và chết đi, chịu
cảnh đơn độc, thì không thể nào kết quả được, cho nên Ngài cũng phải chịu
chết, phải phó mạng sống mình. Ngài phải chịu chết vì thế gian; loài người
phải được sanh lại, mà việc ấy không thể nào có được nếu Ngài không chịu
chết đi. Con Đức Chúa Trời phải được treo lên (đối chiếu với GiGa 3:14). Ở
đây, Chúa Giê-xu tái xác nhận việc Ngài quyết định hiến dâng mạng sống
Ngài để cứu rỗi loài người. Đấng Christ trong xác thịt đã không làm gì có
ích lợi cho người ngoại bang cả; phải là Đấng Christ bị đóng đinh vào thập
tự giá và sống lại (đối chiếu IICo 2Cr 5:16 với ICo1Cr 1:23, 24). Trong
GiGa 12:25, 26. Chúa Giê-xu kêu gọi các môn đệ Ngài hãy sống quên mình
đi, và chỉ cho họ thấy rằng đó chính là nẻo đường dẫn đến vinh quang thật
sự. Hãy chú ý là trong câu 27 Chúa chúng ta đã tỏ ra đang bị xúc động mạnh
như thế nào. Ngài phán: “Hiện nay tâm thần ta bối rối, ta sẽ nói gì? Chính
Chúa đang tự hỏi Ngài phải nói gì. Ngài sẽ nói gì đây? Ngài sẽ nói: “Lạy
Cha, xin cứu con khỏi giờ này” chăng? Không, vì “vì sự đó mà con đến giờ
này” vậy thì Ngài phải nói: “Cha ơi, xin làm sáng danh Cha”. Đây là lời tái
xác nhận nghiêm trọng rằng Ngài sẵn sàng vâng theo ý chỉ Cha Ngài. Ngài
sẽ uống cạn đến phần cáu cặn của chiếc chén mà Cha Ngài trao cho. Ngài sẽ
tiến thẳng vào cõi chết dầu là phải chết trên thập tự giá. Mà làm như thế thì
Ngài không nhằm tự cứu lấy mình, nhưng vì muốn cứu rỗi người khác. Làm
như thế, Ngài sẽ “đưa được nhiều con cái vào cõi hiển vinh”.
Quyết định của Chúa chúng ta đã được chào đón bằng câu trả lời của Đức
Chúa Cha mà cả đoàn dân có mặt đều nghe thấy, bằng tiếng phán từ trời dội
xuống: “Ta đã làm sáng danh rồi, ta còn làm cho sáng danh nữa”. Đây là
Đức Chúa Cha đã chấp nhận sự dâng hiến của Con Ngài. Đây là lần thứ ba
và là lần cuối cùng trong thời gian Chúa chúng ta thi hành chức vụ trên đất,
các cửa thiên đàng đã mở ra và Đức Chúa Cha đã phán xuống để tỏ ra tán
thưởng Đức Chúa Con (Mat Mt 3:17; 17:5).
Muốn lãnh hội ý nghĩa đích thực của khúc sách này, chúng ta phải đưa Đức
Thánh Linh vào trong bầu không khí đó. Hãy lắng nghe giọng nói đầy phấn
khởi của Chúa chúng ta khi Ngài phán: “Hiện bây giờ, có sự phán xét (Hi-
văn crisis, có thể dịch là cơn khủng hoảng, khúc quanh quyết định) thế gian
này, và hiện nay vua Chúa của thế gian này (tức Sa-tan) phải bị xua đuổi”
(c.31).
Và Sa-tan đã bị xua đuổi như thế nào? Xin đọc câu trả lời trong câu 32:
“Còn ta, khi đã được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta” Câu
33 giải nghĩa câu 32: “Ngài phán vậy để chỉ mình phải chết cách nào. Vậy
thì, bằng cách chết trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã kéo mọi người đến với
Ngài. Khi huyết Ngài đổ ra trên núi Gô-gô-tha, Ngài đã truất phế A-đam thứ
nhất khỏi địa vị đứng đầu của toàn thể nhân loại, và kéo mọi người đến với
chính Ngài. “Nếu có một người chết vì mọi người, thì mọi người đều chết”
(IICo 2Cr 5:14).
Chính vì thế mà Chúa chúng ta trở thành “Cứu Chúa cả thế gian”. “Cứu
Chúa của mọi người” (GiGa 4:42) Ngài là Cứu Chúa. “đặc biệt là cho
những kẻ tin”, nhưng theo đúng ý nghĩa đích thực nhất của nó, Ngài cũng là
Cứu Chúa cho toàn thể nhân loại (ITi1Tm ITi4:10). Nhân loại đã không
được cứu hoàn toàn, nhưng sở dĩ như vậy, thì không phải vì không có Cứu
Chúa “Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (GiGa
1:29) đã nếm trải “sự chết vì mọi người” (HeDt 2:9). Nhân loại đã không
được cứu trọn vẹn, nhưng Ngài đã chịu chết là “hầu cho thế gian nhờ Con ấy
mà được cứu” (GiGa 3:17). Chúa Giê-xu đã thực hiện sự cứu chuộc làm của
lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng
vì tội lỗi cả thế gian nũa” (IGi1Ga 2:2).

Ê-lô-i, Ê-lô-i, Lam-ma-sa-bách-ta-ni.


Câu “Ê-lô-i, Ê-lô-i, Lam-ma-sa-bách-ta-ni mà Chúa chúng ta thốt lên trên
thập tự giá là tiếng gì? Có người bảo đó là một ngôn ngữ chẳng ai biết,
nhưng đã được giải thích do sự trợ giúp của Đức Thánh Linh.
Đây là mấy chữ được phiên âm (không phải dịch nghĩa) theo tiếng Hi Lạp,
mà bản Hi văn cũng phiên âm theo tiếng A-ram, là ngôn ngữ phổ thông thời
Chúa ở thế gian.

Anh em của Chúa chúng ta.


Xin giải nghĩa GiGa 7:5 “Bởi chưng chính các anh em Ngài không tin
Ngài”.
Câu này ám chỉ các em ruột của Chúa chúng ta theo phần xác, tức là các con
trai khác của Mẹ Ngài là bà Ma-ri. Có người không nhận là bà Ma-ri còn có
con cái khác, nhưng Kinh Thánh chống lại ý kiến đó. Mat Mt 12:46 có đề
cập “mẹ và anh em Ngài”; trong Mac Mc 13:55 có bốn người em trai Ngài
đã được nêu tên, đó là Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn và Giu-đe; và trong câu 56,
các em gái Ngài cũng đã được nêu tên. Có một khúc sách song hành trong
6:3, tên các em trai Ngài lại được kể ra, và các em gái Ngài cũng được đề
cập. Trong GiGa 2:12 chúng ta đọc thấy “Ngài với mẹ, anh em, và các môn
đồ đến xuống thành Ca-bê-na-um”. Cần chú ý là trong Cong Cv 1:14, dường
như các em trai của Chúa đều đã tin Ngài câu ấy chép “Hết thảy những
người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện, với các người đàn bà, và Ma-
ri là mẹ Đức Chúa Giê-xu cùng anh em Ngài”. Trong ICo1Cr 9:5 Phao-lô đề
cập các anh em Chúa trong mối liên hệ với ông và Phi-e-rơ. Còn trong GaGl
1:18, 19 Phao-lô nói đến lần đầu tiên ông đến Giê-ru-sa-lem sau khi ăn năn
trở lại đạo, và khi đến đó, cũng “làm quen với Sê-pha và ở với người mười
lăm ngày; nhưng tôi không thấy một sứ đồ nào khác, trừ ra Gia-cơ là em của
Chúa”.
Quả thật từ ngữ Hi văn chỉ “anh em (adelphoi) cũng chỉ luôn “anh em họ”
hay “bà con” xa gần nữa, cho nên vì lý do đó, những người phản đối ý kiến
cho rằng bà Ma-ri có nhiều con cái khác ngoài Chúa Giê-xu ra, nhấn mạnh
rằng hễ nơi nào trong sách đề cập “anh em Chúa Giê-xu theo phần xác” thì
đều ám chỉ các anh em họ hay bà con theo nghĩa khác hơn là bảo rằng đó là
con cái của bà Ma-ri. Mọi lý luận như thế có thể là đúng nếu trong Thi 69
Đức Thánh Linh của chân lý không đặt để một câu nhằm giải quyết toàn thể
vấn đề ấy. Đây là một trong những Thi Thiên đã được thừa nhận là nói về
Đấng Mê-si, và Chúa chúng ta luôn luôn là chủ từ. Trong Thi Thiên này,
chúng ta nghe Ngài hát: “Chúng nó ban mật đắng làm vật thực tôi; và cho tôi
uống giấm trong khi khát” (c.21 đối chiếu với Mat Mt 27:34 và GiGa 19:28-
30). Ngay trong những lời xưng tội tìm thấy trong Thi Thiên ấy, chúng ta
cũng phải nhận là chính Chúa chúng ta đã thốt ra để xưng nhận tội lỗi chúng
ta, xem như đó là tội lỗi của Ngài. Điều đó chứng minh rằng Ngài hoàn toàn
tự đồng hoá với chúng ta khi chịu cho kẻ gian ác treo Ngài lên thập tự giá
thay cho chúng ta. Bây giờ, hãy xét đến mấy câu 7-9.
“Ấy vì Chúa mà tôi đã mang sự nhuốc nhơ, và bị sự hổ thẹn bao phủ mặt tôi.
Tôi đã trở nên một kẻ lạ cho anh em tôi. Một người ngoại bang cho các con
trai mẹ tôi. Vì sự sốt sắng về đền Chúa tiêu nuốt tôi (xem 2:17). Sự sỉ nhục
của kẻ sỉ nhục Chúa đã đổ trên tôi”.
Với những ai sẵn lòng đầu phục uy quyền của Lời Đức Chúa Trời, thì mấy
câu này đã đủ để thuyết phục họ. Sau khi sanh ra Chúa Giê-xu, bà Ma-ri còn
có nhiều con khác nữa, và “anh em” Chúa mà Tân Ước ám chỉ phải được
chúng ta xem là con cái của mẹ Ngài.

Đặt mồ Ngài với kẻ ác.


Câu “Người ta đã đặt mồ người với những kẻ ác” (EsIs 53:9) có nghĩa gì?
Phần mộ của Giô-sép người A-ri-ma-thê có nằm trong khu vực nghĩa địa
mọi người Do Thái dành cho các tội phạm hay không?
Dĩ nhiên là không. Phần mộ đó là “một cái huyệt mới mà người đã khiến đục
cho (riêng) mình trong hòn đá” (Mat Mt 27:60). Giăng cho chúng ta biết:
“Tại nơi Ngài bị đóng đinh, có một cái vườn, trong vườn đó có một cái
huyệt mới, chưa chôn ai. Ấy là nơi hai người chôn Đức Chúa Giê-xu” (GiGa
19:41, 42).
A.C. Gaebelein dịch EsIs 53:9 như sau: “Người ta định phần mộ người với
kẻ chết, nhưng người được (nằm chung) với kẻ giàu khi chết, vì người
không hề bạo động, và trong miệng không có sợ gian dối”.

Các lằn roi Ngài.


EsIs 53:5 “Bởi lằn roi người, chúng ta được lành bệnh” có nghĩa gì?
Câu đó có nghĩa là Đấng Christ đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta, và bởi đức
tin, người tin Ngài nhờ huyết Ngài mà được cứu. IPhi 1Pr 2:23, 24 có gói
ghém phần ý nghĩa thần học cho vấn đề này. “Ngài gánh tội lỗi chúng ta
trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi,
được sống cho sự công bình; lại nhơn những làn đòn của Ngài mà anh em đã
được lành bệnh”.
Ngài là Đấng duy nhất trên thiên đàng đã bị đòn vọt làm cho bị thương và
những vết thương ấy vốn không như thương tích của những chiến sĩ được
thoát chết trở về, nhưng nói lên sự vâng phục “cho đến chết, thậm chí chết
trên thập tự giá” của Ngài.

“Đừng rờ đến ta”.


Tại sao trong GiGa 20:7 Chúa Giê-xu bảo với Ma-ri “Chớ rờ đến ta”, trong
khi Ngài lại mời gọi Thô-ma hãy sờ vào Ngài?
Giữa khoảng Chúa hiện ra với Ma-ri và mấy ngày sau đó, khi Ngài hiện ra
với các môn đệ khác của Ngài, thì Chúa chúng ta đã lên trời làm ứng nghiệm
ý nghĩa hình bóng của lễ dâng bó lúa đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-
va trong LeLv 23:9-14. Là trái đầu mùa sự sống lại (ICo1Cr 15:23). Ngài
phải trình diện trước mặt Đức Giê-hô-va để được tếp nhận vì cớ chúng ta
(LeLv 23:11). Việc đó phải xảy ra trước khi Ngài xuất hiện trước mắt bất cứ
ai khác. Một ý nghĩa hình bóng nữa cũng đã được ứng nghiệm là Ngày Đại
Lễ Chuộc tội. Chúa chúng ta đã dâng xong của lễ hi sinh, và lúc Ngài gặp
Ma-ri là Ngài đang ở trên đường đi về trời để ra mắt trước hiện diện Đức
Chúa Trời, dâng huyết Ngài lên vì cớ chúng ta (HeDt 9:11, 12). Lẽ tất nhiên,
mọi việc đó phải xảy ra ngay sau khi Ngài sống lại để đáp ứng trọn vẹn điều
đòi hỏi của ý nghĩa hình bóng trong Kinh điển.

“Cái đinh đóng nơi vững chãi”.


Xin giải thích EsIs 22:25
Muốn hiểu câu này, phải đọc cả khúc sách đó bắt đầu từ câu 15 khi Đức
Chúa Trời tuyên bố sự phán xét đối với Sép-na, sẽ bị cách chức và được thay
thế bằng Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, người được Đức Chúa Trời đề cập
trong câu 21 rằng: “Ta sẽ lấy áo ngươi mạc cho nó, lấy đai ngươi giúp sức
nó, lấy chánh quyền ngươi trao trong tay nó”. Những lời nói trong hai câu
22-24 được áp dụng hai lần, vì rõ ràng là đề cập đến Đấng Christ về sau này
(đối chiếu với KhKh 3:7). Nhưng đến câu 25 thì Sép-na lại xuất hiện như kẻ
tự cho là mình đang được một địa vị vững chắc “như cây đinh đóng nơi
vững chãi”. Mặc dầu ông ta tự cho là mình được an toàn như vậy, ông ta đã
bị “đập và rớt xuống, và gánh nặng treo trên nó sẽ bị cắt đứt, vì Đức Giê-
hô-va đã phán vậy”.

46. Thấy mặt của Đức Chúa Trời.


Xin ông vạch rõ các khúc sách say đây có thể được phối hợp với nhau như
thế nào:
IGi1Ga 4:12 và GiGa 1:18 chép: “Chưa hề có ai thấy Đức Chúa Trời”.
XuXh 24:10 chép “Họ ngó thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; dưới chân
Ngài có một vật giống bích ngọc trong ngần, khác nào như sắc trời thanh
quang”
24:11 “Họ ngó thấy Đức Chúa Trời thì ăn và uống”.
Lời đáp cho câu hỏi về IGi1Ga 4:12 và GiGa 1:18 được tìm thấy trong mấy
chữ còn lại của 1:18 “chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày
Cha cho chúng ta biết” theo nguyên văn có nghĩa là “giới thiệu” Ngài với
chúng ta. Việc nhìn thấy Đức Chúa Trời hay việc Đức Chúa Trời hiện ra
trong Cựu Ước vốn là sự hiện ra của Chúa Giê-xu Christ trước khi Ngài
nhập thể. Thí dụ hãy đối chiếu EsIs 6:1-10 với GiGa 12:37-41.

Đấng Christ theo xác thịt.


“Theo xác thịt mà nhận biết Đấng Christ” trong IICo 2Cr 5:16 là thế nào?
Đó là nhận biết Ngài như một người “trong xác thịt” hay như một người
chưa được tái sanh hiểu biết Ngài. Một sự nhận biết như vậy được Tiến sĩ
Scofield mô tả là “một niềm tin trí thức về Đấng Christ trong lịch sử, khác
hẳn với tin nhận Ngài”. “Tin nhận Ngài có nghĩa là tin cậy, chịu lệ thuộc.
Niềm tin trí thức không đưa đến chỗ được cứu rỗi như đức tin tin cậy của
những người thật sự hết lòng hết trí khôn tin cậy Ngài”.

Đức Thánh Linh


Đức Thánh Linh có phải là Thần (Linh) không?
Phải. Đức Thánh Linh là Thần, là Linh. Trong nguyên văn, hai chữ Thần và
Linh chỉ là một mà thôi.

Phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh


Ông tin thế nào về phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh?
Thật là sai lầm nếu cho rằng một người có thể được tái sanh mà không hề
nhận phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh. Sự dạy dỗ của Tân Ước về thân
vị và công tác của Đức Thánh Linh liên hệ đến người tin Chúa, là như vầy:
1. Trong chế độ hiện hữu, mỗi một Cơ Đốc nhân đều được sanh ra bởi Đức
Thánh Linh. Sự tái sanh cũng có thật như việc được sanh ra theo xác thịt
vậy. Chúng ta do cha mẹ trên đất này sanh ra; và do được sanh lại, chúng ta
trở thành con cái của Cha chúng ta ở trên trời. Công tác tái sanh này là do
Đức Thánh Linh thực hiện; công cụ được Ngài sử dụng để thực hiện sự tái
sanh này là Lời của Đức Chúa Trời, là hột giống không hay hư nát (GiGa
3:1-7; IPhi 1Pr 1:23-25; GaGl 1:18; IGi1Ga 1:11-13).
2. Mỗi một Cơ Đốc nhân (nghĩa là mỗi một người đã được tái sanh) trở
thành một chi thể trong thân thể Đấng Christ ngay khi người ấy được sanh
lại. “Chúng ta là các chi thể của thân Ngài” (Eph Ep 5:30). Sự kết hợp đối
với Đấng Christ là hậu quả của phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh. Do đó,
nếu có ai muốn cho chúng ta tin rằng phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh
đó là một “công tác thứ hai của ân điển” phân biệt về thời gian với sự tái
sanh, thì điều đó không đúng. Phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh không
phải chỉ là từng trải của một vài người, nhưng là của toàn thể các Cơ Đốc
nhân “Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi
mọi, hoặc tự chủ đều đã chịu phép báp-tem chung một Thánh Linh để hiệp
làm một thân (ICo1Cr 12:13, đối chiếu với Eph Ep 4:4, 5; RoRm 6:3; GaGl
3:27).
3. Mỗi người ngay lúc được tái sanh, đều nhận Đức Thánh Linh vào chính
thân thể mình, và từ đó trở về sau được Đức Thánh Linh ngự trị trong lòng.
Sự chiếm ngự đó của Đúc Thánh Linh sẽ cứ tiếp tục, không giây phút nào
ngừng nghỉ. Có thể chúng ta sẽ làm buồn lòng Ngài, chống cự Ngài, dập tắt
Ngài; nhưng chúng ta không thể xô đuổi Ngài khỏi chúng ta. Sứ đồ Phao-lô
bởi Đức Thánh Linh đã viết cho các Cơ Đốc nhân xác thịt tại Cô-rinh-tô
rằng “Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đúc Thánh
Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa
Trời, và anh em chẳng thuộc về chính mình sao?” (ICo1Cr 6:19, đc với
ICo1Cr 3:16; RoRm 3:8, 9).
4. Đức Thánh Linh đã ngự trị trong tín hữu như thế, trở thành Đấng xức dầu
cho người; và Ngài cũng trở thành Vị Giáo Sư không hề nhằm lẫn thành
Đấng hướng dẫn chúng ta vào mọi lẽ thật. Đó là phần ứng nghiệm lời hứa
của Chúa chúng ta trong GiGa 16:13. Mỗi một “con cái bé mọn” của Đức
Chúa Trời nhờ đó được bảo an toàn khỏi cơ nguy của tà giáo. “Hỡi các con
cái ta, giờ cuối cùng là đây rồi, các con đã nghe nói rằng Kẻ Địch lại Đấng
Christ phải đến. Vừa lúc bây giờ, có nhiều kẻ địch lại Đấng Christ... Về phần
các con đã chịu xức dầu từ nơi Đấng Thánh, thì đã biết mọi sự rồi. Ta đã viết
cho các con chẳng phải vì các con không biết lẽ thật, nhưng vì các con biết
lẽ thật, và hiểu rằng chẳng có sự dối trá nào bởi lẽ thật mà ra... Ta đã viết
cho các con những điều này, chỉ về những kẻ lừa dối các con. Về phần các
con, sự xức dầu đã chịu từ nơi Chúa vẫn còn trong mình, thì không cần ai
dạy cho biết; song vì sự xức dầu của Ngài dạy các con đủ mọi việc, mà sự ấy
là thật, không phải dối, thì hãy ở trong Ngài, theo như sự dạy dỗ mà các con
đã nhận” (IGi1Ga 2:18-27). Từ ngữ xức dầu trong Hi văn là ‘Chrisma’ ám
chỉ Đức Thánh Linh là Đấng mà dẫu vẫn thường được dùng trong Kinh
Thánh để chỉ bóng (đối chiếu với XaDr 4:1-6). Tất cả những trường hợp xức
dầu cho các nhà tiên tri, các thầy tế lễ, và các vua trong Cựu Ước đều có
nghĩa hình bóng về việc được ban cho Đức Thánh Linh. Được một Giáo sư
như vậy, được bảo đảm bởi quyền năng Ngài rằng một lời hứa nào đó chắc
chắn sẽ ứng nghiệm, thật là điều hay; nó khiến chúng ta giữ mình khỏi sa
ngã, thất bại, và đến trình diện không chỗ trách được trước vinh quang Ngài
với sự vui mừng vô hạn (Giu Gd 1:24).
5. Đức Thánh Linh, Đấng Xức Dầu cho chúng ta, cũng là dấu ấn của chúng
ta. ICo1Cr 1:21, 22 chép: “Đấng làm cho bền vững chúng tôi với anh em
trong Đấng Christ, và đã xức dầu cho chúng tôi, ấy là Đức Chúa Trời; Ngài
cũng lấy ấn mình mà đóng cho chúng tôi và ban của tin Đức Thánh Linh
trong lòng chúng tôi”. Như vậy, Ngài là biểu tượng của sự an toàn, cũng như
quyền làm chủ, chiếm hữu chúng ta. Ngay khi tin nhận Chúa Giê-xu Christ,
chúng ta là những người đã tin Ngài “chúng ta được ấn chứng bằng Đức
Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng
ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để khen ngợi sự vinh
hiển Ngài” (Eph Ep 1:13, 14 đối chiếu với 4:30).
6. Các tín hữu được khuyến giục được đổ đầy Đức Thánh Linh (Eph Ep
5:18). Sau khi đã được Ngài sanh ra, được nhận phép báp-tem trong Đấng
Christ, sau khi thân thể chúng ta trở thành đền thờ Ngài, đã nhận Ngài như
Đấng Xức Dầu, như Dấu Ấn của chúng ta, thì chúng ta đầu phục Ngài là
điều hết sức phải lẽ (RoRm 6:13), chúng ta nên hiến thân cho Ngài như “một
của lễ sống và thánh đẹp lòng Đức Chúa Trời” vốn là “sự thờ phượng phải
lẽ” của chúng ta vậy (RoRm 12:1). Sau khi chúng ta đã dâng mình cho Ngài
như vậy rồi thì để cho Ngài đầy dẫy trong chúng ta, hầu sanh các trái “yêu
thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm
mại, tiết độ” (GaGl 5:22, 23).
Đây là bí quyết của sự thành công trong đời sống Cơ Đốc nhân.

Thân vị của Đức Thánh Linh.


Phải chăng không tin vào thân vị của Đức Thánh Linh với tư cách ngôi thứ
ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, là phạm tội chống lại Đức Thánh Linh?
Vâng. Đó là phạm tội chống lại Đức Thánh Linh và chống lại Ba Ngôi Đức
Chúa Trời nói chung, vì chối bỏ lời chứng của Kinh Thánh về (thân vị) của
Đức Thánh Linh là cho rằng Đức Chúa Trời nói dối. Nhưng cần nói thêm,
đó không phải là tội phạm đến Đức Thánh Linh đã được đề cập trong Mat
Mt 12:24-32, Mac Mc 3:22-30 và LuLc 11:14-20. Đây là tội của những kẻ
cho rằng Chúa chúng ta “bị quỉ ám” (Mac Mc 3:30). Tội bạn giờ được tha
thứ.

Lời chứng của Đức Thánh Linh.


Xin bàn về vấn đề Đức Thánh Linh làm chứng, như có chép trong HeDt
10:15; IGi1Ga 5:10; RoRm 8:16. Tôi chú ý đến một chữ trong các câu Kinh
Thánh ấy, dường như có ý nghĩa nổi bật, tức là “cho”, “trong” và “với” (theo
bản Anh văn: Đức Thánh Linh làm chứng với lòng chúng ta). Xin nhấn
mạnh cách ứng dụng mấy chữ đó trong ánh sáng của toàn bản văn.
Đức Thánh Linh làm chứng “cho” chúng ta mà HeDt 10:15 đề cập, là qua
Lời Kinh Thánh mà chính Ngài là Tác giả, và điều đó được kế tiếp trong câu
16 “Này là giao ước” v.v... trích dẫn từ Gie Gr 31:33. Cùng một khúc sách
ấy ông đã được trích dẫn trong HeDt 8:10. Câu này dạy dỗ chúng ta rằng tất
cả lời làm chứng của Đức Thánh Linh đều phù hợp với Kinh Thánh.
Đức Thánh Linh làm chứng “trong” chúng ta là niềm tin từ trong lòng rằng
chân lý được nêu ra đó chính là Lời Đức Chúa Trời. Chúng ta được cứu
không bởi “cảm xúc”. Niềm tin quyết ấy vốn tốt đẹp và vượt xa một cảm
xúc bình thường; nó là một sự bảo đảm chắc chắn căn cứ trên các lời hứa
của Kinh Thánh. Nó là hiệu quả của việc “tin lời chứng của Đức Chúa Trời
cho Con Ngài”. Như đã chép trong GiGa 3:33 “Ai đã nhận lấy lời chứng của
Ngài thì làm chứng chắc rằng Đức Chúa Trời là thật”.
Và Đức Thánh Linh làm chứng “với” chúng ta, là làm chứng về kết quả của
việc tin Đức Chúa Trời tức khắc tương giao với tâm linh của tín hữu và
khiến người ấy tin quyết rằng bây giờ, mình đã trở thành con cái và là người
thừa kế cơ nghiệp Ngài.
Cả ba sự làm chứng trên đây đều quí báu. Thật tuyệt vời biết bao, khi chúng
ta được tương giao, được thông công với “Đức Chúa Trời chí cao, Đấng
Chủ tể của cả trời và đất” và được bảo đảm rằng chúng ta đời đời được liên
kết với Ngài, được làm con Ngài và có chỗ ở đời đời trong nhà Ngài! Ha-lê-
lu-gia!
Sự sanh ra bởi Đức Thánh Linh và được nhận phép báp-tem bằng Đức
Thánh Linh.
Xin giải thích tại sao việc “được Đức Thánh Linh sanh ra” và “được nhận
phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh” vẫn thường được đề cập, suy nghĩ và
dạy dỗ như chỉ là cùng một sự việc. Trong GiGa 20:22, Chúa Giê-xu hà hơi
trên các môn đệ Ngài và bảo họ “Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh”. Đó là lúc
họ được sanh ra bởi Đức Thánh Linh, có phải không? Trong Cong Cv 2:4,
tất cả các môn đệ của Chúa đều được đổ đầy Đức Thánh Linh. Phải chăng
đó là phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh của họ?
Tôi đã hỏi mấy nhà thần học lỗi lạc, và họ thành thật thú nhận không thể
phân biệt giữa việc được Đức Thánh Linh sanh ra và được nhận phép báp-
tem bằng Đức Thánh Linh. Tại sao họ lại cho rằng hai sự việc ấy chỉ là một?
Nếu chỉ là một, thì tại sao chúng ta lại tách rời hai điều đó trong tư tưởng và
trong thực tế?
Sự sanh ra và phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh tuy xảy ra đồng thời,
nhưng không phải chỉ là một. Bởi sự sanh ra, chúng ta được đưa vào gia
đình Đức Chúa Trời như một em bé mới sanh; bởi phép báp-tem bằng Đức
Thánh Linh, chúng ta được trở thành chi thể của Đấng Christ “là thân thể, là
thịt và xương Ngài”.
Chúng ta không nên lấy từng trải của các sứ đồ và các môn đệ đầu tiên để
xem đó như khuôn mẫu cho từng trải của riêng mình. Họ đã được cứu rỗi
trước khi có thập tự giá và trước khi Đức Thánh Linh của Tân Ước giáng
lâm; chúng ta được cứu rất lâu về sau này. Trong chế độ hiện tại, mỗi một
tín hữu 1. được Đức Thánh Linh sanh ra (GiGa 3:3-7; Gia Gc 1:18; IPhi 1Pr
1:23-25) 2. được nhận phép báp-tem trong Ngài để trở thành thân thể của
Đấng Christ (ICo1Cr 12:13; RoRm 6:1-3; GaGl 3:27) 3. tiếp nhận Ngài như
Đấng xức dầu nhờ đó chúng ta được dắt dẫn vào lẽ thật (IGi1Ga 2:20-27;
GiGa 14:16, 17; 16:12-15) 4. được Ngài đóng ấn cho đến ngày cứu chuộc
(IICo 2Cr 1:21, 22; Eph Ep 1:13; 4:30); được Ngài ngự vào lòng (ICo1Cr
3:16; 6:19, 20; RoRm 8:9). Tất cả mọi việc trên đều nghiệm đúng với từng
tín hữu một; nhưng không phải tất cả tín hữu đều được đổ đầy Đức Thánh
Linh về việc đó, chúng ta được lịnh:
“Đừng say rượu, nhưng hãy đầy dẫy Đức Thánh Linh” (Eph Ep 5:18).
Khi chúng ta đầu phục Ngài, thì Ngài đầy dẫy chúng ta, kiểm soát và biến
đổi chúng ta “hoá nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển đến vinh hiển”
(IICo 2Cr 3:18).

Giai đoạn chuyển tiếp


Theo Cong Cv 8:15, 16, 17 và Cong Cv 19:2 chúng ta có nên tin rằng phép
báp-tem bằng Đức Thánh Linh phân biệt với việc Ngài ngự vào lòng và tái
sanh chúng ta không?
Không. Cong Cv 8:15, 16, 17 thuộc về giai đoạn chuyển tiếp mà Tin Lành từ
dân Do Thái được đưa sang cho dân ngoại bang. Trước khi Tin Lành được
chuyển trọn vẹn sang cho người Ngoại bang, ân tứ của Đức Thánh Linh
dường như phải chờ đợi, và chỉ được ban cho sau phép báp-tem bằng nớc
(Cong Cv 2:38); nhưng bắt đầu với buổi họp tại nhà Cọt-nây, Đức Thánh
Linh đã giáng xuống ngay trên các tín hữu, trước khi họ chịu phép báp-tem
bằng nước (Cong Cv 10:14-48). Các môn đồ của Giăng Báp-tít tại Ê-phê-sô
vẫn chưa là Cơ Đốc nhân lúc Phao-lô gặp họ. Phao-lô đã truyền giảng Đấng
Christ cho họ và làm phép báp-tem lại cho họ “nhân danh Đức Chúa Giê-xu,
và đó là vì nếu thiếu phần biểu hiện thấy được, họ có thể nghi ngờ việc Đấng
Christ đã sống lại, nên một sự biểu hiện thấy được đã được ban cho họ.
Nhưng giáo lý về phép báp-tem bởi Đức Thánh Linh cho thời đại ngày nay
của Cơ Đốc giáo đã được vạch rõ trong ICo1Cr 12:12, 13 khiến không ai có
thể lầm lẫn được. Điều này có nghĩa là mỗi tín hữu khi tin Chúa, liền được
nhận phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh ngay tức khắc để “được tiếp nhận
trong Đấng Christ” (RoRm 6:2, 3; GaGl 3:27).

Được đổ đầy Đức Thánh Linh.


Phải chăng “giết chết bản ngã” là phương pháp duy nhất để được đổ đầy
Đức Thánh Linh cách hoàn toàn? Phải chăng đó là ý nghĩa của RoRm 12:1,
2 và ITe1Tx 5:22, 23
Mỗi tín hỡu đều được đổ đầy Đức Thánh Linh teo mức độ đầu phục Đức
Chúa Trời với tư cách một người đã từ kẻ chết sống lại, dùng các chi thể của
mình làm công cụ phục vụ sự công chính cho Đức Chúa Trời. Muốn đầu
phục Đức Chúa Trời trọn vẹn, người ấy phải tự nhận là mình đã chết hẳn đối
với tội lỗi, và nhờ Đức Chúa Giê-xu Christ để sống cho Đức Chúa Trời
(RoRm 6:11-13). “Đầu phục” “phó”, “dâng” thân thể mình trong khúc sách
này cùng một từ ngữ với “dâng” thân thể mình trong RoRm 12:1, theo bản
Tân Ước Hi văn. Khúc sách trong thư Tê-sa-lô-ni-ca được trưng dẫn trên
đây gọi đó là “tránh đi” khi chúng ta bước trên đường đời này. “Tránh đi”
cũng có nghĩa là “tách biệt với”, “biệt riêng ra”. “Nên thánh” cũng có nghĩa
là “biệt riêng ra”. Một khi chúng ta “dâng mình” cho Đức Chúa Trời, đầu
phục Ngài trọn vẹn, là chúng ta “tự biệt riêng ra” cho Ngài. Do đó, cũng
tránh xa tất cả những gì chống lại Ngài.

Được Đức Thánh Linh dắt dẫn.


“Được Đức Thánh Linh dắt dẫn” có nghĩa gì?
Thánh Linh của Đức Chúa Trời luôn luôn tìm cách hướng dẫn cho mỗi con
cái của Ngài cả trong những chi tiết, nhỏ nhặt nhất của đời sống. Ngài ngự
trong lòng từng cá nhân tín hữu (ICo1Cr 6:19) và cho người sẵn sàng vâng
phục Ngài nghe được tiếng phán dạy của Ngài. Ngài có thể phán dạy chúng
ta qua Lời Kinh Thánh hoặc qua hoàn cảnh xảy ra, hoặc bằng một tiếng nói
nhỏ nhẹ. Dĩ nhiên là sự hướng dẫn của Ngài không hề trái với Lời Kinh
Thánh ra, nhắm mắt chỉ vào một câu nào đó, mong rằng làm như thế là đã
được Đức Thánh Linh hướng dẫn. Đức Thánh Linh hưóng dẫn qua Lời dạy
dỗ rõ ràng trong Kinh Thánh, và khi chừng đó vẫn chưa đủ để bày tỏ ý chỉ
Ngài, thì Ngài sẽ có cách khác để truyền thông ý chỉ Ngài cho người nào
thật lòng muốn biết và vâng theo ý chỉ ấy. “Vì con mắt của Đức Giê-hô-va
soi xét khắp thế gian, đặng giúp sức cho kẻ nào có lòng trọn thành đối với
Ngài” (IISu 2Sb 6:9).

Đức Thánh Linh toàn tại (ở khắp mọi nơi).


Làm thế nào có sự cứu rỗi được, sau khi Hội Thánh đã được cất lên, và Đức
Thánh Linh cũng bị cất đi?
Không có câu Kinh Thánh nào dạy rằng khi Hội Thánh được cất lên khỏi đất
này khi Chúa Giê-xu tái lâm, thì Đức Thánh Linh cũng bị cất đi. Đúng hơn,
thì Ngài chỉ “tạm tránh khỏi con đường” với tư cách Đấng ngăn trở việc làm
của kẻ bất pháp (IITe 2Tx 2:7). Từ đó trở đi, với tư cách Đấng toàn tại, Đức
Thánh Linh vẫn hiện diện trên đất này như Ngài đã từng hiện diện trước lúc
Ngài “giáng lâm” trong Cong Cv 2:1-47 để nhân danh Chúa, thâu góp cho
Ngài một dân.

Lộng ngôn cùng Đức Thánh Linh.


Tội phạm đến Đức Thánh Linh là gì?
Lời giải đáp được tìm thấy trong Mac Mc 3:30 “Vì họ nói rằng: Người bị tà
ma ám” cho nên Ngài mới nói ra lời cảnh cáo nghiêm trọng ấy. Thật ra thì
họ đã bảo răng Đức Thánh Linh là một tà linh của Sa-tan. Chúng ta sẽ thấy
rõ mọi sự trong Mat Mt 12:24-29; Mac Mc 3:22-30 và LuLc 11:14-23. Bài
học thực tiễn cho chúng ta dường như là phải thận tọng phân biệt từng việc
làm đạo đức một, xem đàng sau nó là Thánh Linh của Đức Chúa Trời hay
một tà ma của quỉ Sa-tan. Và chúng ta không nên xét đoán việc làm của
người khác vì sự xét đoán là phần việc của Lời Đức Chúa Trời.

Việc đặt tay.


Xin giải thích Cong Cv 8:12-17. Khi một người tin nhận Chúa Giê-xu làm
Cứu Chúa mình, thì nhận được Đức Thánh Linh. Tại sao trong trường hợp
người Sa-ma-ri ở đây, lại cần đến việc đặt tay?
Lý do Đức Thánh Linh chưa đáp ứng trong Cong Cv 8:12-17 là vì chưa có
mặt của Phi-e-rơ. Theo Mat Mt 16:19, thì Phi-e-rơ là xướng ngôn viên đã
được chỉ định của Đấng Christ phục sinh, và ông phải có mặt lần đầu tiên
trong Công vụ đoạn 2 khi dân Do Thái được nghe Tin Lành; rồi trong
chương 8, khi người Sa-ma-ri được nghe Tin Lành, và trong chương 14, khi
người ngoại bang cũng được nghe. Sau khi ông đã dùng cả ba chiếc chìa
khoá, thì sự hiện diện của ông không còn cần thiết nữa.

Chờ đợi mười ngày.


Tại sao các môn đồ đã phải chờ đợi mười ngày tại Giê-ru-sa-lem, rồi Đức
Thánh Linh mới giáng trên họ? Với những người chết đi trong thời gian đó
thì sao?
Họ phải chờ mười ngày, để nghĩa bóng của Lễ ngũ Tuần trong LeLv 23:1-44
được ứng nghiệm. Theo câu 9-14, nghĩa bóng của bó lúa đầu mùa đưa qua
đưa lại được ứng nghiệm trong việc Chúa chúng ta phục sinh. Câu 15-21 là
phần nghĩa bóng về trái đầu mùa ứng nghiệm trong việc thành lập Hội
Thánh Tân Ước của Công vụ 2. Theo nghĩa bóng thì việc đó phải xảy ra
ngay sau ngày Sa-bát thứ bảy sau lễ bó lúa đầu mùa được đưa qua đưa lại,
và lễ dâng trái đầu mùa Chữ “Ngũ tuần” là từ ngữ Hi-bá lai có nghĩ alà “thứ
năm mươi” do đó, việc ứng nghiệm nghĩa bóng đó phải dời lại “cho đến
ngày thứ năm mươi (lễ Ngũ tuần)”. Về những người qua đời trong thời gian
đó, nếu có, thì việc họ được cứu không bị ảnh hưởng gì; họ chỉ không được
liệt vào Hội Thánh Tân Ước mà thôi.
Sự hiệp một trong Thánh Linh.
Xin định nghĩa “hiệp một trong Thánh Linh”.
Từ ngữ “hiệp một” chỉ xuất hiện ba lần trong Kinh Thánh (bản dịch Anh
văn) và cả ba lần đều đề cập cũng một sự việc: sự hiệp một của thân thể
Đấng Christ, được Đức Thánh Linh duy trì. Từ ngữ ấy xuất hiện lần đầu
trong Thi Tv 133:1-3, khi sự hiệp một được ví sánh với dầu quí giá đổ ra
trên đầu “thầy tế lễ thượng phẩm, chảy đến “trôn áo người”. Nghĩa bóng ở
đây rất rõ ràng. Chúa Giê-xu của chúng ta đã được Đức Thánh Linh xức
“bằng dầu vui vẻ trổi hơn đồng loại của Chúa” (Thi Tv 45:1-17), chỉ bóng về
Ngài là cái Đầu của Hội Thánh, thân thể của Ngài (Eph Ep 1:22, 23). Hai lần
khác mà từ ngữ “hiệp một” được dùng, là trong Êph 4. Trong câu 3 chúng ta
được khuyên giục “giữ sự hiệp một của Thánh Linh” vốn gồm bảy chân lý
căn bản cần phải nắm chắc, đó là 1. một thân thể; 2. một Thánh Linh; 3. một
sự trông cậy (hi vọng); 4. một Chúa; 5. một đức tin; 6. một phép báp-tem, và
7. một Đức Chúa Trời là Cha. Đó là nền tảng chân chính của Cơ Đốc giáo,
để tất cả Cơ Đốc nhân đều dựa vào, mà thông công với nhau. Tiếp theo là
các ân tứ do Đấng Christ phục sinh ban cho thân thể Ngài để gây dựng do
Đấng Christ phục sinh ban cho thân thể Ngài để gây dựng lẫn nhau “cho đến
chừng chúng ta thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con
Đức Chúa Trời, mà nên bậc thánh nhơn, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn
của Đấng Christ” (câu 13). “Con người tầm thước vóc giạc trọn vẹn” chỉ về
Đấng Christ, lúc Ngài hiệp một với Hội Thánh đã thành toàn để trở thành
Thân thể Ngài, là “sự đầy dẫy của Đấng vốn đầy dẫy mọi sự trong mọi
người”.

Vấn đề các thứ tiếng lạ.


Phải chăng nói tiếng lạ là một dấu hiệu cần thiết để chứng minh một người
đã nhận phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh?
Không, điều đó không đúng. Trong thời Hội Thánh Tân Ước hình thành, dấu
hiệu ấy thường kèm theo việc được nhận báp-tem bằng Đức Thánh Linh;
nhưng cũng như các dấu hiệu ngoạn mục khác dấu hiệu ấy đã bị rút lại khi
Tân Ước sắp được hoàn tất.
Trong ICô-rinh-tô đoạn 14 là chương sách đề cập chi tiết đến vấn đề các thứ
tiếng lạ; việc nói tiếng lạ không có người thông giải đã bị cấm (c.28). Phép
báp-tem bằng Đức Thánh Linh xảy ra đồng thời với sự tái sanh, cũng như
việc được xức dầu, sự đóng ấn và ngự trị trong lòng tín hữu của Đức Thánh
Linh (xem GiGa 3:3-8; ICo1Cr 1:12, 13; RoRm 6:3; GaGl 3:27; IGi1Ga
2:20-27; IICo 2Cr 1:21, 22; Eph Ep 1:13; 4:30). Thêm vào mọi điều đó,
chúng ta còn được lịnh truyền “phải đầy dẫy Đức Thánh Linh”, điều này
khác các việc vừa kể trên là chỉ xảy ra một lần dứt khoát, nhưng được lặp đi
lặp lại nhiều lần. Dĩ nhiên là chúng ta được liên tục đổ đầy Đức Thánh Linh
bao lâu chúng ta chịu phục tùng Ngài.

Ân tứ nói tiếng lạ
1. Phải chăng Phao-lô “đã được ơn nói nhiều thứ tiếng lạ”? (ICo1Cr 14:18).
2. Nếu IICo 2Cr 14:22 là đúng, tại sao ngày nay chúng ta không nhận được
ân tứ ấy?
1. Vâng.
2. Vì Chúa đẹp lòng muốn rút lại ân tứ ấy. Ngay từ thời các sứ đồ, việc thi
hành ân tứ ấy cũng bị cấm nếu không có người thông giải (ICo1Cr 14:28).

Các thứ tiếng lạ và Đức Thánh Linh.


Có một giáo phái tên gọi “Tin Lành vuông vức” (Foursquare Gospel) dạy
rằng chúng ta phải nói tiếng lạ, nếu không, chúng ta chưa được Đức Thánh
Linh đóng ấn cho. Có đúng như vậy không?
Không, điều đó không đúng. Mỗi Cơ Đốc nhân đều đã được đóng ấn ngay
lúc người ấy tin Chúa: “Đấng làm cho bền vững chúng tôi với anh em trong
Đấng Christ, và đã xức dầu cho chúng tôi, ấy là Đức Chúa Trời; Ngài cũng
lấy ấn mình mà đóng cho chúng tôi và ban của tin là Đức Thánh Linh trong
lòng chúng tôi” (IICo 2Cr 1:21, 22) “Ấy cũng lại trong Ngài mà anh em sau
khi đã nghe đạo chơn thật, là đạo Tin Lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong
Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng
Chúa đã hứa. Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta cho đến kỳ chuộc
lấy những kẻ mà Ngài đã được, để khen ngợi sự vinh hiển Ngài” (Eph Ep
1:13, 14) “Anh em chớ làm buồn lòng Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời,
vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc” (Eph Ep 4:30), các
câu Kinh Thánh trên đã chứng minh rõ rằng cả các tín hữu đều được đóng ấn
bằng Đức Thánh Linh.

Công cuộc tạo thiên lập địa.


Trước thời A-đam. Khoảng cách giữa SaSt 1:1, 2
Có bằng chứng gì xác minh cho thuyết chủ trương có một thời gian không
hạn định giữa câu 1 và 2 của sách Sáng Thế Ký?
Niên đại của Sáng 11 không được tiết lộ. Bắt đầu câu 2, chúng ta được biết
về sự “đất được đầy dẫy” tiếp sau một cơn đại biến giữa câu 1 và 2, mà
Kinh Thánh không ghi lại. Từ ngữ Hi-bá-lai hayetha dịch ra “là” được nhiều
chỗ khác trong Kinh Thánh dịch là “trở thành, trở nên”. Bằng chứng trong
Kinh Thánh hậu thuẫn cho cách dịch này, là tình trạng hoang vu và vắng
lặng của địa cầu vào “thời đại sơ khai” như người ta thường nói Rotherham
dịch 1:2 như sau: “Bấy giờ, trái đất đã trở thành hoang vu, trống vắng, và
bóng tối ngự trị trên vực sâu đang gào thét; nhưng Linh của Đức Chúa Trời
bao phủ trên mặt nước” ông đã ghi chú về mấy chữ hoang vu và vắng bóng
như sau: “Tiếng Hi-bá-lai là 'tohu Wavohu'. Rõ ràng là một cách nhại tiếng
đặc biệt. Hai chữ này chỉ xuất hiện chung với nhau hai lần nữa trong EsIs
34:11 và Gie Gr 4:23, là hai thí dụ hậu thuẫn cho cách kết luận rằng đó là
hậu quả của một cảnh sụp đổ hoàn toàn trước đó”. Bộ “Companion Bible”
có ghi chú như sau về chữ đã được dịch là “vô hình và trống không":
“Không phải đã được tạo dựng là tohu (EsIs 45:18) nhưng là trở thành tohu
(SaSt 12:1-20; IIPhi 2Pr 3:5, 6). Một kẻ thù đã làm việc đó (Mat Mt 13:25,
28, 39. Đối chiếu với ICo1Cr 14:33).
Câu hỏi này cần phải viết cả một quyển sách mới có thể trả lời chi tiết được.
Đức Chúa Trời có tạo ra những tảng đá với các hoá thạch trong đó hay
không, thì vấn đề không còn bàn cãi ở đây, vì rõ ràng là Ngài đã không hề
tạo dựng ra như vậy. Các hoá thạch vốn có nhiều và người ta có thể đồng
hoá chúng với các hình thức của sự sống mà chúng ta không hề ngần ngại
nếu phải xác nhận. Tuy nhiên, điều đó không bắt buộc chúng ta thừa nhận
rằng cách giải thích các hoá thạch như thế là đúng. Tuy nhiên, chúng ta cũng
nhấn mạnh rằng “thuyết khoảng cách” không hề ngụ ý có một công cuộc
sáng tạo thứ hai sau khi trời đất thứ nhất bị phá huỷ, cũng như không hề xác
nhận rằng đã có một sự xây dựng lại trái đất sau cơn nước lụt. Hành động
được mô tả trong câu 1 là công cuộc sáng tạo, công tác trong sáu ngày là
việc tái tạo. Quyển “New Geology” của George Mc Cready Price, cho biết
chúng ta không cần xác nhận có những khoảng thời gian lâu dài ngăn cách
các thời đại của Địa chất học. Ông tuyên bố là được nhiều nhà địa chất học
lỗi lạc khác đồng ý, rằng có nhiều bằng chứng về những cơn đại biến địa
chất đã được ghi nhận, và những cơn đại hoạ như trận hồng thuỷ thời Nô-ê
có thể được ghi nhận trong các hoá thạch và các lớp trầm tích. Ông chứng
minh rằng thuyết của Lyell và Hutton từng được mọi người thừa nhận, vẫn
có thể bị đả phá và cả khoa địa chất học cần phải được viết lại. Quả thật, các
nhà khoa học của trường phái tiến hoá vẫn cố gắng chế diễu ông Price,
nhưng chẳng những ông đã đưa ra kết quả công cuộc nghiên cứu của mình,
mà còn trích dẫn nhiều bằng chứng có uy tín nữa.
Có nhiều chân lý trong Lời Đức Chúa Trời đã gặp khó khăn và điều đó cũng
đúng với bất cứ thuyết khoa học nào khác, các nhà khoa học đều sẵn sàng
thừa nhận như vậy. Nếu “thuyết khoảng cách” đã gặp khó khăn, thì tất cả
các thuyết khác cũng phải chịu cùng cảnh ngộ. Xin chúng ta nhớ rằng phần
ký thuật của Sáng thế ký chỉ là những nét sơ phác, mà số tài liệu địa chất học
đã thân thập được cũng hết sức mong manh, tản mạn. Hai bảng phác hoạ đều
có thể gặp khó khăn hoặc chứa đựng cả những điểm trái ngược mâu thuẫn
nhau. Nếu chúng ta biết rõ những gì gói ghém trong câu chuyện về cuộc
sáng tạo trời đất như Môi-se đã ghi lại, mà cũng nắm được toàn lịch sử các
niên đại của khoa địa chất mà người ta chỉ ghi lại những nét sơ phác thì
chúng ta sẽ không còn gặp khó khăn hay mâu thuẫn nữa. Các nhà khoa học
vẫn yêu cầu chúng ta tin cả khi không nếm được các bằng chứng tuyệt đối.
Đức Chúa Trời cũng đòi hỏi y như vậy, nhưng đồng thời Ngài đã chứng
minh Lời Ngài là chân lý mà đức tin có thể dùng làm nền tảng vững chắc.

Loài người
Sáng tạo hay tiến hoá.
Có bằng cớ hiển nhiên nào trong Kinh Thánh chứng minh rằng Đức Chúa
Trời đã trực tiếp dựng nên loài người?
Trong Kinh Thánh, không hề có điểm nào dẫu là nhỏ nhặt nhất, nhấn mạnh
rằng con người là sản phẩm của sự tiến hoá. Loài người đã được Đức Chúa
Trời dựng nên, chứ không phải từ bùn đất mà tiến hoá thành. Đối với những
ai phục tùng thẩm quyền của Kinh Thánh, thì không có gì để nghi ngờ lời
khẳng định đó. Các sự kiện đã được Tiến sĩ Scofield vạch rõ như sau:
1. “Con người vốn được sáng tạo ra chứ không phải nhờ tiến hoá mà trở
thành. Đây là a. một lời công bố rõ ràng, đã được Đấng Christ xác nhận (Mat
Mt 19:4; Mac Mc 10:6) b. Theo Huxley thì “có một hố sâu khổng lồ ngăn
cách, một khoảng cách thật sự là vô hạn giữa con người hạ cấp nhất, với con
vật cao cấp nhất c. Con vật cao cấp nhất vẫn không có chút ý thức gì về Đức
Chúa Trời, tức không có bản chất tôn giáo; d. khoa học đã chẳng khám phá
được gì để nối liền khoảng cách đó.
2. Loài người được tạo dựng “theo hình tượng” của Đức Chúa Trời. Hình
ảnh ấy được nhận thấy rõ nhất ở “ba phần hiệp một” tạo thành người và ở
bản tính đạo đức của con người. Con người gồm có “tâm thần linh hồn và
thân thể” (ITe1Tx 5:23). Tâm thần (thần linh) là phần giúp con người nhận
biết” (IICo 2Cr 2:11) để tự liên kết với công cuộc sáng tạo thuộc linh và có
nhận thức về Đức Chúa Trời. “Linh hồn” ẩn tàng phần tự ý thức về sự sống
để phân biệt loài người với cây cỏ, vốn không có ý thức về sự sống. Theo ý
nghĩa ấy thì loài vật cũng có “hồn” (SaSt 1:24). Nhưng “linh hồn” con người
có tiềm năng lớn hơn “hồn” thú vật. Nó là trung tâm của cảm xúc, ước muốn
và tình cảm (Thi Tv 42:1-6). Trong Kinh Thánh chữ “lòng” thường được
dùng như đồng nghĩa với “linh hồn. Vì đặc tính của con người tự nhiên là có
tâm hồn hay tâm linh, cho nên chữ “linh hồn” cũng thường được dùng như
đồng nghĩa với cá nhân một người (SaSt 12:5). Thân thể tuy có thể bị tách
rời khỏi tâm thần và linh hồn và có thể chết đi, nhưng vẫn là một phần chính
của con người, như được chứng minh trong sự sống lại (GiGa 5:28, 29;
ICo1Cr 15:47-50; KhKh 20:11-13). Đó là trung tâm của các giác quan (nhờ
đó mà tâm thần và linh hồn ý thức được ngoại giới) và là bản tính đã sa ngã
của A-đam (RoRm 7:23, 24).

Sự tiến hoá.
Xin kể tên một số khoa học gia không tin thuyết tiến hoá.
Giáo sư William Bateson Anh quốc là nhà sinh học hàng đầu thế giới, mới
đây có nói: “Nếu bốn mươi năm trước đây, thuyết của Darwin được thừa
nhận không chút thắc mắc, thì ngày nay, các khoa học gia đang tiến tới chỗ
không giải thích được nguyên nhân sơ khởi của các chủng loại. Không có
bằng cớ về bất kỳ một chủng loại nào đã thủ đắc được những tài năng mới,
mà có rất nhiều thí dụ về các chủng loại đã đánh mất đi, chớ không thêm gì
được cho những sở năng của mình. Hằng ngày người ta đều chứng kiến
nhiều sự biến dạng khác nhau, có khi rất đáng kể nhưng không xảy ra ở
nguồn sơ nguyên của các chủng loại”.
Giáo sư N.S.Shaler nhà địa chất học của đại học đường Harvard nói: “các
nhà khoa học tự nhiên đã bắt đầu thấy rõ là thuyết của Darwin vẫn chưa
được chứng nghiệm”.
Cố giáo sư Virehow người được xem là “nhà hoá học lừng danh nhất thế
giới” đã nói về thuyết tiến hoá: “Nó hoàn toàn vô nghĩa. Khoa học không
chứng minh được là loài người vốn từ loài khỉ hay bất cứ một loài thú nào
khác mà ra.... Mọi kiến thức khoa học chân chính đều đứng về phía đối lập.
Nỗ lực nhằm chứng minh sự chuyển tiếp từ loài thú sang loài người đã kết
thúc trong thất bại hoàn toàn. Mắc xích trung gian đã và sẽ không thể nào
tìm ra. Người ta đã chứng minh rằng suốt một quá khứ năm ngàn năm, đã
không có sự thay đổi nào nhận thấy được trong nhân loại”.
Nhà địa chất học Gia-nã-đại Sir William Dawson nói: “Các di tích trong đá
đã dứt khoát chống lại thuyết tiến hoá, nhất là về phương diện có sự xuất
hiện đột ngột của các hình thái mới. Tất cả các đẳng cấp của sự sống đều
đang ở mức cao nhất và tuyệt hảo như từ lúc chúng mới được phú cho.
Người ta chẳng được biết gì cả về nguồn gốc con người”.
Giáo sư Agassiz một khao học gia hiện đại lỗi lạc nhất, nói: “Tôi ngạc nhiên
vì các giáo sư trong các đại học đường của chúng ta đã quá vội vàng truyền
bá từ các bục giảng của họ về những tàn tích của thuyết tiến hoá, trong khi
thuyết ấy vẫn còn là một lý thuyết chưa được chứng nghiệm”.
Tiến sĩ Etheridge chuyên gia lừng danh của Viện Bảo tàng Anh quốc về hoá
thạch học, nói: “Chín phần mười những gì người theo thuyết tiến hoá nói
đều vô nghĩa. Bảo tàng viện này có đầy dẫy bằng cớ chứng minh sự hoàn
toàn sai lầm của các quan điểm đó”.
Hãy còn nhiều nhân vật khác nữa, nhưng chừng đó thiết tưởng cũng đủ để
chứng minh rằng Thuyết tiến hoá là không đúng. Tiến sĩ Marion Mc H.Hull
tuyên bố rằng thuyết tiến hoá phá hoại sự mạc khải của Kinh Thánh, sự sa
ngã của loài người, thần tính và việc Đấng Christ được sanh ra do một trinh
nữa, sự cứu chuộc và tái sanh, và ông nói tiếp: “Thuyết tiến hoá đã được
chứng minh chỉ là một triết thuyết, nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã không tin
nó, chúng ta đã thấy là nó đi ngược với Lời Chúa và các giáo lý quan trọng
trong Kinh Thánh vậy, tại sao chúng ta còn dành cho nó một chỗ trong tư
tưởng của mình? Chúng ta hãy trở về với một đức tin đơn sơ, lành mạnh nơi
chân lý trọn vẹn đã được bày tỏ qua Lời Hằng sống của Đức Chúa Trời. Mỗi
từ ngữ đều được Chúa hà hơi và do các nhân vật được Đức Thánh Linh cảm
thúc để giãi bày phần chân lý chẳng chút sai lầm. Riêng phần tôi và nhà tôi
sẽ đứng vững trên Kinh Thánh và chấp nhận giá trị hiển hiên của Lời Chúa
không thắc mắc gì”.

Sa-tan
Tại sao ông tin là quả thật có một con quỉ?
Vì tôi cũng tin là có một Đức Chúa Trời. Kinh Thánh đã gọi đích danh quỉ
Sa-tan sáu mươi sáu lần, gọi nó là ma quỉ ba mươi bốn lần, và mỗi khi đề
cập đến nó trong tổng số một trăm lần đó, nó đều được tỏ ra là một hữu thể
có nhân cách và có các thuộc tính riêng. Trong Kinh Thánh, nó cũng được
đề cập đến rất thường xuyên mà không nêu tên, dẫu có gọi tên hay không -
Kinh Thánh luôn bày tỏ ma quỉ là một nhân cách có quyền năng đang tìm
mọi cách lôi kéo con người xây khỏi sự thờ phượng Đức Chúa Trời chân
thật.

Tại sao chúng ta lại nghiên cứu về Sa-tan?


Biết (về) Sa-tan thì có quan trọng gì?
Đây là điều vô cùng quan trọng chúng ta cần phải biết Sa-tan là ai. Kinh
Thánh không bỏ mặc để chúng ta hoàn toàn mù tịt về nó. Từ trước đến nay,
người ta vẫn có thói quen hình dung Sa-tan như một nhân vật đáng ghê tởm
của các thời đại tăm tối do người ta đưa ra để nhát thiên hạ, hay để chế diễu
hoặc làm trò cười. Điều này hoàn toàn phù hợp với các kế hoạch của nó, với
tư cách là kẻ thù của Đức Chúa Trời và loài người, vì nếu chúng ta bị lừa mà
xem nó như không có thật, hoặc không đáng suy nghĩ cách nghiêm túc, thì
chúng ta sẽ không dự phòng các bẫy rập của nó.
Sa-tan là một thân vị có thật. Cả Kinh Thánh không có chỗ nào xem nó là
phi nhân cách. Nó có tên riêng, đại danh từ riêng, có hành động, kế hoạch
mưu mô lý luận riêng, có thân vị thật cũng như Đức Chúa Trời vốn là một
thân vị, như con người vốn có nhân cách vậy. Quỉ Sa-tan không chỉ là một
ảnh hưởng của điều ác, hay một nguyên lý của tội ác mà thôi.
Nó vốn là một thân vị rất cao trọng (Giu Gd 1:8-9). Từ đầu nó được tạo
dựng thật trọn vẹn, nhưng đã sa ngã vì kiêu ngạo chắc chắn nó chính là vua
của Ty-rơ được mô tả cách thuộc linh theo lời tiên tri của Ê-xê-chi-ên (đối
chiếu Exe Ed 28:11-17 với GiGa 8:44 và ITi1Tm 3:6). Không như các thiên
sứ sa ngã của Giu-đe 6, nó không hề bị kìm hãm, mà giống “như sư tử rống,
đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được”
(IPhi 1Pr 5:8).
Sa-tan không ở dưới hoả ngục. Tuy chỗ đáng sợ đó được đặc biệt dành cho
nó va các quỉ sứ của nó (Mat Mt 26:41) và chắc chắn nó sẽ bị ném xuống hồ
lửa (KhKh 20:10). Trú sở hiện tại của nó phần lớn là ở các nơi trên trời, nơi
nó có thể vào ra mắt Đức Chúa Trời để tố cáo các thánh đồ khỏi thiên đàng
là trong tương lai. Chúa Giê-xu từng nói tiên tri về cùng một biến cố trong
LuLc 10:18 và GiGa 12:31. Cuối cùng khi bị ném vào hoả ngục, Sa-tan sẽ bị
hành hạ tại đó đời đời. Nó sẽ bị ném vào “hồ lửa và diêm, trong đó đã có con
thú và tiên tri giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến
đời đời” (KhKh 20:10).
Trong khi chờ đợi, hiện quỉ Sa-tan vẫn là vua - vua của các đạo quân tà linh
ở các nơi trên trời, cầm quyền chốn không trung, vua của thế gian này và là
thần của đời này (Eph Ep 2:2; 6:12; GiGa 12:31; 14:30; IICo 2Cr 4:4).

Quỉ Sa-tan, Hội Thánh, và dân Y-sơ-ra-ên.


Xin giải nghĩa KhKh 12:1-6, 13-17
Người đàn bà là dân Y-sơ-ra-ên “bởi dân ấy sanh ra Đấng Christ” (RoRm
9:5). Mặt trời là Đấng Christ với đặc tính là vinh quang của dân Y-sơ-ra-ên
(MaMl 4:2).
Mặt trăng là Hội Thánh, phản chiếu hào quang của Mặt trời đang vắng bóng.
Hội Thánh ở dưới chân người đàn bà, vạch rõ địa vị vượt trội của dân Y-sơ-
ra-ên về phương diện thời gian, và có lẽ nhằm nhắc cho chúng ta nhớ rằng
“sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (GiGa 4:22).
Con rồng là Sa-tan, và bảy cái đầu với các sừng và mão triều thiên chỉ về địa
vị và vai trò của nó trên thế gian này; nó là thần đời này và là vua cầm quyền
chốn không trung (GiGa 12:31; 14:30;; IICo 2Cr 4:4; Eph Ep 2:2 đối chiếu
với KhKh 13:1-4).
Dĩ nhiên, Con Trai ở đây là Đấng Christ (đối chiếu câu 5 với Thi Tv 2:7-9).
Nhưng đây là Đấng Christ trọn vẹn, gồm cả “Hội Thánh là thân thể của
Ngài, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài” (Eph Ep
1:22, 23) Chúa là Đầu, và Hội Thánh là thân thể Ngài. Cái Đầu và Hội
Thánh hiệp lại, làm thành “một người” theo GaGl 3:28, một người trọn vẹn
theo Eph Ep 4:13, và là “con trai” theo KhKh 12:5. Con trai ấy đang được
sanh ra, và những khổ nạn của dân Y-sơ-ra-ên trải qua các thời đại này, là
cơn đau đẻ sẽ cứ tiếp tục cho đến khi nào Hội Thánh “được đầy đủ do số
dân ngoại nhập vào” (RoRm 11:25). Sau khi Hội Thánh đã được tập họp đầy
đủ (Cong Cv 15:14) thì thân thể Đấng Christ đã nên tầm thước vóc giạc trọn
vẹn, Con trai đã ra đời thì liền được Đức Chúa Trời cất lên (KhKh 12:5;
ITe1Tx 4:16-18). Đây là việc mà quỉ Sa-tan muốn ngăn chận. Nó luôn luôn
đe doạ Con trai ấy, muốn ăn tươi nuốt sống Đấng Christ và Thân thể Ngài
nếu có thể được - dĩ nhiên nó không thể thực hiện ý đồ ấy vì “Đấng ở với
chúng ta vốn lớn hơn kẻ ở trong thế gian” (IGi1Ga 4:4).
Ngay sau khi Hội Thánh được thành toàn và được tiếp lên để gặp Chúa dân
Y-sơ-ra-ên sẽ được Đức Chúa Trời bảo vệ đặc biệt. Cơn đại nạn gồm phân
nửa của tuần lễ ba năm ở vào tuần thứ bảy mươi của Đa-ni-ên kéo dài 1260
ngày, hay “một kỳ, những kỳ, và nửa kỳ (một năm + hai năm + nửa năm =
ba năm rưởi) sẽ nổi bật hẳn lên là “kỳ tai hại của Gia-cốp; Nhưng nó sẽ được
cứu thoát khỏi sự ấy” (Gie Gr 30:7; KhKh 12:6, 14).

Bị phó cho Sa-tan.


Giải thích ICo1Cr 5:5
Trong câu này, sứ đồ Phao-lô truyền cho Hội Thánh Cô-rinh-tô phó một
thuộc viên là tín đồ đã phạm tội tà dâm “cho quỉ Sa-tan để huỷ hoại phần
xác thịt, hầu cho linh hồn được cứu trong ngày Đức Chúa Giê-xu”. Lịnh
truyền này còn được phát hiện dưới một hình thức khác trong câu 13 “Hãy
trừ bỏ kẻ gian ác khỏi anh em”. Ít nhất cũng còn hai thí dụ khác trong Kinh
Thánh về việc con cái Đức Chúa Trời đáp ứng lại lời thách thức khiêu khích
của Sa-tan (Giop G 1:9-12; 2:4-6). Dĩ nhiên, việc này xảy ra nhằm chứng
minh rằng Đức Chúa Trời có thể nâng đỡ người của Ngài qua cơn thử thách.
Phần chứng minh đã hoàn tất và câu chuyện ghi lại vốn là sự nâng đỡ và an
ủi lớn cho những người thuộc về Đức Chúa Trời qua các thời đại. Phi-e-rơ
cũng từng bị phó mặc để Sa-tan sàng sảy như lúa mì, nhưng ông đã được
báo trước và được bảo đảm rằng Đấng Biện Hộ cho ông đang cầu nguyện
“hầu cho đức tin ông không thiếu thốn” (LuLc 22:31, 32). Và dĩ nhiên là
chính Chúa của chúng ta cũng từng bị phó cho Sa-tan y như vậy - Đức
Thánh Linh giục Ngài đến nơi đồng vắng để chịu quỉ Sa-tan cám dỗ (Mac
Mc 1:12, 13). Cần chú ý là người tín đồ Cô-rinh-tô phạm tội đã ăn năn hối
cải sau khi từng trải việc “bị phó cho Sa-tan”, và đã được nhập vào sự thông
công trở lại với Hội Thánh. (IICo 2Cr 2:6-11).

Sa-tan với thiên đàng.


Trên thiên đàng có quỉ Sa-tan không?
Sa-tan là vua cầm quyền chốn không trung, là vua chúa thế gian này và là
thần của kỷ nguyên này (Eph Ep 2:2; GiGa 12:31; IICo 2Cr 4:4). Việc nó bị
quăng khỏi thiên đàng hãy còn ở trong tương lai, mà lời Chúa chúng ta trong
LuLc 10:18 là lời báo trước, nên nó vẫn còn có thể vào ra mắt Đức Chúa
Trời để “kiện cáo anh em” (KhKh 12:10). Số phận cuối cùng của nó là sẽ bị
ném vào hồ lửa, tức là hoả ngục, nhưng đó là việc trong tương lai xin xem
20:10.

Sa-tan với một thân xác.


Có câu Kinh Thánh nào cho biết là hiện nay Sa-tan vốn không có thân xác
(vô hình) không? Trước khi sa ngã và còn ở trên thiên đàng, thì nó có thân
xác không?
Có lẽ Sa-tan chính là nhân vật đã được Exe Ed 28:11-19 trực tiếp đề cập đến
với tư cách là Vua thuộc linh của Ty-rơ. Phần mô tả đó cho thấy nguyên nó
có một thân thể rất đẹp đẽ vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Theo tôi
biết thì không có câu Kinh Thánh nào nói rõ hiện nay nó có một thân xác
hay không. Nhưng dường như nó có quyền xuất hiện dưới nhiều hình thể.

Việc trói buộc Sa-tan.


Theo tôi hiểu, thì suốt thời kỳ thiên hi niên tức là một ngàn năm dưới quyền
cai trị của Đấng Christ và các thánh đồ Ngài trên đất này thì quỉ Sa-tan sẽ bị
trói lại. Có phải đúng như thế không?
Vâng, điều đó là đúng. KhKh 20:1-3 chép rõ ràng về vấn đề ấy. “Đoạn tôi
thấy một vị thiên sứ từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực sâu và một cái
xiềng lớn. Người bắt con rồng, tức là con rắn đời xưa là ma quỉ, là Sa-tan,
mà xiềng nó lại đến ngàn năm. Người quăng nó xuống vực, đóng cửa vực và
niêm phong lại, hầu cho nó không đi lừa dối các dân được nữa, cho đến
chừng nào hạn một ngàn năm đã mãn”.

Sa-tan không toàn tri.


Khi bàn về Sa-tan, tôi thường nghe nói rằng nó chỉ cám dỗ chúng ta lúc
chúng ta yếu đuối nhất. Nếu vậy thì nó phải có khả năng biết rõ mọi sự. Xin
cho biết câu nào trong Kinh Thánh có thể soi sáng về chủ đề này.
Tôi tin cách vững vàng rằng tuy Sa-tan vốn là siêu nhiên và siêu nhân,
nhưng không thể thông suốt mọi sự, nghĩa là nó không toàn tri. Nếu nó
không bị hạn chế, thì Kinh Thánh đã không chép rằng “Đấng ở với chúng ta
là lớn hơn kẻ ở trong thế gian”. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời vì Sa-tan không
được phép cám dỗ chúng ta bằng bất cứ cách nào, nếu không được Đức
Chúa Trời cho phép, và trong mọi cách cám dỗ của nó, thì chính Đức Chúa
Trời đều có thể mở đường cho chúng ta thoát khỏi (ICo1Cr 10:13).

Các giới hạn của Sa-tan.


Sa-tan có khả năng biết trước không? Nếu không, tại sao nó biết rằng Chúa
Giê-xu là Con Đức Chúa Trời ngay trước khi điều đó chưa được tiết lộ cho
ai cả?
Lúc Chúa chúng ta ra đời, địa vị Con Đức Chúa Trời của Ngài đã được các
thiên sứ công bố cho bọn chăn chiên và các nhà thông thái Đông phương.
Chắc chắn điều đó chẳng có gì là bí mật cả và Sa-tan không cần có khả năng
biết trước để biết rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Chắc chắn là quỉ
Sa-tan đã rất quan tâm đến các biến cố xảy ra chung quanh Bết-lê-hem lúc
đó, và tuy mọi người đều quên mất ý nghĩa của các biến cố ấy, thì nó vẫn ghi
nhớ.

Quyền năng của Sa-tan.


Sa-tan có quyền ngang hàng với Đức Chúa Trời không?
Sa-tan không hề có quyền năng ngang hàng với Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên là
Đức Chúa Trời có giao cho nó một số quyền năng nào đó, nhưng nó luôn
luôn bị hạn chế và không hề ngang hàng với Đức Chúa Trời theo bất cứ ý
nghĩa nào.
Các Thiên sứ.
Bản tính các thiên sứ. Xin cho biết vaì điều về các thiên sứ mà Kinh Thánh
thường đề cập đến.
Trong Kinh Thánh, các thiên sứ đã được đề cập đến khoảng ba trăm lần. Ít
nhất cũng có ba lý do quan trọng khiến chúng ta cần tìm hiểu về các thiên sứ
1. Vì Kinh Thánh rất thường đề cập đến họ 2. Vì họ vốn hiện diện để thi
hành chức vụ giữa chúng ta 3. Vì chúng ta sẽ sống với họ suốt cõi đời đời.
Từ ngữ “thiên sứ” có nghĩa là “sứ giả”. chỉ về một chức vụ, chứ không phải
là phần mô tả một nhân vật. Thiên sứ có thể là một trong “các con trai của
Đức Chúa Trời” ở trên trời, chẳng hạn một Sê-ra-phin, hoặc ở dưới đất, như
các nhà tiên tri của Đức Chúa Trời, vốn là người. Trong MaMl 3:1 Chúa
Giê-xu đã được gọi là “Thiên sứ của sự giao ước”, nhưng trong HeDt 1:5, 6
và 2:16 chúng ta lại được cho biết là Ngài không hề tự mạc lấy bản tính
thiên sứ.
Trong Kinh Thánh, từ ngữ “thiên sứ” được dùng theo bảy nghĩa: 1. Sứ giả là
người thường (IISa 2Sm 2:5; LuLc 7:24) 2. Sứ giả là người thường mang
thông điệp của Đức Chúa Trời (AgKg 1:13; GaGl 4:14) 3. Sự sắp xếp thần
hựu không phải là người “một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Sa-
tan để vả tôi” (IICo 2Cr 12:7) 4. Giám mục và mục sư của các Hội Thánh
(KhKh 2:1-3:22) 5. Ma quỉ không có thân xác, đầy dẫy trong không gian và
tìm cách xâm nhập để ám ảnh người ta (Mat Mt 12:24; 25:41) 6. Người của
cõi trời, như Gia-cốp đã gặp trên đường về nhà (SaSt 33:1, 2) và 7. Sứ giả
đặc biệt của thiên đàng, được gọi riêng biệt là “thiên sứ của Đức Giê-hô-va”
(Exe Ed 3:2). Thông thường thì từ ngữ ấy cũng chỉ về chính Chúa Giê-xu
Christ chúng ta trong tình trạng tiền nhập thể hay được đề cập với tư cách là
Đức Chúa Trời.

Các thiên sứ sa ngã.


Các thiên sứ sa ngã là ai?
Trong Kinh Thánh có chép về hai loại thiên sứ sa ngã: 1. Các thiên sứ không
giữ thứ bậc và bỏ chỗ riêng mình thì Ngài đã dùng dây xích họ trong nơi tối
tăm 'chờ ngày xét xử' (IIPhi 2Pr 2:4 Giu Gd 1:6; ICo1Cr 6:3; GiGa 5:22) 2.
Các thiên sứ tôn Sa-tan làm lãnh tụ (SaSt 3:1; KhKh 20:10). Kinh Thánh
không có chỗ nào nói rõ nguồn gốc các thiên sứ này. Có thể đó là các ma quỉ
(Mat Mt 7:22). Hồ lửa đời đời đã được chuẩn bị sẵn cho Sa-tan và các quỉ sứ
của nó.
Con người hay thiên sứ?
Phải chăng các thiên sứ được đề cập đến trong IPhi 1Pr 2:4 và Giu Gd 1:6
cũng chính là “các con trai của Đức Chúa Trời” trong SaSt 6:2?
Không. Tôi không tin rằng “các con trai của Đức Chúa Trời trong SaSt 6:2
là các thiên sứ. Tôi đồng ý với Tiến sĩ Scofield rằng đó là vấn đề kết hôn
giữa người tin Chúa và kẻ không tin, xưa nay vẫn là nguyên nhân khiến cho
dân sự của Chúa bị rủa sả.

Tội lỗi
Sự sa ngã của loài người.
Khi giải thích câu “trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra
mà ăn” (SaSt 3:17 và “loài người đã thành một bực như chúng ta” (câu 22
cùng chương). Một tôi tớ Chúa đã cho rằng câu sau chứng minh sự sa ngã đã
nâng loài người lên, chứ không phải hạ loài người xuống.
Về câu thứ nhất, nếu đọc cả mấy câu từ 3:16-19 thì ý nghĩa đã thật rõ ràng.
Tội lỗi cùng đem theo với nó điều mà Rôm 8 gọi là “tôi mọi của sự hư nát”
với tất cả những tội ác liên hệ.
Về câu thứ hai, chúng ta không thể chỉ đọc riêng rẽ một mình nó “Biết điều
thiện và điều ác” thì không có nghĩa như “biết phân biệt điều thiện và điều
ác”. IICo 2Cr 5:21 chép rằng Chúa Giê-xu “vốn chẳng biết (kinh nghiệm) tội
lỗi”, nhưng điều đó không có nghĩa rằng Ngài vốn chẳng hiểu gì về tội lỗi
cả, hay là Ngài không biết phân biệt điều thiện với điều ác. Do sa ngã A-
đam và Ê-va đã phạm tội để trở thành nạn nhân, làm tôi mọi cho tội lỗi, và
như thế là đã bị hạ thấp (sa ngã) chớ không phải là được nâng cao, người
theo thuyết tiến hoá không thể được an ủi gì trong sự kiện đáng kinh hãi này.

Loài người sa ngã.


Vì A-đam vốn được tạo dựng “theo hình ảnh Đức Chúa Trời” xin giải thích
về số “người sống trong hang đá” mà lịch sử đã chứng minh là có thật. Tôi
đã bị hỏi như vậy và không trả lời được. Phải chăng qua nhiều thế kỷ, loài
người đã thoái hoá thành người hang đá, rồi mới văn minh trở lại như ngày
nay?
Không có bằng chứng nào về sự hiện hữu của loài người trước thời A-đam.
Thư Rô-ma đoạn 1 vẽ ra tình trạng đáng sợ của loài người, đã bắt đầu nhìn
biết Đức Chúa Trời, nhưng rồi sa ngã xuống tận đáy bùn nhơ. Sau khi thoát
khỏi vực thẳm đó, nhiều người lại nhìn biết Đức Chúa Trời, và một số đã
nhờ được tái sanh mà trở thành con cái Ngài.
Tội lỗi và Sa-tan.
Phải chăng tội lỗi luôn luôn là do Sa-tan tấn công chúng ta?
Tội lỗi không phải lúc nào cũng do Sa-tan tấn công chúng ta. Ngay trong
Thiên hi niên, lúc Đấng Christ sẽ ngự trên ngôi để cai trị thế gian này và Sa-
tan bị kìm chế xuốt một ngàn năm, thì vẫn có tội lỗi, đến nỗi sau một ngàn
năm đó, lúc Sa-tan được thả ra, nó vẫn có thể triệu tập được cả một đạo quân
đông đảo để chống lại Đức Chúa Trời. Tội lỗi vốn là một phần gắn liền với
đời sống của người. Điều chắc chắn là càng sống gần với Đức Chúa Trời, thì
người ta sẽ càng nhạy cảm hơn đối với tội lỗi, nên cũng nhận biết mình vốn
có nhiều tội hơn là mình tưởng.

Tội là gì?
Phải chăng một hành động bất tuân mạng lịnh Đức Chúa Trời luôn luôn là
tội và cần phải xưng nhận, tuy sự vi phạm đó chỉ có ở trong tư tưởng và do
yếu đuối.
Chắc chắn là đúng như vậy! Bất cứ điều gì “hụt mất sự vinh hiển của Đức
Chúa Trời”, thì đều là tội, bất luận là trong tư tưởng, lời nói hay bằng hành
động; và tội, thì dầu chúng ta có ý thức hay không, cũng phải được xưng ra
và chúng ta phải tự xử lấy vì cớ tội đó. Dưới chế độ Cựu Ước, dân Y-sơ-ra-
ên đã phải dâng lên các của lễ cả cho những tội phạm không hay biết hoặc vì
ngu dốt nữa. Tự thị, tự kiêu cũng là một tội phải bị đoán phạt, hãy đối chiếu
LeLv 4:1, 12, 13 v.v... với 10:1, 2 và Giop G 1:5.

Tội lỗi, sự công bình và sự phán xét.


Xin giải thích GiGa 16:8 nhất là hai phần cuối.
Chức vụ của Đức Thánh Linh đối với người thế gian là cáo trách họ về tội
lỗi về sự công bình và sự phán xét “Tội lỗi” được đề cập ở đây là tội chối bỏ
Con Đức Chúa Trời. Về tội lỗi vì họ không tin ta” (c.9) “về sự công bình” là
sự công chính của Đấng Christ được Đức Thánh Linh đại diện ở đây. Chúa
Giê-xu phán: “Về sự công bình vì ta đi đến cùng Cha, và các ngươi chẳng
thấy ta nữa” Ngài đã tự xưng là Con Đức Chúa Trời, và để chứng minh Ngài
sẽ về trời rồi từ đó, sẽ sai Đức Thánh linh đến thế gian. Do đó, khi Đức
Thánh linh đến, thì Ngài làm chứng rằng những lời mà Con Đức Chúa Trời
từng tuyên bố là đúng, là công bình chính trực. Nếu chỉ chú trọng vào thân
thể hữu hình của Con Đức Chúa Trời, thì bao lâu người ta không nhìn thấy
Ngài, người ta có thể bảo là Ngài đang vắng mặt. Nhưng sự hiện diện của
Đức Thánh Linh trên thế gian là chứng cớ hiển nhiên về nơi Đức Chúa Con
đã tuyên bố Ngài sẽ đi đến sau khi từ giã các môn đệ Ngài trên Núi Ô-li-ve.
Sự “phán xét” mà Đức Thánh Linh cáo trách người thế gian là sự phán xét
dành cho quỉ Sa-tan, “về sự phán xét vì vua chúa thế gian này đã bị đoán
xét” Sa-tan đang bị Đức Chúa Trời phán xét, trong việc thi hành án lệnh
dành cho nó hãy còn trong tương lai. Trong GiGa 12:31. Chúa chúng ta
phán: “Hiện bây giờ, có sự phán xét thế gian này; và hiện nay vua chúa của
thế gian này phải bị xua đuổi”. Rồi dường như để giải thích câu nói đó, Ngài
phán tiếp: “Còn ta, khi ta đã được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến
cùng ta”. Việc Ngài được treo lên khỏi đất sắp xảy ra trên thập tự giá “Ngài
phán vậy để chỉ mình phải chết cách nào” (c.33). Thập tự giá trên đồi Gô-
gô-tha là bãi chiến trường khủng khiếp nhất trải mọi thời đại. Tại đó “bằng
sự chết” Con Đức Chúa Trời đã đánh bại “kẻ cầm quyền sự chết, là vua quỉ”
(HeDt 2:14). Đến đúng kỳ của nó, quỉ Sa-tan sẽ phải nhận lấy số phận dành
cho nó trong Hồ lửa (KhKh 20:10). Trong khi chờ đợi, chúng ta cần nhớ
rằng nó là một kẻ thù đã bị bại trận, nên chúng ta không cần phải sợ hãi nữa.
“Hãy phục Đức Chúa Trời, chống trả ma quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em” (Gia
Gc 4:7).

Tội không thể tha thứ.


Tội không thể tha thứ trong Mat Mt 12:31, 32 là gì?
Xin nghiên cứu toàn thể bản văn bắt đầu là câu 22 và 23 “Bây giờ, có kẻ
đem đến cho Đức Chúa Giê-xu một người mắc quỉ ám, đui và câm; Ngài
chữa cho, đến nỗi người câm nói và thấy được. Chúng lấy làm lạ mà nói
rằng: Có phải người đó là con cháu vua Đa-vít chăng?”. Rõ ràng đó là việc
siêu nhiên do một siêu nhân làm ra. Người Pha-ri-si không muốn nhận đó là
việc làm của Đức Thánh Linh, đã bảo rằng Chúa Giê-xu bị quỉ ám - Ngài
cậy quyền của Bê-ên-xê-bun là chúa quỉ, tức là chính Sa-tan, để trừ quỉ. Để
đánh bại Chúa Giê-xu đã nêu ra sự phi lý khi nói rằng Sa-tan chống lại Sa-
tan. Không thể nào có chuyện vua cầm quyền chốn không trung lại đánh lại
chính các lực lượng của mình. Nếu vậy, thì nước của nó sẽ ra sao? Và họ sẽ
nói thế nào về các thầy trừ quỉ giữa vòng họ - phải chăng họ cũng cậy quyền
Bê-ên-xê-bun để đuổi quỉ. Chúa Giê-xu không bao giờ đánh cướp nhà người
mạnh sức - tức là quỉ Sa-tan - mà trước đó, không bắt trói nó lại. Chính hành
động đầu tiên trong chức vụ của Ngài là bắt trói “người mạnh sức” đó trong
đồng vắng, và giờ đây, Ngài đang đánh cướp nhà nó. Các chiến tuyến đã
được vạch rõ, và cuộc chiến đấu đang tiếp diễn “Ai không ở với ta thì
nghịch cùng ta” (Mat Mt 12:30). Gán một việc làm của Đức Thánh Linh cho
ma quỉ là một hành động phạm thượng khủng khiếp nhất, sẽ không bao giờ
được tha thứ (Mat Mt 12:31, 32). vậy thì, đó chính là “tội không thể tha thứ”
- tức là tố cáo Đức Chúa Giê-xu Christ đã cậy quyền Sa-tan mà hành động,
xem Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời như một tà linh của Sa-tan! Mác
vạch rõ rằng Chúa Giê-xu đã cảnh cáo: “Vì họ nói rằng: Người bị tà ma ám”
(Mac Mc 3:30. Chắc chắn tội ác của họ đã đầy tràn, đến nỗi Ngài phải cất
tiếng để chống lại họ: “Hãy trồng cây tốt, thì trái cũng tốt, hoặc trồng cây
xấu thì trái cũng xấu; vì xem trái thì biết cây. Hỡi dòng dõi rắn lục, bây vốn
là loài xấu, làm sao nói được sự tốt? Do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng
mới nói ra. Người lành do nơi đã chứa điều thiện mà phát ra điều thiện;
nhưng kẻ dữ do nơi đã chứa điều dữ mà phát ra điều ác. Vả, ta bảo các
ngươi, đến ngày phán xét, người ta sẽ khai ra mọi lời hư không mà mình đã
nói, vì bởi lời nói mà ngươi sẽ được xưng là công bình, cũng bởi lời nói mà
ngươi sẽ bị phạt” (Mat Mt 12:33-37).
Không nên lầm lẫn “tội không thể tha thứ” với “tội đến nỗi chết” theo
IGi1Ga 5:16, 17. “Tội đến nỗi chết” là tội một con cái Chúa phạm khiến
Ngài phải sửa phạt bằng sự chết thuộc thể qua cánh tay của Đức Chúa Trời
thánh khiết và thành tín. Có nhiều thí dụ về tội ấy trong Hội Thánh Cô-rinh-
tô (ICo1Cr 4:30-32).

Tội đến nỗi chết.


“Tội đến nỗi chết” là gì?
Tội “đến nỗi chết” và “không đến nỗi chết” theo IGi1Ga 5:16, 17 phải được
hiểu trong ánh sáng của giáo lý trong ICo1Cr 11:31, 32. Sự chết thuộc thể
nhiều khi là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời đối với một tội không chịu
xưng ra hay chưa bị xét xử nơi người thuộc về Đức Chúa Trời. Khi một Cơ
Đốc nhân phạm tội, dĩ nhiên là sự cứu rỗi của người ấy không bị mất đi,
nhưng người bị cắt đứt thông công với Đức Chúa Trời. Muốn được thông
công trở lại, thì phải xưng tội (IGi1Ga 1:9). Nếu đã như vậy mà con cái Đức
Chúa Trời vẫn không chịu xưng tội, thì Đức Chúa Cha bắt buộc phải trừng
phạt. Các tín đồ Cô-rinh-tô vốn thuộc trường hợp đó. Họ từng làm mất trật
tự trong khi dự Tiệc Thánh, đã ăn bánh và uống chén của Chúa cách không
xứng đáng, do đó đã phạm tội cùng thân và huyết Chúa (IGi1Ga 11:27). Họ
không chịu tự xét để có thể ăn bánh và uống chén cách đẹp lòng Chúa
(c.28). Họ cứ tiếp tục ăn và uống chén cách không xứng đáng, ăn uống để
chuốc lấy sự đoán xét cho mình vì không phân biệt thân Chúa (c.29). Vì vậy
nhiều người đã trở nên yếu đuối, bệnh tật và có lắm kẻ ngủ - nghĩa là đã chết
về phân xác vì bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Họ vẫn được cứu, nhưng đã bị
phạt là phải chết phần thân thể (c.30). Nếu biết tự xử, chắc họ đã thoát khỏi
hình phạt (c.31) Ngài phải trừng phạt họ, và Ngài đã thi hành án lệnh để họ
khỏi bị kết tội chung với người thế gian (c.32). Những người đã ở trong
Chúa Giê-xu Christ thì không thể bị định tội (RoRm 8:1). Đấng thay thế đã
gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên thập tự giá tại Gô-gô-tha, và
bây giờ khi đã trở thành con cái Đức Chúa Trời qua sự tái sanh, họ sẽ không
bao giờ bị định tội nữa, nhưng có thể bị trừng phạt, sửa trị, thậm chí phải bị
đau yếu và chết về phần xác nữa.
Môi-se đã phạm tội đến nỗi chết (PhuDnl 32:48-52). A-can đã phạm tội
đáng chết (Gios Gs 7:16-26); nhưng A-can và A-na-nia với A-phi-ra đã
không được cứu rỗi (Cong Cv 5:1-11).

Nguyên tội.
Kinh Thánh dạy gì về nguyên tội?
Kinh Thánh dạy rằng đời sống cũ của bản ngã tội lỗi nơi mỗi tín hữu, vẫn
còn trong người ấy cho đến khi người vào thiên đàng. Nó không thay đổi và
cũng không thể thay đổi được. Đồng thời với bản tính cũ, ngươi nhận một
bản tính mới khi được sanh lại được Đức Thánh Linh ngự trị và tác động
lòng. Bao lâu người đầu phục, thì Đức Thánh kiểm soát từng đường đi nước
bước của đời sống người.

Tội lỗi và tánh vị kỷ


Phải chăng tội lỗi chỉ là sự ích kỷ? Trong sự vô tín, gian dối, thù ghét Đức
Chúa Trời, có tánh vị kỷ không?
Ẩn dưới mọi điều đó, đều có cái tôi (bản ngã) muốn chiếm lấy chỗ của Đức
Chúa Trời. Chính vì người ta muốn sống vị kỷ chớ không chịu sống cho Đức
Chúa Trời, nên Con Ngài mới chịu chết và sống lại vì họ. Xin xem IICo 2Cr
5:14, 15. Thế nhưng ích kỷ và tội lỗi không phải là hai chữ đồng nghĩa. Tánh
ích kỷ (tư dục) cưu mang (ấp ủ trong lòng) sẽ sanh ra tội lỗi (Gia Gc 1:15).

Tội ngoại tình.


Kinh Thánh dạy gì về tội ngoại tình? Khi người nam phạm tội ngoại tình, thì
dưới con mắt của Đức Chúa Trời phải chăng người ấy đã chia lìa với vợ?
Theo quan điểm của Đức Chúa Trời thì tội ngoại tình có chấm dứt luôn mối
liên hệ hôn nhân không? Kẻ ngoại tình trở lại sống chung với vợ mình, thì
có phải lẽ không?
Không có câu nào trong Kinh Thánh dạy rằng tội ngoại tình đương nhiên
giải phóng kẻ phạm tội khỏi những lời thề nguyện khi kết hôn. Theo Lời của
Đức Chúa Trời, thì mối liên hệ vợ chồng không thể bị tiêu huỷ quá dễ dàng
như vậy. Vậy, người đàn ông ngoại tình trở lại sống chung với vợ mình là
phải lẽ, nếu người vợ vui lòng tha thứ và tiếp nhận anh. Theo Luật Môi-se
thì ngoại tình là một trọng tội. LeLv 20:10 chép: “Nếu người nào phạm tội tà
dâm cùng vợ của người khác thì người nam cùng người nữ đó đều phải bị xử
tử”.

Tội và không tội


Xin giải thích IGi1Ga 5:9
Điểm dường như xung đột nhau giữa 1:8 với 3:9 xưa nay vẫn gây khó khăn
cho các nhà giải nghĩa Kinh Thánh. Trong câu trước, Giăng viết: “Ví bằng
chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chúng ta lừa dối mình, và lẽ
thật không ở trong chúng ta”. Trong câu sau, ông lại viết: “Ai sanh bởi Đức
Chúa Trời thì chẳng phạm tội, vì hột giống của Đức Chúa Trời ở trong
người, và người không thể phạm tội được, vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời”.
Nhiều người đã cố gắng hoà giải điểm mâu thuẫn hiển nhiên. Những người
chủ trương thuyết tiêu diệt rất thích 3:9. Một trong số những người này, một
thanh niên, đã đi theo người chủ biên quyển sách này sau một buổi nhóm ở
bán đảo Virginia và hỏi:
“Xin phép ông cho tôi hỏi một câu”
“Rất sẵn lòng”
“Xin ông giải nghĩa giúp tôi 3:9”
“Tôi sẽ giải thích câu đó, sau khi anh giải thích 3:8”
“Không, tôi muốn ông cho tôi biết ý nghĩa của 3:9”
“Như cậu thấy đó, 1:8 được viết trước 3:9 kia mà. Hãy bàn tới câu đó trước,
rồi chúng ta sẽ thảo luận tiếp câu 3:9 sau”.
Chàng thanh niên buồn bã quay đi, rõ ràng là với vẻ mặt tỏ ra thương hại
chúng tôi. Chắc cậu muốn nói rằng nhờ một từng trải gọi là một việc làm thứ
hai của ân điển, con người cũ của cậu đã bị tiêu diệt hẳn rồi, và cậu không
thể nào phạm tội được nữa. Nhưng nếu chúng ta xét thật kỹ câu ấy thì nó
không hề chứng mình điều mà chàng thanh niên nọ tưởng. Cậu ấy không nói
về một số người được một việc làm thứ hai của ân điển xoá tội cho mà bao
gồm tất cả những ai từng được Đức Chúa Trời sanh lại. Nhóm người tự
xưng là “thánh khiết” đó không thể bảo rằng câu Kinh Thánh này chỉ dành
cho riêng họ.
Cách giải thích thông thường nhất là ứng dụng câu 3:9 cho bản tính mới của
người tín hữu; hễ khi nào một Cơ Đốc nhân phạm tội, thì đó là bản tính cũ
của người ấy đang hành động, vì bản tính mới vốn “được tạo dựng trong sự
công chính và thánh khiết thật sự” sẽ không thể phạm tội. Dĩ nhiên là điều
đó hoàn toàn đúng, và cả Kinh Thánh đều dạy như vậy “Song nếu tôi làm
điều mình chẳng muốn thì bởi đó nhận biết luật pháp là tốt lành. Bấy giờ,
chẳng phải tôi làm điều đó nữa, nhưng ấy là tội lỗi ở trong tôi” (RoRm 7:16,
17). Nhưng cách giải thích đó không thể ứng dụng cho IGi1Ga 3:9. Nó bị
loại bỏ vì câu tiếp sau đó: “Bởi đó, người ta nhận biết con cái Đức Chúa
Trời và con cái ma quỉ” cho dù tội lỗi mà câu 9 ám chỉ có là gì đi nữa thì nó
vẫn rõ ràng đối với chúng ta và là điều mà một người đã được tái sanh
không thể làm.
Rồi có người giải thích rằng 3:9 được ứng dụng cho người tín hữu đang đối
diện với tình trạng của mình. Khi một người đã được tái sanh thì được đặt
vào một địa vị sẽ không bao giờ có thể thay đổi được nữa: người ấy đã được
Đấng Yêu Thương mình tiếp nhận. Bản chất tội lỗi, cũng như tất cả tội lỗi
của người đã được trao cho Đấng Christ, và sự công chính của Đấng Christ
thì được trao cho người nên người bước vào địa vị thánh và được hưởng mọi
phước hạnh của Đức Chúa Trời mà không phải làm một việc thiện nào cả
như câu Kinh Thánh: “Phước thay cho kẻ lỗi mình được tha thứ, tội mình
được che đậy. Phước thay cho người mà Chúa chẳng kể tội lỗi cho” (RoRm
4:5-8).
Giáo lý về sự hoán vị (đổi chỗ) giữa chúng ta và Đấng Christ là một chân lý
đẹp đẽ. Có một câu minh hoạ kỳ diệu cho giáo lý ấy trong Dan Ds 23:21
trong đó Đức Chúa Trời phán rằng: “Ngài chẳng xem tội ác nơi Gia-cốp, và
không thấy sự tà vạy trong Y-sơ-ra-ên”. Ngài nhìn người thuộc về Ngài dưới
dòng huyết mà Con Ngài đã đổ ra “từ buổi sáng thế” (KhKh 13:8); và như
thế, nhờ điều mà có người gọi là “nền đạo đức học cao cấp của thập tự giá”
Đức Chúa Trời công chính có thể ban sự công chính của Ngài cho những
người thuộc về Ngài đang phạm tội (IICo 2Cr 5:19, 21).
Nhưng cách giải thích IGi1Ga 3:9 này cũng phải bị loại vì câu 10: “Bởi đó
người ta nhận biết con cái Đức Chúa Trời và con cái ma quỉ”. Địa vị của
người tín hữu không phải là điều rõ ràng khiến người ta nhìn vào là có thể
nhận biết ngay, mà “tội” của 3:9 có liên hệ đến lời chứng của người tín hữu.
Đó là điều mà không một tín hữu nào có thể làm.
Thế nhưng còn có một cách giải thích dài dòng và thường thường hơn nữa,
bảo rằng tội trong câu Kinh Thánh đó là một hành động liên tục, một thói
quen của đời sống, và người đã được tái sanh thì không tiếp tục phạm tội
nữa. Có một số dịch giả Kinh Thánh thay chữ “làm” (practice: thực hành)
vào chỗ của chữ “phạm”. Chẳng hạn như Tiến sĩ Darby dịch câu ấy như sau:
“Ai đã được Đức Chúa Trời sanh ra thì không làm (thực hành) tội, vì hột
giống của Đức Chúa Trời ở trong người ấy, thì người không thể làm tội, vì
người đã được Đức Chúa Trời sanh ra”. Bản dịch Rotherham như sau” Ai đã
được Đức Chúa Trời sanh ra thì không tiếp tục phạm tội, vì hột giống của
Đức Chúa Trời ở trong người và người không thể cứ phạm tội, vì Đức Chúa
Trời đã sanh người ra”. Và ông ghi chú: “Thì của động từ chỉ sự liên tục”.
Mọi việc kể trên đều có thể chấp nhận, nhưng thật khó thấy được chúng đã
góp phần giải quyết vấn đề đã nêu như thế nào. Câu ấy vẫn nhấn mạnh là
người đã được tái sanh “không thể phạm tội” hay “không hề làm tội”. Trọng
tâm của câu này vẫn là người đã tái sanh thì không thể làm điều mà ở đây
gọi là tội.
Thế nhưng, lại có câu IGi1Ga 1:8 “Ví bằng chúng ta nói mình không có tội
chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng
ta”.
Chúng tôi vừa gặp một vị mục sư tuyên bố rằng cả ông lẫn thuộc viên tín đồ
của ông đều không hề phạm tội. Nếu quả thật như vậy, thì sáng danh Chúa
biết bao! Nhưng Kinh Thánh chép rõ ràng nói như vậy là không thành thật,
là tự dối mình và càng tệ hại hơn nữa là lừa dối các con chiên mà mình đang
có bổn phận chăn dắt. Phước thay cho con cái nào của Đức Chúa Trời đang
lao khổ vì Ngài mà không mắc ảo tưởng đó.
Nhiều năm trước khi Tiến sĩ Scofield về với Chúa, tôi có hỏi: “Thưa Tiến sĩ,
tôi thấy ông có ghi chú về chữ “làm” (thực hành) bên lề quyển Kinh Thánh
Phù Dẫn của ông ở chương 3 sách IGiăng, nhưng như vậy có giúp ích gì cho
vấn đề của chúng ta? Một khi ông đã nhận xét rằng bất kỳ một sự thiếu hụt
nào về vinh hiển Đức Chúa Trời trong tư tưởng hay lời nói, việc làm của
chúng ta đều là tội, phải chăng mọi người chúng ta đều làm “tội?”
Vị Tiến sĩ đả trả lời: “Tai hại thay! Tai hại thay! Chúng ta thảy đều như vậy
cả!”
Chỉ có những ai hoàn toàn chẳng biết gì về sự công chính của Đức Chúa
Trời mới dám nghĩ rằng mình có thể tự tạo lấy sự công chính cho mình
(RoRm 1:3). Mọi người chúng ta đều làm tội và cứ tiếp tục làm như vậy.
Thế thì chúng ta phải giải thích IGi1Ga 3:9 làm sao? “Tội” mà câu này ám
chỉ, phải khác với “tội” trong 1:8 và cho dù tội trong 3:9 có là gì đi nữa, thì
nó là một cái gì mà một người đã được tái sanh không thể phạm.
Chúng tôi tin rằng mình đã nắm được chiếc khoá của vấn đề trong câu 4 của
chương sách ấy theo bản Nhuận chánh (tiếng Anh, RV): “Còn ai phạm tội
tức là trái luật pháp; và tội lỗi là sự trái luật pháp”.
Nếu đọc cả phân đoạn bắt đầu từ câu ấy theo như định nghĩa ở đây, chúng ta
sẽ thấy rõ chân lý mà Đức Thánh Linh muốn nói qua phân đoạn này.
Không một người đã được tái sanh nào lại phạm tội theo nghĩa là “làm trái
luật pháp”.
Bất chấp luật pháp là nguồn gốc của sự phủ nhận mọi luật lệ đối với đời
sống mình, nghĩa là bảo rằng “Cả đến Đức Chúa Trời cũng chẳng có quyền
gì để kiểm soát con cái Ngài” hay là “Tôi không muốn ai có quyền cai trị
trên tôi cả”. Đó là chủ nghĩa “vô chính phủ”.
Có sự khác nhau rất xa giữa sự không vâng lời và tinh thần bất chấp luật
pháp. Người ta có thể không tuân hành ý chỉ Đức Chúa Trời nhưng đồng
thời vẫn thừa nhận ý Chúa là đúng, là đáng tuân phục.
Chính người có tấm lòng được đổi mới, đã nói trong RoRm 7:22 “Vì theo
người bề trong, tôi vẫn lấy luật pháp của Đức Chúa Trời làm đẹp lòng
“nhưng đồng thời cũng cảm biết trong chi thể mình có một luật khác giao
chiến với luật trong trí mình bắt con cái Đức Chúa Trời phải làm nô lệ cho
luật của tội lỗi. Người ấy đã bắt tuân ý chỉ Đức Chúa Trời nhưng không hề
viện cớ rằng mình có quyền không vâng lời Chúa. Người vẫn cố gắng tuân
phục Chúa và khi bị thất bại, thì kêu lên: “Ôi khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi
thoát khỏi thân thể hay chết này?” (c.24)
Một thí dụ khác minh hoạ cho chân lý này là trong thời Cựu Ước, khi người
tin Chúa phạm tội, thì cảm thấy ray rứt và kêu cầu với Đức Chúa Trời rằng:
“Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chì cùng một mình Chúa thôi, và làm điều ác
trước mặt Chúa, hầu cho Chúa được xưng công bình khi Chúa phán và được
thanh sạch khi Chúa xét đoán” (Thi Tv 51:4). Sự khôn ngoan xưng công
bình cho tất cả con cái nó; Đức Chúa Trời cũng xưng công bình cho tất cả
con cái Ngài y như vậy.
Cho dù một con cái Đức Chúa Trời có sa ngã nặng đến đâu, người ấy vẫn
không hề dám khoe sự sa ngã của mình hay cho rằng mình có quyền sa ngã.
Người vẫn còn là con cái Đức Chúa Trời, và cảm thấy khốn khổ bất tuân Lời
và ý chỉ của Đức Chúa Trời.
Giả định như chúng ta đã nắm được chìa khoá giải đáp thắc mắc ở đây,
chúng ta hãy thử dịch theo cách diễn ý khúc sách IGi1Ga 3:4-10 này:
“Ai phạm tội tức là trái luật pháp, và tội lỗi là tinh thần bất chấp luật pháp.
Vả, các con biết rằng Đấng Christ đã hiện ra là để cất tội lỗi chúng ta đi và
trong Ngài không hề có tinh thần bất chấp luật pháp... ai có tinh thần ấy chưa
từng thấy hay biết Ngài. Người ấy thuộc về ma quỉ, vì ma quỉ vốn có tinh
thần bất chấp luật pháp từ lúc ban đầu. Ai sanh bởi Đức Thánh Linh thì
không hề có tinh thần bất chấp luật pháp, vì hột giống của Đức Chúa Trời ở
trong người; người không thể có tinh thần bất chấp luật pháp vì đã được
sanh bởi Đức Chúa Trời. Bởi đó, người ta nhận biết con cái Đức Chúa Trời
và con cái ma quỉ”.
Đây cũng là ý nghĩa mà Giăng muốn nói trong thư tín này, chương IGi1Ga
2:3-6 “Này tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài, ấy là tại chúng ta giữ các
điều răn Ngài. Kẻ nào nói ta biết Ngài mà không giữ điều răn Ngài, là người
nói dối, lẽ thật quyết không ở trong người.
Xin đừng cho rằng “điều răn” ở đây chỉ về luật pháp của Môi-se đã ban bố
cho dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-nai. Tiến sĩ Scofield nói: Giăng dùng chữ
“điều răn” theo 1. nghĩa tổng quát là ý chỉ của Đức Chúa Trời, tức là “lời”
mạc khải của Ngài (c.5) và (2) nhất là chỉ về luật của Đấng Christ (GaGl 6:2;
IIGi 2Ga 1:5. Xin cũng xem GiGa 15:10-12 (Bộ Scofield Reference Bible).
“Nhưng ai giữ lời phán Ngài, thì lòng kính mến Đức Chúa Trời được nên
trọn vẹn trong người ấy. Bởi đó, chúng ta biết mình ở trong Ngài. Ai nói
mình ở trong Ngài, thì cũng phải làm theo (bước đi) như chính Ngài đã
làm”.
Đối với Lời và ý chỉ Đức Chúa Trời, thì Chúa Giê-xu đã vâng phục thế nào?
Ngài luôn luôn sung sướng làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời, thức ăn của Ngài
là vâng theo ý Đấng đã sai Ngài đến.
Đức Chúa Trời đã làm một việc diệu kỳ biết bao trong lòng những người
thuộc về Ngài! Chẳng những Ngài đã cứu họ khỏi hình phạt của tội lỗi, cất
đi gánh nặng của Luật pháp để nó không còn là nọc đọc làm cho chết đối với
họ nữa (ICo1Cr 15:56, 57; IICo 2Cr 3:7-11) mà Ngài còn tạo ra trong họ
một con người mới luôn luôn khiến họ nhìn lên Ngài mà thưa rằng: A-ba,
Cha! Nhận Ngài làm Chúa tể đời sống mình và vui vẻ thực hiện ý chỉ Ngài
trong họ.
Và cảm tạ Đức Chúa Trời, vì một ngày kia sau khi đã đi trọn con đường,
chúng ta sẽ được trình diện không lỗi không vết trứơc vinh quang Ngài,
trong niềm vui vô hạn.
Nguyện vinh quang và uy quyền đều thuộc về Đức Chúa Trời khôn ngoan
duy nhất, và về Cứu Chúa chúng ta, từ nay cho đến đời đời. A-men.

Sự cứu rỗi.
Xin cho biết người Do Thái đã được cứu rỗi như thế nào trước khi Đức Chúa
Giê-xu Christ chịu chết? Dĩ nhiên tôi biết rằng họ hướng tới Đấng Christ
cũng như chúng ta thì nhìn lui về Ngài, nhưng xin ông giải thích rõ hơn.
Các tín hữu thời Cựu Ước cũng được cứu y như tín hữu thời Tân Ước vậy.
Dường như theo cách hỏi này thì bạn vốn rất quen thuộc với nguyên tắc là
nhìn lui về cái chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá. Ngài đã chết vì những
người đã sống trước đó, cũng như sẽ sống sau đó. Nguyên tắc ấy vốn được
vạch rõ trong RoRm 3:25; HeDt 9:15. Tin Lành cứu rỗi bởi đức tin không hề
là điều mới mẻ mâu thuẫn với Cựu Ước mà chỉ là điều mới được tiết lộ cách
đầy đủ hơn mà thôi. Từ A-đam, Ê-va, đến Nô-ê, Áp-ra-ham, Môi-se, Đa-vít
cũng như toàn thể các thánh đồ Cựu Ước đều được cứu nhờ huyết Chúa Giê-
xu, cũng y như chúng ta ngày nay vậy.
Sự cứu rỗi trong thời hiện tại.
Xin giải thích RoRm 3:25
Cả phân đoạn này dạy rằng sự chết của Đức Chúa Giê-xu Christ là cho các
tín hữu cả trong quá khứ lẫn tương lai. Nghĩa là công lao của Đấng Christ
trên thập tự giá nhằm vào tất cả những người đã sống về sau này cũng như
từ trước khi thập tự giá được dựng lên. Phao-lô đã đề cập đến một điều mới
trong 3:24-26 “và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng
không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê-xu Christ, là Đấng
Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy.
Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước
kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong
thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức
Chúa Giê-xu”.
Đây là chiến thắng trọng đại của Tin Lành. Đức Chúa Trời đã bày tỏ sự công
bình của Ngài và đồng thời cũng (xưng công bình) cả người tội lỗi nữa! Tin
Lành đã chứng minh Đức Chúa Trời là công chính đối với quá khứ thế nào,
thì cũng công bằng cho “thời hiện tại y như thế, bằng cách (xưng công bình)
cho kẻ bất chính, không do công lao riêng của họ! mà nhờ công đức của
Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Như thế, đây quả thật là một sự cứu rỗi kỳ diệu, và Ngài vốn là một Cứu
Chúa kỳ diệu!

Cơ Đốc nhân.
Cơ Đốc nhân là gì? Một người trở thành Cơ Đốc nhân như thế nào?
Cơ Đốc nhân là một ngời được tái sanh. Hội Thánh của Đức Chúa Trời chỉ
gồm những người đã được sanh lại từ trên cao, bởi đức tin nơi Đấng Chúa
Giê-xu Christ. Muốn trở thành Cơ Đốc nhân riêng mình. Không thế có cách
nào khác. Kinh Thánh mô tả người tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của
mình, là người tin Ngài. GiGa 1:11-13 chứng minh điều đó: “Hễ ai đã nhận
Ngài... là tin danh Ngài... là sanh bởi Đức Chúa Trời vậy”.

Trẻ con được cứu như thế nào?


Ông có tin rằng trẻ con có cha mẹ không tin Chúa, qua đời trước tuổi hiểu
biết, sẽ bị hư mất không? Tôi vẫn tin rằng chúng sẽ được lên thiên đàng,
nhưng gần đây ông mục sư của tôi lại bảo rằng chúng sẽ bị hư mất và trích
dẫn Thi Tv 58:3 để làm chứng cho lý luận của mình. Ông nghĩ sao?
58:3 chép: “Kẻ ác bị sai lầm từ trong tử cung, chúng nói dối lầm lạc từ khi
mới lọt lòng mẹ”. Trẻ con cũng là tội nhân, do đó cũng cần được cứu rỗi. Vì
Chúa Giê-xu đã chịu chết vì mọi người, Ngài cũng chết thay cho trẻ con
nữa, dầu cha mẹ chúng có tin chúa hay không. Và trẻ con chết trước tuổi
hiểu biết thì được sự che chở và được cứu nhờ huyết Chúa.
Trẻ con và nước Trời.
Có câu Kinh Thánh nào làm nền tảng cho lời dạy rằng sẽ có nhiều trẻ con
được sống lại lần thứ nhất và sẽ đồng trị với Đấng Christ trong thời gian một
ngàn năm không?
Tôi tin quyết rằng sẽ có vô số trẻ con được cứu bởi huyết Đấng Christ và sẽ
được sống lại trong lần sống lại thứ nhất khi Chúa tái lâm. Nhưng tôi không
thấy có tài liệu nào để trả lời cho câu hỏi chúng sẽ có vai trò gì trong Nước
Trời.

Trẻ con lúc Chúa tái lâm.


Có câu Kinh Thánh nào mô tả việc sẽ xảy đến cho trẻ con chưa đến tuổi hiểu
biết khi Chúa Giê-xu sẽ tái lâm để cất Hội Thánh lên không trung? Trong
biến cố đó, có điều gì khác nhau giữa trẻ con có cha mẹ được cứu và không
được cứu?
Tôi không biết có câu Kinh Thánh nào tả lời trực tiếp cho câu hỏi của bạn.
Tôi không có gì để nghi ngờ việc trẻ con qua đời, dầu thuộc hạng cha mẹ tin
Chúa hay không, thì đều sẽ được cứu nhờ huyết Đấng Christ; và vì biến cố
Chúa tái lâm để cất Hội Thánh lên không trung là để giải thoát tín đồ khỏi sự
trừng phạt của Cơn Đại Nạn, tôi sẽ rất hài lòng nếu toàn thể trẻ con đều sẽ
cùng được cất lên với Hội Thánh. Tuy nhiên tôi nói như thế với thái độ dè
dặt, vì tôi rất sợ chủ trương một giáo lý chỉ hoàn toàn do suy luận mà ra, và
sợ đưa ra những kết luận chỉ dựa trên những ý trong Kinh Thánh.

Trường hợp trẻ con sanh ra đã chết rồi.


Đức Chúa Trời có cho chúng ta biết một đứa trẻ Chúa sanh ra thì có hồn
sống không? Kinh Thánh nói gì với người mẹ mà đứa con đã chết trước khi
chào đời?
Chắc chắn đứa con đã chết trước khi chào đời vẫn có sự sống khi còn ở
trong lòng mẹ. Do đó, nó cũng có linh và hồn ở tình trạng tiền sinh nở, và sẽ
được an toàn trong Đấng đã chịu chết vì chúng ta hết thảy. Ngài từng phán
về trẻ con rằng: “Nước Đức Chúa Trời thuộc về những kẻ có lòng giống như
con trẻ ấy” (Mac Mc 10:14)
Người được gọi và người được chọn.
Xin giải nghĩa phần cuối của Mat Mt 20:16 “có nhiều kẻ được gọi, song ít
người được chọn”.
Chúng ta cũng thấy câu này trong 22:14 và cả hai câu đều liên hệ với ẩn dụ
về Nước Trời. 20:16 nói về phần thưởng chớ không phải về sự cứu rỗi. Tổng
giám mục Trench nói: “Nhiều người được gọi để làm việc trong vườn nho
của Đức Chúa Trời, nhưng chỉ có một số ít giữ được thái độ khiêm hạ, hoàn
toàn đầu phục sự công chính của Đức Chúa Trời, không đòi hỏi một quyền
lợi gì cho riêng mình, nên cuối cùng, sẽ nhận được phần thưởng của Ngài”.
Còn ông Spurgeon, khi viết về ẩn dụ Con Trai của nhà vua, thì nói: “Những
kẻ được gọi” bao gồm cả số người khước từ lời mời của Vua; và do đó đã tự
bày tỏ mình không phải là “kẻ được chọn”. Ngay trong số người trong cung
điện thánh, hắn tự tỏ mình là kẻ thù của Vua vì đã bất tuân những đòi hỏi
thánh. Tuy nhiên, đã có nhiều người “được chọn”, đủ để ngồi đầy phòng
tiệc và khiến cho lễ cưới của Thái tử đủ phần long trọng. Phước thay cho
những ngời được ngồi vào bàn tiệc để dự lễ cưới Chiên Con! Nguyện tác giả
sách này và toàn thể độc giả đều có mặt trong đoàn người ấy, để đời đời tôn
thờ ân điển cao quý của Đức Chúa Trời đã hậu đãi họ đến thế!”

Nhiều người được gọi mà ít người được chọn.


Có người bảo rằng Đấng Christ chủ trương một sự phân biệt giai cấp trong
vòng những người theo Ngài khi phán rằng: “Nhiều người được gọi mà ít
người được chọn” và điều này còn được nhấn mạnh thêm trong ẩn dụ về
Mười người Nữ Đồng Trinh. Trong ẩn dụ đó, họ bảo rằng các trinh nữ khôn
được đổ đầy Đức Thánh Linh và là số người duy nhất được cất lên không
trung khi Chúa Tái Lâm, còn tất cả những người khác đều phải trải qua Cơn
Đại Nạn. Phải chăng ý ấy cũng tương tự như chủ trương của Hội Cơ Đốc
Phục Lâm, tuyên bố rằng chỉ có họ mới thuộc số 144.000 người?
Phải chăng trong ẩn dụ kể trên, rõ ràng là số trinh nữ dại đã “không đem dầu
theo” trong bình của họ? Phải chăng chữ “bình” chỉ về thân thể để phân biệt
với tâm linh?
Ẩn dụ “Mười Người Nữ Đồng Trinh” không chỉ vế một “giai cấp” nào của
Cơ Đốc nhân cả, mà ám chỉ số môn đồ người Do Thái tự xưng là tín hữu
trong Cơn Đai Nạn. Một số người trong nhóm họ là tín đồ thật, nhưng có
một số chỉ là những giáo sư không có Đức Thánh Linh (Giu Gd 1:19, đối
chiếu với RoRm 8:9 và thượng hạ văn).
Các “bình” trong ẩn dụ ấy rõ ràng chỉ về thân thể (xem ICo1Cr 6:19, 20).
Bất cứ chủ trương nào dạy rằng số người tái sanh được phân chia thành “giai
cấp” đều sai lầm. Thần Lẽ thật luôn luôn thận trọng bảo tồn sự thống nhất về
thân thể trong lời dạy dổ của Ngài. Khi Chúa Giê-xu tái lâm, tất cả những
người thuộc về Chúa đều sẽ cùng được cất lên không trung, mà Ngài vốn
“biết rõ những kẻ thuộc về Ngài”.

Trường hợp Cọt-nây.


Trước khi sai người đi tìm Phi-e-rơ thì Cọt-nây đã được cứu chưa? Dường
như là lời lẽ trong Cong Cv 11:14 cho thấy là ông chưa được cứu?
Bạn nói có lý; nhưng Cọt-nây là người đã tìm và được gặp Chúa, ông được
cứu nhờ nghe và tin nhận Đức Chúa Trời qua môi miệng Phi-e-rơ.

Sự lôi kéo và mong muốn của Đức Chúa Trời.


Xin giải thích rõ hơn, phải chăng theo GiGa 6:44 thì Đức Chúa Trời kéo
người ta và muốn cho mọi người đều được cứu?
6:44 không nói là tất cả mọi người, nhưng chỉ nói rằng không ai có thể đến
với Con nếu không được Cha kéo người ấy đến, để người sẽ được sống lại
vài ngày tận thế. Nhưng rõ àng là trong nhiều câu Kinh Thánh khác, thì Đức
Chúa Trời muốn cho mọi người đều được cứu và đạt đến chỗ nhận biết chân
lý (ITi1Tm ITi2:4) Ngài “lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn
cho một người nào chất mất song muốn cho mọi người đều ăn năn” (IPhi
1Pr 3:9). Điều này vẫn không làm sáng tỏ được mối liên hệ giữa hai giáo lý
về quyền tể trị của Đức Chúa Trời và sự tự do của con người - cả hai đều là
giáo lý theo Kinh Thánh và là chân lý. Thái độ phải lẽ của đức tin, là tin cả
hai, và noi gương một mục sư xưa kia đã nói rằng: “Tôi cầu nguyện cho tín
đồ của tôi dường như mọi sự đều tuỳ thuộc Đức Chúa Trời, và giảng cho họ
dường như mọi sự đều tuỳ thuộc nơi họ. Đây là một qui luật tốt nên noi theo.

Sự ban cho của Đức Chúa Trời.


Eph Ep 2:8 chép: “Ấy là nhờ ân điển bởi đức tin mà anh em được cứu, điều
đó không đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời”. Điều đó chỉ
về gì? Phải chăng là ân điển? Có người lại cho là đức tin hay là sự cứu rỗi.
Ông giải thích thế nào?
Có thể kéo phân định thật chính xác chữ “điều đó” chỉ về gì; nhưng chắc
chắn là cả “ân điển”, “đức tin” và “sự cứu rỗi” đều bao hàm trong “sự ban
cho” của Đức Chúa Trời, tức là “sự sống đời đời trong Đức Chúa Giê-xu
Christ, Chúa chúng ta (RoRm 6:23).

Ngươi và cả nhà ngươi.


Gia đình tôi gồm những con người vô tín bất khả chuyển lay. Thỉnh thoảng
họ cũng nghe Lời Chúa, nhưng với thái độ lạnh nhạt, dửng dưng. Tôi thì tin
rằng sự cầu nguyện kiên trì có thể tạo được phép lạ, cả với trường hợp của
họ. Cong Cv 16:31 còn có sự an ủi thực tiễn nào khác không? Phải chăng đó
chỉ là lời mời gọi đặc thù cho một mình người đề lao và gia đình của ông ta
mà thôi, hay tôi cũng có thể nhận nó cho riêng mình nữa. Nếu vậy, phải hiểu
câu đó như thế nào cho đúng? Mỗi người phải ký một hoà ước cá nhân với
Đức Chúa Trời nhờ Chúa Giê-xu Christ, người này không thể tin Chúa dùm
cho người kia - vậy lời hứa trên sẽ được thực hiện như thế nào? Tôi đang bị
thử thách hết sức nặng nề.
Lời lẽ trong 16:31, tự nó, có thể hiểu theo hai cách: hoặc là “Hãy tin Đức
Chúa Giê-xu Christ thì ngươi sẽ được cứu và (vì cớ đức tin của ngươi) cả
nhà ngươi cũng sẽ được cứu nữa” hoặc là “Hãy tin Đức Chúa Giê-xu Christ
thì người sẽ được cứu; cả nhà ngươi cũng sẽ được cứu nếu họ cũng tin Đức
Chúa Giê-xu Christ”. Toàn bản văn cho thấy cách hiểu thứ hai là đúng. Với
các nhà truyền đạo thì “hãy giảng Lời Đức Chúa Trời cho người ấy, và cho
tất cả mọi người trong nhà người ấy nữa” và kết quả là “người đề lao với cả
nhà mình đều mừng rỡ vì đã tin Đức Chúa Trời”. Dĩ nhiên là mỗi người đều
phải tin Chúa cho chính mình. Xin cứ cầu nguyện kiên trì với Đức Chúa
Trời cho gia đình bạn cũng như cứ trung tín làm chứng cho họ, và giao hết
mọi sự cho Đấng thấu rõ mọi sự để Ngài “đoán xét mọi sự theo sự công
chính của Ngài”

Làm sao tránh khỏi được?


HeDt 2:3 dành cho người đã được cứu hay chưa được cứu?
Câu ấy dành cho người chưa đựơc cứu. Người đã được cứu sở dĩ được cứu
vì đã không trễ nãi sự cứu rỗi lớn dường ấy.

Sự cứu rỗi cho kẻ sát nhân.


Phải chăng kẻ đã giết người thì sau đó, dầu có ăn năn, cũng không thể được
cứu?
Sự cứu rỗi được ban không điều kiện cho các tội nhân đến với Đức Chúa
Trời qua trung gian Đức Chúa Giê-xu Christ, Con Ngài. Đa-vít vốn là kẻ sát
nhân, nhưng Đức Chúa Trời đã tha tội cho ông và tiếp nhận ông. Bất kỳ ai
cũng có thể đến với Đức Chúa Trời để được cứu.

Sự cứu rỗi của A-đam.


Xin cho biết A-đam có được cứu không?
Tôi không chút nghi ngờ về việc A-đam được cứu. Việc ông đặt tên cho vợ
là Ê-va (nghĩa là sự sống hay người ban sự sống) “vì là mẹ của cả loài người
(sống, theo bản Anh văn)” (SaSt 3:20) chứng minh rằng ông tin nơi lời hứa
của Đức Chúa Trời nói rằng Đấng Cứu Chuộc hầu đến vốn là dòng dõi của
người nữ.

Sự cứu rỗi và phần thưởng.


Một Cơ Đốc nhân sau một thời gian trung tín phục vụ, lại sa ngã, thì có bị
mất phần thưởng về những việc mình đã làm trước đó không? (Xin trưng
dẫn Kinh Thánh).
Sự cứu rỗi là quà tặng, còn phần thưởng thì nhờ công lao mà được. Sự cứu
rỗi là điều sở hữu trong hiện tại, phần thưởng là điều sẽ được trong tương
lai. Đức Chúa Trời không hề thất tín cũng không hề sơ xuất, mau quên, nên
chắc chắn sẽ ban thưởng cho các tôi tớ trung tín của Ngài trong mọi công tác
trung tín của họ. Chắc chắn Ngài cũng sẽ trung tín sửa phạt những người
Ngài yêu, nhưng cần chịu sửa phạt. Chúng ta có thể tin cậy vào Đấng Đoán
Xét cả thế gian sẽ làm mọi việc theo lẽ công bằng. Xin đọc ICo1Cr 3:11-15;
11:31, 32;; IICo 2Cr 5:10; HeDt 12:1-11.

Phần thưởng.
Có phần thưởng trên thiên đàng không, hay chỉ có trong Thiên hi niên mà
thôi?
Trong cả hai

Giá trị các phần thưởng.


Các phần thưởng của các tín hữu có khác nhau không?
Có. Xin đọc ICo1Cr 3:11-15. Phải phân biệt phần thưởng với sự cứu rỗi. Sự
cứu rỗi là một tặng vật cho không, trong khi phải có công trạng mới được
phần thưởng. Sự cứu rỗi là vật sở hữu hiện tại, trong khi phần thưởng là điều
sẽ được trong tương lai.
Sự cứu rỗi với những người theo Giáo hội Liên hiệp (Unitarians) và Công
giáo La Mã.
Người theo giáo hội Liên hiệp phủ nhận sự chuộc tội; họ dạy rằng người ta
được cứu là nhờ tánh tính hiền lành, chớ không phải là nhờ ân điển; họ cho
rằng huyết của Chúa Giê-xu Christ vốn chẳng có gì quan trọng, và huyết đã
đổ ra trên thập tự giá cũng chẳng có gì khác hơn giòng máu đã chảy ra trong
huyết quản của Ngài. Vậy thì HeDt 9:22 có nghĩa gì? Sách Ga-la-ti đặc biệt
được viết ra để vạch rõ các tội ác của việc trộn lẫn luật pháp với ân điển, có
nghĩa gì? Họ có được cứu không?
Người Công giáo La Mã cho rằng lời của vị linh mục quan trọng hơn Lời
của Đức Chúa Trời. Họ tin rằng trong phòng xưng tội khi vị linh mục đưa
tay lên và nói: “Ta tha tội cho con” thì tội lỗi mình được tha ngay, mà không
cần phải đến với chính Chúa Giê-xu Christ. Như thế họ có được cứu không?
Giáo hội Liên hiệp và Công giáo La Mã đều không phải là Cơ Đốc giáo.
Nhưng chắc chắn có những cá nhân trong các cộng đồng ấy vốn thật sự đặt
đức tin vào Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời nhập thể, tin cậy vào
huyết Ngài để tội lỗi họ được tha. Do đó, tuy họ theo các hệ thống tôn giáo
kể trên, họ sẽ được cứu.
Tôi nhớ có được biết một ông cụ theo giáo phái Quakers, mà như bạn biết
thì giáo phái Quakers thuộc hệ thống Giáo hội Liên hiệp. Cụ mời tôi dạy
một lớp Kinh Thánh mỗi tuần một lần, mở trong nhà cụ. Tôi đã làm như thế
qua một thời gian khá lâu, và tuy cho đến ngày qua đời, cụ vẫn gắn bó với
các đạo hữu Quakers của mình, nhưng cụ từng thú nhận với tôi rằng mình
tin nơi Đức Chúa Giê-xu và thờ phượng Ngài như là Đức Chúa Trời mặc lấy
thân xác loài người vậy.
Việc giảng dạy rất quan trọng trong các trường hợp như thế. Chúng ta nên
cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài vốn biết rõ ai là người thuộc về Ngài. Và bất
chấp họ thuộc nhóm này hay nhóm nọ, nếu họ đã được tái sanh, thì họ đều
thuộc về Đức Chúa Trời.

Phải nói sao đây?


Kinh Thánh vốn dễ hiểu đến nỗi cả đến một người khờ dại cũng không thể
lầm lạc (EsIs 35:8) - thế tại sao các nhà giải nghĩa Kinh Thánh lại có quá
nhiều ý kiến khác nhau như thế? Có lý nào hai người giải nghĩa Kinh Thánh
mâu thuẫn nhau đều cùng được đầy dẫy Đức Thánh Linh? Chúng ta làm thế
nào để biết ai đúng?
Lời giải đáp cho câu hỏi của bạn ở trong chương hai Thư Giăng thứ nhất.
Mỗi con cái Đức Chúa Trời đều có Đức Thánh Linh ngự trong lòng và phải
nghiên cứu Lời Đức Chúa Trời dưới sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh để làm
lương thực nuôi dưỡng đời sống thuộc linh của mình, chớ không theo sự chỉ
dẫn của ai cả. Xin đặc biệt đọc kỹ các câu 20-27.

Mão triều thiên.


Mão triều thiên có nghĩa gì, chẳng hạn mão triều thiên vinh hiển v.v...?
Kinh Thánh phân biệt rõ ràng sự cứu rỗi và các phần thưởng, mà mão triều
thiên là phần thưởng. Sự cứu rỗi là quà tặng (sự ban cho), trong khi phải có
công mới được thưởng. Sự cứu rỗi là vật sở hữu hiện có của tín đồ, còn phần
thưởng thì phải chờ cho đến khi ứng hầu trước toà án của Đấng Christ
(ICo1Cr 3:11-15). Có năm loại mão triều thiên được dùng làm phần thưởng.
1. Mão triều thiên của sự vui mừng vì đã trung tín phục vụ (ITe1Tx 2:19, 20;
Phi Pl 4:1) 2. Mão triều thiên của sự công bình, vì đã trung tín làm chứng
(IITi 2Tm 4:8) 3. Mão triều thiên của sự sống, vì đã trung tín chịu thử thách
(GiGa 13:12; KhKh 2:1); 4. Mão triều thiên vinh hiển, vì đã trung tín chịu
khổ (IPhi 1Pr 5:4; HeDt 2:9) 5. Mão triều thiên không hư nát, vì đã trung tín
tiết chế trong cuộc đua để được Đấng Christ khen thưởng (ICo1Cr 9:24-27).

Bước đi (sống) theo xác thịt


Xin giải thích RoRm 8:12-14
Khúc Kinh Thánh này sẽ dễ hiểu nếu bạn thấy được rằng trong chương này,
bước đi (sống) theo xác thịt là việc người chưa được cứu cố dùng sức riêng,
việc làm riêng để tự cứu lấy mình. Toàn thể luận cứ trong Rôm 8 đều xoay
quanh vấn đề một người đã thật sự được cứu hay chưa. Từ ngữ “anh em”
trong câu 12 có thể gây khó hiểu, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Phao-lô
đang nêu luận cứ của ông ra cho một Hội Thánh của Đấng Christ, đó là vấn
đề người ta được cứu như thế nào. Sự cứu rỗi không đến nhờ người ta bước
đi (sống) theo xác thịt, dùng những cố gắng của thân xác để khiến mình trở
thành đẹp lòng Đức Chúa Trời nhưng là nhờ bước đi (sống) theo Thánh
Linh, nghĩa là từ bỏ hết mọi cố gắng và chỉ nhờ cậy nơi Đức Thánh Linh của
Đức Chúa Trời mà thôi để thực hiện mọi việc, kể cả việc được sanh lại và
mọi việc tiếp theo đó.

Có thể nào?
Người đã được tái sanh có thể nào bứơc đi (sống) theo xác thịt không?
Chúng ta đọc thấy trong các thư tín hàng loạt tội lỗi của xác thịt, và Kinh
Thánh tuyên bố rằng tất cả những ai phạm vào các tội ấy thì không thể vào
được Nước Trời.
Điều đáng buồn là người đã tin Chúa rất có thể bước đi (sống) theo xác thịt,
vì xác thịt của người giống như xác thịt của một người chưa tin Chúa vốn
không thay đổi. Dĩ nhiên từ “xác thịt” chỉ về phần bản tính cũ do A-đam mà
ra, vốn không thay đổi và không thể thay đổi được cho đến khi chúng ta
được biến hoá theo hình ảnh của Đấng Christ khi Ngài tái lâm.
Trong khi chờ đợi, hễ khi nào chúng ta bước đi (sống) theo xác thịt, thì Đức
Chúa Trời sẽ sửa phạt chúng ta vì Ngài vốn là một người Cha trung tín. Câu
“những kẻ làm như thế” chỉ về con người cũ, con người tự nhiên chưa được
tái sanh. Chúng ta phải giải nghĩa những khúc sách như thế dưới ánh sáng
của lời dạy dỗ trong Kinh Thánh về chủ đề ấy.

Thành thật trong sai lầm.


Có một số người hiểu sai về giáo lý cứu rỗi của Kinh Thánh, nên tôi xin hỏi
ông: Nếu những người như thế mà có lòng hoàn toàn thành thật, thì có bị
chết mất chỉ vì tin tưởng sai lầm không?
Sau-lơ người Tạt-sơ vốn rất thành thật khi ông bám chặt lấy một chủ trương
sai lầm về sự cứu rỗi, nhưng ông vốn lầm lạc cho đến khi ông tiếp nhận Đức
Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa mình. Sự thành thật là tốt, nhưng nếu nó
đi sai đường, thì hết sức nguy hiểm. Sự cứu rỗi không hề có trong chiều
hướng sai lạc ấy; “ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu.

Hội Thánh
Nhiệm vụ của Hội Thánh
Hội Thánh có liên hệ như thế nào với Đấng Christ và với thế gian?
Hội Thánh là Thân thể, cũng là Vợ của Đấng Christ. Trong Eph Ep 2:10,
Hội Thánh được gọi là công việc Ngài làm ra là tác phẩm, là bài thơ (Hi văn
poiema) của Ngài. Đây là một câu kỳ diệu. Hội Thánh là tác phẩm, là công
việc tay Ngài làm ra, trong đó Ngài đã tự biểu hiện trọn vẹn đã dốc đổ chính
mình ra, đã tự cống hiến và một khi đã hoàn tất thì toàn thể vinh quang Ngài
đều thể hiện trong đó. Trong khi chờ đợi, chúng ta được “tạo dựng trong
Chúa Giê-xu Christ” nhằm một chủ đích đó là “để làm việc tốt lành”. Mà
“việc tốt lành” là tất cả những gì Đức Chúa Trời đã thu xếp từ trước để
chúng ta phải bước đi trong đó. Con cái Đức Chúa Trời chỉ dấn thân làm
công việc tốt lành khi nào họ bước đi theo nẻo đường mà Ngài đã vạch sẵn
từ trước cho họ. Làm bất cứ việc gì khác, là làm điều xấu xa gian ác.
Nhiệm vụ của Hội Thánh trong thế gian là một trong nhiều chủ đề bị hiểu
lầm nhiều nhất. Phần đông người ta nghĩ rằng Hội Thánh ở trong thế gian là
để cải tạo, cải tiến nó, biến nó thành “một chỗ tốt đẹp hơn để chúng ta sống
trong đó”. Một ý niệm như thế hoàn toàn xa lạ với sự bày tỏ của Kinh Thánh
về chủ đích của Đức Chúa Trời khi Ngài đưa Hội Thánh vào trong thế gian.
Công việc của Hội Thánh trong thế gian là tự hoàn tất. Thoạt nghĩ, thì dường
như đó không phải là chân lý vì nó đề ra một chương trình vị kỷ, trái ngược
với tâm trí của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu chúng ta nhớ lại rằng nếu Hội
Thánh muốn tự hoàn tất thì phải thắng hơn thế gian, đưa người thế gian trở
thành thuộc viên của Hội Thánh, thành chi thể của Thân thể Đấng Christ, thì
chúng ta sẽ thấy rằng nhiệm vụ của Hội Thánh vốn không phải là vị kỷ, mà
hoàn toàn là vị tha.
Nhiệm vụ của Hội Thánh được trình bày vắn tắt trong 4:12. Câu này tuyên
bố rằng mục đích việc Chúa Phục sinh ban phát mọi ân tứ về chức dịch, là
nhằm “để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây
dựng thân thể Đấng Christ”. Nhưng chúng ta phải đọc câu này thật cẩn thận.
Đây không phải là một câu khẳng định theo ba phương diện như nhiều người
thường nói. Trước hết, đây không phải là việc khiến cho các thánh đồ nên
trọn vẹn, thứ hai, đây cũng không phải là việc khiến cho công việc về chức
dịch nên trọn vẹn, và thứ ba, cũng không phải là để khiến việc gây dựng
thân thể Đấng Christ nên trọn vẹn. Đây chỉ là một câu khẳng định đơn giản.
Chủ đích của việc Đấng Christ ban các ân tứ chỉ ngắn gọn là nhằm gây dựng
Thân thể Ngài, là Hội Thánh; và muốn đạt mục đích đó, Ngài phải có các
chức dịch hay người phục vụ; mà muốn có người phục vụ, thì các thánh đồ
phải được thành toàn hay là đào tạo, huấn luyện để đạt đến mức trọn vẹn;
mà muốn huấn luyện đào tạo các thánh đồ hầu đạt đến bậc trọn lành, thì một
số người phải được Đức Thánh Linh ban cho tài năng, và chính Chúa Phục
sinh đã ban các ân tứ ấy cho Hội Thánh Ngài “để các thánh đồ được trọn
vẹn về công việc của chức dịch”. Và cứu cánh nhằm vào luôn luôn là: “gây
dựng thân thể Đấng Christ, tức là Hội Thánh”.
Theo câu 13 thì mọi điều kể trên phải diễn tiến “cho đến chừng chúng ta
thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Đức Chúa Trời,
mà nên bậc thành nhơn, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ”.
Không phải là cho đến khi đạt được “một nhân tính trọn vẹn”, vốn không
phải là tất cả ý nghĩa của câu ấy; nhưng ý nghĩa ở đây là: “Đức Chúa Trời
đang làm việc để tạo dựng một người. Ngài đã dành bao nhiêu thì giờ để tạo
ra con người đầu tiên, thì chúng ta không được biết; nhưng từ gần hai ngàn
năm nay. Ngài đang làm việc để tạo ra một Người mới. Người ấy là Đấng
Christ. Thân thể Ngài là Hội Thánh. Mỗi khi có một tội nhơn ăn năn tin
Ngài, thì có một chi thể được thêm vào cái Thân thể ấy, và thân thể càng gần
được hoàn thành hơn. Công việc ấy phải tiến hành cho đến khi tội nhơn cuối
cùng của chế độ này ăn năn tin Chúa để quay về với Đức Chúa Trời, thì
Người trọn vẹn sẽ hoàn tất vì đã “đạt được tấm thước vóc giạc trọn vẹn của
Đấng Christ”. Đứa con trai vẫn chưa được sanh ra cách trọn vẹn; chính giây
phút nó được sanh ra trọn vẹn, thì sẽ được “tiếp lên tới Đức Chúa Trời, và
nơi ngôi Ngài” (ITe1Tx 4:16-18; KhKh 12:5).

Người trọn vẹn.


Ông vừa nói: “Đức Chúa Trời đang tạo dựng một Người” (Eph Ep 4:23).
Điều đó chỉ về Hội Thánh là Thân thể Đấng Christ, cũng thường được gọi là
Tân Nương (vợ) Ngài. Làm thế nào Hội Thánh là một Người (Nam) lại có
thể làm vợ được? Hay là ông tin rằng thành Giê-ru-sa-lem mới chính là vợ,
còn Hội Thánh hiện nay là Thân thể?
Thành Giê-ru-sa-lem mới là chỗ ở đã được dành sẵn cho Hội Thánh khi
được vinh hiển (Eph Ep 5:1-32; KhKh 21:1-27). Tôi không hề nói rằng con
Người đang hình thành là Hội Thánh. Con người ấy gồm cả Hội Thánh là
thân thể và Đấng Christ là cái Đầu. Hội Thánh là thân thể Ngài, cũng là vợ
Ngài, như đã được chỉ dạy rõ ràng trong Eph Ep 5:25, 26. Vấn đề ấy đã được
giải thích bằng câu trích dẫn trong Eph Ep 5:30, 31 dùng lời lẽ của A-đam
trong SaSt 2:23, 24. Thân thể A-đam vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ nếu thiếu
Ê-va, vốn là xương bởi xương ông và thịt bởi thịt ông mà ra. Thế nhưng, Ê-
va cũng đồng thời là vợ A-đam. Ê-va là cái bóng mà hình thật là Hội Thánh.

Vợ của Đấng Christ


Một người bạn của tôi tin quyết rằng dân Y-sơ-ra-ên mới là vợ Đấng Christ,
trong khi chính tôi thì tin rằng Hội Thánh là Vợ Ngài. Chị ấy tin rằng Tân
Nương phải trải qua cơn Đại Nam, còn Hội Thánh thì không Khi trò chuyện
với chị ấy, tôi được rõ thêm vài điều KhKh 21:9, 10 chép rằng Giê-ru-sa-lem
Mới là vợ, còn HeDt 12:22, 23 vạch rõ rằng Hội Thánh và Giê-ru-sa-lem chỉ
là một: Tại sao mười hai cửa của thành Giê-ru-sa-lem Mới lại mang tên của
mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên?
Vợ Mới (Tân Nương) của Đấng Christ là Hội Thánh (Eph Ep 5:25-33) với
tôi, thì câu ấy đã giải quyết xong vấn đề. Quả thật là Hội Thánh vốn được
xây trên nền tảng của các sứ đồ và các nhà tiên tri (Eph Ep 2:20) do đó, các
tảng đá làm nền cho thành Giê-ru-sa-lem mới mang tên mười hai vị sứ đồ
của Chiên Con là phải lẽ. Nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ quên rằng “sự
cứu rỗi vốn từ người Giu-đa mà đến” (GiGa 4:22), do đó tên mười hai chi
phái Y-sơ-ra-ên được đem đặt cho mười hai cửa của thành phố đời đời đó.
Hội Thánh là Tân Nương sẽ không phải trải qua cơn đại Nạn, vì đã được cứu
khỏi cơn thạnh nộ hầu đến (ITe1Tx 1:9, 10).

Sự phong chức
Có nền tảng Kinh Thánh nào cho việc “tấn phong” các mục sư, truyền đạo?
Trong Tân Ước có bốn khúc sách đề cập việc đặt tay liên hệ với hành động
tương đương là lễ tấn phong. Chính từ ngữ “tấn phong” hay “phong chức”
dùng theo ý nghĩa chỉ định, bổ nhiệm giáo phẩm, không thấy có trong Tân
Ước. Chữ vẫn dùng chỉ việc “phong chức” trong Cong Cv 14:23 thật ra là
“lựa chọn” hay “chỉ định”. Trong Công vụ đoạn 6. Sau khi bảy vị chấp sự đã
được chọn, thì được các sứ đồ bổ nhiệm vào chức vụ bằng cách cầu nguyện
và đặt tay. Các “nhà tiên tri và giáo sư” tại An-ti-ốt đã biệt riêng Ba-na-ba và
Sau-lơ cho chức vụ truyền giáo bằng cách đặt tay trên họ, kiêng ăn và cầu
nguyện (13:1-52). Trong ITi1Tm 4:14 và 1:6 ân tứ ban cho Ti-mô-thê được
cho biết là đã xảy đến đồng thời với việc ông được hội đồng các trưởng lão
đặt tay, trong đó dừng như có mặt cả Phao-lô nữa. Câu “Đừng vội vàng đặt
tay trên ai” trong 5:22 cũng được nhiều người cho là chỉ về lễ tấn phong.

Các Mục sư được phong chức và nhiệm vụ của họ.


Phải chăng ngoài vị mục sư đã được tấn phong ra thì không có ai khác được
phép ban lễ Tiệc Thánh?
Kinh Thánh không hề qui định việc hạn chế như vậy. Loài người vẫn hay đặt
ra nhiều chuyện rắc rối, mà một là sự phân biệt giữa hàng “giáo phẩm” với
giới “tín đồ thường”. Kinh Thánh không có kỳ thị như vậy. Đây là một số
giẻ rách của Giáo hội Công giáo La Mã mà một số tín đồ Cải chánh lại
muốn khoác vào người để làm món trang sức.

Việc hành lễ
Hôm qua tôi bị người ta tố cáo là “Tân phái” vì khẳng định rằng lễ tấn
phong của chúng ta ngày nay chẳng có liên hệ gì với việc hành lễ cả, rằng đó
chỉ là vấn đề thứ bậc do các giáo phái đặt ra, chớ không phải do Tân Ước
truyền lại. Xin ông vui lòng giải thích vấn đề gây tranh luận này.
Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn rằng giữa “lễ tấn phong” của chúng ta ngày
nay, với việc “hành lễ” vốn chẳng có liên hệ gì với nhau cả. Có lẽ tôi còn đi
xa hơn bạn để bảo rằng nó chẳng phải là vấn đề “thứ bậc trong giáo phái”
hay “Tân Ước truyền lại” gì cả. Tôi cho rằng bất cứ một giáo phái nào đặt ra
các trở ngại trong vấn đề “hành lễ”, bảo rằng ai có thể ban Tiệc Thánh, làm
phép báp-tem, và ai không thể, thì đều là phi lý cả. Theo tôi, thì điều hết sức
rõ ràng là bất cứ một tín hữu nào cũng có thể làm phép báp-tem cho một tín
hữu khác, cũng như đều có thể phân phát bánh và rượu Tiệc Thánh. Không
hề có vấn đề nào như thế đã được đặt ra ngoại trừ lời nguyền của hàng giáo
phẩm từ La Mã vẫn đuổi theo chúng ta. Riêng tôi, tôi rất vui khi thấy người
tín đồ cải chánh chúng ta tự vứt bỏ mọi thứ giẻ rách của Công giáo La Mã;
nhưng tôi ít hi vọng là sẽ được như vậy, cho đến khi chúng ta được cất lên
khỏi sân khấu của đời này và sẽ được trông thấy mọi sự cách rõ ràng, mặt
đối mặt, chớ không phải chỉ thấy lờ mờ từng phần nhỏ nhặt như hiện nay.

Hàng giáo phẩm và giới tín đồ thường.


Phải chăng ông cho rằng trước mặt Đức Chúa Trời, không hề có sự khác biệt
giữa một nhóm tín hữu họp lại với nhau như một chi thể đơn giản trong
Thân thể của Đấng Christ, không có đấu trường do loài người chọn ra,
nhưng tìm cách để cho Đức Thánh Linh cai trị qua người nào Ngài muốn,
với một nhóm tín hữu khác chỉ định một người quản trị mình (làm mục sư
cho mình) và tự đặt cho nhóm mình một cái tên như"Hội Thánh” hay “Hội
chúng”? Đức Chúa Trời cho phép người ta chỉ định người để quản trị
(minister: làm mục sư) họ không? Phải chăng như thế là chúng ta sẽ có
“hàng giáo phẩm” và “giới tín đồ thường” (đảng Ni-cô-la) mà Đức Chúa
Trời bảo là Ngài rất ghét? (Theo KhKh 2:15).
Trong Hội Thánh, không thể có “hàng giáo phẩm” với “giới tín đồ thường”
như vậy. Chúng tôi giảng dạy và kiên trì chủ trương giáo lý cho rằng tất cả
những người được tái sanh, cho dù họ là ai, cũng đều là anh em với nhau và
cùng làm thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời. Chúng tôi thừa nhận chức vị giám
mục (hoặc mục sư hay trưởng lão) và chức chấp sự, vốn phù hợp với Tân
Ước; nếu có nhóm tín hữu nào chẳng đếm xỉa gì đến hai chức vụ ấy, thì điều
đó trái với Tân Ước. Về vấn đề đảng Ni-cô-la thì trong cả hai hình thức tổ
chức của Hội Thánh, đều có thể có y nhau; chính tôi đã thấy có nhiều trong
những buổi nhóm lại xưng là chỉ nhóm lại nhân danh Chúa mà thôi. Tạ ơn
Chúa, là tôi cũng đứng về phía Ngài để ghét đảng Ni-cô-la nữa. Chính tôi
cũng không rõ là mình có phạm vào lầm lỗi đó ở phương diện nào không.

Mục sư mạc áo lễ và và Ban đồng ca mạc đồng phục.


Ý kiến của ông thế nào về Ban đồng ca mạc đồng phục và ông Mục sư mặc
áo lễ? Ông có mạc áo lễ không? Tại sao?
Tôi không bận tâm lắm đến vấn đề y phục trong các buổi nhóm lại thờ
phượng của Hội Thánh. Nhưng tôi chống lại việc “ông mục sư mạc áo lễ”
mạnh mẽ hơn việc “Ban đồng ca mạc đồng phục”. Bạn hỏi tôi có mặc áo lễ
không, và nếu không thì tại sao? Tôi xin trả lời là không, mà lý do là vì tôi
chống lại bất cứ điều gì dính líu với “nghề làm mục sư” ngụ ý bảo rằng ông
mục sư thuộc một giai cấp khác hay có một chức tước, cấp bậc cao hơn các
tín hữu. Việc phân biệt giữa “hàng giáo phẩm” với “giới tín đồ thường” hoàn
toàn phản lại Kinh Thánh. Hội Thánh bao gồm một số anh em tín hữu bình
thường, cùng có chức vụ thầy tế lễ bình thường như nhau. Do đó, ông truyền
đạo hay mục sư không hề là một thầy tế lễ “hơn” bất kỳ một chi thể nào
khác trong thân thể Đấng Christ. Đó là nền tảng để tôi chống lại việc ông
mục sư mặc áo lễ. Vấn đề ban đồng ca mặc đồng phục là vấn đề sở thích cá
nhân nhiều hơn, nhưng theo tôi thì đó là tàn tích của lễ nghi chủ nghĩa, đáng
lẽ không nên duy trì trong Hội Thánh Tân Ước.

Gia nhập một Hội Thánh


Tôi xin hỏi ông một câu gồm ba phần. Chẳng những tôi đang hoài nghi, mà
muốn nhờ ông là người hiểu biết Kinh Thánh làm sáng tỏ vấn đề:
1. Phải chăng Hội Thánh là “Thân thể Đấng Christ”? Nếu vậy thì cho người
chưa tái sanh “gia nhập Hội Thánh” có phải là bất hợp lệ không?
2. Nếu có nhiều trường hợp như vậy, thì đó là lỗi của ai? Của Hội Thánh,
của người nhập hội, của ông mục sư nhận người ấy, hay của “tất cả mọi
người? (Dĩ nhiên là căn cứ vào việc không có bằng cớ hiển nhiên chứng
minh đã có sự tái sanh).
3. Người như thế có “thật sự” trở thành “chi thể” của Hội Thánh (là Thân thể
Đấng Christ) nhờ có tên ghi vào sổ của Hội Thánh hay không?
1. Hội Thánh của Đức Chúa Trời là Thân thể Đấng Christ, chỉ gồm toàn
những người đã được tái sanh mà thôi, và việc một người chưa được tái sanh
gia nhập một Hội Thánh địa phương là điều đáng ghê tởm.
2. Nhận một người chưa tái sanh làm thuộc viên tín đồ của một Hội Thánh
địa phương là một tội ác chống lại Đức Chúa Trời, chống lại Hội Thánh phổ
thông, chống lại chính Hội Thánh địa phương đó và người đã được thâu
nhận đó nữa. Hội Thánh nhận người như vậy, và ông mục sư nhân danh Hội
Thánh để hành động như vậy, thì đáng trách hơn là chính người ấy, vì người
ấy vốn không hiểu toàn thể vấn đề, do đó, cũng không biết rõ bản chất của
việc mình làm.
3. Dĩ nhiên là không một người nào chưa được tái sanh, lại có thể trở thành
thuộc viên một chi thể của Hội Thánh là Thân thể Đấng Christ. Được ghi tên
vào danh sách tín đồ của một Hội Thánh thì chẳng có giá trị đáng kể cả. Phải
được ghi tên trên Thiên đàng mới là điều quan trọng.

Hội Thánh của Đấng Christ.


Xin giải thích tại sao thỉnh thoảng ông lại nói là “Hội Thánh của Đấng
Christ”? Tôi không thấy Kinh Thánh chép như vậy bao giờ. Chỉ có một Hội
Thánh mà Kinh Thánh đề cập, đó là Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Tất cả
những tên khác đều do người ta đặt ra.
Có lẽ đúng vậy. Nhưng thật là khó hiểu nếu có ai phản đối việc gọi Hội
Thánh bằng tên của Đấng Christ vì Ngài vốn là cái Đầu của tất cả mọi sự
trong đó, còn Hội Thánh là Thân thể, là Tân Nương của Ngài. Tuy quả thật
Kinh Thánh không hề chép là “Hội Thánh của Đấng Christ”, nhưng trong
RoRm 16:16 Phao-lô đã dùng thành ngữ ấy theo số nhiều khi ông viết: “Hết
thảy các Hội Thánh của Đấng Christ chào anh em” mà đó cũng chính là các
Hội Thánh trong ICo1Cr 11:16; ITe1Tx 2:14 và IITe 2Tx 1:4 mà ông đã gọi
là “các Hội Thánh của Đức Chúa Trời”.

Kỷ luật của Hội Thánh


Mat Mt 18:18 “Hễ điều gì mà các ngươi buộc ở dưới đất, thì cũng sẽ buộc ở
trên trời, và điều gì mà các ngươi mở ở dưới đất, cũng sẽ mở ở trên trời” có
nghĩa gì?
Đó là Chúa chúng ta cho phép thi hành kỷ luật trong Hội Thánh tương lai.
Các câu 15-19 phải được đọc chung với nhau; và uy quyền ấy cũng được
chép trong GiGa 20:22, 23. Theo đó thì Hội Thánh được phép khai trừ một
thuộc viên (tín đồ) cứ sống trong tội lỗi mà không chịu xưng nó ra và tự xử
lấy. Trong ICo1Cr 5:1-13, sứ đồ Phao-lô nhấn mạnh việc phải “nhân danh
Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-xu Christ” và “lấy quyền của Đấng Christ
chúng ta phó người như thế cho quỉ Sa-tan để huỷ hoại phần xác thịt, hầu
cho linh hồn được cứu trong ngày Đức Chúa Giê-xu” (câu 4,5). Người phạm
tội vốn là con cái Đức Chúa Trời, nhưng bị loại khỏi sự thông công với
Ngài, do đó cũng phải bị loại khỏi sự thông công với những người thuộc về
Chúa, cho đến khi nào người ấy đã biết tự xử (xem ICo1Cr 11:31, 32) câu
Chúa chúng ta phán với Phi-e-rơ trong Mat Mt 16:9 đề cập một vấn đề khác
hẳn. Các đại danh từ “ngươi” thuộc số ít chớ không phải số nhiều như các
khúc sách, và ở đây, Chúa chúng ta đã ban cho Phi-e-rơ các chìa khoá để
ông sử dụng tại Giê-ru-sa-lem (Cong Cv 2:1-47) xứ Sa-ma-ri (8:1-40) và tại
Sê-sa-rê (10:1-48), tiếp nhận người ngoại bang vào Nước Trời.
“Để huỷ hoại phần xác thịt”
Câu trong ICo1Cr 5:5 “Người như thế phải phó cho quỉ Sa-tan để huỷ hoại
phần xác thịt” dường như không rõ ràng để Hội Thánh Cô-rinh-tô biết họ
phải làm gì. Nghĩa đen của câu ấy là gì? Nói khác đi, khi thực hiện việc ấy,
thì hội chúng đã làm những gì?
Nó chỉ có nghĩa là hãy loại người phạm tội ra khỏi sự thông công với hội
chúng và khỏi Tiệc Thánh cho đến khi nào người ấy ăn năn để được phục
hồi sự thông công với Đức Chúa Trời. Và theo IICo 2Cr 2:5-11 và 7:8-16 thì
dường như việc ấy đã đạt được kết quả tốt. Điều hết sức đáng tiếc là nói
chung thì việc thi hành kỷ luật trong Hội Thánh chúng ta ngày nay đã mất đi
tính nghiêm minh của nó.

Chức vụ của phụ nữ trong Hội Thánh


Xin ông bàn về vấn đề phụ nữ có thể dạy dỗ hay giảng đạo cho đàn ông
không? Họ có những đặc quyền gì trong Hội Thánh? ITi1Tm 2:11-14
ICo1Cr 14:33-37.
Để trả lời câu hỏi của bạn, tôi xin trích dẫn một bài viết của Tiến sĩ Hurry A.
Ironside “Người ta rất dễ trở thành một chiều trong các giáo lý và nguyên tắc
của Kinh Thánh. Người ta sẽ tìm cách duy trì điểm đặc sắc cũng như thừa
nhận phần đại thể của Kinh Thánh đồng thời với những giới hạn đã được xác
định rõ ràng trong đó. Tôi không thấy tại sao có người muốn đầu phục Lời
Đức Chúa Trời, mà lại khước từ lời dạy dỗ rõ ràng về địa vị của phụ nữ
trong Hội chúng, như đã được vạch rõ trong 14:1-40 và ITi1Tm 2:1-15. Khi
một hội chúng nhóm lại theo như cách Kinh Thánh chỉ dạy thì vai trò của
ngời phụ nữ là phải yên lặng bao lâu buổi nhóm lại còn giờ cầu nguyện còn
tiếp tục. Họ thừa nhận việc người đàn ông là cái đầu, nhờ đó Đấng Christ sẽ
tuyên phán cho Hội Thánh mà người phụ nữ chịu tuân phục rất sẵn sàng
vâng theo. Đây chỉ đơn giản là việc họ thừa nhận vai trò phải lẽ của mình
trong thiên nhiên. Trong việc tái tạo con người thì không có phân biệt giữa
người Do Thái và người Ngoại bang, người nam hay người nữ mà mọi
người đều hiệp làm một trong Chúa Giê-xu Christ. Nhưng điều đó không hề
làm thay đổi vai trò của chúng ta với tư cách những người nam, người nữ
đang sống trên thế gian này. Bên ngoài hội chúng của Đức Chúa Trời, thì
nhiều điều kiện sinh hoạt khác lại chiếm ưu thế, và chúng ta không nhất thiết
phải chịu sự chi phối của những khúc sách đề cập trên đây. Theo tôi thì
ICo1Cr 11:1-34 sẽ hoàn toàn khó hiểu, trừ phi chương sách ấy vẽ ra một
khung cảnh có tính cách công khai hoặc ít hoặc nhiều, trong đó những người
nam người nữ đang được tự do, nhóm lại với nhau để cầu nguyện và nói tiên
tri. Tuy nhiên, sự tự do ấy cần được bảo vệ cẩn thận, kẻo e nó có thể phát
triển để trở thành quá mức, trong đó phụ nữ muốn chiếm lấy chỗ mà theo sự
khôn ngoan của Đức Chúa Trời Ngài đã không muốn cho họ chiếm lấy.
“Việc phụ nữ gây huyên náo ngày nay là một trong những dấu hiệu của các
thời kỳ cuối cùng. Nó chỉ là một triệu chứng của tinh thần bất chấp luật pháp
vào những ngày cuối cùng của chế độ này. Các phụ nữ theo Cơ Đốc giáo
phải là những người cuối cùng không nên tự khích lệ về những việc thuộc
loại như thế”.
Như có người đem đặt vấn đề về phụ nữ có quyền được dạy dỗ trong một
lớp học Kinh Thánh hay trong trường học khi cả hai giới đều có mặt hay
không, thì tôi xin nói rằng nó không hề có dính dáng gì với điều cấm đoán
đã đề cập ở phần trên. Một lớp Kinh Thánh hay lớp học ở nhà trường như
vậy không phải là một hội chúng của Đức Chúa Trời. Đây là một sự thu xếp
tự nguyện trong đó người ta đồng ý ngồi lại với nhau để học hỏi và giúp đỡ
lẫn nhau, và nếu họ chọn đưa một phụ nữ lên ngồi ghế chủ toạ để làm giáo
sư, thì chắc chắn là bà ta không thể bị tố cáo là đã tiếm quyền. Rõ ràng là
Bê-rít-sin đã học giải hơn chồng khi được A-bô-lô dạy dỗ, và tuy theo Kinh
Thánh ông không phải là một người thiếu hùng biện hay không được mạnh
bạo, ông đã không quá tự cao để không chịu học hỏi nơi vợ mình. Lên mặt
cho rằng ta đây có uy quyền dạy dỗ, là điều Kinh Thánh cấm đoán người
phụ nữ. Nhưng dạy dỗ trong một lớp học mà vẫn giữ đúng cá tính phụ nữ
của mình, thì hoàn toàn phù hợp với lời dạy dỗ của Kinh Thánh.
Tuy nhiên, hãy còn một điểm mà chúng ta cần ghi khắc vào tâm trí. Khi mọi
việc đã đi đến chỗ tàn hại trong dân Y-sơ-ra-ên và tất cả đàn ông đều tỏ ra
không xứng đáng để Đức Chúa Trời tin cậy, thì Ngài đã dức dấy một phụ nữ
để làm Quan xét, và ban cho Đê-bô-ra một địa vị hoàn toàn trái ngược với
trật tự tự nhiên. Chúng ta không nên ngạc hiên nếu trong thời hỗn độn hiện
tại của Cơ Đốc giáo giới (khi nam giới đã thất bại thảm hại trong việc nắm
vững chân lý của Đức Chúa Trời) thì Ngài đã dức dấy cả một đạo quân đông
đảo gồm các nữ thánh để giương cao ngọn cờ chân lý mà những người đàn
ông bất trung đã để tuột khỏi tầm tay.
“Mấy năm trước đây, Tiến sĩ H.H.Snell, một giáo sư dạy Kinh Thánh nổi
tiếng người Anh lúc đi bộ với một anh em trong Chúa trên một đại lộ náo
nhiệt, và hai người chú ý đến hai phụ nữ đang hướng dẫn một cuộc họp ngay
trên đường phố để truyền giảng Tin Lành cho một số đông người thuộc cả
hai giới. Người anh em vô danh kia, vốn nổi tiếng là kẻ nghiêm khắc bảo vệ
từng chữ từng tiếng trong Lời Đức Chúa Trời, đã quay sang vị Tiến sĩ và
nói: “Thật đáng ghê tởm khi phải nhìn thấy hai phụ nữ quên mất địa vị của
mình để đi truyền giảng giữa công chính như vậy!”. Tiến sĩ Snell đáng kính
đã trả lời ông ta: “Anh ơi, chính vì anh với tôi đã không có mặt tại đó, nên
Đức Chúa Trời mới phải dùng đến họ”.
Chúng tôi cũng xin trích thêm ý kiến của Tiến sĩ Scofield liên hệ đến vấn đề
phục vụ của phụ nữ:
“Không có câu nào dạy rằng phụ nữ không được giảng đạo. Có ba điều mà
người phụ nữ bị cấm: 1. Họ không nên làm gián đoạn cuộc họp trong đó
Đức Thánh Linh đang làm việc bằng cách đặt câu hỏi (ICo1Cr 14:23-35). 2
Một phụ nữ không nên “dạy dỗ”. Từ ngữ didaskein ở đây, theo định nghĩa
của Thayer, có nghĩa là “diễn giảng cách độc đoán” - nghĩa là dạy dỗ một
cách độc đoán dường như mình là người có uy quyền. Chính từ ngữ ấy từng
được sứ đồ Phao-lô dùng để chỉ về chính mình trong ITi1Tm 2:7. Một phụ
nữ không nên tự đặt mình vào địa vị có uy quyền về mặt giáo lý như một vị
sứ đồ (ITi1Tm 2:12). 3. Không nên đặt một phụ nữ vào một địa vị có uy
quyền trong Hội Thánh, chẳng hạn như chức vị trưởng lão (ITi1Tm 2:12,
13). Tấn phong cho một phụ nữ là điều đáng ghê tởm. Phải nhớ hai nguyên
tắc quan trọng chỉ đạo cho mối liên hệ về sự phục tùng trong hôn nhân (SaSt
3:16; ITi1Tm 2:13). Câu thứ hai cũng giống như câu trước, nhưng đặc biệt
đề cập hôn nhân theo ý nghĩa hình bóng. Vợ phải phục tùng chồng “như Hội
Thánh vâng phục Đấng Christ” vậy. Rõ ràng là ICo1Cr 14:34, 35 đề cập các
phụ nữ đã có chồng, cũng như ITi1Tm 2:12 và Eph Ep 5:24. Tuy nhiên, việc
cấm “dạy dỗ” là phổ biến “Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ (dường như là
mình có uy quyền đó)!” Từ trước cho đến đây, mọi sự đều thuộc phương
diện tiêu cực. Những điều mà rõ ràng một phụ nữ có thể làm, là 1. “Nói tiên
tri” (ICo1Cr 11:5; Cong Cv 21:9). Ân tứ nói tiên tri không phải là độc quyền
hay trước hết là nói trước - nhưng là nói lên nói ra - nói để xây dựng, để
khuyên giục, để an ủi (ICo1Cr 14:3). Nói như vậy, thì người phụ nữ được
phép nói. Xin nói một lời về vấn đề trùm đầu trong ICo1Cr 11:5. Không có
gì trái ngược với tinh thần của chế độ ngày nay, hơn là dùng một câu bất
chợt đề cập một tập tục xưa cũ tại một thành phố Hi Lạp để ép nó trở thành
luật lệ hay “một nghi lễ theo luật Do Thái” đối với các Cơ Đốc nhân thuộc
mọi thời đại. Vấn đề là “đàn ông là cái đầu của phụ nữ”. Đó là lịnh truyền
của Đức Chúa Trời. Các thiên sứ vốn biết rõ như vậy. Với họ thì bất kỳ một
ai làm đảo lộn cái trật tự ấy, tức là kẻ gây xáo trộn, mất trật tự. Tại Cô-rinh-
tô một phụ nữ để đầu trần trước mặt đàn ông là một gái mãi dâm, mà một
gái điếm chẳng những bán thân thể mình, mà còn bất chấp mọi giới hạn, mọi
luật lệ về sự phục tùng đàn ông - và như vậy là làm mất trật tự của Đức
Chúa Trời. Trong một hội chúng hỗn hợp (gồm cả nam lẫn nữ giới), nếu một
phụ nữ là tín đồ Đấng Christ có đầy ân tứ thuộc linh đứng lên dạy dỗ những
điều hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh hoặc lên tiếng hay cầu nguyện với
thái độ khiêm tốn, thích hợp với người phụ nữ, thì người ấy vẫn giữ đúng địa
vị, vai trò của mình theo thứ tự mà Đức Chúa Trời đã qui định. Cho nên, rõ
ràng là trong một phạm vi nhất định và với tinh thần khiêm hạ, phục tùng,
một phụ nữ Cơ Đốc có thể thi hành một chức vụ khá rộng lớn và gồm nhiều
phương diện 2. Người phụ nữ có thể dạy dỗ - nhưng không phải theo ý nghĩa
là đưa ra những lời tuyên bố hay giáo lý độc đoán; 3. Người phụ nữ có thể
nói ra để “xây dựng và an ủi”. 4. Người phụ nữ cũng có thể cầu nguyện
(ICo1Cr 11:5) và 5. Nếu người nghe (là đàn ông) bảo “Hãy đến” thì người
phụ nữ có thể “truyền giảng Tin Lành”.

Của dâng của Cơ Đốc nhân.


Nếu một Cơ Đốc nhân đang gặp khó khăn về tiến bạc nhận được một số tiền
đặc biệt để trang trải cho qua cơn túng thiếu, người ấy có bổn phận phải
dâng 1/10 số tiền người ta đã tăng cho mình không?
Dâng phần mười là một điều luật của Cựu Ước chớ không phải một qui luật
về của dâng cho thời Tân Ước. Theo Luật pháp, dân Y-sơ-ra-ên không
những chỉ được truyền dạy phải dâng 1/10, nhưng còn dâng nhiều hơn số đó
nữa. Thứ nhất có 1/10 của mọi sản phẩm, kể cả của các bầy súc vật, loại nào
theo loại nấy, hoặc nếu muốn chuộc, thì phải thêm 1/5 giá trị của nó. Người
Lê-vi nhận 1/10 đó, rồi đến lượt họ, dân 1/10 cho thầy tế lễ Thượng phẩm.
Rồi có 1/10 phụ trội của sản phẩm do đồng ruộng mà thôi, dùng kỷ niệm các
ngày lễ thiêng liêng vào năm thứ nhất và thứ hai tại Si-lô hoặc Giê-ru-sa-
lem, và vào năm thứ ba thì cử hành tại tư gia với một bữa tiệc cho người Lê-
vi, khách lạ, và cô nhi quả phụ. Một số tác giả lại bảo là còn một phần mười
thứ ba nữa để cứu trợ người nghèo tuy một số tác giả khác phủ nhận việc đó,
và chủ trương rằng, phần mười thứ hai vào năm thứ ba thì được người Lê-vi
chia cho kẻ nghèo.
Tất cả những khoản kể trên đều có tính cách bắt buộc. Các phần mười ấy là
số thuế mà dân Y-sơ-ra-ên phải nộp. Vật gì họ đem đến với tư cách của lễ
lạc ý, đều được thêm vào số đó.
Kế hoạch quyên góp của Tân Ước được nêu ra trong 16:2 và IICo 2Cr 9:7
“Cứ ngày đầu trong tuần lễ, mỗi một người trong anh em khá tuỳ sức mình
chắt lót được bao nhiêu thì để dành tại nhà mình...” và “Mỗi người nên tuỳ
theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn nàn hay là vì ép uổng;
vì Đức Chúa Trời yêu kẻ thí của cách vui lòng”.
Thiết tưởng chẳng cần gì phải nói, là các Cơ Đốc nhân sống dưới ân điển,
phải dâng nhiều hơn điều dân Y-sơ-ra-ên bị đòi hỏi dưới Luật pháp. Nhưng
sự việc luôn luôn là thuộc về tấm lòng - “tuỳ theo lòng mình đã định”. Nói
khác đi thì của dâng phải tuỳ hỉ, “không phải phàn nàn hay là vì ép uổng” là
điều Đức Chúa Trời rất ghét; vì “Đức Chúa Trời yêu kẻ thí của cách vui
lòng”.
Chúng ta không nêu lên mọi điều vừa kể để bảo rằng Cơ Đốc nhân phải
dâng bất kể số, gặp đâu dâng đó, mà trái lại! Chúng ta phải dâng cách có hệ
thống, đều đặn, tuỳ theo “Đức Chúa Trời cho chúng ta được may mắn”
(theo bản Anh văn) và tự nguyện với thái độ vui vẻ trong lòng. Một của
dâng như thế sẽ đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Ngài còn hứa là sẽ trả lại cho chúng ta tuỳ theo của chúng ta dâng và đúng tỉ
lệ với số chúng ta dâng. Chúng ta có thể hiểu gì khác hơn về 9:6, 8, 11 “Hãy
biết rõ điều đó hễ ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều... Đức Chúa
Trời có quyền ban cho anh mọi thứ ơn đầy dẫy, hầu cho anh em hằng đủ
điều cần dùng trong mọi sự, lại còn có rời rộng nữa để làm các thứ việc
lành... như vậy anh em được giàu trong mọi sự để làm đủ mọi cách bố thí,
hầu cho người khác bởi chúng tôi mà tạ ơn Đức Chúa Trời”.
Về điểm đặc thù mà bạn nêu lên trong câu hỏi, thì không ai có thể quyết
định thay bạn được. Mọi sự đều tuỳ thuộc chính người ấy đã hứa nguyện với
Đức Chúa Trời về việc dâng 1/10 vừa hiện vật vừa tiền bạc nói chung, thì
người ấy phải làm trọn điều mình đã hứa nguyện. Nhưng cả trong trường
hợp đó, sự việc cũng hoàn toàn không tốt, nếu người ấy vừa dâng của mà
vừa phàn nàn hay bất mãn. Vấn đề chính là tấm lòng “Vì nếu mình lấy lòng
tốt mà làm thì được đẹp ý theo điều mình có, chớ chẳng theo điều mình
không có” (IICo 2Cr 8:12).

Phần mười
Tôi phải làm thế nào để chứng minh rằng dâng 1/10 là điều phải làm dưới
chế độ ân điển?
Bạn không thể nào chứng minh được việc đó, vì nó không thuộc dưới chế độ
ân điển. Chúng ta dâng tiền tuỳ theo Đức Chúa Trời giúp đỡ chúng ta may
mắn, thịnh vượng là điều tốt (ICo1Cr 16:2); và chắc chắn là chúng ta phải
xem việc được dâng hiến cho Đức Chúa Trời dưới chế độ ân điển cũng
nhiều bằng việc dân sự Ngài được truyền lịnh phải dâng hiến dưới chế độ
luật pháp, là một đặc quyền. Tuy nhiên Tân Ước không hề qui định việc
dâng 1/10 là điều bó buộc. Giáo lý về việc dâng hiến đã được qui định rõ
ràng trong hai chương IICo 2Cr 8:1-9:15 1. Trước hết, chúng ta phải dâng
chính mình (bản ngã, cái ta) cho Chúa (8:5) 2. Sự dâng hiến của chúng ta
phải chứng minh được cho tình yêu thương thành thật của chúng ta (8:8) 3.
Chúng ta phải dâng những gì mình đã hứa nguyện (8:10, 11) 4. Nếu sự dâng
hiến của chúng ta là tự nguyện, thì Đức Chúa Trời sẽ vui nhận tuỳ theo điều
chúng ta có, chớ không theo điều chúng ta không có (8:12) 5. Nếu chúng ta
dâng hiến rời rộng, chúng ta sẽ được báo trả rời rộng (9:6) 6. Chúng ta hãy
dâng theo như lòng mình đã định, không phải phàn nàn hay ép uổng vì Đức
Chúa Trời yêu kẻ thí của cách vui lòng (9:7). Từ ngữ Hi Lạp dịch ra vui lòng
có nghĩa là với thái độ vui vẻ”. Đức Chúa Trời yêu mến người dâng tiền mà
vui vẻ trong lòng. 7. Đức Chúa Trời ghi nhận sự dâng hiến của chúng ta, và
Ngài vừa có quyền vừa sẵn lòng ban mọi ân huệ cho người tự nguyện dâng
hiến (8:8-11) và cuối cùng điều cần nhớ là chúng ta chẳng bao giờ dâng
nhiều hơn điều Ngài đã ban cho chúng ta cả.

Giới hạn của sự dâng hiến


Phải chăng Đức Chúa Trời giới hạn sự dâng hiến vào 1/10?
Không bao giờ. Dâng 1/10 không hề là nguyên tắc dâng hiến của Cơ Đốc
nhân tuy có nhiều Cơ Đốc nhân dâng 1/10. Hai chương 8 và 9 của IICô là
chuẩn mực của giáo lý về sự dâng hiến của Cơ Đốc nhân.

Thâm lạm phần mười.


Theo ông thì tôi có thể dùng một phần của 1/10 vào việc học thêm không?
Tôi muốn nâng cao trình độ học thức. Tôi chỉ được học tới lớp 6 và phải bỏ
học năm lên 11 tuổi. Sau khi dành riêng ra 1/10, thì tôi không còn đủ tiền để
học lên nữa, vì gia đình chúng tôi có đến bốn người phải lo.
Việc dâng riêng 1/10 hoàn toàn có tính cách tự do vì đó là phần cần dâng
đặc biệt cho công việc Chúa, cho nên tốt nhất là chúng ta nên làm như vậy.
Hãy cầu nguyện với Cha chúng ta ở trên trời để Ngài hướng dẫn bạn, xem
Ngài có vui lòng để bạn dùng một phần trong 1/10 để học thêm không.

Quyên tiền cho Hội Thánh.


Xin ông vui lòng cho biết là theo ý ông thì Hội Thánh có nên quyên tiền để
đi du ngoạn, để tổ chức những bữa ăn tập thể ngoài trời ngày Chúa nhật
không?
Bất kỳ phương pháp quyên tiền nào không theo đúng các nguyên tắc mà Lời
Đức Chúa Trời qui định sau đây, đều không đúng với Kinh Thánh.
1. Muốn được đẹp lòng Đức Chúa Trời, của dâng phải là do người thuộc về
Chúa, chớ không phải là do người không được cứu. Người chưa được cứu
thì không thể làm gì cho đẹp lòng Ngài cả (RoRm 8:8) “Không có đức tin,
thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài” (HeDt 11:6 đối chiếu với IICo
2Cr 8:5).
2. Sự quyên trợ phải do tự nguyện (IICo 2Cr 9:7)
3. Phải dâng tiền với thái độ vui vẻ (IICo 2Cr 9:7)
4. Phải tuỳ khả năng người dâng (ICo1Cr 16:1, 2; IICo 2Cr 8:12)
Tân Nương của Đấng Christ mà phải chìa tay xin xỏ thế gian gồm những
người không được cứu, là điều sỉ nhục.

Các tổ chức của Hội Thánh.


Hội Thánh xây dựng nhiều cơ sở lớn rât hiện đại, có đầy đủ tiện nghi với
nhiều trò vui chơi giải trí nhằm mục đích gián tiếp lôi cuốn khối đông đảo
quần chúng để khiến họ trở thành Cơ Đốc nhân thì có hợp với Kinh Thánh
không?
Người ta đã tiêu những số tiền kếch sù để xây nhiều cơ sở lớn có mục đích
vui chơi giải trí nhằm lôi kéo các thanh niên, mong rằng sẽ đưa được họ đến
với Hội Thánh để trở thành Cơ Đốc nhân. Theo những gì chúng tôi được
biết, thì tất cả những nỗ lực như vậy chỉ là phí công vô ích, và cho đến nay,
chúng tôi vẫn chưa được biết có một Hội Thánh nào nhờ tổ chức như vậy,
mà cứu được linh hồn người ta. Tiến sĩ A.C. Dixon trước đây là mục sư của
Hội Thánh Brooklyn. Ông đã bỏ Brooklyn và qua nhiều năm trở thành mục
sư của Hội Thánh Boston với một tổ chức đồ sộ gồm nhiều cơ sở vui chơi
giải trí như điều kể trên. Ông đã bỏ Boston để trở thành mục sư của Hội
Thánh Moody tại Chicago. Lúc ông bỏ Boston để đến Chicago ông đã viết
một bài đăng trên tờ Sừng dê, trong đó ông tuyên bố rằng khi đến Boston,
ông những tưởng cách tổ chức của Hội Thánh ấy là một sáng kiến từ Đức
Chúa Trời đến, nhưng khi lìa bỏ Boston, ông hoàn toàn tin quyết rằng ý kiến
ấy là của quỉ Sa-tan. Nhưng trong Tân Ước, chúng ta còn có một lời càng
chắc chắn hơn của Đức Chúa Trời về kế hoạch và chương trình truyền giảng
Tin Lành để thâu góp một dân cho danh Ngài. Nếu phân nửa số tiền mà
người ta đã bỏ ra để tổ chức các cơ sở vui chơi giải trí được dùng vào việc
truyền giảng Tin lành thật sự, chắc chắn công việc Chúa sẽ phát triển nhiều
hơn là phương pháp gián tiếp mà người ta đã đầu tư vào. Điều này cũng
được áp dụng cho các hội truyền giáo hải ngoại, nơi người ta vẫn vận dụng
nhiều cố gắng cho những công tác phụ hết sức hao tốn, chớ không dùng trực
tiếp vào việc truyền giảng Tin Lành của ân điển. Nguyện Đức Chúa Trời cứu
chúng ta khỏi sự sai lầm trầm trọng này!

Các giáo phái


Đức Chúa Trời có muốn sự sai lầm do các giáo phái tạo ra cứ tiếp tục dưới
cái tên là liên giáo phái không?
Chắc chắn là không, vì Đức Chúa Trời không phải là Đấng tạo ra sự sai lầm.
Chúng ta không được cho biết tình trạng như hiện nay sẽ kéo dài bao lâu.
Chúng ta chỉ biết rằng sẽ có một lúc nào đó, mọi sự phải kết thúc. Những ai
thật sự thuộc về Ngài vì được tái sanh sẽ được Ngài thâu góp về với Ngài
khi Chúa tái lâm (ITe1Tx 4:13-18) còn số đông đảo còn lại, vốn chỉ là tín đồ
hữu danh vô thực, thì bị Ngài nhả ra khỏi miệng (KhKh 3:14-16).

Chủ nghĩa luật pháp và chủ nghĩa phân rẽ.


Xin phân biệt chủ nghĩa luật pháp của những người tìm cách ép các tín hữu
người ngoại bang theo luật pháp Môi-se, với những người tự xưng là “môn
đồ của Đấng Christ”.
Có rất ít hay chẳng hề có mối liên hệ nào giữa hai hạng người này. Số người
theo chủ nghĩa luật pháp vì chẳng biết gì cả về ân điển Đức Chúa Trời đã
tìm cách áp đặt luật pháp Môi-se làm luật lệ cho đời sống người tín hữu. Câu
trả lời hết sức đầy đủ cho chủ nghĩa luật pháp là hư tín gởi cho người Ga-la-
ti. Trong thư tín đó, Đức Chúa Trời đã công bố sự nguyền rủa trên bất luận
nhà truyền đạo nào rao truyền tà giáo Tin lành theo luật pháp.
Số người tự xưng là “môn đồ của Đấng Christ” (ICo1Cr 1:12) là một thành
phần thuộc Hội Thánh Ga-la-ti cũng như số người tự xưng là “môn đồ của
Phao-lô”, “của A-bô-lô”, “của Sê-pha”. Họ đều phạm tội chia rẽ, mà số
người tự xưng là môn đồ của Đấng Christ” thì cũng phạm tội như mọi người
khác. Lại có thể bảo rằng họ còn phạm tội nặng hơn những người khác, vì
họ vừa tự xưng là môn đệ của Đấng Christ, lại còn tìm cách gạt qua một bên
uy quyền sứ đồ của Phao-lô. Phao-lô thường ám chỉ số người chống lại uy
quyền này trong các thư Cô-rinh-tô.
Dean Alford nói: “Chúng tôi khám phá được nhiều bằng cớ rõ ràng về một
thế lực nhằm chống lại vị sứ đồ đang tác động trong Hội Thánh Cô-rinh-tô.
Nhiều giáo sư xuất thân từ Do Thái giáo (IICo 2Cr 11:22) mang theo các thơ
gởi gắm do nhiều Hội Thánh khác (IICo 2Cr 3:1), đã xây trên phần nền tảng
mà Phao-lô đã lập (ICo1Cr 3:10-15) một công trình không giá trị mà họ vẫn
lấy làm tự hào. Các giáo sư ấy tự xưng là sứ đồ (IICo 2Cr 11:13), chối bỏ uy
quyền sứ đồ của Phao-lô (ICo1Cr 9:2; IICo 2Cr 10:7, 8) xui giục người ta
đừng vâng lời ông (IICo 2Cr 10:1, 6) và nói xấu ông đủ điều, cũng như chê
bai mọi việc ông làm vì cớ Tin Lành. Có lẽ nội dung thư ICô-rinh-tô còn
khiến họ tức giận hơn nữa; vì chúng ta lại thấy ông đề cập đến họ trong bức
thư thứ hai này.

Trên thiên đàng, Hội Thánh sẽ bị chia rẽ chăng?


Tân Nương của Đấng Christ sẽ gồm toàn thể Hội Thánh, hay chỉ gồm
“những kẻ nào thắng” mà thôi?
Tân Nương gồm toàn thể những người được tái sanh dưới chế độ ân điển và
dĩ nhiên điều đó có nghĩa là cả Hội Thánh. Bảo rằng trên Thiên đàng Hội
Thánh sẽ bị chia rẽ là không đúng với Kinh Thánh và là sai lầm, cũng như
bảo rằng Tân Nương chỉ gồm toàn những người được chọn lọc, đặc biệt
“thánh khiết”. Đức Thánh Linh vốn không phán riêng với số người như thế,
nhưng đã phán với người Cô-rinh-tô (là các Cơ Đốc nhân xác thịt) rằng:
“Tôi đã gả anh em cho một chồng mà thôi, dâng anh em như người trinh nữ
tinh sạch cho Đấng Christ” (IICo 2Cr 11:2). Giáo lý chung cuộc về Tân
Nương của Đấng Christ được tìm thấy trong Eph Ep 5:25-33, và lời lẽ trong
câu 32 khiến chúng ta không còn có thể nghi ngờ gì về điểm mà câu hỏi ở
đây đã nêu ra: “Sự mầm nhiệm ấy là lớn, tôi nói về Đấng Christ và Hội
Thánh vậy” - đây không phải là nói về một phần của Hội Thánh, mà về “Hội
Thánh”. Do đó, toàn thể Hội Thánh tạo thành Vợ Đấng Christ.
Thế ai là “những người đắc thắng”? Họ chỉ là các tín hữu; toàn thể các tín
hữu đều đã đắc thắng, tức là tất cả những ai đã được tái sanh. “Vì hể sự gì
sanh bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian và sự thắng hơn thế gian, ấy
là đức tin của chúng ta. Ai là người thắng hơn thế gian, há chẳng phải kẻ tin
Đức Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời hay sao?” (IGi1Ga 5:4, 5).
Đây là những người đắc thắng mà các bức thư gởi cho các Hội Thánh trong
KhKh 2:1-29 đã được gởi đến cho. Mà họ đã đắc thắng như thế nào? Ấy là
“bởi huyết Chiên Con và bởi lời làm chứng” (KhKh 12:11).
Hội Thánh của Đức Chúa Trời hằng sống chỉ là một, và sự hiệp một đó sẽ
được biểu hiện trong đời hầu đến, không rạn nứt hay phân rẽ, không tì vết
không có chút bất toàn nào “không vết, không nhăn, không chi giống như
vậy, nhưng thánh khiết, không chê trách được” (Eph Ep 5:27).

Lời uỷ thác trọng đại trong sách Mác


Xin ông giải thích Mac Mc 16:15-18? Phải chăng đó là lời uỷ thác quan
trọng cho Hội Thánh?
Vì vấn đề này khiến cho nhiều độc giả thắc mắc nên tôi rất vui được trả lời ở
đây. Trước hết, chúng ta hãy trích dẫn cả khúc sách đó:
“15Ngài phán cùng các sứ đồ rằng: Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành
cho mọi người. 16Ai tin và chịu pháp báp-tem sẽ được rỗi; nhưng ai chẳng
tin sẽ bị đoán phạt. 17Vậy những kẻ tin sẽ được các dấu lạ này; lấy danh ta
mà trừ quỉ; dùng tiếng mới mà nói; bắt rắn trong tay; nếu uống giống chi
độc, cũng chẳng hại gì; hễ đặt tay trên kẻ đau, thì kẻ đau sẽ lành”.
Rõ ràng là các điều đó đã không được ban “kèm theo” cho “những kẻ tin”
hiện nay. Sách Tin Lành Mác cũng như các sách Tin Lành Ma-thi-ơ và Lu-
ca trước hết, vốn là một quyển sách về Nước Trời, và tôi rất hài lòng khi
thấy không có sách nào trong số đó chứa đựng các diễn biến theo trình tự
của Hội Thánh - cả phần gọi là “Lời uỷ nhiệm quan trọng” trong Mat Mt
28:18-20 cũng vậy. Sự kiện trong sách Công vụ, mọi phép báp-tem bằng
nước đều thực hiện nhân danh Đức Chúa Giê-xu chứ không nhân danh Ba
Ngôi Đức Chúa Trời chứng minh rằng các sứ đồ đã không làm việc theo lời
uỷ thác quan trọng. Muốn cho chắc chắn, chúng ta phải giảng Tin Lành cho
mọi người - nhưng giảng Tin Lành nào? Tin Lành duy nhất được biết trong
bốn sách Tin Lành Cộng quan, là Tin Lành về Nước Trời. Trong bốn sách
Tin Lành Tin Lành về ân điển của chúng ta chỉ được tìm thấy trong sách
Giăng. Lời uỷ thác quan trọng thì được tìm thấy trong Cong Cv 1:8, được
các sứ đồ thực hành để nêu gương và mở rộng ra trong cả sách Công vụ,
chẳng hạn như trong 10:47, 48; 19:4, 5 (đối chiếu với CoCl 3:17). Chắc chắn
rằng “lời uỷ thác quan trọng” của Ma-thi-ơ và Mác sẽ được ứng nghiệm sau
khi Hội Thánh đã thành toàn và được cất lên. Sau đó, Tin Lành này về Nước
Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất” (Mat Mt 24:14).

Các nghi lễ trong Hội Thánh.


Phép báp-tem và Tiệc thánh.
Phải chăng như trong nhiều giới người ta chủ trương rằng phép báp-tem và
Tiệc thánh đều là tạm thời và không dành cho Hội Thánh Tân Ước? Phi-e-rơ
liên hệ thế nào với Hội Thánh?
Không, không đúng như vậy. Hai lễ đó đã được ban cho Hội Thánh qua suốt
thời kỳ của chế độ ân điển. Phép báp-tem đã được thực thi một thời gian rất
lâu sau “giai đoạn chuyển tiếp”, được số người muốn cho chúng ta tin rằng
những nghi lễ đó không dành cho chúng ta trong thời hiện tại nói đến rất
nhiều; nó đã không hề bị đình chỉ một thời gian quan trọng nào trong Hội
Thánh, nhưng cứ được tiếp tục cho đến ngày nay. Chúng ta chẳng có gì để
nghi ngờ việc Phi-e-rơ vốn là vị sứ đồ cho người Do Thái; tuy nhiên ông đã
được Đức Thánh Linh sai phái đi mở cửa Tin lành cho người ngoại bang
trong bài giảng đầu tiên cho người ngoại bang (Cong Cv 10:1-48), và khi
các thính giả ngoại bang tin nhận Tin Lành và nhận được Đức Thánh Linh,
thì Phi-e-rơ đã dùng uy quyền của một vị sứ đồ, “truyền lịnh cho họ phải
nhân danh Chúa mà chịu phép báp-tem”. Vị sứ đồ cho các dân ngoại bang là
Phao-lô; tại một thành phố ngoại bang là Ê-phê-sô (Cong Cv 19:1-5) ông
gặp “một môn đồ” không biết Tin lành và đã giảng Đấng Christ cho họ và
làm phép báp-tem lại cho họ - ” họ bèn chịu phép báp-tem nhân danh Đức
Chúa Giê-xu”. Sự biểu hiện sau đó chứng minh rằng điều đã được nhân danh
Ngài để thi hành cũng được chính Đấng Christ chuẩn nhận vì “sau khi Phao-
lô đã đặt tay lên, thì có Đức Thánh Linh giáng trên chúng, cho nói tiếng
ngoại quốc và lời tiên tri”. Ở đây cũng như mọi nơi khác, không hề có lời
nào bảo rằng phép báp-tem là tạm thời và chúng ta vào thời hiện tại chẳng
có liên hệ gì với lễ ấy cả. Còn về Tiệc Thánh thì ICo1Cr 11:26 “cho tới lúc
Ngài đến” đã giải quyết mọi sự. Đây là một lễ kỷ niệm phải giữ để tỏ ra là
chúng ta vâng Lời Ngài cho đến cho đến khi nào chúng ta được gặp mặt
Ngài. Lời Đức Chúa Trời vốn rõ ràng trong mọi sự điều này “Đừng để cho
các giáo lạ dẫn đi sai lạc”.

Nghi lễ theo Kinh Thánh


Cơ Đốc nhân chưa chịu phép báp-tem có được dự Tiệc Thánh không?
Thứ tự thích đáng đã được vạch ra trong hai nghi lễ đó, là chết, chôn, sống
lại, và bồi bổ đời sống mới nhờ (thịt và huyết) Đấng Christ.

Tiệc Thánh
Có tín hữu đã đặt vấn đề về việc dùng rượu (nho) trong Tiệc Thánh. Có
người cho rằng chỉ dùng nước nho (nước ép) là đủ, trong khi nhiều người
khác chủ trương phải dùng nước nho đã lên men và thành rượu rồi. Xin cho
biết ý kiến của ông.
Trong Hội Thánh mà tôi từng làm mục sư hai mươi năm và bây giờ, tôi là
một thuộc viên tín đồ, chúng tôi vẫn dùng nước nho chưa lên men và bánh
mì không men trong Tiệc Thánh.
Làm như vậy là nhằm tuân thủ sự kiện men vốn chỉ bóng về điều ác theo Lời
Đức Chúa Trời (mà sự lên men cũng là một hình thức theo cùng một nguyên
lý như thế), do đó chúng tôi tin rằng bất kỳ vật gì. Chỉ bóng về thịt và huyết
Chúa cũng phải không chứa đựng men và sự lên men.
Tuy nhiên tôi không xem vấn đề ấy là có ảnh hưởng quan trọng đến sự thông
công của chúng ta. Vấn đề là chúng ta nên tôn trọng quyền tự do của người
khác. “Hãy để cho mọi người tin chắc nơi tâm trí mình”.

Lịch sử phép báp-tem.


Trong Sử ký Hội Thánh, có cho thấy gì về việc vào thế kỷ 1 và 2. Hội Thánh
đã không biết tới và gác qua một bên việc làm phép báp-tem bằng cách
nhúng tín hữu trong nước không? Trong sách Công vụ, chúng ta đọc thấy
sau khi một người tin Chúa Giê-xu, thì được làm phép báp-tem trong nước.
Theo tôi, thì dường như trong Hội Thánh nguyên thuỷ, tất cả các tín hữu đều
đã được làm phép báp-tem cho. Tôi tin rằng RoRm 6:3, 4; GaGl 3:27; CoCl
2:12, không thể có ý nghĩa gì khác hơn là phép báp-tem trong nước; nhưng
các giáo sư dạy Kinh Thánh ngày nay bảo rằng các khúc Kinh Thánh ấy
không hề dạy về phép báp-tem bằng nước.
Phép báp-tem cho trẻ con đã được đưa vào Hội Thánh từ bao giờ?
Hội Thánh nguyên thuỷ đã không hề biết tới một phép báp-tem nào khác
hơn là nhúng người tín hữu trong nước để làm phép báp-tem cho người ấy?
Ngay đến thời kỳ muộn màng về sau này của thế kỷ hai mươi. Giáo hội
Công giáo La Mã cũng không xem một phép báp-tem nào khác là có giá trị.
Tôi nghĩ là việc có người có ý kiến khác thắc mắc không rõ RoRm 6:3, 4;
GaGl 3:27; CoCl 2:12 có ám chỉ phép báp-tem bằng nước hay không, là họ
có căn cứ và lòng thành thật. Theo riêng tôi, tôi tin rằng RoRm 6:3 ám chỉ
phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh, còn câu 4 thì đề cập phép báp-tem báp-
tem bằng nước. Nhưng tôi hoàn toàn tin quyết rằng phép báp-tem bằng
nước, bằng cách nhúng toàn thân người tín hữu trong nước, là phép báp-tem
duy nhất mà Tân Ước đòi hỏi. Điều này không có nghĩa là chỉ làm phép báp-
tem theo cách đó thì người ta mới được cứu; đó là điều mà tôi không tin.
Việc làm phép báp-tem cho trẻ con đựơc đưa vào do giáo lý dạy rằng người
ta được tái sanh lúc chịu phép báp-tem, nghĩa là tin rằng nước của phép báp-
tem là cần thiết cho sự cứu rỗi. Do đó, người ta bắt đầu làm phép báp-tem
cho trẻ con và người đau yếu, v.v.. rồi vì không thể nhưng họ vào nước,
người ta mới đổ nước hay rảy nước lên người họ.

Phép báp-tem và phép Cắt bì.


Phải chăng phép báp-tem thay thế cho phép cắt bì? Nếu đúng vậy, tại sao
không thấy chỗ nào trong Kinh Thánh chép về việc làm phép báp-tem cho
một đứa trẻ?
Không. Giữa phép cắt bì và phép báp-tem, chẳng có liên hệ gì với nhau,
ngoại trừ việc cả hai đều chỉ bóng về sự chết đối với xác thịt. Phép báp-tem
còn được thêm vào phần ý nghĩa về sự từ kẻ chết sống lại (CoCl 2:11, 12).
Việc làm phép báp-tem cho trẻ con là hoàn toàn không đúng với Kinh
Thánh.

Không thể nhờ phép báp-tem để được cứu rỗi.


Chúng ta chịu phép báp-tem thì có được cứu không? Có một nhà thờ ở đây
dạy rằng một đứa trẻ sẽ được cứu nhờ chịu phép báp-tem. Người ta dạy rằng
Đức Chúa Trời sẽ đặt Thánh Linh Ngài vào linh hồn đứa trẻ, và đó chính là
sự sanh lại theo GiGa 3:5; khi người ta quyết định tin Chúa, thì làm lại phép
báp-tem, và đó là sự sanh ra về mặt thuộc linh. Sự dạy dỗ như vậy là không
theo Kinh Thánh. Kinh Thánh chỉ đề cập việc làm phép báp-tem cho một
người bằng cách nhúng người ấy trong nước, sau khi người ấy ăn năn tin
Chúa và được cứu. Nói khác đi, thì không nên làm phép báp-tem cho một
người chưa được cứu, còn người đã được cứu thì chịu phép báp-tem để vâng
lời Chúa và làm chứng cho người ta. Giáo lý dạy rằng phép báp-tem cứu
được người ta, là từ ma quỉ; mà bằng chứng là vô số người đã nhận nghi lễ
ấy, và ra về, chỉ để càng phạm tội nhiều hơn mà thôi.
Mọi điều đó đều do kẻ thù của chúng ta đặt ra để làm sai lạc phần chân lý
đơn giản về sự cứu rỗi, bao giờ cũng chỉ do ân điển ngoài ra, không còn gì
khác phải thêm vào. Eph Ep 2:8 đã trình bày cả vấn đề ấy theo một trật tự
đúng đắn phải lẽ. Chúng ta được cứu là nhờ ân điển, bởi đức tin, và điều đó
không do nơi chúng ta mà là sự ban cho của Đức Chúa Trời, không phải do
việc làm e có người sẽ khoe mình chăng. Đó là một sự dựng nên mới, một
sự tái tạo để chúng ta sẽ làm việc lành, nhưng việc lành vốn theo sau sự cứu
rỗi, chớ không phải đi trước.

Phép báp-tem và sự cứu rỗi


1. Nước của phép báp-tem có thêm gì cho sự cứu rỗi hay có liên hệ gì đến sự
cứu rỗi không? Theo 2:8, 9 phải chăng nhờ ân điển, bởi đức tin vào huyết
Đấng Christ, chúng ta chỉ đươc cứu khỏi nguyên tội mà thôi, còn chúng ta
phải nhờ nước của phép báp-tem để chuộc tội lỗi đã phạm từ thuở bé, cho
đến khi được Đấng Christ tiếp nhận?
2. Ý nghĩa và giá trị của phép báp-tem bằng nước là gì trong câu “Ai tin và
chịu phép báp-tem thì sẽ được rỗi”.
3. Chữ “nước” có nghĩa gì trong câu “Nhờ nước và Thánh Linh mà sanh”
(GiGa 3:5)?
4. Câu “chịu phép báp-tem trong Đấng Christ” (GaGl 3:27) là phép báp-tem
bằng nước hay bằng Thánh Linh”?
5. Trong phép báp-tem của Cơ Đốc giáo có sự tha tội như trong phép báp-
tem của Giăng Báp-tít không? Phi-e-rơ đã nói như vậy trong Cong Cv 2:38.
1. Phép báp-tem bằng nước không hề thêm gì hoặc có liên hệ gì với sự cứu
rỗi của chúng ta. Chúng ta được cứu bởi đức tin, nhờ ân điển, trên nền tảng
là huyết Đấng Christ; và như thế không phải chỉ được cứu khỏi nguyên tội
mà là khỏi mọi tội chúng ta. Dạy rằng phép báp-tem bằng nước có phần vào
việc chuộc tội cho chúng ta, là không đúng với Kinh Thánh.
2. Câu “Ai tin và chịu phép báp-tem, sẽ được rỗi” (Mac Mc 16:16) chắc có
liên hệ với kỷ nguyên Nước Trời (Thiên hi niên, 1.000 năm Bình an) hơn là
với kỷ nguyên của Hội Thánh. Cần chú ý văn mạch ở phần tiếp theo “nhưng
ai chẳng tin, sẽ bị đoán phạt” và các dấu hiệu cặp theo cho những người tin:
họ sẽ nói tiếng mới, nhơn danh Chúa mà trừ quỉ, nắm bắt rắn độc, uống vật
có chất gây chết chóc mà chẳng hề chi, sẽ đặt tay trên kẻ đau ốm thì chữa
lành cho... Các dấu lạ ấy đã không được kèm theo đức tin vào Chúa Giê-xu
ở kỷ nguyên này. Đó là các dấu lạ của thời kỳ Nước Trời (Thiên hi niên).
Nhân ngày lễ Ngũ tuần, sau khi Phi-e-rơ giảng và được các thính giả hỏi họ
phải làm gì, thì ông đáp “Ai nấy hãy hối cải, phải nhơn danh Đức Chúa Giê-
xu chịu phép báp-tem để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức
Thánh Linh. Vì lời hứa thuộc về các ngươi và thuộc về hết thảy mọi người ở
xa mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta sẽ gọi” (Cong Cv 2:38, 39). Trong
câu đó, ông không hề ám chỉ các dân ngoại bang mà chỉ đề cập đến số người
Do Thái đang ở xa cũng như đang có mặt nhân cơ hội ấy. Từ trước cho đến
lúc đó, dường như Đức Thánh Linh đã không hề giáng trên các tín hữu cho
đến khi họ đã chịu phép báp-tem bằng nước. Nhưng khi đọc tới Công 10, khi
Tin Lành đã được đem đến cho người ngoại bang, thì cái thứ tự đó đã bị lật
ngược, vì đang lúc Phi-e-rơ nói, Phi-e-rơ mới hỏi: “Người ta có thể từ chối
nước về phép báp-tem cho những kẻ đã nhận lấy Đức Thánh Linh cũng như
chúng ta chăng? Người bèn truyền làm phép báp-tem cho họ nhân danh Đức
Chúa Giê-xu Christ” (Cong Cv 1:44-48). Dường như là bắt đầu từ đó trở đi,
phép báp-tem đã theo sau sự cứu rỗi, chớ không còn đi trước sự cứu rỗi như
trước nữa.
3. “Nước” trong GiGa 3:5 chỉ về Lời của Đức Chúa Trời. Cùng một hình
ảnh đó cũng được dùng trong Tit Tt 3:5 (đối chiếu với Eph Ep 5:25-27 Gia
Gc 1:18; IPhi 1Pr 1:23).
4. Câu “chịu phép báp-tem trong đấng Christ” (GaGl 3:27) chỉ về “một phép
báp-tem” do đó “cũng một Thánh Linh” đã làm phép báp-tem cho người tín
hữu lúc người ấy được “sanh lại” trong “cùng một thân thể” nghĩa là thân
thể của Đấng Christ (đối chiếu với ICo1Cr 12:12, 13; Eph Ep 4:4-6).
5. Trong phép báp-tem của Cơ Đốc giáo không hề có sự tha tội (Tôi đã từng
đề cập Cong Cv 2:38). Vai trò của phép báp-tem là trong đời sống Cơ Đốc
nhân, sự vâng lời của người ấy. Dùng phép báp-tem như một phương tiện để
được cứu rỗi, là trái với lời dạy dỗ của Kinh Thánh và gây lộn xộn cho giáo
lý về ân điển của Tin Lành.

Các từ ngữ Hi văn dùng chủ phép báp-tem.


Xin ông vui lòng chỉ cho chúng tôi cách chính xác các từ ngữ trong Hi-văn
liên hệ đến phép báp-tem bằng nước có nghĩa như thế nào?
Từ ngữ thường gặp nhất liên hệ đến phép báp-tem bằng nước là baptitzo.
Chữ này được dịch ra liên hệ với phép báp-tem dưới hiều hình tức văn phạm
(danh từ, động từ v.v...) tất cả là 80 lần.
Baptisma xuất hiện 25 lần.
Baptismos xuất hiện 4 lần.
Baptistes xuất hiện 14 lần.
Bapto xuất hiện 3 lần.
Embapto xuất hiện 3 lần.
Tổng cộng là 130 lần, tất cả đều có nghĩa là nhúng vào trong nước, bị chìm
ngập trong nước, bị chôn. Không một học giả có uy tín nào về quyển Tân
Ước Hi-văn thắc mắc về ý nghĩa này. Tất cả các sách về ngữ vựng hoặc từ
điển đều đồng ý rằng quả thật từ ngữ mà Tân Ước dùng chỉ phép báp-tem
đều có nghĩa như đã nói trên. Chúng tôi xin kể lại một cuộc tranh luận sôi
nổi giữa hai trưởng lão (mục sư Hội Thánh Trưởng Lão) trong đó một người
(mà cũng có lẽ là cả hai) đã từng gặp khó khăn về đề tài phép báp-tem. Rốt
cuộc, vụ này nói với vị kia:
“Hãy nghe đây. Có một chỗ, chữ bapto đã được dùng mà không thể có nghĩa
là “ngập trong nước” được.
“Chỗ nào đâu?” Vị kia hỏi.
“Trong LuLc 16:24. Ở đây, chữ bapto được dịch là nhúng vào! Anh biết đó,
việc này không thể có nghĩa là La-xa-rơ phải nhúng cả bàn tay của ông ta
vào trong nước”.
Người bạn đang tranh luận với ông ta bỗng reo lên “À há! Xin cám ơn anh
về cái bằng cớ hiển nhiên tế nhị để tranh luận với tôi đó. Dĩ nhiên là La-xa-
rơ không hề bị đòi hỏi phải nhúng cả bàn tay hoặc nguyên một ngón tay vào
nước; tuy nhiên, ông vẫn phải nhúng cả cái móng tay vào nước. Anh nói cho
tôi nghe thử, ông ta có thể làm thế nào khác hơn thế chăng?”
Người kia không trả lời được, vì đâu còn cách nào để trả lời?

Công thức của phép báp-tem.


Sau khi đọc Mat Mt 28:19, chúng tôi rất ngạc nhiên vì thấy qua suốt sách
Công vụ, các tín hữu đều được làm phép báp-tem nhân danh Chúa Giê-xu
mà thôi. Công thức trong sách Ma-thi-ơ có thích hợp cho thời hiện tại
không?
28:18-20 chép: “Đức Chúa Giê-xu đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết
cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy hãy dạy dỗ muôn
dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh mà làm phép
báp-tem cho họ và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các
ngươi! Và này, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế”. Chúng tôi
gọi khúc sách này là “Lời uỷ thác về Nước Trời”. Dĩ nhiên là chúng tôi biết
rằng nhiều người vẫn gọi khúc sách này là “Lời uỷ thác cho Hội Thánh”,
nhưng chúng tôi tin quyết rằng đó là một sai lầm. Thật là lạ lùng nếu ta cho
rằng trong Nước Trời, Hội Thánh lại được sai phái, uỷ thác như vậy. Rồi nếu
chúng ta nhìn vào sách Công vụ, chúng ta sẽ thấy rằng các vị sứ đồ đã không
hề hành động theo lời uỷ thác trong sách Ma-thi-ơ. Trước hết họ đã không
hề giảng Tin Lành về Nước Trời, là Tin Lành duy nhất được biết trong sách
Ma-thi-ơ, và là việc rao giảng rằng “Nước Thiên đàng đã đến gần”. Họ đều
giảng về một Tin Lành cứu rỗi cho từng cá nhân, nhờ ân điển của Đức Chúa
Trời, bởi đức tin, đặt nền trên việc Con Đức Chúa Trời đã đổ huyết ra, mà
Tin Lành ấy thì không thể tìm ra ở bất kỳ chỗ nào trong sách Ma-thi-ơ. Cũng
cần chú ý là phép báp-tem trong sách Công vụ đã không hề được thực hiện
“nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh” nhưng chỉ
được thực hiện “nhân danh Chúa Giê-xu” (Cong Cv 2:28; 8:16; 10:48; 19:5)
Lời uỷ thác mà các Sứ đồ đã tuân thủ để hành động là 1:8 “Nhưng khi Đức
Thánh Linh giáng trên các ngươi thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và
làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri cho đến
cùng trái đất”. Trong ngày đó và suốt chế độ hiện nay, danh Chúa Giê-xu là
danh trên hết mọi danh, và bất luận chúng ta nói gì, làm gì cũng phải nhân
danh Chúa Giê-xu nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha”
(CoCl 3:17). Lời uỷ thác về Nước Trời chỉ có hiệu lực sau khi Hội Thánh đã
được tập họp, và Đức Chúa Trời sẽ cất đoàn người đông đảo đã truyền giảng
Tin Lành khỏi dân Y-sơ-ra-ên và họ sẽ đi khắp nơi để làm chứng về Tin
Lành của Nước Trời cho muôn dân, cho đến khi cơn Đại Nạn kết thúc, và
Con Đức Chúa Trời sẽ lấy đại quyền đại vinh ngự trên các đám mây trên trời
mà đến để lập Vương quốc Ngài đã hứa trên đất này (Mat Mt 24:14).
Phép báp-tem của Chúa chúng ta.
Xin ông giải thích tại sao Chúa Giê-xu lại chịu phép báp-tem? Tôi có nghe
một người tự xưng là truyền đạo mới đây có nói: “Chúa Giê-xu sở dĩ chịu
phép báp-tem vì Ngài cũng từng phạm tội”.
Nhưng Ngài không hề phạm tội, vì trong Ngài không có tội lỗi (IGi1Ga 3:5).
Chính Ngài đã đưa ra lý do để chịu phép báp-tem, khi Ngài nói với Giăng
trong Mat Mt 3:15: “Bây giờ, cứ làm đi; vì chúng ta nên làm cho trọn mọi
việc công bình như vậy”. Đại danh từ “chúng ta” bao gồm toàn thể các tín
hữu, vì Ngài vốn nghĩ đến mọi người chúng ta. Trong phép báp-tem, các
phương tiện của sự cứu rỗi đã được vạch ra theo nghĩa hình bóng. Ngài làm
trọn mọi việc công bình cho chúng ta khi chịu chết, bị chôn rồi từ kẻ chết
sống lại. Phép báp-tem tiêu biểu cho mọi điều đó, và khi người tín hữu chịu
phép báp-tem, chịu cho chôn đi như kẻ đã chết, rồi được sống lại, là người
ấy công bố đức tin của mình vào sự chết, bị chôn và sống lại của Đấng
Christ, rằng qua đó người ấy đã được cứu.

Việc rửa chân.


Sự dạy dỗ trong GiGa 13:14 “Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân
cho các ngươi, thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau” là gì? Phải
chăng câu ấy dạy chúng ta phải khiêm hạ?
Lời dạy dỗ trong 13:1-38 phải được hiểu trong ánh sáng của câu 7: “Đức
Chúa Giê-xu đáp rằng: Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm, nhưng về sau sẽ
biết”. Chắc chắn là Si-môn Phi-e-rơ đã biết rằng ở đây có một bài học quan
trọng về sự khiêm nhường, nhưng vẫn còn một việc khác mà ông chưa biết.
Rồi có lời lẽ trong hai câu 10,11 “Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Ai đã tắm rồi,
chỉ cần rửa chơn, thì được sạch cả. Vả các ngươi đã được tinh sạch, nhưng
chưa được tinh sạch đều. Vì Ngài đã biết ai sẽ phản Ngài; tại thế cho nên
Ngài phán rằng: Các ngươi chẳng phải hết thảy đều được tinh sạch”. Dĩ
nhiên, như thế không có nghĩa rằng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt vốn có một thân thể
dơ dáy hơn các sứ đồ khác mà chỉ có nghĩa rằng giữa ông ta với các sứ đồ
khác, đã có chỗ khác nhau; các sứ đồ khác là tín hữu thuần thành, còn Giu-
đa Ích-ca-ri-ốt thì không. Họ được tinh sạch mọi bề theo ý nghĩa là đã được
tái sanh, nhưng hằng ngày, họ còn cần bước đi thanh sạch, tránh khỏi sự ô
uế, và mọi người chúng ta cũng vậy.
Rửa chân lẫn cho nhau.
Xin ông giải thích điều ông tin, liên hệ đến việc rửa chơn. Ông có tin rằng
lời dạy dỗ đó cũng dành cho các con cái Chúa ngày nay không?
Tôi không tin rằng việc rửa chân lẫn cho nhau là một nghi lễ thường xuyên
dành cho Hội Thánh. Chìa khoá để hiểu rõ ý nghĩa đích thực của khúc sách
GiGa 13:1-17 là câu 7: “Hiện nay, ngươi chẳng biết sự ta làm, nhưng về sau
sẽ biết”. Trong cùng một bài giảng luận ấy, ở 14:25, 26 Chúa chúng ta phán:
“Ta đã nói những điều đó với các ngươi khi ta còn ở cùng các ngươi. Nhưng
Đấng Yên ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhân danh ta sai xuống,
Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều ta
đã phán cùng các ngươi”. Rồi trong 16:12, 13, Ngài lại phán: “Ta còn có
nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá
sức các ngươi. Lúc nào Thần Lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi
lẽ thật... và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến... Ngài sẽ lấy điều thuộc
về ta mà rao bảo cho các ngươi vậy”. Căn cứ vào tất cả những câu đó, tôi
hiểu là Si-môn với các đồng bạn sứ đồ của ông bấy giờ chỉ thấy phần trên
mặt của ý nghĩa đích thực trong hành động rửa chơn các môn đệ của Chúa
chúng ta, và còn phải chờ đợi sự giải nghĩa của Đức Thánh Linh. Tôi tin
rằng phần giải nghĩa ấy đã được Đức Thánh Linh trình bày trong GaGl 6:1
“Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức
Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại
phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng”. Rửa chân lẫn cho nhau (trong khi mọi
người đều đã sạch sẽ cả rồi) trong một buổi nhóm lại công khai là một việc
nhỏ mọn và hết sức dễ dàng so với việc rửa sạch bước đi của một thánh đồ
lỡ phạm tội “bằng nước tẩy sạch là Lời Đức Chúa Trời”.

Tin Lành.
Tin Lành là gì? Xin ông giải thích rõ ý nghĩa của từ ngữ “Tin Lành.
Có khi chữ này được dùng chỉ một trong bốn sách đầu tiên của Tân Ước,
như sách Tin Lành của Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng. Từ ngữ Tin Lành có
nghĩa là tin tức vui mừng, tốt lành. Bốn hình thức của Tin Lành đã được
Tiến sĩ Scofield phân biệt trong bộ Thánh Kinh Phù Dẫn của ông như sau:
1. Tin Lành về Nứơc Trời. Đây là Tin Lành công bố rằng Đức Chúa Trời dự
định lập một vương quốc trên thế gian này, ứng nghiệm với Giao ước cùng
Đa-vít (IISa 2Sm 7:16). Đây là một vương quốc về mọi mặt chính trị, thuộc
linh, phổ quát của dân Y-sơ-ra-ên, trong đó Con Đức Chúa Trời, Đấng kế
nghiệp cho Đa-vít sẽ làm Vua, và suốt thời gian 1.000 năm sẽ bày tỏ sự công
chính của Đức Chúa Trời trong mọi việc giữa loài người. Xem Mat Mt 3:2.
Hai đợt truyền giảng Tin Lành ấy đã được đề cập, một ở trong quá khứ, bắt
đầu với chức vụ của Giăng Báp-tít, được Chúa chúng ta và các môn đệ Ngài
tiếp tục, và kết thúc với việc dân Do Thái khước từ, không nhận Ngài là
Vua. Đợt kia hãy còn trong tương lai (Mat Mt 24:14) trải qua cơn đại Nạn và
ngay trước lúc Vua Giê-xu tái lâm trong vinh hiển.
2. Tin Lành ân điển của Đức Chúa Trời. Đây là tin mừng về Chúa Giê-xu
Christ, nhà Vua đã bị từ bỏ, đã chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi của thế
gian và đã từ chết sống lại để xưng công bình cho chúng ta, và nhờ Ngài, hễ
ai tin Ngài thì đều được kể là công chính về mọi mặt. Hình thức của Tin lành
này đã được mô tả nhiều cách khác nhau. Đó là “Tin Lành của Đức Chúa
Trời” (RoRm 1:1) vì bắt nguồn từ tình yêu của Ngài; “Tâm tình của Đấng
Christ” (IICo 2Cr 10:14) vì xuất phát từ sự hi sinh của Ngài, và vì Ngài là
Đối tượng duy nhất của đức tin Cơ Đốc; “Tin Lành ân điển của Đức Chúa
Trời (Cong Cv 20:24) vì Tin Lành ấy cứu con người khỏi sự nguyền rủa của
Luật pháp; “Tin Lành vinh hiển” (ITi1Tm ITi1:11; IICo 2Cr 4:4) vì đó là
mối bận tâm của Đấng Vinh hiển, nhằm đưa nhiều con cái Ngài đến vinh
hiển (HeDt 2:10); “Tin Lành về sự cứu rỗi chúng ta” (Eph Ep 1:13) vì đó là
“quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (RoRm 1:16) “Tin Lành
không chịu phép cắt bì” (GaGl 2:27) vì giải phóng con người khỏi mọi hình
thức, lễ nghi; “Tin Lành bình an” (Eph Ep 6:15) vì nhờ Đấng Christ mà có
sự hoà bình giữa tội nhân với Đức Chúa Trời và chúng ta được ban cho sự
bình an trong lòng.
3. Tin Lành đời đời (KhKh 14:6). Đây là Tin Lành sẽ được rao truyền cho
người trên đất này ngay sau khi cơn Đại Nạn kết thúc và trước ngày phán xét
các dân các nước (Mat Mt 25:31). Đây không phải là Tin Lành về Nước
Trời, cũng không phải Tin Lành ân điển. Tuy rao giảng về sự phán xét, chớ
không phải là sự cứu rỗi, nhưng đó là Tin Lành cho dân Y-sơ-ra-ên và cho
những người đã được cứu trong cơn đại nạn (KhKh 7:9-14; LuLc 21:28; Thi
Tv 96:11-13; EsIs 35:4-10).
4. Điều mà Phao-lô gọi là “Tin Lành tôi” (RoRm 2:16). Đây là Tin Lành ân
điển của Đức Chúa Trời ở mức phát triển đầy đủ nhất gồm cả sự mạc khải
về kết quả của Tin Lành ấy trong việc kêu gọi Hội Thánh cũng như các mối
liên hệ, địa vị, đặc quyền và trách nhiệm của Hội Thánh đó. Đây là chân lý
nổi bật của thư Ê-phê-sô và Cô-lô-se, nhưng cũng thâm nhập tất cả các thư
tín khác của Phao-lô.
Có “Tin Lành khác” (GaGl 1:6; IICo 2Cr 11:4) là sự lệch lạc của Tin Lành
ân điển của Đức Chúa Trời mà chúng ta được khuyến cáo phải chống lại. Từ
xưa, nó đã có nhiều hình thức quyến rủ, nhưng cách thử nghiệm chỉ có một:
nó luôn luôn phủ nhận tính cách đầy đủ và duy nhất của ân điển để cứu rỗi,
gìn giữ và thành toàn người tín hữu; nó pha lẫn vào ân điển, một số công
đức nào đó của con người. Trong Ga-la-ti, đó là luật pháp, trong Cô-lô-se,
đó là sự cuồng tín (CoCl 2:18 v.v..) Dầu là dưới hình thức nào, các giáo sư
của nó đều bị Đức Chúa Trời nguyền rủa.

“Tin Lành tôi”


Nước Đức Chúa Trời mà Phao-lô rao giảng có khác với Tin Lành ân điển
mà ông tuyên bố là “Tin Lành tôi” hay không? Nếu có, thì khác nhau ở đâu?
Thông điệp của Phao-lô mà chính ông gọi là “Tin Lành tôi” bao gồm cả
chân lý về Nước Trời cả dưới hình thức huyền nhiệm hiện tại, lẫn trong sự
biểu hiện tương lai. “Tin Lành” của ông là toàn thể phần mạc khải cho chế
độ (ân điển) này, kể cả phần nguồn gốc, sự kêu gọi và số phận của Hội
Thánh Đức Chúa Trời. Quả thật là những ai tin nhận Đức Chúa Giê-xu
Christ trong thời hiện tại đều sẽ được chuyển ngay sang Nước Trời; và
những ai ở trong Hội Thánh tức là thân thể Đấng Christ, thì cũng được như
vậy. nhưng hai sự việc không hoàn toàn giống y nhau. Hội Thánh vốn khác
xa Nước Trời, tuy dĩ nhiên, vì Đấng Christ là Vua của Nước Trời và là Đầu
của Hội Thánh, cho nên Nước Trời với Hội Thánh vốn có nhiều điểm tương
đồng.

Nước Trời.
Lời Uỷ thác trọng đại.
Mat Mt 28:19, 20 chép: “Vậy hãy đi dạy dỗ muôn dân.. và dạy họ giữ hết cả
mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi” v.v.. Vấn đề là nếu Ma-thi-ơ nói
phải dạy mọi điều trong sách của ông cho muôn dân, tại sao ông lại bảo rằng
có một số chân lý trong đó vốn không dành cho các Cơ Đốc nhân thuộc chế
độ (ân điển) này, mà dành cho người Do Thái? Nếu Ngài đã dạy là phải giữ
hết cả mọi điều và phải dạy hết cho muôn dân, thì tại sao 24:29-31 lại không
được áp dụng cho các Cơ Đốc nhân người ngoại bang? Bấy giờ, Ngài đang
phán với các tín hữu mà về sau, sẽ trở thành trụ cột cho Hội Thánh.
Từ lâu, tôi vốn tin quyết và đã giảng dạy rằng lời uỷ thác trọng đại trong Mat
Mt 28:9, 20 vốn được ứng dụng trước tiên cho Nước Trời, chứ không phải
cho Hội Thánh. Nếu chúng ta nhớ kỹ như vậy, thì sẽ khỏi lẫn lộn các bước
diễn tiến theo trình tự được tìm thấy trong Cong Cv 1:8 với các chi tiết trong
các thư tín gởi cho các Hội Thánh. Lời uỷ thác trong Ma-thi-ơ chỉ có hiệu
lực cho người Do Thái còn sót lại sau khi Hội Thánh đã được cất lên.

Luật của Nước Trời.


Xin giải thích Mat Mt 5:40: “Nếu ai muốn kiện ngươi đặng lột cái áo ngắn,
hãy để họ lấy luôn cái áo dài nữa”.
Việc áp dụng những lời giáo huấn của Bài Giảng Trên Núi trước hết là dành
cho thời đại Thiên hi niên (1.000 năm bình an), vì Bài Giảng Trên Núi là
một bộ luật để cai trị Nước ấy. Bấy giờ, nhà Vua sẽ cai trị trong sự công
chính, và những kẻ nghèo khổ nhu mì sẽ được xét xử công bằng (EsIs 11:3-
5). Áo ngắn áo dài bị trộm cắp sẽ được nhanh chóng trả lại cho các sở hữu
đích thực của chúng. Nước Trời với Hội Thánh, tuy không phải chỉ là một,
nhưng vốn có nhiều điểm tương đồng; cho nên lời lẽ trong Mat Mt 5:40
cũng có thể đặt vào ICo1Cr 6:6-8 ít nhất cũng được áp dụng cho các tín hữu
muốn kiện cáo nhau ra toà. về phần những kẻ thích tranh tụng khác, thì nói
chung là nếu chịu mất áo ngắn hay áo dài, thì vẫn ít hao tốn hơn là phải kéo
nhau ra toà. Do đó, nên giàn xếp mọi sự để khỏi phải ra toà, thì tốt hơn
nhiều.

Nước Trời trong huyền nhiệm khi biểu hiện.


1. Giăng Báp-tít giảng rằng Nước Trời đã đến gần, và Chúa chúng ta cũng
giảng như vậy. Nước Trời đó có phải chính là Nước ngàn năm, khi Đấng
Christ trị vì trên đất này không?
2. Nếu đúng như vậy, sẽ có người không được cứu hay vô tín vào thời trị vì
đó của Đấng Christ không?
3. Trong GiGa 3:3, Chúa Giê-xu bảo với Ni-cô-đem rằng nếu một người
chẳng sanh lại thì không thể thấy Nước Đức Chúa Trời. Phải chăng Nước
Đức Chúa Trời đó là Nước Ngàn Năm?
4. Nước Đức Chúa Trời được đề cập trong LuLc 19:11 có phải chính là hai
Nước Đức Chúa Trời đã được đề cập trước đó không?
5. Tôi nói có đúng không nếu bảo rằng sẽ chẳng có người không được cứu
nào vào được Nước ấy? Chúa chúng ta từng bảo rằng Nước ấy vốn được
dành cho số người ở bên tay phải Ngài ngay từ buổi sáng thế (Mat Mt
25:34).
1. Vâng, Nước Trời mà Giăng Báp-tít đề cập với Nước Trời của Chúa chúng
ta là một, và được thiết lập khi Chúa tái lâm, sẽ kéo dài 1.000 năm trước khi
bước sang cõi vĩnh cửu.
2. Không. Khi Thiên hi niên cuối cùng được thiết lập, thì dưới quyền cai trị
của Ngài, sẽ không có người vô tín nào trong Nước Trời cả. Nhưng trong
thời gian Thiên hi Niên, sẽ có nhiều người được sanh ra, và không phải là tất
cả đều sẽ được tái sanh. Điều này giải thích tại sao đến cuối thời hạn một
ngàn năm, Sa-tan lại tập họp được một đạo quân đông đảo để chống lại Chúa
(KhKh 20:7-9).
3. Không. Nước Trời dưới hình thức huyền nhiệm đã có rồi và mỗi một
người được sanh lại đang ở trong Nước ấy.
4. Nước Trời được đề cập trong LuLc 19:11 là Nước Trời đã hiển hiện. Theo
nghĩa hẹp, Nước Trời hiển hiện ngay khi Con Đức Chúa Trời lập Nứơc thiên
đàng trên đất này. Đó là Nước ngàn năm. Nước Trời sẽ tiếp ngay theo Nước
ngàn năm (ICo1Cr 15:24).
5. Như đã nói ở câu trả lời số 2, tôi đồng ý với bạn về vấn đề ấy khi Nước
Trời được thành lập và hiển hiện.

Đề nghị mới ban vương quốc cho dân Do Thái.


Trong mấy chương đầu sách Công vụ, Đấng Christ có hứa thành lập một
vương quốc khác cho người Do Thái không?
Có. Chúng ta thấy đề nghị mới đó trong Cong Cv 3:17-21. Tiến sĩ Scofield
nói: “Lời kêu gọi ở đây dành cho dân Do Thái với tư cách một quốc gia, chớ
không nhằm vào từng cá nhân như trong bài giảng đầu tiên của Phi-e-rơ
(Cong Cv 2:38, 30). Trong bài giảng đó, số người chịu cảm động được
khuyến giục hãy tự cứu lấy mình bằng cách tách rời với toàn dân không chịu
đáp ứng; còn ở đây thì Phi-e-rơ ngỏ lời với toàn dân, và lời hứa là nếu toàn
dân ăn năn thì toàn dân sẽ được giải cứu; và “Chúa sai Đấng Christ đã định
cho các ngươi, tức là Giê-xu” để đem đến thời kỳ mà các nhà tiên tri đã báo
trước. Câu trả lời chính thức là các sứ đồ bị bắt giam và bị cấm giảng đạo;
và như thế là LuLc 19:14 đã ứng nghiệm”.

Các chìa khoá của Nước Thiên đàng.


Xin giải thích Mat Mt 6:19 “Ta sẽ giao chìa khoá nước Thiên đàng cho
ngươi; hễ điều gì mà ngươi buộc dưới đất, thì cũng sẽ phải buộc ở trên trời,
và điều gì mà ngươi mở ở dưới đất, thì cũng sẽ được mở ở trên trời”.
Cần chú ý là trong câu này cũng như câu 18, các đại danh từ vốn theo số ít.
“Ngươi” không thể ứng dụng cho cả đoàn các sứ đồ. Nếu số các vị khác
cũng được đưa vào, thì các đại danh từ sẽ là “các ngươi”. Không nên lẫn lộn
khúc sách này với Mat Mt 18:18, đề cập đến kỷ luật trong Hội Thánh. Trong
16:19 chỉ có Phi-e-rơ là được đề cập mà thôi. Cũng cần chú ý là các chìa
khoá không phải chìa khoá thiên đàng, mà là chìa khoá của Nước Thiên
đàng.
Hành động của Đấng Christ khi giao các chìa khoá Nước Thiên đàng cho
Phi-e-rơ để ông có quyền buộc hay mở, sẽ sáng tỏ khi chúng ta tra xét cẩn
thận ý nghĩa đó chỉ trong Kinh Thánh mà thôi. Chúa Giê-xu sắp lìa bỏ thế
gian, để sẽ vắng mặt một thời gian lâu dài. Trước khi ra đi, Nhà Vua cần nói
rõ cho mọi người biết những ai sẽ được vào Nước Ngài, và với những điều
kiện như thế nào. Tân Ước vẫn chưa được viết ra. Ở đây Ngài đã chọn Phi-e-
rơ, người đầu tiên đã theo Ngài để ngỏ lời về vấn đề đó.
Nếu theo dõi kỹ các cuộc di chuyển của Phi-e-rơ sau khi Chúa Giê-xu ra đi,
chúng ta sẽ nhận thấy chính ông và chỉ có một mình ông đã mở các cửa
Nước Thiên đàng. Phi-e-rơ đã nhận từ tay Chúa Giê-xu ba chiếc chìa khoá.
Chiếc thứ nhất được sử dụng vào. Ngày lễ Ngũ tuần trọng đại, khi ông làm
người phát ngôn và mở các cửa Nước Thiên đàng cho dân Y-sơ-ra-ên. Ông
nói: “Vì lời hứa thuộc về các ngươi, con cái các ngươi, và thuộc về hết thảy
mọi ngời ở xa, tức là bao nhiêu người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta
sẽ gọi” (Cong Cv 2:39 đối chiếu với DaDn 9:7). Chắc chắn là vào ngày đó,
các môn đệ khác của Chúa cũng có giảng dạy, nhưng Phi-e-rơ phải có mặt
và phê chuẩn. Ông là người phát ngôn chính thức.
Rồi sau khi cuộc bách hại bùng nổ đưa đến cái chết của Ê-tiên, thì Phi-líp
đến Sa-ma-ri để giảng đạo cho người Sa-ma-ri. Nhưng tuy có nhiều người
tin Đạo, Đức Thánh Linh vẫn chưa giáng xuống trên bất cứ ai trong đám họ.
Các sứ đồ vẫn ở tại thành Giê-ru-sa-lem nghe tin xứ Sa-ma-ri đã nhận lấy
đạo Đức Chúa Trời, bèn sai Phi-e-rơ và Giăng đến đó. Hai người tới nơi, cầu
nguyện cho các môn đệ mới, để cho được nhận lấy Đức Thánh Linh. Vì Đức
Thánh Linh chưa giáng xuống trên một ai trong bọn đó, họ chỉ nhân danh
Đức Chúa Giê-xu mà chịu phép báp-tem thôi. Phi-e-rơ và Giăng bèn đặt tay
trên các môn đồ, thì đều được nhận lấy Đức Thánh Linh” (Cong Cv 8:14-
17). Đây là chiếc chìa khoá thứ hai của Phi-e-rơ. Bấy giờ, ông phải mở cửa
Nước Thiên đàng cho dân Do Thái và dân Sa-ma-ri.
Chiếc chìa khoá thứ ba và cuối cùng đã được sử dụng trong Công vụ 10, để
mở các cửa Nước Thiên đàng cho thế giới Ngoại bang Viên đội trưởng Cọt-
nây người La Mã được một thiên sứ của Đức Chúa Trời truyền bảo đến
Giốp-bê để tìm Phi-e-rơ; còn Phi-e-rơ thì trong một khải tượng, đã thấy một
tấm khăn lớn qua đó, Đức Chúa Trời chỉ cho ông thấy rằng những người
ngoại bang vốn ô uế này không còn bị xem là ô uế nữa, vì Đức Chúa Trời đã
tẩy sạch họ rồi. Phi-e-rơ đã đến nhà Cọt-nây và giảng Tin Lành cho số người
đang nhóm lại tại đó. Phi-e-rơ không phải là sứ đồ cho người ngoại bang: đó
là phần việc của Phao-lô, và Phao-lô thì vừa ăn năn trở lại đạo ở chương
sách trước đó. Nhưng Phi-e-rơ vốn là vị sứ đồ cho những người chịu phép
cắt bì, cũng phải là người đầu tiên đem Tin Lành đến cho những người
không chịu phép cắt bì, vì Phi-e-rơ là người có các chìa khoá. Trong cả ba
trường hợp đó, Đức Chúa Trời đều sai Đức Thánh Linh giáng trên các thính
giả đến nỗi mọi người đều trông thấy để chứng minh rằng việc mà Phi-e-rơ
đang làm trên đất này, đã được phê chuẩn trên Thiên đàng. Các chìa khoá
Nước Thiên đàng không còn được dùng đến nữa, vì các cửa đã được mở
rộng, và tất cả những ai muốn vào, đều được tự do bước vào. Trường hợp tại
Ê-phê-sô, những người ở đó chỉ mới nhận phép báp-tem của Giăng mà thôi
(19:1-41) nhưng sự có mặt của Phi-e-rơ không còn cần thiết, vì ông đã mở
cửa Nước Thiên đàng cho tất cả người Ngoại bang rồi.

Dân Y-sơ-ra-ên.
Các lời hứa cho dân Y-sơ-ra-ên.
Các dân ngoại bang và Hội Thánh có thể lấy đức tin để tuyên bố tất cả
những lời hứa cho dân Do Thái trong Cựu Uớc cũng là của mình không?
Có nhiều người đã chủ trương áp dụng các lời hứa ấy cho người ngoại bang
và Hội Thánh, nhưng chủ trương đó không có căn cứ. Đức Chúa Trời vẫn
chưa giải quyết xong xuôi mọi việc với dân Y-sơ-ra-ên. Hiện nay, tuyển dân
Ngài đang ở trong tình trạng bị từ bỏ và gặp cảnh đen tối, nhưng sự việc sẽ
không vĩnh viễn như vậy. “Vả, hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng
biết sự mầu nhiệm này e anh em khoe mình khôn ngoan chăng: ấy là một
phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng, cho đến chừng nào số dân
ngoại nhập vào được đầy đủ; vậy thì cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu như có
chép rằng: Đấng giải cứu sẽ đến từ Si-ôn, cất sự vô đạo ra khỏi Gia-cốp; ấy
là sự giao ước mà ta đã lập với họ, khi ta xoá tội lỗi họ rồi” (RoRm 11:25-
27).

Dòng dõi này.


Chúa Giê-xu đã ngụ ý gì khi phán rằng “Dòng dõi này chóng qua đi trước
khi mọi điều kia chưa xảy đến” Mat Mt 24:34).
Ngài ngụ ý rằng dân Y-sơ-ra-ên là dòng dõi Gia-cốp, nghĩa là hậu duệ của
Gia-cốp sẽ được duy trì với tư cách một dân tộc, cho đến khi nào mọi việc
ấy đều ứng nghiệm. Từ ngữ Hi văn genea được định nghĩa là: dòng giống,
chủng loại, dòng họ, hậu tư, con cháu. Tiến sĩ Scofield vạch rõ: “Từ ngữ ấy
được dùng ở đây theo nghĩa đó là chắc chắn, vì đó không có một việc nào
trong “mọi điều kia” tức là việc truyền giảng Tin Lành khắp thế gian, Cơn
Đại Nạn, việc chúa tái lâm trong vinh hiển, việc thâu góp số người đã được
chọn, đã thực sự xảy ra lúc Titus phá huỷ thành Giê-ru-sa-lem năm 70SC.
Dó đó, lời hứa là dòng dõi này, tức là dân Y-sơ-ra-ên sẽ được duy trì cho
đến khi nào “mọi điều kia” ứng nghiệm. Đây là một lời hứa vẫn còn được
duy trì cách kỳ diệu cho đến nay.

Dân Y-sơ-ra-ên và Hội Thánh.


1. Hội Thánh đã được đề cập với tư cách Tân Nương (vợ) của Đấng Christ,
được ngồi trên ngôi đồng trị vẻ vang suốt thời trị vì của sự công chính trong
Thiên Hi Niên. Có một bà người Do Thái lưu ý một Cơ Đốc nhân rằng:
“Chúng tôi (người Do Thái) thờ phượng “Đức Chúa Cha” dường như ngụ ý
rằng Đức Chúa Cha là cái “gốc” khiến họ được nhiều quyền thế hơn là Đức
Chúa Con. Điều đó khiến tôi liên tưởng tới lời một nhà tiên tri đã viết cho
dân Y-sơ-ra-ên khi Đức Chúa Trời phán: “Ta đã cưới ngươi (dân Y-sơ-ra-
ên)”. Có thể nào dân Y-sơ-ra-ên được cứu chuộc sẽ chiếm lấy ngôi của Đức
Chúa Trời và do đó, chiếm luôn ưu thế và địa vị của Hội Thánh không?
2. Lại nữa: “Đấng Christ là lễ Vượt qua của chúng ta đã được dâng lên vì
chúng ta” với người Y-sơ-ra-ên, thì chiên con của lễ Vượt qua và chiên con
của sự chuộc tội vốn khác nhau. Đối với Hội Thánh, thì phải chăng cả hai
đều được nhập chung làm một tại Gô-gô-tha?
1. Không. Tân Nương sẽ chiếm địa vị cao nhất trên ngôi với nhà Vua để cai
trị trên mọi dân mọi nước. Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được tôn cao trên
các dân các nước, là “đầu chớ không phải đuôi”. Dân Y-sơ-ra-ên là người
vợ bất trung của Đức Giê-hô-va, nhưng sẽ được Chồng đưa trở về với mình.
Tuy nhiên, việc ấy sẽ không có ảnh hưởng gì đến địa vị của Hội Thánh là vợ
Chiên Con. Một người vợ bất trung được phục hồi địa vị thì không thể đựơc
gọi là Tân Nương (Vợ Mới) hay trinh nữ, trong khi cả hai tên gọi ấy đều đã
được dùng chỉ Hội Thánh (Eph Ep 5:25-33; KhKh 21:2; 22:17; IICo 2Cr
11:2).
2. Phải, và ngay cả với dân Y-sơ-ra-ên. Chiên Con của Đức Chúa Trời vẫn là
Hình thật mà Chiên Con lễ Vượt qua của Cựu Ước chỉ là cái bóng.
Dân Y-sơ-ra-ên và Đất Hứa.
Có lần nào qua suốt lịch sử, dân Y-sơ-ra-ên đã thật sự chiếm hữu trọn vẹn
“Đất Hứa” không?
Không. Dưới thời Sa-lô-môn, có lẽ toàn xứ đã chịu thần phục và nộp cống
thuế, nhưng như thế vẫn chưa ứng nghiệm hoàn toàn lời hứa của Đức Chúa
Trời bảo rằng dân Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm hữu trọn vẹn phần đất ấy. Việc ấy sẽ
ứng nghiệm khi Chúa chúng ta tái lâm.

Món nợ của chúng ta đối với dân Y-sơ-ra-ên.


Câu “sự cứu rỗi vốn từ dân Giu-đa mà đến “có nghĩa gì?
Câu này đã được Chúa chúng ta phán ra khi Ngài giảng dạy người phụ nữ
Sa-ma-ri trong Giăng chương 4. Bà đã đặt vấn đề về cuộc tranh chấp quyền
hạn giữa dân Do Thái với người Sa-ma-ri. Bà nói: “Tổ phụ chúng tôi thờ lạy
trên hòn núi này (tức là núi Ga-ri-xim, PhuDnl 27:12) còn các ông (người
Do Thái) lại bảo rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem”. Câu trả
lời của Chúa chúng ta là “Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các
ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi này, cũng chẳng tại thành Giê-ru-
sa-lem. Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự
chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. Nhưng giờ hầu đến, và
đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thầm và lẽ thật mà thờ
phượng Cha: ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Đức Chúa
Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần, và lẽ thật mà thờ lạy”
(GiGa 4:20-24). Lời tuyên bố “Sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” gợi ý
rằng chúng ta vốn mắc một món nợ vô cùng lớn lao đối với dân Y-sơ-ra-ên.
Tất cả những gì chúng ta có được đến từ dân Do Thái mà đến. Quyển Kinh
Thánh của chúng ta là một quyển sách Do Thái. Cứu Chúa chúng ta là một
Cứu Chúa người Do Thái. Xin đừng bao giờ quên điều đó; cũng đừng bao
giờ quên cầu nguyện cho tuyển dân của Đức Chúa Trời. Quả thật là hiện
nay, với tư cách một dân tộc, họ đang lâm vào tình trạng bị chối bỏ, “dầu
vậy, cho đến nay, có một phần còn sót lại theo sự lựa chọn của ân điển”
(RoRm 1:15), và có một số người Do Thái vẫn được cứu. Về phương diện
quốc gia, dân tộc, “một phần dân Y-sơơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng (đui
mù, theo bản Anh văn), cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy
đủ” (RoRm 11:25). Sự đui mù (cứng lòng) của họ cũng không phải là hoàn
toàn (nó chỉ có “một phần” mà thôi) và dứt khoát (cho đến chừng nào số dân
ngoại nhập vào Hội Thánh được đầy đủ). Đến đúng kỳ, Đức Chúa Trời sẽ lại
mở rộng vòng tay Ngài để bênh vực cho dân tộc từng lập giao ước với Ngài
xưa kia, đưa họ trở về xứ của họ, và khiến họ quay trở về với chính Ngài.
Chừng đó, kỷ nguyên phước hạnh mà cả thế giới đang chờ mong, sẽ đến.
“Sau này Gia-cốp đâm rễ, Y-sơ-ra-ên kết nụ và nở hoa, chắc sẽ ra trái đầy
trên mặt đất (EsIs 27:6 đối chiếu với Gie Gr 31:31-34; 32:37-41). Về điểm
này thì có vô số câu trong Kinh Thánh đã đề cập.

Bánh vụn của con cái.


Xin giải thích Mac Mc 7:27, 28.
Người đàn bà Sy-rô Phê-ni-xi là một người ngoại bang, còn Chúa Giê-xu đã
đến là để chăm sóc cho dân Y-sơ-ra-ên, mà lúc ấy thì dân Y-sơ-ra-ên vẫn
chưa bị hoàn toàn từ bỏ. dân Do Thái vốn là “con cái”, và các dân ngoại
bang không có quyền gì để đòi hỏi nơi Ngài hơn những con chó hoang được
quyền xin người không phải là chủ chúng cho chúng vào nhà họ. Xin đọc
phần ký thuật về cùng một sự việc trong Mat Mt 15:21-28, và Tiến sĩ
Scofield có phần cước chú như sau: Đây là lần đầu tiên, Con Trai Đa-vít bị
chối bỏ, đã chăm sóc cho người ngoại bang. Đây là việc làm ứng nghiệm
sớm hơn câu nói trong 12:18, khi có người ngoại bang gọi Ngài là Con vua
Đa-vít, Ngài đã làm thinh không trả lời, vì một người ngoại bang vốn không
có quyền gọi Ngài như vậy (Mat Mt 2:2; Eph Ep 2:22). Khi gọi Ngài là
“Chúa”, thì bà ta đã được Ngài đáp lại ngay. Xem RoRm 10:12, 13)”.

Bánh của con cái.


Xin giải thích Mat Mt 15:26, 27 đề cập “bánh của con cái”. Tôi nghe cho
người bảo rằng hễ khi nào Kinh Thánh chép về “bánh của con cái” thì điều
đó có nghĩa là sự chép về “bánh của con cái” thì điều đó có nghĩa là sự chữa
bịnh. Có đúng như thế không? Xin ông cũng vui lòng nói rõ về việc Đức
Chúa Trời chữa bệnh và xức dầu, Việc ấy có dành cho người ngoại bang
chúng ta ngày nay không?
Người đàn bà Ca-na-an trong Mat Mt 15:21-25 chỉ bóng về Hội Thánh của
Đức Chúa Trời. Đáp lại điều lòng bà ao ước, bà đã được ban phước vượt quá
điều mình cầu xin hoặc suy nghĩ, và bà đã làm gương để dạy cho chúng ta
một bài học quan trọng về đức tin biết khiêm nhu hạ mình. Tôi không quên
rằng bà là một người ngoại bang, chẳng những là người ngoại bang, mà lại
là một phụ nữ Ca-na-an, đại diện cho một dòng dõi đặc biệt bị Đức Chúa
Trời nguyền rủa. “Các ngươi phải đuổi dân Ca-na-an khỏi xứ” là lời đã được
phán dặn người Y-sơ-ra-ên lúc họ vào xứ Ca-na-an, còn lời hứa trong XaDr
14:21 nói về việc phục hồi xứ ấy và phục hồi. Sự thờ phượng đền thờ thì
chép rằng: “Trong ngày đó, sẽ không còn có người Ca-na-an trong nhà Đức
Giê-hô-va vạn quân”. Nhưng ân điển vốn không bị giới hạn và có thể vượt
khỏi mọi hàng rào ngăn trở. Vì dân Y-sơ-ra-ên sa ngã, người cũng khổ bị
khinh dể ấy đã nhận được phước hạnh của Chúa khiến nên giàu có.
Thoạt tiên, thật là điều đáng ngạc nhiên khi Chúa Giê-xu đã không đáp lại
lời kêu cứu của người đàn bà khốn khổ ấy. Hành động ấy quả không thể nào
tưởng tượng nổi đối với Đấng mà đôi tai vẫn luôn luôn mở ra để lắng nghe
tiếng kêu cầu nhỏ yếu nhất, gọi đến danh Ngài. Nhưng Ngài đã không thể
nào đáp lại bà ta. Bà đã gọi Ngài là Con Trai vua Đa-vít; Ngài quả đúng là
như vậy, là Con Trai Đa-vít, nhưng với tư cách ấy, Ngài chẳng có dính dáng
gì với một người Ca-na-an cả.
“Song người đàn bà lại gần, lạy Ngài mà thưa rằng: Lạy Chúa, xin Chúa
giúp tôi cùng” v.v.. (câu 25-28).
Bấy giờ, bà đã bỏ cái danh hiệu Do Thái “Con Trai của Đa-vít” là tên của
một nhà Vua Y-sơ-ra-ên đi. Bà kêu cầu: “Lạy Chúa, xin Chúa giúp tôi”, và
như thế là lòng Ngài chịu cảm động, không thể cầm lại được nữa Bánh Sự
Sống vốn trước nhất dành cho con cái trong nhà, nghĩa là dân Do Thái. Điều
vẫn còn đúng là “sự cứu rỗi vốn dành cho người Do Thái”. Và ngày nay, nó
vẫn là của dân Do Thái “cho dân Do Thái trước hết”. Điều chúng ta đang
nhận được hôm nay chính là điều đã được ban cho con cái nhưng bị con cái
từ bỏ cho nên đã từ trên bàn ăn của Chúa rơi xuống cho chúng ta. Và ngay
đến những miếng bánh vụn như thế, chỉ những ai sẵn sàng quì xuống để
lượm lấy, thì mới có được - chỉ những ai sẵn sàng hạ mình xuống nhận rằng
mình chẳng xứng đáng gì cả, như những con chó con, chẳng có chút công
lao nào cả (xem RoRm 11:11-27) mới có thể nhận được ân điển của Đức
Chúa Trời.
Chữa bịnh luôn luôn là điều Đức Chúa Trời có thể làm được. Khi nào Ngài
muốn, thì Đức Chúa Trời có thể chữa lành bịnh cho con người. Và thỉnh
thoảng đó cũng là ý định của Ngài. Việc xức dầu trong Gia-cơ chương 5 là
một biểu tượng về công tác của Đức Thánh Linh. Việc ấy có thể áp dụng
trực tiếp ngày nay không, là một vấn đề đã được tranh luận sôi nổi và có
nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng điều vẫn luôn luôn đúng, ấy là “sự cầu
nguyện bởi đức tin, sẽ cứu kẻ đau”. Và bất cứ nơi nào Đức Chúa Trời tìm
thấy “sự cầu nguyện bởi đức tin” thì chắc chắn Ngài sẽ nhậm lời “sẽ đỡ kẻ
ấy dậy”. Nhưng phải nói rằng sự cầu nguyện bởi đức tin là một ân tứ của
Đức Chúa Trời, và chúng ta không thể cầu nguyện nếu không được ân tứ đó.
Khi nào Đức Chúa Trời sẵn sàng chữa bịnh, thì Ngài cũng ban cho có sự cầu
nguyện bởi đức tin; còn nếu Ngài không sẵn sàng chữa bịnh, thì Ngài rút lại
ân tứ ấy. Thái độ thích hợp của người tín hữu là mong cho ý Chúa được nên
trên cả sự chữa bịnh và trên mọi việc khác, như Chúa chúng ta từng cầu
nguyện rằng: “Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chớ không theo ý Con”.
Toàn dân Y-sơ-ra-ên.
Phải chăng Lời Đức Chúa Trời đã vạch rõ rằng toàn thể người Do Thái còn
sống cho đến khi Chúa tái lâm đều sẽ ăn năn trở lại đạo và đều trở thành
giáo sĩ, như Phao-lô?
Lời Đức Chúa Trời không hề vạch rõ rằng mọi người Do Thái còn sống lúc
Chúa tái lâm đều sẽ ăn năn tin Chúa để trở thành nhà truyền giáo như Phao-
lô. Trước khi Nước Trời được thiết lập, sẽ có một sự phán xét dân Y-sơ-ra-
ên, trong đó những kẻ phản loạn sẽ bị loại trừ và không được cho vào xứ Y-
sơ-ra-ên. Khúc Kinh Thánh liên hệ đến vần đề ấy, là Exe Ed 20:33-38
“Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ấy là dùng tay mạnh mẽ và
cánh tay giang ra, lấy thạnh nộ đổ ra, mà ta sẽ làm vua trên các ngươi.
“Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi giữa các dân, ta sẽ dùng tay mạnh mẽ và cánh
tay giang ra, và sự thạnh nô đổ ra để nhóm các ngươi lại từ các nước mà các
ngươi đã bị tan tác trong đó.
“Ta sẽ đem các ngươi vào nơi đồng vắng của các dân, tại đó, ta sẽ đối mặt
xét đoán các ngươi.
“Như ta đã xét đoán tổ phụ các ngươi trong đồng vắng đất Ê-díp-tô thể nào,
thì ta cũng sẽ xét đoán các ngươi thể ấy, Đức Giê-hô-va phán vậy.
“Ta sẽ làm cho các ngươi qua dưới gậy, và sẽ đem các ngươi vào trong dây
giao ước.
“Ta sẽ tẩy sạch khỏi các ngươi những kẻ loạn nghịch, và những kẻ phạm
pháp nghịch cùng ta; ta sẽ đem chúng nó ra khỏi đất mình trú ngụ, nhưng
chúng nó sẽ không vào đất Y-sơ-ra-ên. Như vậy, các ngươi sẽ biết ta là Đức
Giê-hô-va”.
Quả thật là trong Nước Trời khi bắt đầu Thiên Hi Niên mà Chúa chúng ta trị
vì, toàn thể người Y-sơ-ra-ên được đưa vào đó đều sẽ được cứu.

Từng người Do Thái một


Phải chăng RoRm 11:25, 26 dạy rằng toàn dân Do Thái đều sẽ được cứu
từng người một?
Không. Đúng hơn là toàn dân với tư cách một quốc gia - toàn thể người Do
Thái còn sống lúc đó - sẽ quay về với Chúa khi Nước Trời được thiết lập.
Câu này không đề cập đến số người Y-sơ-ra-ên vẫn sống bấy giờ, nhưng
chối bỏ sự cứu rỗi (Đọc Gie Gr 31:31-34; RoRm 21:28, 29; 9:6; Exe Ed
20:33-38).
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
Có người nói: “Đáng lẽ dân Y-sơ-ra-ên phải nhận biết Chúa Giê-xu, vì Ngài
làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh” Phải chăng nói như thế là nhầm lẫn? Phải
chăng người ấy muốn nói về dân Giu-đa, nhưng lại bảo là dân Y-sơ-ra-ên vì
Kinh Thánh không hề chép như vậy? Dân Y-sơ-ra-ên không hề chối bỏ Cứu
Chúa mà chính dân Giu-đa mới làm như vậy?
Quả thật là thỉnh thoảng Kinh Thánh có phân biệt giữa dân Giu-đa và dân Y-
sơ-ra-ên. Nhưng, nếu nói Kinh Thánh luôn luôn phân biệt như vậy thì không
đúng. Kinh Thánh thường dùng tên “Y-sơ-ra-ên” để chỉ về dòng giống, bao
gồm toàn dân, kể cả người Giu-đa, người Bên-gia-min, người Lê-vi và các
chi phái khác nữa. Xin chú ý các trường hợp sau đây trong số nhiều thí dụ
khác mà chắc chắn chính bạn cũng nhận thấy.
Trong Mat Mt 8:10, Chúa chúng ta bảo là Ngài chẳng hề thấy ai trong dân
“Y-sơ-ra-ên” mà có đức tin lớn dường ấy. Trong câu này, thật là khó chấp
nhận ý kiến của bạn khi bạn bảo rằng “Dân Y-sơ-ra-ên không hề chối bỏ
Cứu Chúa, chỉ có dân Giu-đa mới chối bỏ Ngài”.
Trong 10:6, Ngài sai các môn đệ “chỉ đi đến với hững con chiên lạc mất của
nhà Y-sơ-ra-ên mà thôi”. Nhưng vì chức vụ củ ahọ chỉ giới hạn trong xứ
Palestine mà thôi, cho nên rõ ràng là những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-
ra-ên đó chỉ có thể là số người đang sống trong xứ ấy thời bấy giờ, tức là
người Giu-đa. Chắc bạn không thể cãi lại rằng các môn đệ ấy phải đi tìm
những người thuộc các chi phái khác đã bị tan lạc, nhưng bây giờ tự xem
mình là người Do Thái. Chức vụ của họ là đến với toàn thể người Y-sơ-ra-ên
lúc đó đang ở trong xứ tức là người Giu-đa.
Trong LuLc 1:80 chúng ta thấy chép về Giăng Báp-tít “Con trẻ ấy lớn lên,
tâm thần mạnh mẽ, ở nơi đong vắng, cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Y-
sơ-ra-ên”. Theo như bạn nói, thì đáng lẽ ở đây phải chép là “Giu-đa” thay vì
“Y-sơ-ra-ên”, vì Giăng Báp-tít cùng giới hạn chức vụ của ông cho số người
đang sống tại xứ ấy lúc bấy giờ mà thôi.
Trong GiGa 1:31, Giăng Báp-tít nói về Chúa Giê-xu rằng “Về phần ta, ta
vốn chẳng biết Ngài; nhưng ta đến làm phép báp-tem bằng nước, để Ngài
được tỏ ra cho dân Y-sơ-ra-ên”. Nhưng Chúa chúng ta chỉ được bày tỏ ra
cho người Y-sơ-ra-ên bấy giờ đang ở trong xứ Palestine mà thôi - số người
mà bạn nhấn mạnh là phải gọi là người Giu-đa và không chịu gọi là “dân Y-
sơ-ra-ên”.
Trong 3:10, Chúa chúng ta gọi Ni-cô-đem là “giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên”
tuy câu 1 đã nói ông là “một người trong những kẻ cai trị dân Giu-đa”.
Quả thật Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là đại biểu độc nhất của chi phái Giu-đa trong
số các sứ đồ, nhưng điều rất có ý nghĩa, ấy là chính ông lại đã bán Chúa
mình (Ngài cũng thuộc chi phái Giu-đa) cho kẻ thù; và điều cũng đúng là có
lẽ chúng ta nên cẩn thận hơn để phân biệt điều bạn đã nói. Tuy nhiên, tôi
nghĩ chắc bạn cũng đồng ý rằng cả trong Kinh điển cũng không luôn luôn có
sự phân biệt như vậy.

Sự cứu rỗi người Do Thái.


Ông nghĩ sao về vấn đề người Do Thái được cứu a) Với tư các cá nhân?; b)
Với tư cách một dân tộc?
Kinh Thánh dạy rằng không có sự phân biệt giữa người Do Thái và người
ngoại bang. Với tư cách cá nhân, người Do Thái cũng được Tin Lành cứu rỗi
y như người ngoại bang; với tư cách một dân tộc, hiện nay, dân Y-sơ-ra-ên
đang bị gạt qua một bên “cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được
đầy đủ”, tức là cũng như bảo rằng “cho đến khi Hội Thánh, là Thân thể
Đấng Christ, đã thành toàn”. Khi nào việc đó xảy ra, thì không ai có thể nói
trước được. Có lẽ là bất cứ lúc nào Hội Thánh đã thành toàn, thì sẽ được cất
lên để gặp Chúa trên không trung.

Sự phục sinh của dân Y-sơ-ra-ên.


Xin ông cho biết theo ý ông thì khi nào “số người được cứu trong dân Y-sơ-
ra-ên” sẽ từ kẻ chết sống lại? Có phải lúc Chúa tái lâm để cất Hội Thánh lên
không trung, đồng thời với “những kẻ đã chết trong Đấng Christ” hay vào
lúc mà DaDn 12:1, 2 đề cập? Tôi không thấy có câu nào đề cập việc đó cả.
Vấn đề 12:1, 2 có đề cập đến sự sống lại riêng rẽ của người Y-sơ-ra-ên hay
không, hiện đang còn được bàn cãi, chưa ngã ngủ dứt khoát. Tuy nhiên, việc
những người Y-sơ-ra-ên đã được cứu dầu đã chết hay còn sống, đều được
cất lên không trung khi Chúa Giê-xu tái lâm, là điều không thể chối cãi. Khi
Chúa Giê-xu trở lại, thì tất cả những ai “đang ngủ trong Chúa Giê-xu” hoặc
“chết trong Đấng Christ”, cùng với những người tin Chúa còn sống, đều
được cất lên không trung.

Số người còn sót lại được đóng ấn.


Phải chăng KhKh 7:4-8 ngụ ý rằng chỉ có 144.000 người sẽ được vào Thiên
đàng?
Câu ấy không hề đề cập đến việc vào thiên đàng. Khúc Kinh Thánh đó mô tả
một số người trong dân Y-sơ-ra-ên được đóng ấn, và chắc chắn là họ được
cứu, nhưng họ đi lên thiên đàng hay đi đâu thì vẫn còn là vấn đề chưa được
biết rõ, vì theo như tôi tin, thì chỗ ở tương lai của dân Y-sơ-ra-ên chính là
mặt đất này sau khi đã được sửa sang lại.

Chi phái Si-mê-ôn.


Chi phái Si-mê-ôn có vai trò gì trong vương quốc Y-sơ-ra-ên, sau khi vương
quốc bị chia đôi? Về mặt địa dư, chi phái ấy nằm về phía Nam vương quốc
Giu-đa, và dường như lịch sử không hề đề cập đến việc chi phái ấy theo về
với mười chi phái Y-sơ-ra-ên?
Vấn đề ấy hãy còn là nghi vấn. Thánh Kinh Từ điển của Smith nói: “Chúng
ta không được cho biết gì về vai trò của chi phái Si-mê-ôn vào thời đế quốc
bị phân xé. Điều duy nhất có thể lý giải được ấy là dấu vết cho thấy nó bị
tách rời với vương quốc miền Bắc trong hai lần được tình cờ đề cập ở IISu
2Sb 15:9 và 34:6, và dường như ngụ ý rằng người Si-mê-ôn vẫn còn ở đó
dưới thời trị vì của A-sa và Giô-si-a. Mặt khác, lời khẳng định dứt khoát
trong ISu1Sb 4:41-43 chứng minh rằng vào thời đó, vẫn còn một số người
thuộc chi phái ấy sinh sống tại vùng đất nguyên dành cho họ và có tinh thần
hiếu chiến bất chấp luật pháp như tổ tiên họ. Si-mê-ôn được Ê-xê-chi-ên đề
cập đến (48:25) và trước giả sách Khải huyền cũng có nói đến (7:7) trong
bảng danh sách về số người Y-sơ-ra-ên được phục hồi địa vị.

Giu-đa và Bên-gia-min.
IVua 1V 12:20 chép: “Chỉ có chi phái Giu-đa cứ theo nhà Đa-vít mà thôi”
nhưng Bên-gia-min vẫn theo nhà Đa-vít. Phải giải thích như thế nào?
Trong 11:29-32, nhà tiên tri A-hi-gia xé chiếc áo tơi của Giê-rô-bô-am, bảo
ông nhận cho mình mười mảnh, bởi đó (c.31) ngụ ý rằng Đức Chúa Trời sẽ
ban cho ông mười chi phái Giu-đa và Bên-gia-min tương ứng với hai mảnh
còn lại của chiếc áo bị xé. Chi phái Bên-gia-min vẫn cùng với chi phái Giu-
đa theo nhà Đa-vít được những khúc sách như IVua 1V 12:21-23 và IIVua
2V 11:12 vạch rõ. Hai chi phái này vốn liên kết chặt chẽ với nhau, đến nỗi
trong khúc sách mà bạn đề cập, họ đã được xem như chỉ là một. Chi phái
Lê-vi cũng theo nhà Đa-vít (ISu1Sb 11:13, 14) và nhiều chi phái khác nữa
cũng nhập với nước Giu-đa (IVua 1V 12:17; IISu 2Sb 15:9), nhưng đó là
vấn đề tự chọn của họ.

Giô-sép và Bên-gia-min.
Tôi biết rằng câu chuyện của Giô-sép vốn là một lời tiên tri kỳ diệu về Cứu
Chúa Giê-x Christ chúng ta; nhưng tôi không hiểu chương 45 của Sáng-thế
ký. Ý ghĩa tiên tri của chương đó là gì, nhất là mấy câu 1-4?
Đây là điểm chuyển tiếp giữa Giô-sép với Bên Gia-min như là hai nhân vật
chỉ bóng về Đấng Christ. Tôi xin trích dẫn Tiến sĩ Scofield: “Cần chú ý là
đến đây thì Bên-gia-min trở thành nhân vật nổi bật. Giô-sép vốn chỉ bóng
đặc biệt về Đấng Christ khi Ngài giáng lâm lần thứ nhất, bị chối bỏ, chịu
chết, sống lại và được các dân ngoại tôn cao, nhưng không được dân Y-sơ-
ra-ên thừa nhận. Còn về nhân vật Bên-gia-min lớn hơn (chỉ bóng Đấng
Christ) là “Con Trai của sự đau đớn” nhưng cũng là “Con Trai của tay hữu”
(SaSt 35:18) thì được bày tỏ ra đây quyền thế trong Nước Trời. Chỉ đến
chừng đó, và đến lúc đó mà thôi, dân Y-sơ-ra-ên mới được phục hồi địa vị
và ăn năn trở lại tin Chúa. Theo nghĩa hình bóng, thì SaSt 45:1, 2 nói trước
về những lời tiên tri có tính cách mô tả, sẽ mạc khải việc ấy (Exe Ed 20:33-
36; OsHs 2:14-23) trong khi Bên-gia-min chỉ bóng về lời tiên tri về Đấng
Christ sẽ được ứng nghiệm.

Các chi phái tan lạc của Y-sơ-ra-ên.


Dân Do Thái sống trong thời kỳ Đại Nạn có phải là những chi phái bị tan lạc
của Y-sơ-ra-ên không?
Các “chi phái bị tan lạc” của dân Y-sơ-ra-ên, là mười chi phái đã bị dân A-
sy-ri bắt đi lưu đày dưới thời vua Ô-sê của Sa-ma-ri. Và mười chi phái ấy đã
không hề trở về, và chúng ta không biết họ đã ra sao. Điều chắc chắn là vẫn
còn một số người trong mười chi phái ấy hãy còn sống đâu đó, và dĩ nhiên là
Đức Chúa Trời biết rõ họ, và sẽ đưa họ trở về cho họ trú ngụ trong xứ với tư
cách là các chi phái, trong thời kỳ Thiên hi niên. Xem Êxê các chương 37,47
và 48.

Dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa (Do Thái).


Phải chẳng hai tên Y-sơ-ra-ên và Giu-đa có thể dùng lẫn lộn (thay đổi cho
nhau) trong Kinh Thánh? Tôi vừa đọc thấy là mười chi phái tan lạc đã bị mất
hết lai lịch, bị hoà lẫn với các dân tộc khác, và ngày nay, người ta chỉ còn
biết có dân “Do Thái” vốn thuộc hai chi phái Giu-đa và Bên-gia-min. Nói
như vậy có đúng không?
Trong Kinh Thánh, thỉnh thoảng “Y-sơ-ra-ên” và “Giu-đa” cũng được đề
cập lẫn lộn với nhau (tên này thay cho tên kia), nhưng nhiều khi cũng có
phân biệt. Nói theo nghĩa hẹp, thì “Giu-đa” là một từ ngữ tôn giáo, có liên hệ
với đạo Giu-đa (Do Thái giáo), vốn là một hệ thống tôn giáo. Nhưng từ ngữ
ấy vốn không phải luôn luôn được dùng theo nghĩa hẹp ấy, kể cả trong Kinh
Thánh.
Trong ICo1Cr 10:32 toàn thể nhân loại được chialàm ba hạng, người Giu-đa
người Ngoại bang và Cơ Đốc nhân, trong đó dĩ nhiên là người Giu-đa gồm
toàn thể người Y-sơ-ra-ên không phải là Cơ Đốc nhân. Vì chắc chắn là
không có một người Y-sơ-ra-ên nào lại bị xem là người ngoại bang cả.
Nhưng Kinh Thánh dạy hết sức rõ ràng rằng dân Y-sơ-ra-ên với đầy đủ
mười hai chi phái phải được tập họp về trong xứ họ để sẽ cư trú tại đó với tư
cách là một dân tộc trong thời kỳ Thiên hi niên. Xem Exe Ed 48:1-7, 23-29
và Gie Gr 23:5-8; EsIs 11:12, 13. Dĩ nhiên là còn nhiều chỗ khác nữa trong
Kinh Thánh liên hệ đến chủ đề này, khiến người xem Lời Đức Chúa Trời
như là Toà án chung thẩm Tối cao, không còn gì để nghi ngại nữa.

Việc phục hưng nứơc Y-sơ-ra-ên.


Xin giải thích Mat Mt 24:32 và Exe Ed 36:24.
Các học giả Kinh Thánh đều đồng ý với nhau rằng cây vả chỉ bóng về dân
Y-sơ-ra-ên. Trong LuLc 21:24, việc dân ngoại cai trị Giê-ru-sa-lem được
cho biết là dấu hiệu của “thời kỳ các dân ngoại”. Cho nên trong Mat Mt
24:32 trong ẩn dụ về cây vả, Chúa chúng ta vạch rõ rằng khi cây vả nứt lộc
nghĩa là khi dân Y-sơ-ra-ên thức dậy từ giấc ngủ dài và bắt đầu tỏ ra nhiều
dấu hiệu về sự thức tỉnh và phục hưng quốc gia, thì điều đó cho thấy là ngày
tận thế đã đến gần. Lời hứa của 24:34, là dòng dõi này (nghĩa là dân Y-sơ-
ra-ên) sẽ chẳng qua đi trước khi mọi việc kia chưa xảy đến”. Nghĩa là Đức
Chúa Trừi sẽ không để cho dân tộc ấy bị tuyệt diệt với tư cách một quốc gia,
trước khi những lời hứa kia ứng nghiệm.
Lời lẽ trong Exe Ed 36:34 chỉ vế thời kỳ mà xứ Palestine sau một thời gian
dài bị hoang vu, sẽ lại sanh hoa kết quả để làm chứng cho các dân ngoại
chung quanh đó (c.35,36).

Cây vả khô.
Tại sao Chúa Giê-xu lại rủa cây vả hay là muốn cho nó phải có trái, trong
khi Kinh Thánh chép rõ rằng “vì bấy giờ không phải mùa vả”? (Mac Mc
11:12-14). Phải chăng đây cũng là cùng một biến cố với Mat Mt 21:19?
Tôi tin rằng hai phần ký thuật ấy vốn chỉ về cùng một biến cố Tiến sĩ
Scofield nói: “Cây vả vẫn giữ được lá qua suốt mùa đông, thường cũng có
trái nữa. Bấy giờ hãy còn quá sớm để có thể có lá mới hoặc trái”. Ông cũng
nói: “Cây vả bị khô là một phép lạ theo nghĩa ẩn dụ, liên hệ đến dân Y-sơ-
ra-ên (LuLc 13:6-9). Đối chiếu với Mat Mt 24:32-33, một lời tiên tri về việc
dân Y-sơ-ra-ên sẽ lại đâm chồi nẩy lọc”.

Dân Do Thái và người ngoại bang như nhau.


Phải chăng Cong Cv 10:44-48 ngụ ý rằng từ rày trở đi người ngoại bang
cũng được phước hạnh y như dân Do Thái?
Chắc chắn là như vậy. “Vì ấy chính Ngài là sự hoà hiệp của chúng ta; Ngài
đã hiệp cả hai lại làm một, phá đổ bức tường ngăn cách, là sự thù nghịch đã
phân rẽ ra, bởi vì Ngài đã đem thân mình mà trừ bỏ luật pháp của điều răn
chép thành điều lệ. Như vậy, khi làm cho hoà nhau, Ngài muốn lấy cả hai
lập nên một người mới trong Ngài, và vì bởi thập tự giá Ngài đã làm cho sự
thù nghịch tiêu diệt nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai hiệp thành một
thể, mà làm hoà thuận với Đức Chúa Trời. Ngài lại đã đến rao truyền sự hoà
bình cho anh em, là kẻ ở xa và sự hoà bình cho kẻ ở gần. Ấy là nhờ Ngài mà
chúng ta cả hai đều được phép đến gần Đức Chúa Cha, đồng trong một
Thánh Linh” (Eph Ep 2:14-18; cũng đối chiếu với RoRm 4:9-12).

Các của lễ theo Do Thái giáo.


Của lễ dâng chiên con của Do Thái giáo có ngưng lại sau khi Chúa giê-xu bị
đóng đinh vào thập tự giá hay khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ vào năm
70SC hay không? Có người dạy rằng sau khi Chúa Giê-xu là Chiên Con của
Đức Chúa Trời đã bị giết, thì việc dùng sinh tế ngày lễ Vượt qua bị đình chỉ
ngay.
Căn cứ vào Thư tín gởi cho người Hê-bơ-rơ tôi nghĩ là rõ ràng các của lễ
trong Đền thờ vẫn tiếp tục cho đến khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ chỉ
chừng sáu năm sau khi thư tín ấy được viết ra. Thí dụ hãy đọc HeDt 8:4, 5;
10:1-3, 11.
Việc người Do Thái dâng chiên con làm sinh tế kỷ niệm lễ Vượt qua phải
đình chỉ khi Đền thờ bị phá huỷ, vì theo Luật pháp thì đó là nơi duy nhất để
sinh tế ấy được dâng lên. Hiện nay, lễ Vượt qua được kỷ niệm ở khắp nơi
hằng năm, đều không có chiên con, và chính việc đó làm ứng nghiệm hết
sức rõ ràng lời tiên tri trong OsHs 3:4, 5. Câu ấy chép rằng “Vì con cái Y-
sơ-ra-ên sẽ trải qua nhiều ngày... không của lễ...”

Dân Do Thái và thành Giê-ru-sa-lem.


LuLc 21:24 chép: “Thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp cho đế
chừng nào các kỳ dân ngoại được tin”. Có thể nào thành Giê-ru-sa-lem trước
khi Đấng Mê-si tái lâm để trị vì. Nhưng Kinh Thánh dạy rằng An-ti Christ sẽ
lập giao ước với dân Do Thái bảy năm - là tuần lễ thứ bảy mươi của Đa-ni-
ên và vào khoảng ba năm đầu của thời kỳ ấy, người ta sẽ xây một ngôi đền
thờ tại Giê-ru-sa-lem. Chắc chắn dân Do Thái sẽ được một thời gian hưng
thịnh dưới quyền cai trị của An-ti Christ, cho đến khi giao ước ấy bị vi phạm
“vào giữa tuần lễ ấy”, đem đến cảnh kinh hoàng của cơn Đại Nạn.

Đền thờ của Sa-lô-môn.


Xin ông vui lòng giải thích tại sao Sa-lô-môn phải dùng nhiều người trải qua
một thời gian dài, mà chỉ hoàn thành được hai ngôi nhà tương đối nhỏ, là
ngôi đền thờ và cung điện của vua ấy?
Chúng ta đang sống trong thời kỳ máy móc tối tân hiện đại thật khó đánh giá
cho đúng mức sức làm việc cần cù lao khổ vào thời mà Sa-lô-môn thực hiện
các công trình xây cất của ông. Vua ấy có nhiều nô lệ, mà công việc nặng
nhọc cũng không phải là ít. Đốn cây bách, cây tùng trên các núi Li-ban, đưa
chúng ra biển rồi dùng tàu chở đến Giốp-bê và đem về Giê-ru-sa-lem là cả
một công trình vĩ đại. Xin xem IVua 1V 5:8, 9; IISu 2Sb 3:16. Chúng ta lại
còn phải nhớ rằng: “Khi cất đền, người ta dùng đá đã đẽo sâu nơi hầm, nên
không ghe tiếng búa, rìu hay là khí dụng khác bằng sắt tại nơi đền đương khi
cất” (IVua 1V 6:7). Điều đó có nghĩa rằng người ta đã phải làm việc hết sức
thận trọng với các vật dụng bằng đá và nhiều công việc xây cất khác nữa,
chớ không phải là làm náo động, xô bồ, như ngày nay.

Ngôi đền thờ của Xô-rô-ba-bên và của Hê-rốt.


Ngôi đền thờ do Xô-rô-ba-bên xây cất bị phá huỷ khi nào và như thế nào, và
ngôi đền thờ của Hê-rốt được xây cất khi nào?
Vào năm 21 hay 20 TC, nhân kỳ lễ Vượt qua, Hê-rốt đã đưa ra ý định xây lại
đền thờ. Nhưng có tài liệu nào ghi lại việc đền thờ trước đó đã bị hoàn toàn
phá huỷ lúc nào, nhưng nó đã quá cũ, nên Hê-rốt định cho xây lại. Theo
Josephus thì toàn thể ngôi đền thờ bị san phẳng tận nền và được tái thiết,
đồng thời mở rộng thêm rất nhiều. Nhưng các đống đổ nát cho thấy ở một
vài nơi rằng phần nền mà Xô-rô-ba-bên đã đặt phía dưới, còn lớn hơn cả
phần nền xưa kia của Sa-lô-môn. Chính ngôi đền thờ mà Hê-rốt xây lại thì
được hoàn tất trong vòng một năm rưỡi, các sân trong được hoàn thành trong
vòng tám năm, nhưng những công trình khác lại được thực hiện chậm chạp
đến nỗi dân Do Thái thừa nhận rằng cả thời gian dùng vào việc xây cất đền
thờ ấy là bốn mươi sáu năm (GiGa 2:20).

Ngôi đền thờ của Hê-rốt.


Kinh Thánh có chữ nào chép rằng ngôi đền thờ vào thời của Đấng Christ, là
do Hê-rốt xây cất?
Kinh Thánh không chép ngôi đền thờ ấy là do Hê-rốt xây cất, nhưng đây là
một sự kiện lịch sử và không có ai thắc mắc gì cả, cho nên ngôi đền thờ vào
thời Đấng Christ quả thật là do Hê-rốt Đại đế xây cất, chớ không phải do số
người Do Thái sống sót trở về xây lên.
Quả có một ngôi đền thờ do số người sống sót trở về sau cuộc lưu đày xây
lên. Nó được khởi công dưới thời Xô-rô-ba-bên, năm 534 TC, và sau một
thời gian dài bị đình trệ lại được tiếp tục năm 520 TC và hoàn tất năm 516
TC dưới thời Darius Hystaspes. Ngôi đền thờ thứ hai này được Hê-rốt cho
dở đi lần lần và thay vào đó, xây lại với ý định tranh đua với ngôi đền thờ
thứ nhất (của Sa-lô-môn) chớ không phải với ngôi đền thờ thứ hai (do số
người từ cuộc lưu đày trở về xây lên, và bấy giờ đã quá cũ). Công tác ấy
được bắt đầu vào năm 21 hoặc 20 TC. Chính ngôi đền được xây xong trong
vòng một năm rưỡi, các sân trong thì hoàn tất sau tám năm, nhưng các công
trình tiếp theo lại bị kéo dài, đến nỗi người Do Thái thừa nhận rằng toàn thể
thời gian để xây cất là bốn mươi sáu năm (GiGa 2:20). Chúa Giê-xu đã
giảng đạo và chữa bịnh ngay trong các sân của ngôi đền thờ này. Nó bị thiêu
huỷ khi Titus vây thành Giê-ru-sa-lem năm 70 SC, và bị cháy tận nền.

Lịch Do Thái
Xin giải thích tại sao người Do Thái kỷ niệm Năm Mới vào tháng 9 dương
lịch thay vì vào ngày tháng Giêng dương lịch; và tại sao họ đặt công cuộc
sáng tạo trời đất 243 năm gần hơn là dương lịch?
Chúng tôi xin trích dẫn bộ Bách Khoa Từ điển Anh quốc, là “theo lịch Do
Thái thì công cuộc tạo dựng con người “được xem là đã xảy ra 3.760 năm 3
tháng trước khi niên lịch Cơ Đốc giáo bắt đầu. Năm thì có tính cách phối
hợp giữa mặt trời và mặt trăng (âm dương lịch), và tuỳ theo đó là năm
thường hay năm nhuận, sẽ gồm 12 hay 13 tháng theo âm lịch, mỗi tháng có
29 hoặc 30 ngày. Như thế, năm thường sẽ kéo dài 354 ngày, và năm nhuận
384 ngày. Trong cả hai trường hợp, khi thì năm được thêm, khi thì bị giảm
đi một ngày, để một số ngày lễ đúng vào một ngày nào đó trong tuần, để họ
có thể giữ ngày lễ ấy được thuận lợi hơn...
“Vì các phép tính thì giờ của người Hi Lạp và La Mã đều có liên hệ với một
số lễ nghi ngoại đạo mà các Cơ Đốc nhân vốn ghê tởm, ngay từ thời kỳ rất
sớm, lịch Cơ Đốc giáo đã bắt chước lịch Do Thái và thừa nhận thời gian mà
lịch ấy cho là lúc thế gian này đã được sáng tạo. Các yếu tố thời gian mà cả
người Do Thái lẫn các Cơ Đốc giáo đã dựa vào để tính toán thời gian đó đều
đựơc căn cứ vào các phần ký thuật của CựưUớc, vốn được truyền đến cho
chúng ta do ba nguồn khác nhau: cổ bản Kinh điển bằng tiếng Hi-bá-lai, bản
tiếng Sa-ma-ri và bản dịch Hi-văn được gọi là ộ Bảy Mươi Dịch giả. Về thời
gian, thì ba bộ này hoàn toàn bất đồng ý kiến đến mức không thể nào dung
hoà với nhau được, cũng không có lý do nào thoả đáng để kết luận dứt khoát
là bản nào đúng hơn bản nào...
“Trong bài Tựa cho bộ sách Vấn đề thời gian của Thánh Sử, Des Vignoles
khẳng định rằng ông đã sưu tập được hai trăm cách tính toán thời gian trở lui
về những ngày đầu tiên của lịch sử, thì cách tính yếu nhất chỉ nhận có 3.483
năm giữa công cuộc sáng tạo trời đất với kỷ nguyên hiện nay, còn cách tính
dài nhất, lại cho là có đến 6.984 năm. Chỗ khác nhau là ba mươi lăm thế kỷ!
Do đó, thiết tưởng đã đủ để vạch ra rằng cái gọi là kỷ nguyên sáng tạo trời
đất đó là hoàn toàn ước lệ, là một thời kỳ mà người ta chỉ tính toán cách độc
đoán mà thôi...
“Trước ngày dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, năm của họ bắt đầu vào tiết Thu
phân; nhưng để cho lễ kỷ niệm sự giải phóng đó được trang trọng hơn, tháng
Nisan hay Abib trong đó biến cố ấy xảy ra - (nhằm tiết Xuân phân) - về sau
đã được xem là lúc bắt đầu cho năm đại giáo hay hợp pháp. trong mọi công
việc có tính cách dân sự và trong việc điều chỉnh các năm hân hỉ, năm Sa-
bát, người Do Thái vẫn theo lịch xưa bắt đầu ở tháng Tisri, nhằm tiết Thu
phân”.

Sau khi qua đời.


Địa ngục trong quá khứ và hiện tại.
Chúng ta dựa vào uy quyền nào để bảo rằng Thiên đàng là ở trên cao khi
giải thích Eph Ep 4:8-10? Xin ông giải thích đầy đủ, có trích dẫn Kinh
Thánh để chứng minh.
Vấn đề này đòi hỏi phải nghiên cứu từ ngữ Hi-văn )Hades” và từ ngữ Hi-bá-
lai Sheol. Phần giải thích về đề tài này của Tiến sĩ Scofield rất hay, cho nên
chúng tôi không cố gắng để thêm thắt gì cả.
“Hades” thế giới vô hình” được cho biết là nơi tâm linh người ta đi đến, giữa
thời gian chết đi và sống lại. Từ ngữ này xuất hiện trong Mat Mt 11:23;
16:18; LuLc 10:15; 16:23; Cong Cv 2:27, 31; KhKh 1:18; 6:8; 20:13, 14 và
tương đương với từ ngữ Sheol của CựưUớc. Bộ Baỷ Mươi Dịch Giả mỗi lần
gặp chữ Sheol đều dịch rsa là Hades.
Hades trước ngày Đấng Christ thăng thiên. Những khúc sách trong đó có từ
ngữ Hades xuất hiện cho thấy rõ rằng trước kia, hades được chia làm hai
phần, dành riêng cho hai hạng người được cứuv à bị chết mất. Phần đầu
được gọi là “Ba-ra-đi” hay là “lòng Áp-ra-ham”. Cả hai đều là cách dùng
trong Kinh Talmud (sác Luật pháp Môi-se) nhưng cũng được chính Đấng
Christ dùng trong LuLc 16:22; 23:43. Những người chết có phước, được ở
với Áp-ra-ham; họ có ý thức và được “yên ủi” (LuLc 16:25). Tên cướp tin
Chúa Giê-xu ngay ngày hôm ấy, đã được ở với Đấng Christ “trong nơi Ba-
ra-đi”. Kẻ hư mất bị phân rẽ với người đựơc cứu bằng “một vực sâu lớn
(LuLc 16:26). Người đại diện cho những kẻ bị hư mất lúc ấy đang ở Hades
là người nhà giàu của 16:19-31. Ông ta vẫn còn sống, có ý thức, hoàn toàn
sử dụng được mọi giác năng, ký ức v.v... của mình, và đang bị hành hạ.
Hades từ khi Chúa thăng thiên trở về sau.
Đối với kẻ không được cứu, thì chỗ ở và điều kiện của họ như đã được Kinh
Thánh mạc khải, vốn chẳng có gì thay đổi. Đến ngày phán xét của Toà án
Lớn và Trắng, Hades sẽ trả họ lại, họ sẽ bị phán xét rồi chuyển sang Hồ Lửa
KhKh 20:13, 14). Nhưng bên Ba-ra-đi thì có sự thay đổi. Phao-lô từng được
“đem lên đến từng trời thứ ba... đến chốn Ba-ra-đi” (IICo 2Cr 12:1-4). Do
đó, hiện nay Ba-ra-đi là nơi có hiện diện trực tiếp của Đức Chúa Trời. Nhiều
người tin rằng Eph Ep 4:8-10 chỉ rõ thời gian có sự thay đổi đó: “(Lúc) Ngài
đã lên nơi cao, dẫn muôn vàn kẻ phu tù”. Phần tiếp theo ngay sau đó thêm
rằng trước đó, “Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp ở dưới đất”, nghĩa
là phần vốn là Ba-ra-đi của Hades. Trong thời kỳ hiện tại của Hội Thánh,
người được cứu qua đời “lìa khỏi thân thể để về với Chúa” kẻ ác chết thì ở
Hades, còn người công chính qua đời thì “được ở với Chúa” và cũng chờ
ngày phục sinh (Giop G 19:26; ICo1Cr 15:52).

Âm phủ (Hades) Ngục luyện tội; Địa ngục (Hell) và Thiên đàng.
Người Công giáo La Mã bảo rằng mọi người đều phải xuống địa ngục
(Hell). Tôi thấy trong Cong Cv 2:27 và 2:24 có cái gì đó mà tôi không hiểu.
Xin ông giải thích.
Phải chăng tâm linh của mọi người đều trở về với Đức Chúa Cha là Đấng
ban nó cho mọi người? Phải chăng đều này bao gồm cả kẻ ác lẫn các Cơ
Đốc nhân?
Điều giáo hội Công giáo La Mã dạy không phải là tất cả mọi người đều phải
xuống Địa ngục, nhưng là mọi người đều phải vào Ngục luyện tội. Giáo lý
này không có nền tảng trong Kinh Thánh mà căn cứ theo truyền khẩu của
giáo hội và không có giá trị gì đối với người tin vào Lời Đức Chúa Trời.
Từ ngữ “Âm phủ” trong 2:27 là “Hades”. Chúa chúng ta không xuống Âm
phủ hay Địa ngục mà đến Hades, nơi mà trước ngày Ngài phục sinh vốn là
chỗ ở cho cả người được cứu lẫn những kẻ bị hư mất, yuy hai hạng người
này bị ngăn cách nhau bằng một “vực sâu lớn” không thể từ bên này sang
bên kia hoặc ngược lại được (LuLc 16:26), khi Chúa Phục sinh, Ngài đưa
mọi người được cứu khỏi Hades để cùng về Thiên đàng với Ngài và từ đó
trở đi, những người được cứu, khi qua đời liền “về ngay với chúa” trên thiên
đàng (Eph Ep 4:8-10; IICo 2Cr 5:6-8).
Chỉ có tâm linh người được cứu mới được về với Đức Chúa Trời. Kẻ bị hư
mất thì phải “đi đến nơi ở của nó” (Cong Cv 1:25).

Thiên đàng (Ba-ra-đi)


Phải chăng Chúa Giê-xu và tên cướp tin Chúa đều vào thiên đàng? Thiên
đàng ở đâu? Phải chăng mọi người chúng ta đều đến một chỗ tạm thời nào
đó sau khi qua đời, trước khi được đến thiên đàng?
Trước khi Chúa Giê-xu phục sinh, thì Ba-ra-đi là một phần của Hades (chỗ
kẻ cết ở); nhưng sau khi Đấng Christ phục sinh, thì nó trở thành một phần
của thiên đàng, vì trong IICo 2Cr 12:4, nó được đồng nhất hoá với “từng trời
thứ ba”. Xem LuLc 16:19-26; Cong Cv 2:25-27. Trong mấy khúc sách đó,
chữ “âm phủ” phải hiểu là Hades. Cũng xem Eph Ep 4:7-10, rõ ràng là chỉ
điểm chuyển tiếp khi Ba-ra-đi và tất cả số người đã ở đó đều được chuyển từ
Hades lên thiên đàng.

Một vấn đề “hoà hợp”.


Xin ông giải thích hay “hoà hợp” hai chỗ dường như chống đối nhau: “Hôm
nay ngươi sẽ ở với ta trong nơi Ba-ra-đi” với “Giô-na đã ở trong bụng cá ba
ngày ba đêm thể nào, thì Con người cũng... thể ấy” v.v...?
Chỉ có thân thể của Chúa iê-xu là nằm trong mồ mả. Linh hồn và tâm linh
Ngài (cùng với tên cướp qua đời) thì vào Hades, bấy giờ đã là hiên đàng.
Sau khi Chúa phục sinh, thì phần vốn là Thiên đàng của Hades được
“chuyển” về Thiên đàng.

Những người về với Chúa.


Phải chăng sau khi qua đời, người về với chúa hoàn toàn ý thức họ đang ở
đâu, và người được cứu có thể nhìn thấy và trò chuyện với Chúa? Xin trích
dẫn Kinh Thánh để chứng minh quan điểm của ông.
Người đã qua đời dẫu được cứu hay không, đều còn ý thức; và người được
cứu thì “ra khỏi thân thể này để về với Chúa” (LuLc 16:19-31; IICo 2Cr 5:6-
8). Việc người được cứu có thể trông thấy và trò chuyện với Chúa cũng như
với những người “cùng ở với Chúa” là điều chẳng có gì để nghi ngờ cả. Cả
khi còn sống trên đời này, chúng ta còn có thể thưa chuyện với Chúa nữa là!
Chắc chắn là những người được sống trước hiện diện của Chúa sẽ không thể
kém đặc quyền hơn chúng ta! Cũng xem KhKh 6:9-11 và 22:4.

Tình trạng của những người đã qua đời.


Xin ông nói rõ về tình trạng của số người đã qua đời để về với Chúa Giê-xu.
Họ có trông thấy và trò chuyện được với Cứu Chúa chúng ta không; họ có đi
đây đi đó được không? Khi kẻ không được cứu sống lại, họ có mạc lấy phần
thân thế cũ, xấu xa bệnh hoạn và tàn tật của họ không? Người được cứu thì
mạc lấy thân thể không hay hư nát, còn những người không được cứu thì
sao?
Kinh Thánh. Không nói rõ các vấn đề ấy Tuy nhiên chúng ta biết chắc rằng
số người đã qua đời trước đây, chỉ ra khỏi thân thể này6 để về với Chúa
(IICo 2Cr 5:8). Họ được nhìn thấy Chúa là điều hết sức rõ ràng, căn cứ vào
Mat Mt 18:10, khi nói về các con trẻ, Chúa chúng ta có phán: “Các thiên sứ
của chúng nó ở trên trời thường thấy mặt Cha ta, là Đấng ở trên trời trong
khi thân thể họ chưa sống lại được vì “ngoài chúng ta ra họ khôngđạt đến sự
trọn vẹn được” (HeDt 11:40), nghĩa là họ cùng với chúng ta “đang trông đợi
việc được nhận làm con, tứ clà sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy” (RoRm
8:23). trong khi chờ đợi, thì rõ ràng là căn cứ vào nhiều khúc Kinh Thánh
khác, thân thể chờ phục sinh của họ hiện vẫn tương đương với thân thể
chúng ta, khiến họ cũng có thể tương giao với nhau và với mô trường xung
quanh (KhKh 6:9-11; 7:9-17;).
Về thân thể sống lại của những kẻ không được cứu thì tôi không thấy có
chút ánh sáng nào cả. Việc họ sẽ có thân thể khi sống lại là điều chắc chắn
(KhKh 20:11-15) nhưng bản chất các thân thể ấy ra sao, thì không thấy Kinh
Thánh đề cập đến.

Người giàu và La-xa-rơ.


Theo ông, thì ẩn dụ về Người giàu và La-xa-rơ dạy dỗ điều gì?
1. Dường như đây không còn là vấn đề. Phải, Trái, mà chỉ là vấn đề Giàu,
Nghèo? Sở dĩ người giàu bị hình phạt, chỉ vì ông ta giàu, còn người nghèo
thì được an ủi “Hãy nhớ lại lúc ngươi còn sống đã được hưởng những sự
lành của mình rồi, còn La-xa-rơ phải những sự dữ; (do đó mà) bây giờ, nó ở
đây được yên ủi, còn ngươi phải bị khổ hình”. Còn lời giảng của Môi-se và
các nhà tiên tri mà Chúa nói phải chăng ám chỉ Tin Lành, cứu rỗi nhờ tin
vào Đức Chúa Giê-xu Christ?
2. Lại có người bảo đây không phải là một ẩn dụ nhưng là một sự kiện thật
sự có xảy ra. Vậy thì theo ông, tuy Thiên đàng và Hoả ngục vốn rất xa nhau,
người ta vẫn có thể nhìn thấy nhay và trò chuyện với nhau? Tôi mong là
không phải như vậy.
1. Kinh Thánh không hề dạy rằng “Sở dĩ người giàu bị hình phạt vì ông ta
giàu” hay La-xa-rơ sở dĩ được cứu bởi vì ông vốn nghèo. Các sự kiện đã
được đưa ra, còn lý do tại sao người giàu bị hình phạt và người nghèo được
yên ủi thì không được giải thích. Tuy nhiên, ta phải ngầm hiểu rằng người
giàu nọ vốn vô cùng ích kỷ (mạc áo tía và áo vải gai mịn, hằng ngày ăn ở rất
là sung sướng). Trong “kế hoạch” của đời sống ông, đã không có Đức Chúa
Trời, La-xa-rơ hay một người nào khác cả, mà chỉ có một mình ông thôi. Về
phần La-xa-rơ, thì chính tên của ông rất có ý nghĩa. Đó là hình thức Hi Lạp
của tên Ê-lê-sa-sa có nghĩa là “được Đức Chúa Trời trợ giúp”. Chúng ta có
thể tin chắc chắn rằng Chúa Giê-xu không hề kể lại câu chuyện này để nói
ngược lại với tất cả những gì Ngài từng dạy dỗ về sự cứu rỗi bởi đức tin.
2. Không có điều gì chứng tỏ đây là một ẩn dụ. Chúa chúng ta đang kể lại
một câu chuyện có thật về việc đã xảy ra cho hai người sống và chết đồng
thời với nhau. Không có ẩn dụ nào của Chúa Giê-xu lại có kể tên một ai đó.
Không thể có chuyện chúng ta từ Thiên đàng mà nhìn xuống Hoả ngục. Sự
thật là không phải La-xa-rơ đang ở thiên đàng còn người giàu đang ở dưới
Hoả ngục. Cả hai đều đang ở Hades (chỗ người chết ở trước khi Đấng Christ
phục sinh) nhưng ở hai nơi khác nhau, cách nhau là một vực sâu không vượt
qua được. Sau đó, La-xa-rơ mới được chuyển từ Hades lên Thiên đàng. Việc
ấy xảy ra lúc Chúa chúng ta thăng thiên “Chúa đã ngự lên trên cao, dẫn theo
những phu tù” (Thi Tv 68:18; Eph Ep 4:8). người giàu thì vẫn ở lại Hades
cho đến sau Thiên hi niên, khi “kẻ chết và âm phủ” sẽ bị “quăng xuống hồ
lửa “là Hoả ngục, chỗ ở cuối cùng cho những người bị hư mất (KhKh 20:13,
14).

Trũng và Xứ thuộc về bóng của sự chết.


“Trũng bóng chết” (Thi Tv 23:4) và Xứ tuộc về bóng của sự chết” (EsIs 9:2)
là gì?
Khi nói “trũng bóng chết” thì tác giả Thi thiên muốn ám chỉ cái từng trải
đang chờ đợi ông khi qua đời. Gióp cũng có cùng một ý nghĩ như vậy: “Các
ngày tôi há chẳng phải ít ỏi sao? Vậy, Chúa ôi, khá ngưng dứt đi. Hãy dời
khỏi tôi đi, để tôi được an ủi một chút, trước khi tôi đi đến xứ tối tăm, và
bóng sự chết, không hề trở lại; tức đất tối đen như mực, là miền có bóng sự
chết, chỉ có sự hỗn độn tại đó, và ánh sáng không khác hơn tối tăm” (Giop G
10:20-22). Đó là quan điểm về sự chết của các tộc trưởng khi Đức Chúa Trời
ban Kinh Thánh cho loài người. Trong Thi Tv 88:12, Đa-vít gọi nơi ở bên
kia đường chân trời là “xứ bị bỏ quên”.
Lời tiên tri của EsIs 9:1, 2 đã được ứng nghiệm khi húa chúng ta đến thăm
viếng xứ Ga-li-lê, như Mat Mt 4:13-16 đã cho thấy và ở đây “xứ thuộc về
bóng của sự chết” dường như được đồng nhất hoá với “xứ Ga-li-lê của các
dân ngoại bang”, chắc chắn là người bị phân rẽ với Đức Chúa Trời phải
thường xuyên sống trong bóng của sự chết, vì “mọi người vì sợ sự chết, bị
cầm trong vòng tôi mọi trọn đời” (HeDt 2:15). Thật phước hạnh biết bao khi
chúng ta biết “Đấng đã huỷ phá sự chết, dùng Tin Lành phô bày sự sống và
sự không hề chết ra cho rõ ràng” (IITi 2Tm 1:10). Những người thật sự biết
Ngài sẽ có thể nói rằng “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, sẽ chẳng sợ tai
hoạ nào; vì Chúa ở cùng tôi: Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi”.

Thuyết “Hoàn toàn tiêu huỷ”.


Người Cơ Đốc Phục lâm bảo rằng MaMl 4:1 nói là kẻ ác sẽ bị hoàn toàn tiêu
diệt “chẳng để lại cho chúng nó hoặc rễ hoặc cành”. Như vậy có đúng
không?
Không. Việc “hoàn toàn tiêu diệt” kẻ ác là một giáo thuyết không đúng Kinh
Thánh và chống lại Kinh Thánh nữa. Ngôn ngữ trong AmAm 2:9 cũng
tương tự như vậy. Sự huỷ diệt báo trước trong những khúc Kinh Thánh như
thế chẳng có liên hệ gì với hồn và linh người ta, theo nghĩa là hoàn toàn tiêu
diệt họ đi; nó chỉ muốn nói rằng các kẻ thù của Đức Chúa Trời sẽ bị quét
sạch khỏi đất mà thôi.

Sự ngủ yên của linh hồn.


Tôi có anh bạn bảo rằng khi một người qua đời, thì linh hồn người ấy được
ngủ yên cho đến khi Đấng Christ tái lâm; cũng không có Hoả ngục nữa. Phải
trả lời anh ta làm sao?
Đó là một tà thuyết chống lại Kinh Thánh. Lời Đức Chúa Trời dạy hết sức rõ
rằng đối với cả người đựơc cứu lẫn người bị hư mất, họ vẫn còn ý thức sau
khi chết, người được cứu qua đời thì “ra khỏi thân thể này để được ở với
Chúa, Thiên đàng là nơi ở vĩnh viễn cho người được cứu, còn Hoả ngục là
chỗ ở cuối cùng cho kẻ bị hư mất (LuLc 16:19-31; IICo 2Cr 5:6-8; KhKh
20:6, 12-15).

Thiên đàng
Nơi gọi là Thiên đàng.
Ông có cho rằng Thiên đàng là một chỗ nào đó - như một hành tinh khác
chẳng hạn - ở một nơi nào đó không?
Vâng. Thiên đàng là một chỗ ở. Tôi không nói nó là “một hành tinh” nhưng
nó phải “ở một nơi nào đó”. Chúa Giê-xu đã nói rằng Ngài ra đi để sắm sẵn
một chỗ ở cho chúng ta, và cuối cùng, hễ Ngài ở đâu thì chúng ta cũng sẽ ở
đó với Ngài. Thiên đàng nhất thiết phải là một chỗ ở, nếu không, thân thể đã
phục sinh của Ngài sẽ không ở một “chỗ” nào cả, và điều đó không thể suy
tưởng được. Ngài thật sự ngự trên một chiếc ngai bên cạnh Cha Ngài, tại
một nơi có thật trong nơi cao nhất của các từng trời, cao hơn các từng trời
(Eph Ep 4:10).

Hạnh phúc trên thiên đàng.


Có người hỏi tôi: “Nếu mẹ anh được cứu, còn anh bị hư mất, thì mẹ anh ở
trên thiên đàng có thể vui vẻ, hạnh phúc được không?” Tôi phải trả lời sao
đây?
Những người được lên thiên đàng, chắc chắn sẽ vui vẻ hạnh phúc tại đó.
Trường hợp bạn hỏi sẽ xảy ra như thế nào, thì Kinh Thánh không cho chúng
ta biết nhưng rõ ràng Thiên đàng là nơi vui mừng hạnh phúc cho tất cả
những ai được vào đó. Điều cần ghi nhớ là tất cả những ai muốn vào đó, đều
có thể vào được theo con đường đã rảy huyết!

Thiên đàng ra làm sao.


Tôi có đứa con gái qua đời năm lên sáu tuổi. Lúc còn ở với chúng tôi, cháu
rất thích nhóm lại khi có gia đình lễ bái, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.
Cháu rất thích nói về các khung cửa bằng ngọc châu và những con đường
bằng vàng ròng trên thiên đàng, và tôi biết là cháu thiết tha yêu mến Chúa.
Tôi tin rằng cháu hiện được ở với Ngài, có phải thế không? Tôi muốn biết
hiện cháu có được hạnh phúc và hài lòng không? Cháu có nghĩ đến chúng
tôi, hay đã quên hết mọi việc thế gian?
Có một chị em yêu dấu là Cơ Đốc nhân vừa qua đời, để lại một gia đình với
mấy đứa con dại. Chị sẽ bằng lòng trên thiên đàng khi nghĩ đến đám con dại
thân yêu của mình không? Hay là niềm vui ấy vốn quá lớn lao, đến nỗi
người ta không còn nghĩ gì đến những điều thuộc về thế gian này nữa? Đối
với những người trên thiên đàng, thì thời gian có dường như chậm lại, khi
người thân yêu của họ còn sống trên đất hay không? Chúa yêu dấu có tiếp
đón từng người một, khi các con cái Ngài, từ giã đời này để vào thiên đàng
không? Một con cái Chúa có cảm thấy hoàn toàn thoải mái như ở ngay trong
nhà mình, khi vừa gặp Chúa, hay lần lần thì mới quên đi?
Tôi mong mình hiểu đúng khi cho rằng vừa qua đời, mình sẽ có ngay một
thân thể mới sau khi từ bỏ thân thể bằng đất này.
Tôi rất mong được trả lời tất cả các câu hỏi mà do lòng thiết tha yêu mến
Chúa, một bà mẹ là Cơ Đốc nhân đã nêu ra. Nhưng Kinh Thánh không mạc
khải đầy đủ mọi chi tiết về tình trạng trên thiên đàng. Mà như thế có lẽ sẽ
hay hơn, vì nếu đã biết hết mọi sự, có lẽ chúng ta không còn muốn ở lại trên
đất này một giây phút nào nữa! Phao-lô từng được cất lên thiên đàng, và vì
những mạc khải quá nhiều mà ông đã nhận đựơc, ông phải lãnh thêm một
cái dằm xóc vào da thịt, để thoát khỏi tội kiêu ngạo (IICo 2Cr 12:7). Chúng
ta nên an lòng tin quyết rằng những người thân yêu của mình trên thiên đàng
đang được hoàn toàn hạnh phúc, thoả lòng và an lành. Rồi khi đến đó, tuy
đường đi đã lắm gian nan, chúng ta sẽ nhận thấy rằng đó là con đường đáng
phải đi.

Ai được lên thiên đàng.


Kinh Thánh dạy gì về những ai được lên thiên đàng?
Kinh Thánh dạy rằng con đường duy nhất để đến thiên đàng là chúng ta đích
thân tin nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa mình; Ngài là Đấng mở
đường cho chúng ta đến với Đức Chúa Trời bằng cách đổ huyết ra, làm sinh
tế chuộc tội cho chúng ta.

Người được cứu trên thiên đàng.


Linh hồn các Cơ Đốc nhân sau khi qua đời, có được lên thiên đàng và ở với
Đấng Christ ngay không? Họ có trông thấy, trò chuyện với Ngài, và có một
thân thể không? Họ có ý thức rằng mình đang được ở với Đức Chúa Cha,
Đức Chúa Con và các thánh đồ đã đi trước họ về thiên đàng không? Hiện họ
có thể trò chuyện, ca hát, v.v... không?
Câu hỏi của bạn gồm quá nhiều phần mà tôi có thể trả lời cho tất cả là “Có”.
Vấn đề đã được thảo luận trong IICo 2Cr 1:5-8 và chứng minh rằng bức
tranh mà bạn đã vẽ ra đó là đúng. Tuy hiện nay các thánh đồ vẫn còn ý thức
và đang sống với Đấng Christ và gia đình Đức Chúa Trời trên Thiên đàng,
nhưng chưa có thân thể phục sinh; thi hài họ thì vẫn nằm trong phần mộ cho
đến ngày Chúa Giê-xu tái lâm (ICo1Cr 15:1-58). Nhưng không phải là họ
không có quần áo hay bị loã lồ. Cũng không phải là họ đang trôi dạt đó đây
như những “hồn hoang” vô hình không thể nói năng, hành động gì được;
cũng không phải là họ đang nằm ngủ, chẳng hay biết gì cả. KhKh 6:9-11 có
đề cập đến linh hồn các thánh tử đạo đã bị giết. Họ trông thấy nhau, nghe nói
chuyện với nhau, và được ban cho những chiếc áo dài trắng. Tất cả những
điều đó là huyền nhiệm, nhưng có thật. Xin chúng ta đừng bận tâm giải thích
mọi điều đó, mà chỉ cần tin những gì Kinh Thánh đã nói về các huyền nhiệm
ấy.

Người thân yêu của chúng ta trên thiên đàng.


Có câu Kinh Thánh nào bảo đảm cho niềm tin của nhiều người, rằng trên
thiên đàng, chúng ta sẽ gặp lại bạn bè và những người thân yêu? Rõ ràng là
trên đó sẽ không còn có chồng vợ, cha mẹ và con cái nữa?
Chúng tôi tin quyết rằng trên thiên đàng, chúng ta sẽ không hiểu biết kém
hơn ở đây. ICo1Cr 13:12 dạy rằng ở đó, chúng ta sẽ được nhìn “mặt đối
mặt” chớ không phải chỉ trông thấy “cách mập mờ”; ngày nay, chúng ta chỉ
“biết một phần” nhưng bấy giờ, chúng ta sẽ biết như Chúa đã biết chúng ta
vậy. Chúng ta có thể tin chắc là trên thiên đàng, chúng ta sẽ biết hết mọi
người, và họ đều là “bạn bè và người thân yêu của ta” vậy.

Phái tính trên thiên đàng.


Tôi sẽ rất hoang nghênh nếu ông vui lòng giải thích cho biết trên thiên đàng
có phái tính (nam, nữ) hay không? Trong HeDt 1:4 có đề cập các “thiên sứ”.
Kinh Thánh luôn luôn nói về họ như thuộc nam giới. Phải căng điều đó có
nghĩa rằng các thiên sứ đều là đàn ông? Nếu quả vậy, thì ông bảo sao về số
phụ nữ đông vô kể đã được vào thiên đàng?
Không có một người đàn ông hay phụ nữ nào lại trở thành thiên sứ khi lên
thiên đàng. Các thiên sứ là một chủng loại hữu thể (beinh, Kinh Thánh
chúng ta dịch là “sinh vật") phân biệt, khác hẳn con người. Quả thật là Kinh
Thánh luôn luôn dùng chữ thiên sứ theo giống đực (theo văn phạm một số
ngôn ngữ có phân biệt giống đực, giống cái), nhưng phái tính theo nghĩa của
loài người không hề được gán cho các thiên sứ; ngay cả giữa vòng các thánh
đồ vinh hiển trên thiên đàng cũng không có phái tính, vì Mat Mt 22:30 đã
chép : “Vì đến khi sống lại, người ta không cưới vợ, lấy chồng, nhưng
những kẻ sống lại là như thiên sứ trên trời vậy” (cũng xem Mac Mc 12:25;
LuLc 20:34-36).

Nhận biết nhau trên thiên đàng.


Có bằng cớ nào chứng minh rằng chúng ta sẽ nhận biết nhau trên thiên
đàng?
Theo như tôi tin, thì ICo1Cr 13:12 chứng minh rằng chúng ta sẽ nhận biết
nhau trên thiên đàng. Thật khó quan niệm khi vào thiên đàng, chúng ta lại
kém hiểu biết hơn hiện nay “Ngày nay, chúng ta xem như trong một cái
gương cách mập mờ; đến bấy giờ, chúng ta sẽ thấy hai mặt đối nhau; ngày
nay, tôi biết chưa hết; đến bấy giờ, tôi sẽ biết như Chúa đã biết tôi vậy”.

Đền Tạm thật.


Đền Tạm thật trong HeDt 8:2 có nghĩa gì?
Đền Tạm thật là Đền Tạm trên thiên đàng mà kiểu mẫu đã được vạch rõ cho
Môi-se trên núi thánh, và ông đã theo mẫu ấy để làm một Đền Tạm dưới đất
này (XuXh 25:40; HeDt 8:5).

Trời mới và đất mới.


KhKh 21:1-27 đề cập đến trời mới và đất mới. Chúng ta nên hiểu theo nghĩa
đen chăng? Phải chăng sẽ có một bầu trời, một mặt đất hoàn toàn mới, hay
chỉ là trời đất cũ này được “tân trang” lại? EsIs 65:17 cũng chép: “Ta sẽ
dựng trời mới đất mới”. Chúng tôi đã cãi nhau về vấn đề này trong lớp học
Kinh Thánh, vì có người bảo rằng chúng ta không nên hiểu những câu như
vậy theo nghĩa đen.
Thi Tv 102:5, 6 chép rằng: “Trời đất sẽ bị hư hoại... Chúa sẽ đổi trời đất” và
IIPhi 2Pr 3:5-13 chép rằng “thế gian bấy giờ bị huỷ phá, bị chìm đắm bởi
nước lụt” (c.6) chỉ về cơn nước lụt thời Nô-ê, cho nên dường như trời mới
đất mới ở đây sẽ là trời đất cũ được làm mới lại, lần này thì bằng lửa, chớ
không phải là bằng nước.

Hoả ngục.
Thực tại của hoả ngục.
Ông có tin rằng Hoả ngục có thật như Kinh Thánh mô tả không?
Có. Hoả ngục là một chỗ ở, y như Thiên đàng là một chỗ ở vậy. Nhiều khi
chữ Hades trong Tân Ước và chữ Sheol tương đương trong CựưUớc đã bị
dịch sai là Hoả ngục, khiến độc giả dễ nhầm lẫn. Nhưng chắc chắn là Kinh
Thánh có nói đến Hoả ngục. Chẳng những Hades hay Sheol là một nơi có
thật mà Gehenna, Hoả ngục hay Hồ Lửa cũng có thật nữa. Nếu vốn được
chuẩn bị để dành cho ma quỉ và các quỉ sứ nó, và có một ngày, chúng sẽ bị
nhốt vào nơi khủng khiếp đó cùng với toàn thể những người mà tên không
được chép trong Sách Sự Sống.

Làm thế nào?


Nếu Hoả ngục là có thật và tồn tại đời đời, thì làm thế nào số người hiện nay
và trong tương lai sẽ được vào Thiên đàng lại có thể hạnh phúc được nếu bà
con của họ, như cha mẹ, chị em, bạn bè phải ở Hoả ngục còn họ thì được lên
Thiên đàng?
“Làm thế nào?” là loại câu hỏi dễ nêu nhưng khó trả lời. Tôi chỉ có một lời
giải đáp duy nhất đó là “Tôi không biết”. Đường lối của Đức Chúa Trời
không như đường lối của chúng ta, tư tưởng Ngài cũng cao hơn và tốt đẹp
hơn (EsIs 58:8, 9). Sẽ không có ai phải xuống Hoả ngục nếu không giày đạp
Con Đức Chúa Trời, khinh thường huyết Ngài và nhục mạ Thánh Linh của
Ân điển (HeDt 10:29). Còn về hạnh phúc của những người ở trên Thiên
đàng, thì họ vốn quan tâm đến sự vinh hiển và ca tụng Đức Chúa Trời, nhiều
hơn là về bà con thân thuộc của loài người. “Sự khôn ngoan được biện minh
bởi con cái của mình” và “Những kẻ thuộc về Đức Chúa Trời thì xưng là
công chính cho Ngài”.

Sự hình phạt đời đời.


Người Cơ Đốc Phục lâm bảo rằng những kẻ ác bị tiêu diệt trong Hoả ngục.
Họ nêu vấn đề về sự dịch thuật của KhKh 20:10 để tranh luận với chúng tôi.
Có những câu Kinh Thánh nào khác có thể trả lời cho họ không?
Giáo thuyết về việc kẻ ác sẽ bị tiêu diệt mâu thuẫn với toàn thể giáo lý của
Kinh Thánh, mà không nhất thiết phải trả lời bằng 20:10. Câu chuyện về
Người giàu và La-xa-rơ (mà thỉnh thoảng có người gọi sai là một ẩn dụ) và
lời làm chứng của Chúa chúng ta trong Mac Mc 9:38-48 cũng như nhiều
khúc Kinh Thánh khác nữa về cùng một chủ đề, thiết tưởng đã quá đủ để
thoả mãn người nào lấy lòng thành nghiên cứu Kinh Thánh về chân lý của
sự hình phạt đời đời dành cho những con người hoàn toàn còn ý thức.

Sự chết thứ hai.


Xin ông vui lòng giải thích KhKh 20:14 và Mat Mt 25:41. Nều đã có lửa đời
đời, thì làm thế nào còn có sự chết thứ hai? Phải chăng kẻ ác sẽ bị thiêu huỷ
và tiêu diệt?
Không. Ông Spurgeon bảo rằng tiêu diệt là sự hình phạt có kết thúc chớ
không phải là vô cùng, vô tận. Chết không hề có nghĩa ngưng tồn tại mà có
nghĩa là ngưng sự sống, hai điểm này vốn khác xa nhau. Đức Chúa Trời là
nguồn sự sống, mà cái chết tệ nhất là chết về tâm linh bởi đó loài người bị
phân cách với Đức Chúa Trời. Người bị hư mất phải chịu hình phạt trong
thời hạn vô tận cũng như người được sẽ sống vô tận vậy; cả hai chữ được
dùng đều là aionion, dịch là đời đời hay vĩnh cửu. Chữ đó cũng được dùng
để nói lên tính cách vô tận của sự hiện hữu và vinh quang của Đức Chúa
Trời.

Linh hồn sau khi chết.


Một người biện hộ cho thuyết không có sự hình phạt đời đời đã tìm cách
chứng minh với tôi rằng bản án nguyên thuỷ của Đức Chúa Trời đối với loài
người là sự chết (SaSt 2:16, 17), mà tình trạng của sự chết là thôi tồn tại hay
là bị quên đi (TrGv 3:19, 20; 9:5, 6, 10; Thi Tv 196:4) vốn là nơi dân Do
Thái dùng thiêu huỷ rác rến phế thải của thành phố, do đó, chỉ bóng về việc
kẻ ác sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt (Thi Tv 145:20; 37:20; RoRm 6:23; Mat Mt
10:28; HeDt 2:14).
Ông cố gắng chứng minh rằng sự đau đớn đời đời là do Sa-tan đưa vào để
lừa dối loài người, vì Đấng Christ đã không phải chịu đau đớn đời đời thêm
vào với cái chết (RoRm 6:23) để trả nợ cho tội lỗi chúng ta (ICo1Cr 15:3, 4,
22, 23; ITi1Tm 2:5, 6).
Vì biết rằng Đức Chúa Trời vốn đầy lòng thương xót và công bình, không
vui thích về sự chết của kẻ ác (Exe Ed 33:11) tôi phải bài bác các nhận định
trên đây như thế nào? Tôi sẽ rất biết ơn ông, nếu ông có thể soi sáng một
phần nào cho tôi trong vấn đề này.
Câu trả lời hay nhất mà tôi được biết về các vấn đề bạn nêu ra trên đây, là
của Tiến sĩ Scofield. Tôi xin trích dẫn từ Bài học Hàm thụ, phần nhận định
về “linh hồn ngủ nghỉ và sự tiêu diệt linh hồn” theo chủ đề “Sự Chết”.
Cần chú ý đến hai sự hiểu sau ý nghĩa của sự chết mà Kinh Thánh đề cập.
Sự chết thứ nhất là sự chết của thân thể, tức mất hết ý thức cho đến khi thân
thể được sống lại. Hiểu sai ở điểm này thường được gọi là “linh hồn yên
nghỉ” và phần lớn là thường gặp trong một số khúc sách của CựưUớc. Thí
dụ như trong Thi Tv 8:10 “Chúa há vì kẻ chết mà sẽ làm phép lạ sao?” Thi
Tv 115:17 “Kẻ chết hoặc kẻ xuống cõi nín lặng chẳng ngợi khen Đức Giê-
hô-va” EsIs 38:18 “Nơi âm phủ chẳng ngợi khen Ngài được, và sự chết
chẳng tôn vinh Ngài được” TrGv 9:5 “Nhưng kẻ chết chẳng biết chi hết”. Có
người cho rằng từ ngữ “ngủ” trong Tân Ước giải thích sự mất hết ý thức đó.
Câu trả lời gồm hai phần:
Một. Phần mạc khải của CựưUớc hầu như im lặng đối với tình trạng tương
lai của loài người. Dĩ nhiên là vị thánh đồ của CựưUớc đã thật sự được soi
sáng, chỉ thấy trước cách lờ mờ về cuộc đời sau khi chết, như trường hợp
của Gióp trong Giop G 19:26 nhưng cả đến sự lãnh hội lờ mờ đó cũng là
ngoại lệ và dường như là do một sự mạc khải đặc biệt. Áp-ra-ham thấy ngày
của Đấng Christ và mừng rỡ (GiGa 8:56). Đa-vít đã thấy trước sự phục sinh
của Đấng Christ (Cong Cv 2:29-31). Sự kiện ấy, nói chung, là do thời kỳ để
mạc khải về tình trạng ở phía bên kia mồ mả, vẫn chưa đến. Đấng Christ
nắm trọn quyền “dùng Tin Lành đưa sự sống và sự không hề chết ra ngoài
ánh sáng”. Tôi không nói là Đấng Christ đưa sự sống và sự không hề chết
vào hiện hữu, nhưng Ngài đã đưa nó vào mạc khải. Sự sống và sự bất diệt
vốn đã có sẵn từ trước. Nhưng mồ mả vốn là cái chân trời đã bị giới hạn của
CựưUớc. Cho nên, tuỳ theo cái nhìn đã bị hạn chế của họ, các trước giả
CựưUớc chỉ có thể phát ngôn trong phạm vi hiểu biết giới hạn của mình về
mồ mả (dẫn các vị ấy xem chỗ chôn cất, hay Sheol theo nghĩa rộng rãi hơn
như là giai đoạn chuyển tiếp sau khi chết) như là nơi mà mọi hoạt động của
đời sống đều chấm dứt. Và họ đã phát biểu đúng theo vị trí của mình và
đúng về vấn đề ấy. Nếu muốn phục vụ hay tôn vinh Chúa, thì họ phải làm
lúc hãy còn sống kia! Mà điều đó thì đến nay vẫn còn đúng. Trước khi có sự
sống lại thứ nhất, hoạt động của các thánh đồ đều bị ngưng chỉ “Những
người ấy nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau” (KhKh
14:13).
Hai. Nhưng nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc với ngừng ý thức, là hai sự kiện
khác nhau; và chúng ta phải chờ đợi để tìm thấy trong Tân Ước - không phải
trong CựưUớc - phần bổ túc cho tất cả các giáo lý, phải bỏ lại sau lưng
không chút thắc mắc vấn đề kẻ chết, dầu được cứu hay bị hư mất, vốn đã bị
tách rời với thân xác nhưng vẫn còn đầy đủ ý thức (EsIs 14:9-11; Mac Mc
9:43-48; LuLc 16:19-31; GiGa 11:26 IICo 2Cr 5:1-8; Phi Pl 1:21-23; KhKh
6:9-11).
Sai lầm thứ hai, vốn được gọi là thuyết tiêu diệt hay bất diệt có điều kiện,
chủ trương (với nhiều chi tiết khác nhau) rằng chỉ có người được tái sanh
mới không hề chết, còn người không được tái sinh thì sẽ bị tiêu diệt, không
còn tồn tại nữa. Một số hình thức của giáo thuyết này dạy rằng người ta thôi
tồn tại ngay lúc cái thân thể chết đi. Một số khác chủ trương sự hiện hữu vô
ý thức hãy còn tiếp tục cho đến khi kẻ chết chưa nhận đủ hình phạt, được
sống lại (KhKh 20:12, 13), khi ý thức sẽ được phục hồi, thân xác được sống
lại để chịu phán xét và sau đó “sự chết thứ hai” sẽ kết thúc cả ý thức lẫn sự
tồn tại.
Các quan điểm trên đây căn cứ vào phần ý nghĩa đã bị giảm nhẹ của những
từ ngữ như “hư mất” (GiGa 3:15, 16), “hư mất đời đời” (IITe 2Tx 1:9) và
“huỷ diệt” (2:8). Người ta cãi rằng những từ ngữ ấy ngụ ý thôi hiện hữu, thôi
tồn tại.
Chúng tôi đã giải đáp cho hình thức sai lầm đầu tiên này rồi. Sự chết về thân
thể của người không được tái sanh vốn không phải là sự huỷ diệt hay thôi ý
thức. người giàu trong Hades vẫn hoàn toàn ý thức. các linh hồn chết mất ở
Sheol vẫn hoàn toàn ý thức việc họ sẽ được khiến sống lại và sẽ phải nhận
lấy một số phận khủng khiếp.
Chỉ cần xét qua từ ngữ đã bị làm giảm nhẹ ý nghĩa để chỉ còn hàm ý rằng
hình phạt dành cho tội lỗi chỉ có nghĩa là dập tắt, thiết tưởng đã đủ để vạch
ra sự vô căn cứ của những kẻ muốn cãi bướng. Từ ngữ Hi-văn apollumi,
được dịch là “hư mất” trong GiGa 3:15, 16 thường được Tân Ước dùng để
chỉ một tình trạng khiến người ta không thể đem ra sử dụng như lệ thường
hay nhằm một chủ đích đã được định trước, như trường hợp cái bình cũ có
rượu mới đổ vào được cho biết là sẽ phải bị “nứt, rượu chảy ra, và bầu phải
hư” (Mat Mt 9:17), như thế sẽ trở thành vô dụng, không đáp ứng được chủ
đích đã định. Trong khúc sách tương đương của Mac Mc 2:22, cùng một từ
ngữ ấy đã được dịch là “cũng chẳng còn” và trong Mat Mt 10:6; 15:24, được
dịch là “mất”. “Thà đi đến cùng những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-
ên”. “Ta chịu sai đến đây, chỉ vì các con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên
đó thôi”. Trong 18:11 “Mà đi kiếm con chiên đã lạc mất”. Trong các ẩn dụ
về Con Chiên Lạc và Người Con Trai Hoang Đàng trong LuLc 15:1-32,
cùng một từ ngữ ấy đã được sử dụng và dịch là “lạc mất”. Chắc chắn là cả
con chiên lẫn người con trai đều không “lạc mất” hay “hư mất”, “chết mất”
theo nghĩa là bị hoàn toàn tiêu diệt.
Trong IITe 2Tx 2:8 việc “huỷ diệt” người tội ác, kẻ bất pháp, và “con thú”
sẽ xảy ra khi Chúa chúng ta tái lâm trong vinh quang. Điều này không phải
là “tận diệt” hay là “chết” như KhKh 19:19, 20 đã cho chúng ta thấy hết sức
rõ ràng, khi chép rằng Con Thú hãy còn sống sẽ bị quăng xuống Hồ Lửa.
Mãi tận 1.000 năm sau, chúng vẫn còn ở đó (KhKh 20:10). Tình hình ở đó
vốn không thể thay đổi được như các từ ngữ chỉ thời gian đã vạch rõ “cho
đến đời đời” thường vẫn được dùng nói lên sự tồn tại mãi mãi của Đức Chúa
Trời (HeDt 1:8; GaGl 1:5; KhKh 4:9, 10; 10:6).

Cõi đời đời.


Phải chăng trong nguyên văn Kinh Thánh, từ ngữ “đời đời” chỉ xuất hiện có
một lần?
“Đời đời” không phải là một từ ngữ trong nguyên văn Kinh Thánh, mà là
một chữ trong các bản dịch, và chỉ xuất hiện một lần trong EsIs 57:15. Từ
ngữ Hi-bá-lai ở đây là ad, không phải là chữ thông dụng chỉ cõi đời đời. Chữ
thường dùng trong CựưUớc chỉ “đời đời” là olam dưới một số hình thức
khác nhau. Chữ tương đương trong Hi-văn là aion, và đó là chữ mà Tân Ước
dùng để chỉ thời kỳ (thời đại, kỷ nguyên) và theo hình thức hình dung từ
aionion chỉ đời đời hay vô cùng. Cùng một từ ngữ ấy đã được dùng để nói
lên 1. Thời gian vô tận của sự hiện hữu và vinh quang Đức Chúa Trời; 2.
Thời gian vô tận của sự sống và phước hạnh của người được cứu; và 3. Thời
gian vô tận của sự hình phạt đối với kẻ bị hư mất. Trong Mat Mt 25:46, hai
lần dịch là “đời đời” thì trong Hi-văn đều là chữ aionion.

Không còn hi vọng nào khác.


Người không được cứu đã chết rồi, thì còn có hi vọng, có lối thoát nào khác
không?
Kinh Thánh dạy rằng sau khi chết thì không còn “hi vọng” hoặc “lối thoát”
nào khác.

Sách Truyền đạo và vấn đề bất diệt.


Xin ông vui lòng giải thích ba câu Kinh Thánh trong TrGv 9:5, 6, 10. Chúng
có ám chỉ gì đến sự bất tử bất diệt của linh hồn không?
Không, chúng không có ý nói như vậy. Khải tượng của nhà Truyền đạo vốn
bị giới hạn vào những sự việc được nhìn thấy và hiểu biết “dưới mặt trời”.
Mệnh đề ấy là chiếc chìa khoá cho cả Sách Truyền đạo. Tiến sĩ Scofiel nói:
“Câu 10 không phải là sự mạc khải của Đức Chúa Trời về tình trạng của kẻ
chết, cũng như các kết luận khác của nhà Truyền đạo (1:1) đều không phải là
mặ ckhải thiên thượng. Một người thường, đứng trên quan điểm tự nhiên
“dưới mặt trời” sẽ không thấy chỗ khác nhau của một người chết với một
con sư tử chết (c.4). Một con cho1 sống còn có giá trị hơn cả hai. Không hề
có ai dám trích dẫn câu 2 và xem đó như một mạc khải của Đức Chúa Trời.
Các lý luận của một người không được sự mạc khải của Đức Chúa Trời vẫn
được linh cảm và viết ra trong Kinh Thánh y như lời lẽ của Sa-tan (SaSt 3:4;
Giop G 2:4, 5) vẫn được chép lại. Tuy nhiên, sự sống và ý thức vẫn tiếp tục
giữa cái chết và sự sống lại đã được Kinh Thánh khẳng định (EsIs 14:9-11;
Mat Mt 22:32; Mac Mc 9:43-38; LuLc 16:19-31; IICo 2Cr 5:6-8; Phi Pl
1:21-23; KhKh 6:9-11).
Niềm tin chắc chắn.
Được cứu và tin quyết việc ấy
Phải chăng mọi ngời đều biết rõ thời gian, địa điểm và lúc nào mình đã được
cứu?
Những nhất thiết là như vậy. Thật là sai lầm nếu nhấn mạnh rằng phải biết
chính xác khi nào và tại đâu mình đã được cứu, thì mới thật sự được cứu. Dĩ
nhiên là khi một tội nhân cứng cõi có lòng tna vỡ và được tái sanh, thì người
ấy biết rất rõ khi nào và tại đâu việc ấy đã xảy ra; nhưng may thay, có nhiều
người đã được cứu ngay từ tuổi thơ ấy hoặc thanh niên, và trong nhiều
trường hợp, sự thay đổi mặt ngoài của họ rất khó cho con mắt loài người
nhận ra. Nói vậy không có nghĩa là trong những trường hợp như thế, đã
không có sự thay đổi quan trọng. Sự thay đổi tất nhiên là hết sức lạ lùng, và
Đức Chúa Trời vốn thấy rõ và biết rõ mọi sự. Không có ai trong chúng ta
nhớ được lúc mình chào đời, nhưng sự kiện chúng ta đang sống đây đã đủ
chứng minh cho việc chúng ta từng được sanh ra. Điều tối quan trọng là phải
biết chắc là hiện nay chúng ta có đang ở trong Đấng Christ hay không, và
nếu có, thì chúng ta không cần bận tâm đến việc chúng ta đã được như vậy
lúc nào và ở đâu.

Biết chắc số phận mình.


Theo ông thì trước khi qua đời, người ta có thể biết mình sẽ đi đâu không?
Tôi được nghe một số người nói họ sẽ về đâu. Ông nghĩ thế nào?
Tôi không cần phải đợi đến ngay trước khi qua đời mới biết mình sắp đi về
đâu. Từ lâu tôi biết chắc chắn là mình sẽ đi đâu, mà đó cũng là đặc quyền
của tất cả các con cái Chúa: họ biết họ sẽ đi về đâu. Thư IGiăng được viết
cho những người tin danh Con Đức Chúa Trời, để họ biết rằng họ đã được
sự sống đời đời (IGi1Ga 5:13), mà dĩ nhiên là khi chúng ta đã biết mình
được sự sống đời đời, thì cũng biết là mình sẽ đi về đâu; và chúng ta biết
“ngay khi ra khỏi thân thể này” chúng ta sẽ được “về với Chúa” (IICo 2Cr
5:8).
Về việc những người sắp qua đời được thấy khải tượng, tôi tin rằng thường
thường thì quả thật các con cái Chúa vẫn được cho thấy về thế giới bên kia.
Người ta kể rằng khi sắp qua đời, ông Moody đã được thấy một khải tượng
tương tự và chúng ta cũng có thể nói về nhiều người khác y như vậy.

Tin chắc về Thiên đàng


Mới đây, trong một buổi nhóm cầu nguyện, tôi có nghe một mục sư bắt đầu
bài giảng của mình như sau “Chúng ta không thể biết gì chắc chắn về Thiên
đàng trước khi được vào đó”. Bài giảng ấy nhằm trực tiếp chống lại giáo lý
về người tín hữu có thể biết chắc về Thiên đàng. Câu Kinh Thánh được dùng
là RoRm 2:7, và diễn giả nhấn mạnh rằng chỉ có các Cơ Đốc nhân “bền lòng
làm lành, tìm sự vinh hiển sự tôn trọng và sự chẳng hề chết” thì mới được sự
sống đời đời. Ông ta nhấn mạnh rằng Cơ Đốc nhân phải kiên trì, phải “giữ
vững” nếu muốn cuối cùng mình sẽ được lên Thiên đàng. Xin ông vui lòng
giải thích câu Kinh Thánh đó.
Câu Kinh Thánh ấy phải đựơc giải nghĩa trong văn mạch của nó. RoRm 2:1-
16 kể ra bốn nguyên tắc để phán xét: 1. Theo lẽ thật (c.2); 2. Theo việc làm:
ai bền lòng làm lành v.v... (c.6,7); 3. Đức Chúa Trời chẳng tây vị ai (c.11);
và 4. Theo Tin Lành tôi (c.16). Theo ba nguyên tắc đầu, thì sẽ không một tội
nhân nào được chút hi vọng gì; nhưng theo nguyên tắc thứ tư, thì bất cứ ai
chịu ẩn mình dưới giòng huyết đã đổ ra của Con Đức Chúa Trời, thì được
bảo đảm là có hi vọng. Nói khác đi, khúc Kinh Thánh trên không có chút
liên hệ nào với bài giảng của Mục sư cả. Sự an toàn đời đời của người tin
Chúa được đặt nền trên Lời Đức Chúa Trời, và bất cứ ai đã hiểu rõ nguyên
tắc về sự cứu rỗi bởi đức tin, thì không còn gì để thắc mắc nữa.

Sự an toàn đời đời


Người đã được sanh lại có thể bị chết mất không? Người đã thật sự được tái
sanh, thì không có thể bị hư mất được (GiGa 10:27-30).

Đã được cứu là được cứu vĩnh viễn.


Trong một lớp học Kinh thánh nọ, giáo viên bảo rằng một khi đã được cứu,
thì người ta sẽ được cứu vĩnh viễn. ông trích dẫn những câu Kinh Thánh
khiến tôi hết sức hài lòng. Tôi là một sinh viên cao đẳng và muốn cho một
số bạn thân thấy rõ vấn đề như tôi đã thấy. Xin ông vui lòng gởi cho tôi một
số câu trong Kinh Thánh và một số lý luận để chứng minh cho quan điểm
ấy.
Về chủ đề này, cần nhớ:
Sự cứu rỗi là một sự ban cho.
Chúng ta chỉ nhận được nó bởi đức tin mà thôi. Người ta không thể làm bất
cứ việc gì để tự cứu hay giữ mình trong tình trạng được cứu. Nếu người ta
có thể làm được gì, thì sự cứu rỗi sẽ một phần là do việc làm, là điều mà
Kinh Thánh phủ nhận biết sức rõ ràng.
Sự cứu rỗi là do ân điển, hoàn toàn độc lập đối với bất kỳ công đức nào của
người tiếp nhận ân điển ấy. Nếu nhờ một chút công lao nào người ta mới
đựơc cứu, thì sự cứu rỗi sẽ không còn là do ân điển nữa.
Khi một người tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa cho riêng
mình, thì người ấy đựơc Đức Chúa Trời sanh ra và trở thành con Đức Chúa
Trời. Đây không phải là một cách nói, nhưng là một sự thật, và đã được sanh
ra rồi, thì người ấy không thể như là chưa được sanh ra.
Đời sống mà người tin Chúa nhận được là sự sống đời đời.
Đức Chúa Trời nhận rằng người tin Chúa đã cùng được ngự ngôi với Đấng
Christ trên Thiên đàng.
Xem RoRm 6:23; 8:29-39; GiGa 1:12, 13; 8:15, 16, 18, 36; 5:24; 6:39, 40
10:27-30; Cong Cv 10:43; 16:31; RoRm 1:16; 3:21-26; 4:1-25; 10:8-10;
GaGl 3:1-29; Eph Ep 2:1-10; CoCl 3:1-4; IPhi 1Pr 1:3-5; IGi1Ga 5:1-13
v.v... Ngoài các khúc Kinh Thánh kể trên, còn có vô số câu Kinh Thánh
khác nữa.

Người sa ngã có bị chết mất không.


Có người dạy rằng trong ẩn dụ về người Con Trai Hoang Đàng, cả người
con hoang đàng lẫn người anh cả đều đựơc cứu. Nếu được cứu thì họ cũng
được an toàn. Theo ông, thì phải chăng khi người con trai ấy bỏ nhà ra đi mà
bị chết, thì người ấy cũng được lên thiên đàng? Vậy thì người sa ngã lâm
vào một hoàn cảnh như thế nào? Dường như HeDt 10:29 ngụ ý trái hẳn? Tôi
vẫn cho rằng bài học rút tỉa từ câu chuyện người Con Trai Hoang Đàng là sự
tha thứ của Đức Chúa Trời.
Điều bạn giả dụ đó là đúng. Nhưng “sự tha thứ của Đức Chúa Trời” vốn có
nhiều phương diện. Chẳng hạn một tội nhân trở về với Đức Chúa Trời thì
được tha tội; một thánh đồ phạm tội ăn năn thì cũng được phục hồi sự thông
công với Ngài. Trong câu hỏi của bạn về ẩn dụ Người Con Trai Hoang
Đàng, bạn đã lẫn lộn phần biểu tượng với điều được biểu tượng. Ý bạn
muốn nói là “phải chăng cả hai người được dùng làm biểu tượng đều đã
được cứu, và họ đều là những người bị sa ngã?” Nghĩa là họ đều là con trai
của người Cha và bị mất thông công. Rồi bạn lại hỏi: “Giả sử người con trai
hoang đàng chết lúc đang bỏ nhà ra đi như vậy, thì người ấy sẽ được vào
thiên đàng không?” Bạn muốn hỏi rằng một Cơ Đốc nhân sa ngã (mà người
con trai hoang đàng là biểu tượng) và chết trong thời gian sa ngã đó, thì
được lên thiên đàng không? Câu trả lời sẽ là: Có. Vì một Cơ Đốc nhân sa
ngã vẫn còn là Cơ Đốc nhân, vẫn còn là một con cái Đức Chúa Trời, tuy
người ấy đã bị mất thông công. ICo1Cr 11:1-33 đã cung ứng một trường hợp
như vậy. Ở phần cuối chương ấy, có cuộc thảo luận về tình trạng lộn xộn khi
Hội Thánh Cô-rinh-tô dự Tiệc thánh. Sự việc đã trở thành trầm trọng đến nỗi
Đức Chúa Trời phải áp dụng kỷ luật, Ngài dùng bệnh tật để sửa trị họ, thậm
chí cũng dùng cả đến cái chết nữa. Như thế có nghĩa là họ vốn đang sa ngã
và đã chết đang khi sa ngã. Thế nhưng họ vẫn được lên thiên đàng như mấy
câu 30-32 đã vạch rõ: “Ấy vì cớ đó mà trong anh em có nhiều kẻ tật nguyền,
đau ốm và có lắm kẻ ngủ. Nếu chúng ta biết xét đoán lấy mình, thì khỏi bị
xét đoán. Song khi chúng ta bị Chúa xét đoán, thì bị Ngài sửa phạt, hầu cho
khỏi bị án làm một với người thế gian”. Sa ngã thì sẽ bị thiệt hại vô cùng.
Nhưng sự cứu rỗi là một ân ban, một quà tặng không do chính người được
cứu nắm giữ bảo vệ. Chính Đức Chúa Trời đã cứu họ sẽ gìn giữ, bảo vệ
những người mà Ngài đã cứu rỗi.
HeDt 10:29 không ứng dụng cho người đã được cứu. Câu 26 đề cập đến
những kẻ “cố ý phạm tội” sau khi đã “nhận biết lẽ thật” (chớ không phải là
đã được cứu). Nhiều người vốn biết rõ chân lý, nhưng vẫn khước từ bước đi
theo chân lý. Họ biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa, nhưng chối bỏ Ngài. Trong
câu 29, họ được mô tả là “kẻ giày đạp Con Đức Chúa Trời, coi huyết của
giao ước, tức là huyết mà mình nhờ nên thánh, là ô uế, lại khinh lờn Đức
Thánh Linh ban ơn”. Đây không phải là một Cơ Đốc nhân sa ngã, nhưng là
một kẻ vô tín, chống trả và phỉ báng Đức Chúa Trời.
Tất cả những lẫn lộn trong vấn đề này đều sẽ tiêu tan một khi chúng ta đã
nắm vững được rằng sự cứu rỗi là nhờ ân điển. Ân điển là đặc ân, không do
công đức mà có, không do việc là mà được; đó là “sự ban cho của Đức Chúa
Trời”.

Khó lòng xác định.


Theo Gia Gc 5:19, 20 phải chăng “người lầm lạc cách xa lẽ thật” là người sa
ngã và được cứu khỏi cái chết do sự ngã đó?
Cũng như thư Hê-bơ-rơ, thư Gia-cơ vốn đựơc gởi cho “mười hai chi phái ở
tan lạc”, mà các trước giả đặc biệt nghĩ đến người Do Thái khi viết thư. Thật
là khó xác định các “anh em” trong 5:19 là “anh em” của trước giả về
phương diện chủng tộc (người Do Thái) hay theo ý nghĩa là anh em theo Tin
Lành. Nhiều tác giả chú giải Kinh Thánh đã bất đồng ý kiến với nhau trong
vấn đề đây là những Cơ Đốc nhân sa ngã hay là những tội nhân bị hư mất.
Trong cả hai trường hợp, khúc Kinh Thánh này đều có phần tối nghĩa, nên
chúng ta phải ứng dụng định luật: “Đừng bao giờ dùng chữ 'nếu' để nói
ngược lại câu 'Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi'”. Ở nhiều chỗ khác
trong Kinh Thánh chúng ta đã thấy rõ rằng người thánh đồ sa ngã có thể bị
sửa phạt, thậm chí đến nỗi phải chết phần thân thể (ICo1Cr 11:30-32. Mặt
khác, Kinh Thánh cũng vạch rõ rằng một tội nhân chưa được cứu, nếu vẫn
không được cứu rỗi, thì cuối cùng phải bị quăng vào Hồ Lửa, đó là Sự chết
thứ hai (KhKh 20:15, 21:8).

Sự tha tội.
Muốn được tha tội, một Cơ Đốc nhân sa ngã hay lỡ phạm một tội nào đó
phải công khai xưng tội ấy ra trước Hội Thánh, hay có thể âm thầm đến với
Đức Chúa Trời và xưng tội ấy riêng với Ngài mà thôi? Tôi mới nghe một
ông mục sư nói rằng nếu không xưng tội cách công khai, thì sẽ bị trừng phạt
hết sức nặng nề.
Việc này tuỳ thuộc phần lớn vào tính cách của tội đã phạm, hay sự sa ngã.
Nếu tội phạm đến Hội Thánh, thì việc xưng tội cả với Hội Thánh lẫn với
Đức Chúa Trời. Nếu tội phạm với một thực hiện với một hoặc nhiều cá nhân
đó. Sự xưng tội trong IGi1Ga 1:9 là xưng tội với Đức Chúa Trời; còn trong
Gia Gc 5:16 thì chép: “Hãy xưng tội cùng nhau”.

Sự an toàn đời đời và sự sa ngã.


Phải chăng giáo lý (hay giáo thuyết) về sự an toàn đời đời ngụ ý rằng Cơ
Đốc nhân không thể sa ngã?
Không; không hề có sự hàm ý như vậy. Cơ Đốc hân (nghĩa là người đã thật
sự được tái sanh) có thể sa ngã, và thực tế, phần đông chúng ta đều sa ngã
hoặc ít hoặc nhiều! Nhưng có một chỗ khác nhau rất lớn giữa một tín hữu sa
ngã với một người chỉ tự xưng là có đạo, theo đạo, về sau lại bỏ đạo, bội
đạo. Kẻ bỏ đạo, bội đạo, được mô tả trong IGi1Ga 2:18, 19. Họ “từ giữa
chúng ta mà ra” nhưng đã tự chứng minh là “vốn chẳng thuộc về chúng ta”.

Tin quyết mình đã được sự sống đời đời.


Xin ông vui lòng giải thích câu “các ngươi... tưởng bởi đó được sự sống đời
đời” trong GiGa 5:39. Chữ mà tôi không rõ nghĩa, là chữ “tưởng”.
Nếu bạn đọc toàn văn khúc Kinh Tháh đó, bạn sẽ thấy mọi việc hết sức rõ
ràng. Chúa Giê-xu đang đối đáp với các kẻ thù của Ngài trong dân Do Thái,
là những kẻ đang tố cáo Ngài là lộng ngôn để tìm cách giết Ngài (c.18).
Ngài phán với chính những kẻ thù đó: “Các ngươi đã xem Kinh Thánh, vì
tưởng bởi đó được sự sống đời đời; ấy là Kinh Thánh làm chứng về ta vậy.
Các ngơưi không muốn đến cùng ta để được sự sống” (c.39,40). Người tin
Chúa được sự sống đời đời, thì chẳng có gì là không chắc chắn cả. Xin xem
6:37-40 để lòng được vui mừng vì chắc chắn rằng mình đã được sự sống đời
đời “Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta; kẻ đến cùng ta, thì ta không
bỏ ra ngoài đâu” (c.37). Hãy chú ý phần tiếp theo: “Vì ta từ trên trời xuống,
chẳng phải để làm theo ý ta nhưng làm theo ý Đấng đã sai ta đến. Vả, ý
muốn của Đấng đã sai ta đến, là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm
mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt. Đây là ý muốn của
Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; còn ta, ta sẽ
làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt”. Không có lời lẽ nào khiến chúng ta
thoả lòng hơn những lời lẽ quí báu đó của Chúa chúng ta, bảo đảm với
những người thuộc về Ngài rằng họ đã chiếm hữu được sự sống đời đời.

Sự an toàn đời đời của người tin Chúa.


Xin ông vui lòng cho biết về sự an toàn đời đời. Tôi tin vào sự an toàn đời
đời, nhưng tôi đã gặp nhiều người không tin như vậy.
Đây là vấn đề người đã thật sự được cứu có thể bị hư mất không. Giữa vòng
con cái Chúa có rất nhiều ý kiến tương phản nhau về vấn đề này. Nhưng với
người đã thật sự thấu hiểu Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời, thì không
còn nghi ngờ gì về sự an toàn đời đời của Cơ Đốc nhân. Không ai có thể
thuyết phục được người khác khi chỉ căn cứ vào những khúc Kinh Thánh
riêng rẽ, rời rạc. Đem hết hợp lại với nhau thì những câu Kinh Thánh liên hệ
đến vấn đề ấy hoàn toàn ăn khớp với nhau, và dạy rằng khi một người đã
được cứu bởi đức tin, nghĩa là đã được Đức Chúa Trời ban cho một đặc ân
mà người ấy không thể nhờ công đức gì để nhận đựơc; khi người đã lấy đức
tin tiếp nhận sự cứu rỗi mà người hoàn toàn không xứng đáng khi đến lúc
kết thúc cuộc đời trên đất, người đã không bị hụt mất sự vinh hiển của Đức
Chúa Trời; vì thế một người được cứu đến cuối cùng, ấy là nhờ quyền năng
của Đức Chúa Trời, chớ không nhờ bất cứ công đức cá nhân hay sự xứng
đáng riêng nào.
Giả sử giờ đây chúng ta có thể nhìn tận mắt Chúa Giê-xu trong xác thịt bằng
chính đôi mắt trần tục của mình và được đặc ân hỏi Chúa thì chúng ta sẽ hỏi
rằng: “Lạy Chúa Giê-xu, đáng chúc tụng Đấng đã yêu chúng con và tẩy sạch
mọi tội lỗi chúng con trong huyết báu Ngài, xin hãy nói dứt khoát cho chúng
con biết chúng con có thể gặp cơ nguy bị mất linh hồn như một số giáo sư
dạy hay không? Có thể nào một người đã thật sự được tái sanh và trở thành
con cái Đức Chúa Trời, mà sau này, còn có thể bị hư mất hay không?” Và
giả sử Ngài sẽ trả lời rằng: “Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen biết nó, và nó
theo ta; ta ban cho nó sự sống đời đời” thì như vậy đã đủ chưa? Và giả sử
Ngài lại phán tiếp “Nó sẽ chẳng chết mất bao giờ”, thì đã đủ chưa? Và giả sử
Ngài lại tiếp tục bảo rằng: “Sẽ chẳng có ai cướp nổi nó khỏi tay ta. Cha ta là
Đấng ban nó cho ta vốn lớn hơn tất cả; sẽ chẳng có ai cướp nổi nó khỏi tay
Cha ta. Ta với Cha là một” thì bạn đã hài lòng chưa?
Thật vậy, Ngài đã từng ở trên đất này, và đã phán dạy mọi điều trên, như đã
được chép lại trong 10:27-30 và trong cả Kinh Thánh, không có ai một khi
đã được soi sáng để hiểu đúng toàn bản văn ấy, lại có thể tranh cãi gì được
về những lời khẳng định trên.
Tôi có người bạn, khi tranh luận với một người khác về giáo lý trên đã nói:
“Chắc anh còn nhớ con trai tôi, lúc hãy còn là một cậu bé con, đã cùng đi
với tôi trên một chiếc xuồng nhỏ. Trước đó, nó chưa hề thấy chiếc xuống
nên khi đựơc đi như vậy, nó rất thích thú, khi thấy mình lại được lướt nhanh
trên mặt nước như vậy. Nó không hề thấy trong giòng nước đó có gì là nguy
hiểm, và suốt chuyến đi, tôi luôn luôn cẩn thận nắm chặt tay nó, e nó phóng
ra khỏi xuồng mà bị chết chìm chăng!”
Người bạn đáp: “Phải, anh nói đúng. tôi đồng ý là không ai có thể cướp
chúng ta khỏi tay Đức Chúa Trời, nhưng nếu muốn chúng ta có thể tuột khỏi
tay Ngài và nhảy ra, như con trai anh có thể vùng vẫy trong xuồng rồi nhảy
xuống nước chớ?”
Tôi đáp: “Nhưng anh nên nhớ là tôi không lo giữ chiếc xuống, mà chỉ lo giữ
thằng bé; không cho nó vuột khỏi tay mình, dù nó có muốn làm như vậy.
Giả sử anh có cách để vuột khỏi tầm tay Đức Chúa Trời và anh muốn nhảy
ra, thì hậu quả sẽ ra sao? Anh sẽ chết mất chăng?”
“Chắc chắn là như vậy rồi”
“Nhưng anh không nhớ rằng Chúa chúng ta đã giải đáp đúng điểm đó hay
sao? Ngài phán “Nó sẽ chẳng chết mất bao giờ”
Người bạn gật gù: “Ồ, Ngài đã làm như thế, mà tôi lại không hề nghĩ ra. Nếu
thế thì thật là kỳ diệu biết bao! Chúa đã phán là tôi sẽ chẳng hề chết mất bao
giờ! Lời Chúa cất bỏ gánh nặng mà tôi đã mang suốt hai mươi năm nay”.

Đã được ân điển, thì sẽ luôn luôn sống trong ân điển.


Xin ông giải thích câu: “Một khi đã nhận được ân điển, thì người ta sẽ luôn
luôn sống trong ân điển. Cơ Đốc nhân có thể nhượn bộ đến mức naò mà vẫn
được an toàn, theo câu nói ấy? Nói cách khác, Cơ Đốc nhân có thể hành
động đến giới hạn nào để rồi sẽ ăn năng xưng tội và được tha thứ? Xin ông
chỉ rõ vấn đề này vì tôi e có người hiểu lầm câu nói trên chăng?
Mọi lầm lẫn về Sự An Toàn Đời Đời sẽ biến nếu bạn hiểu rõ ý nghĩa của ân
điển. Người ta được cứu là nhờ ân điển, bởi đức tin, chớ không phải bởi việc
làm. Chúng ta được cứu không phải vì tốt, hay bị hư mất cũng không phải vì
mình xấu xa. Người đã thực sự tái sanh thì được an toàn đời đời chắc chắn
vào thiên đàng như thể đã được ở đó từ vạn năm trước rồi vậy. Người có thể
phạm tội, vì tánh xác thịt của người không hề thay đổi, vẫn là bản tính hư
hoại như từ bao giờ, nên có thể làm nhiều điều xấu xa. Thí dụ như Đa-vít đã
phạm tội ngoại tình và sát nhân sau khi đã được cứu. Nhưng ông đã được tha
tội và nối lại mối thông công với Đức Chúa Trời sau khi đã ăn năn. Tuy
nhiên, do hậu quả của các tội ấy, ông đã gặp nhiều đau khổ, và mỗi con cái
Đức Chúa Trời đều phải gánh chịu hậu quả của các tội lỗi mình đã phạm.
Nếu một thánh đồ phạm tội mà không chịu xưng ra, tì Đức Chúa Trời sẽ có
biện pháp đối xử với người ấy. ICô 5, đã chép một thí dụ thuộc loại này. Có
người đã công khai sống với “vợ của cha mình” (c.1) - có lẽ là với mẹ kế của
anh ta. Bằng uy quyền của sứ đồ, Phao-lô đã khai trừ người ấy ra khỏi sự
thông công với Hội Thánh Cô-rinh-tô” và phó cho quỉ Sa-tan để huỷ hoại
phần xác thịt hầu cho linh hồn được cứu trong ngày của Đức Chúa Giê-xu”
(c.5). Sứ đồ Phao-lô truyền lệnh “Hãy trừ bỏ kẻ gian ác khỏi anh em” (c.13).
Theo IICô 2, biện pháp kỷ luật mạnh mẽ đó đã đưa người ấy đến sự ăn năn
và xưng tội: “Thà nay anh em tha thứ, yên ủi, hầu cho người khỏi bị sa ngã
vì sự buồn rầu quá lớn. Vậy tôi xin anh em hãy bày tỏ lòng yêu thương đối
với người đó... Nhưng anh em tha thứ ai, thì tôi cũng tha thứ. Vả nếu tôi đã
tha, là vì anh em mà tha, ở trước mặt Đấng Christ hầu đừng để quỉ Sa-tan
thắng hơn chúng ta, vì chúng ta chẳng phải là không biết mưu chước của nó”
(IICo 2Cr 2:7-11).
Vấn đề thường được nêu ra, là chuyện gì sẽ xảy ra nếu một Cơ Đốc nhân
phạm tội lại chết đi trước khi có dịp ăn năn xưng tội. May thay, chúng ta
cũng có câu trả lời cho vấn đề đó trong Kinh Thánh Tân Ước. các Cơ Đốc
nhân tại Cô-rinh-tô đã phạm tội trong khi dự Tiệc thánh. Vấn đề được thảo
luận trong ICo1Cr 11:17-34. Họ vẫn chưa chịu ăn năn xưng tội, một số
người đang bị đau yếu cũng có người đã chết dưới bàn tay sửa phạt của Đức
Chúa Trời. “Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh này, uống chén này, thì rao sự
chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến. Bởi đó, ai ăn bánh hoặc uống chén của
Chúa cách không xứng đáng, thì sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa. Vậy
mỗi người phải tự xét lấy mình, và như thế mới ăn bánh uống chén ấy; vì
người nào không phân biệt, thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn
uống sự xét đoán cho mình. Ấy vì cớ đó mà trong anh em có nhiều kẻ tật
nguyền, đau ốm và có lắm kẻ ngủ. Nếu chúng ta biết xét đoán lấy mình, thì
khỏi bị xét đoán. Song khi chúng ta bị Chúa xét đoán, thì bị Ngài sửa phạt,
hầu cho khỏi bị án làm một với người thế gian” (ICo1Cr 11:26-32). Như bạn
thấy đó, chỉ khi nào chúng ta không chịu tự xử, thì bàn tay sửa phạt của Đức
Chúa Trời mới xét đoán chúng ta “hầu cho khỏi bị án làm một với người thế
gian”. Vậy một con cái Đức Chúa Trời không thể bị định tội, tuy người ấy
có thể bị sửa phạt, cả đến bằng cái chết của thân thể.
Dung hoà các câu Kinh Thánh với nhau.
Ông giải nghĩa ICo1Cr 9:27 và HeDt 6:4-6 như thế nào để dung hoà với giáo
lý về sự an toàn của các thánh đồ (GiGa 10:28, 29)?
Ta không cần phải “dung hoà” các câu Kinh Thánh với nhau, vì Kinh Thánh
luôn luôn hoà hợp, mọi thành phần đều “ăn khớp” với nhau. Mấy khúc Kinh
Thánh mà bạn trích dẫn chẳng gây tổn hại gì cho giáo lý về sự an toàn đời
đời. Từ ngữ dịch là bị bỏ trong ICo1Cr 9:27 theo Hi-văn là adokimos. Cùng
một từ ngữ ấy trong ICo1Cr 9:27 là không đẹp lòng. Điều Phao-lô e sợ, là
những công tác phục vụ của ông không được Đức Chúa Trời đẹp lòng. Sự
cứu rỗi của ông không hề bị đem đặt thành vấn đề ở đây. Xin đối chiếu với
3:11-15; 11:31, 32.
Muốn hiểu lời dạy dỗ trong HeDt 6:4-6 cần phải nghiên cứu toàn bản văn.
Bắt đầu từ 5:10 Chúa Giê-xu đã được đề cập với tư cách “thầy tế lễ thượng
phẩm theo ban Mên-chi-xê-đéc về sự đó, chúng ta có nhiều điều nên nói, và
khó cắt nghĩa, vì anh em (người Hê-bơ-rơ) đã trở nên chậm hiểu. Đáng lẽ
anh em (người Hê-bơ-rơ) đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy
những điều sơ học của Lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em (người Hê-bơ-rơ);
anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc. Vả kẻ nào chỉ ăn sữa thôi, thì không
hiểu đạo công bình, vì còn là thơ ấu. Nhưng đồ ăn đặc là để cho kẻ thành
nhơn, cho kẻ hay dụng tâm tư luyện tập mà phân biệt điều lành và dữ”.
Rồi tới mấy câu mở đầu cho chương sáu, trong đó trước giả kêu gọi các ah
em ngời hê-bơ-rơ của ông vẫn chưa chịu tin nhận Đấng Christ tuy họ vốn
biết rõ về Ngài; ông nài khuyên họ hãy công khai xưng nhận Đấng Christ.
CựưUớc là cấp sơ học của họ, là lớp mẫu giáo, nơi họ được học hỏi các
nguyên tắc sơ khởi, những kiến thức sơ đẳng. Bây giờ đã đến lúc họ phải thi
để được lên lớp. Luật pháp là thầy giáo dẫn họ đến với Đấng Christ để đựơc
xưng công bình bởi đức tin (GaGl 3:24). Vậy ông viết thư cho họ, bảo rằng:
“Ấy vậy, chúng ta phải bỏ qua các điều sơ học về Tin Lành của Đấng Christ,
mà tấn tới trong sự trọn lành (cùng từ ngữ Hi-văn này, trong chương trước
đã được dịch là “kẻ thành nhân"); chớ nên lập nền lại nữa, tức là từ bỏ các
việc chết, tin Đức Chúa Trời, sự dạy về phép báp-tem, pháp đặt tay, sự kẻ
chết sống lại, sự phán xét đời đời”. Tất cả những giáo lý đó đều là của Cựu
ươc, kể cả phép báp-tem (đối chiếu với Mac Mc 7:3, 4 trong bản Hi-văn). Vị
sứ đồ đang khuyến giục người Hê-bơ-rơ hãy đến với Đấng Christ, mà tất cả
các giáo lý kể trên đều chỉ vẽ. “Ví bằng Đức Chúa Trời cho phép thì chúng
ta sẽ làm điều đó. Vì chưng những kẻ đã được soi sáng một lần (như người
Hê-bơ-rơ đã được), đã nếm sự ban cho từ trên trời, đã dự phần (nguyên văn:
làm bạn, cùng đi đường) về Đức Thánh Linh; nếm đạo lành Đức Chúa Trời
(qua mọi thời đại, do các nhà tiên tri), và quyền phép của đời sau (đó là các
phép lạ họ từng chứng kiến) nếu lại vấp ngã, thì không thể khiến họ lại ăn
năn nữa, vì họ đóng đinh Con Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình một
lần nữa, làm cho Ngài sỉ nhục tỏ tường”.
Ở đây, không hề nói gì tới người được tái sanh bị mất sự cứu rỗi. Nếu có đề
cập đến trường hợp như thế, thì sẽ chứng minh rằng một người đã bị mất sự
cứu rỗi, sẽ không thể nào lại được cứu “Thì không thể (không phải là khó,
không phải có lẽ sẽ không xảy ra, mà bèn là không thể)... khiến họ lại ăn năn
nữa. Điều đó đã quá rõ ràng cho những ai muốn đem khúc sách này đặt bên
cạnh giáo lý về sự an toàn đời đời. Nhưng khi đem ứng dụng cho người Hê-
bơ-rơ đặc biệt là cho người Hê-bơ-rơ vào thời mà thư tín ấy được viết ra thì
khúc Kinh Thánh này trở thành hết sức rõ ràng. Nó dạy rằng không ai có thể
được cứu rỗi, trừ phi người ấy tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ và ẩn mình
dưới giòng huyết mà Ngài đã đổ ra. Và điều này là chân lý muôn đời.

Nỗi e sợ của Phao-lô.


Xin vui lòng giải thích Phao-lô muốn nói gì khi ông “e rằng chính mình phải
bị bỏ?” (ICo1Cr 9:27).
Từ ngữ “bị bỏ” theo nguyên văn là adokimos nghĩa là “không đẹp lòng”.
Phao-lô đang đề cập đến việc ông phục vụ Chúa, chớ không hề nói về sự
cứu rỗi của chính mình (đối chiếu với ICo1Cr 3:11-15 và 11:31, 32).

Bền lòng cho đến cuối cùng.


Xin vui lòng giải thích Mat Mt 10:22; 24:13 và Mac Mc 13:13.
Trong tất cả các câu trên đây, Chúa chúng ta đều đã phán rằng: “Ai bền lòng
cho đến cuối cùng, thì sẽ được rỗi”. “Cuối cùng” trong các trường hợp trên
đều là một với sự “cuối cùng” khi cơn Đại Nạn kết thúc, ngay trước khi sự
phán xét hầu đến xảy ra. Điều này cũng đúng cả cho Mat Mt 10:22 như Tiến
sĩ Scofiedl đã nói: “Giới hạn của mấy câu 16-18 vượt quá thời gian thi hành
chức vụ cá nhân của mười hai sứ đồ theo nghĩa rộng, bao gồm cả phạm vi
phục vụ của kỷ nguyên này. Câu 23 chỉ việc truyền giảng cho số người còn
sót lại sau cơn Đại Nạn và ngay trước khi Đấng Christ tái lâm trong vinh
quang. Bấy giờ, số người còn sót lại vẫn chưa đi khắp các thành phố Y-sơ-
ra-ên, thì Chúa đã đến” Câu “hãy bền lòng cho đến cuối cùng” là một lời
khích lệ những người làm chứng cho Chúa hãy vững vàng chịu khổ trong
ngày thử thách khủng khiếp đó.
“Các ngươi...tưởng”
Chữ “tưởng” trong GiGa 5:39 có nghĩa gì? Phải chăng chúng ta là những kẻ
đã tin Chúa, thì BIẾT là mình đã được cứu?
Dĩ nhiên là chúng ta biết, và phải biết chắc chắn nữa. Hãy đọc từ câu 3-40:
“Chính Cha, là Đấng đã sai ta cũng làm chứng về ta. Các ngươi chưa hề
nghe tiếng Ngài chưa hề thấy mặt Ngài, và đạo Ngài không ở trong các
ngươi, vì các ngươi không tin Đấng mà Ngài đã sai đến. Các ngươi dò xem
Kinh Thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời; ấy là Kinh Thánh đã làm
chứng về ta vậy. Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống”.
Thư tín thứ nhất của Giăng đã được viết ra “hầu cho các con biết mình có sự
sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời” (IGi1Ga 5:13).

Sự sửa phạt và sự an toàn đời đời.


Khi có dịp tiện, xin ông giải thích Exe Ed 3:17-21 nhất là phần cuối của câu
19 và câu 20,21. Mấy câu ấy có thể ứng dụng cho Hội Thánh không? Có
phải câu đó dạy rằng vì không cảnh cáo người chưa được cứu, nên một
người đã tin Chúa có thể bị hư mất?
Khúc sách này, cũng như nhiều khúc nữa trong Cựu lẫn Tân Ước đều đề cập
đến sự sửa phạt chớ không phải sự sống đời đời. Cái chết đề cập ở đây
không phải là sự chết thuộc linh, nhưng là cái chết thân thể mà nhiều khi
Đức Chúa Trời có thể đưa đến cho người thuộc về Ngài để sửa phạt, vì cớ
tội lỗi của họ. Giáo lý này được vạch rõ trong ICo1Cr 11:27-32. Ở đây,
người thuộc về Đức Chúa Trời đã phạm tội khi dự Tiệc thánh và bị sửa phạt,
một số bị đau ốm, một số khác bị chết nữa. Những điều đó xảy ra là để họ
khỏi bị lên án làm một với người thế gian” (c.32) một tín hữu không thể bị
án (định tội, phán xét, đoán phạt), tuy có thể sa vào bàn tay sửa phạt của
Đức Chúa Trời, có khi phải chết phần thân thể.

Làm nên sự cứu chuộc mình.


Xin giải thích Phi Pl 2:12. Chúng ta có thể làm gì để làm nên sự cứu chuộc
mình? Khúc sách này có tương phản với phần tư tưởng trong câu 6 chương 1
không?
Trong 1:6 vị sứ đồ viết: “Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong
anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Giê-xu Christ”. Bạn
nhầm lẫn là lẽ tự nhiên nếu bạn nghĩ rằng “sự cứu chuộc” trong 2:12 chỉ về
sự an vui đời đời của người tín hữu. Không thể có ám chỉ như vậy nếu bạn
nhớ rằng Thư tín này vốn được gởi cho số người đã được cứu, cho “các
thành đồ trong Đức Chúa Giê-xu Christ” (1:1). Rõ ràng là chữ “sự rỗi” trong
1:19 chỉ về hy vọng của Phao-lô mong được giải cứu khỏi nhà tù để được
phép đi thăm các bạn người Phi-líp của ông (đối chiếu với toàn văn, nhất là
1:25, 26). Thay vì dịch là “sự cứu chuộc” nếu chữ này được dịch là “sự giải
cứu” hay “giải thoát” thì rõ nghĩa hơn, tuy cả hai cách dịch đều có nghĩa là
tạm thời hay vĩnh viễn. Tôi tin quyết rằng trong Phi Pl 2:12, chữ này có
nghĩa là sự giải cứu tạm thời. Hội Thánh Phi-líp đang rất cần đến Phao-lô và
cảm thấy không làm gì được trong việc giải quyết mọi nan đề. Họ đã nhờ
Ép-ba-phô-đích, khi đến La Mã để thăm vị sứ đồ, hãy yêu cầu ông giúp đỡ
họ. Khi viết thư phúc đáp, vị sứ đồ nhắc cho người Phi-líp nhớ rằng Đức
Chúa Trời vẫn hiện diện giữa họ; Ngài có thể giải quyết các khó khăn của họ
khi Phao-lô vắng mặt cũng như khi ông có mặt. Vậy, họ nên tự giải bằng
thái độ sợ hãi, run rẩy, vì tuy Phao-lô không có tại đó với họ, nhưng Đức
Chúa Trời vẫn hiện diện, đang ngự giữa vòng họ, cùng làm việc giữa họ để
họ vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài. Cách giải nghĩa này phù hợp với toàn
bản văn.

Được cứu và được an toàn.


Nếu một người đã được cứu không thể bị hư mất, thì hững câu trong LuLc
9:62; HeDt 3:12-14; 6:4-6; 10:26-39; 12:15; IPhi 1Pr 5:8; IIPhi 2Pr 2:20,
3:17 và KhKh 22:19 có nghĩa gì?
LuLc 9:62 chẳng có liên hệ gì với giáo ý này. Không có dấu chỉ nào cho
thấy người được Chúa Giê-xu nói chuyện ở đây đã được tái sanh. HeDt
3:12-14 là một lời cảnh cáo chống lại kẻ không tin (c.19). Cũng như các
khúc có tính cách khuyên nài khác trong thư Hê-bơ-rơ , khúc sách này nhằm
vào người Hê-bơ-rơ nhất là số người vẫn đinh ninh rằng họ có thể nhờ vào
Do Thái giáo để được cứu mà không cần tin vào lời chứng của Đức Chúa
Trời về Con Ngài. Những điều đề cập trong 6:4-6 không phải là những điều
“theo sau sự cứu rỗi” (xem câu 9). Mấy chữ “tế lễ chuộc tội” trong 10:26
phải được hiểu là “của lễ để chuộc tội theo Do Thái giáo”. Người Hê-bơ-rơ
được cảnh cáo là đừng tưởng rằng của lễ chuộc tội dâng lên trong đền thờ
vẫn còn giá trị, bởi vì giờ đây Con Đức Chúa Trời đã bị vì họ mà dâng chính
mình Ngài lên làm của lễ chuộc tội rồi, nếu họ cứ cố ý phạm tội chối bỏ
Ngài, thì họ sẽ hư mất mà thôi. 12:15 cũng vậy: đừng có ai tưởng rằng còn
có phương pháp nào khác để được cứu rỗi ngoài ân điển của Đức Chúa
Trời”. IPhi 1Pr 5:8 là một lời cảnh cáo chớ nhượng bộ Sa-tan và không liên
hệ gì đến vấn đề chúng ta đang thảo luận. IIPhi 2Pr 2:20, 21 phải được đọc
chung với câu 22. các giáo sư ấy có thể có bề ngoài giống con chiên, nhưng
thật ra, họ là loài chó, heo, cần được tái sanh mới có được bản tính của
chiên. Biết con đường công chính vẫn chưa đủ; sự cứu rỗi chỉ dành cho
những người không “lui đi về lời răn thánh đã truyền cho mình”, tức là tin
Đức Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời (GiGa 3:18) IIPhi 2Pr 3:17
là lời khuyến giục hãy đứng vững; không hề ngụ ý rằng một con cái Đức
Chúa Trời có thể gặp cơ nguy bị hư mất. KhKh 22:19 không hề ngụ ý rằng
một con cái Đức Chúa Trời sẽ làm hoặc có thể phạm vào điều đã bị cấm
đoán. Nếu bạn muốn biết chân lý về sự an toàn của người tín hữu, hãy tìm
đọc những khúc Kinh Thánh trong đó giáo lý ấy đã thật sự được đưa ra để
thảo luận chẳng hạn như GiGa 10:27-30. Người đã được cứu thì được an
toàn đời đời.
Gốc nho và nhánh.
Xin giải thích 15:2, 6 “Hễ nhánh nào trong ta mà không kết quả, thì Ngài
chặt hết... Nếu ai chẳng cứ ở trong ta, thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh
nho, nhánh khô đi, người ta lượm lấy, quăng vào lửa, thì nó cháy”.
Khúc Kinh Thánh mà bạn trích dẫn xưa nay vẫn là chỗ khó hiểu cho người
nghiên cứu Lời Chúa và là kúc sách mà các nhà chủ giải Kinh Thánh theo
trường phái Ạt-mê-ni vẫn dùng để nhấn mạnh rằng một người đã thật sự
được cứu, có thể bị hư mất. Mặt khác, những người theo trường phái Calvin
cũng rất bối rối về khúc sách đó, khiến giữa họ có bất đồng ý kiến với nhau.
Giả sử cho rằng mấy câu đó dạy là dầu sao, một người đã thật sự tái sanh
cũng có thể bị hư mất, thì chúng ta sẽ giải quyết thế nào với cả một cơ cấu
càng quan trọng hơn nhiều trong Kinh Thánh đã dạy ngược lại? Không hề có
lời tiên tri nào trong Kinh Thánh có thể tự nó (by-itself) giải nghĩa được
(IIPhi 2Pr 1:20). Chúng ta không thể giải thích một khúc Kinh Thánh đơn
độc theo chiều hướng ngược lại toàn bộ Kinh điển, đã đề cập đến cùng một
vấn đề đó ở nhiều chỗ khác nhau.
Chẳng hạn chúng ta chẳng có thể nghi ngờ ý nghĩa rõ ràng của lời Chúa đã
phán trong GiGa 10:27-30. Ngài tuyên bố rằng chiên Ngài đã được sự sống
đời đời và chúng sẽ “chẳng bị chết mất bao giờ”.
Hơn nữa, toàn thể cơ cấu của Tin Lành đã được lập nền trên giáo lý về ân
điển, và ơn cho không mà chúng ta không hề xứng đáng, do đó tất cả ý nghĩ
về sự cứu rỗi bởi việc làm đã bị loại trừ hoàn toàn. Nếu một tín hữu lỡ phạm
tội - mà tín hữu nào lại không phạm tội? - thì người ấy bị mất thông công
với Đức Chúa Trời, gián đoạn tương giao với Chúa, nhưng sự cứu rỗi của
người không hề bị tổn hại; và người được phục hồi thông công với Đức
Chúa Trời không do việc “được cứu một lần nữa”, mà chỉ do xưng tội”.
Nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho
chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (IGi1Ga 1:9). Nhưng
sẽ có gì xảy ra nếu người phạm tội không chịu xưng nhận tội mình? Câu trả
lời ở trong ICo1Cr 11:31-32 “Nếu chúng ta biết xét đoán lấy mình, thì khỏi
bị xét đoán. Song khi chúng ta bị Chúa xét đoán, thì bị Ngài sửa phạt, hầu
cho khỏi bị án làm một với người thế gian”. Sự sửa phạt này có thể mạc lấy
hình thức là yếu sức, bịnh tật, có khi là cả cái chết nữa, như văn mạch cho
thấy, nhưng đó là sự sửa phạt chớ không phải bị kết án, định tội “Phàm kẻ
Ngài yêu, thì Ngài sửa phạt” nhưng người tin Chúa không thể bị kết án hay
định tội (GiGa 5:24; RoRm 8:1; HeDt 12:6).
Mặt khác, chúng ta phải nói thế naò về câu “Hễ nhánh nào trong ta mà
không kết quả, thì Ngài chặt hết”. Một số tác giả bảo với chúng ta rằng việc
chặt hết đó là hậu quả của sự sửa phạt như trong ICo1Cr 11:30 “lắm kẻ
ngủ”, nghĩa là nhiều Cơ Đốc nhân tại Cô-rinh-tô đã phải chết đi vì không
chịu xưng tội “Với tư cách là nhánh, họ bị chặt, nhưng không bị chết mất”.
Đây là cách giải thích có thể chấp nhận, nếu không có những lời khủng
khiếp trong câu 6 “Người ta lượm lấy, quăng vào lửa, thì nó cháy.
Nhiều tác giả khác bảo rằng số nhánh bị chặt đó vốn không phải là những
nhánh của cây nho, nhưng chỉ có vẻ bề ngoài mà thôi; đó là số người tự
xưng là Cơ Đốc nhân. Chẳng hạn như Dean Alford bảo rằng “họ là thuộc
viên của Hội Thánh do phép báp-tem”, gốc nho là Hội Thánh hữu hình trên
đất này mà Đấng Christ là cái Đầu gắn liền vào đó; gốc nho có nhiều nhánh,
các nhánh kết quả lẫn không kết quả đều ở “trong ta” nghĩa là trong Đấng
Christ. Lối giải thích này khó làm cho chúng ta hài lòng khi nhớ rằng những
lời lẽ ở đây vốn từ chính môi miệng Chúa chúng ta phán ra, Ngài vốn không
nói như những người khác, mà tất cả những gì Ngài phán ra đều là những lời
thuần khiết.
Nhiều tác giả khác nữa lại bảo rằng các nhánh không kết quả là dân Y-sơ-ra-
ên, vốn được Rôm 11 mô tả là các nhánh tự nhiên bị chặt khỏi gốc ô-li-ve
tốt. Nhưng cách giải thích này cũng không đứng vững vì việc chặt bỏ ấy về
phương diện chế độ, vốn có tính cách quốc gia, dân tộc, chớ không có tính
cách cá nhân. Dân Y-sơ-ra-ên với tư cách một quốc gia, một dân tộc, đã bị
chặt bỏ; tạm thời “một phần dân Y-sơ-ra-ên bị làm cho cứng lòng (mù
quáng) cho đến chừng nào số dân ngoại ngập vào đựơc đầy đủ” (RoRm
11:25-27). Nhưng bất kỳ người Do Thái nào tin nhận Chúa Giê-xu Christ,
vẫn được xem là ngang hàng với các tín hữu khác”. Đức Chúa Trời chẳng từ
bỏ dân Ngài đã biết trước” (RoRm 11:2).
Nhiều tác giả khác nữa lại bảo rằng ở đây, chúng ta có một ẩn dụ về việc
phục vụ Chúa và không nên lý giải liên hệ đến sự cứu rỗi. Các tác giả ấy
nhấn mạnh chữ “cũng như nhánh nho” trong câu 6 vào bảo rằng một người
có thể bị vứt bỏ như một nhánh cây, nghĩa là bị từ chối không được dùng
như một tôi tớ, nhưng vẫn không bị tổn hại gì về phương diện cứu. Nhưng
đã không có câu nào bảo rằng đây là một ẩn dụ về vấn đề phục vụ; cả đề tài
là vấn đề kết quả; mà giữa phục vụ và kết quả thì có chỗ khác nhau rất lớn,
tuy không ai phủ nhận được mối liên hệ giữa cả hai. Các tín hữu vốn được
“dựng nên trong Đức Chúa Giê-xu Christ để làm việc lành” (Eph Ep 2:10)
và đó là sự phục vụ; còn trái thì không do việc làm “Trái của Đức Thánh
Linh ấy là tình yêu thương, sự vui mừng, bình an. v.v... (GaGl 5:22, 23). Đó
không là những điều mà Cơ Đốc nhân được kêu gọi để làm, cũng không
phải là những điều họ có thể làm được. Đó là kết quả của sự đầu phục, chớ
không phải của việc làm.
Vấn đề này sẽ được rõ thêm nếu khảo xét trong phạm vi bao quát của công
tác cứu chuộc của chúng ta. Theo một ý nghĩa, thì Đấng Christ, nhờ công lao
trên Thập tự giá đã truất phế A-đam khỏi địa vị làm đầu nhân loại. Đức
Chúa Trời thừa nhận rằng Đấng Christ đã chịu chết vì mọi người, và trong
Ngài, mọi người đều chết. Mục đích của sự chết Ngài là “hầu cho những kẻ
còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và
sống lại cho mình” (IICo 2Cr 5:15). Đây là ý nghĩa thật sự của những lời lẽ
sâu nhiệm mà Chúa chúng ta đã phán trong GiGa 12:32 “Còn ta, khi ta được
treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta. Ngài phán vậy để chỉ
mình phải chết cách nào”. Bị treo trên thập tự giá Ngài đã kéo mọi người
đến với Ngài, và chịu chết thay cho họ.
Theo nghĩa bao quát đó, thì cả chủng tộc loài người đã đựơc nhìn nhận là ở
trong Ngài. ICo1Cr 15:22 chép: “Như trong A-đam mọi người đều chết, thì
cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ, mọi người đều sẽ sống lại” Và điều này
không chỉ gồm số người đựơc cứu, được “khiến sống lại không hay hư nát”
(c.52), mà gồm cả “những kẻ chết khác” cũng đựơc khiến sống lại để nhận
lấy số phận đời đời đ4 dành cho họ (KhKh 20:5, 12-15). Do tội lỗi của A-
đam “mà sự đoán phạt rải kheắp hết thảy mọi người thể nào, tih2 bởi chỉ một
việc công bình mà sự công bình là ban sự sống, cùng rải khắp cho mọi người
thể ấy” (RoRm 5:18, 19).
Không phải tất cả mọi người đều được cứu, nhưng sự chết đền tội của Chúa
Giê-xu không thể bị giới hạn để chỉ có hiệu quả trên các tín hữu mà thôi.
Tuy Kinh Thánh không dạy về sự cứu rỗi phổ quát, nhưng chắc chắn là có
dạy về sự chuộc tội phổ quát. Đấng Christ là “Chiên Con của Đức Chúa Trời
là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (GiGa 1:29). Lúc Ngài chịu chết trên thập tự
giá, thì chủ đích của Đức Chúa Trời là “bởi ân điển của Ngài, Đức Chúa
Giê-xu đã vì mọi người nếm sự chết” (HeDt 2:9). Ngài là “Cứu Chúa của
mọi người, mà nhất là của tín đồ” (ITi1Tm 4:10) “Ai tin” thì được cứu, “ai
không tin” thì bị chết mất; nhưng điều rất thật, ấy là những kẻ bị chết mất
vẫn có một Cứu Chúa, vì Ngài “là Cứu Chúa của mọi người”. Ngài quả thật
là: “của lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu,
mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nữa” (IGi1Ga 2:2).
Khi giảng về GiGa 15:2 ông Spurgeon nói: “Cả hai người được mô tả trong
bản văn đều ở trong Đấng Christ, trong Đấng Christ theo nghĩa khác nhau là
điều rõ ràng, vì những người thuộc hạng thứ nhất đã không ở trong Đấng
Christ có kết quả. Hậu quả là như người ta căn cứ vào quả để phê phán một
người như thế nào, họ đã ở trong Đấng Christ một cách có hiệu quả, có ơn,
có sức lực để có thể nhận được chất nhựa hầu kết quả. Nếu họ kết quả, thì
kết quả đó là dấu hiệu họ đã ở trong Đấng Christ, và đã được cứu. Có ai dám
liều lĩnh gọi một người không kết quả cho sự công chính là một Cơ Đốc
nhân chân chính? Thế nhưng họ đều ở trong Đấng Christ theo nghĩa này
hoặc theo nghĩa kia”. Rồi ông tiếp tục bày tỏ ý kiến rằng nhánh nho bị vứt
bỏ kia vốn chỉ ở trong Đấng Christ do sự tự xưng bế ngoài mà thôi. Họ vốn
có quyến tự xưng mình “ở trong Đấng Christ theo một ý nghĩa nào đó,
nhưng địa vị chính xác của người ấy vốn không được rõ ràng. Hengstenberg
đã nhận định rất hay rằng “Các nhánh không kết quả được đề cập như ở
trong Đấng Christ là gốc nho, nhưng chính họ cũng như người khác đều
không nghĩ như vậy”.
Hãy lấy thí dụ về các con trẻ. Mọi người chúng ta đều tin rằng trẻ con “chưa
đến tuổi hiểu biết” dẫu là con cái của ai đều được cứu (còn khi chúng đã đến
tuổi hiểu biết thì chỉ có Đức Chúa Trời biết) Nhưng tại sao chúng lại được
cứu? Chắc chắn không phải vì chúng vốn thánh thiện vì thật ra, chúng không
thiện hảo, tốt lành. Chúng đều có tội và “theo bản tính, đều là con cái của sự
thạnh nộ”, thế nhưng chúng được cứu vì được bao gồm trong công lao cứu
chuộc của Đấng Christ trên thập tự giá. Ngài đã chịu chết thay cho chúng vì
đã chịu chết thay cho mọi người, và chúng được an toàn trong huyết Ngài
cho đến khi chúng phải chịu trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời về
phương diện đạo đức. Khi đã đến “tuổi hiểu biết” mỗi cá nhân phải đích thân
tin nhận Chúa Giê-xu Christ, nếu không, sẽ bị chết mất. Nếu đứa trẻ tin nhận
Chúa Giê-xu Christ, nếu không sẽ bị chết mất. Nếu đứa trẻ tin Chúa, nó tự
ẩn thân nơi Đấng Christ, được sanh lại được sự sống đời đời và sẽ không bị
chết mất bao giờ. Nếu trái lại, nó chối bỏ Cứu Chúa, nó sẽ bị “ném ra ngoài
như nhánh nho và nhánh khô đi”. Nếu nó cứ tiếp tục chối bỏ và cho đến cuối
cùng, vẫn chối bỏ Đấng Christ, thì nó sẽ bị ném vào lửa và bị cháy.
Có người nhấn mạnh rằng người tín đồ luôn luôn còn ý chí tự do để chối bỏ
đạo, y như người ấy vốn được tự do tiếp nhận hay khước từ sự cứu rỗi ngay
từ lúc đầu. Nhưng lý luận như vậy là sai. Một con cái Đức Chúa Trời không
thể còn ý chí tự do, để thôi không làm con cái Đức Chúa Trời nữa, cũng như
một đứa con không thể chối bỏ mối liên hệ với chính Cha mình. Một con cái
Đức Chúa Trời có thể là một đứa con không vâng lời, nhưng vẫn còn là con,
và vì sự không vâng lời đó, người ấy phải chịu trách nhiệm với người Cha
trung tín của mình để ông ta xử trí với anh như một người cha, chớ không
phải như với một đứa con ngoại tình (HeDt 12:6). “Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì
sự ban cho của Ngài không xiết kể”.

Sự xưng công bình.


Ai là “người công bình” trong LuLc 15:7?
Đó là những con người trong tưởng tượng, không có thật. Vì ngoài số người
được xưng công bình bởi đức tin, thì chẳng có người nào là công bình cả.
Nhưng những người Pha-ri-si và thầy thông giáo trong câu 2 tự nghĩ họ là
người công bình, không cần ăn năn tội lỗi. Ẩn dụ Con Chiên lạc của Chúa
chúng ta nhằm dạy họ điều trái ngược, và chứng minh cho họ thầy rằng
những người thâu thuế và tội nhân ở câu 1 mà họ cho là tuyệt vô hi vọng, sẽ
khiến cho cả thiên đàng mừng rỡ vì họ biết ăn năn, trong khi các cấp lãnh
đạo tôn giáo - là người Pha-ri-si và thầy thông giáo - lại trở thành số người
tuyệt vọng vì không chịu ăn năn.

Hai sự xưng công bình


Trong RoRm 3:26, Đức Chúa Trời tuyên bố rằng sự công bình của Ngài vốn
có giá trị trước mặt Ngài, và Ngài ban sự công bình đó, hay kể kẻ vô đạo là
công bình, nghĩa là “xưng công bình” cho họ (RoRm 4:5). Ông giải thích thế
nào để việc làm đó hoà hợp được 4:2-4 với Gia Gc 2:14, 21, 22, 24, 26
Hai khúc sách kể trên không hề “mâu thuẫn” với nhau. Phao-lô đang thảo
luận vấn đề tội nhân được xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời (RoRm
4:2), trong khi Gia-cơ đang bận tâm đến vấn đề xưng công bình người tín đồ
trước mặt người ta - mấy chữ “hãy chỉ cho ta” và “anh em biết” là những
chữ chìa khoá của ông (c.18 và 24). Đức Chúa Trời nhìn thấu trong lòng và
thấy đức tin trong đó, và đức tin được kể là công bình. Việc ấy xảy ra khi
chúng ta mới bắt đầu tin Chúa, và đó là sự công bình bởi đức tin. Chính sự
xưng công bình bởi đức tin đó đã cứu chúng ta mà “không cần việc làm”. Có
lẽ phải sau một thời gian khá lậu, chúng ta mới chứng minh được đức tin của
chúng ta trước mặt thiên hạ, để thấy rõ rằng chúng ta quả thật đã được tái
sanh. Quả thật là cả Phao-lô lẫn Gia-cơ đều trích dẫn Áp-ra-ham trong khi lý
luận, và cả hai đều dùng SaSt 15:6, nhưng Gia-cơ đã trích câu “người được
gọi là bạn Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời đã gọi Áp-ra-ham là bạn Ngài
trong EsIs 41:8, nhưng Giô-sa-phát cũng gọi Áp-ra-ham là bạn Đức Chúa
Trời trong ISu1Sb 20:7 Áp-ra-ham đã được xưng công bình cả trước mặt
Đức Chúa Trời lẫn trước mặt người ta.
Nhưng Phao-lô lại trích dẫn một câu Kinh Thánh khác. Ông đề cập SaSt
22:12. Từ khi Áp-ra-ham tin Chúa trong 15:1-21 cho đến lúc ông dâng Y-
sác trên bàn thờ trong 22:1-24, bốn mươi năm đã trải qua và suốt bốn mươi
năm đó, ông đã được cứu. Tóm lại, trong RoRm 4:1-25, Phao-lô nói về sự
cứu rỗi, còn Gia-cơ thì chú trọng vào sự làm chứng của chúng ta. Giữa hai
việc đó, không hề có “bất hoà hợp”. Chính Phao-lô ở một chỗ khác, đã
viết:"Trong Đức Chúa Giê-xu Christ, có giá trị, không phải tại chịu phép cắt
ì, nhưng tại đức tin hay làm ra bởi sự yêu thương vậy” (GaGl 5:6) hoặc một
chỗ khác nữa. “Lúc trước, anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên
người sáng láng trong Chúa” (Eph Ep 5:8).

Luật pháp và ân điển.


Mười Điều Răn
Mười điều răn có dành cho chế độ (ân điển) ngày nay không?
Không. Đó là một giao ước tạm thời, chỉ dành cho dân Y-sơ-ra-ên mà thôi,
và được “thêm vào (cho giao ước với Áp-ra-ham) cho đến khi dòng dõi
người nữ Đấng Christ) đến, là Đấng đã nhận được lời hứa”. Trước khi đức
tin (đạo ân điển của Đấng Christ) đến, dân Y-sơ-ra-ên bị cấm giữ dưới luật
pháp, bị nhốt trong đạo về đức tin sẽ được mạc khải về sau. Do đó, luật pháp
là “thầy giáo dẫn họ đến cùng Đấng Christ để “được xưng công bình bởi
đức tin”. Nhưng sau khi đức tin đã đến rồi “bản thân” họ không còn bị đặt
dưới quyền thầy giáo nữa (GaGl 3:19-25). Về phần người ngoại bang, họ
không hề có luật pháp (RoRm 2:14). Còn về các Cơ Đốc nhân thì “không ở
dưới luật pháp, nhưng ở dưới ân điển” (RoRm 6:14).
Không hoàn toàn đúng. Tân Ước tuyên bố rằng “Luật pháp không phải để
cho người công bình”, mà nếu bạn đã được xưng công bình bởi đức tin, thì
bạn đã là “người công bình”. Luật pháp trên núi Si-na-i không có ảnh hưởng
trực tiếp đến Cơ Đốc nhân, tuy đó là một phần Kinh điển được linh cảm, có
ích cho việc dạy người trong sự công bình (IITi 2Tm 3:16). Tuy nhiên, nó
không phải là luật pháp hay phương tiện cho đời sống tín đồ. Thật ra, người
ấy không hề tới núi Si-na-i (HeDt 12:18-24). Trong Đấng Christ luật pháp
đã bị “bãi bỏ” (IICo 2Cr 3:1-11) và lời hứa là “tội lỗi không còn cầm quyền
trên anh em nữa, bởi đanh em chẳng thuộc dưới luật pháp, mà thuộc dưới ân
điển” (RoRm 6:14). Luật pháp là một giao ước tạm thời, là “thầy giáo để dẫn
dân Y-sơ-ra-ên đến với Đấng Christ” hầu cho họ “được xưng công bình bởi
đức tin”. Nhưng sau khi đức tin đã đến, thì ngay đến “dân Y-sơ-ra-ên cũng
không cần một thầy giáo nữa” (GaGl 3:19-25). Các phương tiện của đời
sống Cơ Đốc nhân là Đấng Christ, luật lệ cho đời sống người ấy là Đấng
Christ, và sự sống của người ấy là Đấng Christ (IICo 2Cr 3:18; CoCl 3:1-4).
“Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do, vậy hãy đứng vững chớ
lại để mình dưới ách tôi mọi nữa” (GaGl 5:1).

Các điều răn.


Trong IGi1Ga 5:2, 3 chữ “điều răn” được chép ba lần. Phải chăng Giăng nói
về Mười Điều Răn? Tôi có người bạn bảo rằng ngoài việc yêu mến Chúa
Giê-xu anh còn cố gắng giữ cho trọn Mười Điều Răn nữa. Tôi bảo với anh
rằng không hề có ai giữ trọn Mười Điều Răn ngoại trừ chính Chúa Giê-xu,
và sẽ không hề có ai giữ nổi, thì anh trích dẫn Phi Pl 4:13. Anh thừa nhận là
mình tin cả Kinh Thánh từ Sáng-thế ký tới Khải-huyền, cũng tin vào sự
xưng công bình bởi đức tin mà thôi. Hơn nữa, anh tuyên bố rằng Mười Điều
Răn không chỉ được viết bằng mực, mà còn do Thánh Linh của Đức Chúa
Trời hằng sống viết ngay trong lòng anh nữa (IICo 2Cr 3:3). Anh bảo rằng
tôi đã được Đức Thánh Linh viết chín điều răn trong lòng, nhưng đã không
để cho Ngài viết lên đó điều răn thứ tư. Anh nhận rằng người tín đồ không
sống dưới luật pháp, rằng tình yêu thương là luật lệ của sinh hoạt Cơ Đốc
nhan6, do đó, vì tình yêu thương, người tín đồ phải nhớ ngày Sa-bát và giữ
làm ngày thánh.
Ông nghĩ sao về lập trường này? Tôi đoán là ông sẽ trả lời rằng luật pháp
không hề được ban bố cả cho các dân ngoại bang lẫn cho Hôị thánh, do đó
người tín đồ không cần phải giữ ngày sa-bát. Xin ông vui lòng cho tôi biết
thêm một số tài liệu khác nữa.
Người bảo rằng mấy chữ “điều răn" trong IGi1Ga 5:2, 3 chỉ về Mười Điều
Răn vốn bị cái gánh nặng là mình phải “chứng minh” mọi việc. Không có gì
vạch rõ các điều răn đó là Mười Điều Răn và ngoài Mười Điều Răn của núi
Si-na-i, Đức Chúa Trời còn ban bố cho dân Y-sơ-ra-ên nhiều điều răn khác
nữa, và chỉ cho dân Y-sơ-ra-ên mà thôi. Điều hết sức lạ lùng, là có người lại
dùng IICô 3 để chứng minh rằng chúng ta phải giữ Luật pháp về các điều
răn, vì chính chương sách đó đã tuyên bố rằng luật pháp đã “qua đi” và đã bị
“bãi bỏ” (c.11 và 13) khúc sách này chẳng những chỉ về các luệt lệ, lễ nghi,
mà cả đến phần đạo đức, được “viết trên bảng đá” nữa.
Ta chỉ cần đọc thư Ga-la-ti mà phần lớn vốn dành cho vấn đề này, để thấy
rằng luật pháp của núi Si-na-i chỉ là giao ước tạm thời thiết lập nhằm một
mục đích tạm thời “cho đến chừng nào người Dòng Dõi đến, là người mà lời
hứa đã hứa cho” (GaGl 3:19). Nếu quả thật Luật pháp đã không bị bãi bỏ
trong Đấng Christ, chắc chắn tội lỗi vẫn còn “cầm quyền cai trị trên chúng
ta”; nhưng hiện nay nó đã không thể làm như thế, vì chúng ta “không ở dưới
luật pháp mà ở dưới ân điển” (RoRm 6:14).
Về ngày sa-bát, thì nó đã bị bãi bỏ cùng với các điều răn khác, và tuy chúng
ta được ngày Chúa nhật như một quà tặng không mà Đấng christ phục sinh
đã ban cho chúng ta, nếu chúng ta gọi đó là ngày sa-bát, thì đó là sai lầm. Ai
làm như vậy là phạm tội đổ rượu mới vào bầu da cũ, đổ Tin Lành vào bầu da
Do Thái giáo, mà hậu quả là bầu sẽ nứt, rượu sẽ mất, và cái còn lại sẽ không
phải là Tin Lành mà cũng không phải là Do Thái giáo, nhưng là một thứ
“thập cẩm” thiếu cả nỗi kinh hoàng của luật pháp lẫn sự tự do của ân điển.

Người thầy giáo.


Xin giải thích Luật pháp là thầy giáo dẫn chúng ta đến với Đấng Christ như
thế nào (GaGl 3:24).
Mấy chữ “chúng ta” chỉ về người Y-sơ-ra-ên chớ không chỉ chúng ta là Cơ
Đốc nhân người ngoại bang. Khi nghiên cứu khúc sách này, chúng ta phải
cẩn thận chú ý đến các đại danh từ. Phao-lô, người viết sách Ga-la-ti, là
người Hi-bá-lai, do đó từng sống dưới Luật pháp trước khi trở thành Cơ Đốc
nhân. Với người ngoại bang thì họ không hề có Luật pháp, như chúng ta
được cho biết hai lần như vậy trong RoRm 2:14. Từ ngữ dịch ra “thầy giáo”
đúng ra là “người giữ trẻ”. Trong một gia đình Đông phương, đó là một
người giúp việc có nhiệm vụ dẫn đứa trẻ đến trường học hằng ngày. Vấn đề
muốn nói ở đây là ngoài việc dẫn đứa trẻ đi học ra, người giữ trẻ đó chẳng
còn một liên hệ gì khác nữa với đứa trẻ, Luật pháp Môi-se là một người giữ
trẻ, dẫn người Hi-bá-lai đến với Đấng Christ để họ được xưng công bình bởi
đức tin. Nhưng một khi đức tin đã đến rồi, thì chính người Hi-bá-lai “không
còn phục dưới thầy giáo ấy nữa” (c.25). Qua câu 26 thì đại danh từ được
chuyển từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ hai. Tín đồ Ga-la-ti phần đông là
người ngoại bang, và vì cả với các Cơ Đốc nhân người ngoại bang cũng như
với người Hê-bơ-rơ, tất cả đều được cứu bởi đức tin cho nên vị sứ đồ nói:
“Vì chưng anh em bởi tin Đức Chúa Giê-xu Christ nên hết thảy đều là con
trai của Đức Chúa Trời”. Đức Thánh Linh đã làm phép báp-tem cho họ để
họ được ở trong Đấng Christ”, và trong mối liên hệ đó thì “không còn chia
ra hoặc người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc
người tự chủ; không còn đờn ông hoặc đờn bà; vì trong Đấng Chúa Giê-xu
Christ anh em thảy đều làm một. Lại nếu anh em thuộc về Đấng Christ, thì
anh em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa” (c.27-29).
Địa vị làm con và làm người kế tự không phải là những vấn đề thuộc về luật
pháp, nhưng thuộc về lời hứa.

Người ngoại bang và Luật pháp.


Tôi đọc thấy RoRm 2:14 chép: “Dân ngoại vốn không có Luật pháp”. Vậy
họ có Luật pháp như thế nào và từ lúc nào, và làm sao họ hưởng được những
lợi ích của Luật pháp nếu họ không dâng lên các của lễ? GaGl 3:23 chép:
“Chúng ta bị nhốt dưới luật pháp” thì chữ “chúng ta” chỉ về ai; còn trong 24
“luật pháp như thầy giáo đặng dẫn chúng ta” thì chữ “chúng ta” đó chỉ về ai?
Còn mấy chữ “những kẻ ở dưới luật pháp” và “chúng ta” trong GaGl 4:5 thì
chỉ về ai? Eph Ep 2:12 có liên hệ với mấy khúc sách trên đây như thế nào?
Quả thật là RoRm 2:14 tuyên bố hai lần rằng dân ngoại vốn có Luật pháp.
Trong GaGl 3:23 chữ “chúng ta” chỉ người Hi-bá-lai, mà người viết thư là
một. Trong câu 24, chữ chúng ta cũng chỉ y như vậy. Luật pháp là thầy giáo
(người giữ trẻ) dẫn dân Y-sơ-ra-ên đến với Đấng Christ để họ được xưng
công bình bởi đức tin. Nhưng sau khi đã có đức tin rồi, thì họ không còn bị
phục dưới Luật pháp nữa. Cần chú ý là qua câu 26, thì đại danh từ đã chuyển
từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ hai số nhiều, và từ đó cho đến hết chương đại
danh từ vẫn được dùng theo ngôi thứ hai số nhiều, vì số người được ngỏ lời
đều là tín hữu trong Đấng Christ theo ý nghĩa của Tân Ước, dẫu họ là người
Hi-bá-lai hay người ngoại bang.
Trong 4:5 mấy chữ “những kẻ ở dưới luật pháp” và “chúng ta” cũng chỉ một
số người giống nhau. Câu này chỉ về người Y-sơ-ra-ên dưới giao ước cũ -
nếu tin Chúa - thì có liên hệ như con nhỏ trong gia đình, nhưng dưới giao
ước mới, thì được địa vị làm con. Cũng cần chú ý là qua câu 6 đại danh từ đã
được chuyển từ “chúng ta” sang “anh em”.
Luật pháp vốn không được ban cho một ai khác ngoài dân Y-sơ-ra-ên.
Eph Ep 2:12 xác nhận điều đó. Người ngoại bang vốn không thuộc cộng
đồng Y-sơ-ra-ên, nên cũng chẳng có phần gì với giao ước của lời hứa cũng
như mọi giao ước khác. Họ không có chút hi vọng nào. Họ không có Đức
Chúa Trời trên thế gian này.
Về câu bạn hỏi “Họ có luật pháp như thế nào...v.v...” thì tôi xin trả lời là
“Họ không hề có Luật pháp”. Luật pháp vốn chỉ được ban cho dân Y-sơ-r-ên
nhằm một chủ đích đặc biệt và tạm thời nhưng bây giờ luật pháp đã bị bỏ rồi
(IICo 2Cr 3:1-18).

Tại sao người ta chết.


Xin giải thích RoRm 5:13 “Vì trước khi chưa có luật pháp, tội lỗi đã có
trong thế gian, song chưa có luật pháp thì cũng không kể là tội lỗi”.
Chương 5 của sách Rô-ma đã giải thích tại sao từ trước cho đến thời Môi-se,
người ta vẫn chết dẫu chưa có luật pháp. Sự chết là tiền công của tội lỗi,
nhưng như RoRm 5:13 chép “chưa có luật pháp thì cũng không kể là tội lỗi”,
từ A-đam cho đến Môi-se sự chết đã cai trị cả đến những kẻ chẳng phạm tội
giống như tội của A-đam, là người làm hình bóng của Đấng phải đến”. Câu
trả lời ở trong câu 12: “Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế
gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi
người như vậy vì mọi người đều phạm tội”. Lời giáo huấn ở đây là: tuy giữa
A-đam và Môi-se, loài người không ở dưới luật pháp, nhưng họ đều ở dưới
luật pháp trong vườn Ê-đen - một điều luật kèm theo bản án tử hình: “Một
mai ngươi ăn chắc sẽ chết” A-đam và Ê-va đã phạm tội, và vì đã phạm tội
nên họ đã chết. Và tất cả mọi người đều ở trong A-đam, và đều phạm tội
trong A-đam, do đó, đều chết. Như vậy là sự chết đã trải qua trên hết thảy
mọi người “vì mọi người đều đã phạm tội”.
Cũng một nguyên tắc ấy cũng có hiệu lực trong HeDt 7:9-10 tuyên bố rằng:
“Lê-vi là kẻ thâu lấy một phần mười, chính mình người cũng bởi Áp-ra-ham
mà đóng một phần mười; vì lúc Mên-chi-xê-đéc đi đón tiên tổ, thì Lê-vi còn
ở trong lòng tổ phụ”. Văn mạch cho thấy khi vị sứ đồ nói “Lê-vi” là ông bao
gồm cả chi phái Lê-vi và toàn thể các thầy tế lễ theo phẩm trật của A-rôn. Sự
dạy dỗ là toàn thể các thầy tế lễ thuộc chi phái Lê-vi, tất cả các thầy tế lễ vốn
là con cháu A-rôn, đều thấp hơn Mên-chi-xê-đéc; rằng việc đó đã được
chứng minh bằng sự kiện là khi Mên-chi-xê-đéc và Áp-ra-ham gặp nhau,
như được ký thuật trong sáng 14, và Mên-chi-xê-đéc nhận phần mười của
Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham dâng phần mười cho Mên-chi-xê-đéc thì Lê-vi, A-
rôn và toàn thể con cháu trong dòng họ thầy tế lễ vẫn còn ở trong lòng tổ
tiên họ.
Cũng đừng quên là nguyên tắc ấy vẫn còn hiệu lực tại thập tự gaí; vì chúng
ta được bảo đảm rằng Đức Chúa Trời thừa nhận là chúng ta đã ở trong Đấng
Christ khi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, rằng chúng ta đã cùng bị đóng
đinh vào đó với Đấng Christ, cũng bị chôn với Ngài, nên cũng cùng được
làm sống lại, cùng ngự với Ngài trên Thiên đàng. Ha-lê-lu-gia!

Ân điển
Ân điển là gì?
Ân điển là ân huệ, Chúng ta vẫn thường nói: “Ân huệ mà chúng ta không
đáng được hưởng”. Muốn là ân huệ, thì phải là điều mà lẽ ra, chúng ta không
xứng đáng được nhận lãnh. Ân điển là sự ban cho, là quà tặng, mà sự cứu rỗi
là do ân điển, bởi vì đó, là quà tặng của Đức Chúa Trời cho bất cứ ai bằng
lòng nhận lấy. Bởi đức tin mà người ta trở nên kẻ ăn gia tài hầu cho sự ấy
được là bởi ân điển, và cho lời hứa được chắc chắn cho cả dòng dõi Áp-ra-
ham, chẳng nhường cho dòng dõi dưới quyền luật pháp, mà cũng cho dòng
dõi có đức tin của Áp-ra-ham, mà cũng cho dòng dõi có đức tin của Áp-ra-
ham, là tổ phụ hết thảy chúng ta” (RoRm 4:16). Nếu khác đi, thì không có ai
được bảo đảm như vậy cả. “Nhưng nếu bởi ơn, thì chẳng phải bởi việc làm
nữa; bằng chẳng, thì ơn không còn phải là ơn” (RoRm 11:6). Cảm tạ ơn Đức
Chúa Trời, vì chúng ta đã được cứu là nhờ ân điển!

Yêu Chúa và yêu người.


Cơ Đốc nhân có thể nào yêu thương người lân cận như bản thân, và hết lòng,
hết linh hồn, hết ý, hết sức yêu mến Đức Chúa Trời không?
Tôi cho rằng việc Luật pháp đã được thu gọn lại như vậy trong LuLc 10:37
là cây thước mà Đức Chúa Trời đưa ra để chứng minh rằng chúng ta vốn
thiếu hụt đối với những đòi hỏi công chính và sự vinh hiển của Ngài đến
mức nào. Dĩ nhiên là cả với các Cơ Đốc nhân, chúng ta không thể nào đạt
được các tiêu chuẩn Đức Chúa Trời đã đề ra, bởi vì bản tánh cũ vẫn còn ở
trong chúng ta cùng với bản tánh mới. Tuy nhiên, cần nhớ rằng tuy chúng ta
không thể tự mình làm nỗi những việc đó, thì Đức Chúa Trời đang hành
động trong chúng ta, khiến chúng ta vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài;
Ngài cũng hứa rằng một ngày kia. Ngài sẽ trình diện chúng ta không vết
trước sự hiện diện của vinh hiển Ngài, trong sự vui mừng trọn vẹn.

Ngày Sa-bát
Không thay đổi, nhưng đã bị bãi bỏ.
Tại sao các Cơ Đốc nhân đều giữ ngày thứ nhất trong tuần lễ làm ngày Sa-
bát, mà không giữ ngày thứ bảy như Đức Chúa Trời đã truyền dạy? Trong
Kinh Thánh, có chỗ nào cho chúng ta cái uy quyền để thay đổi Luật pháp?
Không hề có uy quyền nào như thế và Luật pháp thì không hề bị thay đổi,
nhưng chỉ bị bãi bỏ mà thôi. Nếu nói theo nghĩa hẹp, thì nói về một ngày nào
đó là “ngày Sa-bát của Cơ Đốc nhân” là không phù hợp với Kinh Thánh.
Chắc chắn ngày thứ nhất trong tuần lễ là “ngày của Chúa” mà KhKh 1:10 đã
đề cập, nhưng không lấy đó làm ngày Sa-bát. Kinh Thánh không biết ngày
Sa-bát nào trong tuần lễ ngoài ngày thứ Bảy. Nếu Cơ Đốc nhân bị đặt dưới
Luật pháp, thì họ bắt buộc phải giữ ngày thứ Bảy làm ngày Sa-bát. Nhưng
họ vốn không ở dưới Luật pháp, mà ở dưới ân điển (RoRm 6:14). Luật pháp
vốn được ban cho dân Y-sơ-ra-ên để làm thầy giáo (người giữ trẻ) để đưa họ
đến với Đấng Christ; hầu cho họ sẽ được xưng công bình bởi đức tin. Nhưng
bây giờ thì đức tin đã đến rồi, chính họ cũng không còn ở dưới quyền “thầy
giáo” ấy nữa (GaGl 3:23-25). Còn người ngoại bang thì không hề có Luật
pháp (RoRm 2:14). Luật pháp trên núi Si-na-i “khắc trên bảng đá” vốn là
một giao ước tạm thời, “đem đến sự chết”, “sự định tội”, thì bây giờ đã bị
“bãi bỏ” (IICo 2Cr 3:7-11 đối chiếu với RoRm 7:1-4). Chúa nhật hay ngày
của Chúa là ngày kỷ niệm hằng tuần việc Chúa chúng ta đã từ kẻ chết sống
lại.

Giao ước tạm thời.


Ông vừa nói: “Luật pháp trên núi Si-na-i 'khắc trên bảng đá' vốn là một giao
ước tạm thời 'đem đến sự chết', 'sự định tội' thì bây giờ đã bị bãi bỏ?” Ông
cũng nói: “Nói về một ngày nào đó là 'ngày Sa-bát của Cơ Đốc nhân' thì
không hợp với Kinh Thánh”.
Về vấn đề này, tôi xin hỏi hai câu:
1. Bộ Tân Ước Hi-văn của Westcolt & Hort có đúng với các nguyên bản
không? Nếu có, và tôi vẫn nghe người ta nói là có, thì Kinh Thánh có uy
quyền để thay đổi ngày Sa-bát, vì Mat Mt 28:1 chép “Sau ngày Sa-bát, ngày
thứ nhất trong tuần lễ, lúc tưng tưng sáng, có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri
khác đến thăm mộ”.
2. Bài Giảng Trên Núi có phải là “binh thư” của Cơ Đốc nhân cho thời đại
này, hay chỉ có hiệu lực cho thời vì Một ngàn năm của Đấng Christ mà thôi?
Nếu có hiệu lực ngay bây giờ, thì trong thực tế, từng điều răn đạo đức một,
chẳng hạn như mười điều răn, tuy không đề cao cách rành rẽ, nhưng cũng
phải được chấn chỉnh và mở rộng thêm, chớ không phải là bị rút ngắn như
trong Bài giảng Trên Núi.
Tuy chúng ta sống dưới ân điển chớ không sống dưới Luật pháp, nhưng theo
tôi thì dường như theo những lời nhận định của Đấng Christ phần đạo đức
trong Luật pháp vốn được mở rộng thêm và đề cao, tuy là phần nghi lễ rình
rang đã bị bãi bỏ.
Có thể là tôi sai, nên xin ông cho biết thêm ý về vấn đề này.
1. Tác phẩm của hai ông Westcott và Hort chắc chắn là rất đáng tin cậy.
Nhưng sở dĩ bạn thay khó hiểu là do sự kiện từ ngữ Hi-văn trong Tân Ước
(bất luận quyển Tân Ước nào), chữ “Sa-bát” cũng như chữ “tuần” đều giống
nhau. Với bộ CựưUớc Hi-bá-lai văn cũng vậy. Chữ “Sa-bát” hay “tuần” vốn
có nghĩa theo từng trường hợp riêng biệt, tuỳ theo văn mạch. Hai ông
Westcott và Hort đã không dịch Tân Ước sang Anh văn; nếu có chắc hai ông
cũng dịch Mat Mt 28:1 y như mọi người khác.
2. Bài Giảng Trên Núi ứng dụng trực tiếp cho thời đại Nước Trời hơn là kỷ
nguyên hiện nay, tất cả nguyên tắc về Luật đạo đức đều đã được nhắc lại và
nhấn mạnh. Nhưng luật về ngày Sa-bát hoàn toàn có tính cách nghi lễ, tuy là
nó nằm ngay tại trung tâm của điều được gọi là Luật đạo đức. Việc phân biệt
giữa Luật đạo đức và Luật pháp có tính cách nghi lễ chỉ là cách phân biệt
độc đoán của con người. Chúng ta không hề bị đặt dưới Luật pháp, dầu là
đạo đức hay nghi lễ. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta được tự do để
sống vô đạo đức, mà có nghĩa là thay vì đặt chúng ta dưới quyền của Luật
pháp từ bên ngoài, Đức Chúa Trời đã hành động trong lòng chúng ta để
muốn làm đẹp lòng và vâng lời Ngài.

Tin Lời Đức Chúa Trời


Ông bảo “Đòi hỏi công bình của Luật pháp được làm trọn nơi người tín hữu
vì họ đã thôi không giữ Luật pháp nữa, mà tin Đức Chúa Giê-xu Christ làm
Cứu Chúa mình”. Phải chăng ông muốn dạy rằng ân điển cho chúng ta cái
quyền tự do vi phạm Mười Điều Răn? Ngày Sa-bát vốn nằm trong “sự công
bình mà luật pháp buộc” (RoRm 8:4). Câu này không thể chỉ về một bộ Luật
đã được sửa đổi nào khác, trong đó ngày Sa-bát bị loại bỏ, vì bấy giờ Tân
Ước vẫn chưa được viết ra.
Một ông mục sư ở đây bảo rằng CoCl 2:14-17 bao gồm cả Mười Điều Răn
mà nhất là ngày Sa-bát, nhưng người Cơ Đốc Phục lâm lại chủ trương khúc
sách này chỉ đề cập phần Luật pháp có tính cách nghi lễ mà thôi.
IGi1Ga 3:4 chép: “Sự tội lỗi tức là sự trái luật pháp”, còn Phao-lô thì nói:
“Vì luật pháp cho người ta biết tội” (RoRm 3:20) rồi ông trích dẫn điều luật
mà ông vừa đề cập: “Ngươi chớ tham lam” (RoRm 7:7) chứng tỏ ông đang
nói về Mười Điều Răn về chính Luật pháp đã dạy: “Ngày thứ bảy là ngày
Sa-bát”. Vậy nếu cố ý vi phạm Luật pháp là tội, thì chúng ta phải giữ ngày
Sa-bát, vì vi phạm ngày ấy là tội.
Chúng ta cần tin vào những gì Tân Ước dạy về vấn đề ấy thì sẽ khỏi phải
thắc mắc gì nữa. Cố gắng giữ luật pháp là điều mà Rôm 8 bảo là bước đi
(sống) theo xác thịt. Chúng ta là người ngoại bang, không hề bị đặt dưới
Luật pháp, cho nên vấn đề CoCl 2:14-17 chỉ nói về Luật pháp về phương
diện lễ nghi mà thôi hay nói về toàn thể Luật pháp, là một vấn đề “hoàn toàn
chỉ có tính cách lý thuyết. Khi Phao-lô nói rằng luật pháp “chống lại chúng
ta” là ông muốn nói chính mình vốn là một người Do Thái, từng bị đặt dưới
Luật pháp. Khi đọc các thư tín Cô-lô-se và Ga-la-ti cũng như các thư tín
khác, chúng ta phải hết sức cẩn thận để phân biệt các đại danh từ. Chẳng hạn
hãy thử xét GaGl 3:19-29 để thấy thế nào Phao-lô đã chuyển từ “chúng ta”
trong câu 25, sang “anh em” trong câu 26.
IGi1Ga 3:4 thật ra không có ý dạy rằng “Tội lỗi là sự làm trái sự (vi phạm)
luật pháp”, nhưng có nghĩa là “tội lỗi tức là tinh thần bất tuân luật pháp”, là
việc phủ nhận mọi uy quyền trên chúng ta.
Trong IICo 2Cr 3:1-18, “Luật pháp khắc trên bảng đá” đã được cho biết là
“chức vụ về sự chết” và “sự định tội”, tương phản với Tin Lành vốn là chức
vụ về sự xưng công bình và sự sống. Đại ý chương sách ấy dạy rằng trong
Đấng Christ, Luật pháp đã bị bãi bỏ.
Xin bạn hãy đọc thư Ga-la-ti và tin những gì sách ấy viết, bạn sẽ không còn
thắc mắc gì nữa đối với ngày Sa-bát. Ngày Sa-bát đã không còn nữa từ 1.900
năm nay rồi, hay nói cho đúng hơn thì ngày Sa-bát đã không còn nữa ngay
khi chế độ (ân điển) ngày nay bắt đầu. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có một ngày
của Chúa, là phần cơ nghiệp quí báu mà chúng ta phải trận trọng giữ lấy.
Nói về ngày đó là ngày Sa-bát là sai lầm, vì nó không hề thục cùng một loại
như vậy.

Ngày Sa-bát.
Xin cho biết quan điểm của ông về ngày Sa-bát. Người Cơ Đốc Phục lâm tố
cáo là người ta đã đổi ngày Sa-bát thì có đúng không? Hay là họ bám quá
chặt vào nghĩa đen?
Đó không phải là chỗ rắc rối. Người Cơ Đốc Phục lâm đã xa rời nghĩa đen.
Ngày Sa-bát vốn không hề bị thay đổi, và về điểm ấy thì họ đúng, nhưng
ngày Sa-bát đã bị huỷ bỏ, và về điểm ấy thì họ sai. Ngày Sa-bát vốn là một
phần của Luật pháp, mà “trong Đấng Christ, thì Luật pháp đã bị bãi bỏ”.
Hãy đọc (và tin) chương ba của thư IICô-rinh-tô cũng như các thư cho người
Rô-ma và Ga-la-ti, bạn sẽ thấy rằng chúng ta không hề bị đặt dưới luật pháp,
mà dưới ân điển. Ngày mà chúng ta có ngày nay là Ngày của Chúa, chớ
không phải là ngày Sa-bát, và đây là một định chế hoàn toàn khác biệt. Xin
đừng nói với một người Cơ Đốc Phục lâm rằng ngày Sa-bát đã bị đổi rồi, vì
nó không hề bị thay đổi; hãy nói rằng nó đã bị thay thế bằng Ngày của chúa,
và như thế là bạn nói đúng.

Ngày Sa-bát và ngày Chúa nhật.


Cựư Uớc có câu nào dạy hay truyền lịnh phải dùng ngày Sa-bát làm ngày
thờ phượng không? Điều răn thứ tư không hề đề cập việc thờ phượng, mà
chỉ bảo là ngưng mọi công việc.
Chỉ có thế. Ngày Sa-bát là một ngày nhàn rỗi bắt buộc. Ngày của Chúa
chúng ta chẳng có gì giống như vậy, ngoại trừ mỗi tuần thì có một này dành
riêng cho Đức Chúa Trời. Nói “ngày Sa-bát của Cơ Đốc giáo” là nhầm lẫn.
Ngày Sa-bát là một qui chế của giao ước cũ, đã bị bãi bỏ rồi (IICo 2Cr 3:1-
18). Chúng ta hãy vui mừng vì đã được “giải thoát khỏi luật pháp” kể cả
ngày Sa-bát (RoRm 6:14; CoCl 2:16) nhưng chúng ta cũng hãy vui mừng vì
được hưởng các đặc ân trong Ngày của Chúa, vì đó cũng là cơ hội tốt cho
chúng ta hiệp một nhóm lại để thờ phượng Đức Chúa Trời.

Ngày Sa-bát trong Thiên hi niên.


Phải chăng ngày sa-bát lại sẽ được giữ trong thời đại Nước Trời? Xin nêu ra
các lý do cho biết tại sao lại như vậy?
EsIs 66:23 khẳng định như vậy. Rõ ràng là mấy câu đi trước câu ấy phải nói
về thời đại Nứớc Trời. Chính câu ấy cũng chép: Đức Giê-hô-va phán: “Từ
ngày trăng mới này đến ngày trăng mới khác, từ ngày Sa-bát nọ đến ngày
Sa-bát kia, mọi xác thịt sẽ đến thờ lạy trước mặt ta" Cũng vậy, XaDr 14:16
chép: Xảy ra hết thảy những kẻ nào còn sót lại trong mọi nước lên đánh Giê-
ru-sa-lem, sẽ lên đó hằng năm đặng thờ lạy trước mặt vua, là Đức Giê-hô-va
vạn quân, và giữ lễ Lều tâm”. Về ý định của Đức Chúa Trời muốn phục hồi
ngày sa-bát trong thời đại Thiên hi niên, thì chúng ta không được mạc khải
cho biết. Trừ phi người ta đồng ý với nhau về một ngày nào đó nếu không,
một cuộc hội họp như vậy sẽ không thể nào có được. Điều ấy vẫn có thể
nghiệm đúng cả cho ngày của Chúa chúng ta, là ngày thứ nhất trong tuần lễ.
Dường như ngay từ lúc bắt đầu thời kỳ Tân Ước, Thánh Linh của Đức Chúa
Trời đã hướng dẫn những kẻ thuộc về Chúa dành riêng ngày thứ nhất trong
tuần lễ làm ngày nhóm lại nhân danh Chúa phục sinh. Dĩ nhiên, làm như thế
không phải là khiến cho ngày ấy trở thành ngày Sa-bát, mà đó cũng không
phải là ngày Sa-bát. Tuy nhiên, việc quay trở lại với ngày Sa-bát trong Thiên
hi niên có thể phục vụ cho phần chủ đích vừa nói trên.

Ngày Chúa bị đóng đinh.


Chúa chúng ta đã bị đóng đinh nhằm ngày nào trong tuần?
Theo chúng tôi, thì rõ ràng là Chúa chúng ta đã bị đóng đinh vào ngày thứ
Tư. Nhiều người có cảm tưởng việc đóng đinh Chúa đã xảy ra nhằm ngày
thứ Sáu chắc là do sự kiện nó xảy ra vào ngày trước ngày Sa-bát và mọi
người cho rằng ngày Sa-bát được đề cập ở đây là ngày Sa-bát trong tuần, và
dĩ nhiên, đó là ngày thứ Bảy.
Nhưng trong lịch sử Hi-bá-lai có rất nhiều ngày Sa-bát, ngoài năm mươi hai
ngày Sa-bát hằng tuần trong năm; và những ngày Sa-bát bắt đầu và chắm
dứt lễ Vượt qua và lễ ăn bánh không men vốn được thừa nhận là những ngày
Sa-bát đặc biệt thiêng liêng. “Ngày đầu các ngươi sẽ có một sự nhóm hiệp
thánh, chẳng nên làm một công việc xác thịt. Trong bảy ngày, các ngươi
phải dâng cho Đức Giê-hô-va những của lễ dùng lửa dâng lên; đến ngày thứ
bảy, sẽ có một sự nhóm hiệp thánh nữa; các ngươi đừng làm một công việc
xác thịt nào hết” (LeLv 23:7, 8).
Ngày lễ Vượt qua luôn luôn nhằm ngày 14 tháng A-bíp (23:5) cho nên lẽ tất
nhiên nó sẽ nhằm một ngày khác nhau trong tuần mỗi năm. Tất cả các bằng
chứng cho chủ đề về ngày mà Chúa chúng ta bị đóng đinh dường như đều
đưa đến kết luận là năm ấy, lễ Vượt qua bắt đầu nhằm ngày thứ Năm “mà
ngày Sa-bát này là rất trọng thể” (GiGa 19:31) - và Chúa thì đã bị đóng đinh
ngày hôm trước, như thế là ngày thứ Tư.
Ngày của người Do Thái bắt đầu vào 6 giờ chiều chớ không phải vào nửa
đêm. Thi hài đã bị đóng đinh của Chúa chúng ta đã được đặt vào phần mộ
ngay trước 6 giờ chiều ngày thứ Tư, tức là lúc bắt đầu ngày thứ Năm. Nó
nằm đó suốt ngày thứ Năm (đêm và ngày), thứ Sáu( đêm và ngày) và thứ
bảy (đêm và ngày), và được sống lại từ kẻ chết đúng lúc bắt đầu ngày Chúa
nhật (Mat Mt 23:1) hay theo như chúng ta nói ngày nay, là vào khoảng 6 giờ
chiều thứ Bảy. Như vậy, xác Chúa nằm trong mộ qua ba ngày ba đêm, ứng
nghiệm chính lời tiên báo của Chúa chúng ta trong 12:40.
Không có ai được thấy sự phục sinh của Chúa chúng ta. Phần ký thuật cho
thấy các môn đệ Ngài đến viếng mộ ngay sau khi ngày Sa-bát trong tuần kết
thúc, nghĩa là vào chiều tối ngày thứ Bảy, thì thấy ngôi một trống rỗng.
Tôi có một thắc mắc mà nếu ông vui lòng chắc có thể giúp tôi, Ông bảo rằng
Chúa chúng ta bị đóng đinh nhằm ngày thứ Tư, căn cứ vào 12:40 và nhiều
khúc sách khác nữa. Nói như thế cũng có lý, nhưng Kinh Thánh thường nói
nhiều hơn về việc Chúa phục sinh vào ngày thứ Ba. Biết rằng người Do Thái
tính ngày bắt đầu từ chiều tối này, đến chiều tối hôm sau, nếu Đấng Christ bị
đóng đinh ngày thứ Tư, thì việc Ngài phục sinh ít nhất cũng xảy ra vào ngày
thứ Tư. Tôi vẫn tin vào sự linh cảm từng lời từng tiếng của Kinh Thánh, do
đó cũng tin là phải có một cách giải thích nào đó, tuy tôi chưa hiểu.
Quả thật việc Chúa phục sinh vẫn thường được đề cập là xảy ra vào ngày thứ
Ba. Nhưng cũng có chỗ chép rằng việc ấy xảy ra “sau ba ngày” (Mac Mc
8:31) “trong vòng ba ngày” (Mac Mc 14:38 theo bản Anh văn); “trong ba
ngày” (GiGa 2:19) và sau “ba ngày ba đêm” (Mat Mt 12:40).
Tôi cũng tin sự linh cảm từng lời từng tiếng của Kinh Thánh, nêu vấn đề của
chúng ta là phải tìm cho ra cách hoà hợp tất cả những cách nói này.
Theo tôi tin, thì phải tìm sự hoà hợp trong cách nói đặc biệt của các thành
ngữ thông dụng này. Chắc bạn cũng biết là vẫn có những lời nói thông
thường thiếu chính xác như vậy, như có người cho rằng: “Hễ cách nói nào
được mọi người đều hiểu, thì cũng tốt cả”. Ngôn ngữ nào cũng có những
cách nói thông tục bất chấp văn phạm, nhưng cuối cùng vẫn được ghi trong
tự điển vì cách nói ấy đã trở nên thông dụng.
Vậy thì bây giờ, nếu chúng ta tìm được rằng cách nói “sau ba ngày”, “trong
vòng ba ngày” và “sau ba ngày ba đêm” là những thành ngữ được người Do
Thái xem như tương đương, thì vấn đề của chúng ta đã được giải quyết. Và
tôi nghĩ rằng, chúng ta có thể tìm ra giải pháp đó ngay trong Kinh Thánh.
Xin xem EtEt 4:16 “Hãy đi, nhóm hiệp các người Giu-đa tại Su-sơ, rồi hãy
vì tôi kiêng cử ăn trong ba ngày và đêm”. Rồi hãy đọc 5:1 “Ngày thứ ba, bà
Ê-xơ-tê mạc triều phục, và ra chầu đứng tại nơi viện, đối trước cung điện
vua. Chắc bạn đã thấy là ở đây, câu nói “ngày thứ ba” tương đương với “ba
ngày đêm”.
Hãy xem thêm IISu 2Sb 10:5 khi Rô-bô-am nói: “Khỏi ba ngày các ngươi
hãy trở lại cùng ta. “Thế nhưng, trong câu 12, chúng ta thấy chép: “Ngày thứ
ba Giê-rô-bô-am và cả dân sự đều đến cùng Rô-bô-am y như vua đã biểu
dặn. Hãy trở lại cùng ta trong ngày thứ ba”. Ở đây, chắc bạn cũng thấy là
“khỏi ba ngày” theo cách nói thông tục của người Hi-bá-lai, cũng hoàn toàn
tương đương với “ngày thứ ba”.
Vậy phải chăng điều đó bảo đảm cho chúng ta rằng có thể xem các câu nói
trong Mat Mt 12:40, Mac Mc 8:31; 14:58; GiGa 2:19 và LuLc 24:21 là
tương đương với nhau?

Sự phục sinh.
Đấng Christ là trái đầu mùa.
Chúng ta hoà giải thế nào ICo1Cr 15:20 với phần ký thuật trong Mat Mt
27:52 về việc có một số các thành thánh đã sống lại lúc Đấng Christ bị đóng
đinh?
Không hề có phần ký thuật nào như vậy trong 27:52 hay bất cứ chỗ nào
khác. Câu 53 đã cẩn thận ghi rõ là “Sau khi Đức Chúa Giê-xu đã sống lại”.

Các thánh sống lại lúc Đấng Christ phục sinh.


Xin giải thích 27:52, 53 “mồ mả mở ra và nhiều thây của các thánh qua đời
được sống lại. Sau khi Đức Chúa Giê-xu đã sống lại, các thánh đồ đó ra khỏi
mồ mả, đi vào thành thánh, và hiện ra cho nhiều người thấy”. Tôi đã giải
thích mấy câu ấy căn cứ vào Eph Ep 4:8, nhưng dường như 4:8 không giải
thích được?
Tôi không biết gì khác hơn về Mat Mt 27:52, 53 ngoài ra chính điều mà mấy
câu ấy nói.
Tôi cũng không vạch được mối liên hệ nào giữa mấy câu đó với Eph Ep 4:8.
Tôi chỉ có thể ghi nhận rằng các thánh đồ ấy đã sống lại “sau khi Đức Chúa
Giê-xu sống lại” chớ không phải lúc “Ngài bị đóng đinh”. Có bao nhiêu
người đã được sống lại hay sau đó họ có trở lại phần mộ hay không, hoặc về
sau họ ra thể nào thì nhân chứng đã không hề nói đến. Đây là một trong
những huyền nhiệm mà tôi mong sẽ được làm sáng tỏ trên Thiên đàng.

Sự sống lại của thân thể.


Khi phục sinh, phải chăng Chúa Giê-xu đã sống lại từ kẻ chết với chính thân
thể của Ngài?
Phải, vì nếu không như vậy thì không phải là sống lại nữa. Chúa Giê-xu đã
bảo trước là Ngài sẽ sống lại trong GiGa 21:8-22. Hãy đọc và suy gẫm lời lẽ
đã được ghi lại ở đó. Những lời ấy chỉ có thể hoặc đúng hoặc sai. Nếu sai thì
hoặc cố ý hoặc vô tình, Ngài đã nói sai, mà trong cả hai trường hợp đó, Ngài
đều không thể trở thành Cứu Chúa của chúng ta được. Xin đừng nhằm lẫn để
bảo rằng giáo lý về sự sống lại của Đấng Christ là không quan trọng. Đó là
phần tối quan trọng của đức tin chúng ta, mà nếu thiếu đi, thì cũng không thể
nói là có đức tin. Hãy xem Phao-lô đã đề cập việc ấy là một giáo lý căn bản
như thế nào trong ICo1Cr 15:1-58.

Khăn và vải liệm.


Xin giải thích GiGa 20:7 “Cái khăn liệm trùm đầu Đức Chúa Giê-xu chẳng ở
cùng một chỗ với vải, nhưng cuốn lại để riêng ra một nơi khác”.
Chỉ có thể giải thích là số vải liệm thì nằm nguyên tại chỗ người ta đã đặt
xác Chúa với những vòng, những nếp xếp y như hãy còn bao quanh xác
Chúa Giê-xu, còn cái khăn thì được xếp lại cẩn thận và đặt riêng ra một nơi.
Mọi điều đó chứng minh rằng đã có phép lạ xảy ra, nên khi Giăng “thấy” thì
“tin”. Vì bấy giờ họ chưa hiểu lời Kinh Thánh dạy rằng Ngài phải từ kẻ chết
sống lại (c.8,9).

La-xa-rơ với Đấng Christ.


Xin ông cho biết chỗ khác nhau giữa sự sống lại của La-xa-rơ (GiGa 11:33-
44) và sự phục sinh của Đấng Christ?
Tôi không dám chắc mình đã thấu rõ chủ đích của bạn khi nêu câu hỏi này.
Dĩ nhiên là chúng ta không biết gì khác hơn về sự sống lại của La-xa-rơ
ngoại trừ những gì đã được ghi lại trong 11:1-57. Chắc chắn là phải có chỗ
khác nhau quan trọng giữa sự sống lại của ông ta với sự phục sinh của Chúa
chúng ta. Chúa chúng ta đã được khiến từ kẻ chết sống lại với một thân thể
vinh hiển. Và chính nhờ sự sống lại của Ngài, chúng ta được bảo đảm là
cũng sẽ được phục sinh cách vinh quang. Đã không có gì chứng minh được
là La-xa-rơ đã sống lại với một thân thể vinh hiển. Ông ta lại bị chết hay
được cất lên trời với phần thân thể đã được sống lại đó, thì Kinh Thánh đã
không cho chúng ta biết. Nhưng nhiều người phỏng đoán rằng ông ta lại
phải chết một lần nữa, vì không có dấu chỉ nào cho thấy ông đã được một
thân thể vinh hiển khi được khiến sống lại tại làng Bê-ta-ni.

Những câu hỏi liên quan đến các ẩn dụ.


Người quản gia bất trung.
Trong ẩn dụ ở LuLc 16:1-8, thật là khó hiểu tại sao Chúa chúng ta lại khen
người quản gia bất trung? Xin ông giải thích giùm.
Chúa chúng ta đâu có khen người quản gia bất trung. Chính chủ của hắn ta
đã khen ngợi hắn ta đấy chứ! Hãy chú ý là chữ “chủ” đã không được in hoa
(theo bản Anh văn), và chính ông chủ của người quản gia bất trung đã khen
hắn ta. Theo tôi thì vấn đề ở đây chẳng có gì là khó hiểu cả. Người chủ đã
không khen tên quản gia bất trung về những việc làm sai quấy khiến ông ta
bị thiệt hại, mà khen là hắn ta biết lo xa ngay trong những việc thuộc về đời
tạm này. Dĩ nhiên, bài học mà Chúa chúng ta muốn dùng ẩn dụ này để dạy
dỗ chúng ta thật là rõ ràng. Chúng ta phải lo cho những việc đời đời trong
tương lai. Bài học được làm sáng tỏ trong câu 9 là câu chìa khoá “Còn ta nói
cho các ngươi: Hãy dùng của bất nghĩa mà kết bạn, để khi của ấy hết đi, họ
tiếp các ngươi vào nhà đời đời”.

Sự bất nghĩa và nhà đời đời.


Xin ông vui lòng làm sáng tỏ 16:8, 9. Tại sao bạn bè kẻ bất nghĩa lại tiếp
được người ta vào “nhà đời đời”?
Dĩ nhiên là họ không thể làm được việc ấy. Nhưng bạn đã không đọc ẩn dụ
ấy thật cẩn thận. Xin hãy đọc lại “ma môn” của sự bất trung bất nghĩa là tiền
bạc. Nguồn gốc chữ ma môn là từ ngữ A-ram mamona, nghĩa là của cải, sự
giàu có. Vì kẻ bất trung bất nghĩa chỉ biết tôn thờ tiền bạc, sự giàu có, cho
nên Chúa chúng ta mới gọi là “của bất nghĩa”. Ẩn dụ ở đây dạy chúng ta biết
cách phải dùng tiền bạc của mình. Chúng ta phải dùng nó để đưa người ta
vào thiên đàng “Hãy dùng của bất nghĩa mà kết bạn để khi của ấy (ma môn)
hết đi, họ (tức là các bạn mà người ấy đã đưa được vào thiên đàng) tiếp
ngươi vào nhà đời đời”. Lời Chúa từng phán “Người khôn ngoan có tài được
linh hồn người ta” (ChCn 11:30), và “những kẻ khôn sáng sẽ được rực rỡ
như sự sáng trên vòng khung; và những kẻ dắt đem nhiều người về sự công
bình sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi” (DaDn 12:3). Thật vui
vẻ biết bao khi người cứu được linh hồn người ta được số người mà họ từng
giúp đỡ, ra chào đón họ trong thiên đàng!

Các nén bạc và các ta lâng.


Có gì khác nhau giữa ẩn dụ về các nén bạc và ẩn dụ về các ta lâng (LuLc
19:11-27; Mat Mt 25:14-30)?
Có một chỗ khác nhau giữa các ẩn dụ đó, tuy cùng có nhiều điểm tương
đồng. Điểm mà ẩn dụ về các ta lâng muốn nhấn mạnh dường như là ngày
Chúa trở lại sẽ là ngày xét nghiệm việc phục vụ của sốngười theo Chúa,
trong khi điểm quan trọng muốn nhấn mạnh trong ẩn dụ về các nén bạc là
việc Nước Trời bị trì hoãn, như được chép trong câu 11: “Họ nghe những lời
ấy, thì Đức Chúa Giê-xu thêm một thí dụ nữa, vì Ngài gần đến thành Giê-ru-
sa-lem và người ta tưởng rằng nước Đức Chúa Trời sẽ hiện ra ngay”.

Người con trai hoang đàng.


Trong ẩn dụ về người con trai hoang đàng, người ấy tiêu biểu cho tội nhân,
hay một người sa ngã?
Người ấy tiêu biểu cho một con cái Chúa sa ngã được phục hồi sự thông
công với Đức Chúa Cha nhờ việc xưng tội, phù hợp với IGi1Ga 1:9. Điều đó
cũng nghiệm đúng với cả ba ẩn dụ trong LuLc 15:1-32 Người chăn tìm được
con chiên lạc, người đàn bà (tiêu biểu cho Hội Thánh) tìm lại được đồng tiền
mất, và người cha được lại đứa con đi hoang. Cả con chiên, đồng tiền và đứa
con trai đều không bị “chết mất” luôn, ngoại trừ theo ý nghĩa là cả ba đều đi
sai lạc khỏi địa vị của mình. Con chiên thì lúc nào cũng thuộc về chủ, nhưng
đã đi xa lạc ràng chiên, là nơi các chiên khác được tập họp lại. Đồng tiền thì
bao giờ cũng thuộc về người đàn bà, luôn luôn ở trong nhà bà ta, nhưng lại
“đi lạc” khỏi vị trí đáng lẽ phải có của nó, như có người gợi ý có lẽ là một
món trang sức cho chủ, như chiếc vòng đeo cổ hoặc đeo trên cườm tay bà
chủ. Đứa con hoang đàng thì vẫn là con của người cha, nhưng đã đánh mất
sự thành công bằng cách bỏ nhà ra đi. Đây là một chương sách đẹp đẽ về
giáo lý phục hồi sự thông công với Đức Chúa Cha của những người đã
“phạm tội với trời” và “trứơc mặt Ngài”.

Ý nghĩa của men.


Men có nghĩa gì?
Men là một biểu tượng trong Kinh Thánh chỉ bóng về điều ác tác động âm
thầm. Một sách phù dẫn tốt có thể chỉ rõ cho bạn tất cả những lần có “men”
được đề cập trong Kinh Thánh, và chứng minh cho chân lý mà tôi vừa nói ở
trên. Chẳng hạn, bạn hãy đọc (EsIs 12:15-20; LeLv 2:11; Mat Mt 1:66; Mac
Mc 8:15; ICo1Cr 5:5-8; GaGl 5:8, 9).

Ý nghĩa của men.


Ông từng dạy rằng men luôn luôn chỉ bóng về điều ác. Vậy xin giải thích tại
sao nó lại được dùng trong của lễ vào ngày lễ Ngũ tuần (LeLv 23:17)? Cũng
xin giải thích ẩn dụ về men trong Mat Mt 13:33.
Trong Kinh Thánh, men luôn luôn tiêu biểu cho điều ác và sự hư nát, và
cũng được dùng trong biểu tượng của ngày lễ ngày lễ Ngũ tuần. Cả dân Do
Thái và người ngoại bang đều gian ác, hư hỏng nhưng đều được cứu rỗi bởi
đức tin và đều được “tiếp nhận trong Con yêu dấu của Đức Chúa Trời” nhờ
việc Ngài đã đổ huyết ra. Hãy chú ý đến phần nghi lễ của lễ Ngũ tuần (LeLv
23:15-21) về hai ổ bánh đưa qua đưa lại được dâng lên đồng thời với các của
lễ có huyết.
Trong ẩn dụ về men, người đàn bà là Hội Thánh theo tà giáo, đã trộn men tà
giáo vào với lương thực thuần tuý là Lời CĐức húa Trời (vốn được chỉ định
dùng làm thức ăn cho cả nhà những người có đạo, có đức tin). Ba đấu bột có
thể tiêu biểu cho ba nhánh lớn của Giáo hội tự xưng là Cơ Đốc giáo: Tin
Lành, Công giáo La Mã và Công giáo Hi Lạp. Tất cả đều có một đấu bột,
nhưng đều bị các giáo lý và tập quán hư xấu đầu độc khiến các con cái Đức
Chúa Trời bị đe doạ. Điễn trình lên men cứ tiếp tục cho đến chừng cả đống
bột đều dậy lên - và cuối cùng thì chính Đấng Christ phải nhả cả chất hỗn
hợp đáng ghê tởm ấy ra khỏi miệng Ngài (KhKh 3:14-16).

Của báu chôn và ngọc châu.


Xin giải nghĩa ẩn dụ của báu côn (Mat Mt 13:44) và ngọc châu (Mat Mt
13:45, 46).
Của báu là dân Y-sơ-ra-ên hiện bị chôn giấu ngoài đồng, là thế gian. Người
vui mừng bán hết gia tài mình để mua đám ruộng đó, là Chúa Giê-xu. Ngài
mua đám ruộng bằng chính huyết báu Ngài đổ ra tại Gô-gô-tha, do đó, qua
quyền sáng tạo và quyền mua chuộc mà “Đất và muôn vật trên đất, thế gian
và những kẻ ở trong đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va” (Thi Tv 2:46). Có một
ngày, của báu ấy sẽ được đưa ra ánh sáng và “Y-sơ-ra-ên sẽ kết nụ và nở
hoa, chắc sẽ ra trái đầy trên mặt đất” (EsIs 27:6). Đó là khi Ngài đã cất sự vô
đạo khỏi Gia-cốp, và lời hứa trong Thi Tv 105:6 và 135:4 sẽ ứng nghiệm:
“Nếu các ngươi vâng lời ta và giữ giao ước ta, thì trong muôn dân, các ngươi
sẽ thuộc riêng về ta, vì cả thế gian đều thuộc về ta. Các ngươi sẽ thành một
nước thầy tế lễ cùng một dân tộc thánh cho ta. Vì Đức Giê-hô-va đã chọn
Gia-cốp cho mình; lấy Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp riêng của Ngài” (trong bản
dịch Anh văn, mấy chữ thuộc riêng và cơ nghiệp đều có từ ngữ của báu
trong đó). Viên ngọc châu quí giá là Hội Thánh. Người tìm ngọc châu cũng
là Chúa Giê-xu. Giá Ngài phải trả để mua ngọc châu là huyết Ngài (Eph Ep
1:14 ICo1Cr 6:19, 20 và IPhi 1Pr 1:18, 19).

Mười người Nữ đồng trinh


Ông nghĩ thế nào về ẩn dụ Mười người nữ đồng trinh (Mat Mt 25:1-13)? Có
người bảo rằng toàn thể tín hữu sẽ được cất lên khi Hội Thánh hay thân thể
Đấng Christ được cất lên không trung khi Chúa Giê-xu tái lâm. Nhưng theo
tôi thì dường như vẫn còn một số Cơ Đốc nhân bị bỏ lại để chịu thử thách
trong Cơn đại nạn. Tôi muốn biết ý kiến của ông.
Việc chàng rể đến ở đây không phải là lúc Hội Thánh được cất lên. Ta
không nên chờ đợi một việc như vậy trong sách Ma-thi-ơ. Đây là việc Ngài
cùng vợ mới trở lại thế gian khi cơn đại nạn kết thúc (xem 24:29, 30). Đây là
“khi Đức Chúa Giê-xu từ trời hiện đến với các thiên sứ của quyền phép
Ngài, giữa ngọn lửa hừng, báo thù những kẻ chẳng hề nhận biết Đức Chúa
Trời, và không vâng phục Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta.
Họ sẽ bị hình phạt hư mất đời đời, xa cách mặt Chúa và sự vinh hiển của
quyền phép Ngài tức là khi Ngài sẽ đến trong ngày đó, để được sáng danh
trong các thánh đồ, được khen ngợi trong mọi kẻ tin; vì anh em đã tin lời
chúng tôi làm chứng trước mặt anh em” (IITe 2Tx 1:7-10).
Nếu bạn đọc câu 1, đối chiếu với GiGa 3:29 và câu 10, thì bạn sẽ thấy đây là
lúc “tiệc cưới” đang được cử hành.
Các nữ đồng trinh ở đây là số người Do Thái tự xưng là có đạo trong thời
gian nhà Vua đi vắng và ngay trước khi Vua trở về. Đây không phải là Đức
Thánh Linh đang trình diện Hội Thánh dưới hình thức đa diện. Trong IICô-
rinh-tô, Hội Thánh được nhìn thấy như “người trinh nữ tinh sạch”, chớ
không phải như một đoàn trinh nữ đi dự tiệc cưới. Hơn nữa, trong Thi 45,
Hội Thánh cũng được nhìn thấy như một Nữ hoàng, là vợ Vua; còn các môn
đồ theo Do Thái giáo là “bọn người nữ tuỳ tùng đi theo Nữ hoàng”. Cũng
vậy, trong sách Khải huyền, số người Do Thái còn sót lại được đề cập hai
lần với tư cách các trinh nữ đi phù dâu (74; 143,4). Chắc chắn là Tân Nương
sẽ cùng hiện ra với Tân lang, nhưng các nữ đồng trinh trong ẩn dụ này
không chỉ bóng về Tân Nương.
Đuốc chỉ về Lời Đức Chúa Trời, dùng theo nghĩa hình bóng (Thi Tv
119:105 IPhi 1Pr 1:19).
Việc các nữ đồng trinh đi rước chàng rể là việc xưng nhận ngoài mặt rằng họ
trung thành với Nhà Vua sắp đến. tất cả đều “đi rước chàng rể”.
Dầu chỉ bóng về Đức Thánh Linh (XaDr 4:1-14). Năm trinh nữ có dầu trong
đèn. Cũng vậy, tất cả những ai được tái sanh đều có Đức Thánh Linh ngự trị
trong lòng và có Lời Đức Chúa Trời cầm trên tay. Chúng ta có của báu đựng
trong chậu bằng đất (IICo 2Cr 4:7; ICo1Cr 6:19). Các trinh nữ dại không
đem dầu theo họ là những người “chẳng thuộc về Ngài” (RoRm 8:9) vì tuy
bề ngoài (họ) giữ điều nhơn đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhơn đức
đó” (IITi 2Tm 3:5).
Tất cả những lời khoe khoang ủa họ đều bị loại bỏ bằng lời nhận xét nhục
nhã trong câu 5 “Các nàng thảy đều buồn ngủ và ngủ gục”, cả những người
khôn lẫn người dại đều như nhau; tất cả đều bộc lộ phần thất bại của xác thịt
nhắc chúng ta nhớ lại câu hỏi lúc Chúa chúng ta chiến đấu trong vườn Ghết-
sê-ma-nê (Mat Mt 26:40).
Quang cảnh tiếp theo kêu lớn lúc nửa đêm thật bi thảm. Có tiếng sửa soạn
dầu đèn thật gấp rút, theo nghĩa bóng, là người ta sẽ hấp tấp tìm kiếm tra xét
Lời Chúa lúc đã quá muộn rồi; một số người sẽ hốt hoảng đi tìm mua dầu
của Đức Chúa Trời với bất cứ giá nào - nhưng chỉ là phí công vô ích mà
thôi, vì khi họ trở lại thì chàng rể đã vào nhà, và cánh cửa đã đóng lại. Sẽ có
nhiều người cầu nguyện, khẩn khoản: “Hỡi Chúa, hỡi Chúa, xin mở cho
chúng tôi”, nhưng Ngài không biết họ, vì họ không ở trong số người thuộc
về Ngài (IITi 2Tm 2:19). Chắc chắn là chúng ta đều cần đựơc lời khuyến
giục “Hãy tỉnh thức” nhắc nhở mình câu 13 đối chiếu với LuLc 12:35, 36).

Lúa mì và cỏ lùng.
Trong ẩn dụ ở Mat Mt 13:24-30, Nước Thiên đàng được đề cập, là Hội
Thánh hay thế gian? Lúa mì và cỏ lùng là Hội Thánh hay thế gian? Ông mục
sư của chúng tôi dạy rằng đó là Hội Thánh. Theo tôi thì dường như không
phải như vậy, vì Lời Đức Chúa Trời dạy rằng Hội Thánh thật là thân thể
Đấng Christ. Làm sao cả lúa mì lẫn cỏ lùng đều có thể mọc lẫn lộn trong đó?
Không thể như thế được!
bạn có lý: “Không thể như thế được!” Lời đáp cho câu hỏi của bạn ở trong
câu 28: “Ruộng là thế gian”. Ẩn dụ này thường được dùng làm luận cứ để
thi hành kỷ luật trong Hội Thánh, vì lời lẽ trong câu 30 “Hãy để cho cả hai
thứ (lúa mì và cỏ lùng) cùng lớn lên cho đến mùa gặt”. Nhưng ẩn dụ không
đề cập Hội Thánh, dầu là Hội Thánh vốn là thân thể Đấng Christ, hay giáo
hội tự xưng là Hội Thánh “Ruộng là thế gian”.

Cách ăn nết ở của Cơ Đốc nhân.


Sự phân rẽ.
Câu “Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ khỏi chúng nó” (IICo 2Cr
6:17) có áp dụng cho thời đại của chúng ta ngày nay không? Phải chăng nó
có nghĩa là hãy rời bỏ các Hội Thánh đã theo Tân phái?
Chắc chắn lời khuyến giục trong IICo 2Cr 6:17 cũng áp dụng cho thời đại
này nhưng thường thường thì rất khó ứng dụng cho đúng. Tuy nhiên Đức
Chúa Trời sẽ dắt dẫn con cái Ngài trong mọi trường hợp nếu con cái Ngài
sẵn sàng làm theo ý chỉ Ngài khi ý chỉ ấy được mạc khải cho người đó.

Chiếc ách không cân xứng.


Xin giải thích IICô 614: “Chớ mang ách (không cân xứng) chung với kẻ
chẳng tin” . Tôi có người bạn bảo rằng căn cứ vào câu Kinh Thánh này,
chúng ta được truyền dạy hãy rút tên, không dự phần làm thuộc viên tín đồ
của Hội Thánh nữa.
Ngừi bạn đó đã hoàn toàn sai lầm khi giải thích câu Kinh Thánh trên như
vậy. làm sao Phao-lô lại có thể khuyên các Cơ Đốc nhân tại Cô-rinh-tô hãy
ra khỏi Hội Thánh mà chính ông mới vừa tổ chức ra? Cả phân đoạn trong đó
có câu Kinh Thánh trên là lời khuyến giục hãy phân rẽ với những người
không tin Chúa, chớ không phải khỏi sự thông công của Hội Thánh “Chớ
mang ách (không cân xứng) chung với kẻ chẳng tin “Lời khuyên ấy ngày
nay vẫn còn thích hợp như từ bao giờ. Thí dụ như nó cấm đoán việc cưới vợ
lấy chồng giữa các tín hữu với người không tin Chúa; nó cấm đoán việc gia
nhập các hội đoàn các câu lạc bộ và nhiều tổ chức khác do người ta lập ra
trong đó có một phần là các Cơ Đốc nhân và một phần là người vô tín; nó
cấm đoán việc hùn hạp làm ăn với người không tin Chúa; nó cấm đoán việc
giao kết giữa người tín hữu với người không tin nhằm một mục đích nào đó.
Dĩ nhiên là nguyên tắc này vẫn có thể ưng dụng đối với một số thuộc viên
tín đồ trong Hội Thánh. Trong những ngày bội đạo của thời kỳ cuối cùng
này, có nhiều Hội Thánh, nhiều thuộc viên tín đồ đã xa lìa Đức Chúa Trời và
chân lý Ngài. Nhiều nhà phê bình phá hoại đã chiếm lấy toà giảng; những kẻ
vô đạo, vô thần đã phủ nhận việc Chúa Giê-xu đã mua chuộc họ. họ đã xây
bỏ chân lý để quay sang với chuyện ngụ ngôn. Họ khiến cho thiên hạ sỉ nhục
Chúa chúng ta bằng việc phủ nhận sự kiện Ngài vốn được nữ đồng trinh
sanh ra, chối bỏ nhu cầu và hiệu quả của huyết cứu chuộc Ngài. Gặp trường
hợp như thế, tôi không nghĩ là người tín hữu có thể do dự một giây phút nào.
Chắc chắn là người ấy phải ra khỏi giữa họ bằng cách phân rẽ với họ.
Còn như người bạn kia đã nói, hãy ra khỏi Hội Thánh, đừng là thục viên của
một Hội Thánh nào cả thì đó là một vấn đề chẳng dính dáng gì với 6:17 hết.
Nguyện Chúa cho mọi người chúng ta ân điển dư dật và sự khôn ngoan cần
thiết trong thời kỳ cuối cùng này để chúng ta có thể bước đi vững chắc trong
nẻo đường của Ngài trong khi chờ đợi Con Ngài từ trời xuống!

Hợp pháp và tuỳ nghi


Trong ITi1Tm 4:4 chúng ta đọc thấy: “Mọi vật Đức Chúa Trời tạo nên đều
tốt lành cả, không một vật chi đáng bỏ, miễn là mình cảm ơn mà ăn lấy thì
được”. Phải chăng câu này cho chúng ta được quyền tự do uống một cốc
rượu, hay hút một điếu thuốc trong một vài trường hợp xã giao nào đó? Làm
như thế có phải là tội không? Hay những điều đó đều thuộc về những việc
làm không thích hợp? Chúng có khiến người ta không được cất lên trời khi
Chúa tái lâm không?
Giả sử là chúng ta xếp câu này bên cạnh câu của Phao-lô trong RoRm 14:21
“Điều thiện ấy là đừng ăn thịt, đừng uống rượu, và kiêng cữ mọi sự chi làm
dịp vấp phạm cho anh em mình”. Và một câu khác nữa trong ICo1Cr 8:13
“Cho nên, nếu đồ ăn xui cho anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ chẳng hề ăn
thịt, hầu cho khỏi làm dịp vấp phạm cho anh em tôi”. Đây không phải là một
vấn đề “hợp pháp”, vì Cơ Đốc nhân không hề bị đặt dưới luật pháp mà “ở
dưới ân điển” (RoRm 6:14). Hậu quả là: “Mọi sự đều có phép làm, nhưng
chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải
mọi sự đều làm gương tốt” (ICo1Cr 10:23).
Cơ Đốc nhân không bị ngăn trở để không được cất lên khi Chúa Giê-xu tái
lâm vì cớ những việc như vậy. Nhưng có thể bị Chúa không đẹp lòng. Mỗi
một Cơ Đốc nhân - tôi muốn nói là tất cả những người đã được tái sanh -
đều sẽ được cất lên không trung khi Chúa tái lâm, vì việc cất lên trời đó là
một phần trong sự cứu rỗi chúng ta, mà sự cứu rỗi vốn hoàn toàn nhờ ân
điển. Nhưng nhiều Cơ Đốc nhân sẽ phải “chịu lễ” trước Toà án của Đấng
Christ, vì “tuy người ấy được cứu, song dường như qua lửa vậy” (ICo1Cr
3:15) “Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thể này, dầu ra khỏi, cũng làm hết
sức để được đẹp lòng Chúa” (IICo 2Cr 5:9).

Phải biết phân biệt


Xin giải thích Giu Gd 1:22, 23
Đây là lời cảnh cáo việc một người muốn cố gắng cứu linh hồn người ta có
thể vì đó mà bị nhiễm ô uế. Bạn phải cẩn thận để đừng vì quá nhiệt thành.
Muốn cứu vớt người khác mà chính mình lại thông đồng với họ trong những
việc xấu. Toàn bản văn đã giải thích vấn đề phải biết phân biệt: có một số
người sẽ được cứu nhờ chúng ta biết thương xót, thông cảm với họ; có một
số khác, chúng ta phải “rút ra khỏi lửa” nghĩa là phải dùng biện pháp mạnh.
Đức Thánh Linh sẽ cho chúng ta sự khôn goan để làm việc đó nhưng sự
hướng dẫn của Ngài không hề mâu thuẫn với Lời Đức Chúa Trời. Đây là
phần chỉ dẫn an toàn nhất.

Không làm người khác vấp phạm.


Phao-lô muốn dạy gì trong RoRm 14:16 khi ông viết “Vậy chớ để sự lành
mình trở nên cớ gièm chê”? Câu này có thể ứng dụng cho Cơ Đốc nhân ngày
nay tới mức độ nào? Phải chăng tôi phải ngưng ngay một việc mà tôi tin là
phải, là đúng, chỉ vì có người chưa được cứu bảo rằng đó là việc xấu? Tôi
không cho là như vậy.
Câu mà bạn đề cập nằm giữa một bài thảo luận của Phao-lô về vấn đề chúng
ta có nên ăn thịt đã cúng cho các thần tượng hay không. Cùng một vấn đề ấy
cũng được thảo luận trong ICô 8.
Cơ Đốc nhân phải làm hết sức mình trong phạm vi có thể được để khỏi gây
cớ vấp phạm cho người yếu đuối hơn mình. Dĩ nhiên là không ai có thể giữ
trọn được điểm này, vì có nhiều người rất dễ bị sa ngã. Nhưng riêng chúng
ta thì phải hạn chế trong phạm vi có thể được quyền tự do hành động của
mình, nếu làm như vậy, chúng ta không gây cớ vấp phạm cho các con cái
Chúa vốn yếu đuối hơn chúng ta. Toàn thể vấn đề đã được chính Phao-lô kết
thúc thật đẹp đẽ trong 14:21 “Điều thiện là đừng ăn thịt, đừng uống rượu, và
kiêng cữ mọi sự chi làm dịp vấp phạm cho anh em mình”. Và trong ICo1Cr
8:13 “Cho nên nếu đồ ăn xui cho anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ chẳng hề ăn
thịt, hầu cho khỏi làm dịp vấp phạm cho anh em tôi”.

Trang điểm cá nhân


Xin ông giải thích ITi1Tm 2:9. Ông có tin rằng nữ Cơ Đốc nhân mà đeo
bông tai, nhẫn vàng, dây chuyền là sai quấy không?
Cơ Đốc nhân dầu nam hay nữ, đều cần ăn mạc giản dị. Ta phải ăn mạc thế
nào để không khiến người khác chú ý đến chính ta. Ở cả hai mặt của vấn đề
này đều có cơ nguy. Có một số Cơ Đốc nhân do quá chăm sóc bề ngoài,
khiến người khác phải chú ý đến họ, do đó, khiến người khác trở thành “nô
lệ” cho họ, tuy không phải là bằng xích xiềng thấy được. Có một khúc sách
tương tự, là IPhi 1Pr 3:1-4.

Cờ bạc, v.v...
Cơ Đốc nhân cờ bạc, đi coi hát v.v... thì có sai quấy không?
Chương 8 của ICô-rinh-tô đề cập tất cả các vấn đề bạn hỏi và sẽ giải quyết
cho bạn nếu bạn đọc chương sách ấy với tinh thần đầu phục Chúa. Chương
ấy thảo luận vấn đề Cơ Đốc nhân có được ăn thịt đã cúng cho các thần tượng
hay không. Nhiều người nói: Có; nhiều người khác bảo: Không. Phao-lô dạy
rằng họ được tự do ăn, nhưng vì sự ăn đó gây vấp phạm cho một số anh em
yếu đuối hơn, cho nên chúng ta phải kiêng cữ. Vì nếu đồ ăn xui cho anh em
tôi vấp phạm, thì tôi sẽ chẳng hề ăn thịt, hầu cho khỏi làm dịp vấp phạm cho
anh em tôi”. (c.13).
Cùng một vấn đề ấy cũng được thảo luận trong RoRm 14:1-23, và cũng đi
đến cùng một kết luận: “Điều thiện ấy là đừng ăn thịt đừng uống rượu, và
kiêng cữ mọi sự chi làm dịp vấp phạm cho anh em mình” (c.21).
ICo1Cr 10:31 chép: “Vậy anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay làm làm sự chi
khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm”. Chúng ta cần áp dụng
bảng trắc nghiệm này đối với những việc gây thắc mắc, thì chẳng bao lâu, sẽ
thấy ngay là nó có thích hợp cho một con cái Đức Chúa Trời hay không.

Cơ Đốc nhân xác thịt


Cơ Đốc nhân sống theo xác thịt sẽ hưởng được thiên đàng không?
Nếu bạn muốn đề cập những người đã được tái sanh, thì câu trả lời của tôi
là: Có. Tất cả những người được sanh lại, đều “được hưởng nước thiên
đàng”. Nhưng Cơ Đốc nhân xác thịt sẽ phải mất phước rất nhiều vì cớ đời
sống xác thịt của họ, cả trong đời này, lẫn ở đời sau (ICo1Cr 3:11-15; 11:30-
32).

Giá phải trả để làm môn đồ Chúa.


LuLc 14:26 thật ra có nghĩa gì? câu ấy chép: “Nếu có ai đến theo ta, mà
không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình
nữa, thì không được làm môn đồ ta”.
Câu này phải được đọc với toàn bản văn. Trong ẩn dụ về Tiệc Yến Lớn từ
câu 16-24, số người đồng loạt “xin kiếu” đều nêu ra nhiều lý do để khước từ
lời mời. Một người thì vì “mới mua một miếng ruộng” mà người ấy “phải đi
xem thử”. Một người khác nữa nói: “Tôi mới cưới vợ, vậy tôi không đi
được”. Mọi điều đó khiến cho câu 26 trở thành hết sức dễ hiểu. Nếu ai muốn
đến làm môn đồ Chúa, thì phải tính đến cái giá phải trả, phải ghét bất cứ
điều gì xen vào giữa người ấy với Chúa. Cho dù đó là “một đám ruộng,
“năm cặp bò” hoặc cả đến “vợ” mình nữa. Tiến sĩ Scofield có ghi chú ở đây
như sau: “Mọi ngôn từ nói lên cảm xúc hay tình cảm đều tương đối. Tình
cảm tự nhiên đem so với sự tận tuỵ của người tín hữu đối với Đấng Christ
đều được kể như ghét bỏ. Xin đọc Mat Mt 12:47-50 thì thấy Chúa lấy bản
thân Ngài để minh hoạ cho nguyên tắc ấy. Nhưng trong Chúa, tình cảm tự
nhiên đã được thánh hoá và đã được nâng lên ngang hàng với tình yêu thiên
thượng (đối chiếu với GiGa 26:27; Eph Ep 5:25-28).

Sự xưng tội và tha tội.


Một giáo viên dạy Kinh Thánh mới đây có nói: “Tôi không xưng ra, thì
không được tha thứ”. Tôi biết rằng Chúa Giê-xu đã gánh hết tội lỗi tôi trên
thân thể Ngài lúc Ngài chịu chết trên thập tự giá thay tôi. Tôi cũng biết mỗi
một tội trong đời sống gôi đều liên hệ với sự thông công giữa tôi với Ngài,
và chỉ sau khi tôi xưng tội, thì sự thông công mới được phục hồi. Nhưng nếu
tôi nêu đích danh tội ấy, mà sau một ngày, tôi chỉ xin Chúa tha thết mọi tội
trong ngày của tôi chớ không kể từng tội một cách riêng biệt, thì có được
không?
Nếu bảo rằng “Tôi không xưng ra thì không được tha thứ” và hiểu là phải
xưng ra từng tội một cách riêng rẽ, thì có phần quá đáng. Có rất nhiều - hay
có thể nói là hầu hết các tội, đều là tội chúng ta phạm mà không hề hay biết.
Chúng ta vốn có một cái nhìn sai lệch về tội lỗi và sự công chính, vì nếu
không có như vậy, chúng ta phải luôn luôn biết là mình thiếu hụt sự vinh
hiển của Đức Chúa Trời là mình vốn có tội. Mặt khác, không hề có lời hứa
tha tội cho người xin tha tội, mà chỉ có lời hứa cho người xưng tội mình mà
thôi (IGi1Ga 1:9). Chúng ta được an toàn khi đã xưng tội mình và tự xét
đoán trước mặt Đức Chúa Trời. Đây không phải chỉ là vấn đề kể tên từng
trời một, tuy chúng ta không nên trốn tránh việc kể tên các tội ấy ra nếu
chúng ta biết rõ. Nói cho đúng hơn, thì đây là vấn đề về thái độ của chúng ta
đối với tội lỗi mình khi chúng ta đứng trước mặt Chúa. Ngài muốn “sự chân
thật nơi người bề trong” (Thi Tv 56:1). Vì “Đấng cao cả, ở nơi đời đời vô
cùng, danh Ngài là Thánh, có phán như vầy: Ta ngự trong nơi cao và thánh,
với người có lòng ăn năn đau đớn và khiêm nhường, đặng làm tươi tỉnh thần
linh của những kẻ khiêm nhường, và làm tươi tỉnh lòng người ăn năn đau
đớn” (EsIs 57:15).

Một chuyện xưng tội.


Mấy năm trước đây, có người pah5m tội với vợ một người khác. người ấy
không hề dám xưng ra với vợ mình, mà chỉ xưng tội với Đức Chúa Trời thôi.
Người phạm tội ngĩ rằng nếu mình công khai xưng ra giữa hội chúng thì sẽ
làm ô danh Chúa. Nếu người ấy không xưng ra, thì việc đó có ngăn trở
người ấy được vào các cửa bằng ngọc châu của Đức chúa Trời không? Ông
có khuyên người ấy công khai xưng tội với vợ mình trước công chúng
không?
Việc được “vào các cửa bằng ngọc châu” không hề được quyết định do cách
thức mà bạn đã gợi ý như trên; được vào thiên đàng hoàn toàn tùy thuộc việc
một người có được tái sanh hay không. Thật là khó khuyên bảo người gặp
trường hợp của bạn phải làm gì. Nhiều khi việc xưng tội công khai trong
trường hợp bạn gợi ý, sẽ có hại nhiều hơn là có lợi. Đức Chúa Trời sẽ hướng
dẫn cho người sẵn sàng vâng lời Ngài, và chỉ cho người ấy việc phải làm.

Lương tâm.
Theo sự chỉ dẫn của lương tâm thì có đúng không? Tôi cho rằng Lời của
Đức Chúa Trời mới có thể hướng dẫn Cơ Đốc nhân.
Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn là “Lời Đức Chúa Trời hướng dẫn Cơ Đốc
nhân” và “theo sự chỉ dẫn của lương tâm” thì không phải là luôn luôn an
toàn, trừ khi lương tâm chúng ta được chính Lời của Đức Chúa Trời soi sáng
cho.

Sự hướng dẫn an toàn


Đức Chúa Trời phán dạy chúng ta qua lương tâm đến mức độ nào, và chúng
ta có thể trông cậy vào lương tâ đến mức độ nào?
Vì con người vốn đầy tội lỗi, nên lương tâm con người không phải là người
hướng dẫn an toàn. Cả ngay khi đã được tái sanh, chúng ta cũng không nên
hoàn toàn tin cậy vào lương tâm. Có khi lương tâm bị “yếu đuối” do đó, rất
dễ bị “ô uế” (ICo1Cr 8:7). Rồi trong ITi1Tm 4:2 lại nói về những người có
“lương tâm đã lì” (nguyên văn là bị sắt nung đỏ đốt cháy). Tit Tt 1:15 nói về
hững người mà “tâm thần và lương tâm bị dơ dáy”. Trong HeDt 9:14 các tín
hữu được khuyến giục hãy nhìn chăm vào huyết Đấng Christ “sẽ làm sạch
lương tâm anh em khỏi công việc chết, đặng hầu việc Đức Chúa Trời hằng
sống”. Trong 10:22, người thờ phượng Đức Chúa Trời được khuyên hãy đến
gần Ngài và nhớ rằng lòng họ đã được “tưới sạch khỏi lương tâm xấu”. Tóm
lại, sự hướng dẫn an toàn duy nhất cho mỗi người chúng ta là Lời Đức Chúa
Trời. Chúng ta có thể luôn luôn tin cậy vào đó để được hướng dẫn trong con
đường đúng.

Lương tâm là kẻ hướng dẫn không an toàn.


Theo ý ông thì có nên luôn luôn vâng lời lương tâm không? Tôi biết đó là
bổn phận của chúng ta, nhưng chúng ta có thể luôn luôn làm như vậy
không?
Lương tâm không phải bao giờ cũng đúng, do đó, nó là kẻ chỉ dẫn không
đáng tin cậy. Kinh Thánh có đề cập đến một lương tâm xấu (10:22), một
lương tâm yếu đuối và bị ô uế (ICo1Cr 8:7-12) và một lương tâm đã lì
(nghĩa đen là bị sắt nung đỏ đốt cháy) (ITi1Tm 4:2) cũng như một lương tâm
đã được tẩy sạch (HeDt 9:14), một lương tâm tinh sạch (ITi1Tm 3:9; IITi
2Tm 1:3 một lương tâm tốt (ITi1Tm 1:5, 19; IPhi 1Pr 3:16, 21) và một
lương tâm không trách móc (Cong Cv 24:16).
Như thế, chúng ta đã thấy là lơng tâm hay thay đổi, do đó, không đáng tin
cậy. Chỉ khi nào nó được Lời Đức Chúa Trời soi sáng và khiến thành nhạy
cảm, thì chúng ta mới có thể nghe theo nó và được an toàn.
Nếu bạn muốn hỏi xem trên đời này chúng ta có thể sống mà không phạm
tội chăng, thì tôi xin trả lời là không. Nhưng cũng không vì thế mà chúng ta
có thể tự bào chữa khi lỡ sai phạm, nhưng phải xưng tội mình ra và tự xử
trước mặt Đức Chúa Trời (IGi1Ga 1:1-9) vì chỉ như vậy, chúng ta mới giữ
được mối thông công và niềm vui trong Ngài, mới có thể phục vụ Ngài cách
hiệu quả được.

Trách nhiệm trong việc noi theo.


Theo ông thì chúng ta có thể từ chối không theo các cấp lãnh đạo dường như
muốn kiểm soát mọi ý nghĩ, mọi ân tứ của ta không? Theo tôi thì dường như
nhiều kế hoạch mà các Hội Thánh chúng ta đang thực thi vốn hết sức duy
vật (thiên về tổ chức và hình thức). Việc cứu rỗi linh hồn người ta hoàn toàn
bị loại bỏ. Chủ đích của các kế hoạch ấy dường như chỉ là lo sao cho có một
ngân quĩ dồi dào, cung lương hậu cho các cấp lãnh đạo và dập tắt các nỗ lực
truyền giáo. Nếu có ai phản đối thì hầu như bị kết án là “bội đạo”!
Theo một chừng mực nào đó, người noi theo cũng có trách nhiệm y như
người lãnh đạo, và nếu chúng ta hành động theo sự chỉ đạo sai lầm của một
giáo sư giả, thì chúng ta cũng bị trách nhiệm trong việc làm sai quấy đó. Mỗi
tín hữu phải nhớ rằng chính mình cũng là một thầy tế lễ được trực tiếp vào
ra mắt Đức Chúa Trời và trực tiếp chịu trách nhiệm về việc lãnh đạo sai lầm
cũng như việc noi theo kẻ chỉ đạo sai lầm. Chúng ta phải “vâng lời Đức
Chúa Trời hơn là vâng lời người ta”.

You might also like