Professional Documents
Culture Documents
Trong Thi Tv 19:7-9, có sáu tên được dùng để gọi Kinh Thánh, kết hợp với
sáu đặc tính và sáu hiệu quả Kinh Thánh được định nghĩa là 1. Luật pháp, 2.
Chứng cớ, 3. Giềng mối, 4. Điều răn, 5. Sự kính sợ, 6. Mạng lịnh, của Đức
Giê-hô-va.
Trong 119:1-176 cũng có mười tên như vậy để gọi lời phán của Đức Chúa
Trời 1. Đường lối, 2. Chứng cớ, 3. Giới mạng (precept), 4. Điều răn, 5. Đoán
ngữ, 6. Luật lệ, 7. Mạng lịnh, 8. Sự công bình, 9. Giềng mối, 10. Lời, của
Đức Chúa Trời.
Từ ngữ luật lệ (hay luật pháp) không hề có ý ám chỉ riêng các điều răn được
ban bố trên Núi Si-nai, nhưng là một từ ngữ tổng quát, chỉ chung toàn bộ
Kinh Thánh mà Đa-vít có trong tay, gồm Ngũ Kinh Môi-se và toàn bộ sưu
tập được gọi là Kinh Toral hay Sách Luật pháp của người Do Thái (Kinh
điển Cựu Ước).
Cần chú ý là ở đây có sáu mệnh đề được đưa ra để định nghĩa Kinh điển.
Mỗi mệnh đề đều có giá trị như 19:1-14. Quả thật, luật pháp của Đức Giê-
hô-va là trọn vẹn, đầy đủ, thuyết phục linh hồn; chứng cớ của Đức Giê-hô-
va là chắc chắn làm cho người ngu dại nên khôn ngoan; giềng mối của Đức
Gê-hô-va là ngay thẳng, làm cho lòng vui mừng; điều răn của Đức Giê-hô-
va là trong sạch, làm cho mắt sáng sủa; sự kính sợ Đức Giê-hô-va là thánh
khiết hằng còn đến đời đời; và mạng lịnh của Đức Giê-hô-va là chân thật
thảy đều công bình cả.
Mọi điều kể trên đều đúng, như hai với hai là bốn vậy.
Chú giải
Có người khẳng định rằng mỗi một khúc sách trong Kinh Thánh chỉ có một
cách giải nghĩa đúng mà thôi. Nếu vậy, làm sao chúng ta biết được cách giải
nghĩa nào là đúng?
Không có khúc sách nào trong Kinh Thánh có thể có hai cách giải nghĩa
chống lại nhau. Tôi tin chắc rằng nhiều khúc trong cách sách tiên tri có một
cách ứng dụng cho địa phương đó lúc ấy, và một cách ứng dụng cho một
thời gian lâu dài về sau, nhưng đó lại là một vấn đề khác.
Đức Chúa Cha. Đức Chúa Trời là Cha chung của loài người.
Tôi vừa nghe một nhà truyền đạo đưa ra một luận cứ mạnh mẽ về Đức Chúa
Trời là Cha chung của nhân loại, căn cứ vào chương ba sách Lu-ca chép gia
phổ của Đức Chúa Giê-xu trở lui tận “A-đam, và A-đam con Đức Chúa
Trời”. Ông đã củng cố luận cứ của mình bằng Cong Cv 17:28 “Chúng ta
cũng là dòng dõi của Ngài”. Tôi không chấp nhận thuyết đó, nhưng phải trả
lời thế nào cho những người rất thích cái ý niệm về Đức Chúa Trời là Cha
chung của nhân loại, và mọi người đều là anh em với nhau?
Chẳng có gì để nghi ngờ việc loài người vốn là “dòng dõi” của Đức Chúa
Trời theo ý nghĩa của câu Kinh Thánh đã được trích dẫn, nghĩa là chúng ta
đều là dòng dõi A-đam, mà A-đam vốn trực tiếp ra từ tay Đức Chúa Trời.
Nhưng cũng dạy rằng sau khi sa ngã, loài người đã trở thành “con cái của sự
thạnh nộ”, và muốn trở thành con cái Đức Chúa Trời, họ phải được sanh lại.
Hãy làm chứng như thế với những người “thích cái ý niệm về Đức Chúa
Trời là Cha chung của nhân loại, và loài người vốn là anh em với nhau”,
nhưng xin đừng bận tâm chứng minh cho họ cái chân lý đó trước khi họ
được tái sanh, vì nếu chưa tái sanh thì họ sẽ không thể hiểu được những điều
đó. Lịnh truyền mà chúng ta phải tuân theo không phải là chứng minh Tin
Lành, nhưng là truyền giảng Tin Lành.
Tính cách trọn vẹn, không chỗ chê trách của Đấng Christ.
Phải chăng ông dạy rằng Chúa Giê-xu không thể phạm tội được? Vậy thì
Ngài đã chịu cám dỗ ở đâu? Phải chăng Kinh Thánh dạy rằng Ngài từng
chịu cám dỗ y như chúng ta? Và phải chăng Kinh Thánh cũng chép rằng
Ngài cũng là một người yếu đuối như chúng ta? Không, Kinh Thánh không
hề dạy như vậy. Bạn đã lẫn lộn Ngài với Ê-li hoặc Phao-lô hay Ba-na-ba đó
(Gia Gc 5:17; Cong Cv 14:15). Chúa chúng ta quả thật là một Con người,
nhưng khác với những người khác, là Ngài vốn không có tội lỗi từ bên
trong. Điều này giải thích cho mệnh đề chót của HeDt 4:15 không phải là
Ngài “không thể phạm tội” nhưng là “chẳng phạm tội”. Ngài tự phân rẽ khỏi
tội, không để cho bị nhiễm tội. Khi chúng ta gặp cám dỗ thì có sự quyến rũ,
lôi kéo từ bên trong nhưng với Chúa Giê-xu thì không có như vậy, vì trong
Ngài không có tội lỗi phục sẵn ở đó. Nếu có ai cho rằng người không thể
phạm tội thì cũng không bao giờ chịu cám dỗ, thì chỉ cần trả lời rằng sự cám
dỗ thật sự có nghĩa là gặp thử thách. Nếu nói rằng Chúa chúng ta không thể
chịu cám dỗ, thì chẳng khác gì bảo rằng vàng thật không thể bị thử lửa,
không thể chịu thử thách, kiểm nghiệm xem có phải đó là vàng ròng hay
không. Hoặc như nói rằng một chiến luỹ bất khả xâm phạm là một thành trì
không hề bị tấn công. Mặc dầu có chỗ khác nhau quan trọng giữa Chúa Giê-
xu với chúng ta, Ngài vẫn có thể thông cảm với chúng ta vì biết rằng trong
mỗi người chúng ta đang có sẵn điều gì, và nhờ tình yêu thương Ngài, nhờ
mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài như các chi thể đối với thân, khi chúng ta
chịu khổ, thì chính Ngài cũng cùng chịu khổ với chúng ta. Nếu Chúa Giê-xu
người Na-xa-rét đã thất bại khi chịu thử thách, đã chịu thua sự cám dỗ của
Sa-tan thì điều ấy không hề có nghĩa là Đức Chúa Trời trong xác thịt có thể
phạm tội, nhưng chứng minh rằng Chúa Giê-xu người Na-xa-rét không phải
là Đức Chúa Trời nhập thể. Tạ ơn Đức Chúa Trời về cuộc cám dỗ trong
đồng vắng mà kết quả đã chứng minh rằng Chúa Giê-xu người Na-xa-rét quả
thật là Em-ma-nu-ên, là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Hơn nữa, nếu bảo
rằng Chúa Giê-xu đã có thể phạm tội lúc Ngài sống trên đất này, thì giờ đây,
Ngài đã được cất lên trời rồi, Ngài sẽ còn có thể phạm bao nhiêu tội nữa?
Xin đừng bao giờ nghĩ như thế! Con người ngự bên hữu Đức Chúa Cha vốn
là một với Đức Chúa Cha trong Ngài cũng như trong Đức Chúa Cha không
hề có gì thay đổi hay cả đến bóng dáng của sự đổi thay nữa.
Ân tứ nói tiếng lạ
1. Phải chăng Phao-lô “đã được ơn nói nhiều thứ tiếng lạ”? (ICo1Cr 14:18).
2. Nếu IICo 2Cr 14:22 là đúng, tại sao ngày nay chúng ta không nhận được
ân tứ ấy?
1. Vâng.
2. Vì Chúa đẹp lòng muốn rút lại ân tứ ấy. Ngay từ thời các sứ đồ, việc thi
hành ân tứ ấy cũng bị cấm nếu không có người thông giải (ICo1Cr 14:28).
Loài người
Sáng tạo hay tiến hoá.
Có bằng cớ hiển nhiên nào trong Kinh Thánh chứng minh rằng Đức Chúa
Trời đã trực tiếp dựng nên loài người?
Trong Kinh Thánh, không hề có điểm nào dẫu là nhỏ nhặt nhất, nhấn mạnh
rằng con người là sản phẩm của sự tiến hoá. Loài người đã được Đức Chúa
Trời dựng nên, chứ không phải từ bùn đất mà tiến hoá thành. Đối với những
ai phục tùng thẩm quyền của Kinh Thánh, thì không có gì để nghi ngờ lời
khẳng định đó. Các sự kiện đã được Tiến sĩ Scofield vạch rõ như sau:
1. “Con người vốn được sáng tạo ra chứ không phải nhờ tiến hoá mà trở
thành. Đây là a. một lời công bố rõ ràng, đã được Đấng Christ xác nhận (Mat
Mt 19:4; Mac Mc 10:6) b. Theo Huxley thì “có một hố sâu khổng lồ ngăn
cách, một khoảng cách thật sự là vô hạn giữa con người hạ cấp nhất, với con
vật cao cấp nhất c. Con vật cao cấp nhất vẫn không có chút ý thức gì về Đức
Chúa Trời, tức không có bản chất tôn giáo; d. khoa học đã chẳng khám phá
được gì để nối liền khoảng cách đó.
2. Loài người được tạo dựng “theo hình tượng” của Đức Chúa Trời. Hình
ảnh ấy được nhận thấy rõ nhất ở “ba phần hiệp một” tạo thành người và ở
bản tính đạo đức của con người. Con người gồm có “tâm thần linh hồn và
thân thể” (ITe1Tx 5:23). Tâm thần (thần linh) là phần giúp con người nhận
biết” (IICo 2Cr 2:11) để tự liên kết với công cuộc sáng tạo thuộc linh và có
nhận thức về Đức Chúa Trời. “Linh hồn” ẩn tàng phần tự ý thức về sự sống
để phân biệt loài người với cây cỏ, vốn không có ý thức về sự sống. Theo ý
nghĩa ấy thì loài vật cũng có “hồn” (SaSt 1:24). Nhưng “linh hồn” con người
có tiềm năng lớn hơn “hồn” thú vật. Nó là trung tâm của cảm xúc, ước muốn
và tình cảm (Thi Tv 42:1-6). Trong Kinh Thánh chữ “lòng” thường được
dùng như đồng nghĩa với “linh hồn. Vì đặc tính của con người tự nhiên là có
tâm hồn hay tâm linh, cho nên chữ “linh hồn” cũng thường được dùng như
đồng nghĩa với cá nhân một người (SaSt 12:5). Thân thể tuy có thể bị tách
rời khỏi tâm thần và linh hồn và có thể chết đi, nhưng vẫn là một phần chính
của con người, như được chứng minh trong sự sống lại (GiGa 5:28, 29;
ICo1Cr 15:47-50; KhKh 20:11-13). Đó là trung tâm của các giác quan (nhờ
đó mà tâm thần và linh hồn ý thức được ngoại giới) và là bản tính đã sa ngã
của A-đam (RoRm 7:23, 24).
Sự tiến hoá.
Xin kể tên một số khoa học gia không tin thuyết tiến hoá.
Giáo sư William Bateson Anh quốc là nhà sinh học hàng đầu thế giới, mới
đây có nói: “Nếu bốn mươi năm trước đây, thuyết của Darwin được thừa
nhận không chút thắc mắc, thì ngày nay, các khoa học gia đang tiến tới chỗ
không giải thích được nguyên nhân sơ khởi của các chủng loại. Không có
bằng cớ về bất kỳ một chủng loại nào đã thủ đắc được những tài năng mới,
mà có rất nhiều thí dụ về các chủng loại đã đánh mất đi, chớ không thêm gì
được cho những sở năng của mình. Hằng ngày người ta đều chứng kiến
nhiều sự biến dạng khác nhau, có khi rất đáng kể nhưng không xảy ra ở
nguồn sơ nguyên của các chủng loại”.
Giáo sư N.S.Shaler nhà địa chất học của đại học đường Harvard nói: “các
nhà khoa học tự nhiên đã bắt đầu thấy rõ là thuyết của Darwin vẫn chưa
được chứng nghiệm”.
Cố giáo sư Virehow người được xem là “nhà hoá học lừng danh nhất thế
giới” đã nói về thuyết tiến hoá: “Nó hoàn toàn vô nghĩa. Khoa học không
chứng minh được là loài người vốn từ loài khỉ hay bất cứ một loài thú nào
khác mà ra.... Mọi kiến thức khoa học chân chính đều đứng về phía đối lập.
Nỗ lực nhằm chứng minh sự chuyển tiếp từ loài thú sang loài người đã kết
thúc trong thất bại hoàn toàn. Mắc xích trung gian đã và sẽ không thể nào
tìm ra. Người ta đã chứng minh rằng suốt một quá khứ năm ngàn năm, đã
không có sự thay đổi nào nhận thấy được trong nhân loại”.
Nhà địa chất học Gia-nã-đại Sir William Dawson nói: “Các di tích trong đá
đã dứt khoát chống lại thuyết tiến hoá, nhất là về phương diện có sự xuất
hiện đột ngột của các hình thái mới. Tất cả các đẳng cấp của sự sống đều
đang ở mức cao nhất và tuyệt hảo như từ lúc chúng mới được phú cho.
Người ta chẳng được biết gì cả về nguồn gốc con người”.
Giáo sư Agassiz một khao học gia hiện đại lỗi lạc nhất, nói: “Tôi ngạc nhiên
vì các giáo sư trong các đại học đường của chúng ta đã quá vội vàng truyền
bá từ các bục giảng của họ về những tàn tích của thuyết tiến hoá, trong khi
thuyết ấy vẫn còn là một lý thuyết chưa được chứng nghiệm”.
Tiến sĩ Etheridge chuyên gia lừng danh của Viện Bảo tàng Anh quốc về hoá
thạch học, nói: “Chín phần mười những gì người theo thuyết tiến hoá nói
đều vô nghĩa. Bảo tàng viện này có đầy dẫy bằng cớ chứng minh sự hoàn
toàn sai lầm của các quan điểm đó”.
Hãy còn nhiều nhân vật khác nữa, nhưng chừng đó thiết tưởng cũng đủ để
chứng minh rằng Thuyết tiến hoá là không đúng. Tiến sĩ Marion Mc H.Hull
tuyên bố rằng thuyết tiến hoá phá hoại sự mạc khải của Kinh Thánh, sự sa
ngã của loài người, thần tính và việc Đấng Christ được sanh ra do một trinh
nữa, sự cứu chuộc và tái sanh, và ông nói tiếp: “Thuyết tiến hoá đã được
chứng minh chỉ là một triết thuyết, nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã không tin
nó, chúng ta đã thấy là nó đi ngược với Lời Chúa và các giáo lý quan trọng
trong Kinh Thánh vậy, tại sao chúng ta còn dành cho nó một chỗ trong tư
tưởng của mình? Chúng ta hãy trở về với một đức tin đơn sơ, lành mạnh nơi
chân lý trọn vẹn đã được bày tỏ qua Lời Hằng sống của Đức Chúa Trời. Mỗi
từ ngữ đều được Chúa hà hơi và do các nhân vật được Đức Thánh Linh cảm
thúc để giãi bày phần chân lý chẳng chút sai lầm. Riêng phần tôi và nhà tôi
sẽ đứng vững trên Kinh Thánh và chấp nhận giá trị hiển hiên của Lời Chúa
không thắc mắc gì”.
Sa-tan
Tại sao ông tin là quả thật có một con quỉ?
Vì tôi cũng tin là có một Đức Chúa Trời. Kinh Thánh đã gọi đích danh quỉ
Sa-tan sáu mươi sáu lần, gọi nó là ma quỉ ba mươi bốn lần, và mỗi khi đề
cập đến nó trong tổng số một trăm lần đó, nó đều được tỏ ra là một hữu thể
có nhân cách và có các thuộc tính riêng. Trong Kinh Thánh, nó cũng được
đề cập đến rất thường xuyên mà không nêu tên, dẫu có gọi tên hay không -
Kinh Thánh luôn bày tỏ ma quỉ là một nhân cách có quyền năng đang tìm
mọi cách lôi kéo con người xây khỏi sự thờ phượng Đức Chúa Trời chân
thật.
Tội lỗi
Sự sa ngã của loài người.
Khi giải thích câu “trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra
mà ăn” (SaSt 3:17 và “loài người đã thành một bực như chúng ta” (câu 22
cùng chương). Một tôi tớ Chúa đã cho rằng câu sau chứng minh sự sa ngã đã
nâng loài người lên, chứ không phải hạ loài người xuống.
Về câu thứ nhất, nếu đọc cả mấy câu từ 3:16-19 thì ý nghĩa đã thật rõ ràng.
Tội lỗi cùng đem theo với nó điều mà Rôm 8 gọi là “tôi mọi của sự hư nát”
với tất cả những tội ác liên hệ.
Về câu thứ hai, chúng ta không thể chỉ đọc riêng rẽ một mình nó “Biết điều
thiện và điều ác” thì không có nghĩa như “biết phân biệt điều thiện và điều
ác”. IICo 2Cr 5:21 chép rằng Chúa Giê-xu “vốn chẳng biết (kinh nghiệm) tội
lỗi”, nhưng điều đó không có nghĩa rằng Ngài vốn chẳng hiểu gì về tội lỗi
cả, hay là Ngài không biết phân biệt điều thiện với điều ác. Do sa ngã A-
đam và Ê-va đã phạm tội để trở thành nạn nhân, làm tôi mọi cho tội lỗi, và
như thế là đã bị hạ thấp (sa ngã) chớ không phải là được nâng cao, người
theo thuyết tiến hoá không thể được an ủi gì trong sự kiện đáng kinh hãi này.
Tội là gì?
Phải chăng một hành động bất tuân mạng lịnh Đức Chúa Trời luôn luôn là
tội và cần phải xưng nhận, tuy sự vi phạm đó chỉ có ở trong tư tưởng và do
yếu đuối.
Chắc chắn là đúng như vậy! Bất cứ điều gì “hụt mất sự vinh hiển của Đức
Chúa Trời”, thì đều là tội, bất luận là trong tư tưởng, lời nói hay bằng hành
động; và tội, thì dầu chúng ta có ý thức hay không, cũng phải được xưng ra
và chúng ta phải tự xử lấy vì cớ tội đó. Dưới chế độ Cựu Ước, dân Y-sơ-ra-
ên đã phải dâng lên các của lễ cả cho những tội phạm không hay biết hoặc vì
ngu dốt nữa. Tự thị, tự kiêu cũng là một tội phải bị đoán phạt, hãy đối chiếu
LeLv 4:1, 12, 13 v.v... với 10:1, 2 và Giop G 1:5.
Nguyên tội.
Kinh Thánh dạy gì về nguyên tội?
Kinh Thánh dạy rằng đời sống cũ của bản ngã tội lỗi nơi mỗi tín hữu, vẫn
còn trong người ấy cho đến khi người vào thiên đàng. Nó không thay đổi và
cũng không thể thay đổi được. Đồng thời với bản tính cũ, ngươi nhận một
bản tính mới khi được sanh lại được Đức Thánh Linh ngự trị và tác động
lòng. Bao lâu người đầu phục, thì Đức Thánh kiểm soát từng đường đi nước
bước của đời sống người.
Sự cứu rỗi.
Xin cho biết người Do Thái đã được cứu rỗi như thế nào trước khi Đức Chúa
Giê-xu Christ chịu chết? Dĩ nhiên tôi biết rằng họ hướng tới Đấng Christ
cũng như chúng ta thì nhìn lui về Ngài, nhưng xin ông giải thích rõ hơn.
Các tín hữu thời Cựu Ước cũng được cứu y như tín hữu thời Tân Ước vậy.
Dường như theo cách hỏi này thì bạn vốn rất quen thuộc với nguyên tắc là
nhìn lui về cái chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá. Ngài đã chết vì những
người đã sống trước đó, cũng như sẽ sống sau đó. Nguyên tắc ấy vốn được
vạch rõ trong RoRm 3:25; HeDt 9:15. Tin Lành cứu rỗi bởi đức tin không hề
là điều mới mẻ mâu thuẫn với Cựu Ước mà chỉ là điều mới được tiết lộ cách
đầy đủ hơn mà thôi. Từ A-đam, Ê-va, đến Nô-ê, Áp-ra-ham, Môi-se, Đa-vít
cũng như toàn thể các thánh đồ Cựu Ước đều được cứu nhờ huyết Chúa Giê-
xu, cũng y như chúng ta ngày nay vậy.
Sự cứu rỗi trong thời hiện tại.
Xin giải thích RoRm 3:25
Cả phân đoạn này dạy rằng sự chết của Đức Chúa Giê-xu Christ là cho các
tín hữu cả trong quá khứ lẫn tương lai. Nghĩa là công lao của Đấng Christ
trên thập tự giá nhằm vào tất cả những người đã sống về sau này cũng như
từ trước khi thập tự giá được dựng lên. Phao-lô đã đề cập đến một điều mới
trong 3:24-26 “và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng
không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê-xu Christ, là Đấng
Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy.
Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước
kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong
thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức
Chúa Giê-xu”.
Đây là chiến thắng trọng đại của Tin Lành. Đức Chúa Trời đã bày tỏ sự công
bình của Ngài và đồng thời cũng (xưng công bình) cả người tội lỗi nữa! Tin
Lành đã chứng minh Đức Chúa Trời là công chính đối với quá khứ thế nào,
thì cũng công bằng cho “thời hiện tại y như thế, bằng cách (xưng công bình)
cho kẻ bất chính, không do công lao riêng của họ! mà nhờ công đức của
Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Như thế, đây quả thật là một sự cứu rỗi kỳ diệu, và Ngài vốn là một Cứu
Chúa kỳ diệu!
Cơ Đốc nhân.
Cơ Đốc nhân là gì? Một người trở thành Cơ Đốc nhân như thế nào?
Cơ Đốc nhân là một ngời được tái sanh. Hội Thánh của Đức Chúa Trời chỉ
gồm những người đã được sanh lại từ trên cao, bởi đức tin nơi Đấng Chúa
Giê-xu Christ. Muốn trở thành Cơ Đốc nhân riêng mình. Không thế có cách
nào khác. Kinh Thánh mô tả người tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của
mình, là người tin Ngài. GiGa 1:11-13 chứng minh điều đó: “Hễ ai đã nhận
Ngài... là tin danh Ngài... là sanh bởi Đức Chúa Trời vậy”.
Phần thưởng.
Có phần thưởng trên thiên đàng không, hay chỉ có trong Thiên hi niên mà
thôi?
Trong cả hai
Có thể nào?
Người đã được tái sanh có thể nào bứơc đi (sống) theo xác thịt không?
Chúng ta đọc thấy trong các thư tín hàng loạt tội lỗi của xác thịt, và Kinh
Thánh tuyên bố rằng tất cả những ai phạm vào các tội ấy thì không thể vào
được Nước Trời.
Điều đáng buồn là người đã tin Chúa rất có thể bước đi (sống) theo xác thịt,
vì xác thịt của người giống như xác thịt của một người chưa tin Chúa vốn
không thay đổi. Dĩ nhiên từ “xác thịt” chỉ về phần bản tính cũ do A-đam mà
ra, vốn không thay đổi và không thể thay đổi được cho đến khi chúng ta
được biến hoá theo hình ảnh của Đấng Christ khi Ngài tái lâm.
Trong khi chờ đợi, hễ khi nào chúng ta bước đi (sống) theo xác thịt, thì Đức
Chúa Trời sẽ sửa phạt chúng ta vì Ngài vốn là một người Cha trung tín. Câu
“những kẻ làm như thế” chỉ về con người cũ, con người tự nhiên chưa được
tái sanh. Chúng ta phải giải nghĩa những khúc sách như thế dưới ánh sáng
của lời dạy dỗ trong Kinh Thánh về chủ đề ấy.
Hội Thánh
Nhiệm vụ của Hội Thánh
Hội Thánh có liên hệ như thế nào với Đấng Christ và với thế gian?
Hội Thánh là Thân thể, cũng là Vợ của Đấng Christ. Trong Eph Ep 2:10,
Hội Thánh được gọi là công việc Ngài làm ra là tác phẩm, là bài thơ (Hi văn
poiema) của Ngài. Đây là một câu kỳ diệu. Hội Thánh là tác phẩm, là công
việc tay Ngài làm ra, trong đó Ngài đã tự biểu hiện trọn vẹn đã dốc đổ chính
mình ra, đã tự cống hiến và một khi đã hoàn tất thì toàn thể vinh quang Ngài
đều thể hiện trong đó. Trong khi chờ đợi, chúng ta được “tạo dựng trong
Chúa Giê-xu Christ” nhằm một chủ đích đó là “để làm việc tốt lành”. Mà
“việc tốt lành” là tất cả những gì Đức Chúa Trời đã thu xếp từ trước để
chúng ta phải bước đi trong đó. Con cái Đức Chúa Trời chỉ dấn thân làm
công việc tốt lành khi nào họ bước đi theo nẻo đường mà Ngài đã vạch sẵn
từ trước cho họ. Làm bất cứ việc gì khác, là làm điều xấu xa gian ác.
Nhiệm vụ của Hội Thánh trong thế gian là một trong nhiều chủ đề bị hiểu
lầm nhiều nhất. Phần đông người ta nghĩ rằng Hội Thánh ở trong thế gian là
để cải tạo, cải tiến nó, biến nó thành “một chỗ tốt đẹp hơn để chúng ta sống
trong đó”. Một ý niệm như thế hoàn toàn xa lạ với sự bày tỏ của Kinh Thánh
về chủ đích của Đức Chúa Trời khi Ngài đưa Hội Thánh vào trong thế gian.
Công việc của Hội Thánh trong thế gian là tự hoàn tất. Thoạt nghĩ, thì dường
như đó không phải là chân lý vì nó đề ra một chương trình vị kỷ, trái ngược
với tâm trí của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu chúng ta nhớ lại rằng nếu Hội
Thánh muốn tự hoàn tất thì phải thắng hơn thế gian, đưa người thế gian trở
thành thuộc viên của Hội Thánh, thành chi thể của Thân thể Đấng Christ, thì
chúng ta sẽ thấy rằng nhiệm vụ của Hội Thánh vốn không phải là vị kỷ, mà
hoàn toàn là vị tha.
Nhiệm vụ của Hội Thánh được trình bày vắn tắt trong 4:12. Câu này tuyên
bố rằng mục đích việc Chúa Phục sinh ban phát mọi ân tứ về chức dịch, là
nhằm “để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây
dựng thân thể Đấng Christ”. Nhưng chúng ta phải đọc câu này thật cẩn thận.
Đây không phải là một câu khẳng định theo ba phương diện như nhiều người
thường nói. Trước hết, đây không phải là việc khiến cho các thánh đồ nên
trọn vẹn, thứ hai, đây cũng không phải là việc khiến cho công việc về chức
dịch nên trọn vẹn, và thứ ba, cũng không phải là để khiến việc gây dựng
thân thể Đấng Christ nên trọn vẹn. Đây chỉ là một câu khẳng định đơn giản.
Chủ đích của việc Đấng Christ ban các ân tứ chỉ ngắn gọn là nhằm gây dựng
Thân thể Ngài, là Hội Thánh; và muốn đạt mục đích đó, Ngài phải có các
chức dịch hay người phục vụ; mà muốn có người phục vụ, thì các thánh đồ
phải được thành toàn hay là đào tạo, huấn luyện để đạt đến mức trọn vẹn;
mà muốn huấn luyện đào tạo các thánh đồ hầu đạt đến bậc trọn lành, thì một
số người phải được Đức Thánh Linh ban cho tài năng, và chính Chúa Phục
sinh đã ban các ân tứ ấy cho Hội Thánh Ngài “để các thánh đồ được trọn
vẹn về công việc của chức dịch”. Và cứu cánh nhằm vào luôn luôn là: “gây
dựng thân thể Đấng Christ, tức là Hội Thánh”.
Theo câu 13 thì mọi điều kể trên phải diễn tiến “cho đến chừng chúng ta
thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Đức Chúa Trời,
mà nên bậc thành nhơn, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ”.
Không phải là cho đến khi đạt được “một nhân tính trọn vẹn”, vốn không
phải là tất cả ý nghĩa của câu ấy; nhưng ý nghĩa ở đây là: “Đức Chúa Trời
đang làm việc để tạo dựng một người. Ngài đã dành bao nhiêu thì giờ để tạo
ra con người đầu tiên, thì chúng ta không được biết; nhưng từ gần hai ngàn
năm nay. Ngài đang làm việc để tạo ra một Người mới. Người ấy là Đấng
Christ. Thân thể Ngài là Hội Thánh. Mỗi khi có một tội nhơn ăn năn tin
Ngài, thì có một chi thể được thêm vào cái Thân thể ấy, và thân thể càng gần
được hoàn thành hơn. Công việc ấy phải tiến hành cho đến khi tội nhơn cuối
cùng của chế độ này ăn năn tin Chúa để quay về với Đức Chúa Trời, thì
Người trọn vẹn sẽ hoàn tất vì đã “đạt được tấm thước vóc giạc trọn vẹn của
Đấng Christ”. Đứa con trai vẫn chưa được sanh ra cách trọn vẹn; chính giây
phút nó được sanh ra trọn vẹn, thì sẽ được “tiếp lên tới Đức Chúa Trời, và
nơi ngôi Ngài” (ITe1Tx 4:16-18; KhKh 12:5).
Sự phong chức
Có nền tảng Kinh Thánh nào cho việc “tấn phong” các mục sư, truyền đạo?
Trong Tân Ước có bốn khúc sách đề cập việc đặt tay liên hệ với hành động
tương đương là lễ tấn phong. Chính từ ngữ “tấn phong” hay “phong chức”
dùng theo ý nghĩa chỉ định, bổ nhiệm giáo phẩm, không thấy có trong Tân
Ước. Chữ vẫn dùng chỉ việc “phong chức” trong Cong Cv 14:23 thật ra là
“lựa chọn” hay “chỉ định”. Trong Công vụ đoạn 6. Sau khi bảy vị chấp sự đã
được chọn, thì được các sứ đồ bổ nhiệm vào chức vụ bằng cách cầu nguyện
và đặt tay. Các “nhà tiên tri và giáo sư” tại An-ti-ốt đã biệt riêng Ba-na-ba và
Sau-lơ cho chức vụ truyền giáo bằng cách đặt tay trên họ, kiêng ăn và cầu
nguyện (13:1-52). Trong ITi1Tm 4:14 và 1:6 ân tứ ban cho Ti-mô-thê được
cho biết là đã xảy đến đồng thời với việc ông được hội đồng các trưởng lão
đặt tay, trong đó dừng như có mặt cả Phao-lô nữa. Câu “Đừng vội vàng đặt
tay trên ai” trong 5:22 cũng được nhiều người cho là chỉ về lễ tấn phong.
Việc hành lễ
Hôm qua tôi bị người ta tố cáo là “Tân phái” vì khẳng định rằng lễ tấn
phong của chúng ta ngày nay chẳng có liên hệ gì với việc hành lễ cả, rằng đó
chỉ là vấn đề thứ bậc do các giáo phái đặt ra, chớ không phải do Tân Ước
truyền lại. Xin ông vui lòng giải thích vấn đề gây tranh luận này.
Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn rằng giữa “lễ tấn phong” của chúng ta ngày
nay, với việc “hành lễ” vốn chẳng có liên hệ gì với nhau cả. Có lẽ tôi còn đi
xa hơn bạn để bảo rằng nó chẳng phải là vấn đề “thứ bậc trong giáo phái”
hay “Tân Ước truyền lại” gì cả. Tôi cho rằng bất cứ một giáo phái nào đặt ra
các trở ngại trong vấn đề “hành lễ”, bảo rằng ai có thể ban Tiệc Thánh, làm
phép báp-tem, và ai không thể, thì đều là phi lý cả. Theo tôi, thì điều hết sức
rõ ràng là bất cứ một tín hữu nào cũng có thể làm phép báp-tem cho một tín
hữu khác, cũng như đều có thể phân phát bánh và rượu Tiệc Thánh. Không
hề có vấn đề nào như thế đã được đặt ra ngoại trừ lời nguyền của hàng giáo
phẩm từ La Mã vẫn đuổi theo chúng ta. Riêng tôi, tôi rất vui khi thấy người
tín đồ cải chánh chúng ta tự vứt bỏ mọi thứ giẻ rách của Công giáo La Mã;
nhưng tôi ít hi vọng là sẽ được như vậy, cho đến khi chúng ta được cất lên
khỏi sân khấu của đời này và sẽ được trông thấy mọi sự cách rõ ràng, mặt
đối mặt, chớ không phải chỉ thấy lờ mờ từng phần nhỏ nhặt như hiện nay.
Phần mười
Tôi phải làm thế nào để chứng minh rằng dâng 1/10 là điều phải làm dưới
chế độ ân điển?
Bạn không thể nào chứng minh được việc đó, vì nó không thuộc dưới chế độ
ân điển. Chúng ta dâng tiền tuỳ theo Đức Chúa Trời giúp đỡ chúng ta may
mắn, thịnh vượng là điều tốt (ICo1Cr 16:2); và chắc chắn là chúng ta phải
xem việc được dâng hiến cho Đức Chúa Trời dưới chế độ ân điển cũng
nhiều bằng việc dân sự Ngài được truyền lịnh phải dâng hiến dưới chế độ
luật pháp, là một đặc quyền. Tuy nhiên Tân Ước không hề qui định việc
dâng 1/10 là điều bó buộc. Giáo lý về việc dâng hiến đã được qui định rõ
ràng trong hai chương IICo 2Cr 8:1-9:15 1. Trước hết, chúng ta phải dâng
chính mình (bản ngã, cái ta) cho Chúa (8:5) 2. Sự dâng hiến của chúng ta
phải chứng minh được cho tình yêu thương thành thật của chúng ta (8:8) 3.
Chúng ta phải dâng những gì mình đã hứa nguyện (8:10, 11) 4. Nếu sự dâng
hiến của chúng ta là tự nguyện, thì Đức Chúa Trời sẽ vui nhận tuỳ theo điều
chúng ta có, chớ không theo điều chúng ta không có (8:12) 5. Nếu chúng ta
dâng hiến rời rộng, chúng ta sẽ được báo trả rời rộng (9:6) 6. Chúng ta hãy
dâng theo như lòng mình đã định, không phải phàn nàn hay ép uổng vì Đức
Chúa Trời yêu kẻ thí của cách vui lòng (9:7). Từ ngữ Hi Lạp dịch ra vui lòng
có nghĩa là với thái độ vui vẻ”. Đức Chúa Trời yêu mến người dâng tiền mà
vui vẻ trong lòng. 7. Đức Chúa Trời ghi nhận sự dâng hiến của chúng ta, và
Ngài vừa có quyền vừa sẵn lòng ban mọi ân huệ cho người tự nguyện dâng
hiến (8:8-11) và cuối cùng điều cần nhớ là chúng ta chẳng bao giờ dâng
nhiều hơn điều Ngài đã ban cho chúng ta cả.
Tiệc Thánh
Có tín hữu đã đặt vấn đề về việc dùng rượu (nho) trong Tiệc Thánh. Có
người cho rằng chỉ dùng nước nho (nước ép) là đủ, trong khi nhiều người
khác chủ trương phải dùng nước nho đã lên men và thành rượu rồi. Xin cho
biết ý kiến của ông.
Trong Hội Thánh mà tôi từng làm mục sư hai mươi năm và bây giờ, tôi là
một thuộc viên tín đồ, chúng tôi vẫn dùng nước nho chưa lên men và bánh
mì không men trong Tiệc Thánh.
Làm như vậy là nhằm tuân thủ sự kiện men vốn chỉ bóng về điều ác theo Lời
Đức Chúa Trời (mà sự lên men cũng là một hình thức theo cùng một nguyên
lý như thế), do đó chúng tôi tin rằng bất kỳ vật gì. Chỉ bóng về thịt và huyết
Chúa cũng phải không chứa đựng men và sự lên men.
Tuy nhiên tôi không xem vấn đề ấy là có ảnh hưởng quan trọng đến sự thông
công của chúng ta. Vấn đề là chúng ta nên tôn trọng quyền tự do của người
khác. “Hãy để cho mọi người tin chắc nơi tâm trí mình”.
Tin Lành.
Tin Lành là gì? Xin ông giải thích rõ ý nghĩa của từ ngữ “Tin Lành.
Có khi chữ này được dùng chỉ một trong bốn sách đầu tiên của Tân Ước,
như sách Tin Lành của Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng. Từ ngữ Tin Lành có
nghĩa là tin tức vui mừng, tốt lành. Bốn hình thức của Tin Lành đã được
Tiến sĩ Scofield phân biệt trong bộ Thánh Kinh Phù Dẫn của ông như sau:
1. Tin Lành về Nứơc Trời. Đây là Tin Lành công bố rằng Đức Chúa Trời dự
định lập một vương quốc trên thế gian này, ứng nghiệm với Giao ước cùng
Đa-vít (IISa 2Sm 7:16). Đây là một vương quốc về mọi mặt chính trị, thuộc
linh, phổ quát của dân Y-sơ-ra-ên, trong đó Con Đức Chúa Trời, Đấng kế
nghiệp cho Đa-vít sẽ làm Vua, và suốt thời gian 1.000 năm sẽ bày tỏ sự công
chính của Đức Chúa Trời trong mọi việc giữa loài người. Xem Mat Mt 3:2.
Hai đợt truyền giảng Tin Lành ấy đã được đề cập, một ở trong quá khứ, bắt
đầu với chức vụ của Giăng Báp-tít, được Chúa chúng ta và các môn đệ Ngài
tiếp tục, và kết thúc với việc dân Do Thái khước từ, không nhận Ngài là
Vua. Đợt kia hãy còn trong tương lai (Mat Mt 24:14) trải qua cơn đại Nạn và
ngay trước lúc Vua Giê-xu tái lâm trong vinh hiển.
2. Tin Lành ân điển của Đức Chúa Trời. Đây là tin mừng về Chúa Giê-xu
Christ, nhà Vua đã bị từ bỏ, đã chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi của thế
gian và đã từ chết sống lại để xưng công bình cho chúng ta, và nhờ Ngài, hễ
ai tin Ngài thì đều được kể là công chính về mọi mặt. Hình thức của Tin lành
này đã được mô tả nhiều cách khác nhau. Đó là “Tin Lành của Đức Chúa
Trời” (RoRm 1:1) vì bắt nguồn từ tình yêu của Ngài; “Tâm tình của Đấng
Christ” (IICo 2Cr 10:14) vì xuất phát từ sự hi sinh của Ngài, và vì Ngài là
Đối tượng duy nhất của đức tin Cơ Đốc; “Tin Lành ân điển của Đức Chúa
Trời (Cong Cv 20:24) vì Tin Lành ấy cứu con người khỏi sự nguyền rủa của
Luật pháp; “Tin Lành vinh hiển” (ITi1Tm ITi1:11; IICo 2Cr 4:4) vì đó là
mối bận tâm của Đấng Vinh hiển, nhằm đưa nhiều con cái Ngài đến vinh
hiển (HeDt 2:10); “Tin Lành về sự cứu rỗi chúng ta” (Eph Ep 1:13) vì đó là
“quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (RoRm 1:16) “Tin Lành
không chịu phép cắt bì” (GaGl 2:27) vì giải phóng con người khỏi mọi hình
thức, lễ nghi; “Tin Lành bình an” (Eph Ep 6:15) vì nhờ Đấng Christ mà có
sự hoà bình giữa tội nhân với Đức Chúa Trời và chúng ta được ban cho sự
bình an trong lòng.
3. Tin Lành đời đời (KhKh 14:6). Đây là Tin Lành sẽ được rao truyền cho
người trên đất này ngay sau khi cơn Đại Nạn kết thúc và trước ngày phán xét
các dân các nước (Mat Mt 25:31). Đây không phải là Tin Lành về Nước
Trời, cũng không phải Tin Lành ân điển. Tuy rao giảng về sự phán xét, chớ
không phải là sự cứu rỗi, nhưng đó là Tin Lành cho dân Y-sơ-ra-ên và cho
những người đã được cứu trong cơn đại nạn (KhKh 7:9-14; LuLc 21:28; Thi
Tv 96:11-13; EsIs 35:4-10).
4. Điều mà Phao-lô gọi là “Tin Lành tôi” (RoRm 2:16). Đây là Tin Lành ân
điển của Đức Chúa Trời ở mức phát triển đầy đủ nhất gồm cả sự mạc khải
về kết quả của Tin Lành ấy trong việc kêu gọi Hội Thánh cũng như các mối
liên hệ, địa vị, đặc quyền và trách nhiệm của Hội Thánh đó. Đây là chân lý
nổi bật của thư Ê-phê-sô và Cô-lô-se, nhưng cũng thâm nhập tất cả các thư
tín khác của Phao-lô.
Có “Tin Lành khác” (GaGl 1:6; IICo 2Cr 11:4) là sự lệch lạc của Tin Lành
ân điển của Đức Chúa Trời mà chúng ta được khuyến cáo phải chống lại. Từ
xưa, nó đã có nhiều hình thức quyến rủ, nhưng cách thử nghiệm chỉ có một:
nó luôn luôn phủ nhận tính cách đầy đủ và duy nhất của ân điển để cứu rỗi,
gìn giữ và thành toàn người tín hữu; nó pha lẫn vào ân điển, một số công
đức nào đó của con người. Trong Ga-la-ti, đó là luật pháp, trong Cô-lô-se,
đó là sự cuồng tín (CoCl 2:18 v.v..) Dầu là dưới hình thức nào, các giáo sư
của nó đều bị Đức Chúa Trời nguyền rủa.
Nước Trời.
Lời Uỷ thác trọng đại.
Mat Mt 28:19, 20 chép: “Vậy hãy đi dạy dỗ muôn dân.. và dạy họ giữ hết cả
mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi” v.v.. Vấn đề là nếu Ma-thi-ơ nói
phải dạy mọi điều trong sách của ông cho muôn dân, tại sao ông lại bảo rằng
có một số chân lý trong đó vốn không dành cho các Cơ Đốc nhân thuộc chế
độ (ân điển) này, mà dành cho người Do Thái? Nếu Ngài đã dạy là phải giữ
hết cả mọi điều và phải dạy hết cho muôn dân, thì tại sao 24:29-31 lại không
được áp dụng cho các Cơ Đốc nhân người ngoại bang? Bấy giờ, Ngài đang
phán với các tín hữu mà về sau, sẽ trở thành trụ cột cho Hội Thánh.
Từ lâu, tôi vốn tin quyết và đã giảng dạy rằng lời uỷ thác trọng đại trong Mat
Mt 28:9, 20 vốn được ứng dụng trước tiên cho Nước Trời, chứ không phải
cho Hội Thánh. Nếu chúng ta nhớ kỹ như vậy, thì sẽ khỏi lẫn lộn các bước
diễn tiến theo trình tự được tìm thấy trong Cong Cv 1:8 với các chi tiết trong
các thư tín gởi cho các Hội Thánh. Lời uỷ thác trong Ma-thi-ơ chỉ có hiệu
lực cho người Do Thái còn sót lại sau khi Hội Thánh đã được cất lên.
Dân Y-sơ-ra-ên.
Các lời hứa cho dân Y-sơ-ra-ên.
Các dân ngoại bang và Hội Thánh có thể lấy đức tin để tuyên bố tất cả
những lời hứa cho dân Do Thái trong Cựu Uớc cũng là của mình không?
Có nhiều người đã chủ trương áp dụng các lời hứa ấy cho người ngoại bang
và Hội Thánh, nhưng chủ trương đó không có căn cứ. Đức Chúa Trời vẫn
chưa giải quyết xong xuôi mọi việc với dân Y-sơ-ra-ên. Hiện nay, tuyển dân
Ngài đang ở trong tình trạng bị từ bỏ và gặp cảnh đen tối, nhưng sự việc sẽ
không vĩnh viễn như vậy. “Vả, hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng
biết sự mầu nhiệm này e anh em khoe mình khôn ngoan chăng: ấy là một
phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng, cho đến chừng nào số dân
ngoại nhập vào được đầy đủ; vậy thì cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu như có
chép rằng: Đấng giải cứu sẽ đến từ Si-ôn, cất sự vô đạo ra khỏi Gia-cốp; ấy
là sự giao ước mà ta đã lập với họ, khi ta xoá tội lỗi họ rồi” (RoRm 11:25-
27).
Giu-đa và Bên-gia-min.
IVua 1V 12:20 chép: “Chỉ có chi phái Giu-đa cứ theo nhà Đa-vít mà thôi”
nhưng Bên-gia-min vẫn theo nhà Đa-vít. Phải giải thích như thế nào?
Trong 11:29-32, nhà tiên tri A-hi-gia xé chiếc áo tơi của Giê-rô-bô-am, bảo
ông nhận cho mình mười mảnh, bởi đó (c.31) ngụ ý rằng Đức Chúa Trời sẽ
ban cho ông mười chi phái Giu-đa và Bên-gia-min tương ứng với hai mảnh
còn lại của chiếc áo bị xé. Chi phái Bên-gia-min vẫn cùng với chi phái Giu-
đa theo nhà Đa-vít được những khúc sách như IVua 1V 12:21-23 và IIVua
2V 11:12 vạch rõ. Hai chi phái này vốn liên kết chặt chẽ với nhau, đến nỗi
trong khúc sách mà bạn đề cập, họ đã được xem như chỉ là một. Chi phái
Lê-vi cũng theo nhà Đa-vít (ISu1Sb 11:13, 14) và nhiều chi phái khác nữa
cũng nhập với nước Giu-đa (IVua 1V 12:17; IISu 2Sb 15:9), nhưng đó là
vấn đề tự chọn của họ.
Giô-sép và Bên-gia-min.
Tôi biết rằng câu chuyện của Giô-sép vốn là một lời tiên tri kỳ diệu về Cứu
Chúa Giê-x Christ chúng ta; nhưng tôi không hiểu chương 45 của Sáng-thế
ký. Ý ghĩa tiên tri của chương đó là gì, nhất là mấy câu 1-4?
Đây là điểm chuyển tiếp giữa Giô-sép với Bên Gia-min như là hai nhân vật
chỉ bóng về Đấng Christ. Tôi xin trích dẫn Tiến sĩ Scofield: “Cần chú ý là
đến đây thì Bên-gia-min trở thành nhân vật nổi bật. Giô-sép vốn chỉ bóng
đặc biệt về Đấng Christ khi Ngài giáng lâm lần thứ nhất, bị chối bỏ, chịu
chết, sống lại và được các dân ngoại tôn cao, nhưng không được dân Y-sơ-
ra-ên thừa nhận. Còn về nhân vật Bên-gia-min lớn hơn (chỉ bóng Đấng
Christ) là “Con Trai của sự đau đớn” nhưng cũng là “Con Trai của tay hữu”
(SaSt 35:18) thì được bày tỏ ra đây quyền thế trong Nước Trời. Chỉ đến
chừng đó, và đến lúc đó mà thôi, dân Y-sơ-ra-ên mới được phục hồi địa vị
và ăn năn trở lại tin Chúa. Theo nghĩa hình bóng, thì SaSt 45:1, 2 nói trước
về những lời tiên tri có tính cách mô tả, sẽ mạc khải việc ấy (Exe Ed 20:33-
36; OsHs 2:14-23) trong khi Bên-gia-min chỉ bóng về lời tiên tri về Đấng
Christ sẽ được ứng nghiệm.
Cây vả khô.
Tại sao Chúa Giê-xu lại rủa cây vả hay là muốn cho nó phải có trái, trong
khi Kinh Thánh chép rõ rằng “vì bấy giờ không phải mùa vả”? (Mac Mc
11:12-14). Phải chăng đây cũng là cùng một biến cố với Mat Mt 21:19?
Tôi tin rằng hai phần ký thuật ấy vốn chỉ về cùng một biến cố Tiến sĩ
Scofield nói: “Cây vả vẫn giữ được lá qua suốt mùa đông, thường cũng có
trái nữa. Bấy giờ hãy còn quá sớm để có thể có lá mới hoặc trái”. Ông cũng
nói: “Cây vả bị khô là một phép lạ theo nghĩa ẩn dụ, liên hệ đến dân Y-sơ-
ra-ên (LuLc 13:6-9). Đối chiếu với Mat Mt 24:32-33, một lời tiên tri về việc
dân Y-sơ-ra-ên sẽ lại đâm chồi nẩy lọc”.
Lịch Do Thái
Xin giải thích tại sao người Do Thái kỷ niệm Năm Mới vào tháng 9 dương
lịch thay vì vào ngày tháng Giêng dương lịch; và tại sao họ đặt công cuộc
sáng tạo trời đất 243 năm gần hơn là dương lịch?
Chúng tôi xin trích dẫn bộ Bách Khoa Từ điển Anh quốc, là “theo lịch Do
Thái thì công cuộc tạo dựng con người “được xem là đã xảy ra 3.760 năm 3
tháng trước khi niên lịch Cơ Đốc giáo bắt đầu. Năm thì có tính cách phối
hợp giữa mặt trời và mặt trăng (âm dương lịch), và tuỳ theo đó là năm
thường hay năm nhuận, sẽ gồm 12 hay 13 tháng theo âm lịch, mỗi tháng có
29 hoặc 30 ngày. Như thế, năm thường sẽ kéo dài 354 ngày, và năm nhuận
384 ngày. Trong cả hai trường hợp, khi thì năm được thêm, khi thì bị giảm
đi một ngày, để một số ngày lễ đúng vào một ngày nào đó trong tuần, để họ
có thể giữ ngày lễ ấy được thuận lợi hơn...
“Vì các phép tính thì giờ của người Hi Lạp và La Mã đều có liên hệ với một
số lễ nghi ngoại đạo mà các Cơ Đốc nhân vốn ghê tởm, ngay từ thời kỳ rất
sớm, lịch Cơ Đốc giáo đã bắt chước lịch Do Thái và thừa nhận thời gian mà
lịch ấy cho là lúc thế gian này đã được sáng tạo. Các yếu tố thời gian mà cả
người Do Thái lẫn các Cơ Đốc giáo đã dựa vào để tính toán thời gian đó đều
đựơc căn cứ vào các phần ký thuật của CựưUớc, vốn được truyền đến cho
chúng ta do ba nguồn khác nhau: cổ bản Kinh điển bằng tiếng Hi-bá-lai, bản
tiếng Sa-ma-ri và bản dịch Hi-văn được gọi là ộ Bảy Mươi Dịch giả. Về thời
gian, thì ba bộ này hoàn toàn bất đồng ý kiến đến mức không thể nào dung
hoà với nhau được, cũng không có lý do nào thoả đáng để kết luận dứt khoát
là bản nào đúng hơn bản nào...
“Trong bài Tựa cho bộ sách Vấn đề thời gian của Thánh Sử, Des Vignoles
khẳng định rằng ông đã sưu tập được hai trăm cách tính toán thời gian trở lui
về những ngày đầu tiên của lịch sử, thì cách tính yếu nhất chỉ nhận có 3.483
năm giữa công cuộc sáng tạo trời đất với kỷ nguyên hiện nay, còn cách tính
dài nhất, lại cho là có đến 6.984 năm. Chỗ khác nhau là ba mươi lăm thế kỷ!
Do đó, thiết tưởng đã đủ để vạch ra rằng cái gọi là kỷ nguyên sáng tạo trời
đất đó là hoàn toàn ước lệ, là một thời kỳ mà người ta chỉ tính toán cách độc
đoán mà thôi...
“Trước ngày dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, năm của họ bắt đầu vào tiết Thu
phân; nhưng để cho lễ kỷ niệm sự giải phóng đó được trang trọng hơn, tháng
Nisan hay Abib trong đó biến cố ấy xảy ra - (nhằm tiết Xuân phân) - về sau
đã được xem là lúc bắt đầu cho năm đại giáo hay hợp pháp. trong mọi công
việc có tính cách dân sự và trong việc điều chỉnh các năm hân hỉ, năm Sa-
bát, người Do Thái vẫn theo lịch xưa bắt đầu ở tháng Tisri, nhằm tiết Thu
phân”.
Âm phủ (Hades) Ngục luyện tội; Địa ngục (Hell) và Thiên đàng.
Người Công giáo La Mã bảo rằng mọi người đều phải xuống địa ngục
(Hell). Tôi thấy trong Cong Cv 2:27 và 2:24 có cái gì đó mà tôi không hiểu.
Xin ông giải thích.
Phải chăng tâm linh của mọi người đều trở về với Đức Chúa Cha là Đấng
ban nó cho mọi người? Phải chăng đều này bao gồm cả kẻ ác lẫn các Cơ
Đốc nhân?
Điều giáo hội Công giáo La Mã dạy không phải là tất cả mọi người đều phải
xuống Địa ngục, nhưng là mọi người đều phải vào Ngục luyện tội. Giáo lý
này không có nền tảng trong Kinh Thánh mà căn cứ theo truyền khẩu của
giáo hội và không có giá trị gì đối với người tin vào Lời Đức Chúa Trời.
Từ ngữ “Âm phủ” trong 2:27 là “Hades”. Chúa chúng ta không xuống Âm
phủ hay Địa ngục mà đến Hades, nơi mà trước ngày Ngài phục sinh vốn là
chỗ ở cho cả người được cứu lẫn những kẻ bị hư mất, yuy hai hạng người
này bị ngăn cách nhau bằng một “vực sâu lớn” không thể từ bên này sang
bên kia hoặc ngược lại được (LuLc 16:26), khi Chúa Phục sinh, Ngài đưa
mọi người được cứu khỏi Hades để cùng về Thiên đàng với Ngài và từ đó
trở đi, những người được cứu, khi qua đời liền “về ngay với chúa” trên thiên
đàng (Eph Ep 4:8-10; IICo 2Cr 5:6-8).
Chỉ có tâm linh người được cứu mới được về với Đức Chúa Trời. Kẻ bị hư
mất thì phải “đi đến nơi ở của nó” (Cong Cv 1:25).
Thiên đàng
Nơi gọi là Thiên đàng.
Ông có cho rằng Thiên đàng là một chỗ nào đó - như một hành tinh khác
chẳng hạn - ở một nơi nào đó không?
Vâng. Thiên đàng là một chỗ ở. Tôi không nói nó là “một hành tinh” nhưng
nó phải “ở một nơi nào đó”. Chúa Giê-xu đã nói rằng Ngài ra đi để sắm sẵn
một chỗ ở cho chúng ta, và cuối cùng, hễ Ngài ở đâu thì chúng ta cũng sẽ ở
đó với Ngài. Thiên đàng nhất thiết phải là một chỗ ở, nếu không, thân thể đã
phục sinh của Ngài sẽ không ở một “chỗ” nào cả, và điều đó không thể suy
tưởng được. Ngài thật sự ngự trên một chiếc ngai bên cạnh Cha Ngài, tại
một nơi có thật trong nơi cao nhất của các từng trời, cao hơn các từng trời
(Eph Ep 4:10).
Hoả ngục.
Thực tại của hoả ngục.
Ông có tin rằng Hoả ngục có thật như Kinh Thánh mô tả không?
Có. Hoả ngục là một chỗ ở, y như Thiên đàng là một chỗ ở vậy. Nhiều khi
chữ Hades trong Tân Ước và chữ Sheol tương đương trong CựưUớc đã bị
dịch sai là Hoả ngục, khiến độc giả dễ nhầm lẫn. Nhưng chắc chắn là Kinh
Thánh có nói đến Hoả ngục. Chẳng những Hades hay Sheol là một nơi có
thật mà Gehenna, Hoả ngục hay Hồ Lửa cũng có thật nữa. Nếu vốn được
chuẩn bị để dành cho ma quỉ và các quỉ sứ nó, và có một ngày, chúng sẽ bị
nhốt vào nơi khủng khiếp đó cùng với toàn thể những người mà tên không
được chép trong Sách Sự Sống.
Sự tha tội.
Muốn được tha tội, một Cơ Đốc nhân sa ngã hay lỡ phạm một tội nào đó
phải công khai xưng tội ấy ra trước Hội Thánh, hay có thể âm thầm đến với
Đức Chúa Trời và xưng tội ấy riêng với Ngài mà thôi? Tôi mới nghe một
ông mục sư nói rằng nếu không xưng tội cách công khai, thì sẽ bị trừng phạt
hết sức nặng nề.
Việc này tuỳ thuộc phần lớn vào tính cách của tội đã phạm, hay sự sa ngã.
Nếu tội phạm đến Hội Thánh, thì việc xưng tội cả với Hội Thánh lẫn với
Đức Chúa Trời. Nếu tội phạm với một thực hiện với một hoặc nhiều cá nhân
đó. Sự xưng tội trong IGi1Ga 1:9 là xưng tội với Đức Chúa Trời; còn trong
Gia Gc 5:16 thì chép: “Hãy xưng tội cùng nhau”.
Ân điển
Ân điển là gì?
Ân điển là ân huệ, Chúng ta vẫn thường nói: “Ân huệ mà chúng ta không
đáng được hưởng”. Muốn là ân huệ, thì phải là điều mà lẽ ra, chúng ta không
xứng đáng được nhận lãnh. Ân điển là sự ban cho, là quà tặng, mà sự cứu rỗi
là do ân điển, bởi vì đó, là quà tặng của Đức Chúa Trời cho bất cứ ai bằng
lòng nhận lấy. Bởi đức tin mà người ta trở nên kẻ ăn gia tài hầu cho sự ấy
được là bởi ân điển, và cho lời hứa được chắc chắn cho cả dòng dõi Áp-ra-
ham, chẳng nhường cho dòng dõi dưới quyền luật pháp, mà cũng cho dòng
dõi có đức tin của Áp-ra-ham, mà cũng cho dòng dõi có đức tin của Áp-ra-
ham, là tổ phụ hết thảy chúng ta” (RoRm 4:16). Nếu khác đi, thì không có ai
được bảo đảm như vậy cả. “Nhưng nếu bởi ơn, thì chẳng phải bởi việc làm
nữa; bằng chẳng, thì ơn không còn phải là ơn” (RoRm 11:6). Cảm tạ ơn Đức
Chúa Trời, vì chúng ta đã được cứu là nhờ ân điển!
Ngày Sa-bát
Không thay đổi, nhưng đã bị bãi bỏ.
Tại sao các Cơ Đốc nhân đều giữ ngày thứ nhất trong tuần lễ làm ngày Sa-
bát, mà không giữ ngày thứ bảy như Đức Chúa Trời đã truyền dạy? Trong
Kinh Thánh, có chỗ nào cho chúng ta cái uy quyền để thay đổi Luật pháp?
Không hề có uy quyền nào như thế và Luật pháp thì không hề bị thay đổi,
nhưng chỉ bị bãi bỏ mà thôi. Nếu nói theo nghĩa hẹp, thì nói về một ngày nào
đó là “ngày Sa-bát của Cơ Đốc nhân” là không phù hợp với Kinh Thánh.
Chắc chắn ngày thứ nhất trong tuần lễ là “ngày của Chúa” mà KhKh 1:10 đã
đề cập, nhưng không lấy đó làm ngày Sa-bát. Kinh Thánh không biết ngày
Sa-bát nào trong tuần lễ ngoài ngày thứ Bảy. Nếu Cơ Đốc nhân bị đặt dưới
Luật pháp, thì họ bắt buộc phải giữ ngày thứ Bảy làm ngày Sa-bát. Nhưng
họ vốn không ở dưới Luật pháp, mà ở dưới ân điển (RoRm 6:14). Luật pháp
vốn được ban cho dân Y-sơ-ra-ên để làm thầy giáo (người giữ trẻ) để đưa họ
đến với Đấng Christ; hầu cho họ sẽ được xưng công bình bởi đức tin. Nhưng
bây giờ thì đức tin đã đến rồi, chính họ cũng không còn ở dưới quyền “thầy
giáo” ấy nữa (GaGl 3:23-25). Còn người ngoại bang thì không hề có Luật
pháp (RoRm 2:14). Luật pháp trên núi Si-na-i “khắc trên bảng đá” vốn là
một giao ước tạm thời, “đem đến sự chết”, “sự định tội”, thì bây giờ đã bị
“bãi bỏ” (IICo 2Cr 3:7-11 đối chiếu với RoRm 7:1-4). Chúa nhật hay ngày
của Chúa là ngày kỷ niệm hằng tuần việc Chúa chúng ta đã từ kẻ chết sống
lại.
Ngày Sa-bát.
Xin cho biết quan điểm của ông về ngày Sa-bát. Người Cơ Đốc Phục lâm tố
cáo là người ta đã đổi ngày Sa-bát thì có đúng không? Hay là họ bám quá
chặt vào nghĩa đen?
Đó không phải là chỗ rắc rối. Người Cơ Đốc Phục lâm đã xa rời nghĩa đen.
Ngày Sa-bát vốn không hề bị thay đổi, và về điểm ấy thì họ đúng, nhưng
ngày Sa-bát đã bị huỷ bỏ, và về điểm ấy thì họ sai. Ngày Sa-bát vốn là một
phần của Luật pháp, mà “trong Đấng Christ, thì Luật pháp đã bị bãi bỏ”.
Hãy đọc (và tin) chương ba của thư IICô-rinh-tô cũng như các thư cho người
Rô-ma và Ga-la-ti, bạn sẽ thấy rằng chúng ta không hề bị đặt dưới luật pháp,
mà dưới ân điển. Ngày mà chúng ta có ngày nay là Ngày của Chúa, chớ
không phải là ngày Sa-bát, và đây là một định chế hoàn toàn khác biệt. Xin
đừng nói với một người Cơ Đốc Phục lâm rằng ngày Sa-bát đã bị đổi rồi, vì
nó không hề bị thay đổi; hãy nói rằng nó đã bị thay thế bằng Ngày của chúa,
và như thế là bạn nói đúng.
Sự phục sinh.
Đấng Christ là trái đầu mùa.
Chúng ta hoà giải thế nào ICo1Cr 15:20 với phần ký thuật trong Mat Mt
27:52 về việc có một số các thành thánh đã sống lại lúc Đấng Christ bị đóng
đinh?
Không hề có phần ký thuật nào như vậy trong 27:52 hay bất cứ chỗ nào
khác. Câu 53 đã cẩn thận ghi rõ là “Sau khi Đức Chúa Giê-xu đã sống lại”.
Lúa mì và cỏ lùng.
Trong ẩn dụ ở Mat Mt 13:24-30, Nước Thiên đàng được đề cập, là Hội
Thánh hay thế gian? Lúa mì và cỏ lùng là Hội Thánh hay thế gian? Ông mục
sư của chúng tôi dạy rằng đó là Hội Thánh. Theo tôi thì dường như không
phải như vậy, vì Lời Đức Chúa Trời dạy rằng Hội Thánh thật là thân thể
Đấng Christ. Làm sao cả lúa mì lẫn cỏ lùng đều có thể mọc lẫn lộn trong đó?
Không thể như thế được!
bạn có lý: “Không thể như thế được!” Lời đáp cho câu hỏi của bạn ở trong
câu 28: “Ruộng là thế gian”. Ẩn dụ này thường được dùng làm luận cứ để
thi hành kỷ luật trong Hội Thánh, vì lời lẽ trong câu 30 “Hãy để cho cả hai
thứ (lúa mì và cỏ lùng) cùng lớn lên cho đến mùa gặt”. Nhưng ẩn dụ không
đề cập Hội Thánh, dầu là Hội Thánh vốn là thân thể Đấng Christ, hay giáo
hội tự xưng là Hội Thánh “Ruộng là thế gian”.
Cờ bạc, v.v...
Cơ Đốc nhân cờ bạc, đi coi hát v.v... thì có sai quấy không?
Chương 8 của ICô-rinh-tô đề cập tất cả các vấn đề bạn hỏi và sẽ giải quyết
cho bạn nếu bạn đọc chương sách ấy với tinh thần đầu phục Chúa. Chương
ấy thảo luận vấn đề Cơ Đốc nhân có được ăn thịt đã cúng cho các thần tượng
hay không. Nhiều người nói: Có; nhiều người khác bảo: Không. Phao-lô dạy
rằng họ được tự do ăn, nhưng vì sự ăn đó gây vấp phạm cho một số anh em
yếu đuối hơn, cho nên chúng ta phải kiêng cữ. Vì nếu đồ ăn xui cho anh em
tôi vấp phạm, thì tôi sẽ chẳng hề ăn thịt, hầu cho khỏi làm dịp vấp phạm cho
anh em tôi”. (c.13).
Cùng một vấn đề ấy cũng được thảo luận trong RoRm 14:1-23, và cũng đi
đến cùng một kết luận: “Điều thiện ấy là đừng ăn thịt đừng uống rượu, và
kiêng cữ mọi sự chi làm dịp vấp phạm cho anh em mình” (c.21).
ICo1Cr 10:31 chép: “Vậy anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay làm làm sự chi
khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm”. Chúng ta cần áp dụng
bảng trắc nghiệm này đối với những việc gây thắc mắc, thì chẳng bao lâu, sẽ
thấy ngay là nó có thích hợp cho một con cái Đức Chúa Trời hay không.
Lương tâm.
Theo sự chỉ dẫn của lương tâm thì có đúng không? Tôi cho rằng Lời của
Đức Chúa Trời mới có thể hướng dẫn Cơ Đốc nhân.
Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn là “Lời Đức Chúa Trời hướng dẫn Cơ Đốc
nhân” và “theo sự chỉ dẫn của lương tâm” thì không phải là luôn luôn an
toàn, trừ khi lương tâm chúng ta được chính Lời của Đức Chúa Trời soi sáng
cho.