Professional Documents
Culture Documents
com
Thánh Kinh Chỉ Nam
Tác giả: Manley
Vào đề
PHẦN I: KINH THÁNH LÀ MỘT TOÀN KHỐI
Chương I: Sự linh cảm và thẩm quyền
Chương II: Bản văn Kinh Thánh
Chương III: Kinh Điển
Chương IV: Chủ nghĩa phê bình hiện đại
Chương V: Các phép lạ
Chương VI: Các nguyên tắc giải kinh
PHẦN II: CỰU ƯỚC
Chương VII: Nền tảng lịch sử
Chương VIII: Câu chuyện Cựu Ước
Chương IX: Ngũ Kinh
Chương X: Lịch sử dân Hê-bơ-rơ
Chương XI: Thi ca Hy-bá-lai
Chương XII: Tiên tri Hy-bá-lai
Phần I: Từ Ê-sai đến Đa-ni-ên
Chương XIII: Tiên tri Hy-bá-lai
Phần II: Từ Ô-sê đến Ma-la-chi
PHẦN III: HƯỚNG VỀ SỰ TÁI LÂM CỦA ĐẤNG CHRIST
Chương XIV: Hi vọng về Đấng Mết-si-a
Chương XV: Từ Ma-la-chi đến sách Ma-thi-ơ
Chương XVI: Bối cảnh của Tân Ước
PHẦN IV: TÂN ƯỚC
Chương XVII: Đời sống Đấng Christ
Chương XVIII: Lời dạy của Đấng Christ
Chương XIX: Bốn sách Phúc Âm và Công Vụ Các Sứ Đồ
Chương XX: Các thư tín của Phao-lô
Chương XXI: Các thư tín tổng quát
Chương XXII: Sách Khải huyền
Chương XXIII: Diễn tiến và sự hoàn tất giáo lý Cơ Đốc
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC I: Địa lý xứ Palestine
PHỤ LỤC II: Các phong tục tập quán Do Thái
PHỤ LỤC III: Bảng kê các ẩn dụ của Chúa chúng ta
PHỤ LỤC IV: Bảng liệt kê các phép lạ của Chúa chúng ta
VÀO ĐỀ
Quyển Chỉ Nam này giúp người đọc Thánh Kinh hiểu rõ Kinh Thánh đầy đủ
hơn, để có thể biết ý chỉ Đức Chúa Trời và kinh nghiệm được sự tương giao
mật thiết hơn với chính Đấng Christ. Vì lời tóm tắt thông điệp của Phúc Âm
Giăng có thể được áp dụng cho toàn bộ Kinh Thánh: “Các việc này đã chép,
để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Giê-xu là Đấng Christ, tức là Con Đức
Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống”.
Một hiểm họa cần cảnh giác là các sách nói về Kinh Thánh có thể tiếm vị
Kinh Thánh, do đó người đọc không nên để bị cám dỗ dành thì giờ quá
nhiều cho những sách khác, nhưng nếu dành riêng cho Kinh Thánh thì sẽ
được lợi ích nhiều hơn.
Vượt xa hơn các trang Kinh Thánh là chính Chúa, Đấng mà người đọc cần
tìm cầu; cần kinh nghiệm 'con đường về làng Em-ma-út', qua đó Đấng Christ
được phục sinh 'bắt đầu từ Môi-se rồi kế đến mọi đấng tiên tri mà cắt nghĩa
cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh Thánh'. Tuy nhiên
kinh nghiệm đó chỉ có được cho những ai nhận biết mình thiếu thốn và cần
được soi sáng. Ý nghĩa đầy trọn của Kinh Thánh, chân lý mạc khải thành
văn chỉ có thể trở nên rõ ràng cho chúng ta khi Đức Thánh Linh ban cho
chúng ta sự thông sáng và giúp chúng ta thấu hiểu. Do đó, mọi nỗ lực học
hỏi, nghiên cứu Kinh Thánh đều phải bắt đầu bằng sự cầu nguyện, và tùy
thuộc vào Đức Chúa Trời. Cũng cần nhớ rằng Thánh Linh của Đức Chúa
Trời mạc khải chân lý thiên thượng không phải để thỏa mãn tánh hiếu kỳ
hay nhu cầu tri thức, mà nhằm thúc đẩy sự vâng lời tích cực. Chỉ đồng ý về
mặt lý thuyết mà thôi thì chưa đủ. Điều Đức Chúa Trời đòi hỏi là một đức
tin thực tiễn, một sự sẵn sàng đích thân đáp ứng, áp dụng và tuân hành chân
lý mình đã cảm nhận được.
Đặc quyền có thể hiểu được nhờ sự xức dầu của Chúa Thánh Linh là ân tứ
Đức Chúa Trời ban cho mỗi tín hữu. Kinh nghiệm đã chứng minh rằng
không hề có một cá nhân riêng rẽ nào lại có thể thấy được toàn thể chân lý.
Chỉ bởi sự thông công với nhiều người khác, người ấy mới mong lãnh hội
được tính cách phong phú và những điều kỳ diệu của các chủ đích của Đức
Chúa Trời (Eph Ep 3:18). Chính vì lý do đó mà một quyển Chỉ Nam như
quyển này có thể cung ứng một số hướng dẫn cụ thể, trực tiếp về một số vấn
đề mà người đọc Kinh Thánh nghiêm cẩn chắc phải đối diện. Thánh Linh
Đức Chúa Trời dùng các Cơ Đốc nhân để giúp đỡ lẫn nhau. Đức Chúa Trời
đã khiến chúng ta tùy thuộc lẫn nhau, có thể giúp đỡ và cần được sự giúp đỡ
của nhau. Cần lưu ý là muốn đạt được kết quả, việc nghiên cứu Kinh Thánh
này phải triệt để và có hệ thống. Kinh Thánh không hề ban những trái ngon
quả ngọt thượng hạng cho kẻ năm thì mười họa mới tình cờ lật Kinh Thánh
ra đọc. Cho nên chúng tôi đề nghị dùng quyển Chỉ Nam này kết hợp chặt
chẽ với một công trình nghiên cứu có kế hoạch và có hệ thống, chẳng hạn
như với quyển Nghiên Cứu Kinh Thánh (Search the Scriptures của nhà xuất
bản Juter-Varsity Fellowship). Giáo trình đặc biệt nhằm dạy Kinh Thánh đó
giả định việc sử dụng một sách Thánh Kinh Chỉ Nam và có những trích dẫn
trực tiếp từ quyển sách này. Chúng tôi cũng xin bạn đọc lưu ý đến bộ Chú
Giải Kinh Thánh (The New Bible Commentary) do các giáo sư F.Davidson
Mục sư A.M.Stibbs và Mục sư E.F.Kevan xuất bản và bộ Thánh Kinh Tân
Từ Điển (The New Bible Dictionary) của giáo sư F.F.Bruce, Mục sư Tiến sĩ
J.D.Douglas, Mục sư Tiến sĩ J.I.Packer, giáo sư R.V.G. Tasker giáo sư
D.J.Wiseman. Không có phước hạnh nào đến với đất nước chúng ta quan
trọng hơn cơn phục hưng khiến mọi người đều đọc Kinh Thánh cách nghiêm
túc. Đặc biệt là người tín hữu Cơ Đốc cần được nuôi mình bằng 'bánh từ trời'
và nhiều người từng quả quyết rất hữu lý rằng lý do của sự sa sút thuộc linh
chính là việc chểnh mảng đọc Lời Đức Chúa Trời. John Chrysostom có nói:
“Nguyên nhân mọi điều xấu của chúng ta là không biết Kinh Thánh”. Vậy
thì, “hãy cầm lấy Kinh Thánh và đọc đi”.
KINH ĐIỂN
I. CỰU ƯỚC
Nghĩa gốc của chữ 'canon' (Hy văn: kanon) là thước đo hay tiêu chuẩn để đo
lường một vật nào đó. Theo nghĩa ấy nó được ứng dụng cho 'vật được đo'
bằng một tiêu chuẩn có uy quyền. Từ ngữ ấy có thể áp dụng cho các sách
của Kinh Thánh theo cả hai nghĩa, chúng (1) là những sách qui tắc và hướng
dẫn do Đức Chúa Trời ban, và (2) là những sách phù hợp với tiêu chuẩn về
mạc khải. Tuy cách dùng từ kinh điển đã dần dần được ứng dụng cho các
sách của Kinh Thánh, rõ ràng là các sách ấy vốn có uy quyền, không phải vì
có một bộ phận, một ủy ban nào đó của loài người khiến cho các sách ấy trở
thành có uy quyền, nhưng vì chúng vốn đã mang sẵn dấu ấn về nguồn gốc từ
Đức Chúa Trời là điều khiến chúng được nhìn nhận và phân biệt được với
tất cả các sách khác.
Với quan điểm trên đây về ý nghĩa của từ 'canon' nghĩa là 'Lời có thẩm
quyền', chúng ta có thể dò tìm lại quá trình tuyển Kinh từ những ngày khi
người ta khởi đầu tin vào thẩm quyền của Kinh Thánh.
CÁC GIỚI HẠN CỦA KINH ĐIỂN
Giáo Hội Cải Chánh (Protestant Church) thừa nhận các sách được liệt vào
kinh điển giống y các sách của Do Thái giáo. Giáo Hội La-mã thì từ sau
Giáo Hội Nghị Trent (1.563) còn thêm vào các sách Ngoại Kinh
(Apocrypha). Thứ tự trong bộ Kinh Thánh Anh văn là thứ tự của Bộ Bảy
Mươi, nhưng trong bộ Kinh Thánh Hy-bá-lai, các sách được chia thành ba
nhóm: a) Các Sách Luật Pháp (Kinh Torah), từ Sáng Thế Ký đến Phục
Truyền Luật Lệ Ký; b) Các Sách Tiên Tri (Nêbiim) được chia thành (1) Các
Sách Tiểu Tiên Tri (Giô-suê, Các Quan Xét, Sa-mu-ên, Các Vua), (2) Các
Sách Hậu Tiên Tri (Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên và Sách của Mười Hai Nhà
Tiên Tri, từ Ô-sê đến Ma-la-chi); c) Các Văn phẩm (Kethubim) được Bộ
Bảy Mươi gọi là Hagiographa, được đề cập với tư cách 'Các Thi Thiên' trong
LuLc 24:44 và số sách còn lại được liệt vào Cựu Ước của chúng ta, kể cả
sách Đa-ni-ên.
Ba thành phần kể trên là chứng cớ cho thấy rõ ràng có ba giai đoạn, trong đó
trước nhất là các Sách Luật Pháp, kế đến là các Sách Tiên Tri, và cuối cùng
mới đến các Sách Văn Thơ, đã được liệt vào bộ Cựu Ước. Nhưng điều đó
không phải là chứng cớ hiển nhiên cho thứ tự liên tục về thời gian mà các
sách ấy được soạn thảo. Từ ngữ 'Torah' có nghĩa là 'dạy dỗ' nguyên được
dùng chỉ năm sách đầu của Kinh Thánh được người Do Thái thừa nhận từ
đầu là tác phẩm của Môi-se, người ban bố Luật Pháp.
Chức năng của một nhà tiên tri là nhiệm vụ của một người đã dâng trọn đời
mình để mạc khải các thông điệp và ý định của Đức Chúa Trời cho dân sự
Ngài. Nói trước tương lai chỉ là một phần nhỏ trong bức thông điệp của nhà
tiên tri. Sự mạc khải được phổ cập rộng rãi qua lời đã được truyền giảng và
về sau được viết lại thành sách; nhưng nó cũng đến với người ta qua các
phần ký thuật thành văn về cách thức Đức Chúa Trời đã đối xử với nhân
loại. Do đó, các sách lịch sử đã được người Do Thái liệt vào các sách tiên tri
là phải lẽ, vì các trước giả những sách ấy đều là các nhà tiên tri (như Na-
than, ISu1Sb 29:29 và Ê-sai, IISu 2Sb 32:32) và cũng vì nội dung các sách
ấy vốn thật sự là một thông điệp tiên tri.
Các sách Sử Ký, E-xơ-ra và Nê-hê-mi bị loại khỏi các sách tiên tri vì trước
giả của chúng không có vị nào vốn là nhà tiên tri đúng theo thuật ngữ của từ
ấy. Trong các Thi Thiên đa số do các tác giả nặc danh, nhiều bài khác thì
được gán cho vua Đa-vít. Trong Tân Ước, ông được gọi là một nhà tiên tri,
cả Đa-ni-ên cũng vậy, nhưng là theo nghĩa tổng quát, danh hiệu ấy được ứng
dụng cho tất cả các trước giả được linh cảm, dù về phương diện chuyên
nghiệp họ có là tiên tri hay không. Các sách Châm Ngôn, Truyền Đạo và
Nhã Ca được gán cho Sa-lô-môn, cũng là một nhà vua. Hai sách Gióp và Ê-
xơ-tê do các tác giả vô danh. Sách Ru-tơ và Ca Thương hiện nay được xếp
vào các sách văn thơ, ban đầu dường như được gắn liền với Các Quan Xét,
và sách Ca Thương gắn vào sách Giê-rê-mi - và như thế là được kể vào loại
các sách tiên tri khi mới bắt đầu phân chia thành nhóm. Về sau chúng được
chuyển sang các sách văn thơ cùng với ba sách khác trong cùng nhóm thành
năm quyển được gọi là 'các bộ sách' (Megilloth, đối chiếu Thi Tv 40:7); ba
quyển kia là Ê-xơ-tê, Nhã Ca và Truyền Đạo.
SỰ HÌNH THÀNH CỦA KINH ĐIỂN
Các sách được xếp loại tùy theo địa vị các trước giả viết ra chúng dưới chế
độ thần quyền (divine dipensation). Nền tảng thẩm quyền được dân chúng
thừa nhận là các sách đó phải rõ ràng là lời của những người được Đức Chúa
Trời linh cảm, viết ra.
Khi thừa nhận Ngũ Kinh là tác phẩm của Môi-se, chúng ta có thể thấy rằng
luật pháp ngay sau khi ban bố, được trông mong là sẽ được mọi người tôn
trọng như các sắc luật của chính Đức Chúa Trời, do đó, được viết ra và lưu
giữ, để chúng vừa nhắc nhở cho người ta về bản chất các sắc luật ấy, vừa
làm chứng cho sự kiện dân chúng đã chấp nhận như thế (xem XuXh 24:3,4
đối chiếu Mac Mc 7:9,10; HeDt 9:18-20). Các thế hệ về sau vẫn tiếp tục
xem Luật Pháp của Môi-se là các mạng lịnh của Đức Chúa Trời (Gios Gs
1:7,8; 11:15; Cac Tl 3:4; IVua 1V 2:3; IIVua 2V 14:6; IISu 2Sb 23:18). Lịch
sử chỉ đề cập rải rác việc dân sự đã thật sự thực thi luật pháp Môi-se; vì như
Môi-se từng tiên báo (PhuDnl 31:27) qua nhiều giai đoạn, dân sự đã trắng
trợn khinh thường luật pháp và sa vào các đường lối gian ác của các lân
bang. Thế nhưng uy quyền của luật pháp vẫn được các lãnh tụ thuộc linh
thừa nhận (như Sa-mu-ên, Đa-vít, Sa-lô-môn và Ê-xê-chia), và chính việc
thừa nhận thẩm quyền ấy, chớ không phải do một thẩm quyền khác được đặt
ra đã khiến Giô-si-a vô cùng bối rối khi khám phá ra rằng Luật pháp đã bị bỏ
phế qua một thời gian hết sức lâu dài (IIVua 2V 22:11).
Sau thời của Môi-se, nhiều nhân vật khác là người của Đức Chúa Trời cũng
có ban hành nhiều luật lệ khác. Các luật lệ ấy cũng được viết ra và lưu giữ y
như vậy, bởi vì ngay từ đầu, chúng vốn được xem như những điều bó buộc
đối với dân sự (Gios Gs 24:26,27; ISa1Sm 10:25).
Khảo xét các sách tiên tri, chúng ta nhận thấy chính các tiên tri cũng rõ ràng
tin rằng các vị đã nói với thẩm quyền. 'Đức Giê-hô-va phán như vầy' là lời
mở đầu thông thường cho những lời sấm truyền của các vị. Dân chúng được
dạy bảo hãy tiếp nhận những lời truyền giảng đó và phân biệt những kẻ giả
mạo với những người thật sự được Đức Giê-hô-va ban cho uy quyền
(PhuDnl 13:1-5; 18:18-22; XaDr 13:3). Nếu những lời vừa nói ra đã được
tiếp nhận ngay, thì huống chi những lời sấm truyền các nhà tiên tri được
lệnh phải ghi chép lại vì cớ giá trị vĩnh viễn của chúng (EsIs 8:16).
Giê-rê-mi đưa ra một bức tranh rõ nét về thế nào các lời tiên tri của ông đã
được chép lại (Gie Gr 36:1-32). Như vậy, sau mỗi thế hệ, có một phần các
văn phẩm được tiếp tục thêm vào được những người trung tín trong dân Y-
sơ-ra-ên tin là lời có thẩm quyền của Đức Chúa Trời và là sự mạc khải ý chỉ
Ngài. Chẳng những chỉ trong lời các nhà tiên tri lời nói của họ được chấp
nhận, mà các thế hệ sau cùng coi những lời ấy như của các tiên tri tiền bối
có uy quyền (IIVua 2V 17:13; Gie Gr 7:25; DaDn 9:2; XaDr 1:4). Các sách
lịch sử cũng do các tiên tri viết và được tôn trọng ngang hàng với những lời
truyền giảng, tức là các vị vốn là trước giả có uy quyền, đã được Đức Chúa
Trời giao phó trọng trách làm người mạc khải các ý định của Ngài.
Cựu Ước cung cấp ít bằng chứng hiển nhiên về các nền tảng theo đó uy
quyền của các sách Văn Thơ đã được thừa nhận, nhưng chúng ta biết rằng
đến thời Tân Ước, người ta đã rất quen mô tả ít nhất một vài sách Văn Thơ
đó như là lời phán của Đức Thánh Linh (Cong Cv 1:16). Đến giai đoạn nào
của lịch sử, việc làm đó đã được dành cho các sách đặc biệt ấy thì chúng ta
chưa biết rõ, nhưng chúng ta có thể tin chắc rằng lý do chúng được liệt vào
Kinh Thánh là vì chúng vốn được mọi người xem như là những sấm ký có
uy quyền của Đức Chúa Trời. Ở những sách mà trước giả khuyết danh thì
chính đặc điểm của các sách ấy đủ để ấn chứng rằng chúng được thần cảm.
NHỮNG GIAI ĐOẠN HOÀN CHỈNH
a) Các sách Luật pháp.
Kinh điển Cựu Ước là một phần của Kinh Thánh cứ liên tục tăng thêm và
hoàn chỉnh ở từng giai đoạn, đầu tiên là các pháp lệnh và ký thuật của người
ban bố luật pháp đầu tiên (XuXh 24:3,4; PhuDnl 31:9-11; Gios Gs 8:34,35),
và cứ từng ngày càng tăng thêm do công trình của từng nhà tiên tri kế tiếp.
Có người nghĩ rằng việc công bố quyển 'Sách Luật Pháp' (mà người ta cho là
sách Phục Truyền Luật Lệ Ký) do Giô-si-a thực hiện, là giai đoạn đầu tiên
của tiến trình kinh điển hoá, và giai đoạn thứ hai là khi E-xơ-ra 'đọc sách
luật pháp cho dân sự' (NeNe 8:18). Nhưng có lẽ đúng hơn là chúng ta nên
xem việc Giô-si-a và sau đó là E-xơ-ra đã long trọng tổ chức việc đọc sách
Luật Pháp chỉ là những cơ hội để nhắc lại và khắc sâu vào tâm trí dân sự sau
khi các sách ấy đã được thừa nhận từ nhiều thế kỷ qua rồi, vì dưới áp lực của
các biến cố xảy ra và do sự bê trễ của các thế hệ đi trước, sách ấy gặp cơ
nguy bị quên lãng khiến dân sự cũng lãng quên luôn trách nhiệm của họ đối
với Đức Chúa Trời. Sở dĩ E-xơ-ra chẳng đá động gì đến các sách tiên tri là
do cơ hội bấy giờ; vì điều ông muốn buộc chặt dân sự vào việc hứa nguyện
vâng lời đúng ra là vâng lời chính các điều răn của Luật Pháp.
Việc một bản dịch ra tiếng Sa-ma-ri của Ngũ Kinh bắt nguồn từ thời Ê-xê-
chia hoặc sớm hơn nữa là bằng chứng rằng Kinh Torah vốn được cả dân Y-
sơ-ra-ên lẫn Giu-đa thừa nhận ngay trước khi thành Sa-ma-ri thất thủ, và có
thể cả trước khi vương quốc bị chia đôi nữa. Vào thời đó, nhiều sách khác
cũng đã được viết ra, kể cả sách Giô-suê và Các Quan Xét, về sau được xếp
vào nhóm các Sách Tiên Tri, cùng với các Thi Thiên của Đa-vít. Các sách
này cấu thành hạt nhân của hai phần thứ hai và thứ ba của các sách được liệt
vào kinh điển.
b) Các sách Tiên Tri.
Chúng ta có thể bác bỏ truyền thuyết trong IIE-xơ-ra 14:19-48, bảo rằng tất
cả các sách trong Kinh Thánh đều đã bị lửa thiêu hủy, và E-xơ-ra đã được
linh cảm để viết lại tất cả trong vòng bốn mươi ngày. Cũng không có gì chắc
chắn trong lời truyền khẩu về sau bảo rằng việc chuẩn nhận kinh điển là do
'người của Nhà Hội Lớn' (The Great Synagogue) một ủy ban gồm 120 thành
viên do E-xơ-ra chủ tọa.
Lời tuyên bố trong IIMa-ca-bê 2:13 bảo rằng 'Nê-hê-mi...tìm ra một thư
viện, lưu trữ các sách của nhà vua và các nhà tiên tri, và các sách của Đa-vít,
và các thư từ của các vua về các tặng vật thiêng liêng', có thể cho thấy Nê-
hê-mi có góp phần vào việc sưu tập các bộ sách thánh ngoài Kinh Torah ra,
để đưa vào một bộ Kinh Thánh thống nhất. Bộ này bao gồm ít nhất một phần
lớn nhóm các sách được gọi là 'Sách Tiên Tri', và chắc cũng gồm luôn ít
nhất là một số các Thi Thiên của Đa-vít. Nhưng một công trình sưu tập như
thế có lẽ là quá trình hình thành vào thời của Đa-ni-ên, vì ông có đề cập 'các
sách' (DaDn 9:2) và có lẽ còn thêm vào đó các tác phẩm của Giê-rê-mi mà
ông trích dẫn.
Các Sách Tiên Tri được liệt vào kinh điển chắc hẳn đã kết thúc khi tiếng nói
tiên tri hiển nhiên đã bị rút lại, và chúng ta có thể thấy trong XaDr 13:2-5 và
MaMl 4:5, là những lời cuối cùng trong các sách tiên tri, những lời nói bóng
ám chỉ giai đoạn kết thúc cho kỷ nguyên của lời tiên tri chân chính, chuẩn bị
để dân chúng khỏi trông đợi những lời sấm ký thuộc loại như thế nữa. Chắc
chắn là vào thời của các anh em Ma-ca-bê, họ đã ý thức được rằng tinh thần
tiên tri đã lìa khỏi họ từ lâu (IMa-ca-bê 9:27), tuy đức tin vẫn hướng về
tương lai, chờ đợi một ngày khi sẽ có 'một tiên tri trung tín' dấy lên (14:41;).
Rõ ràng họ vốn có đầy đủ khả năng để phân biệt lời của Đức Chúa Trời với
những lời nói của người ta vốn không thiếu thời đó. Quá trình điển chế đã
chấm dứt không phải do một quyết định độc đoán của một hội đồng hay một
thầy thông giáo nào, nhưng là do sự vắng bóng của một tiếng nói tiên tri tiếp
theo.
c) Các Sách Văn Thơ.
Đã có rất ít chứng cứ về niên đại cho việc liệt các Sách Văn Thơ (Kethubim)
vào kinh điển. Được viết vào những thời kỳ khác nhau, chúng được sưu tập
và nhập vào kinh điển vì chúng cũng là những gì 'bởi Đức Thánh Linh cảm
động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời' (IIPhi 2Pr 1:21). Nhưng sách
'Sự khôn ngoan của Jesus ben Sirach' (Ecclesiasticus) viết ra khoảng năm
200 TC, trong các chương 44 đến 49 có đề cập tất cả các Sách Luật Pháp và
Tiên Tri, nhưng chỉ gồm một phần các sách Văn Thơ mà thôi. Lúc ấy, 'Mười
Hai Sách Tiên Tri' được xếp vào cùng một nhóm. Cháu nội của tác giả, trong
lời nói đầu bản dịch quyển sách ấy ra Hy văn (132 TC) có đề cập ba lần
'Sách Luật Pháp, Sách Tiên Tri và nhiều sách khác nữa của tổ phụ chúng tôi'
dường như tất cả đều được ông nội mình nghiên cứu cẩn thận. Do đó, rõ
ràng vào khoảng 200 TC hay ít nhất cũng là năm 132 TC, việc chia các sách
được liệt vào kinh điển thành ba nhóm chắc đã được ấn định rồi, và các sách
đã được liệt vào kinh điển gồm có một phần lớn, nếu không phải là tất cả,
những sách mà ngày nay chúng ta được biết là được liệt vào kinh điển.
KINH ĐIỂN Ở ĐẦU KỶ NGUYÊN CƠ ĐỐC GIÁO
Vào đầu kỷ nguyên Cơ Đốc từ ngữ 'Kinh Thánh' (Scriptures) có nghĩa là
một bộ phận nhất định của các văn phẩm đã được thần cảm, mà uy quyền đã
được hoàn toàn chấp nhận. Đó là nghĩa theo như Chúa chúng ta và người
đồng thời với Ngài hiểu khi Ngài phán 'Kinh Thánh không thể bỏ được'
(GiGa 10:34,35) chẳng hạn. Bằng nhiều lần đề cập và trích dẫn tương tự như
vậy từ Cựu Ước, Ngài đã đưa vào đó chính uy quyền của mình, khiến sách
ấy trở thành bộ sách hoàn toàn được Đức Chúa Trời mạc khải và bày tỏ ý
chỉ mình. Tuy Chúa không nêu tên sách ấy nhưng rõ ràng Ngài đã ám chỉ
toàn bộ Kinh Thánh khi nói với Cơ-lê-ô-ba và người bạn của ông (LuLc
24:1-53) để họ phải hiểu đó là mọi điều liên hệ đến Đấng Mết-si-a. Trong
câu 27 của sách ấy, Ngài đã đề cập ' Môi-se rồi kế đến mọi đấng tiên tri', và
trong câu 44 thì Ngài đề cập 'trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng
các Thi Thiên' (xem phần trên).
Các trước giả Tân Ước có nhắc đến tất cả các sách đã được liệt vào Cựu
Ước, ngoại trừ Áp-đia, Na-hum, E-xơ-ra, Nê-hê-mi, Ê-xơ-tê, Nhã Ca và
Truyền Đạo. Tuy nhiên Na-hum và Áp-đia thuộc về cùng một bộ sách là
Sách của Mười Hai Nhà Tiên Tri đã được trích dẫn rộng rãi; Ê-xơ-tê, Nhã
Ca và Truyền Đạo thì cùng thuộc về một toàn bộ gồm năm quyển là sách
Megilloth mà một trong sách ấy vốn được đọc thuộc lòng vào năm kỳ lễ
trọng của Do Thái giáo. Hai sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi vốn hợp thành một
quyển với các sách Sử Ký.
Khi viết sách vào khoảng năm 100 SC, Josephus tuyên bố rằng: “Vì không
phải chúng ta có vô số các sách không đếm xuể, vừa bất đồng ý kiến với
nhau đồng thời cùng mâu thuẫn với nhau, mà chỉ có hai mươi hai quyển
chứa đựng tất cả các ký thuật về các thời đại đã qua, vốn được tin rất đúng là
do Đức Chúa Trời ban cho; trong đó năm quyển là của Môi-se chép lại các
luật pháp của ông và các truyền thống về nguồn gốc nhân loại cho đến khi
ông qua đời... Các nhà tiên tri viết lại những việc đã được thực hiện vào thời
của các vị trong mười ba quyển. Bốn trong số các quyển còn lại chép các bài
thánh ca dâng lên cho Đức Chúa Trời, và những lời giáo huấn về cách ăn nết
ở trong đời sống con người” (Contra Apionem, 1:8). Con số hai mươi hai
quyển sẽ hoàn toàn ăn khớp với số sách đã được liệt vào Cựu Ước của
chúng ta ngày nay, nếu chúng ta kể Mười hai sách Tiểu Tiên Tri chỉ là một
quyển, hai sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi là một quyển, sách Ru-tơ được kết hợp
với sách Các Quan Xét, và sách Ca Thương nhập chung với sách Giê-rê-mi.
Cách phân nhóm của Josephus cũng giống với bộ Bảy Mươi, kể sách Đa-ni-
ên vào số các sách tiên tri, và sách từ E-xơ-ra cho đến Gióp vào các số sách
tiên tri và lịch sử. Josephus tiếp tục nói rằng các văn phẩm về sau cũng
không có cùng một uy quyền như thế vì 'đã không có sự thừa kế đúng đắn
cho các nhà tiên tri thời kỳ đó'. Ông nhấn mạnh việc mọi người đều rất tôn
trọng Kinh điển. 'Vì qua nhiều thời đại như vậy...đã không có ai dám táo bạo
hoặc thêm hay bớt, hay thay đổi điều gì trong đó; nhưng điều hết sức tự
nhiên đối với người Do Thái... là tôn kính các sách ấy, cho rằng chúng chứa
đựng các giáo lý của Đức Chúa Trời; họ cố gắng kiên trì tuân thủ các giáo lý
ấy và nếu có cơ hội thì sẵn sàng chịu chết vì chúng'. Những lời phát biểu
trên đây của Josephus phản ảnh niềm tin của dân chúng thời ông, phù hợp
với những lời xưng nhận ở phần trên, rằng việc các sách ấy được liệt vào
Kinh điển là tùy thuộc vào uy quyền của Đức Chúa Trời nơi các trước giả,
và rằng việc mọi người thừa nhận các sách ấy là Kinh điển vốn có trước bất
luận một quyết định nào của các trường phái, tuy một quyết định như thế có
thể đưa ra tại Hội nghị ở Jamnia khoảng năm 90 SC, khi những giới hạn các
sách được liệt vào Kinh điển đã được sự đồng ý chung và được chuẩn nhận
qua hội nghị chính thức đó.
Bằng chứng rằng các cấp lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên vốn được Đức Chúa Trời
hướng dẫn trong việc tuyển chọn các sách để liệt vào Kinh Thánh là do kết
quả của nó. Tương phản với các tác phẩm văn chương cổ của các dân tộc
Đông phương khác, rõ ràng Kinh Thánh không hề có những điều phi lý của
đa thần giáo hoặc những lời huênh hoang của các bậc anh hùng của họ. Bộ
Kinh Thánh của chúng ta gồm những ký thuật về lịch sử, các bảng gia phổ,
luật pháp và lời tiên tri, các thi thiên và châm ngôn, nhưng là một toàn bộ
thống nhất kết cấu với nhau bởi chủ đề nổi bật là việc Đức Chúa Trời tự mạc
khải, chuẩn bị cho việc giáng lâm của Con Ngài để cứu chuộc nhân loại.
II. TÂN ƯỚC
CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Ý nghĩa đưa ra trong chương trước cho từ ngữ 'Kinh điển' (canon) cũng
được áp dụng cho Tân Ước, hàm ý thừa nhận một số sách là thành phần của
Kinh Thánh đã được linh cảm và có uy quyền của Đức Chúa Trời, được Đức
Chúa Trời chuẩn nhận là Lời của Ngài. Trong cả hai trường hợp, việc thừa
nhận đó không do các quyết định hình thức hay xảy ra thình lình, nhưng là
kết quả của một quá trình lâu dài và tuần tự, được những người của Đức
Chúa Trời bởi Đức Thánh Linh hướng dẫn thực hiện trong khi đọc và suy
gẫm các tác phẩm của các nhà tiên tri và các sứ đồ, và được nghe tiếng phán
của Đức Chúa Trời qua các văn phẩm ấy. Sự hình thành Kinh điển là kết quả
chứ không phải là khởi điểm của quá trình đó.
Với các Cơ Đốc nhân ngày nay, hai vấn đề đã được đặt ra: 1) Tại sao tôi
phải tin rằng các sách này - và chỉ có các sách này mà thôi - là lời được linh
cảm ? và 2) Các sách ấy đã phải trải qua sự tuyển chọn như thế nào để được
Hội Thánh nguyên thủy đánh giá như vậy? Trong trường hợp của Tân Ước,
lời đáp cho các vấn đề trên không hoàn toàn giống với câu trả lời liên hệ đến
Cựu Ước. Vì lúc Chúa chúng ta sống trên đất này, Ngài với các môn đệ của
Ngài đã có quyển Kinh Thánh chung với dân Do Thái. Họ tôn kính Kinh
Thánh và trích dẫn như vốn có uy quyền của Đức Chúa Trời. Như chúng ta
thấy, chỉ chừng đó thôi cũng đủ lý do để giải thích tại sao chúng ta càng phải
kính trọng Kinh Cựu Ước y như Chúa chúng ta vậy. Nhưng với hai mươi
bảy sách của Tân Ước, chúng ta đã không được bảo đảm như vậy. Mặt khác,
chúng ta còn có nhiều chứng cớ hơn liên hệ đến các văn phẩm và phần lịch
sử tiếp theo của các sách trong Tân Ước, và chúng ta có thể thấy càng rõ
ràng hơn, khi cuối cùng, các sách ấy đã được sưu tập và liệt kê vào Kinh
điển như thế nào để ứng nghiệm lời Chúa hứa rằng Đức Thánh Linh sẽ dẫn
những người theo Ngài vào mọi lẽ thật.
Hai vấn đề 'như thế nào' và 'tại sao' đặt ra cho quá trình kinh điển hóa Tân
Ước liên hệ chặt chẽ với nhau, và khi diễn trình lịch sử đã được mô tả thì
các lý do tại sao chúng ta cần thỏa lòng với kết quả của việc tuyển kinh sẽ
xuất hiện.
DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
Để cho tiện, chúng ta sẽ chia lịch sử ra làm năm giai đoạn đánh dấu bằng
quá trình theo đó Tân Ước đã đạt đến địa vị hiện tại, dù việc này khiến cho
sự phát triển rất tự nhiên của Tân Ước mang vẻ giả tạo. Sự mở rộng tri thức
về Kinh Thánh, và sự đào sâu hiểu biết về ý nghĩa và đặc tính được linh cảm
của sách ấy không do một giai đoạn nào trong số các giai đoạn vừa nêu,
nhưng cứ liên tục không gián đoạn suốt ba thế kỷ. Tuy nhiên, chúng ta có
thể nhìn rõ hơn nếu đánh dấu bằng các giai đoạn sau đây:
1. Trong thế kỷ thứ nhất, các sách khác nhau đã được viết ra, chép lại và lần
đầu tiên được phân phát cho các Hội Thánh.
2. Trong tiền bán thế kỷ thứ hai, các sách ấy được nhiều người biết đến hơn,
được đọc trong các Hội Thánh và được trích dẫn có uy quyền.
3. Trong hậu bán thế kỷ thứ hai, các sách ấy được dành cho một địa vị bên
cạnh Cựu Ước, được xem như 'Kinh Điển', được phiên dịch ra các ngôn ngữ
khác, và đặt làm đề tài cho các sách chú giải.
4. Trong thế kỷ thứ ba, các sách ấy được sưu tập thành một toàn bộ, được đề
cập với tư cách Tân Ước, và do một quá trình sàng sảy, được tách rời khỏi
các sách vở Cơ Đốc khác.
5. Trong thế kỷ thứ năm, các văn phẩm của các giáo phụ vạch rõ rằng các
kết luận đạt được đã được toàn thể Cơ Đốc nhân nói chung công nhận, nói
khác đi, là quá trình điển chế đã ổn định.
Thế kỷ thứ nhất. Kinh Thánh được trứ tác.
Trong các phần nhập đề cho mỗi sách, sẽ có phần tài liệu liên hệ đến những
điều cần thiết về nhiều người. Người ta không biết rõ 'lời Chúa' (Cong Cv
20:35; ICo1Cr 7:10) đã được viết ra lần đầu tiên từ bao giờ. Có người cho là
lúc Ngài còn tại thế, hoặc có thể là ngay sau đó. Nhưng điều chắc chắn là khi
Lu-ca bắt đầu viết sách Phúc Âm của ông vào khoảng năm 58 thì nhiều
người đã bắt tay làm công việc đó rồi (LuLc 1:1). Thư của Phao-lô gửi cho
người Ga-la-ti có lẽ đã được viết rất sớm từ năm 49 SC, các thư cho người
Tê-sa-lô-ni-ca không thể có sau năm 53. Thư Gia-cơ chắc đã có từ trước
năm ông qua đời là năm 62; các thư tín của Phao-lô và Phi-e-rơ phải có
trước năm 68. Phần lớn các sách của Tân Ước đã được viết ra trước khiGiê-
ru-sa-lem thất thủ (70 SC), tạo ra nhiều biến chuyển lớn lao trong Hội Thánh
Đấng Christ. Việc một số thư tín đã lưu hành lúc ấy được IIPhi 2Pr 3:15,16
làm chứng. Sách Khải Huyền của Giăng được định cho các niên đại khác
nhau là dưới thời trị vì của Nero hoặc Domitian, còn sách Phúc Âm và thư
tín của ông - có lẽ là các sách cuối cùng của Tân Ước đã được viết - thì được
cho là vào những năm cuối cùng của thế kỷ ấy.
Các văn phẩm Cơ Đốc ngoài Tân Ước đều chứng tỏ rất quen thuộc với các
sách Phúc Âm và các Thư Tín, và đều hoặc trích dẫn các sách ấy, hoặc sử
dụng lời lẽ các sách ấy với độ chính xác hoặc ít hoặc nhiều. Clement ở La-
mã (khoảng năm 96 SC) trích dẫn đích danh ICô-rinh-tô, và tỏ ra rất am hiểu
nhiều phần khác của Tân Ước. Thư Tín của Ba-na-ba trích dẫn câu: “Nhiều
kẻ được gọi nhưng ít kẻ được chọn” với lời nhập đề: 'Như có chép rằng'.
Clement, Barnabas và Ignatius đều vạch rõ một giới tuyến giữa lời lẽ của các
vị ấy với những gì của các sứ đồ từng viết ra, mà các vị ấy cho là được linh
cảm và có uy quyền (IClement 1:47; Ign.Ad Rom.4).
Các tác giả này đã xác nhận Tân Ước bằng cách tiết lộ tình hình trong các
Hội Thánh Đấng Christ vào cuối thế kỷ thứ nhất, phù hợp chính xác với
những gì các sách ấy đưa chúng ta đến chỗ giả định như vậy. Thêm vào đó,
các vị còn cung cấp chứng cớ là vào thời kỳ rất sớm đó, các sách Phúc Âm
và các Thư Tín đã được lưu hành và được tôn trọng ở cả Đông lẫn Tây
Phương.
Tiền bán thế kỷ thứ hai. Kinh Thánh được đọc trong các Hội Thánh.
Bước vào thế kỷ thứ hai, Papias (khoảng năm 140) người từng được nghe
chính sứ đồ Giăng giảng dạy, làm chứng về thế nào tiếng nói của 'các trưởng
lão' đã được thay thế bằng thẩm quyền của lời thành văn. Cùng thời gian ấy,
sách vở của kẻ tà giáo là Marcion cho thấy ông ta sử dụng sách Phúc Âm
Lu-ca và mười trong số các thư tín của Phao-lô và cũng biết rõ sách Khải
Huyền. Justin Martyr (148) có đề cập 'những bút ký của các sứ đồ và các
môn đệ của các vị ấy' (Dial 103), đã được đọc trong các Hội Thánh. Đây là
một thói quen rất thịnh hành tại Rô-ma lúc bấy giờ, và lan tràn khắp nơi
trong thế hệ tiếp theo đó đến nỗi Gwatkin đã nói trong cuốn “Lịch sử Hội
Thánh đầu tiên": 'chúng tôi không thể khước từ việc khẳng định nguồn gốc
của tập tục đó là có trước khi Marcion xuất hiện một ít'.
Trong các văn phẩm thời kỳ đó, ta có thể tìm thấy nhiều trích dẫn rõ ràng
của tất cả các sách Tân Ước, trừ năm hoặc sáu thư tín ngắn hơn. Cả những
kẻ theo tà giáo lẫn chính thống giáo đều làm chứng cho uy quyền của các
sách ấy và dùng câu 'Như có chép rằng' để giới thiệu một phần trích dẫn.
Hậu bán thế kỷ thứ hai. Các bản dịch và sách chú giải.
Nửa sau thế kỷ thứ hai là thời kỳ bành trướng nhanh chóng và phát triển
mạnh mẽ của Hội Thánh Đấng Christ. Cơ Đốc giáo lan tràn khắp đế quốc
La-mã và vượt khỏi các ranh giới của nó nữa. Có người bảo rằng Pantaenus
đã du hành tận Ấn-độ và thấy tại đó một sách Phúc Âm Ma-thi-ơ bằng tiếng
Hy-bá-lai đã được sứ đồ Ba-thê-lê-my đưa sang. Việc nhiều người thuộc
mọi chủng tộc gia nhập Hội Thánh và số các học giả Cơ Đốc giáo có ý thức
về trách nhiệm của mình ngày càng gia tăng, đã đưa đến việc dịch Kinh
Thánh ra nhiều ngôn ngữ mới. Bản dịch La-tinh cổ cho dân chúng Bắc Phi,
bản tiếng Sy-ri cho người Đông phương, các bản dịch đầu tiên ra tiếng Ai
Cập cổ (Coptic) tại Ai Cập, đều có thể được đặt trở về thế kỷ thứ hai.
Các sách chú giải cũng bắt đầu xuất hiện. Papias viết các sách Chú giải Sấm
Ký của Dominica khoảng năm 140. Heracleon cũng viết một sách chú giải
về các sách Phúc Âm, và Melito, Giám Mục Sạt-đe (165) viết một sách chú
giải Khải Huyền. Ngay sau đó, Tatian, một đồ đệ của Justin Martyr viết sách
Diatessaron, dung hòa bốn sách Phúc Âm, hiện nay được thừa nhận là có uy
quyền độc nhất vô nhị.
Mảnh tài liệu gọi là Muratorian (khoảng 170) có một bảng liệt kê các sách
Tân Ước, trong đó sách Công Vụ Các Sứ Đồ được cho là của Lu-ca; 'sách
Phúc Âm thứ tư' và sách Khải Huyền là của sứ đồ Giăng; năm trong số các
sách hiện có của chúng ta không thấy có trong bảng liệt kê ấy, nhưng vì các
cổ bản không đầy đủ, cho nên chúng ta không thể rút ra một sự suy diễn
chắc chắn nào cả, Irenaeus (180) trích rộng rãi các sách Phúc Âm và thư tín,
xem đó là 'Kinh Thánh'. Đến khoảng cuối thế kỷ ấy, Clement ở Alexandria
(150-220) viết sách Bố Cục (Outlines) của mình, một bộ gồm bảy quyển chú
giải các sách Tân Ước gồm cả sách Giu-đe và các Thư Tín Chung khác,
thêm vào đó gồm có Thư Tín của Ba-na-ba và sách Khải Huyền của Phi-e-
rơ.
Thế kỷ thứ ba. Các sách Tân Ước được sưu tập và loại ra.
Thế kỷ tiếp theo đó chứng kiến nhiều tiến bộ lớn lao trong lãnh vực học hỏi
và tri thức của Cơ Đốc giáo. Origen là một tác giả vượt bực; có người bảo
rằng ông sử dụng đến bảy tốc ký viên, thay phiên nhau chỉ để làm việc với
một mình ông, ngoài bảy người sao chép ấy còn có các nữ thư ký để sao
chép bằng lối chữ thật đẹp.
Ngoài bộ sách lừng danh Hexapla, hay sáu bản sao Cựu Ước bằng tiếng Hy
Lạp, ông nhuận chánh bản Tân Ước, chủ trương Tân Ước được linh cảm,
viết nhiều sách chú giải và bài giảng về phần lớn các sách trong đó, nhưng
điều hết sức ý nghĩa là ông đã không hề đả động gì đến các sách khác. Tại
Alexandria Giê-ru-sa-lem, Sê-sa-rê, An-ti-ốt, Rô-ma và nhiều nơi khác, các
thư viện bắt đầu được thành lập, trong đó, các cổ bản Kinh Thánh và các
sách chú giải chiếm một phần quan trọng. Chính Tertullian (khoảng năm
200) là người đầu tiên đã gọi Kinh Thánh Cơ Đốc là 'Tân Ước', và như thế,
về phương diện linh cảm bộ sách ấy đã được xếp ngang hàng với các sách
cuả chế độ Cựu Ước.
Việc sưu tập các sách Phúc Âm và các tác phẩm khác để đưa vào thành một
bộ duy nhất, việc dịch các sách ấy ra nhiều ngôn ngữ khác, việc thừa nhận
chúng vốn là uy quyền của Cơ Đốc giáo, và giáo lý về sự linh cảm tất cả
được tổng hợp lại nhằm khiến mọi người phải coi trọng việc phân biệt rõ
ràng giữa phần Kinh Thánh được linh cảm với các sách Cơ Đốc giáo khác từ
lâu từng được đem ra đọc để gây dựng Hội Thánh. Các sách này bao gồm
trước hết là sách vở của các giáo phụ môn đồ của các vị sứ đồ, các văn phẩm
vốn có sự tiếp xúc với các sứ đồ, các thư tín của Clement, Baraba, Hermas,
Ignatius và Polycarp, và sách Didache. Một số trong các sách ấy được một
số người thuộc nhiều thời kỳ khác nhau thừa nhận là được linh cảm, nhưng
đã không có quyển nào được mọi người thừa nhận hay thừa nhận liên tục.
Một loại sách thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện dưới dạng các sách Phúc Âm
Ngoại Kinh và các sách giả mạo khác, chẳng hạn như các sách Phúc Âm
thuở Ấu thời (The Gospel of the Infancy) và sách Khải Huyền của Phi-e-rơ.
Mọi việc đó, cùng với sự phát triển của các tà giáo và giáo lý sai lầm, nhấn
mạnh nhu cầu phải có một tiêu chuẩn đầy uy quyền cho một giáo lý, và đưa
đến việc sàng lọc và quá trình loại bỏ, do đó các sách Tân Ước được phân
biệt với tất cả các sách khác, là một công việc tương đương với việc hình
thành công tác tuyển kinh.
Một mặt, các trắc nghiệm được áp dụng là sự thống nhất ý kiến và thực hành
trong Hội Thánh, và mặt khác, là nội chứng về uy quyền của chính các tác
phẩm liên hệ. Những nghi ngờ cuối cùng cần đánh tan liên hệ đến các vấn đề
thật và giả của các sách IIPhi-e-rơ và Khải Huyền của Giăng, do một số
người nêu ra vì có sự khác nhau về bút pháp với các văn phẩm của các vị sứ
đồ ấy.
Thế kỷ thứ tư. Hoàn tất Kinh điển.
Vào đầu thế kỷ thứ tư phần lớn Hội Thánh đã công nhận các sách được liệt
vào Tân Ước như chúng ta có ngày nay. Eusebius để lại cho chúng ta một
câu phát biểu đầy tính chiết trung về thế nào vấn đề ấy đã được đặt ra cho
thời đại của ông (316).
1. Toàn thể Hội Thánh 'đồng ý' rằng các sách được liệt vào Tân Ước gồm có
bốn sách Phúc Âm, sách Công Vụ Các Sứ Đồ, các Thư Tín của Phao-lô
(gồm luôn thư Hê-bơ-rơ, dù có điều nghi vấn về trước giả), IPhi-e-rơ,
IGiăng, Khải Huyền.
2. Bị một số người 'dị nghị', tuy được đa số và chính Eusebius công nhận, là
các sách Gia-cơ, IIPhi-e-rơ, II và IIIGiăng và Giu-đe.
3. Bị coi là 'giả mạo' là các sách Công Vụ Của Phao-lô, sách Didache và
sách Người Chăn Chiên của Hermas. Ông còn một bảng liệt kê thứ tư các
sách 'tà giáo và phi lý'.
Một thế hệ sau đó, Athanasius công nhận toàn bộ Tân Ước như chúng ta có
ngày nay, và đến năm 397 SC, Giáo Hội Nghị Thứ Ba tại Carthage ra quyết
nghị rằng 'ngoài các sách đã được liệt vào Kinh Điển, không nên đọc các
sách nào khác với danh nghĩa là Kinh Thánh của Đức Chúa Trời'. Từ đó trở
đi mọi phản bác đều im tiếng. Khi nhìn lui về quá trình dài hơi mà các sách
ấy đã được viết ra, phân phát, sưu tập, và cuối cùng được công nhận là Lời
Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ có thể vô cùng ngạc nhiên để ngưỡng mộ và ca
tụng quyền tể trị thần hựu đã đưa mọi việc đến chỗ thành tựu.
KẾT LUẬN
Tuy các sách được liệt vào Kinh Thánh đã được đồng ý như trên, các học giả
Cơ Đốc giáo trải qua mọi thời đại đã chẳng bao giờ ngừng đặt ra cho mình
những câu hỏi mới, chẳng hạn như hiện nay, rằng tại sao họ cũng phải đi đến
cùng một kết luận như vậy.
Augustine đã tìm được câu trả lời ngay trong đặc tính của các quyển sách ấy
với sự nhất trí của giới Cơ Đốc giáo và trong lời chứng của những giáo hội
bảo tồn được truyền thống tông đồ. Vào thời Cải Chánh, khi mọi phương
diện của Cơ Đốc giáo đều phải vượt trải qua mọi phê bình khe khắt, các sách
của Kinh Thánh cũng không được miễn trừ. Luther đã đi rất xa đến độ xếp
các thư Hê-bơ-rơ, Gia-cơ, Giu-đe và sách Khải Huyền vào cuối bản dịch
Tân Ước ra Đức văn của ông, bởi vì bốn sách ấy được Hội Thánh nguyên
thủy chấp nhận không đồng nhất lắm, trong khi ông khẳng định rằng những
sách còn lại gồm đủ mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi. Calvin đi tìm nền
tảng cho niềm tin của ông nơi 'nội chứng của Thánh Linh' cả trong mỗi cá
nhân lẫn trong mỗi giáo hội. Chúng ta đã thừa hưởng một gia tài đồ sộ, và
cùng những lý do đã thuyết phục các bậc tiền bối khôn ngoan nhất, cũng có
thể thuyết phục và thoả mãn chúng ta. Chúng ta biết những người đã chứng
kiến tận mắt các biến cố được ký thuật, đã thà chịu chết chớ không chịu phủ
nhận những gì họ đã từng thấy và nghe, và chúng ta đã có trước mắt lời
chứng của họ trong các sách vở đồng thời. Chúng ta có thể truy nguyên cách
thức qua đó lời xưng nhận Kinh Thánh được linh cảm đã được các học giả
Cơ Đốc nhiều nơi, nhiều thời đại khảo xét và tán đồng như thế nào; chúng ta
đã có phần nội chứng về lời tiên tri đã được ứng nghiệm, và sự thống nhất
lớn trong đó. Cuối cùng chúng ta còn có lời chứng của Đức Thánh Linh
trong lòng nữa.
Tân Ước đã đứng vững qua mọi hình thức phê bình và đã chịu được mọi
cuộc thử nghiệm. Còn lại một cuộc thử nghiệm tối cao ở ngay trong tầm tay
chúng ta, là việc ứng dụng thực tiễn; vì Lời Đức Chúa Trời sở dĩ được ban
cho là để Cơ Đốc nhân có thể nhờ đó mà sống (Mat Mt 4:4). Chỉ khi nào
người ấy tuân hành các giới mạng, noi theo sự chỉ dẫn của Kinh Thánh, đặt
lòng tin vào các lời hứa trong đó và nhận thấy có Cứu Chúa mình ở khắp nơi
trong Kinh Thánh, thì chừng đó chân lý mới thấm nhuần được linh hồn
mình, đến nỗi Kinh Thánh vốn không thiếu mà cũng không thừa một chữ
nào cả (KhKh 22:18,19).
CÁC PHÉP LẠ
CÁC PHÉP LẠ TRONG CỰU ƯỚC
Muốn tiếp cận với phép lạ thì đến với Cựu Ước là thích hợp nhất. Ở đây, cả
cõi thiên nhiên, bao gồm chính sự sống nữa, đều được trình bày như hoàn
toàn tùy thuộc ý chỉ của Đức Chúa Trời để được bảo tồn. Nhưng Đức Chúa
Trời đã được cho thấy là đang thực hiện nhiều kế hoạch vĩ đại, do đó, cõi
thiên nhiên phải phục vụ Ngài để thực hiện các chủ đích đó cho nên thật là
thừa khi bảo rằng cõi thiên nhiên vốn được các 'định luật' nhất định cai trị.
'Mọi biến cố trong thiên nhiên đều được xem như chỉ là một hoạt động của ý
chí tự do của Đức Chúa Trời, mưa cũng như nắng, động đất cũng như những
việc lạ lùng. Yếu tính của một phép lạ không phải là 'không tự nhiên', nhưng
đó là một bằng chứng đặc biệt rõ ràng, gây ngạc nhiên về quyền phép của
Đức Chúa Trời, và về quyền tự do của Ngài để giúp ích cho các đối tượng
Ngài muốn nhằm vào'.
Điều này đưa chúng ta đến ngay với nguyên tắc đầu tiên và là nguyên tắc
chủ đạo của phép lạ, đó là hành động của chính Đức Chúa Trời. Các phép lạ
thuộc về các giả định của hữu thần chủ nghĩa.
Tiếp theo, chúng ta nhận thấy rằng các phép lạ trong Kinh Thánh luôn luôn
có bối cảnh đạo đức và thuộc linh. Những ai tách rời chúng với toàn thể cơ
cấu chúng được đặt vào, và phê phán chúng cách riêng lẻ thì chẳng bao giờ
đối diện được với vấn đề thực sự mà chúng nêu ra. Phép lạ là những biến cố
nổi bật gây ngạc nhiên, liên hệ với những cứu cánh đạo đức, xảy ra theo lời
phán của Đức Chúa Trời hoặc khi Ngài nhậm lời cầu nguyện của các tôi tớ
Ngài. Chúng gây ra sự kinh sợ cũng như kinh ngạc, vì chúng đưa chúng ta
đến với sự hiện diện của Đức Chúa Trời hằng sống.
Chính là theo các nguyên tắc vừa nêu mà chúng ta phải hiểu giá trị đích thực
của các phép lạ về sự giải cứu tại Biển Đỏ, việc trừ diệt Cô-rê, Đa-than và
A-bi-ram, việc chữa trị cho một dân sự gặp tai họa nhờ trông vào con rắn
đồng, việc con lừa của Ba-la-am biết nói và các phép lạ của Ê-li-sê mà một
số có thể gọi là tầm thường, như việc khiến cho lưỡi rìu nổi lên và việc loại
chất độc khỏi nồi canh. Tất cả các phép lạ đó là những dấu hiệu chỉ cho dân
Y-sơ-ra-ên thấy rằng Đức Giê-hô-va không phải là vị thần ở xa, nhưng là
Đấng đang quan tâm mật thiết đến sinh hoạt của họ. Dân Y-sơ-ra-ên bị bao
vây bởi các dân tộc mà 'thần của họ có thể nhìn thấy, đụng chạm đến được,
còn chính Đức Chúa Trời của họ lại vô hình. Nếu không có các phép lạ đó,
Đức Giê-hô-va của họ sẽ chỉ là một khái niệm trừu tượng mà thôi.
Những tìm tòi tra cứu các tài liệu Cựu Ước cách công phu nhất đều có
khuynh hướng trả về cho chúng một niên đại rất gần với các thời kỳ chúng
được ký thuật lại, giá trị về phương diện bằng chứng của Cựu Ước vốn quan
trọng hơn nhiều so với điều thiên hạ từng giả định. Quả thật, bằng chứng của
từng phép lạ riêng rẽ được chép trong Cựu Ước không cùng loại hoặc cùng
một cấp bậc với các phép lạ của Tân Ước. Tuy nhiên, điều đó không hề làm
giảm sút tính cách đáng tin hay giá trị của chúng. Chúng hài hòa với môi
trường đạo đức của chúng và ăn khớp với toàn thể ý niệm về Đức Giê-hô-va
vốn luôn luôn hiện diện và hành động tích cực, mà Cựu Ước là phần mạc
khải đã được ký thuật lại. Chúng ta sẽ hàm ơn ngay cả đối với phép lạ ít ý
nghĩa nhất khi hiểu được phép lạ này trong tương quan với toàn thể phần
trình bày của Cựu Ước về công tác bảo tồn tất cả của Đức Chúa Trời, và thứ
đến, khi chúng ta nhìn phép lạ bằng ánh sáng phản chiếu sự mạc khải trọn
vẹn của Đức Chúa Trời trên con người và công tác của Đức Chúa Giê-xu
Christ chúng ta.
CÁC PHÉP LẠ CỦA TÂN ƯỚC
Bây giờ chúng ta bước vào khảo xét các phép lạ trong Tân Ước. Bằng chứng
về các phép lạ của Phúc Âm không thể đánh đổ được. Các phần ký thuật các
phép lạ này rất nghiêm chỉnh, cân đối, không thái quá, hoàn toàn không có
thái độ cuồng nhiệt gây tổn hại cho giá trị của bằng chứng. Lu-ca đã được
công nhận là một sử gia chính xác và cẩn trọng hơn hết, và cũng không hề
có cơ sở vững chắc nào phủ nhận tính cách đáng tin của các trước giả sách
Phúc Âm khác.
Chủ trương rằng các câu chuyện về phép lạ là phần tô điểm về sau này cho
chân lý sẽ không đứng vững được trước những phê bình cả về phương diện
lịch sử lẫn văn học. Các tài liệu đã được phổ biến rất sớm đến nỗi bất kỳ một
sai lầm nào trong đó đều có thể bị phát giác và phơi bày do không có cơ sở
nào để loại bỏ các phép lạ khỏi các phần ký thuật, ngoại trừ sự phản bác có
tính cách triết học.
Ngày nay, nhiều người từng cố gắng dựng lại các phần ký thuật trong các
sách Phúc Âm, và phục hồi lại điều mà các tác giả tưởng tượng ra và cho đó
là Giê-xu đích thực của lịch sử. Họ nỗ lực loại bỏ những điều họ cho là
truyền thuyết nhằm tô son vẽ phấn cho Chúa Giê-xu, và chỉ muốn giữ lại
những gì có tính cách con người, một ra-bi mà các đám đông đi theo để nghe
lời dạy dỗ.
Kết quả của các cố gắng ấy là gì? Người ta đã nhận thấy rằng lời dạy dỗ và
các phép lạ được đan dệt chặt chẽ với nhau, đến nỗi trừ phi lịch sử bị cắt xén
một cách độc đoán nhất thì người ta mới bị bắt buộc hoặc khước từ cả lời
dạy dỗ lẫn các phép lạ mà thôi. Chỉ cần mượn một thí dụ cũng minh họa cho
việc đó, tuy chúng ta có thể nêu ra rất nhiều. Bài Giảng Trên Núi của Chúa
chúng ta là phần giáo huấn hầu như được mọi người tán thưởng, và là điều
mà số người hậu thuẫn cho chủ trương Chúa Giê-xu không hề làm phép lạ
thường sẵn sàng chấp nhận. Ở cuối bài giảng ấy Chúa Giê-xu đã thách thức
kẻ nghe Ngài bằng câu: 'Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng ta rằng: Lạy
Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhơn danh Chúa mà nói tiên tri sao?
Nhơn danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhơn danh Chúa mà làm nhiều phép
lạ sao? Khi ấy, ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, ta chẳng
biết các ngươi bao giờ' (Mat Mt 7:22,23). Mấy lời này chỉ có thể có nếu có
các phép lạ được nhiều người nhơn danh Ngài thực hiện.
Trong quá trình Đức Chúa Trời tự mạc khải, đương nhiên phải có phép lạ.
Mặc khải và phép lạ thuộc về cùng một lãnh vực. Điều đó được nhận thấy rõ
ràng nhất trong các phép lạ của các sách Phúc Âm. Có thể nói rằng trong
việc ký thuật về một Con Người như thế, với những lời tự xưng mình là Đức
Chúa Trời thì không phải sự hiện diện của các phép lạ, nhưng là sự vắng
bóng các phép lạ mới là điều cần được giải thích.
SỰ PHỤC SINH
Phép lạ trên tất cả các phép lạ, là sự sống lại của Đấng Christ. Một khi điều
này được công nhận thì tất cả các phép lạ khác đều được hậu thuẫn. Cho nên
chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi những kẻ chống lại phép lạ phải tập trung
để tấn công Cơ Đốc giáo tại điểm này. Bằng chứng hiển nhiên về sự sống lại
của Đấng Christ đứng sừng sững như một tảng đá giữa những cuộc tranh
luận như bão tố. Nhưng giả thuyết giải thích sự kiện phục sinh như thuyết
cho rằng Chúa chỉ ngất đi chớ không chết thật, hoặc Chúa đã chết nhưng các
môn đồ thấy khải tượng Chúa sống, hoặc các môn đồ gian lận, sai lầm,
truyền khẩu, ảo giác, cuồng tín, sự phát minh do lòng tin kính và tất cả các
thuyết khó bảo vệ giống như vậy đều được đưa ra chỉ để bị đánh đổ tan tành
khi chạm phải bằng chứng hiển nhiên vững mạnh của lịch sử mà Tân Ước và
lịch sử Cơ Đốc giáo đưa ra. Căn cứ vào các tác phẩm của Phao-lô và Lu-ca,
đồng bạn của ông, thì chắc chắn lúc Ê-tiên bị ném đá và Phao-lô đang bắt bớ
Hội Thánh, thì toàn thể bộ phận Cơ Đốc nhân dầu ở tại Giê-ru-sa-lem, Đa-
mách hay An-ti-ốt, đều tin vào việc Đấng Christ sống lại như điều khoản căn
bản cho đức tin của họ.
Trong các bảng liệt kê các nhân chứng Phao-lô nêu ra trong ICo1Cr 15:1-58,
chắc chắn ông từng gặp Phi-e-rơ và Gia-cơ, và rất có thể ông từng gặp nhiều
người khác nữa trong thời gian ông được củng cố thêm đức tin trong đạo
mới. Các phần ký thuật của bốn trước giả sách Phúc Âm về việc nhận ra
phần mộ đã trống không, đầu tiên là do các phụ nữ và sau đó bởi chính Phi-
e-rơ và Giăng, mỗi người hoàn toàn độc lập, trong lúc họ đang bỡ ngỡ và bất
ngờ, đến nỗi nếu bảo do lòng sùng mộ mà họ bày đặt ra, tức là xúc phạm đến
tất cả các qui luật về một chứng cớ hiển nhiên. Phần mộ ấy đã không hề trở
thành một địa điểm hành hương, 'ngày thứ nhất trong tuần lễ' được giữ lại
làm ngày cầu nguyện và thờ phượng, nhiều người đã hi sinh mạng sống để
làm chứng cho 'những điều họ đã thấy và nghe' và diễn tiến của lịch sử tiếp
theo đó đã mặc lấy đúng hình thức mà thực tại của sự sống lại đòi hỏi - một
hình thức mà người ta không thể căn cứ vào bất kỳ một cơ sở nào khác để
giải thích. Cần ghi nhận thêm rằng bằng chứng về sự sống lại đã xuất phát từ
những nguồn gốc giống nhau, đứng trên cùng một cấp bậc với những chứng
cứ về giai đoạn thương khó: người ta không thể có lý do gì để phủ nhận cái
này mà lại không phủ nhận cái kia.
Như thế, sự sống lại của Đấng Christ là đá thử vàng cho tất cả các phép lạ.
Nó đưa ra nguyên tắc về phép lạ và đưa các nguyên tắc ấy vào Cơ Đốc giáo
dưới hình thức rõ ràng hơn hết. Sau khi đã công nhận các phép lạ tối cao đó,
các phép lạ đó của Cơ Đốc giáo chỉ còn khảo xét bằng ánh sáng của chính
tính cách hiển nhiên của chúng.
Phép lạ vẫn còn là hào quang của Cơ Đốc giáo. Chúng tiêu biểu cho chính
trái tim của mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời với thế gian. Chúng vạch rõ
rằng Đức Chúa Trời rất quan tâm đến thế gian, và phủ nhận chủ trương cho
rằng với tư cách là một vị thần, Đức Chúa Trời đã tạo ra thế gian này rồi bỏ
nó trôi giạt mặc ý. Ngài vẫn 'lấy quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật' (HeDt
1:3).
PHÉP LẠ VÀ LUẬT TỰ NHIÊN
Các phép lạ không hề phá bỏ các qui luật thiên nhiên mà trái lại, phải được
xem như đưa cái thế giới hỗn độn này trở lại có trật tự. Spinoza lý luận rằng
các phép lạ mâu thuẫn với chính quan niệm bảo rằng Đức Chúa Trời là Đấng
Toàn Tri, và chủ trương chúng hàm ý rằng công cuộc sáng tạo trời đất bất
toàn, rằng muôn vật là 'bất khả tư nghị' là điều không thể chấp nhận được.
Câu trả lời cho Spinoza hết sức rõ ràng. Thế gian này đã bị mất đi cái 'thiên
tánh' nguyên thủy của nó; trật tự thiên nhiên đã bị vi phạm thô bạo bởi tội
lỗi. Tội lỗi, với điều ác gắn liền với nó đã được gọi là sự bất pháp
(lawlessness) hay việc làm trái luật (IGi1Ga 3:4). Mặt khác, phép lạ từ một
thế giới cao hơn, thuần khiết hơn chen vào để phục hồi những bất hòa hợp
của thế gian, nhờ đó, trật tự của Đức Chúa Trời được tái lập, dầu chỉ trong
một khoảnh khắc mà thôi.
Cuộc tranh luận về phép lạ xưa nay đã bị trở ngại vì nhiều ngộ nhận về danh
từ. Tảng đá vấp chân đích thực gây ngộ nhận do sự hàm hồ về ý nghĩa của từ
'luật' mà ra. Chữ này thường được dùng dường như 'luật' có nghĩa là điều có
thể cấm đoán hay cho phép người ta làm một cái gì đó. Một định luật tự
nhiên chỉ là một cách nói ngắn gọn chỉ các kết quả của nhiều công trình
quan sát và thí nghiệm. Nó chỉ là câu phát biểu mà thôi: nó không hề có
năng lực để thực hiện điều mà nó phát biểu. Trình bày bằng ngôn ngữ bình
dân, thì theo luật, mặt trời mọc lên mỗi buổi sáng; nhưng một 'định luật' như
vậy không hề có năng lực khiến mặt trời mọc lên. Do đó, khi chúng ta bị
cám dỗ để nói rằng 'định luật bị đình chỉ', 'vi phạm qui luật', 'có sự can thiệp
của một định luật cao hơn', là chúng ta chỉ nói một câu vô nghĩa theo một
cách nghe cho kêu mà thôi. Yếu tố quyết định trong thiên nhiên không hề
nằm trong chính 'định luật' hay trong vật chất, mà trong tâm trí. Nếu chúng
ta chấp nhận điều đó thì tự do suy nghĩ là một yếu tố có thật trong cách
chúng ta quan niệm sự vật. Với người tin rằng có một Đức Chúa Trời đã
sáng tạo ra và nâng đỡ mọi sự, thì phần tâm trí ẩn đàng sau vũ trụ này là tâm
trí của Đức Chúa Trời, và Ngài là Đức Chúa Trời của trật tự. Nhưng sự đồng
nhất mà chúng ta quan sát được chỉ hình dung ra phương pháp thông dụng
của Đức Chúa Trời khi Ngài hành động trong cõi thiên nhiên; nhưng phải
nhớ rằng Đức Chúa Trời hoàn toàn tự do trong thế giới của Ngài. Câu hỏi
của Phao-lô về chủ đề này rất đúng khi ông chất vấn vua Ạc-ríp-ba: 'Các ông
há lại ngờ chẳng có thể tin được rằng Đức Chúa Trời khiến những kẻ chết
sống lại sao?' (Cong Cv 26:8). Đức Chúa Trời có thể tự ý thực hiện một
hành động phi thường nếu Ngài cho rằng làm như vậy sẽ đưa đến cứu cánh
tốt đẹp theo ý chỉ Ngài. Sở dĩ các định luật thiên nhiên đồng nhất, là vì Ngài
muốn như vậy, và sự đồng nhất đó chỉ được tiếp tục duy trì bao lâu Ngài còn
muốn như vậy.
KHOA HỌC VÀ PHÉP LẠ KHÔNG HỀ MÂU THUẪN NHAU
Tuy nhiên, tính cách đồng nhất trong thiên nhiên vốn có thật và có phạm vi
rộng rãi đến độ tạo ra trong nhiều người một thành kiến vững chắc chống lại
bất cứ việc gì có vẻ khác lạ, phi thường. Một quan điểm lệch lạc của khoa
học vật lý là việc mở rộng các định luật vật lý vào các lãnh vực luân lý và
thuộc linh là các lãnh vực không thể áp dụng được đã khiến người ta đi đến
chỗ cảm thấy tự do ý chí khác hẳn là ảo tưởng và rằng mọi vật đều đã được
tiền định một cách máy móc không gì lay chuyển được. Nhưng không ai chủ
trương rằng phần tinh thần và thuộc linh mới là những thực tại tối cao được
khích lệ bởi những phát triển gần đây của khoa học. Thuyết chủ trương một
vũ trụ khép kín loại bỏ mọi khả năng can thiệp của bất kỳ một lực lượng nào
khác hơn những lực lượng có thể đo lường được bằng các nguyên tắc cơ
học, ngày nay đã bị loại trừ khỏi chính khoa học. Vật chất là gì? Lực là gì?
Bản tính đích thực của nguyên nhân là gì? Các khoa học ngày nay đã loại bỏ
những câu giải đáp mà toán học từng trả lời cho các câu hỏi đó. Người ta đã
bắt đầu thấy rằng 'vật chất' vốn gần gũi với 'tinh thần' mà đường ranh giới
ngăn cách cả hai rất khó xác định. Người ta biết rất rõ rằng có một số các
nhà khoa học lừng danh vốn tin vào các phép lạ của Cơ Đốc giáo. Thiết
tưởng chỉ cần kể tên Newton, Faraday, Simpson, Kelvin và Lister cũng đã
đủ lắm rồi, và thêm vào đó, chúng ta còn có thể kể tên rất nhiều nhân vật
hiện còn sống nữa. Kelvin nhấn mạnh rằng theo quan điểm của ông, khoa
học chẳng những chỉ công nhận, mà còn tích cực đòi hỏi sự hiện hữu của
một Đấng Tạo Hóa, và mới đây, Sir James Jeans đã bảo: “chắc trước đây
phải có điều mà chúng ta gọi là 'công cuộc sáng tạo trời đất' vào một thời rất
xa xưa”; đó là một việc chắc chắn có tính cách khoa học. Theo quan điểm
của thuyết nguyên tử, Sir Arthur Eddington cũng chống lại quan điểm về
một vũ trụ có định mệnh, và tuyên bố rằng 'ý niệm về một tâm trí phổ quát
hay logos là điều rất có thể suy diễn ra từ hiện trạng của lý thuyết khoa học
ngày nay'. Vậy người ta không thể bảo rằng khoa học hiện đại duy trì bất cứ
một phản bác có giá trị nào chống lại các phép lạ vốn có thể xảy ra.
Các dữ kiện càng ngày càng nhiều trong lãnh vực tâm lý học đã chứng minh
ảnh hưởng của tâm trí trên vật chất cả trong việc gây bệnh và chữa bệnh.
Khoa tâm lý trị liệu không hề giải thích phép lạ, nhưng là một phương diện
điều nghiên đang chiếu sáng vào phần cơ cấu thiết yếu thuộc phạm vi tinh
thần của vũ trụ, và việc phương diện thần học của nó phải chịu phục tùng
tâm trí của Đức Chúa Trời. Người ta đã chứng minh rằng tâm trí có thể gây
ảnh hưởng trên các diễn biến hữu cơ của thân thể, là phần ảnh hưởng mà
người không chuyên môn cho rằng không phải là phép lạ. Trong một số điều
kiện, đặc biệt là trong trạng thái bị thôi miên người ta có thể dùng lời nói
miệng để tạo ra những mụn phồng, các vết mề đay trên da, giảm đau và
chống viêm bằng cùng phương pháp như thế.
CÁC PHẢN BÁC TRIẾT HỌC
Những sự kiện và vấn đề như trên đưa chúng ta đến chỗ kết luận rằng vấn đề
thật ra không phải là một vấn đề khoa học, nhưng là triết học. Vấn đề chẳng
liên quan gì đến chuyện cõi thiên nhiên đang vận hành như thế nào nhưng
liên hệ đến phần động cơ thúc đẩy nguyên thủy khiến cho thiên nhiên bắt
đầu chuyển động và vẫn tiếp tục biến dịch. Vấn đề trước thuộc lãnh vực
khoa học, nhưng vấn đề sau thuộc lãnh vực triết học.
Vấn đề thực sự ở đây cần phải thảo luận đến phép lạ là giáo lý của Cơ Đốc
giáo về thế giới, tức là vật chất sở dĩ hiện hữu là vì cớ tinh thần. Đó là điều
vẫn được quen biết thông thường là quan niệm mục đích luận về vũ trụ là
niềm tin rằng mọi sự đều bị lệ thuộc vào một chủ đích đó là yếu tính của
phép lạ; phần chủ đích gắn chặt phép lạ vào với chính trật tự của vũ trụ.
ĐỊNH NGHĨA PHÉP LẠ
Đến đây, chúng ta đang ở tại một vị trí có thể cố gắng đưa ra một định nghĩa
cho phép lạ. Tiến sĩ James Orr định nghĩa phép lạ là 'một sự sai lệch hay
vượt trên trật tự thiên nhiên do sự can thiệp của một nguyên nhân siêu
nhiên'. Tuy nhiên, định nghĩa này dường như vẫn chưa đầy đủ: nó dừng
ngay lại đúng chỗ mà chúng ta còn muốn cho nó phải tiến tới. Nó xếp phép
lạ vào loại những điều huyền bí không hơn không kém.
Tiến sĩ J.H.Bernard thì đi xa hơn khi ông nói: 'Có thể mô tả phép lạ là một
biến cố biểu hiện một chủ đích, xảy ra trong thế giới vật lý mà người ta
không thể bảo là do một trong số các lực lượng đã được biết, do đó, được
gán cho một nguyên nhân thuộc linh. Đây là một hành động can thiệp thông
thường của các lực lượng thiên nhiên của các tác giả cõi thiên nhiên - một
biến cố không do sự phối hợp của các lực lượng vật lý quan sát được, nhưng
do ý chỉ của Đức Chúa Trời'. Các điểm chính yếu của định nghĩa này là
muốn tập trung sự chú ý vào ba từ ngữ Tân Ước dùng để gọi phép lạ: a)
dunameis nghĩa là năng lực; b) terata nghĩa là 'lạ lùng', 'kỳ diệu'; và c)
semeria, nghĩa là 'dấu hiệu' (Xem Cong Cv 2:22). Do đó, chúng ta có một
phép lạ là khi có một hành động có quyền phép, khiến mọi người lấy làm lạ,
nhưng đồng thời cũng gợi lên một ý nghĩa gì đó. Chính hành động của Đức
Chúa Trời trong phép lạ sẽ khiến nó trở thành có ý nghĩa cho người có ít đức
tin, mà cũng ban cho phép lạ một địa vị hài hòa trong kế hoạch của Ngài.
Phép lạ là kết quả của những nguyên nhân thuộc về 'đời sau' (HeDt 6:5), là
một thế giới bị phân rẽ với chúng ta bằng một bức màn mỏng mà qua đó,
thỉnh thoảng chúng ta có thể thoáng trông thấy Đấng đang ngự trị ở đó.
NHỮNG PHẢN BÁC CỦA HUME VÀ HUXLEY
Chúng ta không có đủ chỗ để nhận xét luận cứ của Hume rằng: 'Không có
chứng cứ nào được coi là đầy đủ để xác lập một phép lạ, trừ phi chứng cứ
thuộc một loại mà sự sai lầm của nó còn kỳ lạ hơn cả sự kiện người ta cố
gắng xác lập. Hay nói cho ngắn gọn, phép lạ nào trái với thực nghiệm là
phép lạ thật, còn không trái với thực nghiệm là phép lạ giả'. Nhược điểm nổi
bật của luận cứ trên đây là nó muốn chứng minh quá nhiều điều. Nó muốn
chứng minh rằng Chúa Giê-xu của lịch sử không hề có thật, vì Ngài cũng
như việc Ngài làm quá độc đáo. Nhưng đó không phải là vết rạn nứt duy
nhất trong luận cứ của Hume, vốn còn chứa đựng nhiều sai lầm về lý luận đã
được Paley phơi bày và trả lời trong quyển Các Chứng Lý của Cơ Đốc giáo
(Evidences of Christianity).
T.H.Huxley lại xét vấn đề bằng chứng một cách khác. Ông ta khá tế nhị và
công nhận có thể phép lạ nhưng đòi hỏi một loại bằng chứng có 'giá trị khoa
học'. Chẳng hạn trong trường hợp Chúa hóa bánh cho năm ngàn người ăn,
quan điểm của Huxley là muốn xác lập đó là phép lạ, các ổ bánh và mấy con
cá phải được đem cân trước và sau khi biến cố xảy ra ngoài việc phải thâu
thập bằng chứng về việc tất cả mọi người đều được no nê. Làm như thế tức
là đòi hỏi một thứ bằng chứng mà theo bản tính của trường hợp này là điều
không thể có được. Chúng ta có thể đồng ý rằng vì diễn tiến của thiên nhiên
có trật tự, chúng ta phải đòi hỏi nơi phép lạ nhiều 'bằng cớ hơn là trong các
công việc theo kinh nghiệm thông thường hằng ngày, nhưng đòi hỏi phải
'chứng minh cách khoa học' lại là một việc khác hẳn. Tất cả những gì chúng
ta có cần để đánh tan việc không thể có như thế trước đó theo kinh nghiệm
chung, là bằng chứng về chủ đích của Đức Chúa Trời.
PHÉP LẠ GIẢ MẠO
Trước khi kết thúc chủ đề này, việc còn lại cần làm là nhận xét về những
điều xảy ra mà có người cho là phép lạ. Có một số sự việc của thời trung cổ:
các phép lạ của các thánh; có các 'phép lạ' của thông linh học; và các phép lạ
ngoại đạo bên Đông Phương. Chúng ta có đúng hay không khi đương nhiên
kết luận rằng các phép lạ của Công Giáo La-mã của các nhà thông linh học
là không có thật, còn các phép lạ của Ê-li-sê chẳng hạn, là có thật?
Cần ghi nhận rằng các giáo phụ đầu tiên của Hội Thánh đầu tiên từng thành
thật thú nhận rằng họ không hề kinh nghiệm thấy có phép lạ xảy ra, nghĩa là
các phép lạ cùng loại và có ý nghĩa như các phép lạ trong các sách Phúc Âm.
T.H.Huxley có kể lại dài dòng một số phép lạ được cho là của một người tên
là Eginhard hồi thế kỷ mười tám, kể lại câu chuyện 'Hai vị thánh tử đạo
Marcellinus và Petrus được cất lên trời'. Sau khi mô tả những việc lạ lùng
đó, gồm nhiều lần hút máu ra và nhiều cách 'chữa bịnh' khác nhau, Huxley
hỏi tại sao chúng ta không thể tin các phép lạ của Eginhard, mà lại tin nhận
các phép lạ của các sách Phúc Âm. Ông ta bảo rằng bằng chứng hiển nhiên
của tài liệu về Eginhard vốn cao hơn bằng chứng về các tài liệu của các sách
Phúc Âm, và nếu chúng ta chối bỏ các phép lạ trước mà tin nhận các phép lạ
sau là tiền hậu bất nhất. Câu trả lời của chúng tôi là rõ ràng và thẳng thắn.
Cứ cho là về phương diện tài liệu thì các chứng cớ về các phép lạ của
Eginhard là các tài liệu có các chứng cớ tốt, chúng tôi xin trả lời rằng chắc
chắn đó chỉ là một phương diện của vấn đề để căn cứ vào đó, người ta có thể
bảo là có giá trị cao hơn, Huxley đã quên mất trường hợp của chính ông ta.
Chính ông ta đã chứng minh rằng toàn thể khung cảnh trong đó người ta cho
là có phép lạ, là gian lận, lường gạt, và mê tín dị đoan, và trình độ thấp kém
về mục đích trong đó người ta nại đến các phép lạ, đã xếp các phép lạ ấy vào
một loại khác hẳn với loại phép lạ trong Kinh Thánh.
Huxley so sánh thời đại Tân Ước với giai đoạn các phép lạ trung cổ và tuyên
bố rằng trong Do Thái giáo, mọi người nói chung cũng trông đợi phép lạ y
như người của thế kỷ mười tám SC. Nhưng điều đó thì trái hẳn với mọi
chứng cớ hiển nhiên. Người Pha-ri-si không chịu tin rằng một người mù từ
thuở sinh ra lại có thể sáng mắt được, và tin tức về việc Chúa sống lại đã
được chào đón với thái độ vô tín, chẳng những giữa vòng các nhà cầm quyền
Do Thái, mà cả với chính các môn đệ của Chúa Giê-xu nữa.
Các lý do khiến chúng ta chối bỏ các phép lạ được cho là thuộc những thời
kỳ muộn hơn về sau này, là vì chúng không giống với các phép lạ của Đức
Chúa Trời như đã xảy ra trong Kinh Thánh, và bằng chứng về chúng trong
phần lớn các trường hợp đều hoàn toàn không đầy đủ.
Các phép lạ trong các sách Phúc Âm Ngoại Kinh thật ấu trĩ và phi lý, còn
các phép lạ của các thời kỳ về sau của các thánh thời trung cổ thì lại nhạt
nhẽo, vô nghĩa. Các động cơ và đặc điểm của các phép lạ trung cổ rất thấp
kém so với các phép lạ trong Kinh Thánh; Các việc của những người theo
thông linh học ngày nay cũng vậy. Các phép lạ của Phúc Âm nâng đỡ, củng
cố cho đức tin rất nhiều; nhưng chúng ta sẽ nói sao về các 'phép lạ' mà người
ta bảo là sở dĩ được thực hiện là nhằm hậu thuẫn cho các giáo lý như 'sự thai
dựng vô nhiễm' của trinh nữ Ma-ri, hay các sản phẩm ngớ ngẩn tạo ra trong
buổi chiêu hồn của những người theo thông linh học?
Khi chúng ta khảo xét vấn đề chứng cớ, thì tính cách cao hơn của các phép
lạ Phúc Âm có thể được chứng minh rõ ràng hơn. Phần lớn các phép lạ gán
cho các thánh chỉ được gán cho họ sau khi họ đã qua đời khá lâu; dĩ nhiên
người ta vẫn chờ đợi việc các thánh làm phép lạ. Do đó, nếu trong lịch sử
cuộc đời vị thánh ấy không thấy có chép về một phép lạ nào thì dường như
số người ái mộ ông ta sẽ 'bổ túc' vào. Nhưng ngoài phương thức đó, các
phép lạ thời trung cổ thiếu mất phần chứng cớ của người đồng thời. Phần
chứng cớ thêm vào đó thường là gắng gượng và vô giá trị, và trong nhiều
trường hợp còn được chứng minh là sai và giả mạo nữa.
Mozley nói: 'Sở dĩ chúng tôi khước từ khối các phép lạ muộn về sau này, là
vì chúng thiếu bằng chứng; không phải vì lý luận bắt buộc chúng tôi chối bỏ
tất cả các phép lạ dầu chúng có bằng cớ hay không'.
Tuy nhiên, hãy còn một điểm khác nữa không thể bỏ qua. Thỉnh thoảng có
chỗ này chỗ nọ trong Kinh Thánh đề cập các 'phép lạ dối giả' (PhuDnl 13:1-
3; IITi 2Tm 2:9), và dạy rằng nhiều biến cố vượt hẳn khả năng loài người có
thể được các tà linh thực hiện nhằm chủ đích xấu. Chủ đề này đầy huyền bí,
nhưng nguyên tắc thì hết sức rõ ràng, ấy là, cũng như phép lạ thật chứng
thực cho một giáo lý thế nào, thì cũng vậy, chân lý của giáo lý và bằng
chứng của mục tiêu thiên thượng cũng cần để chứng minh phép lạ đến từ
Đức Chúa Trời. Cho nên khi Đấng Christ bị tố cáo là cậy quyền Bê-ên-xê-
bun để trừ quỉ (Mat Mt 12:24), thì Ngài đã nại đến phần chủ đích tốt và kết
quả là làm ích lợi, để chứng minh trái lại.
PHÉP LẠ VÀ GIÁO LÝ.
Bây giờ, chúng ta quay sang với giá trị của phép lạ.Về phương diện giá trị,
phép lạ có tính cách của bằng chứng. Khảo xét các phép lạ trong bối cảnh
giáo lý, ta thấy nó hậu thuẫn cho giáo lý ấy.
Tuy nhiên, phải cẩn thận: 'Một phép lạ không chứng minh cho sự chân thật
của một giáo lý, hay cho sứ mạng từ Đức Chúa Trời của người thực hiện nó.
Ngay từ đầu, phép lạ giúp cho lời người được lắng nghe và chỉ ra người ấy
từ thiên đàng hay từ hỏa ngục đến. Trước hết, giáo lý phải tự bày tỏ cho
lương tâm rằng nó tốt lành và sau đó, phép lạ mới ấn chứng được giáo lý đó
là từ Đức Chúa Trời'. 'Hãy theo luật pháp và lời chứng nếu dân chẳng nói
như vậy chắc sẽ chẳng có rạng đông cho nó' (EsIs 8:20). Điều nào không
vượt qua được cuộc thử nghiệm này thì dù có bao nhiêu phép lạ đi nữa cũng
không chứng tỏ nó bắt nguồn từ Đức Chúa Trời. Cả giáo lý lẫn phép lạ đều
có dấu hiệu riêng của chân lý nằm ngay bên trong, và chỉ khi đó mới có thể
lấy cái này để khẳng định cái kia.
Các phép lạ được thực hiện để xác nhận thẩm quyền của vị sứ giả, và chỉ để
gián tiếp chứng minh cho sứ điệp ấy là thật mà thôi. Như thế, trong suốt quá
trình lâu dài Đức Chúa Trời tự bày tỏ chính Ngài, phép lạ đã có một giá trị
vượt trội, vì do chúng, Ngài đã vui lòng phó thác và xác nhận uy quyền của
những người đã nhận được sự mạc khải của Ngài. Pha-ra-ôn đã hành động
đúng khi đòi hỏi Môise một phép lạ (XuXh 7:9,10), và A-cha đã phạm một
trọng tội khi khinh dể một dấu hiệu mà Đức Chúa Trời ban (EsIs 7:10-13).
Người đem Phúc Âm và chân lý siêu nhiên phải có thể xuất trình các chứng
minh thư của mình. Ni-cô-đem đã có lý khi ông nói về Chúa Giê-xu: “Chúng
tôi biết thầy là giáo sư từ trời đến, vì những phép lạ mà thầy đã làm đó, nếu
Đức Chúa Trời chẳng ở cùng thì không ai làm được” (GiGa 3:2). Các việc
làm của Chúa Giê-xu cùng với phẩm cách từ trời đến của chức vụ Ngài đã
chứng minh rằng Ngài vốn 'từ trời đến', và trên cơ sở đó, Ni-cô-đem được
chuẩn bị nhận lời giáo huấn từ vị giáo sư được Đức Chúa Trời sai đến.
CÁC PHÉP LẠ LÀ PHƯƠNG TIỆN MẠC KHẢI.
Nhưng các phép lạ còn trổi vượt hơn các chứng minh thư, vì có mối liên hệ
hữu cơ với sự mạc khải mà từ đó chúng xuất phát. Chúng không được Đức
Chúa Trời ban cho để chỉ có tác dụng như tiếng mỏ nhằm lưu ý người ta hãy
lắng nghe lời rao báo sau đây. Các phép lạ là phương tiện của sự mạc khải,
chúng có liên hệ sống động với sự mạc khải và là một thành phần của sự
mạc khải. Các phép lạ của Đấng Christ là những việc làm mà Phúc Âm là lời
nói. Chúa chúng ta tự mạc khải là Cứu Chúa bằng những việc làm của một
Cứu Chúa, bằng cách chữa lành các bệnh tật của linh hồn và thân thể cho
mọi người. Các phép lạ không được thực hiện nhằm khiến người ta kinh
ngạc để qua đó mà có đức tin; nhưng trước hết, chúng nhằm ngỏ lời với
người đã có đức tin rồi, và nếu bị khinh dể, chúng sẽ trở thành cơ sở định tội
người ấy. Chính vì lý do ấy mà Kinh Thánh chép rằng Chúa Giê-xu đã
không làm được nhiều việc quyền năng tại thành phố quê hương của Ngài,
bởi vì dân chúng ở đó không tin (Mat Mt 13:58).Các phép lạ được thực hiện
như một thành phần của sự mạc khải. Cho nên khi Chúa chúng ta phán: “Ta
là sự sáng của thế gian”, thì Ngài cũng lập tức thực hiện việc chữa lành cho
người mù (GiGa 9:5-7) và khi Ngài phán với Ma-thê: “Ta là sự sống lại và
sự sống” thì đồng thời Ngài cũng gọi La-xa-rơ ra khỏi phần mộ (GiGa
11:25,43). Ngài giải thích việc hóa bánh cho năm ngàn người ăn bằng một
lời tự xưng sâu nhiệm: “Ta là bánh hằng sống” (GiGa 6:35). Tiến sĩ
R.E.D.Clark đã lý luận rất đúng rằng phép lạ cung cấp một mắc xích giữa
Đức Chúa Trời của sự mạc khải với Đức Chúa Trời của công trình sáng tạo
trời đất. Trong việc Chúa chúng ta bày tỏ Đức Chúa Trời ra, thì Ngài phải
làm nhiều phép lạ là điều thích hợp - là bằng chứng hiển nhiên rằng đó là
các việc làm của Đấng Tạo Hóa - là những phương tiện để qua đó, thực thi
lòng thương xót và yêu thương của Ngài. Kết quả của các phép lạ của Chúa
chúng ta là người ta thấy hợp lý khi tin vào những câu khẳng định của Ngài
rằng Đức Chúa Trời đang quan tâm chăm sóc cõi thọ tạo của Ngài. Thế thì,
tự chúng, mục đích cao nhất của phép lạ là sự mạc khải Đức Chúa Trời trong
Đấng Christ. Đời sống và việc làm diệu kỳ của Đấng Christ vốn bất khả
phân ly: cả hai chỉ là một. Chúa chúng ta phán: “Ví bằng ta không làm
những việc của Cha ta, thì các ngươi chớ tin ta; còn nếu ta làm, thì dầu các
ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta để các ngươi hiểu và biết rằng Cha
ở trong ta và ta ở trong Cha” (GiGa 10:37,38).
Như vậy, một phép lạ thật sự với chức năng làm 'dấu hiệu' của nó, là một
phương tiện để chuyên chở sự mạc khải chớ không chỉ là bằng chứng thêm
vào. Tiến Sĩ Wace nói: “Người ta ngày càng nhận thức rõ ràng hơn rằng
phép lạ không phải là cái gì từ bên ngoài phụ thêm cho đức tin Cơ Đốc,
nhưng là điều được buộc chặt bất khả phân ly với nó, và có sự đồng nhất
hoàn toàn trong việc biểu hiện bản tính của Đức Chúa Trời được ghi chép lại
trong Kinh Thánh.
Trước khi kết thúc đoạn nói về giá trị của bằng chứng các phép lạ, chúng tôi
còn một điều quan trọng cần lưu ý. Tuy giá trị của phép lạ rất lớn vì vừa để
chứng thực vừa thể hiện mạc khải, chúng không bao giờ thay thế được cho
đức tin. Lòng tin quyết của Cơ Đốc nhân không hề đặt cơ sở trên một sự
chứng minh nào đó được đưa ra một cách hoàn toàn khách quan; nó không
phải là một cái gì có thể được chứng minh bằng phương pháp toán học.
Chúa chúng ta từng quở trách thái độ sai lầm này: “Nếu các ngươi không
thấy phép lạ và điềm lạ, thì các ngươi chẳng tin” (GiGa 4:48).
Nỗ lực của những người muốn bênh vực Cơ Đốc giáo bằng cách thay thế
đức tin bằng một chứng cớ khách quan, khuôn thước, trong khi lòng người
vốn chỉ có thể thỏa mãn với một chứng cớ của đạo đức và tâm linh. Làm vậy
là gây tổn hại cho tâm hồn và là gieo ra những hột giống của sự vô tín trong
tương lai. Niềm tin quyết của người tin Chúa vốn đặt nơi Đức Chúa Trời,
không phải qua lời chứng ngoại tại là phép lạ, nhưng qua nội chứng của Đức
Thánh Linh. 'Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta' (RoRm
8:16), và đó là uy quyền tối hậu, qua đó, niềm tin quyết đã đến với tấm lòng.
NGŨ KINH
TÁC QUYỀN
Có hai quan điểm về nguồn gốc của Ngũ Kinh. Quan điểm thứ nhất chú
trọng vào giá trị trước mắt của năm quyển sách ấy và cho rằng phần lớn là
của Môi-se. Quan điểm thứ hai cho rằng Ngũ Kinh là một tập hợp các tài
liệu đã có suốt một thời gian dài đã có từ thời trước Môi-se cho đến khoảng
năm 400 TC. Quan điểm đầu chiếm ưu thế tuyệt đối cho đến cuối thế kỷ thứ
mười tám; từ đó trở đi, thuyết thứ hai đã lần lần nổi lên. Tuy các nhà chủ
trương thuyết thứ hai chẳng bao giờ đồng ý với nhau về niên đại và cách
phân chia các tài liệu nhưng họ đều đồng ý gán cho Môi-se chỉ một phần rất
nhỏ trong các sách ấy mà thôi.
Thuyết này lập thành chủ trương của các trường đại học và cao đẳng hồi đầu
thế kỷ này, đây là sự kiện đã tạo thành kiến trên việc khảo xét các chứng cứ
trái lại những gì đã được tích lũy từ lâu.
KHẲNG QUYẾT CỦA CÁC SÁCH NGŨ KINH
Lời chứng của bất kỳ quyển sách nào về trước giả của chính nó, không thể bị
coi nhẹ và gạt qua một bên; và nếu càng có nhiều những lời khẳng định trực
tiếp cũng như những gợi ý gián tiếp bao nhiêu, thì giá trị của chúng sẽ càng
lớn. Đã có ba trong năm sách từng đề cập Môi-se là người viết và chép các
sách ấy. Trong XuXh 17:8-14, Môi-se đã viết ra một bài tường thuật trận
đánh với dân A-ma-léc; trong XuXh 24:4,7, ông viết ra điều kiện của một
giao ước (nghĩa là các chương 21:1-23:33 và có thể là cả chương 20 nữa) và
đọc chúng từ một quyển sách cho dân sự nghe; trong Dan Ds 33:2, ông ghi
lại các chuyến đi của dân sự. PhuDnl 31:9-12, 24-26 (so sánh 28:58-61) lại
còn có tính cách dứt khoát hơn. Ở đây, Môi-se đã dứt khoát tuyên bố ông đã
viết ra bảng luật pháp như đã được ban hành trong Phục Truyền Luật Lệ Ký,
và đặt sách ấy bên cạnh hòm giao ước.
Sự kiện những chỗ kể trên là những câu duy nhất trực tiếp đề cập Môi-se là
trước giả thiết tưởng không gây ngạc nhiên cho chúng ta. Ông đã được công
bố hai lần là đã chép lại sử ký thời của ông, và hai lần là đã chép lại bộ luật
mà Đức Chúa Trời đã ban bố. Do đó, cũng rất có thể chính ông là người viết
ra phần còn lại của bộ sử ký và các luật lệ khác. Điều này có thể đặc biệt áp
dụng cho phần sau, vì phần lớn, chúng đều được Đức Chúa Trời ban truyền
cho chính Môi-se trước nhất. Nếu ông đã nhận được chúng, và nếu nhờ được
giáo dục tại Ai Cập, ông có đủ tư cách để viết, thì chúng ta có đủ lý do để
kết luận rằng, quả thật chính ông là trước giả.
Như thế, bốn sách sau trong Ngũ Kinh đều ẩn tàng lời tuyên bố rằng chính
Môi-se là người đã viết; và chưa hề có ai dám chủ trương rằng sách Sáng
Thế Ký không họp với bốn sách kia để thành một bộ thống nhất. Do đó, nếu
Môi-se được thừa nhận là trước giả của những đoạn viết về luật pháp, thì ta
cũng phải thừa nhận chắc chắn rằng ông cũng là trước giả sách Sáng Thế
Ký.
Tuy nhiên, các từ ngữ 'tác giả', 'tác quyền' phải được sử dụng có điều kiện.
Khi nói 'trước giả', chúng ta chỉ ngụ ý bảo rằng Môi-se đã viết các quyển
sách ấy, và từ ngữ ấy không có ý bảo rằng ông đã trực tiếp nhận chúng do
Đức Chúa Trời đọc cho ông, hay bằng một cách đặc biệt nào khác. Cách nói
như thế bỏ ngỏ vấn đề Đức Chúa Trời đã mạc khải ý chỉ Ngài như thế nào
cho Môi-se. Lắm khi, dường như đã có một tiếng phán trực tiếp; nhiều lần
khác, có lẽ là do một ấn tượng, một cảm tưởng nảy sinh trong lòng, đóng ấn
của Đức Chúa Trời trên việc áp dụng các luật lệ đã được thừa nhận giữa
vòng các dân tộc Semitic.
Về sách Sáng Thế Ký thì Môi-se đã viết ra chủ yếu như một biên tập viên
đúc kết tài liệu. Cũng như các sử gia khác, ông sử dụng các bản ký thuật
cùng thời với các biến cố chúng mô tả. Có lẽ trong nhiều trường hợp, ông đã
hành động như một dịch giả hay người thông dịch, cắt nghĩa lại rõ ràng
những câu chuyện xưa cho người thời ông hiểu.
Quyền trước giả của Môi-se nói chung cũng phù hợp với một số ít những
đoạn được thêm vào về sau, như Dan Ds 12:3; 21:14, và phần ký thuật về sự
qua đời của Môi-se; và sở dĩ có những đoạn sách đó là nhằm giúp cho người
đọc, hoặc cập nhật hóa các quyển sách, chẳng hạn như SaSt 12:6; 13:7 và
nhiều phần trong 36:9-43. Các địa danh cũ có thể đã được hiện đại hóa.
XuXh 1:11 đưa ra một thí dụ gần giống như vậy vì theo những bằng chứng
tốt nhất thì không hề có một Pha-ra-ôn nào có tên là Rameses trị vì trước
thời Môi-se, trong khi người ta được biết là Rameses II (1.300-1.225) là
người vẫn thường nhận vơ công trình của các vua tiền bối, và lấy tên mình
đặt lại cho nhiều thành phố. Cũng rất có thể Môi-se đã viết ra tên chính của
các thành phố ấy, nhưng khi người ta thấy rằng tên ấy đã lỗi thời, thay vào
bằng tên mới.
Cũng có giả thiết cho rằng thỉnh thoảng có người thêm một chút chi đó vào
chính luật pháp nhằm đáp ứng một vấn đề vốn chưa được đặt ra vào thời của
Môi-se. Toàn bộ luật pháp vẫn được gọi là 'luật pháp Môi-se' theo nghĩa là
đã có một vài thêm thắt nhỏ vào công trình cốt yếu của ông.
Nếu có một số học giả Kinh Thánh chủ trương rằng các phần ký thuật quả
thật là của Môi-se đã được sắp xếp lại để có phần hình thức như hiện nay
vào thời của Giô-suê hay một thời gian ngắn sau đó, nhưng vẫn nhấn mạnh
rằng tất cả những gì đã được viết hoặc nói ra nhất định vốn thật sự là của
ông, thì chẳng có gì bất nhất cả.
GIẢ THUYẾT CỦA WELLHAUSEN
Ở đây, thiết tưởng không cần phải vạch ra những nét chính, lịch sử và sự
phát triển của điều mà ngày nay mọi người vẫn gọi là giả thuyết của
Wellhausen. Ở một chỗ khác trong sách này, chúng tôi đã lưu ý đến các
thuyết duy vật đầy thiên kiến và chống lại siêu nhiên. Thành kiến này không
thể giải quyết được vấn đề chân lý hoặc ngụy lý trong các kết luận của lý
thuyết này và sẽ được khảo xét ở đây.
Bố cục sau đây tiêu biểu cho các kết luận tổng quát của các học giả tiêu biểu
như J.Wellhausen, S.R.Driver, W.O.E.Oesterley và T.H.Robinson. Chúng
tôi chỉ có thể đưa ra những kết luận tổng quát mà thôi, vì thường có sự bất
đồng ý kiến rất lớn về các vấn đề chi tiết.
Người ta đã tưởng tượng rằng có một thời kỳ, dân Y-sơ-ra-ên không có ký
thuật thành văn. Trong các thành phố, quanh ngọn lửa trại, người ta kể lại
cho nhau những chuyện tích của thời xa xưa và những việc lớn lao Đức
Chúa Trời đã làm. Các nơi thánh và đền thờ ở khắp nơi trong xứ là các trung
tâm sưu tập những chuyện kể ấy. Các đền thờ ấy tranh đua nhau truy nguyên
nguồn gốc đền thờ mình từ một trong các vị anh hùng xa xưa nào đó, hoặc
từ một hành động nào đó của các vị anh hùng ấy, là do sự hiển linh của một
vị thần. Các thầy tế lễ của các đền thờ thường được nhờ cậy để đưa ra những
quyết định có tính cách hợp pháp và đạo đức, và những quyết định như thế
thường được ghi nhớ và tạo thành một bộ phận nhỏ của sách Torah hay 'sách
luật pháp'.
Có hai trước giả giữa những năm 900 và 750 TC, đã viết lại một số các câu
chuyện và luật pháp đó. Vị đầu tiên trong hai vị ấy được biết là J, vì ông ta
tin rằng tên thiêng liêng của Giê-hô-va (Jehovah hay Yahweh) vốn đã được
loài người biết đến ngay từ thời nguyên thủy. Ông ta chú ý phần lớn đến
vương quốc miền Nam, cũng như dân cư và các đền thờ tại đó. Quan niệm
của ông ta về Đức Chúa Trời đơn giản và ấu trĩ: Đức Giê-hô-va đã lấy đất
sét nặn nên loài người, đi dạo trong vườn, ngự xuống để xem người ta xây
tháp Ba-bên. Trước giả này chú trọng đến nguồn gốc các tên người, như tên
A-đam tên các con trai Gia-cốp. Các câu chuyện của ông nhấn mạnh vào bài
học là Đức Chúa Trời phạt ác, thưởng thiện.
Trước giả thứ hai là E, quan tâm nhiều hơn đến vương quốc miền Bắc, tuy
ông ta rất quen thuộc với các vấn đề Ai Cập. Ông không tin rằng danh Giê-
hô-va đã được người ta biết đến trước khi Ngài tự mạc khải cho Môi-se
trong bụi gai cháy (XuXh 3:14,15). Do đó, ông ta gán danh Ê-lô-him cho
Đức Chúa Trời trước giai đoạn đó. Quan điểm của ông về Đức Chúa Trời ít
có hình dáng giống như con người hơn, cho nên thích được thấy Đức Chúa
Trời tự bày tỏ Ngài ra, mạc khải ý chỉ Ngài, qua những giấc chiêm bao (SaSt
20:3)hoặc bằng những tiếng phán từ trời (SaSt 21:17).
Cả J lẫn E đều có một bộ phận luật pháp được bảo là do Đức Chúa Trời ban
bố cho Môi-se trên núi. Bản E thường được gọi là 'sách giao ước' và xuất
hiện trong XuXh 20:22; 23:19. Bản J cũng vậy, tuy ngắn hơn, và có thể tìm
thấy trong XuXh 34:10-28.
J và E có thể được xem là công trình của hai cá nhân hoặc mỗi tập tài liệu là
kết quả của nhiều tác giả. Vào một niên đại rất sớm, J và E được đúc kết lại
thành một quyển sách duy nhất. Thỉnh thoảng người làm công tác để các
đoạn sách trong hai tập tài liệu cũ riêng rẽ nhau, nhưng 'thỉnh thoảng chúng
được đan dệt vào nhau chặt chẽ, mật thiết đến nỗi không ai có thể tách rời ra
một cách chính xác và chắc chắn được' (Oesterley và Robinson).
Tập tài liệu sau đó được biết là D, vì nó gồm phần lớn sách Phục Truyền
Luật Lệ Ký (Deuteronomy). D có liên hệ với E, do đó, có liên hệ với miền
Bắc. Nó có thể chính là quyển sách luật pháp đã được tìm thấy trong đền thờ
dưới thời trị vì của Giô-si-a năm 62 TC (IIVua 2V 22:1-23:37). Lý do đồng
nhất hóa như vậy là vì công cuộc cải cách của Giô-si-a đi theo các đường lối
đã được qui định trong D, nhất là trong mối liên hệ với ngôi đền thờ duy
nhất, là nơi thờ phượng Đức Giê-hô-va. Người ta phỏng đoán rằng sách ấy
do một nhóm người thuộc linh, sốt sắng của vương quốc miền Bắc, có liên
hệ ít nhiều với các nhà tiên tri hồi thế kỷ thứ tám, nhất là với Ô-sê, đã đúc
kết ra. Các trước giả có quan điểm nhân bản mạnh mẽ, có nhiều thiện cảm
với những kẻ nghèo và người bị áp bức. Cùng một trường phái các nhà viết
sách ấy cũng đã viết phần sử ký và các luật pháp nguyên thủy (nhưng không
viết sách Sáng Thế Ký) và có thêm thắt, chú giải một vài chỗ.
Một tài liệu khác nữa được tìm thấy trong LeLv 17:1-26:46 đề cập chủ yếu
sự tẩy sạch của nghi lễ. Do đó, nó được gọi là H, chỉ về sự thánh khiết
(Holiness). Có chỗ rất giống nhau giữa H và sách Ê-xê-chi-ên và người ta
lấy đó để chủ trương rằng sách Ê-xê-chi-ên có trước H. Nhưng nhiều tác giả
ngày nay tin rằng sách Ê-xê-chi-ên lệ thuộc H, và H có trước cả D, trong khi
D với miền Bắc, còn H thì thuộc về miền Nam.
Cuối cùng có một tài liệu P hay Luật về chức vụ tế lễ (Priestly Code) đã
được viết ra. P được nhận ra do phần 'bút pháp cao xa nhưng đúng đắn, cách
sắp xếp có thứ tự, các bảng gia phổ được ghi chép cẩn thận, việc thích đưa ra
các chi tiết chính xác của các con số và các niên đại, và việc quan tâm đến
tất cả những gì có liên hệ đến phần lễ nghi. Cũng như E, P không tin rằng
danh Giê-hô-va đã được biết từ thời Sáng Thế Ký, vì ông có một đoạn nêu
danh đó trong XuXh 6:3. Các thí dụ điển hình của P là câu chuyện sáng tạo
trời đất cách có thứ tự trong SaSt 1:1-2:4 các chi tiết của đền tạm và phần
nghi lễ trong các của lễ.
Cho dù P chứa đựng phần tài liệu sớm hơn, hình thức cuối cùng của nó được
phe các thầy tế lễ viết ra trong thời gian lưu đày. Vì bị cắt đứt khỏi đền thờ,
bị ngoại giáo bao vây, họ đã cố công ra sức kiến tạo luật Do Thái giáo độc
quyền, nhấn mạnh và phục hồi mọi sự trong lịch sử và sự thờ phượng của
người Do Thái khiến người ta phân biệt dễ dàng với ngoại giáo. P được cho
là quyển sách luật pháp thông dụng, đã được E-xơ-ra đọc cho toàn dân nghe
trong NeNe 8:1-18. Theo niên đại được định cho E-xơ-ra, tài liệu này chắc
đã có vào khoảng năm 398 TC.
Sau cùng, có một người hoặc một nhóm người đúc kết đã kết hợp tất cả các
tài liệu vừa kể thành một toàn khối tức là bộ Ngũ Kinh của chúng ta ngày
nay. Qua những lần tái bản và san nhuận, thỉnh thoảng cần có những điều
phải thêm vào, và có một vài phần được vá víu nhiều hơn những phần khác.
'Nhưng ngay từ đầu thế kỷ thứ hai TC, luật pháp đã được xem như một toàn
khối duy nhất, rõ ràng là không bị dị nghị gì về nguồn gốc phức hợp của nó.
Chúng ta sẽ không sai lầm lắm nếu gán cho việc nó được hoàn tất lần cuối
cùng một niên đại trễ hơn năm 300 TC'.
NGOẠI CHỨNG
Điều thừa nhận được trích dẫn trong phân đoạn trên đây rất quan trọng. Đó
là sự kiện “đầu thế kỷ thứ hai TC, luật pháp được xem như một toàn khối
duy nhất, và hiển nhiên không bị nghi ngờ về nguồn gốc phức hợp của nó”.
Thấy rằng Ngũ Kinh phải là phần đầu tiên của Cựu Ước cần được dịch sang
Hi văn, cho nên vào thế kỷ thứ ba, bản dịch đó đã được bắt đầu. Nhưng thật
là khó dung hòa việc đó với việc nó vừa được hoàn tất chỉ mấy năm trước
đó.
Các niềm tin và tập tục tôn giáo luôn luôn có khuynh hướng trở thành cố
định, nhất là giữa vòng dân Do Thái, và bất kỳ một sự canh tân nào cũng gây
nên chống đối dữ dội. Ta có thể nào tin được rằng làm sao có cả một bộ luật
mượn danh Môi-se đem ra áp đặt trên toàn dân mà lại không bị đem ra để
đặt thành vấn đề hay không?
Vấn đề này lại trở thành đặc biệt bén nhọn khi được biết còn có một bộ Ngũ
Kinh Sa-ma-ri. Ngoài một vài chỗ cách viết có khác nhau, phần cốt yếu của
bản ấy giống y các nguyên bản Massoretes và Bảy Mươi. Do đó, rõ ràng là
hoặc nó có nguồn gốc sau niên đại mà giới phê bình hiện đại gán cho bộ
Ngũ Kinh được hoàn tất, hoặc là toàn thể thuyết ấy phải được triệt để duyệt
xét lại.
Bản sao bộ Ngũ Kinh hiện được cộng đồng nhỏ bé người Sa-ma-ri giữ tại
Nablus được viết bằng chữ vàng theo lối cổ tự được sử dụng trước lối chữ
Hy-bá-lai vuông, thông dụng vào khoảng đầu kỷ nguyên Cơ Đốc giáo. Có
một ghi chú bảo rằng sách ấy được viết ra năm thứ mười ba sau khi 'Abisa
con trai A-rôn' đánh chiếm xứ Palestine; mà điều này chắc chắn phù hợp với
một truyền thống rất xưa. Nhiều bản sao khác hiện có tại Thư viện John
Rylands, Manchester, có một bản được giáo sư Robertson xếp vào 'nhiều thế
kỷ' trước một bản khác được định niên đại là năm 1.211 SC.
Bất chấp truyền thống, nhiều học giả vẫn đề nghị nhiều niên đại khác nhau
cho lần đầu tiên bộ Ngũ Kinh được đặt vào tay cộng đồng Sa-ma-ri. Người
ta bảo rằng (1) nó là một (hay nhiều) bản sao được giữ lại của vương quốc
miền Bắc từ thời Rô-bô-am, hoặc (2) nó được thầy tế lễ được đề cập trong
IIVua 2V 17:28, được phái trở về dạy dỗ người Y-sơ-ra-ên và các dân mới
di cư đến biết 'phải thờ lạy Đức Giê-hô-va làm sao', đem về.
Thiết tưởng không cần nói rằng nếu một trong bất cứ giả thuyết nào trong số
các giả thuyết trên là đúng, thì toàn thể thuyết phê bình về cách định niên đại
đều bị đổ nhào.
Josephus có một câu chuyện (trong Antiquities 11:7,8) kể rằng, dưới thời A-
lịch-sơn Đại Đế (khoảng 330 TC), có một người tên là Ma-na-se, em trai
thầy tế lễ thượng phẩm, cưới một con gái của San-ba-lát và bị trục xuất khỏi
Giê-ru-sa-lem. San-ba-lát xây ngay cho ông ta một đền thờ trên núi Ghê-ri-
xim. Do đó, có người nghĩ rằng bộ Ngũ Kinh đã do Ma-na-se đem về cho
dân Sa-ma-ri. Nhưng theo NeNe 13:28, thì dường như Josephus nhầm lẫn về
niên đại, đáng lẽ phải xếp vào khoảng năm 430 TC. Nhưng chính việc này
cũng làm hại cho số người đã định niên đại cho việc số tài liệu P đã được
đưa vào xứ Palestine khoảng ba mươi năm sau đó, và việc hoàn tất bộ Ngũ
Kinh vào một niên đại còn muộn màng hơn nữa. Chính giả thuyết đó tự nó
cũng có vẻ không đúng, vì nó ép buộc dân Sa-ma-ri tiếp nhận một quyển
sách luật của kẻ thù mà họ cay cú nhất, và bộ luật ấy lại áp đặt trên họ những
hạn chế vốn là nguyên nhân chính đã gây ra mối thù ấy.
Nếu không thừa nhận niên đại Josephus đưa ra là phải chấp nhận một diễn
trình càng dễ bị phê phán hơn khi phải bày đặt ra một San-ba-lát khác, để tái
hành động như câu chuyện trong NeNe 13:1-31. Mà nó cũng không hoàn
toàn giải tỏa được chỗ khó khăn, vì mối thù giữa dân Do Thái và Sa-ma-ri
lúc ấy không hề giảm bớt, và toàn bộ Ngũ Kinh theo thuyết ấy - vẫn chỉ còn
là một bộ sách mới được biên soạn.
Những ai chấp nhận thuyết Wellhausen còn phải vượt qua một khó khăn
nữa, vì họ chủ trương rằng hệ thống phân tích của họ có thể chứng minh
được rằng Giô-suê có thể được chia ra cho cùng các trước giả J, E, D và P,
do đó Ngũ Kinh của Môi-se phải kết hợp với Giô-suê thành một toàn khối
duy nhất. Nếu thế thì tại sao người Sa-ma-ri lại không chịu chấp nhận như
vậy? Câu trả lời được đưa ra, là vì người Do Thái đã tách rời sách Giô-suê ra
khỏi các sách kia vì chiếc hố to rộng dường như đã phân cách chúng với
nhau, và việc chia cắt ấy hoàn toàn có tính cách giả tạo. Tuy nhiên, đã không
hề có ngoại chứng hiển nhiên nào được đưa ra để hậu thuẫn cho việc đó.
Chính từ ngữ Ngũ Kinh (Pentateuch) mà các tác giả Cơ Đốc thời kỳ đầu tiên
(như Origen, Tertullian) dùng được kết hợp với truyền thống cổ của Do Thái
giáo bảo rằng năm sách ấy là 'năm phần năm của luật pháp'.
Khảo xét thật cẩn thận mấy trăm khúc sách trong Cựu Ước liên hệ đến luật
pháp và cho thấy các khúc sách ấy đã ám chỉ rất nhiều đến nội dung của năm
quyển sách đầu tiên, nhưng đã không hề có lời ám chỉ nhỏ nhoi nào ngụ ý
rằng sách Giô-suê được kể là một trong số các sách đó.
Nếu chúng ta chấp nhận phần ký thuật các sách ấy nói về chính chúng, thì
những điểm khó khăn sẽ tan biến, và các sự kiện trong đó cho phép chấp
nhận một cách giải thích tự nhiên. Gợi ý của giáo sư E.Robertson bảo rằng
Sa-mu-ên và trường dạy tiên tri chịu trách nhiệm việc hoàn tất bộ Ngũ Kinh
đã thoát khỏi các phản bác vừa được nêu ra trên đây, và là một bằng chứng
quan trọng chống lại bất kỳ một niên đại muộn màng nào; nhưng cho dù Sa-
mu-ên hay bất luận một ai khác đã có đóng một vai trò nào trong việc sắp
xếp bộ Ngũ Kinh để có phần hình thức cuối cùng như hiện có, sự thật vẫn là
đã không hề có tên một nhân vật nào khác hơn Môi-se đã được gán cho Ngũ
Kinh. Về phương diện này, chúng ta có thể so sánh Ngũ Kinh với Thi Thiên.
Tuy truyền thống gán Thi Thiên cho Đa-vít, các nhan đề vẫn truyền lại nhiều
tên khác. Nhưng trong toàn thể nền văn học Hy-bá-lai người ta đã không
thấy có một tác giả Do Thái nào đã bênh vực hay tranh luận về vấn đề truyền
thống liên hệ đến bộ Ngũ Kinh.
BẰNG CHỨNG NGỮ HỌC
Trong cuốn Thánh Kinh Chỉ Nam này, chúng tôi không thể viết đầy đủ chi
tiết về vấn đề ngữ học. Các bạn quan tâm xin tìm đọc các sách của giáo sư
R.Dick Wilson, nhan đề 'A Scientific Investigation of the Old Testament' và
'Is the Higher Criticism Scholarly?'. Giáo sư Dick Wilson là một nhà ngôn
ngữ học uyên thâm về các cổ ngữ Đông Phương. Có hậu thuẫn rất mạnh mẽ
về phương diện ngữ học cho quan điểm bảo thủ do sự kiện tuy tìm thấy
nhiều từ ngữ Ba-tư trong các sách Sử Ký, E-xơ-ra, Nê-hê-mi, Ê-xơ-tê và Đa-
ni-ên, người ta đã không tìm được một chữ nào trong bộ Luật về chức vụ tế
lễ (P), tuy người ta đã giả định rằng bộ luật ấy do trường phái được kết hợp
với E-xơ-ra. Từ một quan điểm khác, giáo sư A.S.Yahuda đã chứng minh
rằng có rất nhiều dấu vết về ảnh hưởng của Ai Cập trên ngôn ngữ và tư
tưởng của bộ Ngũ Kinh, như để minh chứng rằng Môi-se là trước giả.
Không ai chối cãi việc đã có khác nhau về bút pháp và cách diễn tả trong
Ngũ Kinh, nhưng việc đó có thể cho là do sự kiện trong Sáng Thế Ký, Môi-
se đã sử dụng tài liệu trước đó do nhiều tác giả khác nhau để lại, và nhiều
chủ đề khác nhau đòi hỏi nhiều bút pháp và từ vựng khác nhau là điều không
thể nào tránh được. Nhà phê bình chân chính không thể tìm trong các khúc
sách thiên về hình thức, như bảng gia phổ, các giao ước trang trọng và
những hướng dẫn về nghi lễ để độc đoán gán cho nhiều tác giả khác nhau
căn cứ vào phần từ vựng chính xác và đúng hình thức tìm thấy ở đó.
NỘI CHỨNG
Lập luận cho rằng Ngũ Kinh có nhiều tác giả, nêu lên những chỗ bất đồng và
mâu thuẫn là một thanh gươm hai lưỡi. Các học giả hiện đại đã cung ứng
cho chúng ta một con số khá đầy đủ về các nhà biên tập và đúc kết đã 'nhồi
nặn' một tài liệu để tạo ra sự hài hòa như một toàn khối. Phải chăng đã
không hề có ai trong họ đã khám phá được những mâu thuẫn thường được
nhấn mạnh là 'hiển nhiên'? Mặt khác, điều hết sức thông thường trong giới
phê bình, ấy là ở những chỗ mâu thuẫn càng có vẻ hiển nhiên trên bề mặt lại
rất có thể là đã không hề mâu thuẫn gì cả, mà chỉ cần một lời giải thích đơn
giản thường là tất cả các sự kiện được phơi bày dưới mắt chúng ta là những
điều tác giả hay nhà biên tập đã biết.
Phần lớn sự bất đồng ý kiến nêu ra đều giả tạo. Thí dụ như việc nghiên cứu
cẩn thận các luật lệ sẽ chứng minh rằng chúng thuộc về cùng một toàn thể
đồng nhất, nếu phần ký thuật được cho là đúng, như bố cục dưới đây sẽ vạch
rõ:
1. Mười Điều Răn (XuXh 20:1-26 là bộ luật đạo đức do chính Đức Giê-hô-
va truyền phán trực tiếp cho hội chúng mà tai họ đã nghe (PhuDnl 5:22).
2. Trong XuXh 20:22; 23:33; 24:3-9, công bố qua Môi-se một số những lời
giáo huấn về tôn giáo, đạo đức và xã hội tạo thành nền tảng của một giao
ước mà dân sự chấp nhận.
3. Trong XuXh 24:12, cho đến 31:1-18, Môi-se nhận được Mười Điều Răn
bằng chữ viết, cùng với những huấn thị chi tiết liên hệ đến đền tạm.
4. Giao ước đã được tái lập trong XuXh 34:10-27 vì dân sự đã phá vỡ giao
ước và thờ lạy bò vàng. Vì chỉ phần bên Đức Chúa Trời bị vi phạm, nên
cũng chỉ có phần ấy là được tái lập, cùng với những lời cảnh cáo mới chống
lại sự thờ hình tượng.
5. Trong Lê-vi Ký, Môi-se nhận được trong đền tạm những lời chỉ giáo về
đời sống và sự thờ phượng của một dân tộc đã được gọi đến sự nên thánh, và
đã được chép lại, có lẽ được dùng như một quyển chỉ nam dành cho các thầy
tế lễ.
6. Các đoạn về luật pháp trong Dân Số Ký ghi lại nhiều loại luật lệ đa tạp và
những huấn thị cho tổ chức chính trị.
7. Phục Truyền Luật Lệ Ký là sách tóm tắt các luật lệ đã được ban bố khi đa
số những kẻ hiện còn sống đã không có mặt tại núi Si-na-i, một bài giải luận
cho dân chúng để chuẩn bị cho họ vào đất hứa.
Với Cơ Đốc nhân thì việc Đấng Christ thừa nhận truyền thống Do Thái
không phải là không quan trọng. Không ai có thể phủ nhận việc Ngài rất
quen biết Ngũ Kinh, vì Ngài gán các phần đề cập luật pháp cho Môi-se (Mat
Mt 8:4; 19:8; Mac Mc 7:10; LuLc 20:37; GiGa 7:19). Ngài đã quở trách dân
Do Thái là chỉ 'giữ theo truyền khẩu của người ta', nhưng chẳng bao giờ xếp
luật Môi-se vào số các truyền khẩu mà họ đã gán cho Môi-se đó. Nếu những
chỗ khó hiểu, ý tưởng mâu thuẫn, thô thiển mà quan trọng đến nỗi có người
muốn cho chúng ta phải biết, phải tin, thì chắc con mắt thấu suốt của Đấng
Christ đã không hề bỏ qua.
Không nên bảo rằng không có những điểm khó khăn, cũng không hề bảo
rằng chỉ phần nội chứng thôi đã đủ chứng minh rằng Môi-se là trước giả bộ
sách ấy. Nhưng chúng tôi chỉ dành vừa đủ chỗ cho các phương pháp tư
tưởng theo lối Đông Phương và cho các yếu tố chưa biết rõ về một thời kỳ
quá xa xôi trong lịch sử thế giới, để bảo rằng chỉ cần đọc kỹ phần ký thuật
đã đủ thấy chẳng có gì là không kết hợp được với quan điểm chủ trương
rằng bộ Ngũ Kinh, như hiện có là do Môi-se viết, hoặc đúc kết từ các tài liệu
đồng thời với ông và phần lớn là do chính ông viết.
SÁNG THẾ KÝ
TRƯỚC GIẢ, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Vấn đề trước giả đã được bàn đến trong phần dẫn nhập cho đoạn này, nhưng
có thể thêm vào vài điểm. Khi nói Môi-se là trước giả Sáng Thế Ký, phải
nhớ rằng các nội dung trần thuật đã có từ rất lâu trước đó, và phần lớn được
coi là những bản gia phả đã được cha truyền con nối, như điều chắc chắn có
thật giữa các dân tộc đã văn minh của thế giới thời cổ.
Phần trần thuật của các tộc trưởng chắc cũng đã được Gia-cốp và các con
đem sang Ai Cập. Họ là những người đã kể lại đầy đủ chi tiết đời sống Áp-
ra-ham và Gia-cốp. Các chương đầu Gia-cốp chắc chắn có mang dấu vết về
ảnh hưởng của Ba-by-lôn, và có lẽ cũng đã được phiên dịch và đó là điều
cần nhớ khi chúng ta gặp trong bản văn những khó khăn về văn học. Có thể
nhận thấy ảnh hưởng Ai Cập trong cả sách, và tốt nhất là nên kể tới giả định
Môi-se đã đúc kết Sáng Thế Ký trong lúc ông ở Ai Cập.
PHÂN TÍCH
SaSt 1:1-5:32.
Công cuộc sáng tạo trời đất và thời nguyên thủy của loài người.
SaSt 6:1-9:29.
Cơn nước lụt.
SaSt 10:1-11:32.
Nguồn gốc các dân tộc.
SaSt 12:1-18:33.
Cuộc đời Áp-ra-ham.
SaSt 19:1-26:35.
Cuộc đời Y-sác.
SaSt 27:1-36:43.
Cuộc đời Gia-cốp.
SaSt 37:1-50:26.
Những ngày cuối của Gia-cốp và cuộc đời Giô-sép.
NỘI DUNG
Cũng như đặc điểm của toàn bộ Kinh Thánh, các câu chuyện chép trong
Sáng Thế Ký được chọn không phải vì lý thú hay có tầm quan trọng chính
trị, nhưng vì liên hệ với chủ đích cứu chuộc lớn lao của Đức Chúa Trời, và ý
nghĩa trọng đại trong cách đối xử của Đức Chúa Trời với nhân loại.
Bắt đầu với công cuộc sáng tạo vũ trụ, chúng ta được cho biết con người
được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, để thế gian được có dân cư là
những sinh vật biết bước đi theo đường lối Ngài. Tiếp theo là sự xâm nhập
của tội lỗi, và khi tội ác cứ gia tăng, Đức Chúa Trời đã đoán phạt bằng nạn
lụt. Nhưng giữa những gian ác đó, Kinh Thánh đã ghi lại, Hê-nóc là người
đồng đi cùng Đức Chúa Trời, và Nô-ê là người công chính cùng gia đình
được bảo tồn trong một chiếc tàu.
Ngay từ lời ám chỉ đầu tiên về việc một Cứu Chúa hay Đấng Chinh Phục sẽ
đến trong [dc Sa 3:15 , chúng ta thấy Đức Chúa Trời đang chuẩn bị một dân
làm phương tiện mạc khải tối hậu về chính Ngài cho thế giới trong tình yêu
thương. Giao ước của Ngài với Áp-ra-ham không những chỉ liên quan đến
dòng dõi ông, nhưng còn là phước hạnh cho cả nhân loại qua hậu duệ của
Áp-ra-ham (SaSt 12:2,3 so sánh với GaGl 3:16). Dòng phước hạnh tiếp tục
mà chúng ta có thể tìm thấy trong các bảng gia phổ đã được lưu giữ hết sức
cẩn thận cái giá trị gắn liền với việc thừa kế phước hạnh được phán hứa.
Các con trai Gia-cốp đã họp thành một quốc gia gồm nhiều chi tộc, được
mệnh danh là dân Chúa; Giu-đa được chọn để nắm quyền 'cho đến chừng
Đấng Si-lô hiện tới' (SaSt 49:10). Sáng Thế Ký phải được đọc trong ánh
sáng của Tân Ước để có thể rút ra các bài học về đức tin (HeDt 11:1-40), về
chủ đích của Đức Chúa Trời muốn xây dựng cho Ngài một đền thờ thuộc
linh (Cong Cv 7:1-60), để thấy trước hình bóng về chức vụ tế lễ của Đấng
Christ (HeDt 7:1-28)và để liên kết những ngày đầu tiên của loài người trong
vườn Ê-đen với mục đích tối hậu của họ trong thiên đàng của Đức Chúa
Trời (KhKh 22:1-21).
Công cuộc sáng tạo trời đất.
Ta có thể tìm được phần ngoại sử về thế giới được biểu hiện qua các đền đài
của quá khứ trong chương 7. Ở đây, có một sổ ghi chú đối với những phần
đặc biệt trong câu chuyện Kinh Thánh nhằm giúp dễ hiểu hơn.
Câu chuyện về công cuộc sáng tạo trời đất được kể lại bằng hai phần ký
thuật kế tiếp nhau ([dc Sa 1:1-2:3 và 2:4-25); mấy lời mở đầu 2:4 phải được
đọc là 'sự việc đã xảy ra như sau' trong những khúc sách tương tự. Phần ký
thuật đầu tiên liên quan đến vũ trụ; rõ ràng là chịu ảnh hưởng văn hóa Ai
Cập (chú ý trong câu 2:21, chữ được dịch là cá lớn là tannin: cá sấu, chớ
không phải cá voi), và có thể được xem như một khải tượng đã được ban cho
Môi-se. Câu chuyện thứ hai kể lại nguồn gốc loài người theo quan điểm của
A-đam, và chắc là tiêu biểu cho một câu chuyện truyền khẩu rất xưa. Câu
chuyện trước phù hợp hết sức lạ lùng với các phát giác khoa học, chẳng hạn
như ánh sáng vốn có trước, mà vận tốc của nó là yếu tố căn bản trong thuyết
tương đối của Einstein. Các giai đoạn lần lượt xuất hiện muôn loài, nước rồi
đất, cây cỏ, đời sống trong nước, các sinh vật biết bay, loài thú và con người,
tương hợp với các ghi nhận của địa chất học. Chắc chắn là chương sách này
không hề được viết ra nhằm dạy khoa học hay giúp con người đỡ tốn công
nghiên cứu nên thật vô lý nếu giả thiết rằng trước giả nói đúng những điều
vừa kể do may rủi hay dựa vào các thần thoại Ba-by-lôn bằng một quá trình
lọc lựa, và nếu vậy thì còn kỳ lạ hơn cả quan điểm chủ trương phần ký thuật
này do mạc khải.
Trong văn học Hy-bá-lai chữ 'ngày' không luôn luôn hiểu theo nghĩa đen, và
ở đây cũng vậy. (chẳng hạn xem EsIs 2:12 và so sánh với GiGa 5:17, với
HeDt 4:3 và tt, liên hệ với ngày thứ bảy; cũng xem thêm IIPhi 2Pr 3:8). Các
ngày có thể chỉ các giai đoạn trong sự mạc khải hay các thời đại; dầu sao,
chúng cũng chỉ về một diễn biến có trật tự. Điểm nhấn mạnh của chương
sách kỳ diệu này khiến nó xứng đáng mở đầu cho phần ký thuật của Đức
Chúa Trời, là nhấn mạnh đến Đức Chúa Trời với tư cách Đấng Tạo Hóa
muôn vật và đến con người là tạo vật theo hình ảnh của chính Ngài.
Chương hai mở rộng câu chuyện tạo dựng con người. Các sự việc được trình
bày theo thứ tự luận lý hơn là theo thứ tự thời gian. Như thế, việc tạo nên thú
vật được đề cập tạo một vị trí thích hợp để giải thích đã không có một con
vật nào có thể kết bạn cho xứng với A-đam được (SaSt 3:19,20). Đã không
có phần mô tả công cuộc sáng tạo đời sống thảo mộc nguyên thủy, nhưng
chương sách chỉ đề cập việc tạo ra hay lợi dụng các cây cỏ và hoa quả ăn
được tại một vùng đặc biệt nào đó trên địa cầu, bằng một hình thức thích
hợp là gieo trồng (SaSt 2:8,9). Có thể ghi nhận rằng một vài nhà nhân loại
học từng định niên đại cho con người văn minh hiện đại - vì nó vốn khác xa
các loại người nguyên thủy - căn cứ vào các dấu hiệu đầu tiên về việc canh
tác, mà họ xếp vào khoảng 6.000-8.000 năm TC. Các chi tiết về địa dư đã
được đề cập ở trang 83-85.
Các bảng gia phổ.
Trong chương 5 chúng ta có loạt đầu tiên các bảng gia phổ tiêu biểu. Chúng
ta thử xem chúng từ đâu ra. Không ai thấm nhuần tư tưởng Hy-bá-lai lại
dám cho các bảng gia phổ ấy là bịa đặt, và nói chung thì các học giả đều
thừa nhận rằng chúng vốn rất cổ. Chúng không thể được dùng làm nền tảng
cho việc tính toán các niên đại, và chúng cũng không hề được các sách xưa
sử dụng vào việc đó. Mục đích các bảng gia phổ là nhằm nêu lên các bài học
thuộc linh, trong đó có sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với những kẻ
được thừa kế lời hứa. Lu-ca vạch ra tổ tiên theo dòng giống tự nhiên của
Đấng Christ là A-đam, con người đầu tiên; Ma-thi-ơ thì phăng theo dòng
vua, qua Áp-ra-ham. Trong bảng gia phổ cuối cùng, cần chú ý là có một vài
tên đã bị bỏ sót để làm tròn ba danh sách gồm ba nhóm, mỗi nhóm mười bốn
người và rất có thể là trong SaSt 5:1-32, chúng ta cũng chỉ có một danh sách
chọn lọc gồm những nhân vật tối quan trọng thôi.
Con người cổ đại.
Việc phát giác các bộ xương (hay một phần các bộ xương) người
Neanderthal và các giống người khác - hay các sinh vật giống người - đã đặt
ra nhiều vấn đề mà trong tình trạng hiểu biết hiện nay của chúng ta, vẫn
chưa thể trả lời dứt khoát. Các giai đoạn bao la của thời cổ đại mà một số
các nhà nhân chủng học gán cho chúng được căn cứ trên những cơ sở hết
sức bấp bênh, còn số người biết suy nghĩ nghiêm túc thì chỉ phát biểu hết
sức dè dặt về các di tích tiền sử ấy. Một số tác giả nghĩ rằng phải đẩy lùi
việc tạo dựng A-đam trở về thật xa, và 'những con vật-người' ấy có lẽ là
những chủng tộc vô cùng man rợ, 'thoái hóa'; một số khác thì cho đó là
những loài sinh vật ở cấp bậc thấp hơn con người, rồi đến thời của A-đam,
Đức Chúa Trời mới lấy sinh khí thổi vào ông để tạo ra giống người thật sự,
có thể thông công với Ngài.
Sự sa ngã.
Hai chương SaSt 2:1-3:24 có nhiều điểm rất giống với hai chương cuối cùng
của sách Khải Huyền, và trong các chương ấy, thật là khó đoán định đến đâu
thì nghĩa đen chấm dứt và nghĩa biểu tượng bắt đầu. Nhưng một Cơ Đốc
nhân nhận thức được tấm lòng đầy tội lỗi của mình thì không thể nào đọc
câu chuyện về sự sa ngã mà không tin chắc sâu xa vào phần chân lý cốt yếu
của nó, và nó vốn tiềm tàng trong phần giáo lý của Tân Ước (RoRm 5:12;
ICo1Cr 15:21; KhKh 2:7). A-đam vốn được tạo dựng như một hữu thể xoay
quanh Đức Chúa Trời, tùy thuộc Đức Chúa Trời ở mọi mặt của đời sống và
cứu cánh là được thông công với Ngài. Ông cũng đồng thời được tạo dựng
với quyền tự do chọn lựa để biết rõ điều thiện, điều ác, và để trở thành người
tự quyết định đời mình theo mức độ hiểu biết đó và vì thế, có khả năng tự kỷ
trung tâm (Self-centred). Do lòng kiêu ngạo, ông đã sa ngã và trở thành -
như danh từ của Brunner - 'Con Người Nổi Loạn', mà hậu quả là tình trạng
vô trật tự và chết. Điều đó không đòi hỏi chúng ta tin rằng trước khi loài
người sa ngã, đã không có loài thú nào phải chết cả, nhưng nó chỉ có nghĩa
rằng sự chết của loài người là sự hình phạt đối với tội lỗi.
TrongSaSt 3:15 đã có lời hứa đầu tiên về sự cứu chuộc, được ứng nghiệm tại
Gô-gô-tha, khi tuy là nhằm giờ của quyền lực của sự tối tăm, vua của đời
này đã bị xua đuổi (LuLc 22:53; GiGa 12:31; KhKh 12:9,11). Trong SaSt
3:21, phần ký thuật nhấn mạnh sự kiện Đức Chúa Trời đã làm những 'chiếc
áo bằng da thú', gợi ý rằng sự hi sinh mạng sống là cần thiết để 'che đậy' tội
lỗi và xấu hổ của loài người.
Cơn nước lụt.
Các nhà phê bình chia phần ký thuật về cơn nước lụt ra giữa hai tập tài liệu
P và J, và bằng cách phân tích phần ký thuật, đã tạo ra những 'trùng lắp' và
'mâu thuẫn' nhất là về thời gian nước lụt và số thú vật sạch được đưa vào tàu,
trong khi những chỗ khó hiểu đó có thể được giải thích dễ dàng khi chúng ta
đọc cả câu chuyện một lượt. Cần ghi nhận rằng câu chuyện của người Ba-
by-lôn về cơn nước lụt được một số các nhà phê bình cho đó là nguồn tài
liệu cho câu chuyện nạn lụt trong Sáng Thế Ký, có nhiều yếu tố giống với cả
hai tập tài liệu P và J. Lịnh truyền trong SaSt 7:2,3 là phần mở rộng lịnh
truyền trong SaSt 6:19 (sở dĩ đem nhiều thú vật thanh sạch xuống tàu có lẽ
là vì khi có nạn lụt thì người ta cần có thực phẩm), còn các phương pháp để
nhận biết, thì thỉnh thoảng là bằng số ngày, nhiều khi lại bằng niên đại.
Truyền thuyết về cơn nước lụt vốn được phổ biến rộng rãi giữa các dân tộc
trên thế giới, còn bằng chứng về địa dư thì đã được Sir Henry Howorth và
nhiều nhà khoa học lỗi lạc khác nêu rõ rằng cơn nước lụt đã lan tràn khắp
thế giới. Mặt khác, có bằng chứng hiển nhiên về một nạn lụt đặc biệt rộng
lớn tại đồng bằng sông Ơ-phơ-rát vào một giai đoạn muộn màng về sau này,
có thể bảo là một cơn đoán phạt chỉ xảy ra tại vùng trung tâm của thế giới có
dân ở đầu tiên. Cần ghi nhận rằng hai từ ngữ được dịch là 'đất'(adamah và
erets) trong bản Authorized Version đã được các bản khác dịch là 'mặt đất'
(thí dụ SaSt 2:6,7) và 'xứ' (như 2:11), và không hề hàm ý khắp thế giới; còn
việc giữ lại các loài thú cũng chỉ cần giải thích là để chỉ vừa đủ cho một sự
bắt đầu mới.
Loài người lan tràn.
SaSt 10:1-32 nói về các nguồn gốc của một số các dân tộc, theo như Áp-ra-
ham được biết vào thời của ông. Chắc chắn trong đó là có một số quan niệm
về dân tộc học và phổ hệ học rất xưa. Một mặt, hai chương SaSt 10:1-32 và
11:1-32 không thể được xem như quan niệm dân gian, nhưng mặt khác cũng
không được xem như những khảo luận khoa học hiện đại. Chúng tạo thành
chiếc mắc xích nối liền Nô-ê với Áp-ra-ham qua dòng dõi Sem, nên tuyệt
đối chẳng có lý do gì để nghi ngờ phần cơ sở lịch sử của nó. Việc làm lộn
xộn tiếng nói được đề cập trong SaSt 10:25 cách thức được thực hiện đã
không được nhấn mạnh. Có người nghĩ rằng việc chống lại lịnh truyền của
Đức Chúa Trời dạy loài người hãy tản ra khắp trên mặt đất (SaSt 9:7,19) đã
được vạch rõ trong 11:4.
Điều có ý nghĩa là từ đó trở đi, Ba-by-lôn đang chiếm được địa vị ưu thế đối
với dân Chúa (so sánh Gie Gr 51:7,8; KhKh 18:2). Câu SaSt 11:1 không nên
hiểu là mâu thuẫn với câu đề cập 'nhiều tiếng nói' của 10:31, vì từ ngữ 'xứ'
(erets: đất) có thể chỉ về một địa phương nào đó mà thôi.
Áp-ra-ham.
Sau 11:9, Sáng Thế Ký rời bỏ câu chuyện về các dân tộc, để chỉ quan tâm
đến dòng dõi do đó dân Y-sơ-ra-ên sẽ nảy sinh, cho nên bước sang câu
chuyện của Áp-ra-ham. Cuộc di cư của Tha-rê và Áp-ra-ham đến Cha-ran ở
phía Bắc (11:31)có thể là một trong nhiều lần di chuyển bình thường của các
dân A-ram mà người Ha-bi-ru hay Hê-bơ-rơ có liên hệ. Việc này được SaSt
25:20 và PhuDnl 26:5 xác nhận.
Chương SaSt 14:1-24 có một phần ký thuật về sử ký thình lình giới thiệu
nhiều nhân vật lịch sử. Về Mên-chi-xê-đéc, chúng ta không được biết gì
khác hơn những điều đã chép ở đây. Lúc đó, chức vụ thầy tế lễ kết hợp với
vua không phải là hiếm có, và dường như cũng giống Áp-ra-ham, Mên-chi-
xê-đéc vẫn giữ được phần tri thức về Đức Chúa Trời chân thật duy nhất.
Như thế, ông trở thành hình bóng của Đấng Mết-si-a (Thi Tv 110:1-7; HeDt
5:1-7:28).
Như tiến sĩ Kuyper nói, danh xưng Đức Chúa Trời Chí Cao (El Elyon) được
dùng ở đây, đặc biệt xuất hiện trong Kinh Thánh khi 'người ta đứng ngoài
giao ước của ân điển', nghĩa là khi lãnh vực mạc khải của Đức Chúa Trời
chạm vào thế giới các dân ngoại (xem Dan Ds 24:16; DaDn 3:26).
Ở đây ta có thể ghi nhận rằng trong các chương từ SaSt 1:1-17:33, người ta
có thể tìm thấy bốn danh hiệu để chỉ Đức Chúa Trời, mỗi danh hiệu đều có ý
nghĩa và thích ứng cho từng chỗ. Đức Chúa Trời (El hoặc Elohim) được
dùng như một danh từ chung, nói lên một vị thần, cũng được dùng chỉ các
thần ngoại đạo nữa. Chúa (Đức Giê-hô-va) là danh từ riêng chỉ Đức Chúa
Trời chân thật (SaSt 4:26; XuXh 3:15; PhuDnl 32:3; GiGa 17:6), đặc biệt
thích hợp khi đề cập thân vị Ngài, các đặc tính và mối liên hệ giao ước với
dân Ngài, và sự mạc khải đầy về quyền năng cứu chuộc của Ngài trong việc
giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai Cập (XuXh 6:3). Ngài hiện ra với Áp-ra-
ham (SaSt 17:1-27), với tư cách Ên-sa-đai (El Shaddai) là Đấng Toàn Năng
khi lời hứa ban cho ông một con trai cứ bị trì hoãn, được nhắc lại và sắp ứng
nghiệm; và một lần nữa cũng bằng danh hiệu ấy với Gia-cốp (35:11; 48:3)để
bảo đảm rằng những gì Ngài đã hứa thì Ngài có thể thực hiện.
Khi nghiên cứu về mạc khải chưa được phơi bày rõ ràng của Đức Chúa Trời,
cần ghi nhận nhiều lời hứa đã được dành cho Áp-ra-ham.
1. Trong SaSt 12:1-3 (xem Cong Cv 3:25; GaGl 3:8) lời hứa thoạt tiên là cho
toàn dân, rằng ông sẽ trở thành một dân lớn, sau đó mới mở rộng ra cho
phạm vi phổ quát, rằng ông sẽ trở thành nguồn phước cho cả thế gian.
2. Trong SaSt 15:1-6 có lời hứa về một người kế tự và việc ban toàn xứ cho
dòng dõi ông, được đóng ấn bằng sinh tế. Câu trả lời của ông đã được trích
dẫn như một thí dụ về việc xưng công bình bởi đức tin trong RoRm 4:1-25;
GaGl 3:6; Gia Gc 2:23. Có một lời tiên tri về việc giải cứu khỏi Ai Cập (câu
SaSt 15:13-16; Cong Cv 7:7,8).
3. Trong SaSt 17:1-27 có lời hứa về một hậu duệ (dòng dõi) đặc biệt (so
sánh GaGl 3:16)và dấu hiệu phép cắt bì được ban truyền.
4. Trong SaSt 22:1-24, sau khi đức tin của ông đã được thử nghiệm bằng
việc đem dâng Y-sác làm sinh tế, các lời hứa được nhắc lại, đức tin ông 'nhờ
việc làm mà được xưng công bình' (Gia Gc 2:21,22).
Trong SaSt 17:5, nói có việc đổi tên từ Ápram thành Áp-ra-ham, chúng ta có
một thí dụ về việc người Hy-bá-lai vốn rất thích 'chơi chữ' (cha của một
đoàn dân dông vô số: Ab-hamon) một thí dụ khác cũng thấy nơi Y-sác (SaSt
17:19). Việc 'chơi chữ' để đổi tên như vậy không nên hiểu như có liên hệ với
ngữ căn một cách khoa học, mà phải hiểu như khi người ta nói: 'Vì anh có
tên Giàu, vậy anh sẽ trở nên giàu có'.
Phép cắt bì được ban cho như một dấu hiệu, tuy nó vốn là một phong tục tập
quán đã có sẵn, cũng như trước đó 'cái mống trên mây' sở dĩ được ban cho là
để nhớ lại lời hứa của Đức Chúa Trời.
Việc thử nghiệm đức tin của Áp-ra-ham trong lịnh truyền dâng Y-sác làm
sinh tế đã được trình bày như việc bắt chước các dân ngoại xung quanh dâng
trẻ con làm sinh tế. Như được lý giải trong Gia Gc 2:21 và HeDt 11:17-19,
đó không phải là một trắc nghiệm tình yêu của Áp-ra-ham, mà là trắc
nghiệm đức tin. Đức tin của ông đã chiến thắng, và sự việc xảy ra là một
hình bóng tuyệt diệu cho việc Đấng Christ là một sinh tế chịu chết thay để
chuộc tội (GiGa 3:16).
Gia-cốp.
Đời sống của Y-sác chỉ được lướt sơ qua, và tiếp theo là cuộc đời của Gia-
cốp chúng ta đọc thấy như một tập tự truyện; và chắc đó là hình thức nguyên
thủy của nó, cách ông đối xử không tốt với anh mình, việc ông nuông chiều
Giô-sép không được ai khen, nhưng vẫn được ghi lại hết sức rõ ràng; và
cũng rõ ràng không kém là sự trừng phạt ông đã từng trải, những năm phải
lưu vong, sự gian lận bị báo trả, và những đau buồn, thử thách mà các con
ông đã gây cho ông. Không có nhà văn viết tiểu sử nào sau này, lại có thể
viết nổi một phần ký thuật như thế, cũng không có một tiểu thuyết gia nào
lại có thể dựng lên những câu chuyện như vậy. Nhưng mặc dầu ông phạm
nhiều lỗi lầm, đức tin của ông vẫn đặt vào lời hứa của Đức Chúa Trời (SaSt
25:23)mà mẹ ông đã dạy. Lời hứa đó nổi bật hẳn lên, giống như một ngọn
đèn, soi sáng từng nẻo đường ông đi cho đến cuối cùng (HeDt 11:21). Ông
đã được đặt cho cái tên rất đúng là Y-sơ-ra-ên (SaSt 32:28)và câu chuyện về
cuộc đời ông là điều khích lệ cho toàn thể các tội nhân biết ăn năn thống hối.
Giô-sép và các anh em mình
Có nhiều truyện tích đã được kể lại về các con trai Gia-cốp, nhưng mục đích
chính của sách Sáng Thế Ký bây giờ là vạch rõ thế nào dân Y-sơ-ra-ên đã
đến Ai Cập, và Đức Chúa Trời đã thiết lập kế hoạch để giải phóng họ ra sao.
Như thế nhân vật chính là Giô-sép. Chương SaSt 37:1-36 được xem như đã
cung cấp một hậu thuẫn mạnh mẽ cho thuyết hiện đại về việc biên soạn Ngũ
Kinh. Thuyết này cho rằng đặc biệt là đoạn kết luận chứng tỏ sách ấy đã
được viết ra từ nhiều nguồn tài liệu mâu thuẫn nhau. Các câu chuyện chia ra
cho J và E như sau:
J: câu 2-4, 12-18, 21, 25b-27, 28b, 31-35.
E: câu 5-11, 19,20, 22-25a, 28a (đến 'hố nước'), 28c-30, 36.
Chỉ đọc phần ký thuật của J mà thôi thì Giô-sép đã được Giu-đa cứu mạng,
rồi ông bị các anh bán cho dân Ích-ma-ên, chứ không bị quăng xuống hố.
Theo ký thuật của E thì ông được Ru-bên cứu mạng, rồi các anh ném ông
xuống hố; sau đó, ông mới bị một đoàn người Ma-đi-an bắt lên và đem đi.
Nhưng câu chuyện vẫn có thể được hiểu y như chép trong Kinh Thánh. Sở dĩ
Ru-bên gợi ý ném Giô-sép xuống hố, vì định sẽ có cơ hội cứu ông về sau.
Nhưng sau đó, Giu-đa muốn cứu ông khỏi cái chết chắc chắn dưới hố nên
mới bán ông để lấy tiền. Kinh Thánh để chúng ta giả định rằng có một lúc
Ru-bên đã vắng mặt nên ông không biết có chuyện kéo Giô-sép lên khỏi hố
để bán đi. Chỗ khó giải quyết về dân Ích-ma-ên và dân Ma-đi-an biến thành
vấn đề hai từ ngữ ấy có thể được dùng lẫn lộn để chỉ về cùng một dân tộc
hay không. Cả hai đều là dòng dõi Áp-ra-ham (SaSt 25:2), có thể ngụ ý con
cháu Áp-ra-ham có một số đã đi theo bọn họ và trở thành hạt nhân của một
bộ lạc. Bộ lạc của Ích-ma-ên có thể là đã đứng hàng đầu, và các bộ lạc kém
hơn đã tập hợp lại chung quanh Ích-ma-ên một thời gian. Ta không thể
không biết gì đến Cac Tl 8:24. Trong câu đó, chúng ta thấy dân Ma-đi-an
cũng chính là dân Ích-ma-ên. Chúng ta không thể nói được tại sao ở đây
trước giả lại viết cả hai tên ấy thay đổi cho nhau, nhưng những chỗ khác
nhau không có lý do rõ rệt như vậy vẫn thấy có trong văn chương Anh.
Còn chống lại việc giới phê bình phân chia chương sách cho hai tập tài liệu
khác nhau ở đây, chúng ta có thể ghi nhận rằng tuy E được giả định là không
biết đến chuyện Giô-sép bị các anh bán đi, thế nhưng trong SaSt 45:4,5 cũng
là một đoạn của E, Giô-sép bảo các anh ông đã bán ông.
Giô-sép tại Ai Cập.
Giáo sư Yahuda và nhiều học giả khác chứng minh rằng đã có ảnh hưởng Ai
Cập rất mạnh mẽ trong các phần ký thuật về Giô-sép ở Ai Cập. Có lẽ một
phần câu chuyện được viết bằng chữ Ai Cập. Vì các biến cố đã xảy ra trong
một môi trường vây quanh không phải của người Do Thái, tên Elohim chỉ
Thượng Đế nói chung đã được sử dụng, ngoại trừ một lần trong chương SaSt
39:1-23 rõ ràng là thuộc về hồi ức cá nhân của Giô-sép, và một lần khác
trong 49:18, là chỗ Gia-cốp sử dụng tên theo giao ước. Trong số nhiều thí dụ
về ảnh hưởng của Ai Cập, ta có thể kể ra:
1. Vua Ai Cập chỉ được gọi là 'Pha-ra-ôn', không có tên riêng kèm theo. Đây
là thói quen của người Ai Cập giữa các thế kỷ mười tám và mười chín TC.
Đến thời Sa-lô-môn thì người ta có thói quen thêm vào mấy chữ 'vua Ai
Cập' hay tên riêng của Pha-ra-ôn, thí dụ như trong IVua 1V 9:16; IIVua 2V
23:29.
2. Trong SaSt 41:14 có chép Giô-sép 'cạo mặt mày' trước khi vào yết kiến
Pha-ra-ôn. Đây là bề ngoài thích hợp tại Ai Cập trái với quan niệm của dân
Semitic cho rằng râu là dấu hiệu của phẩm giá con người.
3. Trong SaSt 42:30,33 và rất thường trong 43:1-34, Giô-sép được gọi là
'người'. Đây là tước hiệu của quan tể tướng, là người đứng đầu trong cả
nước, vì Pha-ra-ôn tự xếp mình vào hạng thần thánh. Giô-sép đảm nhận mọi
trọng trách của một tể tướng như được thấy trên một mộ bia khoảng một thế
kỷ sau đó. Tấm bia đã mô tả những trọng trách y như vậy.
Đến đoạn cuối của quyển sách, lời hứa về Đấng Mết-si-a đã chói ngời lên
thật rõ ràng một lần nữa trong lời chúc phước cho Giu-đa (SaSt 49:10). Ở
đây, Giu-đa được vẽ ra như một nhà vua đang đứng cầm vương trượng
chống giữa hai chân như một tiêu biểu của vương quyền. Ông nắm lấy
vương quyền đã được phó thác cho mình 'cho đến chừng Đấng Si-lô hiện
tới'. Câu cuối cùng này vốn được dân Do Thái lẫn các Cơ Đốc nhân nguyên
thủy giải nghĩa là ám chỉ Đấng Mết-si-a tuy phần đông các nhà giải nghĩa
đời xưa dường như không chịu cho rằng chữ 'Si-lô' chỉ về một người, cho
nên họ đã dịch theo nhiều nghĩa khác nhau. Bản Kinh Thánh của chúng ta
dịch là 'Đấng Si-lô', và chúng ta cũng có thể dịch, hoặc là 'Cho đến chừng
nào điều phải đến sẽ đến' hoặc 'Đấng phải đến sẽ đến'. Chỗ rất giống nhau ở
đây với Exe Ed 21:27 ('trong tay hữu ngươi') gợi ý rằng cách dịch sau rất có
thể đúng.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Trong tất cả các chủ đề lớn của Kinh Thánh, đề tài nào có thể giúp bạn
truy nguyên 'sự khởi đầu' trong Sáng Thế Ký?
2. Đức Chúa Trời thích tự xưng là 'Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-
sác và của Gia-cốp' (XuXh 3:6, 15 Mat Mt 22:32). Lịch sử đã gợi lên các lý
do nào khiến Ngài lựa chọn các tên đó?
3. Trong đời sống Gia-cốp, đã có những hình bóng nào báo trước việc dân
Y-sơ-ra-ên sẽ được kêu gọi và tuyển chọn đặc biệt? (so sánh EsIs 44:1,2;
Gie Gr 30:10; OsHs 11:1).
4. Nghiên cứu các sinh tế được ký thuật trong Sáng Thế Ký có liên hệ với
sinh tế tại Gô-gô-tha như thế nào?
5. Có những nét nào trong sự nghiệp và cá tính của Giô-sép biện minh cho
việc chúng ta xem ông như một hình bóng chỉ về Đấng Christ?
6. Nghiên cứu các tên của Đức Chúa Trời được chép trong các SaSt 1:1-31;
21-25;; 14:124; 17:1-27; 31:1-55; 48:1- 49:33. Trong ánh sáng của các cơ
hội khi danh ấy được dùng đến, chúng gợi lên ý gì về đặc tính của Đức Chúa
Trời?
XUẤT Ê-DÍP-TÔ KÝ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH.
Sách này chép rằng Môi-se đã viết phần ký thuật về trận đánh với dân A-ma-
léc (XuXh 17:14)và 'chép hết mọi lời Đức Giê-hô-va đã phán dạy trên núi'
(24:4). Ta cũng có thể đoán định rằng chính Môi-se cũng đã viết lại chi tiết
có các đặc điểm của đền tạm cho Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp phải noi theo
(25:9; 36:1). Như vậy, chính quyển sách đã đòi hỏi tác quyền cho Môi-se.
Ở đây, các luận cứ của số người bảo rằng có nhiều đoạn về đền tạm là tác
phẩm của P trong thời kỳ lưu đày, quả là khó có thể tin theo. Bản đồ đền tạm
và vật dụng trang bị trong đó không giống như đền thờ, và thật là khó hiểu
nổi tinh thần của một tác giả (hay nhiều tác giả) đang trông đợi việc phục
hồi đền thờ của Sa-lô-môn lại có thể bày vẽ ra một đền tạm được trau chuốt
công phu khác hẳn với ngôi đền thờ, và bảo rằng đó là do mạc khải trực tiếp
của Đức Chúa Trời.
Sách bắt đầu tại Ai Cập hơn tám mươi năm trước biến cố Xuất Ai Cập (7:7)
và kết thúc một năm sau biến cố ấy (40:2 so sánh Dan Ds 1:1) với việc dựng
đền tạm. Niên đại của sách Xuất Ê-díp-tô Ký không những có thể xác định
căn cứ vào chính Kinh Thánh, mà còn được dựa vào các khám phá khảo cổ
học, nhất là công cuộc khai quật tại Giê-ri-cô (xem chương VII. Bối cảnh
lịch sử). Chuyện trong sách đã xảy ra vào giữa thế kỷ thứ mười lăm TC, có
thể là nhằm đầu đời trị vì của Amenhotep II.
PHÂN TÍCH.
XuXh 1:1-22. Dân Y-sơ-ra-ên bị áp bức tại Ai Cập.
XuXh 2:1-10:22. Môi-se ra đời và được giáo dục.
XuXh 2:11-4:31. Môi-se tại Ma-đi-an. Mặc khải trong bụi gai cháy.
XuXh 5:1-13:22. Các tai vạ và việc xuất Ai Cập.
XuXh 14:1-15:27. Vượt Hồng Hải.
XuXh 16:1-19:25. Hành trình vất vả đến núi Si-na-i.
XuXh 20:1-21:36. Mười Điều Răn Đức Chúa Trời truyền cho dân sự.
XuXh 20:22-23:33. Các điều kiện của giao ước được ban cho Môi-se tại núi
Si-na-i.
XuXh 24:1-18. Giao ước được phê chuẩn.
XuXh 25:1-31:18. Bản đồ đền tạm.
XuXh 32:1-35. Bò con vàng.
XuXh 33:1-34:35, Môi-se thấy vinh quang của Đức Chúa Trời. Phần của
Đức Chúa Trời trong giao ước. Giao ước bị vi phạm và được tái lập.
XuXh 35:1-40:38. Đền tạm được dựng lên.
NỘI DUNG
Nếu sách Sáng Thế Ký bắt đầu với việc tạo dựng loài người trong tình trạng
trong sáng và đẹp đẽ, và kể lại việc họ đã sa ngã và cứ miệt mài trong tội lỗi,
thì quyển sách thứ hai này của Kinh Thánh kể lại câu chuyện về việc dân Y-
sơ-ra-ên sống trong xích xiềng nô lệ đã được cứu chuộc, và cung cấp nhiều
bức tranh về sự cứu rỗi do Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm lớn của chúng ta đã
thực hiện, còn có giá trị và đầy vinh quang hơn cả Môi-se, vì chính Ngài là
Con Đức Chúa Trời (HeDt 3:1-6). Lễ Vượt qua (ICo1Cr 5:7), bánh Ma-na
(GiGa 6:32), Tảng Đá bị đập vỡ (ICo1Cr 10:4)và các của lễ (HeDt
10:11,12), đều nói về Đấng Christ và công lao cứu chuộc của Ngài.
Sách Xuất Ê-díp-tô Ký được chia làm hai phần: chương XuXh 1:1-19:25,
chính yếu là thuật sự, XuXh 20:1-40:38, gồm phần lớn là luật pháp và qui
tắc. Phần thuật sự nổi bật vì có các phép lạ. Đối với những phép lạ này cần
lưu ý đến một số phương pháp tư tưởng và diễn tả bằng chữ nghĩa của người
Đông Phương, và các quan điểm khác nhau về phạm vi mà Đức Chúa Trời
có thể đã sử dụng các lực lượng thiên nhiên để thực hiện các dấu lạ đó.
Chẳng hạn như có người đã gợi ý rằng việc biến nước sông Nile ra 'huyết' là
do sự hoạt động của núi lửa ở gần các nguồn của sông ấy đã tạo ra một chất
có màu đỏ cho nước sông, khiến nó trở thành thuốc độc, và người ta kêu gọi
sự chú ý đến việc tất cả các dòng nước về phía đảo St.Pierre đã bị nhiễm độc
lúc núi lửa hoạt động vào năm 1.902. Theo cách giải nghĩa đó, thì năm tai vạ
tiếp theo đó có lẽ là hậu quả của sự nhiễm độc ấy.
Cho dù có đúng như thế đi nữa, thì việc các con đầu lòng của người Ai Cập
đều bị giết, còn dân Y-sơ-ra-ên không bị tổn hại gì, không thể được giải
thích cách nào theo lẽ 'tự nhiên' cả. Nếu việc Xuất Ai Cập đã xảy ra dưới
thời trị vì của Amenhotep II thì có chứng cứ hiển nhiên là các con đầu lòng
đã bị giết. Người kế vị vua ấy là Thothmes IV không phải là trưởng nam, vì
có một bảng khắc trên một phiến đá hoa cương bảo rằng Thothmes IV lúc
còn bé, từng nằm mơ thấy những con nhân sư (tượng đầu người sư tử) bảo
rằng về sau, cậu ta sẽ làm vua Ai Cập. Rõ ràng là nếu ông ta là người được
nối ngôi theo lẽ tự nhiên, thì giấc mộng kia đã chẳng có ý nghĩa gì cả. Cũng
cần lưu ý rằng chương 15 là một bài thơ.
Luật Pháp.
Khi bước vào hệ thống luật pháp chép trong sách này và sách kế tiếp, chúng
ta được biện minh về mọi phương diện, cả do chính ký thuật này lẫn từ lời
dạy dỗ của Đấng Christ và các sứ đồ Ngài, để xem đó là sự mạc khải trực
tiếp của Đức Chúa Trời (Thi Tv 19:7; Mac Mc 7:9; RoRm 7:12,14; HeDt
8:5,9). Khi khảo xét chủ đích của sách này, cần lưu ý đến các điều kiện về
thời gian. Các con cái Y-sơ-ra-ên đã được kêu gọi khi đang làm nô lệ để trở
thành một quốc gia theo chế độ thần trị. Họ phải được huấn giáo bằng trực
ngôn, bằng giới mạng và luật lệ, bằng những việc quyền năng rằng Đức Giê-
hô-va không phải như các thần của Ai Cập; họ phải được dạy bảo rằng Đức
Giê-hô-va đang ở giữa họ, và Ngài vốn thánh khiết; họ cần có trước mặt một
bộ luật đạo đức dưới một hình thức đơn giản và dễ hiểu.
Hơn nữa, điều cần thiết là luật pháp phải là một hình ảnh có nghĩa bóng chỉ
về những điều tốt lành tương lai (HeDt 9:8,9; 10:1)và là một khuôn mẫu của
Đức Chúa Trời về những điều ở trên trời, đã được ứng nghiệm trong Đấng
Christ. Thánh Phao-lô gọi luật pháp là 'thầy giáo' dẫn người ta đến với Ngài
(GaGl 3:24).
Các lời giáo huấn đặc biệt của luật pháp có thể được xếp vào các loại thuộc
linh, đạo đức và xã hội, liên hệ đến tình yêu của Đức Chúa Trời và đối với
người lân cận.
Các lời giáo huấn thuộc linh gồm phần lớn các luật lệ về nghi lễ cho thấy
bản tính của Đức Chúa Trời, và dạy con người về sự vâng lời cũng như vẻ
đẹp của sự thánh khiết. Bàn thờ xông hương là một bài học thường trực về
sự cầu nguyện, bàn để bánh trần thiết vẽ ra nhu cầu phải luôn luôn có sự
tương giao, chân đèn về nhu cầu của ánh sáng thiên thượng, trụ mây và lửa
về nhu cầu được Đức Chúa Trời hướng dẫn.
Luật đạo đức được tóm tắt trong Mười Điều Răn, được áp đặt cho thời nay
cũng như thời bấy giờ, và được mở rộng trong XuXh 20:22-23:33 (được biết
dưới cái tên 'sách của sự giao ước') thành nhiều chi tiết, một số được áp
dụng vào những trường hợp đặc biệt. Các ra-bi xếp các lời giáo huấn khác
nhau của luật pháp dưới các tiểu mục là Mười Điều Răn.
Các luật lệ xã hội phần lớn nhằm vào giai đoạn đầu của quốc gia Y-sơ-ra-ên
tại Đất Hứa. Vì dân chúng mong được vào xứ ngay, cho nên theo lẽ tự
nhiên, các luật lệ về nhà cửa, đất đai và tài sản được đề cập đến.
Các luật lệ nghi lễ đã được ứng nghiệm trong Đấng Christ, nên nhu cầu về
chức tế lễ và các sinh tế trở thành lỗi thời, còn các chi tiết của luật dân sự thì
không thể nào đem áp dụng cho các nền văn minh phức tạp của thời đại
chúng ta. Tuy nhiên, các nguyên tắc ẩn tàng vẫn tồn tại, và nghiên cứu để
thực hành chúng sẽ đưa đến một thế giới tốt đẹp hơn cái thế giới chúng ta
đang sống.
Khi cho rằng toàn thể luật pháp là do Đức Chúa Trời trực tiếp chỉ dẫn và
mạc khải thì không nên sai lầm cho rằng bộ luật ấy không hề có một yếu tố
nào có trước thời Môi-se. Việc sát nhân vốn đã bị cấm đoán ngay từ thời
nguyên thủy, cũng như bởi bộ luật về đạo đức. Nhiều quốc gia lân cận cũng
có các định chế xã hội tương tự như các phần ký thuật trong Kinh Thánh, mà
một số đã có ngay từ thời Áp-ra-ham hoặc xa xưa hơn nữa. Nhưng chúng đã
được xác nhận hay tái lập tại núi Si-na-i.
Người ta vẫn thường đem đối chiếu hai bộ luật của Môi-se và của Ham-mu-
ra-bi, là vua cai trị xứ Ba-by-lôn từ rất lâu trước đó. Đến cuối thời trị vì của
mình vị vua này ban hành một bộ luật được đem khắc trên một cây trụ cao
hơn hai mét và có đường kính hơn 0,5 mét. Trụ đá ấy bị người Ê-lam cướp
đi hồi thế kỷ mười hai TC và dựng lên như một chiến lợi phẩm tại Su-sa, là
nơi người ta tìm thấy nó hồi đầu thế kỷ này. Một số các luật lệ trong đó đã
có từ trước thời ấy nữa. Vì trên cây trụ có ghi rằng vào khoảng năm 2.700
TC một nhà vua tên Urukagina đã ban hành một bộ luật, nhưng không còn
lưu giữ được.
Bộ luật của Ham-mu-ra-bi có 282 điều, chiếm ba mươi trang trong một bản
dịch ra Anh văn. Chúng đề cập theo thứ tự các vấn đề trộm đạo, cướp bóc,
đất đai, nhà cửa, địa chủ và tá điền, doanh gia và người làm công, nhà cửa
công cộng, nợ nần, ly dị, thừa kế, nhận con nuôi, bồi thường thiệt hại vì bị
hành hung, chi phí trị bịnh, việc xây cất nhà và trách nhiệm của người xây
cất nếu ngôi nhà bị hư hỏng, tiền thuê công nhân, súc vật và hàng hóa, và
cuối cùng là vấn đề nô lệ.
Những điểm tương đồng và dị biệt giữa các luật lệ của Ham-mu-ra-bi và
Môi-se rất lý thú. Nói chung thì có thể bảo rằng luật Môi-se nhấn mạnh hơn
đến việc bảo vệ con người còn Ham-mu-ra-bi thì nhấn mạnh nhiều hơn đối
với tầm quan trọng của tài sản, và trong khi luật của Ba-by-lôn có nhiều
phân biệt quan trọng giữa 'người quí phái' với 'kẻ bình dân' thì bộ luật trong
Kinh Thánh đối xử với kẻ nghèo và người giàu như nhau, và tỏ ra khoan
hồng với kẻ nghèo thiếu và bị áp bức.
Các điều luật được chọn lọc sau đây sẽ cho chúng ta một ý niệm về bản chất
của bộ luật Hammurabi.
Điều 117 : Khi một người tự do bị bán vì mắc nợ thì sẽ được tha ra sau ba
năm (so sánh XuXh 21:2-6).
Điều 195 : Tội đánh cha bị chặt cả hai tay (so sánh XuXh 21:15).
Điều 206 : Nếu có ai gây thương tích bất ngờ cho người khác khi gây lộn,
người ấy phải chịu tiền y phí cho bác sĩ (so sánh XuXh 21:18,19).
Điều 268 : Nếu có tai nạn xảy ra cho chiên trong một ràn chiên, 'người chăn
thuê phải tự biện minh trước mặt Đức Chúa Trời' còn chủ ràn chiên phải
chịu thiệt hại (so sánh XuXh 22:10,11).
Các đoạn sách trong Xuất Ê-díp-tô Ký chỉ dạy cách thức để người ta đến gần
Đức Chúa Trời dựa trên một nền tảng khác hơn các luật lệ xã hội. Ở đây,
dân chúng phải ý thức sự công chính thánh khiết của Đức Chúa Trời trong
lúc khuynh hướng tôn giáo Đông Phương hướng về một sự thờ phượng thoái
hóa của nhục cảm. Hơn nữa, phần qui tắc để đến gần Đức Chúa Trời qua các
nghi lễ trong đền tạm tiêu biểu cho một điều mà vào thời ấy người ta chưa
hiểu được. Thư Hê-bơ-rơ có đưa ra một phần nhập đề giải thích rất đúng các
ý nghĩa hình bóng của đền tạm. Từ đó trở đi, các giáo phụ nguyên thủy và
học giả Cơ Đốc giáo đã thêm nhiều cách giải thích khác nữa; và trong khi
phải thú nhận rằng có một vài nhà giải kinh có thêm thắt một phần óc tưởng
tượng của riêng mình so với nguyên bản, vẫn còn có khá đầy đủ những điều
đáng ngạc nhiên trong việc ứng dụng đó để có thể bảo rằng nó không phải là
kết quả của may rủi. Người có đức tin được khích lệ là phải nhìn thấy các
mạng lịnh trong bản giao ước đầu tiên một hình bóng, một mẫu mực của
những điều thuộc về trời do Đức Thánh Linh hoạch định (HeDt 9:1,8,9,23).
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Trong phạm vi nào các nguyên tắc thuộc linh và đạo đức ẩn tàng trong
mười điều khoản của luật pháp có thể đem ra thực hiện trong sinh hoạt quốc
gia và cá nhân của chúng ta?
2. Nghiên cứu Hê-bơ-rơ các chương 8-10 với phần giải thích trong đó về đền
tạm trong ánh sáng của Đấng Christ.
LÊ-VI KÝ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Những người gán một phần lớn sách Lê-vi Ký cho P (bộ luật về chức vụ tế
lễ) và đặt nó tiếp theo sau sách Ê-xê-chi-ên nêu ra các lý do: (1) nó có nhiều
chỗ giống với quyển sách mà họ cho là chỉ rõ nguồn gốc của một số phần,
và (2) bản tính chi tiết và theo đúng hình thức của hệ thống sách Lê-vi Ký.
Tuy nhiên, phần nghi lễ tế vi không nhất thiết là dấu hiệu cho một niên đại
muộn, vì các lễ nghi tôn giáo của các nền văn minh lớn vào thời Môi-se và
trước Môi-se vốn đã được qui định hết sức cẩn trọng. Các bảng đất nung Ras
Shamra mới phát giác được, với niên đại từ thời sách Xuất Ê-díp-tô Ký và
phản ảnh các tập tục nguyên thủy, có đề cập các của lễ chuộc sự mắc lỗi, và
có nhiều điểm khác giống như trong sách Lê-vi Ký.
Do đó, không có đủ lý do để nghi ngờ niên đại rất sớm và tác quyền của
Môi-se trên sách này. Đoạn từ LeLv 17:1-26:46 được biết là luật pháp thánh
khiết (hay bộ luật thánh) được một số người phủ nhận tác quyền của Môi-se
nhìn nhận là có nhiều nét cổ xưa có niên đại sớm hơn sách Phục Truyền luật
lệ ký chút ít. Trong các chương sách ấy, chúng ta thấy những lời chỉ dạy các
thầy tế lễ về sinh hoạt thường nhật của dân chúng mà phần đông chắc vốn vô
học nên phải nhờ những người biết chữ đọc phần giáo huấn ấy cho.
Trong Xuất Ê-díp-tô Ký, Đức Chúa Trời phán qua tiếng sấm trên núi Si-na-i,
nhưng vì bây giờ dân Y-sơ-ra-ên đã lập giao ước với Ngài, nên Ngài mạc
khải thêm cho họ trong 'Hội Mạc' (LeLv 1:1). Đối chiếu XuXh 40:2 với Dan
Ds 1:1 sẽ cho chúng ta biết các lời giáo huấn ấy được tiếp nhận trong vòng
một tháng tròn. Trong hai mươi bảy chương sách đó, có năm mươi sáu lần
lời công bố đã được lặp lại rằng chính Đức Giê-hô-va đã ban bố các luật lệ
ấy cho Môi-se. Do đó, phủ nhận tác quyền của Môi-se trên các chương ấy
tức là trực tiếp thách thức phần chân lý của các lời phát biểu ấy.
Các sách tiên tri và sinh tế.
Có vài chỗ trong các sách tiên tri khiến một số người giả thiết rằng các vị
không biết luật về sinh tế đã áp đặt cho dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-na-i. Nếu
được giải thích thật đúng trong ánh sáng của những khúc sách tương tự (thí
dụ ISa1Sm 15:22; Thi Tv 40:6; EsIs 1:11)thì chúng dạy ta một bài học khác
hẳn. Các sách tiên tri chú trọng đến cái thái độ của tâm trí cho rằng Đức
Chúa Trời thích các sinh tế như là cứu cánh, hậu quả là các sinh tế nhiều vô
số đã thay thế cho nếp sống công chính. Ngôn ngữ mạnh bạo của các nhà
tiên tri phải được giải thích như chỉ có ý nghĩa tương đối mà thôi như OsHs
6:6 đã chép: 'Vì ta ưa sự nhơn từ mà không ưa của lễ, ưa sự nhìn biết Đức
Chúa Trời hơn là của lễ thiêu'. Cùng một cách giải nghĩa như thế cũng
nghiệm đúng cho MiMk 6:6-8. Câu hỏi trong AmAm 5:25 chấp nhận một
câu trả lời khẳng định chứ không phải phủ định như Oesterley có vạch rõ
trong quyển sách của ông nhan đề Các sinh tế trong nước Y-sơ-ra-ên cổ
(Sacrifices in Ancient Israel). Nhưng cả khi người ta cho nó một câu trả lời
phủ định, thì rất có thể suốt bốn mươi năm trong đồng vắng, các của lễ cá
nhân hầu như đã không có, vì thiếu súc vật. Thoạt nhìn thì Gie Gr 7:21-23
có chỗ khó hiểu. Tuy nhiên, nhiều nhà giải kinh đã vạch rõ rằng chữ đã được
dịch là 'về' trong câu 7:22 đã được dịch ở nhiều chỗ khác là 'nhân danh' hoặc
'bởi vì' (thí dụ SaSt 12:17; PhuDnl 4:21). Như thế, câu này sẽ có ý nghĩa
hơn. Đức Chúa Trời phán rằng Ngài đã không hề phán dạy tổ phụ họ vì các
sinh tế, mà vì sự vâng lời.
PHÂN TÍCH
LeLv 1:1-6:7.
Luật lệ về sinh tế. Của lễ thiêu ( 1); của lễ chay ( 2); của lễ thù ân ( 3); của lễ
chuộc tội ( LeLv 4:1-5:13); của lễ chuộc sự mắc lỗi (5:14-6:7).
LeLv 6:8-7:38.
Những chỉ dẫn cho các thầy tế lễ về cùng các sinh tế ấy
LeLv 8:1-9:24.
Việc phong chức cho các thầy tế lễ.
10:1-20.
Cái chết của Na-đáp và A-bi-hu.
LeLv 11:1-15:33.
Các luật về ô uế và tẩy sạch: thú vật sạch và không sạch (LeLv 11:1-47);
việc sanh con (LeLv 12:1-8); bịnh phung (LeLv 13:1-14:57 các vấn đề khác
(LeLv 15:1-33).
LeLv 16:1-34.
Ngày đại lễ chuộc tội.
LeLv 17:1-20:27.
Cách thực thi các tập tục xã hội và tôn giáo cho dân sự.
LeLv 21:1-22:33.
Những lời chỉ dạy các thầy tế lễ.
LeLv 23:1-25:55.
Lịch của các mùa dâng của tế lễ.
LeLv 26:1-46.
Phước lành dành cho kẻ vâng lời, và tai họa cho kẻ không vâng lời.
LeLv 27:1-34.
Các luật lệ về lời thề.
NỘI DUNG
Sách Sáng Thế Ký mô tả số phận con người, sách Xuất Ê-díp-tô Ký mô tả
cách sống của người được chuộc, còn Lê-vi Ký thiết định con đường sự sống
cho một dân đã được cứu chuộc. Sách quan tâm đến bước đi hằng ngày của
một con người phải sống thánh khiết, và nhắc nhở người ấy rằng chỉ có cách
ăn nết ở thuần túy theo cách loài người thì chưa đủ. Đức Chúa Trời muốn
rằng loài người phải chấp nhận đòi hỏi của Ngài đối với cả đời sống của
người ấy, và phải thánh khiết trong tâm linh, trong linh hồn và cả trong thân
thể nữa. Lợi ích của Cơ Đốc nhân khi nghiên cứu luật lệ trong Lê-vi Ký sẽ
được cái lợi là được sự chiếu sáng trong các nguyên tắc thuộc linh sâu nhiệm
sẽ cho người ấy một ý nghĩa mới khi ứng dụng vào con người và công tác
của Đức Chúa Giê-xu Christ.
Có ba nét nổi bật:
-Các của lễ.
-Sự chuộc tội bằng huyết.
-Chức vụ tế lễ.
a) Các của lễ.
Thư Hê-bơ-rơ dạy rằng các của lễ chỉ bóng về việc Đức Chúa Giê-xu Christ
tự hiến thân làm sinh tế (HeDt 9:23; 10:2)và chúng ta có thể nghiên cứu vấn
đề đó trong nhiều sách chú giải khác nhau. Của lễ thiêu phơi bày Đấng
Christ trong sự trọn lành của Ngài, hoàn toàn tự hiến thân trên thập tự giá;
của lễ chay là cá tính hỗn hợp trọn vẹn của Ngài với tư cách bánh hằng sống;
của lễ thù ân nói lên ý nghĩa của việc được vui hưởng sự bình an của Ngài
ban cho; của lễ chuộc tội cho thấy Đấng Christ với tư cách Đấng tự làm nên
tội lỗi vì chúng ta (RoRm 8:3); của lễ chuộc sự mắc lỗi vạch rõ Đấng Christ
chuộc cả những việc lỗi lầm mà mọi người thừa nhận phải có ít nhiều đền bù
nào đó.
b) Được cứu chuộc bởi huyết.
Điểm này được nhấn mạnh trong sách Lê-vi Ký. Khúc sách chìa khóa là
LeLv 17:11. Huyết trên bàn thờ sở dĩ chuộc tội được vì đó là mạng sống đổi
cho mạng sống đã bị thất bại vì tội lỗi. Huyết chỉ có giá trị chuộc tội khi nó
bị đổ ra trên bàn thờ và con sinh phải chết đi; nếu không, nó sẽ không có
công hiệu gì cả. Cũng vậy, trong Tân Ước, huyết Đức Chúa Giê-xu Christ
bao giờ cũng ám chỉ huyết mà Ngài đã đổ ra trên thập tự giá.
Huyết đã được chỉ định trong nhiều của lễ khác nhau. Có việc đổ huyết và
rưới huyết trên và chung quanh bàn thờ (LeLv 1:5; 4:7.) ngụ ý tận hiến cho
Đức Chúa Trời cho đến chết; huyết được rảy ra trên hay trước bức màn
trong đền tạm (4:6)ngụ ý rằng thân thể làm người của Đấng Christ (HeDt
10:20)phải được đánh dấu bằng huyết của sinh tế. Tư tưởng này lại tái hiện
trong những lời chỉ dẫn về ngày đại lễ chuộc tội, khi thầy tế lễ thượng phẩm
vào phía trong bức màn, đem theo huyết, nói lên một của lễ đã hoàn tất.
Cách khác sử dụng huyết cũng được nhận thấy cả đến những phần thiêng
liêng nhất của đền tạm cũng được rưới huyết để được thanh tẩy vì cớ sự hiện
diện của chúng giữa một dân đầy tội lỗi (LeLv 16:14-19). Phần ứng dụng
trong HeDt 9:23,24 chỉ hình bóng về toàn cõi vũ trụ, kể cả 'những vật ở trên
trời' cũng cần đến các hiệu quả của sự chuộc tội. Trong việc tẩy sạch bịnh
phung, huyết phải được rảy trên người (LeLv 14:6,7)là một thí dụ minh họa
cho HeDt 9:22 'Theo luật pháp thì hầu hết mọi vật đều nhờ huyết mà được
sạch; không đổ huyết thì không có sự tha thứ'.
c) Chức vụ tế lễ của A-rôn.
Theo Hê-bơ-rơ luận giải bản chất 'hình bóng' chức vụ tế lễ của A-rôn bằng
cách cẩn thận vạch ra thật tỉ mỉ từng chi tiết các hành động của thầy tế lễ
nhân ngày đại lễ chuộc tội (LeLv 16:1-34; HeDt 9:1-10:39). Bởi một của lễ
trọn vẹn duy nhất, một của lễ vì cớ tội một lần đủ cả, sau khi được dâng lên,
Đấng Christ đã khiến mọi chức vụ tế lễ và cầu thay trở thành không cần thiết
và vô giá trị.
Hình bóng của A-rôn bổ túc cho hình bóng của Mên-chi-xê-đéc (HeDt 5:6),
còn hình bóng của thầy tế lễ thì bổ túc cho hình bóng của các của lễ và của
đền tạm. Sự thống nhất của tất cả những điều đó là điều đòi hỏi phải có để
vạch rõ sự vinh hiển trọn vẹn của Đấng Christ.
Thêm vào các phần đó trong sách đã được ứng nghiệm trọn vẹn trong Đấng
Christ, các luật lệ về những vật sạch và không sạch cũng rất lý thú. Các tác
giả viết về y học đã chứng minh rằng các luật lệ về những gì là sạch ẩn tàng
nhiều lý do chính đáng. Đó không hề là những điều cấm kỵ phi lý. Đức
Chúa Trời muốn cho dân Ngài đạt được tình trạng tốt nhất về mặt tâm linh,
trí tuệ và thân xác, và muốn vậy điều cần thiết là phải có các qui tắc cho
từng lãnh vực của đời sống. Một trong số các nhu cầu chính yếu là phòng
ngừa bệnh tật, sự nhiễm trùng và các bệnh dịch. Có một số luật lệ trong Lê-
vi Ký phải được nghiên cứu theo quan điểm đó. Chẳng hạn như LeLv 11:32-
37 đề cập cách xử lý các khí mạnh hay đồ dùng trong nhà bị đụng chạm với
xác chết của bất kỳ một sinh vật ô uế nào. Các vật ấy phải được lau rửa thật
sạch, có khi phải hủy đi, và không có món ăn hay thức uống nào từng tiếp
xúc với chúng lại có thể đem ra dùng. Qui tắc này chỉ áp dụng cho các sinh
vật không sạch khi nó đã chết mà thôi (11:32), và có dụng ý ngăn ngừa sự
lây lan do tiếp xúc với các thi thể đang thối rữa. Điều này cũng thấy xuất
hiện trong mấy câu 11:39,40 khi người tiếp xúc với một thây đã chết của cả
đến một con thú sạch cũng phải tạm thời bị cách ly và tắm rửa cẩn thận.
Chắc các của lễ đã dễ dàng trở thành một chỗ cho ruồi nhặng bu lại mà hậu
quả là khiến các vi trùng lan tràn. Ngoài ý nghĩa thuộc linh, khía cạnh vệ
sinh chắc cũng cần đối với các luật lệ về việc dâng của lễ. Sau khi sinh tế đã
được dâng, sẽ không có vật gì được giữ lại. Sinh tế thì bị thiêu trên bàn thờ,
phần còn lại phải đem ăn ngay, càng sớm càng tốt (7:15-18). Các phần khác
phải đem ra ngoài trại quân mà thiêu hủy đi (4:11,12). Ta cũng có thể đoán
được rằng tất cả những vật gì khác không thể để lại trong trại quân thì cũng
phải đem ra đó để thiêu đi. Huyết được đổ ra dưới chân bàn thờ sẽ thấm vào
đất, hoặc cát, và chắc chắn là luôn luôn có đất mới đắp lên trên. Như vậy,
chính cơ nguy do ruồi nhặng gây ra có thể bị ngăn chận đến mức tối thiểu.
Có một chứng bịnh hết sức nguy hiểm là bịnh phung. Vốn là bịnh nan y,
nhưng người ta có thể cách ly con bệnh nhằm tránh lây lan, và trong LeLv
13:1-59 chính là cách chứng bịnh ấy đã được xử lý ngay lúc người ta nghi
ngờ là có một người nào đó mắc phải. Nhiều thế kỷ về sau, đó cũng là cách
mà người ta bài trừ bệnh phung tại Anh Quốc.
Các luật lệ về những thú vật sạch và không thanh sạch rất lý thú. Phần lớn
các kinh nghiệm hiện đại đồng ý với những hạn chế của LeLv 11:1-47.
Chẳng hạn người ta vẫn thường vạch ra rằng nếu ngày nay chúng ta có thể
ăn thịt heo an toàn, thì đó là một loại thịt rất mau hư thối và trở thành nguy
hiểm nếu con thịt không được giết đúng cách và giữ lại theo các điều kiện
thích nghi. Luật Môi-se đã tỏ ra khôn ngoan khi cấm ăn món thịt đó.
Có một điểm vẫn được gọi là một trong những 'sai lầm' của Môi-se, đó là
trong LeLv 11:5,6 khi ông bảo rằng con chuột rừng (đồng) và con thỏ rừng
đều nhơi, trong khi thật ra thì hai con vật ấy không thuộc loại thú vật nhai lại
các thức ăn của chúng. Nhưng các qui tắc ở đây chỉ nhằm vào mọi sự việc
qua con mắt quan sát thông thường thoáng qua; và vì các con vật ấy thoạt
nhìn thì dường như có nhơi, và chừng đó cũng đủ rồi. Lúc ấy, người ta vẫn
chưa sống trong thời đại của kính hiển vi và các y cụ để mổ xẻ.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Khảo sát bịnh phung và các hình thức ô uế khác được đề cập trong sách
này ở phương diện chung chỉ bóng về tội lỗi.
2. Nghiên cứu các phương diện của công lao Đấng Christ bày tỏ qua các
sinh tế và của lễ khác nhau.
DÂN SỐ KÝ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Sách này, cũng như hai quyển trước, kết hợp biến cố xảy ra với giới mạng
được ban truyền. Nếu có người bảo rằng không thể có việc ghi chép lại các
giới mạng như phần ký thuật gợi ý, hoặc đã không thể có một tác giả nào ghi
chép lại cả hai, thì sách này là một luận cứ thêm vào để hậu thuẫn cho đặc
tính thống nhất và đương thời của Ngũ Kinh. Câu chuyện kể lại đã nối tiếp
theo phần ký thuật hết sức tự nhiên để chép lại từ đầu đến cuối các cảnh
tượng đã xảy ra trong những chuyến lưu lạc qua đồng vắng, nhưng đã không
có một niên đại nào được vạch rõ giữa năm thứ hai và năm thứ bốn mươi.
Việc ghi lại tên các cá nhân mà sau đó người ta đã quên đi, những mảnh vụn
của một bài ca nguyên thủy trong Dan Ds 21:1-35, các luật lệ mà cả nội
dung của chúng đã đề cập một hoàn cảnh không thể còn có được sau thời
của Môi-se, việc ám chỉ rất thường đến Ai Cập và các thức ăn tại đó, và
chính cái khó khăn do số quá nhiều vật liệu cho đền tạm gây ra, và nhân số
của Y-sơ-ra-ên, tất cả đều chứng thực rằng sách này đã được viết vào thời
của Môi-se.
Nhan đề tiếng Hy-bá-lai của sách này là 'Trong đồng vắng'. Xin độc giả chớ
để cho từ ngữ này dẫn mình đi lạc để nghĩ rằng ở đây chỉ có một sa mạc
mênh mông toàn cát. Ngày nay, tại bán đảo Si-na-i, có nhiều ốc đảo và suối
nước. Các chứng cứ địa lý và lịch sử cho thấy là trong quá khứ, vùng đất ấy
còn có nhiều cây cỏ hơn nữa.
Rít-ma có nghĩa là 'chỗ có những cây táo', và Hát-sê-rốt có nghĩa là 'làng
mạc' hay những nơi đóng trại có hàng rào phòng thủ (33:18). Dân chăn chiên
người Ma-đi-an có đồng cỏ và nước uống cho các bầy chiên của họ (XuXh
2:15,16), và càng đến gần xứ của người Ma-đi-an và người Ê-đôm, thì
dường như các đồng cỏ và giếng nước có nhiều hơn nữa (Dan Ds 33:37).
Việc sắp xếp các trại quân theo thứ tự ( 2) không hề chứng minh được rằng
dân Y-sơ-ra-ên luôn luôn kết chặt lại thành một toàn khối thống nhất, nhưng
chắc họ đã chia thành nhiều nhóm để các bầy súc vật của họ có thể tìm được
đồng cỏ và luân phiên nhau sử dụng các đồng cỏ ấy (xem phần sau, tiểu mục
Các chuyến đi).
PHÂN TÍCH
Dan Ds 1:1-2:34.
Dân số các chi tộc và thứ tự trong trại quân.
Dan Ds 3:1-4:49.
Nhiệm vụ của người Lê-vi.
Dan Ds 5:1-8:26.
Luật về sự cách ly; người Na-xi-rê; các của lễ và việc biệt riêng người Lê-vi.
Dan Ds 9:1-10:36.
Lễ Vượt Qua đầu tiên và dân sự ra đi.
Dan Ds 11:1-12:16.
Sự phàn nàn và phản loạn; chỉ định bảy mươi trưởng lão. Thêm những sự
phiền trách khác.
Dan Ds 13:1-14:45.
Bản phúc trình của các thám tử. Nói tiên tri về việc dân sự phải đi lưu lạc
suốt bốn mươi năm.
Dan Ds 15:1-19:22.
Nhiều luật lệ và biến cố qua suốt ba mươi bảy năm lưu lạc. Sự phản loạn của
Cô-rê. Cây gậy của A-rôn trổ hoa.
Dan Ds 20:1-29.
Nước chảy ra từ vầng đá. A-rôn qua đời.
Dan Ds 21:1-35.
Con rắn đồng. Óc và Si-hôn thất trận.
Dan Ds 22:1-24:25.
Ba-lác và Ba-la-am.
Dan Ds 25:1-18.
Tội của Ba-anh Phê-ô.
Dan Ds 26:1-65.
Cuộc kiểm tra dân số lần thứ hai.
Dan Ds 27:1-30:17.
Luật về thừa kế, các của lễ và lời thề nguyện.
Dan Ds 31:1-54.
Dân Ma-đi-an bị tiêu diệt.
Dan Ds 32:1-42.
Chia phần đất phía Đông sông Giô-đanh.
Dan Ds 33:1-34:29.
Phần ký thuật các chuyến đi trong đồng vắng và ranh giới các xứ.
Dan Ds 35:1-34.
Các thành ẩn náu.
Dan Ds 36:1-14.
Sản nghiệp cho con gái.
NỘI DUNG
Tuy sách này trình bày khá rõ ràng những nỗi khó khăn, những lời phiền
trách, những lần sa vào tội lỗi, và đặc tính cứng đầu cứng cổ hay phản loạn
của dân sự, chủ đề chính là sự nhẫn nhục chịu đựng và lòng khoan dung của
Đức Giê-hô-va và thế nào Ngài đã đưa họ an toàn ra khỏi đồng vắng rùng
rợn để vào Đất Hứa (Thi Tv 78:1-72).
Con người và cá tính Môi-se nổi bật hẳn lên trong phần ký thuật, nhưng ông
vốn là đầy tớ có một không hai trong cả nhà Đức Giê-hô-va (HeDt 3:5). Đức
Chúa Trời là Vua và là Đấng ban bố luật pháp tối cao; chế độ thần trị được
thiết lập. Tiếp sau những lần dân sự bị hình phạt vì phản loạn (Dan Ds 14:1-
45) Ngài đã an ủi họ bằng cách nhắc lại lời hứa về xứ mà Ngài đã ban cho
họ (15:2)và ban cho họ bộ luật cho những ngày ấy.
Việc kiểm tra chiến sĩ (Dan Ds 1:1-54) khiến họ trở thành một dân; việc họ
đóng quân có trật tự khiến họ trở thành một bộ phận về chính trị, và việc
phong chức cho người Lê-vi đã kết chặt họ lại với nhau thành một cộng
đồng tôn giáo. Cuộc kiểm tra tôn giáo lần thứ hai kết thúc với việc họ làm lễ
kỷ niệm số người đã ngã chết trong sa mạc (26:65)là việc nghiêm trọng nhắc
lại sự mất mát do thiếu đức tin, dầu vậy, Đức Chúa Trời không hề bỏ rơi dân
Ngài, mà vẫn gia ân cứu vớt và phục hồi địa vị cho họ.
Các chuyến đi.
Dan Ds 33:1-56 đưa ra một bảng liệt kê phác họa các địa điểm dân Y-sơ-ra-
ên từng đi qua suốt bốn mươi năm, nhưng hành trình đã không thể được vẽ
lại cách chắc chắn, vì người ta không xác định được hơn mười hai trong số
bốn mươi hai địa danh đã được nêu lên. Sau khi qua miền Nam của bán đảo
Si-na-i rồi chuyển lên phía Bắc, tới Ca-đe Ba-nê-a, họ lại quay trở về phía
Nam, và suốt ba mươi tám năm đã đi quanh quẩn trong vùng phụ cận vịnh
A-ka-ba. Chúng ta không biết họ đã vào được bao xa trong khu vực Hejaz
của A-rập. Ca-đe (thánh) có lẽ là một tên đã được dùng để chỉ nhiều địa
điểm có liên hệ với đền tạm, và tại một nơi như vậy, dường như đã có một
con suối lừng danh tên gọi En Mích-ba, nghĩa là 'Suối Xử Đoán' (SaSt 14:7).
Dân số Y-sơ-ra-ên
Số người trên hai mươi tuổi đã ra khỏi Ai Cập được cho biết là 603.550
(Dan Ds 1:46 so sánh XuXh 12:37,38), chắc tương ứng với một dân số tổng
cộng khoảng hai triệu. Những con số này đã được một số người cho là khó
tin được và hoàn toàn bịa đặt mà thôi. Họ còn đưa ra một vấn đề, chẳng hạn
như rất khó dung hòa con số này với con số quá ít oi của người Lê-vi
(22.000, Dan Ds 3:21-39)và số các con trai đầu lòng (22.273, Dan Ds 3:43).
Nhưng cho dù đáp số cho bài toán họ đã nêu ra có là thế nào đi chăng nữa,
các con số ấy dường như cũng không thể nào do người ta giả tạo ra. Chúng
ta sẽ gần với sự thật hơn nếu bảo rằng hầu như chắc chắn chúng vốn do một
phần ký thuật cổ xưa nào đó mà ra, và chính sự kiện những điều khó giải đáp
chúng nêu ra cũng đủ để biện minh cho chúng đối với lời tố cáo là chúng do
người ta bày đặt hay giả tạo.
Giáo sư Flinders Petrie chủ trương rằng chữ 'ngàn' mà tiếng Hy-bá-lai là
Eleph ở đây và trong XuXh 12:1-50 phải được đọc là 'họ (gia đình 'hoặc
'nhóm người' như trong Cac Tl 6:15 so sánh Gios Gs 22:14; ISa1Sm 23:23;
MiMk 5:2). Nhưng nếu việc làm này có cất đi vài khó khăn, thì lại đưa vào
nhiều khó khăn khác. Đề nghị của Wiener lại có lý hơn là cho rằng việc chép
lại các con số đã bị những người chép sách sao lầm.
Trong mọi trường hợp có những con số như vậy, cần nhớ rằng việc dung hòa
chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các yếu tố liên quan đều được biết rõ.
Trong trường hợp ở đây cần ghi nhận là các yếu tố siêu nhiên đã được đan
dệt hết sức chặt chẽ vào với sử ký. Con số đặc biệt lớn của dân sự (XuXh
1:9 và việc Đức Chúa Trời đã cung cấp mọi sự cho họ một cách lạ lùng
(PhuDnl 8:3,4)đều được nhấn mạnh. Những ai sẵn sàng tin là có thể có phép
lạ, thì không cần phải phân vân khi chấp nhận phần ký thuật y như sách đã
chép bất chấp việc giải nghĩa chi tiết.
Ba-la-am
Khi những chuyến đi lưu lạc qua đồng vắng kết thúc, câu chuyện nổi bật hơn
hết là câu chuyện về Ba-la-am, ông ta có sự hiểu biết cá nhân về Đức Giê-
hô-va. Ông nói là mình từ xứ A-ram đến (Dan Ds 23:7) và sử chép rằng vua
Môáp sai người đến tìm ông tại Phê-thô-rơ 'trên mé sông (tức sông Ơ-phơ-
rát) trong xứ của con cái dân sự mình' (22:5). Câu trên cho thấy Ba-la-am từ
khu vực Pha-đan A-ram đến, có lẽ là từ Cha-ran nơi Áp-ra-ham và gia đình
ông từng tạm trú một thời gian (SaSt 11:31), cũng là nơi sinh cơ lập nghiệp
của La-ban (SaSt 28:5). Lời lẽ ông ta nói ra được cho là lời tiên tri được
truyền thông trong một cơn xuất thần, hay điều ông nhớ được là đã thấy
trong một cơn xuất thần (Dan Ds 24:3,4). Những câu đề cập tương lai xuất
hiện trong lời tiên tri cuối cùng (24:15-24). Có một số trong đó rất lộn xộn,
nhưng 'ngôi sao ra từ Gia-cốp' dường như ám chỉ Đấng Mết-si-a.
Các học giả của trường phái Wellhausen thường định niên đại cho mấy lời
sấm ký này là vào thế kỷ thứ chín, nhưng mới đây giáo sư W.F.Albright đã
chứng minh rằng những ám chỉ trong đó không đòi hỏi một niên đại muộn
hơn thời của Ba-la-am.
Có kẻ bảo rằng câu chuyện con lừa của Ba-la-am nói tiếng người là một
truyền thuyết dân gian. Tuy nhiên, ta có thể hiểu nó theo nghĩa đen, hoặc
ngụ ý rằng con lừa đã gây ấn tượng trên nhà tiên tri, để ông hiểu là nó đã nói
như vậy. Cách giải thích trước thì tự nhiên hơn để ứng dụng cho IIPhi 2Pr
2:16.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. 'Những sự ấy có nghĩa hình bóng để khuyên bảo (làm gương cho) chúng
ta' (ICo1Cr 10:11). Những câu kể lại trong sách này khích lệ và cảnh cáo
chúng ta như thế nào?
2. Sách này chứa đựng những điều chỉ bóng và những lời tiên tri nào về
Chúa Giê-xu?
PHỤC TRUYỀN LUẬT LỆ KÝ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Mục đích sách này là đưa ra các bài giảng mà Môi-se đã truyền cho dân Y-
sơ-ra-ên ngay trước khi họ vào xứ Ca-na-an, với một phụ lục kể lại biến cố
ông qua đời. Đã không có lý do nào đủ giá trị thuyết phục để phủ nhận lời tự
khẳng định đó.
1. Phần khẳng định đã được nêu lên cách minh nhiên và nhấn mạnh, với đầy
đủ chi tiết về thời gian và nơi chốn (PhuDnl 1:1-6; 4:44-46; 29:1). Nếu mấy
câu này không đúng, thì thật khó tha thứ được tội giả mạo cho trước giả.
2. Lời lẽ trong sách là trực giác thiết tha, nồng nàn của một đại lãnh tụ đối
với một dân tộc mà mình từng chia ngọt xẻ bùi cũng như cùng chịu gian
khổ. Đặc điểm của sách là sự liêm chính ngay thẳng, và sự thống nhất về tư
tưởng, với một âm hưởng của hiện thực hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh,
không thể xảy ra ở một thời gian hay nơi chốn nào khác.
3. Các chi tiết về địa lý trong những chương 1:1-10:36 mang đầy đủ dấu
hiệu của một bản ký thuật cổ xưa từng nói về xứ Ai Cập.
4. Những sửa đổi luật lệ của Lê-vi Ký là nhằm vào việc trong tương lai, dân
sự sẽ vào trú ngụ trong xứ (Ca-na-an); các viễn tượng về chiến thắng và hòa
bình sẽ chẳng bao giờ được thực hiện hoàn toàn, cho thấy đây không phải là
điều được bày ra.
5. Không hề có gì động chạm đến một huyền thoại hay truyền thuyết được
phóng đại nếu là một câu chuyện truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, cũng không
có vẻ gì là óc tưởng tượng ngông cuồng của một tay sáng chế.
Tính cách thống nhất của sách thường bị chỉ trích qua các chương PhuDnl
32:1-33:29, là bài ca và lời chúc phước của Môi-se. Người ta gán chúng cho
một tác giả khác, vào một niên đại khác, nhưng không hề có lý do đầy đủ.
Bài ca có điểm giống với bài ca trong XuXh 15:1-27, với các tư tưởng về
tính cách vĩ đại của Đức Chúa Trời và khuynh hướng hay phản loạn của dân
Y-sơ-ra-ên, vốn chạy suốt qua phần đầu của quyển sách. Hình thức thi ca
giúp người ta dễ học thuộc lòng, nếu không thì thật khó nhớ hết toàn bài.
Phần chúc phước rất phù hợp với hoàn cảnh ở đây, và rất tự nhiên để xuất
phát từ môi miệng của một nhân vật tự ý thức rằng mình là người cha của
dân tộc mình. Tên Giê-su-run (người công chính nhỏ nhoi) được cho là tên
rút ngắn để tỏ ra âu yếm đối với dân Y-sơ-ra-ên và nếu quả đúng như vậy thì
thật là tự nhiên và cảm động đối với Môi-se, lúc ấy đã cao tuổi. Những chỗ
ám chỉ có hơi tối nghĩa, là dấu hiệu cho thấy quyển sách có nguồn gốc rất cổ
xưa. Chương kết thúc (Dan Ds 34:29) rõ ràng là do một người về sau viết.
Nhằm chống lại tác quyền của Môi-se và một niên đại gần với thời Môi-se,
Wellhausen và những người theo ông gán sách Phục Truyền Luật Lệ Ký cho
thời trị vì của Giô-si-a hay sớm hơn chút ít, còn tác giả là một nhóm thầy tế
lễ ngoan đạo, có thể là khi vương quốc miền Bắc bị đưa đi đày, đã đúc kết
sách ấy căn cứ vào các tài liệu xưa hơn. Sau đó, quyển sách hoặc đã bị mất
hoặc bị cố ý cất giấu trong đền thờ, và được thầy tế lễ Hinh-kia tìm thấy khi
Giô-si-a ra lịnh thanh tẩy nhà của Đức Chúa Trời, rồi trở thành cơ sở cho
công cuộc cải cách tiếp theo đó (IIVua 2V 22:1-23:30).
Lý do gán cho sách Phục Truyền cái niên đại muộn màng như thế là vì âm
hưởng tiên tri và quan điểm của nó, có một số nhỏ không ăn khớp với luật
pháp theo Lê-vi Ký, nhất là 'luật về nơi thánh trung ương' là điều chưa hề
được biết tới trước đó, mà chỉ được ban hành lần đầu tiên dưới thời trị vì của
Giô-si-a mà thôi.
Vì cơ cấu phê bình thường được căn cứ trên cách định niên đại của J, E, D
và P cho phù hợp với thời quân chủ nguyên thủy, giai đoạn của các nhà tiên
tri, và cuộc lưu đày hoặc sau đó, nên điều khá lý thú là các học giả của
những năm gần đây chịu chấp nhận phương pháp phân tích tài liệu, lại công
kích niên đại nêu trên. Giáo sư A.C.Welch xếp một phần lớn của sách vào
một thời kỳ sớm hơn nhiều, Holscher và Kennett đặt nó vào thời kỳ lưu đày,
còn giáo sư Edward Robertson thì nghĩ rằng chính Sa-mu-ên đã bổ túc để nó
có được cái hình thức hiện đại. Các kết luận khác biệt nhau đó cho thấy
chúng chỉ là kết quả của suy luận. Vấn đề 'nơi thánh trung ương' sẽ được đề
cập sau đây.
Trong PhuDnl 31:9-12,24, chép là Môi-se đã viết ra bộ luật này để cứ mỗi
bảy năm lại đem ra đọc lớn tiếng. Có lẽ điều này ám chỉ các phần về luật
pháp, nhưng nếu áp dụng cho cả quyển sách thì phù hợp hơn (xem PhuDnl
1:5 và Gios Gs 1:8). Chắc các thầy tế lễ về sau không thể để cho lời ám chỉ
ấy có một ý nghĩa bất xác định như vậy.
PHÂN TÍCH
PhuDnl 1:1- 4:43.
Bài giảng nhập đề, nhắc lại các kinh nghiệm quá khứ.
PhuDnl 4:44 -11:32.
Mười Điều Răn và những lời khuyên phải vâng lời, đặc biệt nhấn mạnh hai
điều răn đầu tiên.
PhuDnl 12:1 - 26:19.
Tóm tắt luật lệ có ảnh hưởng đến dân chúng bao gồm nơi chốn và cách thức
dâng tế lễ, các thức ăn sạch và không sạch, các ngày lễ trong năm, các nhiệm
vụ của vua và các mạng lịnh khác về xã hội, tư pháp và tôn giáo.
PhuDnl 27:1 - 30:20.
Các phước lành và sự nguyền rủa, những khẳng định long trọng.
PhuDnl 31 :1- 34:12.
Việc viết luật pháp, bài ca của Môi-se, lời chúc phước của ông, và sự qua
đời của Môi-se.
NỘI DUNG
Ta có thể tránh được nhiều rắc rối khi đọc sách này nếu in trí rằng dân Y-sơ-
ra-ên đã được Môi-se giảng dạy trong những hoàn cảnh như thế nào, và các
đối tượng mà ông nhằm vào. Bấy giờ đã là bốn mươi năm sau khi luật pháp
được ban bố tại Si-na-i, và tất cả những người từ hai mươi tuổi trở lên lúc ấy
đều đã chết hết (Dan Ds 14:29-33, 26:64,65). Do đó, Môi-se đưa ra cho thế
hệ mới một bảng tóm tắt về phần lịch sử vừa qua và giải luận các luật lệ để
toàn thể hội chúng có thể hiểu được đồng thời ân cần khuyên giục và thúc ép
tuân giữ với tất cả lòng sốt sắng.
Sách Lê-vi Ký đã được viết rồi, dưới hình thức một quyển chỉ nam cho các
thầy tế lễ và người Lê-vi, nên các bài giảng được ghi lại trong Phục Truyền
Luật Lệ Ký tập trung vào tình yêu thương đối với Đức Chúa Trời và người
lân cận (PhuDnl 6:4,5; 15:7 so sánh Mac Mc 12:29 và tt). Mười Điều Răn
được nhắc lại trong chương 5, và phần tiếp theo đó có thể được xem phần
lớn là lời giải thích về các điều răn ấy.
Nội dung của các sách trước đã được công nhận một cách đương nhiên,
chẳng hạn như trong PhuDnl 24:8,9 ngụ ý ám chỉ LeLv 13:6; 14:2 và Dan
Ds 12:10. Chỉ một thí dụ duy nhất ấy thôi cũng đủ chứng minh rằng sách Lê-
vi Ký không thể có sau Phục Truyền Luật Lệ Ký, và chỗ khác nhau về mục
đích mà người ta nhận thấy là trong Phục Truyền Luật Lệ Ký có ít những
câu ám chỉ dứt khoát hơn là trong Lê-vi Ký.
Do sự kiện dân sự sắp thay đổi nếp sống lưu lạc để vào định cư trong xứ
(Ca-na-an) cần chú ý là có một vài sửa đổi trong luật pháp. Như PhuDnl
12:1-32 cho nhiều quyền tự do để giết thú vật làm thức ăn hơn là LeLv 17:1-
16 PhuDnl 16:1-22 thêm giọng vui mừng hớn hở cho những lời chỉ dẫn
trong LeLv 23:1-44; PhuDnl 15:23 thêm ý niệm về sự khoan dung để tha
cho kẻ mắc nợ vào phần đã chép trong LeLv 25:1-55.
Có một điểm giáo lý về tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với dân
Ngài, và việc Ngài chăm lo cho kẻ nghèo khổ đói khát đã bộc lộ rõ hơn
trong lần ban bố luật pháp 'thứ hai' này. Không nên xem các luật lệ đặc thù
như có ý định đặt cái ách trên vai dân sự. Họ đã qua được thời kỳ thử thách
(PhuDnl 8:3), và giờ đây, vì cớ tình yêu thương của Ngài đối với họ (7:8),
Đức Chúa Trời ban bố cho họ các giới mạng cũng như sự phán đoán để giúp
họ có thể bước đi trên các nẻo đường của Ngài (8:6)và làm điều tốt lành, lợi
ích cho họ (8:16). Những lời giáo huấn ấy đều rất nhân đạo và lành mạnh.
Các thầy tế lễ và người Lê-vi.
Tất cả thầy tế lễ đều là người Lê-vi, nhưng không phải ai là người Lê-vi
cũng đều làm thầy tế lễ; cũng như các giám mục, nhà truyền đạo, chấp sự
đều thuộc hàng 'giáo phẩm' nhưng có phẩm trật khác nhau. Cho nên trong
Phục Truyền Luật Lệ Ký, mấy câu nói 'các thầy tế lễ người Lê-vi' (năm lần),
các thầy tế lễ con trai Lê-vi' (hai lần), và 'các thầy tế lễ' (bảy lần), đều chỉ về
một số người giống nhau. Trong PhuDnl 20:2 'thầy tế lễ' có thể ám chỉ thầy
tế lễ thượng phẩm. Người Lê-vi cũng được đề cập mười bốn lần, và có khi
câu ấy ám chỉ cả chi phái Lê-vi. Ta không nhất thiết phải hiểu là có mâu
thuẫn trong những câu nói có nhiều ý nghĩa tổng quát của sách Phục Truyền
và có nhiều tính cách chỉ dẫn chi tiết trong sách Lê-vi Ký.
Đền thánh trung ương
Sở dĩ lời dạy dỗ của sách Phục Truyền Luật Lệ Ký liên hệ đến việc tập trung
sự thờ phượng được gán cho một vai trò quan trọng đặc biệt là vì có nhiều
học giả chủ trương rằng mệnh lệnh ấy chưa hề có trước thời trị vì của Giô-
si-a và rằng vào thời kỳ sớm hơn, việc dâng của lễ tại 'các nơi cao' vốn được
cho phép thật tự do, trái với điều đã được nhấn mạnh trong Ngũ Kinh.
Nhưng khảo xét thật kỹ những câu trong Cựu Ước liên hệ đến nơi dâng sinh
tế, chúng ta sẽ thấy trái lại rằng, nếu được đọc trong toàn bản văn, chúng
vốn họp thành một toàn thể tự nhiên. Khi đem đối chiếu với những câu giả
định trên kia, thì chẳng có chỗ rắc rối nào quan trọng còn tồn tại cả.
1. Vào thời các vị tộc trưởng, nhiều bàn thờ đã được dựng lên ở nhiều nơi
khác nhau, hoặc là tại những nơi mà một tôi tớ Đức Chúa Trời tạm trú dài
ngày (SaSt 12:8), hoặc tại nơi mà Đưc Chúa Trời đã đặc biệt tự tỏ mình ra
(SaSt 35:7).
Sau khi dân Y-sơ-ra-ên được giải thoát khỏi Ai Cập, Môi-se đã lập một bàn
thờ tại Rê-phi-đim để kỷ niệm chiến thắng dân A-ma-léc (XuXh 17:15).
Ngay sau đó, Môi-se đã nhận được một chỉ thị về những bàn thờ như thế
(XuXh 20:22-26). Khúc sách này (khi đem gán cho J hoặc E) đã được giải
thích là trái ngược với các luật lệ của D và P sau này. Nhưng khi đọc trong
mối liên hệ với phần ký thuật trong đó có nó, thì người ta thấy đó là mạng
lịnh tổng quát dạy phải tránh việc thờ hình tượng, và là một chỉ dẫn trực tiếp
cho thời kỳ lúc đền tạm chưa được dựng lên, như đã được Môi-se vạch ra
ngay sau đó (XuXh 24:4,5). Đồng thời với những chỉ dẫn ấy là lời hứa của
Đức Chúa Trời ban phước cho 'nơi nào có ghi danh ta' (XuXh 20:24).
'Phàm nơi nào' ám chỉ toàn Đất Hứa, nên có thể chỉ cả những lần Đức Chúa
Trời sẽ hiện ra trong tương lai (xem Cac Tl 6:24; IISa 2Sm 24:25;)hoặc nó
cũng có thể chỉ tất cả những nơi nào mà đền tạm sẽ dừng lại, với viễn ảnh
thấy trước là tại Si-lô và Giê-ru-sa-lem (Gie Gr 7:12). Nhưng nếu có thể
được thì các bàn thờ phải được dỡ khỏi 'các nơi cao' càng nhiều càng tốt, vì
sau đó, chúng đã trở thành cạm bẫy cho tuyển dân.
2. Sau khi đền tạm hoàn tất, đã có những chỉ dẫn minh nhiên trong LeLv
17:1-16 về việc dâng súc vật làm sinh tế (17:1-7)và người ta được phép ăn
thịt chúng (17:10-16). Luật về của lễ thù ân (LeLv 3:1-17; 7:11-21)cho phép
kẻ dâng lễ ăn một phần thịt đã được dâng lên đúng phép trên bàn thờ. Trong
các trường hợp khác, họ có thể giết con vật và ăn thịt theo cách thông
thường.
Câu đề cập 'ma quỉ' trong LeLv 17:7 ám chỉ những mê tín dị đoan và tập tục
thờ lạy hình tượng rõ ràng là rất thịnh hành lúc ấy, nhưng chính xác đó là gì
thì vẫn không rõ lắm. Việc kéo tuyển dân ra khỏi sự thờ hình tượng là một
trong những đối tượng chính yếu của luật lệ trong Lê-vi Ký.
3. Sách Phục Truyền Luật Lệ Ký họp thành bước tiếp theo, sau khi các qui
tắc trước đó đã được duyệt xét lại, và các kế hoạch đã được thiết lập cho thời
kỳ dân sự sẽ định cư trong xứ Ca-na-an và được an nghỉ, không còn bị kẻ
thù quấy rối nữa (PhuDnl 12:10), bấy giờ, các sinh tế sẽ được dâng lên 'tại
nơi Đức Giê-hô-va sẽ chọn' (câu 12:11).
'Nơi được chọn' cũng không được xác định. Trước hết, dường như ám chỉ
đền tạm, đã được dựng lên tại Si-lô sau khi toàn xứ bị chinh phục (Gios Gs
18:1). Việc hai chi phái rưỡi dựng lên một bàn thờ lớn bên kia sông Giô-
đanh đã bị các chi phái còn lại dưới quyền lãnh đạo của Phi-nê-a phản đối
quyết liệt (Gios Gs 22:1-34) cho đến khi sự việc ấy được giải thích không
phải là với ý định thiết lập một nơi thánh thù nghịch, nhưng chỉ là một đài
kỷ niệm mà thôi. Đặc tính đồng thời của phần ký thuật này hết sức rõ ràng,
đầy đủ.
4. Trong những ngày loạn lạc thời Các Quan xét, dân sự rất dốt nát về luật
pháp và thường bội đạo 'Ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải' (Cac Tl
21:25). Nhiệm vụ của các thầy tế lễ là phải dạy bảo dân chúng (PhuDnl
31:9-12), cha mẹ phải dạy dỗ con cái, và viết các thành phần của luật pháp
đặt tại những nơi mà mọi người có thể nhìn thấy rõ ràng (6:6-9). Nhưng
ngay trong các gia đình trung tín, điều đó cũng chỉ có thể áp dụng đối với
những lời giáo huấn quan trọng hơn mà thôi (như trong vòng người Do Thái
ngày nay). Các bản sao trọn vẹn luật pháp chắc chắn rất hiếm; có lẽ người ta
có đặt một bản gần hòm giao ước tại Si-lô, do đó, chỉ có một số ít người là
được dạy bảo (xem PhuDnl 31:9-13 và ISa1Sm 1:3). Giữa vòng những
người ít tin kính hơn, thì việc thờ lạy tại 'các nơi cao' chẳng những chỉ là
không chính thống, mà thường thường, và phần lớn, có lẽ còn là thờ hình
tượng nữa.
5. Si-lô mất hết ý nghĩa khi hòm giao ước bị dân Phi-li-tin cướp đi (ISa1Sm
4:1-22), và từ đó đến khi một đền thờ được xây lên, thì cứ chiến tranh loạn
lạc luôn. Các điều kiện hòa bình được dự kiến trong PhuDnl 12:1-32 đã
không thành tựu, và Sa-mu-ên dâng sinh tế tại Mích-ba (ISa1Sm 7:9)và
nhiều nơi khác, còn Sa-lô-môn thì dâng tại Ghi-bê-ôn (IVua 1V 3:4). Trong
thời gian này, việc dâng sinh tế tại các nơi cao được châm chước chính trên
nền tảng đó (3:2,3).
6. Việc dân sự được hoàn toàn thống nhất dưới thời Sa-lô-môn, việc tái lập
hòa bình và xây cất đền thờ là các điều kiện cần thiết để tập trung sự thờ
phượng tại Giê-ru-sa-lem. Việc dâng của lễ tại các nơi cao vẫn còn được
thực thi, nhưng từ đó trở đi luôn luôn bị xem là vô giá trị.
7. Khi vương quốc bị chia đôi thì các điều kiện bị thay đổi một lần nữa. Giê-
rô-bô-am cho xây cất các nơi thánh tại Bê-tên và Đan, để ngăn chận số
người ngoan đạo, không cho họ đến Giê-ru-sa-lem. Tại vương quốc miền
Bắc, nhiều bàn thờ cho Đức Giê-hô-va được dựng lên tại nhiều địa điểm, và
Ê-li kêu gào việc phá hủy chúng vì đó là dấu hiệu của sự bội đạo (IVua 1V
18:30; 19:10). Ở Giu-đa, việc thờ hình tượng tại nơi cao cũng được tiếp tục,
khi thì hướng về Đức Giê-hô-va, nhưng thường hơn thì lại hướng về các
thần của xứ ấy. Việc làm đó được A-cha khuyến khích (IIVua 2V 16:4),
nhưng dưới thời Ê-xê-chia, chúng đã bị thẳng tay bài trừ (IIVua 2V 18:4).
8. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi sự thờ hình tượng được thịnh hành suốt
năm mươi bảy năm dưới thời Ma-na-se và được tiếp tục dưới thời con trai
vua ấy là A-môn, đã khiến cho luật pháp hoàn toàn bị lãng quên. Biện pháp
áp dụng tiếp theo việc tìm được sách luật pháp trong đền thờ (IIVua 2V
22:8)không phải là điều mới lạ, mà chỉ là một công cuộc cải cách theo đúng
nghĩa; và được vạch rõ cả bằng phần ký thuật đi trước lẫn bằng danh từ đã
được sử dụng. 'Quyển sách luật pháp' (chớ không phải là một quyển sách về
luật pháp hay một cuộn sách chép về luật pháp nào đó) không thể có ý nghĩa
nào khác hơn là quyển sách luật pháp của Môi-se (Bộ Ngũ Kinh) dầu là về
phương diện văn phạm hay lịch sử. Danh từ được dùng để chứng minh nó
ám chỉ một quyển sách đã được mọi người biết rõ, chớ không phải một
quyển sách mới được đưa ra ánh sáng lần đầu tiên.
Lời làm chứng của Giê-rê-mi (Gie Gr 7:12-14)với phần trích dẫn công nhiên
PhuDnl 12:11 và đề cập trực tiếp Si-lô là một bằng chứng phụ trội rằng Giô-
si-a không hề ban hành một điều gì mới lạ, mà chỉ khiến cho dân sự quay trở
về với luật pháp đã được Môi-se ban bố, đã được tổ phụ tuân thủ một thời
gian rồi thôi. Chính tính cách mơ hồ của luật pháp trong Phục Truyền Luật
Lệ Ký là một dấu hiệu chứng minh rằng luật pháp trong đó là chân thật. Đã
không có lý do thỏa đáng nào giải thích tại sao các nhà sưu tập đúc kết luật
pháp dưới thời trị vì của Giô-si-a lại chẳng cần gì phải nêu tên Giê-ru-sa-lem
ra.
Mối liên hệ với Tân Ước.
Sách Phục Truyền Luật Lệ Ký có một lời tiên tri trực tiếp về Đấng Mết-si-a.
Đức Chúa Trời đã hứa với Môi-se rằng Ngài sẽ dấy lên một nhà tiên tri
giống như ông (PhuDnl 18:15-19), và việc đề cập điều đó trong phần thêm
vào về sau ở 34:10-12 cho thấy có sự trông đợi câu ấy sẽ ứng nghiệm vào
một cá nhân. Câu này được Phi-e-rơ ứng dụng cho Đấng Christ trong Cong
Cv 3:22, và Ê-tiên thì ứng dụng cho Ngài trong Cong Cv 7:37.
Là một nhà tiên tri, Đấng Christ đã thường xuyên và trực tiếp tuyên bố về
Đức Chúa Cha (GiGa 1:18; Dan Ds 12:6-8; PhuDnl 24:10), và với tư cách là
Đấng Trung Bảo, Ngài thiết lập một giao ước tốt hơn và tồn tại mãi mãi
(HeDt 9:15-28).
Sách Phục Truyền đã được Tân Ước trích dẫn hoặc đề cập khoảng mười tám
lần. Như thế là sách ấy đã được Tân Ước đề cập nhiều hơn bất kỳ một sách
nào khác (chú ý đặc biệt đến RoRm 10:6-8; HeDt 12:29; 13:5). Chúa chúng
ta từng trích dẫn toàn những câu trong Phục Truyền để chống lại kẻ cám dỗ
(PhuDnl 6:13,16; 8:3; Mat Mt 4:4,7,10); và cho phần đầu của lời Ngài tóm
tắt về luật pháp và lời tiên tri (PhuDnl 6:4,5; Mat Mt 22:37,38).
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Dùng một quyển Kinh Thánh có phần đối chiếu, ghi ra những câu trong
Tân Ước trích dẫn Phục Truyền Luật Lệ Ký, và tóm tắt sự dạy dỗ chứa đựng
trong đó.
2. Tập họp lại và tóm tắt các khúc sách dạy về tình yêu thương và sự chăm
sóc của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài, đối với kẻ nghèo khó và bị áp bức.
LỊCH SỬ DÂN HÊ-BƠ-RƠ
Dưới nhan đề các sách lịch sử, chúng ta có thể kể sách Giô-suê, Các Quan
Xét, Ru-tơ, I và IISa-mu-ên, I và IICác Vua, I và IISử Ký, E-xơ-ra - Nê-hê-
mi, và Ê-xơ-tê. Trong số các sách nêu trên, năm quyển sau được bản Hy-bá-
lai xếp vào nhóm 'Các Sách Văn Thơ'; các quyển sách được xếp vào nhóm
'Các Sách Tiên Tri Truớc' mà phần mô tả ý nghĩa không thể bỏ qua. Các
sách Giô-suê, Các Quan Xét, Ru-tơ và sách Sa-mu-ên ký thuật việc thành
lập nền quân chủ; các sách Các Vua và Sử Ký kể lại câu chuyện song song
cho đến khi bị đi đày; sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi kể lại câu chuyện hồi
hương; sách Ê-xơ-tê lọt vào thời đế quốc Ba-tư.
Ngoại trừ hai sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi, nói theo nghĩa hẹp thì các sách
khác đều có tác giả khuyết danh. Hai sách Giô-suê và Sa-mu-ên chắc phải
nhờ phần lớn tài liệu của hai lãnh tụ đó (so sánh ISu1Sb 29:29), nhưng rõ
ràng là đã được đúc kết sau khi họ đã qua đời. Nhiều sách Tiên Tri và Sử Ký
đã được trích dẫn như những nguồn thông tin; và nói chung thì các sách ấy
có đầy đủ chứng cứ là có một sự quan tâm đến tính cách chính xác, tương tự
như mối quan tâm của Lu-ca khi viết sách Phúc Âm của ông vậy (LuLc 1:1-
4).
Chúng cũng giống sách Phúc Âm Lu-ca ở chỗ không phải chỉ là sử ký mà
thôi. Dầu sách ghi lại kinh nghiệm của các cá nhân hay của toàn dân, cách
Đức Chúa Trời đối xử với họ mới là chủ đề chính. Giao ước của Đức Chúa
Trời đối với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đã ảnh hưởng đến hình thức và
nội dung của các bảng gia phổ được đưa vào sách, và là lý do để đưa vào
nhiều biến cố cho thấy phần ứng nghiệm của câu chuyện. Trong lịch sử của
dân Y-sơ-ra-ên phần tài liệu đã được chọn lọc đặc biệt để nhấn mạnh việc họ
đã được giải phóng khỏi ách nô lệ tại Ai Cập, họ được kêu gọi làm tuyển
dân của Đức Chúa Trời, với chức năng là người tiếp nhận những sấm truyền
của Ngài (RoRm 3:2).
Thời trị vì của các vua được đánh giá tùy theo họ có làm điều thiện trước
mặt Đức Giê-hô-va và noi theo các đường lối của Đa-vít, tổ phụ họ, hay noi
theo Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát. Sách không những chỉ dành chỗ cho các
việc làm và đặc điểm của các vị anh hùng dân tộc như Giô-suê, Đa-vít, Sa-
lô-môn và nhiều người khác nữa, mà còn cho nhiều nhân vật khác ít được ai
biết đến có cơ hội lên tiếng nói như Mi-chê, con trai Giêm-la và các câu
chuyện về những phụ nữ khiêm hạ đã phục vụ Ê-li và Ê-li-sê.
Như vậy, các sách ấy ghi lại những hành động kỳ diệu của Đức Chúa Trời
(Thi Tv 111:4), về cách Ngài đã đánh hạ kẻ mạnh và tôn cao những người
khiêm cung, nhu mì. Cũng bày tỏ sự thánh khiết, sự nhẫn nhục, lòng thương
xót khoan dung, việc Đức Chúa Trời tha thứ khi họ ăn năn, Ngài luôn luôn
tìm kiếm kẻ lạc mất, và niềm vui của Ngài khi họ quay về. Sách ghi lại kinh
nghiệm của các tiên tri và cách thế họ đã hoàn thành sứ mạng của mình.
Trong việc ký thuật, các sách ấy ghi lại những việc làm cho phù hợp với
phần chân lý mà các sách tiên tri công bố bằng chữ. Chẳng những chúng ghi
lại những lời tiên báo, mà chép lại cả phần ứng nghiệm nữa. Chúng cho
chúng ta một cái nhìn xuyên suốt vào việc Đức Chúa Trời đang thực hiện
chủ đích cứu chuộc vĩ đại của Ngài trong lịch sử, và vạch rõ thế nào con
đường đã được dọn sẵn cho sự giáng lâm của Con Ngài.
Trong các sách này cũng như trong các sách tiên tri, chúng ta thấy có sự diễn
tiến về tư tưởng từ khi dân Y-sơ-ra-ên là một quốc gia được tuyển chọn, tiến
đến một dân Y-sơ-ra-ên chân chính nằm trong dân tộc Y-sơ-ra-ên, nghĩa là
số người trung tín ít ỏi còn sót lại; rồi ngay trong số dân còn sót lại đó, các
sách ấy còn chỉ về người Đầy Tớ được tuyển chọn, là Chồi Mống, hậu tự
Đa-vít và là Con Rất Yêu Dấu của Đức Chúa Trời nữa. Lịch sử cũng như lời
tiên tri luôn luôn chỉ tới như một loạt những bảng chỉ đường, hướng về Đấng
hầu đến. Các bảng gia phổ và các biến cố họp thành một sợi dây xích lịch sử
nối liền chủ đích sơ khởi của Đức Chúa Trời trong A-đam với chủ đích tối
hậu của Ngài cho nhân loại trong Đấng Christ.
Cần nghiên cứu thật kỹ việc Đấng Christ đã tỏ thái độ của Ngài đối với lịch
sử Cựu Ước. Ngài đã không hề nghi ngờ chút gì liên hệ đến các nét chính
yếu cũng như các chi tiết nhỏ nhặt của nó. Ngài đề cập biến cố về Đa-vít với
bánh thánh (Mac Mc 2:26), vinh quang của Sa-lô-môn (Mat Mt 6:29), việc
nữ hoàng Sê-ba đến thăm Sa-lô-môn (Mat Mt 12:42), sứ mạng của Ê-li đối
với người quả phụ Sa-rép-ta (LuLc 4:26)và việc Na-a-man được chữa lành
bịnh phung (LuLc 4:27). Ngay đến các nhà phê bình khe khắt nhất cũng nhìn
nhận rằng Ngài tin vào tính cách chân thật của sử ký, và chúng ta cũng có
thể tin như vậy, không chút phân vân.
Tuy nhiên, các sách này trên hết được Tân Ước xem là sự mạc khải chớ
không phải là sử ký, và Cơ Đốc nhân có bổn phận phải nghiên cứu. Chúng
được trích dẫn nhằm làm bộc lộ cá tính của Đức Chúa Trời trong những việc
làm của Ngài, như các lời hứa đầy ân điển của Ngài từ đời nọ sang đời kia,
và chương trình cứu chuộc của Ngài trong Đấng Christ, là Con Trai Đa-vít;
và cuối cùng, chúng kể lại thế nào Đức Chúa Trời đã sai phái các tiên tri, và
thế nào bức thông điệp của họ đã bị khước từ (Mat Mt 21:33-46)dẫn đến
việc Ngài phải sai chính Con Ngài đến.
SÁCH GIÔ-SUÊ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Trong phần hai của Kinh Thánh Hy-bá-lai, là các Tiền Tiên Tri (The Former
Prophets) thì sách Giô-suê là mắc xích nối liền phần 'luật pháp'(tức là Kinh
Torah hay phần giáo huấn) với việc vận dụng nó vào thực tiễn trong phần sử
ký về sau. Tính cách liên tục về bút pháp và chủ đích của nó với các quyển
sách đi trước từng khiến nhiều nhà phê bình gần đây xếp nó chung với các
quyển sách ấy như là quyển cuối cùng trong bộ Lục Kinh (xem Gios Gs 1:8;
24:26), nhưng việc nó đề cập 'Quyển Sách Luật Pháp' trong 8:31 và 23:6 rõ
ràng đã đề cập một thẩm quyền Kinh Thánh riêng và độc lập.
Không có một điều nào trong các sách lịch sử - bắt đầu là sách Giô-suê - gợi
ý rằng chúng không cùng một trình độ linh cảm như các sách khác, giống
như các sách Phúc Âm và Công Vụ Các Sứ Đồ chẳng thua kém chút nào về
phương diện linh cảm so với các Thư Tín. Việc chúng được mô tả là Các
Sách Tiên Tri Trước không phải chỉ do bản tính của phần dạy dỗ và nội
dung của chúng, mà còn do sự kiện chúng được chính các nhà tiên tri và tiên
kiến ký thuật (so sánh ISu1Sb 29:29), có một số vốn sống đồng thời với các
biến cố được ghi lại, một số khác thì sử dụng các nguồn tài liệu đương thời.
Họ làm chứng cho các hành động quyền năng của Đức Chúa Trời hằng
sống, trình bày việc dân sự vốn rất quen biết với các chủ đích của Ngài và
cách thức Ngài đã đối xử với họ, cả đối với các cá nhân lẫn với toàn dân.
Trong các thành phần khác nhau của Kinh Thánh, chúng đã được đề cập và
trích dẫn như chính sử, và là một thành phần thiết yếu trong Kinh Thánh, có
thể khiến chúng ta trở nên khôn ngoan để được cứu rỗi.
Uy quyền của sách Giô-suê để được liệt vào Kinh Điển Cựu Ước, đã không
hề bị dị nghị. Có nhiều chỗ trong các sách về sau đã đề cập nội dung sách
này (ISu1Sb 2:7; 12:15; Thi Tv 44, 48, 114; EsIs 28:21; HaKb 3:11-13).
Procopius, một tác giả có uy tín và đáng tin cậy của thế kỷ thứ sáu kể lại
rằng có một bia đá tại Tingis, xứ Mauretania ghi rằng: 'Chúng tôi là những
kẻ (tị nạn) đã chạy trốn để khỏi phải thấy mặt Giô-suê, là tên cướp, con trai
của Nun'.
Tên Giô-suê gợi cho người ta nghĩ đến một vị anh hùng hơn là một người
viết sách, tuy truyền thống Do Thái chủ trương rằng chính ông la trước giả
sách ấy. Danh từ 'trước giả' ở đây không có nghĩa chính ông là người cầm
bút viết lại câu chuyện, nhưng có nghĩa đây là một sách ghi lại các biến cố
có tầm quan trọng và có ý nghĩa nổi bật, đến nỗi không thể nào loại bỏ được
sự kiện là chính Giô-suê là người đã đốc thúc để mọi sự phải được ghi lại, vì
chắc chắn việc viết sách này đã có thể thực hiện được vào thời của ông
(Gios Gs 8:32; 24:26). Thành ngữ 'cho đến ngày nay', đã xuất hiện trong
sách khoảng mười bốn lần. Ba chỗ (22:3, và 23:8,9)ở vào sinh thời của Giô-
suê. Các chi tiết thường đưa ra rất tỉ mỉ, rõ ràng do chính một người đồng
thời viết (Thí dụ 15:6; 18:17). Khi đối chiếu 15:63 với IISa 2Sm 5:7-9 và
16:10 với IVua 1V 9:16, và khi ghi nhận việc không có câu nào ám chỉ việc
vương quốc bị chia đôi, ta có thể suy luận rằng sách này vốn đã được hoàn
tất trước thời của Rô-bô-am.
Ít có các phần nào trong Kinh thánh lại kết chặt với nhau cho bằng mười hai
chương đầu của sách này. Những nét tương phản bề mặt giữa một số câu
trong phần này với phần còn lại trong sách đều tan biến hết khi văn bản
được khảo xét cẩn thận, và khi người ta hết sức chú ý đến chúng, chẳng hạn
như câu trong Gios Gs 11:18 'Giô-suê đánh giặc cùng các vua này lâu ngày'.
Trong một cuộc chiến tranh 'vận động chiến' như thế, phần hình ảnh luôn
luôn thay đổi; nhiều yếu tố và vấn đề mới luôn luôn xuất hiện trong một thời
gian đồng thời với việc thay đổi các chiến trường, từ khi quân đội Y-sơ-ra-
ên hãy còn thống nhất, cho đến khi các chi phái đã được định cư xong xuôi.
Chẳng hạn đã không hề có mâu thuẫn giữa 12:10 với 15:63 nếu chúng ta nhớ
rằng 'Giê-ru-sa-lem' trong câu trước nói về thành phố, còn trong câu sau thì
đề cập khu vực hành chánh (cũng xem 15:8). Giữa 11:23 và 19:51 lại còn
một thời gian cách biệt.
Sau khi thừa nhận niên đại của Xuất Ê-díp-tô Ký là 1.440 TC Keil gợi ý
rằng, sách này đã được 'một trưởng lão đồng thời với Giô-suê còn sống sót'
đúc kết. Ý kiến này khá hấp dẫn, và ngoài ra, còn cho sách Giô-suê một niên
đại phù hợp với việc xuất hiện nhiều lần câu 'cho đến ngày nay'. Như thế còn
có lý hơn là bảo rằng đây là truyền khẩu qua nhiều thế kỷ của tất cả chi tiết
đã họp thành nội dung của quyển sách. Các ghi chú trong những bảng đất
nung Tel el Amarna về việc các con cái Y-sơ-ra-ên - mà các bảng ấy gọi là
Ha-bi-ru - xâm chiếm xứ Palestine không thể nào so sánh được với giá trị sử
ký của phần ký thuật trong sách Giô-suê. Tuy không thể nào có được việc tất
cả các chi tiết đều ăn khớp với nhau như đã có đầy đủ lý do để tin rằng các
bức thư ấy là lời lẽ của kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên, nên thật ra, chúng đã trình
bày mặt trái của bức tranh, còn sách Giô-suê mới là mặt phải. Việc cầu viện
cấp bách với Pha-ra-ôn, tình trạng bất ổn định trong xứ và số các thành phố
được nêu tên, tất cả đều phù hợp với phần ký thuật của Kinh Thánh. Tôn
giáo của dân Ca-na-an như được phản ánh trong các bảng (đá và đất nung)
của các di chỉ Ras Shamra và Amarna hầu như đồng thời với cuộc chinh
phục, và như các đền đài khác trong cùng một thời kỳ ấy đã vẽ ra, cũng cho
thấy nhu cầu phải có những lời cảnh cáo chống lại việc thờ hình tượng vốn
rất thường gặp và vẫn được nhấn mạnh trong các tác phẩm của Môi-se và
Giô-suê.
Làm quen với bản đồ là điều thiết yếu để có thể hiểu rõ tình hình vào giai
đoạn ấy. Từ Bắc xuống Nam là vùng cao nguyên trung du trải dài, các miền
núi chính gồm có Si-chem, Si-lô, Bê-tên, Giê-ru-sa-lem, và Hếp-rôn; và giữa
đó với Địa Trung Hải, là các vùng chân núi (Sê-phê-la) và đồng bằng duyên
hải. Dọc theo bờ biển, là quan lộ Ai Cập chạy lên phía Bắc đến Mê-ghi-đô
rồi Hát-so và miền Đông. 'Các vùng chân núi (Sê-phê-la)...tạo thành một tấm
bình phong cũng như một chiến lũy, khiến khi các đạo quân của Pha-ra-ôn
kéo qua thì không thể trông thấy, các sứ giả của các vua ấy có đi qua lại
cũng không bị chú ý' (Garstang). Suốt bốn mươi năm lưu lạc sự kiểm soát
của Ai Cập đối với dân Y-sơ-ra-ên vốn có phần nào được nới lỏng, nhưng
nhiều đội quân trú phòng nho nhỏ vẫn đột kích vào con đường và nội địa.
Nhằm đứng vững tại các vị trí then chốt đó, việc chứng kiến nhiều hiện
tượng lạ lùng xảy ra, chắc chắn đã khiến Giô-suê thấy trong đó quả đúng là
có bàn tay của Đức Chúa Trời.
PHÂN TÍCH
Gios Gs 1:1-5:15.
Chuẩn bị cuộc chinh phục. Vượt sông Giô-đanh.
Gios Gs 6:1-8:35.
Chiếm Giê-ri-cô và A-hi. Tội của A-can.
Gios Gs 9:1-12:23.
Các cuộc chinh phục tiếp theo. Thỏa hiệp với dân Ga-ba-ôn.
Gios Gs 13:1-19:51.
Phân chia xứ cho các chi phái.
Gios Gs 20:1-22:34.
Các thành ẩn náu. Các thành cho người Lê-vi. Hai chi phái rưỡi trở về.
Gios Gs 23:1-24:33.
Lời khuyên bảo của Giô-suê. Ông qua đời.
NỘI DUNG
Sách Giô-suê tiếp theo phần lịch sử sau sách Phục Truyền, gần giống như
sách Công Vụ Các Sứ Đồ tiếp nối các sách Phúc Âm vậy. Phần ký thuật
chứng minh thế nào sự vâng lời và trung thành sẽ được thành công, y như
sách Các Quan Xét vạch rõ sự bội đạo chắc sẽ đưa đến thất bại như thế nào.
Muốn hiểu rõ và lãnh hội thật đúng, phải tiếp cận sách này bằng tinh thần và
đức tin của vị tổng tư lịnh vốn là nhân vật chính của sách này. Điều này đã
được minh họa rất hay trong biến cố các thám tử (Dan Ds 13:1-33; 14:6-10;
PhuDnl 1:38), việc tất cả - kể luôn chính Giô-suê nữa - đều phải đối diện với
cùng một chứng cứ hiển nhiên về tính cách bất khả chiếm lĩnh và sự khó
khăn, nhưng không phải mọi người đều có cùng một đức tin vào số phận của
dân Y-sơ-ra-ên. Đức tin của Giô-suê và Ca-lép là xứ ấy thật tốt lành, và
chẳng có lý do gì để sợ hãi một khi Đức Chúa Trời đang ở với họ, điều mà
Môi-se đã truyền dặn dân sự trong một bài tín điều ở PhuDnl 4:34 và tt; 6:4
và tt; 11:18 và tt, là lý do cho cả cuộc tiến lên của toàn dân. Như thế, phần
ký thuật đòi hỏi độc giả là Cơ Đốc nhân phải có một đức tin và một cái nhìn
xuyên suốt như đức tin mà các lãnh tụ của dân Y-sơ-ra-ên đã được Đức
Chúa Trời hà hơi cho, và đưa họ vào Đất Hứa.
Độc giả hiện đại không thể tách khỏi những khó hiểu khi đọc sách này. Lịnh
truyền của Giô-suê cho mặt trời dừng lại (Gios Gs 10:12, cước chú: yên
lặng) trên Ga-ba-ôn là tảng đá vấp chân cho nhiều người, nhưng phần ký
thuật có đầy đủ dấu hiệu cho thấy sự việc quả đã thật sự xảy ra như vậy lúc
ấy và là một cái gì vượt xa óc tưởng tượng trong thi ca. Cũng như với việc
'cả xứ đều trở nên tối tăm' lúc Chúa Giê-xu bị đóng đinh, ta không thể tách
rời phép lạ ấy với tầm quan trọng của cơ hội lúc nó xảy ra. E.W.Mauder đã
đưa ra quan điểm của ông về đặc tính thiên văn học của biến cố ấy (xem
Trans. Victoria Inst., Vol. LIII (1.921). Cũng xem Garstang Joshua and
Judges tr. 179).
Một khó khăn khác là trong lịnh truyền phải tận diệt dân Ca-na-an như tại A-
hi (Gios Gs 8:2 so sánh 6:21). Dầu vậy không một tín hữu biết suy nghĩ nào
khi khảo sát lịch sử lại không thấy rằng quả thật Đức Chúa Trời vẫn đoán
xét các dân tộc cũng như từng cá nhân, chẳng những riêng đối với A-sy-ri và
Ba-by-lôn như các nhà tiên tri đã báo trước, mà cả đến các dân tộc của thế
giới ngày nay nữa. Chính Đức Chúa Giê-xu Christ đầy tình yêu thương
không ai phủ nhận được cũng đã dạy rất rõ ràng về điều đó (LuLc 17:26-30),
và tội lỗi của dân Ca-na-an vốn không phải là dân đáng ghét bằng tội lỗi của
các thành phố vùng đồng bằng (Sô-đôm và Gô-mô-rơ). Cũng chính mình
Ngài đã tiết lộ cho tôi tớ Ngài là Giăng, vị sứ đồ của tình yêu thương, rằng
Ngài 'sẽ lấy lẽ công bình mà xét đoán và chiến đấu' (KhKh 19:11-16). Khi
được nghiên cứu dưới ánh sáng của Tân Ước,'chính những khúc sách khó
hiểu có thể dạy chúng ta nhiều bài học về sự khiêm nhu do cái nhìn quá
thiển cận của chúng ta, do các ý niệm quá thiếu sót của chúng ta về sự thánh
khiết và lòng căm ghét tội lỗi của Đức Chúa Trời, và về lòng thương xót vô
hạn của Ngài trong Đấng Christ, khi Ngài cứu chúng ta khỏi điều tai họa nào
mà theo lẽ công bình thì chúng ta rất xứng đáng phải nhận chịu'
(H.E.Guillebaud).
Nói chung có thể cho rằng sách đã ghi lại những hoạt động qua đó Giô-suê
thấy rõ có sự vùa giúp của Đức Chúa Trời; các sự kiện về một diễn tiến
hướng đến một mục tiêu tối hậu và cuối cùng là các kết quả có ý nghĩa
trường cửu. Thoạt tiên, tổng hành dinh của Giô-suê được đặt tại Ghinh-ganh
(Gios Gs 4:19), sau đó, được dời đến Si-lô (18:9)rồi Si-chem (24:1). Hòm
thánh, biểu tượng của sự hiện diện Đức Chúa Trời, được đời đi từ trạm này
đến trạm khác, để sau cùng, đến thời Các Quan Xét, thì được tìm thấy tại Si-
lô (ISa1Sm 1:1-28)
Sách dạy về tầm quan trọng của việc tuân thủ luật pháp Đức Chúa Trời và
những đạo đức của nó đối với những ai muốn trở thành công cụ cho Đức
Chúa Trời; và hơn nữa là về sự cần thiết của sự tận hiến của bản ngã (Gios
Gs 14:9)cũng nhằm cứu cánh đó. Đặc biệt là trong phần đầu, sách chứa đầy
những điều dạy dỗ thuộc linh có giá trị hơn hết. Câu chuyện của Ra-háp và
các thám tử, việc vượt sông Giô-đanh, và các biến cố đầy phấn khởi khác,
tất cả đều có ý nghĩa vượt xa các sự kiện lịch sử, cho chúng ta nhận biết các
điều kiện mà do đó, Đức Chúa Trời sẽ ban cho hoặc rút lại các phước hạnh
thuộc linh quan trọng nhất.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Liệt kê các lời hứa của Đức Chúa Trời với Giô-suê và chú ý đến các điều
kiện của những lời hứa đó. Nghiên cứu Đất Hứa như hình bóng chỉ về một
đời sống đầy đẫy Đức Thánh Linh.
2. Theo bạn, ý nghĩa thuộc linh của việc vượt sông Giô-đanh là gì? Cần ghi
nhận đó là điều kiện cần thiết trước khi Đức Chúa Trời có thể làm những
việc lạ lùng trong chúng ta. Nó có liên hệ gì với hai mục đích chính của
phép lạ, được nói đến trong Gios Gs 3:10 và 4:23,24
3. Khảo xét các nguy cơ của sự thỏa hiệp như được minh họa trong chuyện
dân Ga-ba-ôn. Chú ý đến lòng trung tín của Giô-suê và đối chiếu với Thi Tv
15:1-5.
4. Khảo xét Giô-suê như hình bóng về Đấng Christ (HeDt 4:8). Suy gẫm ý
nghĩa tên ông, việc ông lãnh đạo dân Chúa để đưa họ vào Đất Hứa, việc ông
kế vị Môi-se (như Phúc Âm kế tục luật pháp, theo Cong Cv 13:39).
5. Những tảng đá làm chứng, cơ nghiệp được hứa ban, phép cắt bì, các thành
ẩn náu gợi ý về những điểm tương tự nào trong Tân Ước?
SÁCH CÁC QUAN XÉT
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Truyền thống của các ra-bi khẳng định rằng 'Sa-mu-ên đã viết sách Các
Quan Xét và Ru-tơ'. Dù các giáo phụ Cơ Đốc giáo nguyên thủy chấp nhận
như thế, ý kiến đó cũng chưa đủ. Tuy nhiên, đối với bất cứ ai chịu khó sưu
tập các phần ký thuật manh mún đó lại với nhau đều thấy tất cả các chứng
cứ hiển nhiên bênh vực quan điểm cho rằng chúng được viết vào thời Sa-
mu-ên. Sự kiện khả dĩ chúng đã được viết ra từ một thời rất xa xưa đã được
chứng minh, không những do chứng cứ về cách viết mẫu tự theo lối cổ mà
còn bằng các bảng (đá và đất nung) của di chỉ Tel el Amarna. Hơn nữa, ngay
trong văn bản, tình cờ lại có ghi sự kiện 'một đứa trai trẻ ở Su-cốt...viết' (Cac
Tl 8:14)khai tên các quan trưởng và trưởng lão. Phần ký thuật về một giai
đoạn lâu hàng mấy trăm năm đến nỗi nếu nói rằng nó được bảo tồn đưa vào
truyền khẩu, là đã giả thiết rằng phải có một phép lạ cho trí nhớ!
Các công cuộc sưu tầm khảo cổ học chứng minh cho tính cách chính xác của
các chi tiết về địa dư và các điều kiện để chúng có thể được thu thập lúc đó,
nhất là liên hệ đến các chướng ngại vật tự nhiên mà người ta phải gặp, và
những đoạn đường dài phải vượt qua. Mê-ghi-đô nằm trên đường chuyển
quân của kinh đô A-sy-ri và Ai Cập khi chúng kéo qua rặng núi Cạt-mên,
được đề cập trong các bảng (đá và đất nung) của cả hai đế quốc ấy, trong đó
cũng có thấy ghi Tha-a-nác nữa (Cac Tl 1:27; 5:19). Những công cuộc khai
quật tại Hếp-rôn, Si-chem và Bết-san cũng chứng minh tính cách chính xác
của bản văn Kinh Thánh cả đến các chi tiết rất nhỏ nhặt. Rất nhiều di tích
các công cụ bằng sắt thuộc giai đoạn đó được tìm thấy tại Mê-ghi-đô, Tha-a-
nác và nhiều nơi khác (xem 1:19; 4:3 so sánh Gios Gs 8:31; ISa1Sm 13:20),
khiến chủ trương cho rằng sắt xuất hiện lần đầu tiên vào một thời kỳ trễ hơn
về sau đã không thể đứng vững được.
Một dấu chỉ khác cho một niên đại rất sớm là 'trong sách thường có những
đoạn cho thấy dân Y-sơ-ra-ên lìa bỏ Đức Giê-hô-va để chạy theo Ba-anh và
Át-tạt-tê (Cac Tl 2:13), hoặc họ cưới vợ gả chồng và sống chung lộn với
người Ca-na-an và thờ lạy các thần của vợ hoặc của các con rể họ (3:6),
hoàn toàn phù hợp với các kết luận của các công trình nghiên cứu về tên
riêng' (Hommel, Ancient Hebrew Tradition, tr. 384). Năm chương cuối có
vẻ như tách rời với phần ký thuật chính yếu, kể lại câu chuyện lạ lùng về
một tôn giáo lệch lạc của Mi-ca, một người cháu nội của Môi-se (Cac Tl
18:30), và câu chuyện về cách cư xử đáng ghê tởm và vô nhân đạo của dân
Ghi-bê-a, vào thời Phi-nê-a còn sống. Chính sự tách rời đó làm chứng cho sự
kiện các nhà viết sách thánh đã cảm thấy rằng nội dung của chúng đề cập
những hành động hết sức bất thường và ra ngoài luật lệ. Josephus đã chuyển
các chương này lên đặt trước chương 1 vì cho rằng các biến cố ấy thuộc về
thời kỳ đầu của giai đoạn ấy (Antiquities 5; 2.8-12). Đặc tính thô sơ và chân
chất là bằng chứng chúng là thật, cũng như không thể có một tác giả nào
thuộc các thời kỳ về sau lại có thể bày đặt một câu chuyện như vậy về thành
phố quê hương của Sau-lơ.
Câu được nhắc đi nhắc lại 'đương lúc đó chẳng có vua nơi Y-sơ-ra-ên' (Cac
Tl 18:1; 21:25)chỉ vẻ một niên đại không sớm hơn thời của Sau-lơ trong khi
trong 1:21 (so sánh Gios Gs 15:63 và Cac Tl 19:11 'Giê-bu') hàm ý rằng việc
này xảy ra trước các biến cố đã được ký thuật lại trong IISa 2Sm 5:4.
Lời lẽ trong Cac Tl 18:30,31 (so sánh Thi Tv 78:60,61)gợi ý rằng có lẽ
quyển sách đã được đúc kết vào thời nơi thánh tại Si-lô không còn nữa, có lẽ
do hậu quả một chiến dịch của Phi-li-tin (cũng xem Gie Gr 7:14; 26:6). Con
số những câu đề cập Ép-ra-im và các câu chuyện được kể hết sức tỉ mỉ liên
hệ đến chi phái ấy, phù hợp với một lời phỏng đoán rằng việc đúc kết quyển
sách được dựa vào số tài liệu đã được lưu trữ trong nơi thánh tại đó.
Trong sách này, được biết bắt đầu xuất hiện người Na-xi-rê, mà A-mốt, khi
nhìn lại thời kỳ này đã xếp loại họ với các tiên tri được Đức Chúa Trời dấy
lên (Cac Tl 2:11). Việc Cac Tl 13:5-7; 16:17)đề cập đến nhóm người này tạo
thành chiếc mắc xích nối liền - và giải thích - mấy câu trong Dân Số Ký và
A-mốt chương 2, mà nếu không có, chúng sẽ bị lẻ loi không dính nhập vào
đâu cả. Cũng như nhóm người Rê-cáp của những thời kỳ về sau (IIVua 2V
10:36;)họ tiêu biểu cho thành phần nòng cốt những người trung tín đã duy trì
sự sống cho các lý tưởng thuộc linh của tôn giáo được lồng trong luật pháp
Môi-se. Người ta thề nguyện với Đức Giê-hô-va tại nhiều nơi, và điều quan
trọng cần chú ý là đã không hề có sự giới hạn về gia tộc hay chi phái: Giép-
thê là người Ga-la-át, Sam-sôn người thuộc chi phái Đan, còn Sa-mu-ên là
một người Lê-vi ở Ép-ra-im. Tinh thần của sự biệt riêng ra cho Đức Chúa
Trời (nazar, phân rẽ) là đặc điểm của số người sẽ trở thành các lãnh tụ được
linh cảm và là cứu tinh của dân tộc. Thần của Đức Giê-hô-va đã đáp đậu trên
họ (Cac Tl 3:10), Ngài 'nhập vào' Ghê-đê-ôn (nguyên văn 'Ngài mặc lấy
Ghê-đê-ôn như một chiếc áo', bản Kinh Thánh của chúng ta dịch là 'Ngài
cảm hóa Ghê-đê-ôn'(6:34), và 'cảm động (đến trên) Sam-sôn rất
mạnh'(14:6). Trước giả là nhà tiên tri của sách này đã không hề rời mắt khỏi
Đức Chúa Trời.
PHÂN TÍCH
Cac Tl 1-3:6.
Vào đề. Hành trình riêng rẽ của các chi tộc. Dân Y-sơ-ra-ên không chế phục
được các kẻ thù xung quanh.
Cac Tl 3:7-31.
Ốt-ni-ên và Ê-hút giải cứu dân sự khỏi các kẻ thù ở phía Đông
Cac Tl 4:1- 5:31.
Đê-bô-ra và Ba-rác giải cứu dân sự khỏi liên minh các bộ lạc phương Bắc.
Bài ca của Đê-bô-ra.
Cac Tl 6:1-8:35.
Chuyện Ghê-đê-ôn, người giải cứu dân sự khỏi tay dân Ma-đi-an, nhưng lại
sa vào tội thờ hình tượng.
Cac Tl 9:1-10:18.
Chuyện A-bi-mê-léc, Thô-la và Giai-rơ.
Cac Tl 11:1-40.
Giép-thê giải cứu dân sự khỏi tay dân Am-môn. Lời thề của ông.
Cac Tl 12:1-15.
Lời than phiền của người Ép-ra-im và trắc nghiệm Si-bô-lết. I-ếp-san, Ê-lôn
và Áp-đôn làm Quan Xét.
Cac Tl 13:1-16:31.
Mười hai chiến công của Sam-sôn trên dân Phi-li-tin.
Cac Tl 17:1-18:31.
Câu chuyện của Mi-ca và việc lập đền thờ tại Đan.
Cac Tl 19:1-21:25.
Sự gian ác của dân thành Ghi-bê-a. Chúng bị trừng phạt.
NỘI DUNG
Nhan đề sách này trong bộ Kinh Thánh Hy-bá-lai (Shophetim, so sánh
Mishpat 'đoán xét') là một chữ có ý nghĩa đặc biệt. 'Các Quan Xét' là chữ
tương đương gần nhất. Nó gồm nhiều nghĩa như 'nhà giải phóng', 'nhà cai trị'
(vua, quan trưởng: ruler), hay 'quan án, quan tòa', được dùng để chỉ một
người dấy lên đưa sinh hoạt của dân sự vào đường lối của luật pháp Đức
Chúa Trời (XuXh 18:16; Cac Tl 2:18; 3:9). Chỉ theo nghĩa đó, chúng ta mới
hiểu được 'Quan Xét' có được địa vị xứng đáng trong lịch sử lâu dài của dân
sự Đức Chúa Trời. Như thế, họ đã 'được cứu để phục vụ' Ngài, một niềm tin
chúng ta thấy tự hiển lộ trong Tân Ước (LuLc 1:74; HeDt 11:32-34).
Nói chung thời gian dành cho mỗi quan xét tỉ lệ thuận với ảnh hưởng mà đời
sống và việc làm của vị ấy đã tạo được đối với dân tộc. Phần chi tiết quan
trọng hơn của các kỳ công của Sam-sôn có lẽ do chúng có liên hệ gần gũi
hơn với thời của trước giả. Diễn tiến cuộc chinh phạt chớp nhoáng của Giô-
suê được phản ánh trong hai chương Cac Tl 1:1-2:23, còn đặc tính của giai
đoạn tiếp theo đó được chép trong các chương từ 2:6 đến 3:6. Đức Giê-hô-
va đã nêu ra hai lý do (2:20-23)cho kinh nghiệm mà dân Y-sơ-ra-ên phải trải
qua. Lý do đạo đức, nhằm trừng phạt tội không vâng lời; lý do thuộc linh là
để thử nghiệm lòng trung thành của họ. Trước giả còn thêm một lý do thứ ba
nữa về phương diện chính trị, ấy là các thế hệ phải được dạy dỗ trong chiến
đấu để giành lấy một chỗ đứng giữa các dân tộc khác (3:1-4).
Phần trung tâm sách Cac Tl 3-16)chép về nhiều 'quan xét' khác nhau, và trải
suốt một thời gian khoảng ba thế kỷ, từ thời của Ốt-ni-ên cho đến thời Hê-li.
Ba trăm năm của Cac Tl 11:26 có lẽ là từ 1.400-1.100 TC. Đây là một giai
đoạn suy thoái đối với các lý tưởng cao cả và các nguyên tắc đạo đức vĩ đại
Môi-se và Giô-suê đã thiết định. Những dấu hiệu của tình trạng vô chính
phủ, bạo động, hỗn loạn, đạo đức suy đồi và sự chia rẽ giữa các chi tộc đã tái
hiện. Ý thức quốc gia bị mất và chỉ được phục hồi nhờ một số đại lãnh tụ.
Họ chế phục được kẻ thù và phấn hưng đạo đức trong một thế hệ nhưng
thường lại mất vì sự suy thoái của thế hệ tiếp nối. Đây là câu chuyện dài của
các chu kỳ được lặp đi lặp lại: quật khởi, hồi tỉnh, ăn năn thống hối, phục
hưng và yên nghỉ.
Tuy vậy ý thức về sự thống nhất quốc gia và tiếng gọi 'bước đi theo đường
lối của Đức Giê-hô-va' đã chẳng bao giờ bị mất hoàn toàn, như bài ca của
Đê-bô-ra đã chứng minh. Bà là một người 'mẹ' của dân Y-sơ-ra-ên, còn họ là
'dân sự của Chúa' (Cac Tl 5:7-11). Ý nghĩa thực sự của bài ca ấy vốn thường
bị bỏ qua, xem nhẹ, ngay cả ngày nay. Chẳng những nó đánh đổ thuyết cho
rằng các chi phái Y-sơ-ra-ên đã vào xứ Ca-na-an vào nhiều thời kỳ khác
nhau, từ nhiều hướng và do nhiều nguồn xuất phát khác nhau, mà còn chứng
minh rằng toàn dân đã biết thờ phượng Đức Giê-hô-va với tư cách một toàn
thể thống nhất rất lâu trước khi họ được vào Đất Hứa do việc sách này khẳng
định rằng cả đến các chi tộc ở cách nhau rất xa vẫn được tập hợp với nhau
khi nghe tiếng hiệu triệu của Đức Chúa Trời. Mối liên hệ với Ai Cập đã
được thảo luận trong chương VII sách này. Việc các đạo quân Ai Cập kéo
qua con đường hành lang duyên hải từ Ách-ca-lôn đến núi Cạt-mên là những
'mũi gai' đâm vào hông dân Y-sơ-ra-ên, vì họ đã không chế phục được dân
A-mô-rít (2:3; 6:9; 10:11,12). Bia đá Merneptah (khoảng 1.220 TC) tại Viện
Bảo Tàng Anh Quốc ghi rằng :
'Đất Hê-tít được hòa bình - vùng bị cướp phá là Ca-na-an - bằng đủ thứ tai
họa - Ách-ca-lôn bị bắt đi - Ghê-xe bị chiếm - Giê-nô-am bị khiến như
không còn nữa - Y-sơ-ra-ên bị phá hoang - dòng giống nó không còn...'
Việc đặt chồng tên Y-sơ-ra-ên lên tên Giê-nô-am là vùng mà Đê-bô-ra từng
chiến thắng ngay ít lâu sau đó (1.200 TC) là điều khá lý thú.
Các câu chuyện được kể lại trong sách này có đề cập một tình trạng man rợ
mô tả rất sống động một thời kỳ man dã, khiến chúng ta phải đặt vấn đề vai
trò của các câu chuyện kể lại ấy là gì trong lịch sử cứu chuộc. Ngoài vai trò
của các quan xét trong sự phát triển của dân Y-sơ-ra-ên của lịch sử và chức
năng của lời thành văn trong việc thực hiện các chương trình của Đức Chúa
Trời (xem Thi Tv 102:18), câu trả lời có lẽ là nhằm phơi bày tính cách trống
rỗng vô nghĩa của lịch sử, để qua đó, chúng ta thấy rằng Đức Giê-hô-va
đang hành động. Các giai đoạn 'yên nghỉ' khá dài đã trôi qua trong sự im
lặng tương đối trừ khi Đức Chúa Trời can thiệp để trừng phạt tội lỗi hoặc
dấy lên các cứu tinh đáp lại tiếng kêu cứu của dân sự Ngài. Các hành động
của Đức Chúa Trời cho thấy Ngài vốn là Đức Chúa Trời thương xót, khoan
dung, nhưng cũng là Đức Chúa Trời của sự phán xét 'ban ơn đến ngàn đời,
xá đều ác, tội trọng và tội lỗi; nhưng chẳng kể kẻ có tội là vô tội' (XuXh
34:7). Cơn thạnh nộ của Ngài giáng trên các con cái không vâng phục (Eph
Ep 5:6, xem Cac Tl 2:14,20; 3:8; 10:7), nhưng khi lâm hoạn nạn, dân Chúa
kêu cầu thì Ngài dức dấy những nhà giải phóng, các nhà tiền phong và Cứu
Chúa tiêu biểu (làm hình bóng) để lật đổ các kẻ thù của họ và ban sự yên
nghỉ cho dân Ngài.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Khảo xét sự dạy dỗ của sách Các Quan Xét về thần hựu của Đức Chúa
Trời, nhất là qua các công cụ lạ lùng Ngài sử dụng để thực hiện các chủ đích
thánh khiết.
2. Chú ý các lý do của thất bại. Các cơ nguy tương ứng trong sinh hoạt thuộc
linh là gì (Cac Tl 2:11-19 so sánh Mat Mt 9:29)?
3. Việc bớt số quân trong đạo quân của Ghê-đê-ôn có ý nghĩa thuộc linh thế
nào? (xem PhuDnl 20:8; ISa1Sm 14:6; Mac Mc 6:7; ICo1Cr 1:26).
4. Nghiên cứu những lần xuất hiện của thiên sứ trong sách Giô-suê và Các
Quan Xét và mối liên hệ của vị thiên sứ ấy với sự nhập thể (so sánh XuXh
34:5).
5. Chú ý việc chọn lọc các thí dụ về 'đức tin' trong HeDt 11:32-34, và nghiên
cứu xem đức tin ấy đã được thể hiện như thế nào?
SÁCH RU-TƠ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Trong bộ Kinh Thánh Hy-bá-lai, sách Ru-tơ được xếp vào các sách Văn Thơ
(The Writings), là phần thứ ba của Cựu Ước. Bộ Bảy Mươi và Vulgate đã
xếp Ru-tơ tiếp sau sách Các Quan Xét là hợp lý vì rất có thể đó chính là vị
trí của sách này trong các cổ bản mà các dịch giả hai bộ Kinh Thánh ấy đã
dựa vào. Như nhiều cước chú vạch rõ, sách này có nhiều điểm tương đắc
(affinities) với sách kia, mặc dầu có nhiều tương phản về chủ đề. Origen bảo
rằng người Hê-bơ-rơ (nghĩa là người Hê-bơ-rơ chịu ảnh hưởng văn hóa Hi-
lạp) 'nhập chung Các Quan Xét và Ru-tơ thành một quyển duy nhất'.
Đây là một kiệt tác về văn miêu tả mà lại sử dụng ít ngôn từ một cách lạ
thường: Chỉ có người rất quen biết với các phong tục tập quán của thời kỳ ấy
và sống hòa nhập với giới bình dân, mới có thể vẽ ra được một bức tranh về
sinh hoạt của dân Y-sơ-ra-ên cách sống động đến thế. Trước giả đang mô tả
một cuộc đời mình rất quen thuộc. Điều không phải không có ý nghĩa, ấy là
ba câu chuyện trong Cac Tl 17:1-13 và tiếp theo), và Ru-tơ đều kể lại các
biến cố đã lần lượt xảy ra tại miền cực Bắc (chi phái Đan) trung tâm (Si-lô)
và cực Nam (Bết-lê-hem) của xứ Ca-na-an giúp chúng ta biết tường tận khía
cạnh sinh hoạt ở nông thôn, và các phong tục tập quán vào những ngày xa
xưa ấy. Mối liên hệ rõ rệt của sách Ru-tơ với sách Quan Xét là do nhiều câu
sau đây, tất cả đều càng mạnh mẽ hơn nhờ ở hàm ý; chớ không ở chỗ có liên
quan trực tiếp: Ru R 1:1 (Cac Tl 2:16 và 17:7); Ru R 1:8 (Cac Tl 1:24); Ru
R 1:13 (Cac Tl 2:15); Ru R 1:15 (Cac Tl 11:24); Ru R 2:20 (Cac Tl 17:2);
Ru R 3:1 (Cac Tl 14:2 và tt); Ru R 3:7 (Cac Tl 16:19; 19:6); Ru R 3:13 (Cac
Tl 8:19). Cần ghi nhận là trong Cac Tl 3:1 cuộc hôn nhân là do cha mẹ xếp
(Cac Tl 14:2 và tt).
Truyền thống gán tác quyền cho Sa-mu-ên, và nói chung, các chứng cứ hậu
thuẫn cho một niên đại rất sớm của thời kỳ quân chủ. Bảng gia phổ chỉ ghi
đến đời của Đa-vít, và cách mô tả tỉ mỉ các biến cố xảy ra thì chống lại một
quan điểm chủ trương cho một thời gian trước tác muộn hơn. Mặt khác, việc
mô tả hành động 'cổi giày ra' như dấu hiệu từ bỏ (Ru R 4:7 so sánh PhuDnl
25:8,9) đưa đến kết luận là Ru-tơ đã được viết vào một thời kỳ rất sớm. Nạn
đói (Cac Tl 1:1)chắc phải lan tràn rộng khắp và khiến mọi người nhớ lại rõ
ràng, rất có thể là hậu quả của cuộc xâm lăng của dân Ma-đi-an (Cac Tl 6:2-
6). Khuynh hướng sử dụng tiếng A-ram trong sách dù ít, nhưng có thể là dấu
hiệu của một thời kỳ rất sớm. Điểm đáng lưu ý quan trọng hơn đó là tính
cách thuần túy của bút pháp cổ điển, có thể nhận rõ là khác với sách Ê-xơ-tê
và Sử Ký. Về tên người thì Ru-tơ và Ọt-ba là tên Mô-áp, còn Ê-li-mê-léc thì
trong các bảng (đất nung hoặc đá) của di chỉ Tel el Amarna viết là Ilumilki.
Na-ô-mi có nghĩa là 'người dễ kết bạn'. Việc thiếu vắng những chữ 'khiên,
gươm và chiến trận', bầu không khí ngoan đạo đơn sơ thấm nhuần trong câu
chuyện, ý thức về quyền tể trị thần hựu, và khung cảnh của một góc yên tịnh
của xứ Giu-đa, đều khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện xuất phát trực tiếp từ
tấm lòng và ý thức của một người Hê-bơ-rơ về số phận mà Đức Chúa Trời
dành cho họ sẽ đạt đến sự vinh hiển về sau.
PHÂN TÍCH
Sách này dường như có thể sẵn sàng để được xem như một vở kịch, chia
thành bốn màn:
Ru R 1:1-22.
Xứ Mô-áp. Ru-tơ trìu mến và ái mộ Na-ô-mi; nàng quyết tâm xem 'Đức
Chúa Trời của mẹ là Đức Chúa Trời của tôi' về phương diện tôn giáo.
Ru R 2:1-23.
Trong cánh đồng Bết-lê-hem. Nỗi khổ của Na-ô-mi. Người bà con hào hiệp
(chữ Hy-bá-lai là goel) là Bô-ô hay giúp đỡ khách lạ.
Ru R 3:1-18.
Tại sân đạp lúa. Bô-ô tỏ ra cao thượng và đưa ra một lời hứa.
Ru R 4:1-22.
Tại cửa thành. Trước mặt các nhân chứng, người bà con gần rút lui; Bô-ô
giữ trọn lời hứa cưới Ru-tơ. Gia phổ của Đa-vít.
NỘI DUNG
Mục tiêu của trước giả là muốn chứng minh rằng sự khởi phát của Đa-vít
không do tình cờ, ngẫu nhiên, nhưng do sự sắp xếp thần hựu; do 'bàn tay của
Đức Giê-hô-va' (Ru R 1:13). Đến đây sự kiện xảy ra còn lạ lùng hơn cả điều
người ta có thể tưởng tượng nữa. Bảng gia phổ không phải là điều được
thêm vào, nhưng có tính cách căn bản, cổ xưa và khiến câu chuyện trở thành
có ý nghĩa; vẻ đẹp và sự đơn sơ của nó thừa đủ để đánh đổ thuyết cho rằng
đây là một câu chuyện nhằm mục đích tuyên truyền, viết ra để chống lại
công cuộc cải cách hôn nhân dưới thời E-xơ-ra và Nê-hê-mi. Trong sự kiện
Ru-tơ một người ngoại đạo được cá tính của Na-ô-mi cảm hóa đã thề nguyện
giữ lòng son sắt với bà gia và với Đức Chúa Trời của bà, chúng ta thấy tinh
thần truyền giáo chân chính của quyển sách được biểu hiện rõ ràng. Ru-tơ đã
suy luận rất đúng rằng sở dĩ Na-ô-mi có lòng tốt như vậy là do Đức Giê-hô-
va vốn nhân từ, thương xót (Ru R 1:8; 2:20; 3:10). Đây là sự bao dung của
giao ước mới (IICo 2Cr 3:6)gồm luôn các khách lạ (Eph Ep 2:12)vốn bị luật
pháp loại ra (PhuDnl 23:3)và ban cho họ phước hạnh của sự thông công trọn
vẹn EtEt 2:14). Trong việc cai trị thế gian bằng quyền năng thần hựu của
Đức Chúa Trời, lòng tin kính chân chính là khả năng quan trọng nhất để làm
điều thiện dầu bề ngoài của nó có vẻ yếu đuối, mỏng manh. Quả thật 'kẻ nhu
mì sẽ hưởng được đất'. Vở kịch vĩ đại nhất của mọi thời đại đã được mở màn
tại cùng một địa điểm và trong một bối cảnh tương tự với sách Ru-tơ, vốn
không phải là chuyện trùng hợp.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Đối chiếu với hoàn cảnh của Rê-bê-ca, Ra-háp và Ru-tơ đều là những
người được đưa vào dòng dõi của Đấng Mết-si-a theo lời hứa. Đối chiếu
Cong Cv 10:34,35 với HeDt 11:31.
2. Viết ra những điểm giống nhau giữa Đấng Toàn năng trong LuLc 1:46-55
với câu chuyện Ru-tơ.
3. Ghi nhận những câu đề cập 'người bà con' và 'quyền chuộc lại sản nghiệp'
của người ấy (so sánh LeLv 25:25-31,47-55; PhuDnl 25:5-10 và Giop G
19:25)để thấy trong các câu đó hình bóng của Đấng Christ, Người Bà Con
và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta.
SÁCH I VÀ II SA-MU-ÊN
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Trong nguyên văn Hy-bá-lai, hai sách Sa-mu-ên không bị tách rời; sự phân
chia bắt nguồn từ Bộ Bảy Mươi rồi được đưa sang bộ Vulgate. Ngay từ
nguyên thủy, toàn quyển được biết dưới cái tên 'sách' của Sa-mu-ên
(Talmud, Origen) nhưng điều đó không nhất thiết có nghĩa chính Sa-mu-ên
là tác giả. Cũng vậy, nhan đề 'sách Ru-tơ' hay 'sách Ê-xơ-tê' không hàm ý
rằng vị anh thư trong câu chuyện đã viết ra quyển sách mang tên mình.
Có một số Thi Thiên của Đa-vít vẽ lại các hoàn cảnh y hệt các khung cảnh
mà sách này mô tả. Chẳng hạn như Kirkpatrick viết về Thi Tv 18:1-50 (IISa
2Sm 22)là 'cho chúng ta thấy ngay một ví dụ minh họa rõ ràng nhất về đời
sống và cá tính của Đa-vít, và là chứng liệu cao thượng nhất về thi tài của
ông'.
Trong sách này có nhiều câu trích dẫn sách vở (tài liệu thành văn) của thời
kỳ ấy. Sa-mu-ên là người viết 'luật pháp của nước' (ISa1Sm 10:25), còn Giô-
sa-phát thì ghi lại những thành tích của Đa-vít (vì là quan thái sử); trong khi
Sê-ra-gia là 'thầy thông giáo' hay 'ký lục' (IISa 2Sm 8:16,17). Người chép
sách Sử Ký có trước mặt 'các sách Sử Ký' của Sa-mu-ên, Na-than và Gát
(ISu1Sb 19:29, cước chú: 'lời'). Ta không thể khẳng định rằng quyển đầu
tiên trong số sách ấy là sách Sa-mu-ên này của chúng ta, nhưng rất có thể
ông ta biết quyển sách này. Nếu chúng ta có thể tin được câu viết trong sách
IIMa-ca-bê 2:13 rằng 'Nê-hê-mi thành lập một thư viện, sưu tập các sách về
các vua, các nhà tiên tri và các sách của Đa-vít', chắc số sách này phải gồm
luôn sách Sa-mu-ên, do đó, nó phải nằm trong số sách đã được liệt vào Kinh
Thánh trước thời Ma-ca-bê.
Trong sách có một bức tranh thật cổ xưa, sống động và chi tiết bắt buộc
chúng ta phải kết luận rằng trước giả đã sống rất gần với các biến cố. Các sự
kiện địa dư đều rất tỉ mỉ, chính xác, và giáo sư Hommel từng vạch rõ rằng sự
vắng bóng các tên ghép với Ba-anh rất phù hợp với ảnh hưởng do Sa-mu-ên
tạo ra. Sự tin tưởng cổ xưa rằng Sa-mu-ên đã viết ISa-mu-ên chương
ISa1Sm ISa1:1-24:23, còn phần còn lại được Na-than và Gát đúc kết đã
được Kirkpatrick thừa nhận là đúng về cơ bản. Ông thêm: 'Vậy, nếu sách Sa-
mu-ên đã được đúc kết phần lớn căn cứ vào các sử liệu của Sa-mu-ên, Na-
than và Gát, thêm vào đó là các ký thuật khác của các trường phái tiên tri, thì
kết quả là nó đã được căn cứ trên số tài liệu có uy tín nhất có thể có được'.
Một số các nhà phê bình phân tích quyển sách thành hai nguồn tài liệu chính
từ J và E, và bảo là nó chứa đựng các quan điểm khác nhau của Sa-mu-ên
(một mặt là một nhà tiên kiến vô danh, và mặt khác, là một nhân vật lịch sử
vĩ đại) với nhiều thêm thắt. Nhiều người khác lại chia sách này ra làm nhiều
phần hơn. Họ phân biệt hai phần ký thuật khác nhau về (1) Phần giới thiệu
Đa-vít cho đến Sau-lơ (ISa1Sm 16:17; 17:55); (2) Cái chết của Sau-lơ (IISa
2Sm 1:1-27 và ISa1Sm 31:1-13); và (3) Nguồn gốc của câu châm ngôn 'Sau-
lơ cũng vào các số tiên tri ư?'(ISa1Sm 10:11; 19:24) và một số các biến cố
khác. Về phần cuối cùng này, đa số được hiểu dễ dàng hơn là nhiều biến cố
khác nhau (chẳng hạn việc Đa-vít tha mạng cho Sau-lơ trong ISa1Sm 24:3
và tt, 26:9). Phần ký thuật cuộc gặp gỡ giữa Sau-lơ với Đa-vít trong ISa1Sm
17:55 có phần khó hiểu, nhưng trận đánh nhau với Gô-li-át phải xảy ra sớm
hơn (so sánh ISa1Sm 17:15 với 16:19) và có thể đã được đưa vào đây để bổ
túc cho bức tranh. Dầu sao thì một vài sự phô trương tài năng và sự nhanh
nhẹn của tuổi trẻ chắc đã được thực hiện để khêu gợi sự ghen tị của Sau-lơ,
nên có lẽ Sau-lơ đã thấy cần phải điều tra kỹ lưỡng hơn về lai lịch của Đa-
vít. Mặt khác, rất có thể là ông ta chỉ giả bộ như không biết mà thôi. Chuyện
người A-ma-léc trong câu chuyện Sau-lơ từ trần có thể chỉ là bịa đặt, còn
câu tục ngữ thì có thể căn cứ vào một hoặc cả hai câu chuyện. Những nhận
định ấy không phải là yếu tố quan trọng để có thể chống lại sự thống nhất
của bố cục và bút pháp, vì quyển sách đã cung cấp những thí dụ hay nhất về
thể văn xuôi Hy-bá-lai vào thời vàng son của nền văn học Hy-bá-lai. Nó
cũng đánh dấu sự khác nhau ấy với các quyển sách tiếp theo đó bằng sự
vắng bóng của tất cả những câu đề cập 'luật pháp Môi-se' (so sánh IVua 1V
2:3 và những chỗ khác của hai sách Các Vua) và việc sách này sử dụng danh
hiệu 'Đức Giê-hô-va vạn quân'.
Vấn đề có hai thái độ đối với nền quân chủ là do việc gán cho nhiều tác giả
những khúc sách trong đó vương quốc được nhìn theo nhiều quan điểm khác
nhau, quan điểm của con người và quan điểm của Đức Chúa Trời. Dân sự
đòi cho kỳ được một vua theo nghĩa chính trị, như các lân bang (cũng xem
Cac Tl 8:23; GiGa 6:15). Khi theo sự chỉ dẫn của Đức Giê-hô-va, Sa-mu-ên
đã nhượng bộ trước đòi hỏi của họ, ông được Ngài chỉ Sau-lơ cho và bảo
hãy xức dầu để Sau-lơ làm vua (Tiếng Hy-bá-lai là nagid, nghĩa là lãnh tụ)
để cứu dân khỏi tay các kẻ thù (ISa1Sm 9:16). Từ ngữ này cũng được dùng
cho Đa-vít (IVua 1V 13:14) nhân một cơ hội trước đó để chỉ việc ông đã
được lập làm vua, theo nghĩa chính trị việc pha lẫn hai dòng sự việc - một
mặt là nguyện vọng của dân chúng và mặt kia là chủ đích thuộc linh của
Đức Chúa Trời - được nhân cách hóa nơi Sau-lơ và Đa-vít, đã chạy xuyên
suốt cả quyển sách.
Sách bao trùm một giai đoạn khoảng một thế kỷ, và như thế, đã được nối
liền với các biến cố của Cac Tl 13:1-14:20. Tính cách chính xác và sống
động của cả hai bộ sách Sử Ký này đưa chúng ta đến chỗ suy luận rằng các
biến cố đã được ký thuật không lâu lắm sau khi xảy ra. Chẳng hạn như Hê-li
đã được giới thiệu trong ISa1Sm 1:3 mà không có lời giải thích nào cả, như
một nhân vật mà người ta hãy còn nhớ một cách sống động. Nghiên cứu IISa
2Sm 9:1-20:25 thật kỹ, cũng bắt buộc chúng ta phải thấy rằng tác giả các
chương ấy là một người hoặc đã chứng kiến tận mắt, hoặc trực tiếp thủ đắc
nguồn tin.
Thời kỳ này là một giai đoạn chuyển tiếp, cả về phương diện chính trị lẫn
thuộc linh. Chế độ thần quyền dưới thời Môi-se và Giô-suê đã bị thay đổi
bằng những cuộc tranh chấp được ghi lại trong Các Quan Xét, và giờ đây,
con đường đã được dọn sẵn cho việc thiết lập chế độ quân chủ. Sử Ký thuộc
linh của các thế kỷ này đã được kể lại trong Thi Tv 78:65-72. Đức Chúa
Trời sắp phải chọn 'một người theo lòng Ngài' để tiêu biểu và làm tiền phong
cho Đấng Mết-si-a. Tổ chức phôi thai, cổ xưa của các nhà tiên kiến đang
nhường chỗ cho tổ chức mới và bền vững hơn, là nhà dòng của các tiên tri.
Những hồi ức của Đa-vít về cuộc đời mình với tư cách kẻ bị đặt ra ngoài
vòng pháp luật nói riêng, chắc phải do hoặc chính nhà vua hoặc một người
bạn thân của nhà vua cung cấp (ISa1Sm 24:3,7,22; 26:6). Việc này nhất thiết
xác định một niên đại vào phần tư đầu tiên của thế kỷ thứ mười TC.
PHÂN TÍCH
ISa-mu-ên.
ISa1Sm 1:1-3:1-21.
Sự ra đời, thời thơ ấu và sự kêu gọi Sa-mu-ên.
ISa1Sm 4:1-717;.
Chiến tranh với dân Phi-li-tin, hòm giao ước bị cướp và được trả về.
ISa1Sm 8:1-10:27.
Sa-mu-ên đoán xét dân Y-sơ-ra-ên. Sau-lơ được xức dầu làm vua.
ISa1Sm 11:1-14:1-52.
Vương quyền của Sau-lơ được xác nhận. Các chiến thắng trên dân Phi-li-tin.
ISa1Sm 15:1-35.
Chiến tranh với dân A-ma-léc. Sự không vâng lời của Sau-lơ.
ISa1Sm 16:1-18:30.
Đa-vít được xức dầu; ông chiến thắng Gô-li-át và biết cư xử khôn ngoan.
ISa1Sm 19:1-24:23.
Đa-vít và Giô-na-than. Đa-vít trở thành kẻ bị đặt ngoài vòng pháp luật.
ISa1Sm 25:1.
Sa-mu-ên qua đời.
ISa1Sm 25:2- 30.
Đa-vít và A-bi-ga-in. Rút lui về Gát. Sau-lơ lần lần bị lu mờ.
ISa1Sm 31:1-13.
Sau-lơ và Giô-na-than thất trận và tử trận.
IISa-mu-ên.
IISa 2Sm 1:27.
Đa-vít than khóc Sau-lơ và Giô-na-than.
IISa 2Sm 2:1-5:25. Đa-vít được tôn vương tại Hếp-rôn, và cai trị tại Giê-ru-
sa-lem trên cả dân Y-sơ-ra-ên.
IISa 2Sm 6:1-10:19.
Hòm giao ước được đưa đến Si-ôn. Các chiến thắng của Đa-vít và sự khoan
hồng nhà Sau-lơ.
IISa 2Sm 11:1-13:39.
Tội của Đa-vít và lời quở trách của Na-than. Áp-sa-lôm chạy trốn.
IISa 2Sm 14:1-18:33.
Áp-sa-lôm làm phản. Đa-vít chạy trốn. Áp-sa-lôm chết.
IISa 2Sm 19:1-21:22.
Đa-vít hồi cung và đối xử với nhiều người.
IISa 2Sm 22:1-23:38.
Các bài ca chiến thắng và chiến công.
IISa 2Sm 24:1-25.
Cuộc kiểm tra dân số và tai vạ. Bàn thờ lập tại sân đạp lúa của A-rau-na.
NỘI DUNG
Sách này chép các biến cố chính đã xảy ra trong đời sống của Sa-mu-ên,
Sau-lơ và Đa-vít, nhưng bỏ qua những điều liên quan đến chương trình của
Đức Chúa Trời. Mỗi nhân vật kể trên đều trải qua một thời gian huấn luyện
sơ khởi. Sự nghiệp của cả ba trùng lắp lên nhau. Câu chuyện được kể lại với
số chi tiết vừa đủ cho chúng ta vẽ lại diễn tiến các biến cố để dẫn đến chiến
thắng sau cùng. Trước hết là thuở thiếu thời của Sa-mu-ên (ISa1Sm 1:1-
7:17); rồi tới công tác tiên tri của ông (8:1-25:44). Mở đầu là việc xức dầu
cho Sau-lơ và các biến cố xảy ra khi ông công bố là vua (8:1-10:27). Vào
những ngày đầu đời trị vì của Sau-lơ, Đa-vít đã được âm thầm xức dầu (
16:1-23;). Rồi sau khi Sa-mu-ên và Sau-lơ qua đời thì quyển sách thứ hai kể
tiếp câu chuyện thời trị vì của Đa-vít (IISa 2Sm 2:1-21:22;).
Mở đầu, chúng ta thấy Si-lô là tiêu điểm của quốc giáo, từ đó phát ra sự giáo
huấn về luật pháp (xem Thi Tv 105:45), còn dân sự thì kéo nhau đến đó
dâng tế lễ. Đây là trụ sở chức vụ tế lễ truyền thống, của đền tạm và hòm giao
ước Đức Chúa Trời. Tại đây, người mộ đạo Ên-ca-na và An-ne đã dâng Sa-
mu-ên - nếu chưa phải để làm người Na-xi-rê thì cũng để 'biệt riêng ra' cho
Đức Chúa Trời. Sự biệt riêng ra như vậy nhằm kêu gọi dân sự nhớ lại tính
cách đơn sơ của lịnh truyền của Môi-se vào những ngày đầu tiên của dân Y-
sơ-ra-ên, với sự phân biệt rõ rệt với ngoại đạo của các lân bang.
Dưới quyền lãnh đạo của Sa-mu-ên, chúng ta thấy chức vụ tiên tri được phát
triển khi ông 'đi khắp nơi trong xứ' để xét đoán dân sự (ISa1Sm 7:16,17) và
cầm đầu 'trường học của các đấng tiên tri' (19:18-24), trong đó người của
Đức Chúa Trời luôn luôn tiếp xúc với Đức Giê-hô-va. Chính Sa-mu-ên đã
viết bộ 'luật pháp của nước' mà ông đặt 'trước mặt Đức Giê-hô-va' tại Mích-
ba (ISa1Sm 10:25, so sánh PhuDnl 17:14-20), do đó, đã dọn đường cho sự
chuyển tiếp từ chế độ thần chủ sang quân chủ.
Việc lập Đa-vít làm vua trên vương quốc được nối tiếp (IISa 2Sm 7:29)
bằng lời tiên tri báo trước một dòng dõi các nhà vua sẽ nối ngôi ông, và
Đấng mà quyền cai trị sẽ tồn tại mãi mãi, và như thế là nối liền lời hứa tộc
trưởng với Giu-đa (SaSt 49:10) với sự ứng nghiệm đã xảy ra nhằm ngày
Chúa Giáng Sinh đầu tiên (LuLc 1:69; 2:11).
Qua sách này, có rất nhiều dấu hiệu về nhiều phương diện cho thấy rằng luật
pháp Môi-se - tuy không hề được đề cập bằng cái tên ấy, và tuy nó chỉ được
tuân thủ một phần - vẫn tồn tại chớ không hề bị hoàn toàn quên lãng. Ngày
mà PhuDnl 18:18 hướng tới vẫn chưa đến, nhưng đang gần kề.
Như thế, đọc về của lễ thiêu và của lễ thù ân, chúng ta có thể tham chiếu các
luật lệ về sinh tế (ISa1Sm 2:12-17; 9:24; 15:15-22; IISa 2Sm 24:25). Chúng
ta được đọc về đền tạm về hòm giao ước với chê-ru-bin, hương và bánh trần
thiết (ISa1Sm 2:22-28; 4:4; 21:4). Có những điều đề cập đến A-rôn và người
Lê-vi (ISa1Sm 2:27; 6:25; IISa 2Sm 15:24), về việc cấm ăn huyết (ISa1Sm
12:6). Bản chất bất ngờ của những lần đề cập đó còn tăng thêm giá trị cho
chúng.
Đức Chúa Trời đã được cho biết chính là tác giả tạo ra các biến cố, nhất là
khi chúng có liên hệ với các tôi tớ Ngài, nhằm hoàn thành chủ đích của
Ngài. Cũng như trong PhuDnl 18:15 'Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ lập lên'
trong Cac Tl 2:18 'Đức Giê-hô-va dấy lên', thì trong ISa1Sm 2:35 'Ta sẽ lập
cho ta một thầy tế lễ trung tín', trong ISa1Sm 2:8, 'Ngài nhắc người nghèo
lên' (so sánh AmAm 2:11). Trong tất cả các trường hợp, động từ đều được
dùng theo hình thức là nguyên nhân làm phát sinh; cùng một từ ngữ ấy cũng
đã được chính Chúa chúng ta phán ra đầy quyền năng khi gọi con gái Giai-
ru sống lại (Mac Mc 5:41). Ba thuộc tính là công bình, thương xót và thánh
khiết đã được minh họa rõ ràng trong sách 'ơn của Đức Chúa Trời' (IISa
2Sm 9:3; 10:2; 3:8; 9:1,7, so sánh ISa1Sm 20:8); 'thánh' (ISa1Sm 2:2; 21:5);
'công bình' (IISa 2Sm 23:3).
Sa-mu-ên (và Đa-vít) đã đứng trên luật đạo đức tiêu biểu cho chân lý vĩnh
cửu để hành động, và trong lần giải quyết dứt khoát với Sau-lơ (ISa1Sm
15:1-37) ông đã diễn tả bằng những câu nói cổ điển của nguyên tắc về sự
vâng lời đối với luật đạo đức, xem đó như vượt trội hẳn việc chỉ 'dâng của lễ'
như một động tác đầu phục bề ngoài mà thôi; đó chính là nguyên tắc về sự
vâng lời của Phúc Âm. Không thể thay thế cho việc tuân thủ các luật lệ đạo
đức bằng cách thờ kính hòm giao ước mà nó tượng trưng (ISa1Sm 4:5; IISa
2Sm 6:21).
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Hãy nghiên cứu các bài cầu nguyện đã được ghi lại ở đây, và sự kiện
chúng được nhậm.
2. Xét xem chức vụ của Đấng Christ với tư cách Nhà Tiên Tri, Thầy Tế Lễ
và Nhà Vua đã được nói bóng và minh họa trong các sách này như thế nào.
3. Đa-vít là hình bóng về Đấng Christ trong con người, chức vụ và đời sống
như thế nào?
4. Các Thi Thiên sau đây đã minh họa các biến cố khác nhau trong đời sống
Đa-vít như thế nào: (a) Thi Tv 24:1-10, Thi Tv 101:1-5, (b) Thi Tv 20:1-9,
Thi Tv 21:1-13, Thi Tv 60:1-11, (c) Thi Tv 32:1-11, 51:1-19, (d) Thi Tv 3:1-
8, Thi Tv 4:1-8, Thi Tv 26:1-28:9.
SÁCH I VÀ II CÁC VUA
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Truyền thống Do Thái bảo rằng Giê-rê-mi là trước giả hai sách I và II Các
Vua, nhưng đã không hề có một chứng cớ nào khác Các Vua II lại có chép
những niên đại quá muộn về sau vì thế ông không thể là trước giả của cả hai
sách. Trong nguyên văn Hy-bá-lai cả hai quyển đều được xem như một,
nhưng Bộ Bảy Mươi đã chia làm hai. Hai sách được viết giống nhau cho
thấy chúng chỉ do một người đúc kết lại từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau.
Các nguồn tài liệu đã được nêu tên trong hai sách Các Vua, là các sách Công
Vụ của Sa-lô-môn, sách Sử Ký Các Vua Giu-đa (mười lăm lần), sách Sử Ký
Các Vua Y-sơ-ra-ên (mười bảy lần) - để lưu ý độc giả nên tham khảo thêm.
Dường như các sách ấy đã ghi lại các công trình xây cất, những cuộc chiến
tranh, các biến cố chính trị, cũng như các đền đài, bi ký thuộc về nước A-sy-
ri và nhiều dân tộc khác mà người ta đã tìm thấy được. Nhiều nhà phê bình
còn giả thiết là có một bộ sưu tập ký thuật về Ê-li và Ê-li-sê cũng đã được sử
dụng như một nguồn tài liệu riêng biệt, nhưng chúng ta phải coi đó là một
nghi vấn. Điều còn đáng nghi ngờ hơn nữa, là có một số người tự khoe là có
thể tìm được các nguồn tài liệu khác nhau dành cho từng tiên tri vừa kể, như
một sách được gọi là 'Công Vụ của A-háp'.
Đa số các học giả hiện đại định niên đại hữu lý cho việc đúc kết hai sách
Các Vua là vào cuối thế kỷ thứ bảy, vì theo họ, sự nghiệp của các vua dường
như đã được phê phán trong ánh sáng của cuộc cải cách được thực hiện dưới
thời trị vì của Giô-si-a. Có những khúc sách (thí dụ như IVua 1V 8:8) ngụ ý
rằng đền thờ, và có lẽ là phần còn lại của thành phố Giê-ru-sa-lem nữa, hãy
còn đứng vững lúc các sách này được đúc kết, mà điều đó đòi hỏi một niên
đại trước khi Giê-ru-sa-lem thất thủ, là năm 586. Tuy nhiên, sử ký của
vương quốc miền Nam còn được chép lại cho đến sau thời kỳ đó, mãi đến
sau năm 560 về sau này, cho nên phần cuối của quyển thứ hai có lẽ đã được
thêm vào hơi muộn về sau.
Hai sách Các Vua liên kết chặt chẽ với hai sách Sa-mu-ên, và bổ túc cho câu
chuyện của các vương quốc Hê-bơ-rơ mà hai sách trước đã bắt đầu.
PHÂN TÍCH
I Các Vua.
IVua 1V 1:1-11:43.
Sa-lô-môn lên ngôi và trị vì.
IVua 1V 12:1-16:34.
Vương quốc chia đôi và A-háp lên ngôi.
IVua 1V 17:1-22:54.
Ê-li.
II Các Vua.
IIVua 2V 1:1-2:11.
Ê-li (tiếp theo).
IIVua 2V 2:12-13:25.
Ê-li-sê.
IIVua 2V 14:1-17:41.
Vương quốc miền Bắc suy sụp và bị tiêu diệt.
IIVua 2V 18:1-23:37.
Từ Ê-xê-chia đến Giô-si-a.
IIVua 2V 24:1-25:30.
Những ngày tàn của vương quốc Giu-đa.
NỘI DUNG
Trước giả đã giải quyết thật khéo léo vấn đề phải viết song song sử ký của
hai vương quốc miền Bắc và miền Nam. Ông khởi sự với vua đầu tiên của
Y-sơ-ra-ên và tiếp tục cho đến hết thời trị vì của vua ấy, rồi bắt đầu sử ký
của Giu-đa và tiếp tục cho đến cuối thời trị vì của nhà vua sau chót trùng lắp
với thời trị vì của nhà vua Y-sơ-ra-ên đầu tiên. Vậy là ông chuyển từ vua
này sang vua kia, luôn luôn cẩn thận ghi vào năm nào của thời trị vì của nhà
vua miền Bắc đó, là năm bắt đầu thời trị vì của nhà vua miền Nam tiếp theo,
và ngược lại. Ông cũng cho biết chi tiết tuổi của nhà vua khi bắt đầu lên
ngôi, và tên của mẹ vua ấy. Mọi người đều đồng ý rằng chúng ta đang có
trước mặt một quyển sử ký chính xác.
Một trong những đặc điểm lý thú của hai sách Các Vua, là trước giả có thói
quen đưa ra một câu phê phán theo quan điểm tôn giáo và cuối đời trị vì của
hầu như tất cả các vua ấy. Thỉnh thoảng đó là bản kết án hoàn toàn không
thuận lợi (chẳng hạn IVua 1V 15:34), và có khi, nhưng không thường lắm, là
một lời phê phán hoàn toàn thuận lợi (chẳng hạn IIVua 2V 18:4-7). Thường
hơn thì đó là một câu thuận lợi nhưng có ý dè dặt (thí dụ IIVua 2V 12:2,3).
Các lầm lỗi ông thường kết án hơn hết là những việc như không phá hủy các
nơi cao, không thờ phượng Đức Chúa Trời cách phải lẽ. Ông thường nói về
các vua Y-sơ-ra-ên là bước theo các nẻo đường của Giê-rô-bô-am, con trai
Nê-bát, khiến dân Y-sơ-ra-ên phạm tội; trong khi các nhà vua công chính
của Giu-đa thì được cho là đã noi theo các bước của Đa-vít (thí dụ IVua 1V
15:11), và như thế là nhằm nhấn mạnh đặc tính thần quyền của dòng dõi Đa-
vít.
Căn cứ vào điều kể trên, chúng ta thấy rằng tuy hai sách I và II Các Vua là
sử ký chính xác, phần sử ký ấy đã được viết theo quan điểm tôn giáo. Chẳng
hạn cần chú ý rằng trong các vua Y-sơ-ra-ên thì phần ngoại sử về Ôm-ri cho
thấy dường như vua ấy là quan trọng nhất, thì ở đây ông ta chỉ được dành có
nửa chương sách. Sở dĩ như vậy không phải vì có một viễn ảnh sai lầm về
lịch sử, nhưng thời trị vì của vua ấy không có ý nghĩa gì quan trọng theo
quan điểm tôn giáo của trước giả. Phần việc của ông ta không phải là ký
thuật chính xác và đầy đủ tất cả những gì đã xảy ra trong xứ Y-sơ-ra-ên và
Giu-đa. Các sách tác giả dùng làm tài liệu gốc đã làm công việc đó rồi; còn
ông ta thì chỉ chọn lọc theo quan điểm mình muốn viết mà thôi.
Hai sách Các Vua ký thuật về một khoảng thời gian bốn thế kỷ, trong khi hai
sách Sa-mu-ên chỉ viết vào khoảng một thế kỷ mà thôi. Do đó, các sự việc
phải được kể lại vắn tắt hơn với số chi tiết ít hơn, nhưng không vì thế mà có
sự vội vã, và rõ ràng là nhiều bức chân dung của các nhân vật đã nổi bật hẳn
lên. Quả tình là có tranh chấp giữa điều thiện và điều ác, đưa đến tuyệt đỉnh
là hai cơn khủng hoảng, một ở miền Bắc, khi trên núi Cạt-mên, Ê-li thách đố
các tiên tri Ba-anh của Ty-rơ, và một ở miền Nam, lúc Giê-hô-gia-đa bảo tồn
được mạng sống của ấu vương Giô-ách và thắng được A-tha-li, kẻ đã cố tình
du nhập việc thờ lạy hình tượng của Ty-rơ.
Như thế giai đoạn của hai sách này là giai đoạn của sự hoạt động quan trọng
về tôn giáo của một thiểu số người tin kính trong dân chúng, và các sách này
cho chúng ta một bối cảnh lịch sử về công tác của các nhà đại tiên tri của thế
kỷ thứ 8 TC, và của Giê-rê-mi. Suốt thời kỳ này, nói tiên tri không phải chỉ
là vấn đề hành động để bênh vực cho Đức Chúa Trời, mà còn là vấn đề phải
dạy bảo thật chi tiết và truyền rao ý chỉ Ngài nữa. Lời kêu gọi giờ đây đã
được viết ra thành tài liệu thành văn để nhắc nhở dân chúng, kêu gọi họ trở
về với Đức Chúa Trời (IIVua 2V 22:1-23:37). Trong giai đoạn này, các nhân
vật như A-mốt, Ô-sê, và Giê-rê-mi, tuy hầu như không được hai sách này đề
cập, đều đang thực hiện công tác phi thường của các vị, là truyền giảng đức
công chính, tình yêu thương của Đức Chúa Trời, và thái độ sẵn sàng của
Ngài để lập một giao ước mới với dân Ngài, là dân nhiều lần vi phạm giao
ước cũ với Ngài. Nếu không có hai sách Các Vua này, chúng ta sẽ chẳng
được biết gì về bối cảnh đương thời của phần mạc khải quan trọng cho thời
đại ấy.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Chú ý thật kỹ những lời cầu nguyện đã được ghi trong hai sách này, các
cơ hội, nội dung và việc chúng đều được nhậm.
2. Đời sống các nhà vua đã gặt hái các hậu quả xấu vì kết bạn với thế gian và
thỏa hiệp với tà giáo, cảnh cáo chúng ta như thế nào?
3. Đối chiếu để tìm nét tương phản giữa đời sống của Ê-li với Ê-li-sê. Được
chứng kiến những điều đó, chúng ta học được những bài học gì? Chú ý
những lần các sách Phúc Âm đã đề cập cả hai vị.
4. Các công cuộc cải cách của Ê-li, Giô-ách và Giô-si-a dạy cho Hội thánh
và dân tộc ta những bài học nào?
5. Việc xây cất và thờ phượng trong đền thờ có vai trò gì trong việc chuẩn bị
cho sự giáng lâm của Đấng Christ? Chú ý Cong Cv 7:1-60; ICo1Cr 3:16;
IICo 2Cr 6:16; KhKh 11:19; 15:5; 21:22).
SÁCH I VÀ II SỬ KÝ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Trong bộ Kinh Thánh Hy-bá-lai, hai sách Sử Ký được nhập một, và cùng
với sách E-xơ-ra, Nê-hê-mi, được tách riêng khỏi các sách lịch sử (Các Sách
Tiên Tri Trước) để họp thành một phần của sách Kethubim (Văn Thơ,
Writings) hay Hagiographa là phần chót của Kinh Thánh Hy-bá-lai, được
xếp ở cuối các sách ấy là quyển cuối cùng của bộ Kinh Thánh Hy-bá-lai.
Nhan đề tiếng Hy-bá-lai cho hai sách ấy là 'Lời Của Các Ngày' hay 'Nhật
Ký' ám chỉ đặc tính thiên về phân tích của chúng, còn bộ Bảy Mươi thì mô
tả chúng là 'những sách bỏ bớt' (paraleipomena) gợi ý rằng hai sách ấy bổ
túc cho các sách Sa-mu-ên và Các Vua. Tên 'Sử Ký' là do Jerome đặt cho
chúng.
Địa vị của chúng trong nhóm Hagiographa hay 'thánh văn' là nhằm vạch rõ
chúng theo quan điểm tôn giáo chớ không phải chỉ có quan điểm sử ký mà
thôi. Trước giả đã không tiếp tục phần sử ký tại điểm mà sách IICác Vua bỏ
dở, mà bao quát cùng một giai đoạn lịch sử với các sách IISa-mu-ên, I và
IICác vua. Tuy nhiên, ông ta không cố ý bao quát toàn thể phần nền của các
sách ấy, mà chỉ chọn các biến cố có ý nghĩa tôn giáo, nhất là theo quan điểm
của chức vụ tế lễ, và tập trung vào vương quốc miền Nam. Về nhiều phương
diện có thể bảo sách này có liên hệ với các sách Sử Ký sớm hơn, cũng giống
như mối liên hệ của sách Phúc Âm 'thuộc linh' thứ tư, tập trung vào các diễn
biến tại Giê-ru-sa-lem, với các sách Phúc Âm Cộng Quan vậy.
Các vấn đề tác quyền và niên đại được nhập chung với vấn đề nhập làm một
các sách Sử Ký với E-xơ-ra - Nê-hê-mi. Có người cho rằng các sách ấy
nguyên chỉ là một quyển. Các lý do chính của quan điểm ấy như sau:
1. Những câu cuối của IISử Ký giống hệt các câu đầu của sách E-xơ-ra.
2. Quan điểm của trước giả trong cả hai đều là quan điểm của thầy tế lễ, và
tỏ ra rất chú trọng đến sự thờ phượng và phần nghi lễ trong đền thờ, đến
người Lê-vi và việc tuân thủ luật pháp.
3. Bút pháp của các sách ấy rất giống nhau, và tất cả đều có các bảng gia phổ
và các danh sách.
4. Truyền thống Hê-bơ-rơ gán cho E-xơ-ra là trước giả chung của tất cả các
quyển sách ấy.
Đã không có sự kiện nào trong các sự kiện vừa kể chứng minh dứt khoát
được rằng các sách Sử Ký và E-xơ-ra - Nê-hê-mi do cùng một trước giả đúc
kết, mà nhập chung lại, ít nhất chúng cũng gợi ý rằng tất cả đều xảy ra cùng
một giai đoạn. Nhiều nhất là chúng ta có thể nói rằng chúng do E-xơ-ra hay
do một trước giả nào đó đúc kết, mà quan tâm của ông ta là sự quan tâm của
một thầy tế lễ chớ không phải của một nhà tiên tri.
Các sách Sử Ký và E-xơ-ra - Nê-hê-mi đã được định niên đại rất khác nhau.
Có người bảo rằng có dấu hiệu chứng tỏ chúng được đúc kết vào giai đoạn
đế quốc Hi-lạp (332 TC trở về sau), nhưng bằng chứng hiển nhiên cho một
niên đại muộn màng như thế hết sức mong manh. Mấy câu (ISu1Sb 3:17-24)
đề cập phổ hệ con cháu Đa-vít đến đời thứ sáu sau Xô-rô-ba-bên, có thể chỉ
là một phần được thêm vào về sau.
Các nguồn tài liệu mà trước giả sách Sử Ký sử dụng dường như là Ngũ
Kinh, có thể là các sách Sa-mu-ên và Các Vua, sách Ê-sai (IISu 2Sb 26:22),
sách truyện các vua (IISu 2Sb 24:27), và sách của nhà tiên tri Y-đô cùng một
số các sưu tập những 'lời' của nhiều nhà tiên tri khác nhau mà ông trích dẫn
(ISu1Sb 29:29; IISu 2Sb 9:29; v.v...). Các tác phẩm tiên tri đó có lẽ cũng là
những nguồn tài liệu đã được sử dụng cho việc đúc kết các sách Sử Ký về
trước. Người viết sử thường nêu đích danh các sách ấy, và yêu cầu độc giả
hãy tìm đọc chúng để biết rõ hơn.
Các nguồn tài liệu đã được liệt vào Kinh Thánh là số tài liệu duy nhất chúng
ta có để đối chiếu với tác phẩm của trước giả sách Sử Ký, thỉnh thoảng đã
được trích dẫn từng chữ từng tiếng. Có nhiều thiếu sót có thể nhận thấy
ngay, và nói chung thì trước giả sách Sử Ký tự giới hạn trong phạm vi của
vương quốc miền Nam. Sở dĩ ông làm vậy, một phần chắc vì vương quốc
miền Bắc đã không còn nữa từ nhiều năm trước khi ông bắt đầu viết sách,
một phần là vì ở phía Nam mới là nơi ông tìm thấy mọi đều mà ông quan
tâm nhất, tập trung tại đền thờ và phần nghi lễ trong đó. Kittel tuyên bố là đã
tìm được các dấu vết của các giai đoạn theo đó sách Sử Ký đã được đúc kết,
nhưng thoạt nhìn qua cũng đủ thấy có sự thống nhất thiết yếu của cả hai
quyển, khiến cho điều ông nói rất khó có thể là đúng được.
Đối chiếu các sách Các Vua và Sử Ký cho thấy một số điểm dường như sai
biệt mà nhập chung với một niên đại muộn màng của hai sách Sử Ký, đã
khiến nhiều học giả xem như chỉ có hai sách các vua mới thật sự là sử liệu
đáng tin cậy của giai đoạn ấy. Nhiều điểm sai biệt như thế là về các nhân vật
và niên đại, có thể là do nhiều phương pháp tìm hiểu khác nhau, và do các
cổ bản đã bị sao chép sai. Nhiều sai biệt khác dường như là do mục đích
khác nhau, hoặc do sự kiện trước giả sách Sử Ký, tại những điểm đó, đã sử
dụng các nguồn tài liệu khác nhau. Cũng như trong trường hợp các sách
Phúc Âm, một ký thuật theo hai phương diện mở rộng thêm cho kiến thức
của chúng ta về các sự kiện và xác nhận đặc tính lịch sử của chúng. Những
điểm dị biệt chi tiết như thế có thể tìm thấy trong các sách chú giải Các Vua
và Sử Ký của Keil.
PHÂN TÍCH
I Sử Ký.
ISu1Sb 1:1-9:44.
Tóm tắt về gia phổ.
ISu1Sb 10:1-14.
Sau-lơ tử trận.
ISu1Sb 11:1-16:43.
Đa-vít lên ngôi, các danh tướng của vua, hòm giao ước được rước về.
ISu1Sb 17:1-2130;.
Lời hứa của Đức Chúa Trời với Đa-vít, các chiến thắng của vua, và việc
kiểm tra dân số.
ISu1Sb 22:1-29:30.
Đa-vít chuẩn bị đưa Sa-lô-môn lên ngôi, cho việc xây cất và phụng vụ trong
đền thờ.
II Sử Ký.
IISu 2Sb 1:1-8:18.
Bài cầu nguyện của Sa-lô-môn; việc xây cất và lễ cung hiến đền thờ. 9.
Cuộc viếng thăm của nữ hoàng Sê-ba. Sa-lô-môn băng hà.
IISu 2Sb 10:1-28:27.
Vương quốc bị phân xé.
IISu 2Sb 29:1-32:33.
Các công cuộc cải cách của Ê-xê-chia và sự giải cứu khỏi quân A-sy-ri.
IISu 2Sb 33:1-25.
Thời trị vì gian ác của Ma-na-se.
IISu 2Sb 34:1-35:26.
Các công cuộc cải cách của Giô-si-a, đọc luật pháp và giữ lễ Vượt Qua thật
long trọng.
IISu 2Sb 36:1-23.
Những ngày tàn của vương quốc Giu-đa.
NỘI DUNG
Hai sách Sử Ký có bốn phần chính:
1. ISu1Sb 1:1-944;. Ở đây chúng ta có một loạt bảng gia phổ từ thời A-đam,
được xen kẽ với những ghi chú lịch sử. Cần ghi nhận là chỉ có các dòng dõi
của Đa-vít và thầy tế lễ thượng phẩm là còn được tiếp tục cho đến thời hậu
lưu đày, vào khoảng thời của E-xơ-ra, và những cuốn sổ đầy đủ nhất đều
thuộc về ba chi phái Giu-đa, Lê-vi và Bên-gia-min, tạo thành phần nòng cốt
cho số người lưu đày hồi hương.
2. ISu1Sb 10:1-19:19. Chương 10 đề cập ngắn gọn sự tử trận của Sau-lơ; và
cả phần còn lại của đoạn này nói về thời trị vì của Đa-vít. Nhiều bảng danh
sách không thấy có trong IISa-mu-ên đã được đưa vào đây, còn nhiều câu
chuyện lý thú đã được kể trong đó thì bị nhà chép sách Sử Ký bỏ qua. Ông
chỉ đặc biệt ký thuật các câu chuyện cho thấy vương quốc hùng cường của
Đa-vít và những chuyện lý thú theo quan điểm của một thầy tế lễ.
Các chương này bao trùm thời trị vì của Sa-lô-môn, và phần lớn liên hệ đến
đền thờ và phần nghi lễ trong đó.
4. IISu 2Sb 10:1-36:23. Các chương này đề cập lịch sử của vương quốc miền
Nam, từ thời chia đôi cho đến khi bị lưu đày. Đã không có nỗ lực nào nhằm
ghi lại sử ký của vương quốc miền Bắc, ngoại trừ khi nó có liên quan đến
vương quốc miền Nam, và ngay đến Ê-li và Ê-li-sê cũng bị bỏ qua, ngoại trừ
có một lần đề cập Ê-li (21:12-15).
Trước giả sách Sử Ký vạch rõ hậu quả của việc các vua Giu-đa bị dao động,
không trọn lòng thờ phượng chỉ một mình Đức Giê-hô-va mà thôi. Ông có
tìm được rất nhiều thí dụ minh họa cho sự việc đó trong câu chuyện của xứ
Y-sơ-ra-ên, nhưng ông cảm thấy trong tài liệu về sử ký của xứ Giu-đa đã có
quá đầy đủ rồi. Có một số nhà vua trung thành với Đức Giê-hô-va và một số
khác thì bất trung. Sự bất trung đi kèm với sự đoán phạt, còn sự trung thành
thì được phước hạnh. Các vua gian ác bị tố cáo về việc thờ hình tượng và vi
phạm luật pháp; các minh quân thì được khen ngợi vì biết noi theo các
đường lối của Đức Giê-hô-va và khiến dân sự hướng lòng về Ngài (IISu 2Sb
14:2-4; 33:3,4).
Trước giả sách Sử Ký nhấn mạnh siêu việt tính của Đức Chúa Trời (ISu1Sb
29:11-13). Nhưng Đức Chúa Trời siêu việt ấy không bị tách rời với thế gian
mà hoạt động trong đó. Con mắt của Ngài 'soi xét khắp thế gian đặng giúp
sức cho kẻ nào có lòng trọn thành đối với Ngài' (IISu 2Sb 16:9). Bất kỳ điều
gian ác nào cũng đem đến cho họ 'gươm đao, đoán phạt, dịch lệ hoặc đói
kém'; và nếu họ ăn năn, hướng về nhà của Đức Chúa Trời để cầu nguyện, thì
Ngài sẽ nhậm lời và giải cứu cho (IISu 2Sb 6:24-31; 20:9).
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Nếu phải tiếp tục danh sách các vị anh hùng của đức tin trong HeDt 11:1-
40 sang đến thời quân chủ, bạn sẽ ghi thêm các tên nào trong sách vào đó, và
vì cớ những hành động nào?
2. Hai sách này nói gì về giá trị và tầm quan trọng của sự tán tụng và thờ
phượng Đức Chúa Trời?
3. Đa-vít và những người nối ngôi ông đã biểu hiện tình yêu đối với nhà Đức
Chúa Trời như thế nào?
4. Các đức hạnh và tội lỗi nào của các cấp lãnh đạo và dân sự đã đưa đến
việc Đức Chúa Trời ban phước hay hình phạt họ?
SÁCH E-XƠ-RA - NÊ-HÊ-MI
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Hai sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi nối tiếp các sách Sử Ký. Trong Kinh Thánh
Hy-bá-lai, E-xơ-ra và Nê-hê-mi được nhập một, nên ở đây chúng tôi cũng
xem hai sách ấy như chỉ là một quyển. Các vấn đề trước giả và niên đại của
các sách ấy đã được thảo luận trong I và IISử Ký. Kết luận là hai sách Sử Ký
và cả hai sách E-xơ-ra - Nê-hê-mi đều phát xuất từ cùng một trường phái tư
tưởng và cùng một giai đoạn, và rất có thể là cũng do cùng một người đúc
kết.
Dường như trước giả đã dùng các nguồn tài liệu sau đây:
1. Tập hồi ký của E-xơ-ra. Sách Exo Er 7:27-9:15 viết theo ngôi thứ nhất,
còn các khúc sách lại viết theo ngôi thứ ba, cho phép chúng ta suy đoán rằng
phần lớn chúng có thể được trích từ cùng một nguồn tài liệu.
2. Tập hồi ký của Nê-hê-mi. Bảy chương đầu và 13:4-31 của sách Nê-hê-mi
được viết theo ngôi thứ nhất, nhưng dường như đều được căn cứ vào các hồi
ức cá nhân của Nê-hê-mi.
3. Các tài liệu chữ A-ram. Exo Er 4:7b-6:18 và 7:12-26 được viết bằng chữ
A-ram. Các khúc sách ấy phần lớn được trứ tác dựa trên các tài liệu chính
thức của nhà nước, các thư từ trao đổi giữa các vua Ba-tư, và các sắc chỉ do
các vua ấy ban hành. Căn cứ vào tập tài liệu giấy vỏ cây ở Elephantine (The
Elephantine Papyri), chúng ta được biết rằng dưới thời của đế quốc Ba-tư,
chữ A-ram được sử dụng làm ngôn ngữ quốc tế để trao đổi thư từ với nhau.
Chính người đúc kết sách đã viết các đoạn ấy bằng chữ A-ram, ngay cả khi
không trích dẫn từ một tài liệu chính thức.
4. Những danh sách chính thức. Bao gồm một danh sách những kẻ lưu đày
trở về vào thời Xô-rô-ba-bên, chép trong Exo Er Exo2:1-61 và trong NeNe
7:6-63 thì hơi khác một chút. Những bảng danh sách khác là ở Exo Er
Exo10:18-44 và NeNe 10:1-27; 11:4-12:26; 12:32-42. Một phần những danh
sách này có vẻ chiếm một phần tập hồi ký của E-xơ-ra và Nê-hê-mi. Những
danh sách còn lại được người đúc kết lấy từ các tài liệu khác.
Một số các nhà phê bình đã nêu vấn đề chẳng hay dưới thời Xô-rô-ba-bên,
chuyến hồi hương của những kẻ bị lưu đày, được chép trong Exo Er 1:1-
4:24 có thật sự xảy ra hay không. Họ viện dẫn rằng một nhà vua Ba-tư
không thể ban hành một hình thức chiếu chỉ như chiếu chỉ của Si-ru (Exo Er
Exo1:2-4) rằng A-ghê và Xa-cha-ri không hề đề cập đến một chuyến hồi
hương nào cả, rằng rất có thể chính số người Do Thái được kể lại trong xứ
đã tái thiết đền thờ, người chép sử đã xây dựng lại phần sử ký đó mà không
có đầy đủ sự kiện, nhưng chỉ viết theo ý riêng của ông ta về những chuyện
đã xảy ra mà thôi. Quan điểm đó đã không được đa số học giả ngày nay tán
thành. Người ta biết rằng các vua Ba-tư đã tỏ ra khoan dung với các tôn giáo
khác và một tài liệu giấy vỏ cây ở Elephantine được viết năm 419 TC chép
rằng Đa-ri-út II đã thật sự truyền lịnh cho cộng đồng Do Thái tại Yeb tổ
chức một số đại lễ Do Thái. Điều hết sức vô lý là số dân Do Thái được Nê-
bu-cát-nết-sa để lại trong xứ lại có thể tái thiết nổi đền thờ, vì họ vốn là kẻ
bần cùng nhất trong dân sự, và theo Exe Ed 33:25...họ thiếu lòng tin kính,
tận tụy với Đức Giê-hô-va. Đã không có lý do chính đáng nào để phủ nhận
việc có một đợt người hồi hương từ cuộc lưu đày vào năm 537, như sách E-
xơ-ra đã chép.
Còn một vấn đề nữa của các nhà phê bình, là chẳng hay trong hai nhân vật
chính, ai là người bắt tay vào việc trước. Ngay trong sách thì chép việc hồi
hương của một số đông người bị lưu đày dưới quyền lãnh đạo của E-xơ-ra
năm 458 TC dưới thời trị vì của Ạt-ta-xét-xe I, và cũng chính vua ấy đã bổ
nhiệm Nê-hê-mi làm quan tổng trấn năm 444 TC; một hay hai năm sau đó,
E-xơ-ra và Nê-hê-mi đã xuất hiện bên nhau. Mấy năm gần đây, một số học
giả đã bài bác phần thứ tự của các biến cố theo Kinh Thánh, và tuyên bố
rằng E-xơ-ra đã không hề bắt tay vào làm việc trước mà là sau Nê-hê-mi,
rằng người đúc kết sách đã sắp xếp công tác của E-xơ-ra và Nê-hê-mi theo
một thứ tự sai lầm. Không có một luận cứ nào dựa trên quan điểm này được
xem là có nhiều giá trị.
1. Sự kiện E-xơ-ra không xuất hiện trong sách Nê-hê-mi trước NeNe 8:1 có
thể là do ông vắng mặt tại Giê-ru-sa-lem trong thời gian đó, hoặc ông đã
không hề dự phần gì vào các biến cố đã được mô tả.
2. Câu Exo Er 9:9 đề cập Đức Chúa Trời đã ban cho dân sự Ngài 'một vách
thành (nơi ở) trong xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem' không thể bị gán ép
để cho là vách thành đã được xây dựng lại xong rồi. Chữ được dùng có
nghĩa là một 'nơi tạm trú' hoặc một mái che.
3. Có người bảo rằng con số người nhỏ nhoi được đề cập trong NeNe 7:4
cho thấy một tình trạng có lẽ có trước đã được mô tả trong Exo Er Exo10:1,
nhưng khảo xét kỹ, thì rõ ràng là câu sau này không hề đề cập tình trạng
bình thường của công việc tại Giê-ru-sa-lem nhưng nói về một hội chúng 'từ
trong dân Y-sơ-ra-ên tập họp nhau lại' khi 'toàn thể các con cái bị lưu đày'
đều được lịnh phải trở về Giê-ru-sa-lem với nguy cơ là có thể bị mất hết tài
sản (Exo Er 10:1,7, 13).
4. Sau cùng, có người viện lý rằng nếu Nê-hê-mi là người đồng thời với thầy
tế lễ thượng phẩm Ê-lê-a-síp, thì E-xơ-ra phải là người đồng thời với cháu
nội ông ta là Giô-ha-nan (NeNe 3:1, 12:10 và tt; Exo Er 10:6). Tuy nhiên, E-
xơ-ra không hề bảo rằng lúc ấy Giô-ha-nan là thầy tế lễ thượng phẩm, mà
chỉ nói rằng' E-xơ-ra đi vào phòng của Giô-ha-nan con trai Ê-li-a-síp'. Theo
bản tài liệu giấy vỏ cây ở Elephantine, thì Giô-ha-nan làm thầy tế lễ thượng
phẩm năm 408 TC; nhưng rất có thể là lúc hãy còn thanh niên, ông ta có một
phòng riêng trong đền thờ và có lẽ có thiện cảm với chính nghĩa của E-xơ-ra
vào năm 458 TC. Sở dĩ tên ông được đề cập lúc ấy, vì điều đáng chú ý là sau
này, ông đã trở thành thầy tế lễ thượng phẩm.
Dầu sao thì cũng thật vô lý nếu một người viết về một biến cố một trăm năm
sau khi nó xảy ra, đã cẩn thận tra xét các nguồn tài liệu gốc, lại có thể nhầm
lẫn về một vấn đề thứ tự thời gian quan trọng như vậy.
PHÂN TÍCH
Sách E-xơ-ra.
Exo Er 1:1-2-70.
Những kẻ lưu đày hồi hương xây lại đền thờ.
Exo Er 3:1-13.
Lập bàn thờ và đặt móng đền thờ.
Exo Er 4:1-24.
Công tác bị chống đối và bắt buộc đình chỉ.
Exo Er 5:1-17.
Công tác được tiếp tục.
Exo Er 6:1-22.
Đền thờ được hoàn chỉnh.
Exo Er 7:1-8:36.
Chuyến đi của E-xơ-ra đến Giê-ru-sa-lem.
Exo Er 9:1-10:44.
Các công cuộc cải cách được E-xơ-ra đề xướng.
Sách Nê-hê-mi.
NeNe 1:1-11.
Dân Do Thái gặp hoạn nạn và lời cầu nguyện của Nê-hê-mi.
NeNe 2:1-20.
Sứ mạng được giao phó cho Nê-hê-mi xây lại các vách thành Giê-ru-sa-lem.
NeNe 3:1-32.
Danh sách các công nhân và công việc của họ.
NeNe 4:1-6:14.
Công tác được tiếp tục dưới quyền lãnh đạo của Nê-hê-mi bất chấp sự chống
đối.
NeNe 6:15-7:4.
Các vách thành được hoàn tất và thành phố được bảo vệ.
NeNe 7:5-73.
Sổ ghi tên những người cùng hồi hương với Xô-rô-ba-bên.
NeNe 8:1-18.
Đọc và giải bày luật pháp. Lễ Lều Tạm.
NeNe 9:1-38.
Dân sự ăn năn và xưng tội.
NeNe 10:1-39.
Giao ước về sự vâng lời.
NeNe 11:1-12:26.
Danh sách dân cư Giê-ru-sa-lem.
NeNe 12:27-47.
Lễ cung hiến các vách thành và các của dâng cung cấp cho việc phụng vụ
trong đền thờ.
NeNe 13:1-31.
Các công cuộc cải cách của Nê-hê-mi và chuyến viếng thăm Giê-ru-sa-lem
lần thứ hai.
NỘI DUNG
Có ba loạt biến cố chính được ghi lại trong sách E-xơ-ra - Nê-hê-mi:
1. Exo Er 1:1-4:24 kể lại cuộc hồi hương của một số đông người bị lưu đày
dưới quyền lãnh đạo của Xô-rô-ba-bên và Giê-sua, và việc xây lại đền thờ.
2. Exo Er 7:1-10:44 kể lại cuộc hồi hương của một số đông thứ hai dưới
quyền lãnh đạo của E-xơ-ra và việc ban bố luật pháp.
3. Sách Nê-hê-mi kể lại chuyện Nê-hê-mi được bổ nhiệm làm tổng trấn, và
công tác xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem của ông, phục hồi việc thờ
phượng tại đền thờ và áp dụng luật pháp.
Cần đọc hai sách A-ghê và Xa-cha-ri đồng thời với sách E-xơ-ra, và sách
Ma-la-chi đồng thời với sách Nê-hê-mi.
Cũng như trong hai sách Sử Ký, chúng ta gặp trong sách E-xơ-ra - Nê-hê-mi
cùng một tình yêu thương đối với thành phố Giê-ru-sa-lem, và việc chú
trọng vào việc thờ phượng và nghi lễ tại đền thờ, và việc tuân thủ luật pháp.
Trong các sách này, không thấy có các phép lạ, ít có tiếng phán trực tiếp của
Đức Chúa Trời mà chúng ta vốn rất quen gặp trong các sách về lịch sử đó
(Đức Giê-hô-va phán...); tuy nhiên, không vì thế mà các sách này ít có tính
cách tôn giáo hơn. Cả E-xơ-ra lẫn Nê-hê-mi đều ý thức có 'bàn tay nhơn lành
của Đức Chúa Trời' trên họ (Exo Er 7:6,9,28; 8:18,22,31; NeNe 2:8,18). Nếu
hai ông không nhấn mạnh rằng mình được nghe lời phán của Đức Chúa
Trời, thì cả hai đều ý thức rằng chính Ngài đã đặt vào lòng người ta cái ý chí
muốn làm theo ý chỉ Ngài (Exo Er Exo7:27; NeNe 2:12; 7:5). Qua suốt
quyển sách, có ý thức về tầm quan trọng sống chết của các biến cố, ghi lại sự
sống còn của dân Do Thái và tất cả những gì mà đền thờ và luật pháp Ngài
đứng vững để thực hiện các chủ đích của Đức Chúa Trời, và trước giả đã kể
lại câu chuyện về sự phục hồi địa vị và công cuộc cải cách với niềm vui rõ
rệt và lòng biết ơn.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu tình yêu thương của E-xơ-ra đối với luật pháp và nhà của Đức
Chúa Trời trong mối liên hệ với Thi Tv 119:1-176 và Thi Tv 122:1-9.
2. Chúng ta có thể học hỏi được trong hai sách này những nguyên tắc nào về
sự thánh khiết và sự xa lìa thế gian?
3. Nghiên cứu Nê-hê-mi với tư cách một con người hành động, một con
người thánh thiện và một con người cầu nguyện.
4. Chúng ta có thể tìm thấy ở đây những nguyên tắc nào có giá trị cho việc
tái xây dựng ngày nay.
SÁCH Ê-XƠ-TÊ
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Đã không có nội cũng như ngoại chứng cho biết ai là trước giả sách Ê-xơ-tê,
cũng có rất ít dấu chỉ về niên đại sách ấy. A-suê-ru trong câu chuyện này, là
Xét-xe, làm vua Ba-tư từ 486 đến 464 TC. Câu chuyện bắt đầu vào năm thứ
ba đời trị vì của vua ấy (EtEt 1:3), và vua cưới Ê-xơ-tê làm hoàng hậu vào
năm thứ bảy (2:16). Chúng ta không biết quyển sách hiện có đã được viết ra
bao giờ. Có người định cho nó một niên đại rất muộn tận năm 130 TC vì cho
rằng quan điểm ái quốc nhiệt thành trong đó phản ánh khí thế của giai đoạn
các vua Ma-ca-bê. Tuy nhiên, có khá đầy đủ chứng cớ về tinh thần ái quốc
mạnh mẽ giữa vòng dân Do Thái vốn đã có rất lâu trước thời bách hại của
Antiochus Epiphanes, khi ông ta dùng lửa hừng để sàng sảy họ.
Ngôn ngữ của sách Ê-xơ-tê (EtEt 1:2) gợi ý rằng nó đã được viết ra một thời
gian khá lâu sau giai đoạn sách ấy mô tả, nhưng, đồng thời, cũng có quá
nhiều chi tiết chẳng quan trọng bao nhiêu để tồn tại sau nhiều thế kỷ, nhất là
những ghi chú về thời điểm và các tên chi tiết các tổ tiên của Mạc-đô-chê,
của các quan thượng thư của A-suê-ru, của các con trai Ha-man, khiến
chúng ta nghi ngờ mọi cố gắng muốn định cho sách ấy một niên đại thật
muộn màng về sau. Trước giả rất khéo léo khi viết sách, rất tiết kiệm lời lẽ,
nên rất khó nghĩ rằng ông đã đưa vào sách quá nhiều chi tiết chẳng liên quan
trực tiếp gì đến chính câu chuyện, trừ phi khi chúng đáng chú ý và quan
trọng đối với độc giả của mình. Ngôn ngữ trong sách rất gần với trước giả
các sách Sử Ký, và có lẽ chúng đã thuộc về cùng một giai đoạn.
Tuy rõ ràng sách Ê-xơ-tê đã vắng bóng danh Đức Chúa Trời nhưng sách đã
kể lại câu chuyện về quyền năng thần hựu để giải phóng dân Ngài và đưa ra
lời giải thích cho lễ kỷ niệm Phu-rim mà dân Do Thái đã giữ hằng năm (EtEt
9:26-32). Trước giả tái khẳng định với dân Do Thái rằng những kẻ âm mưu
và chống lại họ sẽ không được may mắn, và kể chuyện bằng tài năng viết
kịch rất cao. Nhiều học giả từng cố gắng đi tìm nguồn gốc cho lễ Phu-rim,
hoặc là (1) trong phong tục tập quán về năm mới của người Ba-by-lôn; (2)
trong đại lễ mừng xuân của người Ba-tư, hoặc (3) một lễ cho người chết của
đạo Zoroaster, nhưng đều không đứng vững nổi về phương diện triết lý cũng
như về nền tảng lịch sử.
PHÂN TÍCH
EtEt 1:1-22.
Bữa tiệc của A-suê-ru. Hoàng hậu Vả-thi bị phế.
EtEt 2:1-23.
Ê-xơ-tê được phong làm hoàng hậu. Mạc-đô-chê phát giác một mưu phản.
EtEt 3:1-4:17.
Ha-man được thăng chức và lập kế hoạch tuyệt diệt dân Do Thái.
EtEt 5:1-7:17.
Ê-xơ-tê cầu thay khiến cho âm mưu ấy thất bại. Mạc-đô-chê được tôn vinh,
Ha-man bị xử tử.
EtEt 8:1-10:3.
Mạc-đô-chê được thăng quan tiến chức, và dân Do Thái được giải cứu. Lễ
Phu-rim.
NỘI DUNG
Sách Ê-xơ-tê là một toàn quyển liên tục, một câu chuyện tuần tự diễn tiến
cho đến phần cao điểm kết thúc thật bất ngờ. Sách bắt đầu bằng phần mô tả
một đại tiệc do vua Ba-tư khoản đãi các quan chức cấp tỉnh, dẫn đến việc
hoàng hậu Vả-thi bị truất phế, và kể lại chuyện Ê-xơ-tê, một thiếu nữ Do
Thái, đã được tuyển để thay thế vào địa vị của bà ta, việc Ha-man đã thuyết
phục được nhà vua ban chiếu chỉ tuyệt diệt dân Do Thái, rồi nhờ lời cầu thay
của Ê-xơ-tê đã đảo ngược được chiếu chỉ chống lại dân Do Thái, khiến cuối
cùng, họ được để cho sống bình an. Câu viết rằng Ê-xơ-tê được 'lập làm
hoàng hậu' phải hiểu là được lập làm một (trong nhiều) hoàng hậu. Vị hoàng
hậu 'chính cung' hay hợp pháp của Xét-xe là Amestris, con gái của một đại
tướng Ba-tư. Herodotus chép rằng lúc ấy Xét-xe đang tự an ủi về những trận
ông ta bị người Hi-lạp đánh bại, đang muốn giải khuây ở hậu cung, và kể lại
tính khí của ông ta với cả một vương quốc rộng lớn hoàn toàn ăn khớp với
những gì chúng ta đọc thấy trong sách Ê-xơ-tê.
Tuy nhiên, Olmstead, theo bản Bảy Mươi, lại nhận diện A-suê-ru là Ạt-ta-
xét-xe II (404-355 TC) và thêm vào nhiều sự kiện của nhiều tác giả ngoại
đạo liên hệ với đời trị vì của vua ấy, hoàn toàn phù hợp với câu chuyện của
Kinh Thánh.
Có một sự kiện đáng chú ý là trong sách Ê-xơ-tê, danh Đức Chúa Trời
không được đề cập, nhưng điều cũng đáng chú ý là ý niệm về quyền năng
thần hựu của Đức Chúa Trời đã được nói lên thật kiến hiệu trong câu chuyện
mà không cần phải nêu danh Ngài ra. Nhiều người đã đưa ra nhiều cách
khác nhau cho vấn đề ấy, chẳng hạn như quyển sách cốt yếu vốn được trích
từ các tài liệu chính thức của vương quyền Ba-tư ra (EtEt 2:23; 6:1), nên
danh ấy không được viết để khỏi xúc phạm đến các độc giả người Ba-tư,
hoặc vì sợ e danh ấy bị phàm tục hóa vì là người ngoại đạo đọc. Dù lý do là
gì đi nữa vẻ đẹp của tác phẩm và giá trị các bài học trong đó vẫn tồn tại. Có
một số người lên án cái gọi là tinh thần quốc gia hẹp hòi trong sách, nhưng
chúng ta phải nhớ rằng dân Do Thái đã có một triết lý về lịch sử đặt nền tảng
trên niềm tin vào một Đức Chúa Trời đang cầm quyền tuyển dân của Ngài.
Nếu đã như vậy thì sự tồn tại của họ còn vượt xa tầm quan trọng có tính
cách quốc gia dân tộc. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ không hoàn thành sứ mạng Đức
Chúa Trời đã chỉ định cho họ trong thế gian trừ phi họ được Đức Chúa Trời
bảo vệ khỏi các kẻ thù để ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-sai rằng: 'Phàm binh
khí chế ra nghịch cùng ngươi sẽ chẳng thạnh lợi' (EsIs 54:17). Các biến cố
thảm khốc của trận đệ nhị thế chiến cho chúng ta một thí dụ hiện đại minh
thị cho sách này, và đánh tan lời bài bác của các nhà phê bình đã có lần bảo
rằng một âm mưu tuyệt diệt dân Do Thái như vậy là 'không có lý' hoặc
không thể nào có được.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu sách Ê-xơ-tê như một thí dụ minh họa cho hai nguyên tắc của
Tân Ước:
a) 'Bởi vì ai tự nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống, sẽ
được nhắc lên' (LuLc 14:11).
b) 'Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa
Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định' (RoRm 8:28).
2. Thông điệp của sách Ê-xơ-tê về cách đối xử với người thiểu số, có thể
ứng dụng cho thời nay như thế nào?
3. Cuộc đời của Mạc-đô-chê giống với cuộc đời của Giô-sép ở Ai Cập và
Đa-ni-ên ở Ba-by-lôn như thế nào?
THI CA HY-BÁ-LAI
Thi Ca là phương tiện tự nhiên để chuyên chở tư tưởng khi các cảm xúc bị
kích động, và giữa những người Hê-bơ-rơ thì nó đã có ngay từ thời nguyên
thủy (SaSt 4:23,24; 9:25-27). Cho nên chúng ta từng gặp một bài ca cho việc
đào giếng (Dan Ds 21:17), những bài ca chiến thắng (Dan Ds 21:27; Cac Tl
5:1-31), và những bài ca thương vì bị mất mát (IISa 2Sm 1:17). Các Thi
Thiên là thi ca tôn giáo lý tưởng của người Y-sơ-ra-ên, nhưng các sách
Gióp, Châm Ngôn, Nhã Ca và Ca Thương phần lớn cũng có hình thức của
thi ca.
Thi Ca Hy-bá-lai không có vần, nhưng được phân biệt với văn xuôi nhờ nhịp
điệu và cách sắp xếp đối ứng, bằng từ vựng và bút pháp đặc biệt, và bằng
một nét đặc biệt gọi là song đối, gồm ba loại:
1. Đồng nghĩa, khi nửa phần thứ hai của một câu lặp lại nội dung của phần
đầu hay gần như vậy, nhưng bằng lời lẽ khác (thí dụ Dan Ds 23:8; Thi Tv
37:2,6,10,12).
2. Đối nghĩa, khi có sự tương phản, hay phản đề ở vế thứ hai (thí dụ Thi Tv
37:9).
3. Tổng hợp, khi phần thứ hai khai triển tư tưởng của phần đầu, hoặc như kết
quả hoặc mở rộng ra (thí dụ Thi Tv 2:6, 37:4,5,13; ChCn 16:3,5).
Thỉnh thoảng chúng ta chỉ gặp đúng ba chữ họp thành ý nghĩa của một dòng,
khiến cách diễn tả có vẻ 'cộc lốc', 'nhát gừng' đặc biệt.
Một số bài thơ có hình thức sắp xếp theo thứ tự mẫu tự nghĩa là các câu hay
đoạn bắt đầu bằng chữ cái theo mẫu tự Hy-bá-lai. Khoảng cách là một dòng
trong Thi Tv 111:1-112:10 hai dòng trong Thi Tv 25:1-17; 34:1-22; 114:1-8;
ChCn 31:10-31; CaAc 4:1-22 ba dòng trong 1:1-22; 2:1-22; 3:1-66, bốn
dòng trong các Thi Tv 9:1-20; 10:1-18; 37:1-40 và mười sáu dòng trong Thi
Tv 119:1-176. Trong trường hợp sau cùng, mỗi khổ thơ gồm tám cặp câu
đều bắt đầu bằng cùng một chữ đặc biệt trong mẫu tự.
Trong nguyên văn Hy-bá-lai, câu thơ có vẻ mạnh mẽ và thích ứng không
phải dễ phiên dịch; chẳng hạn như ngôn ngữ của Thi Tv 2:1-12 vốn 'nhát
gừng' và xô bồ trong mấy câu 1-3, lại trở thành bình lặng, trang nghiêm
trong những câu tiếp theo.
Các 'Bài Ca Của Si-ôn' rất nổi tiếng (Thi Tv 137:3). Nhan đề của các Thi
Thiên chứng minh cho sự kiện chúng đã được hát lên theo các âm điệu mà ai
ai cũng biết, và có nhạc khí đệm theo. Hình thức thơ của sách Châm ngôn
khiến chúng rất dễ học thuộc lòng, còn hình thức thi ca của sách Gióp và
Nhã Ca của Sa-lô-môn rất dễ đưa lên sân khấu.
SÁCH GIÓP
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Vấn đề tác quyền tùy thuộc người ta xem sách ấy là sách ký thuật lại sự
kiện, là một vở kịch ẩn dụ, hay một thể loại văn chương nằm giữa hai thể
loại đó. Truyền Đạo thống xưa dầu không phải là không có ngoại lệ - thừa
nhận sách này là sử ký, và cho rằng Môi-se là trước giả một phần lớn sách
Gióp. Trong bản dịch ra tiếng Sy-ri, sách Gióp được xếp giữa hai sách Phục
Truyền Luật Lệ Ký và Giô-suê.
Luther thừa nhận nó là 'sử ký đích thực' nhưng nghĩ rằng hình thức kết cấu
của nó phải do một nhân vật 'tin kính, có học thức' nào đó viết ra; Grotius
nói: 'Mọi việc đó quả thật đã xảy ra, rồi được diễn tả bằng thơ'. Những con
số biểu tượng, bản tính các cuộc tranh luận và hình thức kịch của quyển sách
đã kết hợp nhau để xác nhận cho ý kiến ấy, rằng nó là một bài thơ bác học
có nền tảng lịch sử.
Một số các nhà phê bình xem những lời giảng thuyết của Ê-li-hu như phản
ánh một niên đại muộn màng về sau này hơn là phần còn lại của quyển sách,
nhưng ngôn ngữ được dùng thì lại không gợi ý như vậy. Những bài giảng
thuyết đưa ra nhiều yếu tố mới mẻ và 'do phần mô tả vẻ uy nghiêm của Đức
Chúa Trời, đã dọn đường cho việc Đức Giê-hô-va từ trong cơn giông lên
tiếng phán dạy'(J.H.Raven, Old Testament Introduction).
Luther và Delitzsch thì chủ trương trước giả sách Gióp là Sa-lô-môn hay
người đồng thời với vua ấy. Để hậu thuẫn cho lý lẽ đó, J.H.Raven nói: 'Cách
lý luận chủ động và độc đáo các vấn đề về 'sự khôn ngoan' trong sách Gióp
gợi ý về một niên đại muộn màng về sau này, khi nền văn chương về sự
khôn ngoan đã có hình thức rõ rệt và được nhiều người mô phỏng'.
Trong tất cả các vấn đề thảo luận về tác quyền và niên đại, điều quan trọng
là cần phân biệt thời đại quyển sách đã được viết ra, với thời gian mà các
biến cố được mô tả đã thật sự xảy ra. Việc Gióp là một nhân vật lịch sử ẩn
tàng trong phần ông được mô tả là 'một người trong xứ Út-xơ' và trong các
câu ám chỉ ông trong Exe Ed 14:14 và Gia Gc 5:11 và điều đáng chú ý là đã
không có tên nào trong sách là tên biểu tượng cả. Mặt khác, rất có thể trước
giả đã sống ở các thế kỷ sau này và đã lồng câu chuyện nguyên thủy vào
hình thức thơ ca để dùng nó tạo một cơ hội cho mọi người phải bàn cãi sâu
rộng vấn đề đau khổ. Nếp sống được giả định trong sách là của thời kỳ các
tộc trưởng (thí dụ sự giàu có được căn cứ vào số gia súc, Gióp dâng của lễ
mà không cần có thầy tế lễ...) đã tồn tại rất nhiều thế kỷ bên cạnh sự phát
triển của một nền văn minh có hình thức cao hơn khiến thời đại của trước
giả với các vị anh hùng của các bài thơ có thể vốn gần nhau hơn là điều
nhiều người vẫn nghĩ.
Bối cảnh của bài thơ nằm bên ngoài các bờ cõi xứ Y-sơ-ra-ên. Nói chung,
thì mọi người đều nghĩ rằng vị trí của xứ Út-xơ là trong đất Ê-đôm (xem
ISu1Sb 1:42 và CaAc 4:21). Các nhân vật không phải là người Y-sơ-ra-ên,
nhưng các vấn đề lại được thảo luận theo quan điểm của dân Do Thái. Tên
Giao ước của Đức Giê-hô-va chỉ được sử dụng trong các ký thuật bằng văn
xuôi ở đoạn đầu và đoạn cuối của quyển sách mà thôi. Chính Gióp cùng ba
người bạn của ông và Ê-li-hu đều đề cập Đức Chúa Trời là El, Eloah,
Shaddai và Elohim, là những danh đã được dùng vào thời các tộc trưởng và
cho thấy nguồn gốc nguyên thủy của quyển sách.
Chủ đề của quyển sách là vấn đề muôn thuở liên quan đến việc thực thi công
lý của Đức Chúa Trời. Vào thời của trước giả, chủ đề này càng phức tạp
thêm do:
1. Giáo lý về Đức Chúa Trời thưởng thiện phạt ác tương xứng ngay trong
đời này (so sánh Thi Tv 64:1-11; 73:1-20; 37:25).
2. Một quan niệm tiêu cực hoàn toàn về âm phủ, chỗ ở của các linh sau khi
qua đời (so sánh Giop G 30:23; Thi Tv 6:5; 30:9; 88:11,12).
3. Một ý thức phát triển về giá trị và việc mỗi cá nhân phải tính sổ (với Đức
Chúa Trời), đòi hỏi người ta phải tìm tòi tra vấn thêm về sự kiện ở đời.
Vấn đề này từng được nhấn mạnh ở những chỗ khác, như TrGv 8:14 và Gie
Gr 12:1-3. Sách Gióp trình bày giải pháp chơn chất của truyền thống, và đề
ra một giải pháp khác cho vấn đề trên một mức độ sâu nhiệm hơn.
PHÂN TÍCH
Giop G 1:1-2:13.
Lời nói đầu, hai khung cảnh trên thiên đàng, và các thân hữu của Gióp đến.
Giop G 13:1-11.
Đối thoại.
Chu kỳ một. Giop G 3:1-14:22 Gióp - Ê-li-pha - Gióp - Binh-đát - Gióp -
Sô-pha Gióp. Các lý thuyết ước lệ bị phê bình.
Chu kỳ hai. Giop G 15:1-21:34 Ê-li-pha - Gióp - Binh-đát - Gióp - Sô-pha -
Gióp.
Chu kỳ ba. Giop G 22:1-31:40 Ê-li-pha - Gióp - Binh-đát - Gióp.
Giop G 32:1-37:1-24.
Bài giảng thuyết của Ê-li-hu. Cứu cánh đầy phước hạnh của hoạn nạn, nhục
nhã và chịu trừng phạt trên đời.
Giop G 38:1-42:6.
Đức Giê-hô-va phán và Gióp đáp lời.
Giop G 42:7-16.
Lời bạt. Gióp được báo đáp và ban thưởng.
NỘI DUNG
Sách gồm một phần đối thoại bằng thơ, với lời nói đầu và lời bạt bằng văn
xuôi.
Trong lời nói đầu (Giop G 1:1-2:13) sự kết hợp của nếp sống công chính với
sự hưng thịnh vật chất nơi con người ông Gióp đã khiến Sa-tan phật ý. Nó
vốn là kẻ thù của nhân loại với câu chế giễu luôn ở trên môi 'Gióp há kính sợ
Đức Chúa Trời luống công sao?' (1:9). Nó được Đức Chúa Trời cho phép,
trước nhất, là đụng chạm đến tài sản của Gióp, thứ đến là chạm vào con
người ông, để do đó, chứng thực cho việc ông bám chặt vào Đức Chúa Trời.
Như thế, độc giả được cho thấy lý do Gióp đã phải gặp hoạn nạn ngay khi
màn được kéo lên như trong một vở kịch Hy Lạp, và tiếp theo là những nỗ
lực của ba người bạn thân của Gióp với Ê-li-hu cùng với chính Gióp, đã
chiến đấu cật lực với vấn đề đau khổ của ông có phải là điều mà ông đáng
phải nhận chịu hay không.
Trong phần đối thoại (Giop G 3:1-31:40) ba người bạn của Gióp là Ê-li-pha
người Thê-man, Binh-đát người Su-a và Sô-pha, người Na-a-ma đều bắt đầu
từ cùng một tiền đề là hoạn nạn lớn lao vốn là hậu quả của những tội lỗi thật
nặng; họ nhiều lần cố gắng thuyết phục Gióp hãy nhận tội (thí dụ Ê-li-pha ở
Giop G 4:7,8 Binh-đát ở 8:3 Sô-pha ở 11:20). Nhưng, tuy thoạt đầu Gióp
chấp nhận tiền đề của họ (đến 21:7-15 thì ông bác bỏ), ông vẫn không chịu
bỏ qua sự liêm chính của mình (xem 6:24,25,29; 7:20,21; 23:11,12;
27:6,31). Tuy ông có vô tình phạm tội (xem Dan Ds 15:22-31), nhưng một
tội lỗi đáng bị trừng phạt nặng nề như trường hợp của ông thì không thể là
một tội không cố ý được.
Đây là nan đề của Gióp. Hoặc ông đã không có lương tâm trong trắng, hoặc
Đức Chúa Trời vốn không phải là thánh thiện. Có thể nào Gióp công minh
hơn Đức Chúa Trời sao? Phải chăng Đức Chúa Trời là kẻ thù của Gióp? (
Giop G 16:1-22). Tại sao lại không mở ra một cuộc xử án công khai để Gióp
có thể tự biện hộ trước mặt Đấng Toàn Năng (23:3,4). Tại sao lại không có
một trọng tài (9:33) đặt hai tay trên hai đàng để đem đến sự thông cảm
nhau?
Trong khi chờ đợi, một tư tưởng khác đã xen vào cuộc thảo luận. Ấy là sự
đau khổ của Gióp không phải là sự hình phạt, mà chỉ là một phương pháp để
thử nghiệm cá tính, một tiếng vọng từ các cảnh tượng đã xảy ra ở trên trời.
Tư tưởng này đã được đưa vào trong bài giảng thuyết đầu tiên của Ê-li-pha
(5:17). Nó tái hiện trong bài giảng thuyết của Ê-li-hu (33:15-18; 35:9-11;
36:15). Gióp vẫn không chịu rời bỏ niềm tin quyết rằng Đức Chúa Trời vốn
là bạn thiết của ông. Dầu sao chăng nữa, dầu ở đâu và bất luận lúc nào, Đức
Chúa Trời vẫn can thiệp và báo đáp cho kẻ tôi tớ Ngài. Đức tin có thể xuyên
thủng mây mù, và tuyệt đỉnh đã đạt được trong câu nói hi hữu: 'Còn tôi, tôi
biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống. Đến cuối cùng, Ngài sẽ đứng trên
đất' (19:25).
Bài giảng thuyết của Đức Giê-hô-va ( 38:1-41:34) xác nhận nội kiến đó của
Gióp và sự thánh thiện cùng tính cách vĩ đại của Đức Chúa Trời. Đấng đã
sáng tạo và đang bảo tồn thế gian này bằng tất cả quyền phép lạ lùng, không
hề rời mắt khỏi những khổ đau của Gióp. Đấng ban sức mạnh cho con trâu
nước (behemoth, 40:15) và con cá sấu (leviathan, 41:1) cũng mạnh mẽ để
bênh vực cho kẻ thật lòng tin cậy Ngài.
Đã không hề có lời giải đáp trực tiếp nào cho vấn đề chịu đau khổ của Gióp.
Nhưng thái độ đứng đắn đã được vạch rõ, ấy là lòng tin cậy trọn vẹn vào
Đức Chúa Trời chống lại mọi động cơ thúc đẩy khác (xem 13:15a). Gióp đã
'nhận thấy là Đức Giê-hô-va luôn luôn ở bên cạnh mình; Ngài không hề xa
lạ với mình hơn vào những ngày thịnh vượng xưa kia, mà còn được nhận
biết thiết thân hơn' (Gray). Thế là con đường đã được dọn sẵn cho một mạc
khải đầy đủ hơn, tức là 'phần thưởng đích thực cho những người công chính
không phải là sự hưng vượng vật chất, nhưng là sự sống đời đời trong hiện
diện của Đức Chúa Trời' (Kissane).
Trong lời bạt, Gióp được phục hồi sự thịnh vượng gấp đôi khi trước; việc
ông được ban lại gấp đôi chứng minh cho sự thiện hảo dư dật của Đức Chúa
Trời.
Sách Gióp là một trong các Sách Thi Ca, và ở đây, tâm trí của Đức Chúa
Trời liên hệ đến sự đau khổ của loài người đã được mạc khải rõ ràng hơn bất
cứ chỗ nào khác trong Cựu Ước. 'Đây là một trong những vấn đề đầu tiên,
xưa cũ nhất và vô tận của thân phận con người và đường lối của Đức Chúa
Trời dành cho họ trên đất này. Nó thật quan trọng trong tính cách chân thật,
đơn giản, là giai điệu của một bản anh hùng ca và là chỗ yên nghỉ để phục
hòa. Theo thiển ý thì trong cả Kinh Thánh và ngoài Kinh Thánh nữa, đã
không hề có một văn phẩm nào có giá trị văn chương tương đương (với sách
Gióp)' (Carlyle). Còn về phương diện sách này chuẩn bị cho Phúc Âm, thì
J.B.Mozley đã nói rất đúng: 'Nếu người Do Thái phải chấp nhận một Đấng
Mết-si-a phải sống một cuộc đời buồn khổ, nhục nhã và phải chịu đóng đinh
giữa hai tên trộm cướp, thì điều cần thiết là ở đâu đó phải có lời dạy dỗ rõ
ràng rằng trên đời này không phải hễ là đức hạnh thì luôn luôn được ban
thưởng, do đó, không thể căn cứ vào hoạn nạn nhục nhã của một người để
rút ra một luận cứ chống lại con người đã phải chịu đựng nó'. Từ ý niệm này,
chỉ cần một bước ngắn để tiến sang ý niệm về sự chịu khổ để chuộc tội, là
một nét của EsIs 53:1-12 và đã ứng nghiệm trong Đấng Christ.
Những câu nói giống nhau rõ ràng nhất với các khúc sách khác trong Cựu
Ước là trong 7:17 (Thi Tv 8:4); 3:10 (Gie Gr 20:14-18); và 28:28 (ChCn
9:10). Các học giả bảo là có sự lệ thuộc vào nhau hoặc là của sách này hay
sách kia. Trong Tân Ước 'sự nhịn nhục của Gióp' được đề cập trong Gia Gc
5:11 và 5:13, được trích dẫn trong ICo1Cr 3:19. Ngoài ra không có chỗ trích
dẫn rõ rệt nào khác.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Truy nguyên sự phát triển tư tưởng của Gióp căn cứ vào lời thuyết giảng
của ông, đặc biệt là về thái độ của ông đối với (a) Đức Chúa Trời; (b) chính
mình; (c) cùng các lý thuyết ước lệ về tội lỗi và sự đau khổ.
2. So sánh 38:2 với 42:7. Mỗi trường hợp đã đề cập điều gì, và hai câu này
có thể được dung hòa như thế nào?
3. Phao-lô (ICo1Cr 3:19) trích dẫn Giop G 5:13 để minh họa tính cách hư
không của sự khôn ngoan loài người, còn Gia-cơ (Gia Gc 5:11) dùng câu
chuyện của Gióp để minh họa cho chủ đích và sự thương xót của Đức Chúa
Trời. Hãy nghiên cứu sách Gióp theo hai phương diện đó.
4. Tìm những câu trích dẫn chứng minh rằng sự đau khổ đã được quan niệm
là (a) sự báo trả; (b) sự sửa phạt; (c) sự rèn thử (thử thách để rèn luyện, tập
tành); và (d) đưa đến một kinh nghiệm sâu nhiệm hơn về lòng thương xót
của Đức Chúa Trời. Liên hệ với vấn đề này, hãy tìm những câu trích dẫn ghi
bên lề (marginal references) trong Tân Ước.
SÁCH THI THIÊN
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH.
Các nhan đề.
1. Tên trước giả. Hai phần ba các Thi Thiên có phần đặt ở phía trước gán
cho một trước giả nào đó. Vì chúng đã có trong Bộ Bảy Mươi, chắc ít nhất
chúng cũng có trước năm 150 TC, và vì chúng được gắn liền với các Thi
Thiên xưa (tiền lưu đày), có thể chúng đã có từ rất lâu đời. Các trước giả như
sau:
Môi-se, một (Thi Tv 90:1-17); Đa-vít, bảy mươi ba (phần lớn trong Quyển I
và II); Sa-lô-môn, hai (72:1-20 và 127:1-5 A-sáp; mười hai ( 50:1-23; 73:1-
83:18); con cháu Cô-rê, mười một ( 42:1-49:20; 84:1-85:13; 87:1-7); Hê-
man người Ếch-ra-hít, một ( 88:1-18); Ê-tham người Ếch-ra-hít, một ( 89:1-
52).
Như thế, phân nửa sách Thi Thiên đã được kết hợp với Đa-vít, và tên ông
thường được nêu lên cho toàn bộ sưu tập. Do đó các nhà phê bình triệt để
không nhận Đa-vít có viết một Thi Thiên nào cả, hoặc xếp tất cả Thi Thiên
vào giai đoạn hậu lưu đày (như Duhm), đều không nhận thấy được sức mạnh
của một truyền thống rất cổ xưa của phần lớn sách Thi Thiên chúng ta có thể
viện dẫn các lý do sau đây:
a) Thi Ca về tôn giáo hay bán tôn giáo đã có từ rất lâu trước thời của Đa-vít.
Người ta đã tìm được tại Ai Cập và Ba-by-lôn nhiều bài Thánh Ca đã có rất
sớm, vào khoảng thế kỷ 15 TC, và ngay trong Kinh Thánh, cũng đã có bài ca
Giếng (Dan Ds 21:17,18), Bài Ca và Chúc Phước của Môi-se (PhuDnl 32:1-
33:29), Bài Ca của Đê-bô-ra (Cac Tl 5:1-31) và Các Sấm Ký của Ba-la-am
(Dan Ds 24:1-25).
b) Chính Đa-vít rất thích hợp là người hát Thi Thiên (xem ISa1Sm 16:15-23;
IISa 2Sm 1:19-26 (Bài ca khóc Sau-lơ và Giô-na-than), và IISa 2Sm
3:33,34). Việc ông là 'chiến sĩ' (ISa1Sm 16:18) và từng phạm nhiều tội nặng
không hề biến ông thành một người không có óc tưởng tượng hay không thể
có những cảm xúc sâu xa. 'Thói quen phủ nhận các khả năng phức tạp của
các nhân vật trong Kinh Thánh sẽ thật hết sức liều lĩnh và chẳng có gì là
chắc chắn, khi sử ký có đầy đủ các thí dụ về việc một người duy nhất có
nhiều đức tính rất khác nhau' (J.Robertson). Thiết tưởng cần chú ý đến câu
ghi chú bên lề IISa 2Sm 23:1 trong bản R.V.: 'làm kẻ hát êm dịu (psalmist)
của Y-sơ-ra-ên'.
c) Giai đoạn đầu của thời kỳ quân chủ là thời kỳ phục hưng của tinh thần
quốc gia. Đất nước đã đứng vững trước các kẻ thù, sự giao thương phát
triển, hòm giao ước bấy giờ lập tại đó; đền thờ sắp được xây cất. Người ta sẽ
phải ngạc nhiên nếu không thấy có dấu hiệu nào của thời kỳ đó liên hệ đến
những sáng tác trữ tình.
d) Nhiều lời tiên tri vốn có hình thức giống như các Thi Thiên. 'Việc các nhà
tiên tri rập khuôn phần hình thức các Thi Thiên giả thiết sự hiện hữu của các
Thi Thiên đích thực vào thời (các lời tiên tri ấy) để được viết ra'
(Gressmann).
Tuy chúng ta không bị bắt buộc phải thừa nhận tất cả những nhan đề gán
cho các Thi Thiên - dầu là cho Đa-vít hay những người khác - đều đúng, đều
thật, chúng ta phải chú ý rằng các nhan đề ấy đều là một thành phần của bản
văn đã được lưu truyền đến chúng ta với tư cách là các Thi Thiên. Trong Hy
văn, câu 'của Đa-vít' có thể có nghĩa là 'thuộc về' hay 'cho', 'dành cho' Đa-vít,
và không nhất thiết ngụ ý rằng Đa-vít là trước giả; nhưng điều đang chú ý là
chính Đấng Christ từng chứng thực rằng Đa-vít là trước giả của Thi Tv
110:1-7; (Mac Mc 12:36, và Công Vụ Các Sứ Đồ thì bảo rằng ông đã được
linh cảm để viết Thi Tv 2:1-12 (Cong Cv 2:34; 4:35).
2. Lịch sử và miêu tả. Cùng với phần ghi chú gán một bài Thi Thiên cho một
trước giả, các nhan đề còn có phần ghi chú về lịch sử, nhằm mô tả, nói về
âm nhạc, hay kinh kệ. Các ký chú về cơ hội bài Thi Thiên được viết ra nhiều
khi soi sáng được rất nhiều điều (thí dụ các Thi Tv 3:1-8; 18:1-50; 51:1-19);
nhưng thỉnh thoảng dường như cũng chỉ soi sáng được rất ít cho bài Thi
Thiên. Sự kiện sau này, đồng thời với phần đề cập tối nghĩa, chứng thực cho
thời đại và tính cách chân thực của chúng.
Về những từ ngữ nhằm mô tả, như 'Bài ca' (thí dụ Thi Tv 45:1-17) dường
như phải được phân biệt với 'Thi Thiên' (thí dụ Thi Tv 19:1-14) như là một
bài ca được hát lên mà không có nhạc khí phụ họa. Có một số bài đã được
mô tả là 'Bài Cầu Nguyện' (thí dụ Thi Tv 17) và một bài được mô tả là 'Thơ
Ngợi Khen' (Thi Tv 145:1-21). Maschil hàm ý là suy gẫm hay dạy dỗ;
Michtam là một lời công bố hay thơ châm biếm (cũng xem Thi Tv 38:1-22;
20:1-9; 100:1-5).
3. Các chỉ dẫn về âm nhạc. Bộ Bảy Mươi dịch chữ Selah là diapsalma, nghĩa
là dấu nghỉ trong âm nhạc, có lẽ chính là nghĩa đúng của nó. Có một số nhan
đề nói về các nhạc khí. Neginoth (thí dụ Thi Tv 4:1-8) có nghĩa là đàn dây
(so sánh ISa1Sm 16:16) và Nehiloth (thí dụ Thi Tv 5:12) là đàn gió (kèn,
sáo, phải thổi). Alamoth (Thi Tv 46:1-11;) có lẽ có nghĩa là giọng nữ, còn
Sheminith (bát âm) có lẽ có nghĩa là giọng nam. Jeduthun (xem Thi Tv 39)
là tên của một ca trưởng vào thời của Đa-vít (ISu1Sb 16:41), và 55 Thi
Thiên được đề tặng cho 'thầy nhạc chánh'. Nhiều chỉ dẫn được cho là ngụ ý
ám chỉ một số giai điệu nổi tiếng (thí dụ Thi Tv 9:1-20; 56:1-57:11).
Các niên đại đúc kết.
Các Thi Thiên thuộc về phần thứ ba trong bộ Kinh Thánh Hy-bá-lai, gọi là
'Các Sách Văn thơ'. Vì sách Thi Thiên là quyển đầu, nên nó thường được
dùng chỉ chung cho cả phần ấy (so sánh LuLc 24:44, nơi cả ba phần của Cựu
Ước được gọi là 'Sách Luật Pháp, các Sách Tiên Tri cùng các Thi Thiên').
Thi Thiên là quyển Thánh Ca của người Do Thái. Có lẽ Thi Tv 90:1-17
(xem nhan đề) là bài hát xưa nhất. Thi Tv 137:1-9 chắc chắn là có niên đại
vào thời kỳ lưu đày; các Thi Tv 74:1-23 và 79:1-13 được mọi người cho là
của thời kỳ hậu lưu đày. Đàng sau cách sắp xếp hiện tại, có thể còn có nhiều
bộ sưu tập xưa hơn nữa. Câu ghi chú ở cuối Thi Tv 72:1-20 có lẽ ám chỉ còn
nhiều bài Thi Thiên khác nữa.
Người Do Thái chia cả sách Thi Thiên ra làm năm quyển, nghĩa là: Quyển I,
Thi Tv 1:1-41:13 Quyển II, Thi Tv 42:1-72:20 Quyển III, Thi Tv 73:1-89:52
Quyển IV, Thi Tv 90:1-106:48 Quyển V, Thi Tv 107:1-150:6. Mỗi quyển
đều kết thúc bằng một bài ca tán tụng. Thi Tv 1:1-6 và 150:1-6 thích hợp
cho phần nhập đề và kết luận cho toàn bộ sưu tập.
Một nhà giải kinh mới đây có đề nghị sắp xếp các nhóm như sau:
a. Bộ sưu tập của Đa-vít (Thi Tv 3:1-41:13). Ở đây Đức Chúa Trời được gọi
bằng tên Đức Giê-hô-va (Chúa), trừ vài ngoại lệ.
b. Bộ sưu tập hỗn hợp (Thi 42:1-89:13;). Đức Chúa Trời thường được gọi là
Elohim (Đức Chúa Trời). Những ghi chú gán các Thi Thiên cho 'con cháu
Cô-rê', 'Đa-vít', 'A-sáp' có thể chỉ về các bộ sưu tập xưa hơn (Thi Tv 84:1-
89:52 phần lớn dùng danh Đức Giê-hô-va).
c. Bộ sưu tập khuyết danh (Các Thi Tv 90:1-150:6) gồm cả mười lăm bài
được gán cho Đa-vít). Dùng danh Đức Giê-hô-va. Phần nhiều là các Thi
Thiên được dùng như những bài kinh, được dùng cho việc thờ phượng trong
đền thờ.
Các Thi Tv 1:1-6 và 2:1-12 là phần vào đề, và có một Thi Thiên được tìm
thấy trong hơn một bộ sưu tập, xuất hiện với tư cách Thi Tv 14:1-7 và 53:1-
7, với danh Đức Chúa Trời được thay đổi.
Cơ hội và bối cảnh.
Không phải tất cả các Thi Thiên đều được soạn thảo để sử dụng trong việc
thờ phượng công cộng. Chúng gồm cả các bài thơ suy gẫm, bài học, các bài
thơ học thuộc lòng về lịch sử; thật ra, chúng đã ra đời nhân nhiều cơ hội
khác nhau, vừa do nhu cầu cá nhân, vừa do sự đòi hỏi của cả quốc gia, dân
tộc.
Không phải bao giờ tiếng 'tôi' của các tác giả Thi Thiên cũng chỉ rõ ràng một
cá nhân, hay chỉ là người phát ngôn trong một cộng đồng đang thờ phượng.
Nỗ lực nhằm xem tất cả các Thi Thiên đều có tính cách 'cộng đồng' đã
không thành công, nhưng 'cộng đồng thì không bao giờ ở xa cả'
(Montefiore).
Giới học giả gần đây có khuynh hướng xem bối cảnh lịch sử lệ thuộc cách
diễn tả trong kinh kệ, đề cập các nhu cầu luôn luôn cứ gặp đi gặp lại luôn.
Trong PhuDnl 26:1-19, có một loạt từ ngữ họp thành một hình thức bắt buộc
đối với người Y-sơ-ra-ên đến dâng các hoa quả đầu mùa cho Đức Giê-hô-va.
Một công thức khác giống như vậy cùng xuất hiện trong PhuDnl 21:7,8.
Cũng theo cách đó, Thi Tv 116:1-19 có thể được một người đến trả lời thề
nguyện sau khi được lành bịnh, sử dụng nhân một trong các kỳ đại lễ (xem
câu 116:14), còn Thi Tv 107:1-43 là do một số người đồng thanh dâng lên
một công thức cảm tạ hàm súc. Các Thi Tv 113:1-118:29 được biết dưới cái
tên 'Những bài ca Ha-lê-lu-gia vĩ đại' được hát lên nhân ba ngày đại lễ hằng
năm là lễ Vượt Qua, lễ Lều Tạm và lễ Ngũ Tuần và là bài Thánh Ca được đề
cập trong Mat Mt 26:30.
Trong khi tiếp nhận phần ánh sáng phụ trội mà ý niệm này chiếu rọi trên sự
phát triển của một vài Thi Thiên, ta phải nhớ là điều đó chỉ có thể ứng dụng
thật hạn chế mà thôi. Các Thi Thiên phơi bày một sự tươi mới và độc đáo,
không phải là những khuôn sáo đã được đúc sẵn. Dường như điều hiển nhiên
là một số lớn vốn bắt nguồn từ một bối cảnh cá nhân, rồi sau đó mới được
góp nhặt lại để công chúng cùng sử dụng trong đền thờ và tại tư gia.
Thêm vào các dấu hiệu nội tại của các bộ sưu tập đã kể trên mà chúng tôi
vừa ghi nhận, còn có nhiều gợi ý về việc hình thành các bộ sưu tập ấy vào
thời Đa-vít (ISu1Sb 15:16), Ê-xê-chia (so sánh ChCn 25:1), E-xơ-ra và Nê-
hê-mi (NeNe 8:1-9:38).
NỘI DUNG.
Sách Thi Thiên là một kho báu về sự cầu nguyện và xưng tội dành cho việc
dưỡng linh (devotion) chung và riêng. Nhờ đó mà vô số các thánh đồ, cả
người Hê-bơ-rơ lẫn các Cơ Đốc nhân sung sướng ra mắt Đức Chúa Trời với
những lời Thi Thiên đó. Trong những giờ phút nguy cấp, tự nhiên dân Chúa
sẽ đến với Thi Tv 46:1-11, với niềm tin quyết rằng Đức Chúa Trời là 'nơi ẩn
náu và là sức lực của chúng tôi'; sự ăn năn thống hối của họ được diễn tả
bằng lời lẽ Thi Tv 51:1-19 lòng tin quyết vào sự yêu thương chăm sóc của
Đức Chúa Trời dựa trên Thi Tv 23:1-6. Edward Wilson trong đoàn thám
hiểm Bắc cực từng ý thức được nỗi kinh hoàng giữa các khung cảnh hoang
vu bao la nhờ cách diễn tả hết sức trung thực của các Thi Thiên.
Ta có thể hỏi tại sao sách Thi Thiên là quyển thánh ca chính thức của một
trong những cộng đồng độc đáo trên thế giới, lại được ứng dụng phổ cập
rộng rãi như thế. Lord Ernle (R.E.Prothero) đã đưa ra câu trả lời trong tác
phẩm đầy sức quyến rũ của ông, quyển 'Các Thi Thiên trong đời sống con
người' (The Psalms in Human life). Trong sách, ông nói: “Thi Thiên đã vẽ ra
một bức tranh bằng những màu sắc tươi sáng, không phải về cuộc chiến đấu
trên bình diện đạo đức của con người cho mọi thời đại...sự mạc khải về một
tâm hồn sau khi ý thức sâu xa về tội, bằng một giọng nghẹn ngào hổ thẹn với
lòng thống hối và đầy hi vọng, tái lập sự tương giao cá nhân với Đức Chúa
Trời. Chính điều này đã đem cho các Thi Thiên chân lý vĩnh cửu”.
a) Bản chất của Đức Chúa Trời.
Con người phải đến với Đức Chúa Trời với lòng cung kính, nhưng ở thời
Tân Ước còn được 'đến gần' Ngài với sự bạo dạn thánh khiết (Eph Ep 3:12).
Danh Ngài là 'Đức Giê-hô-va' được nhận biết và yêu mến; cá tính Ngài được
thử nghiệm và biết chắc: 'Lời Chúa rất là tinh sạch (bản Anh văn dịch là
được thử nghiệm cho đến tận cùng) nên kẻ tôi tớ Chúa yêu mến lời ấy' (Thi
Tv 119:140).
Đức Chúa Trời luôn luôn là một Thân Vị (a Person: một con người), độc tôn
không đối thủ. Mấy chữ 'các thần' luôn luôn được nhắc đi nhắc lại, có thể chỉ
vì đó là ngôn ngữ của thi ca, chỉ nhằm thay thế cho cách nói quá bình dân
(W.E.Barnes). Ngài là Đấng Tạo Hóa tể trị trên toàn vũ trụ và tác động trực
tiếp trên các vật thọ tạo của mình. Đối với tác giả Thi Thiên thì không có
'định luật tự nhiên' nào là có uy quyền độc lập cả; chính Đức Chúa Trời trực
tiếp kiểm soát giông bão cũng như gió mưa.
b) Đức Chúa Trời và con người.
Đối với loài người thì Đức Chúa Trời là Chúa, là Vua tối cao. Ngài có một
đạo đức đòi hỏi đối với thần dân Ngài (so sánh Thi Tv 15:1-5). Đạo đức
quan trọng hơn nghi lễ (Thi Tv 50:1-23). Đồng thời Ngài cũng là người cha
yêu thương (Thi Tv 103:1-22). Sự thành tín (Thi Tv 89:1), chân lý (31:5) và
lòng nhân từ (Thi Tv 36:7) của Ngài được nhấn mạnh. Người ta có thể đến
gần Ngài không qua trung gian, và được biết Ngài cách thân mật: 'Đức Chúa
Trời tôi'. Tội lỗi đã được xưng nhận cách cảm động cao độ (thí dụ Thi Tv
51:4), với sự hạ mình sâu xa (8:4). Có nhiều câu dường như ngụ ý về sự
công bình riêng không thích đáng (Thi Tv 18:23) phải được hiểu theo nghĩa
tương đối và gợi ý về sự trung tín chớ không phải là tình trạng trọn vẹn,
hoàn toàn.
c) Đức Chúa Trời và dân Y-sơ-ra-ên
Đức Chúa Trời đã bước vào giao ước có tính cách bền vững với dân Y-sơ-
ra-ên, và nhiều Thi Thiên ghi lại đầy dẫy các công việc quyền năng của Đức
Giê-hô-va để bênh vực tuyển dân Ngài (Thi Tv 48:1-14; 76:1-12, 78:1-72;
81:1-16; 105:1-45; 106:1-48; 114:1-8). Họ được kêu gọi hãy làm chứng cho
quyền năng và sự thiện hảo của Ngài, nhưng việc phục vụ Đức Chúa Trời thì
không phải chỉ dành riêng cho dân Y-sơ-ra-ên mà thôi (xem Thi Tv 67:1-7
và 87:1-7). Ai Cập và Ê-thi-ô-bi sẽ giơ tay ra hướng về Ngài; Ba-by-lôn,
Phi-li-tin và Ty-rơ sẽ chấp nhận sự cai trị của Ngài.
d) Thưởng và phạt
Tội phải bị phạt, còn đức hạnh sẽ được thưởng. Nhưng tác giả Thi Thiên
thường ý thức bén nhạy những điều dường như bất công. Có khi, như trong
Thi Tv 37:1-24 ông thấy giải pháp trong sự phán xét của Đức Chúa Trời
trong đời này; nhưng trong Thi Tv 73:1-28, ông lại hướng đến giáo lý về sự
thưởng và phạt sau khi người ta đã chết, (xem đặc biệt mấy câu 73:23-26),
và về mối thông công với Đức Chúa Trời mà sự chết không thể đụng chạm
đến. Nhưng giáo lý về sự bất tử cho đến lúc đó vẫn còn là một niềm hi vọng,
chớ chưa phải là một niềm tin chắc chắn; cho nên sự gần gũi với Đức Chúa
Trời giúp tác giả Thi Thiên đối diện với mọi hoàn cảnh thay đổi trong đời
với lòng tin chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ không hề lìa bỏ con cái Ngài (xem
31:1-24; 77:1-20; 116:1-29; 124:1-8).
e) Các Thi Thiên nguyền rủa.
Về các Thi Thiên, (thí dụ như 69:1-36; 109:1-31) khẩn xin Đức Chúa Trời
hãy đoán phạt các kẻ thù của tác giả hay của dân sự ông, cần chú ý các điểm
sau đây:
1. Các tác giả Thi Thiên tin quyết vào 'phản đề tuyệt đối giữa những người
được chọn và những kẻ chống lại Đức Chúa Trời' (A.Kuyper) và nói ra với
tư cách các nhà vô địch của Đức Chúa Trời trong một thế giới phản loạn
chống lại Ngài. Lời kêu nài đoán phạt của họ được căn cứ trên các lời hứa
bảo vệ của Đức Chúa Trời và trên chính nghĩa công chính của họ (Thi Tv
88:1-18; 137:8); họ tránh việc đích thân báo thù, và phó thác chính nghĩa
của mình cho Đức Chúa Trời.
2. Họ được khoác cho các hình thức tư tưởng của dân tộc và của thời đại họ.
Với một người Hê-bơ-rơ, tất cả đều có tính cách cá nhân; tội nhân được
đồng nhất hóa với tội lỗi, người phạm tội được đồng nhất hóa với gia đình
anh ta, và phương pháp duy nhất để thanh lọc một thành phố khỏi tội lỗi là
hủy diệt kẻ ác.
3. Những lời chúc dữ và nguyền rủa vốn có cả trong Tân Ước lẫn Cựu Ước
(Mat Mt 13:49,50; 16:27; 23:13-33; GiGa 5:29; RoRm 6:23; KhKh 6:10;
18:6). Nhưng dưới thời Cựu Ước đã không có ánh sáng rõ ràng cho tương lai
hay tin lành về tình yêu thương cứu chuộc, và sự công bằng đòi hỏi dường
như chỉ thuộc về đời này mà thôi. Chúa chúng ta đã qui định nguyên tắc
rằng các Cơ Đốc nhân bị đòi hỏi một tiêu chuẩn cao hơn, vì họ đã được soi
sáng đầy đủ hơn (Mat Mt 5:43,44 so sánh 19:8).
g) Các Thi Thiên trong Tân Ước.
Chúa Giê-xu đặc biệt yêu mến các Thi Thiên. Những câu Thi Thiên cảm
động luôn luôn ở trong tâm trí Ngài, kể cả lúc ở trên thập tự giá, vì câu cuối
cùng Ngài thốt ra là Thi Tv 31:5, còn tiếng kêu: 'Đức Chúa Trời tôi ôi, sao
Ngài lìa bỏ tôi' là câu mở đầu của Thi Tv 22:1-30. Phần còn lại của Thi
Thiên này mô tả chi tiết những nỗi đau khổ trên đồi Gô-gô-tha, như ta có thể
tìm thấy ở bất kỳ chỗ nào khác trong Kinh Thánh. Các tác giả Thi Thiên đã
nói những điều 'khôn ngoan hơn là điều họ biết' (theo bản Anh văn) trong
khúc sách này và những khúc sách tương tự (IPhi 1Pr 1:10-14), Đức Thánh
Linh là tác giả thật sự của Kinh Thánh, đã soi sáng cho tâm trí họ.
Hi vọng về Đấng Mết-si-a ngời sáng trong các Thi Tv 2:1-12; 45:1-17; 72:1-
20 và 110:1-7. Đấng Mết-si-a được mô tả là một vua hùng cường được dân
Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời ủng hộ. Các Thi Thiên khác ( 96:1-100:5) đề
cập vương quốc ngày càng mở rộng thêm của Ngài cho đến khi tràn lan khắp
thế giới trong Thi Tv 47:1-9.
h) Phân loại đề tài.
Việc làm này là vô cùng, và mọi cố gắng phân loại tổng quát đều bỏ sót
nhiều tư tưởng và những kinh nghiệm thuộc linh đặc sắc khác nhau, vốn là
đặc điểm của rất nhiều Thi Thiên.
1. Cầu nguyện: 17:1-15; 86:1-17; 90:1-17; 102:1-28; 142:1-7.
2. Ca tụng: 8:1-9; 19:1-14; 81:1-16; 92:1-15; 95:1-100:5; 145:1-150:6
3. Cầu xin giải cứu: 6:1-10; 16:1-11; 38:1-22; 39:1-13; 41:1-13
4. Xưng nhận đức tin: 8:1-9; 33:1-22; 94:1-23; 104:1-35
5. Xưng tội: 6:1-10; 32:1-11; 38:1-22; 51:1-19; 102:1-28; 130:1-8; 143:1-12
(các Thi Thiên ăn năn thống hối).
6. Cầu thay:
Cho vua: 20:1-9; 21:1-13; 61:1-8. Cho dân Y-sơ-ra-ên và các dân tộc khác:
67:1-7 Cho nhà Đa-vít: 89:1-52 Cho Si-ôn: 121:1-8; 122:1-9; 132:1-18.
7. Nguyền rủa: 35:1-28; 59:1-17; 69:1-36; 109:1-43.
8. Giáo huấn: 37:1-40; 45:1-17; 49:1-20; 78:1-72; 103:1-107:43.
9. Suy gẫm: 49:1-20; 73:1-28; 94:1-23.
10. Đề cao luật pháp: 19:1-14, 119:1-176.
11. Trông đợi Đấng Mết-si-a: 16:1-11; 22:1-30; 24:1-10; 40:1-13, 68:1-33;
69:1-36; 110:1-7; 118:1-29
Tân Ước rất thường trích dẫn Thi Thiên, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Những
chỗ trích dẫn trực tiếp quan trọng hơn hết là:
Thi Tv 2:7 (Cong Cv 13:33; HeDt 1:5; 5:5); Thi Tv 8:2 (Mat Mt 21:16); Thi
Tv 8:4,5; (HeDt 2:6,7); Thi Tv 22:7,8,18; (Mat Mt 27:35,39-48); Thi Tv
31:5 (LuLc 23:46); Thi Tv 32:1,2 (RoRm 4:6-8); Thi Tv 40:6 (HeDt 10:5 và
tt); Thi Tv 45:6 (HeDt 1:8,9); Thi Tv 110:1 (Mat Mt 22:44; Cong Cv 2:34;
HeDt 1:13;).
Tất cả những câu trên đều chỉ về Đấng Christ là Đấng làm ứng nghiệm các
lời tiên tri trong Cựu Ước.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Dùng bảng phân loại trên đây, rút ra sự dạy dỗ trong các Thi Thiên, theo
từng đề tài một.
2. Nghiên cứu sự dạy dỗ trong các Thi Thiên 'thích ứng' với lễ Giáng sinh
(Thi Tv 19:1-14; 45:1-17; 85:1-13; 89:1-52; 110:1-7; 132:1-18;); ngày Thứ
Sáu Thương Khó ( 40:1-17; 54:1-7; 69:1-36; 88:1-18); lễ Phục Sinh (7:1-17;
140:1-13; 113:1-9; 114:1-8; 118:1-29); lễ Thăng Thiên ( 5:1-12; 108:1-13;
24:1-10; 47:1-9;); và lễ Ngũ Tuần ( 68:1-33; 104:1-35; 145:1-21), như là
những lời tiên tri về các biến cố mà các ngày lễ ấy kỷ niệm.
3. Viết tóm tắt về đức tin của Cơ Đốc nhân hàm chứa trong các câu Thi
Thiên được Tân Ước trích dẫn (xem phần trên) theo quan điểm của những
người đã trích dẫn các câu ấy.
4. Tuyển chọn một số ít câu có thể dùng khi (1) cầu nguyện, (2) cảm tạ, (3)
ca tụng.
5. Từng câu trong LuLc 24:46-48 đã được các Thi Thiên tiên báo như thế
nào?
SÁCH CHÂM NGÔN
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Sách Châm ngôn gồm có một phần nhập đề ( ChCn 1:1-9:18) dành cho việc
ca ngợi sự khôn ngoan và những lời khuyên giục hãy tìm cầu nó, tiếp theo là
một loạt Châm Ngôn (10:1-25:1) và 'những lời của sự khôn ngoan' (22:17;
24:23).
Theo 25:1 thì dường như 'các người của Ê-xê-chia' trong số đó có lẽ có cả
Môi-se và Mi-chê, có trước mặt các bộ sưu tập được trích ra từ 10:1 đến
24:34, mà họ đã thêm ít nhất là phần 25:1-29:27 vào. Cho dù hai chương
cuối có được thêm vào lúc đó hay về sau, chúng ta không thể xác nhận cũng
như không được biết gì về A-gu-rơ và Lê-mu-ên, là những người đã viết
hoặc sưu tập hai chương ấy. Chúng ta cũng không thể căn cứ vào 1:1 để giải
quyết xem các chương 1-9 có phải là công trình của Sa-lô-môn hay của số
người về sau sẽ hoàn tất quyển sách. Keil quả quyết rằng các chương 1:1-
29:27; phơi bày xuyên suốt cùng một bối cảnh lịch sử duy nhất, tương ứng
về mọi phương diện với các điều kiện trong thời trị vì của Sa-lô-môn, do đó,
phải xem như tất cả đều do Sa-lô-môn soạn.
Dầu sao cũng không có lý do nào để nghi ngờ điều rất hợp lý là tên của Sa-
lô-môn đã được gắn chặt vào bộ phận chính của các câu châm ngôn, một
tuyển tập có lẽ do sự mạc khải đã khiến ông viết ra ba ngàn câu châm ngôn,
được đề cập trong IVua 1V 4:32 tuy điều không thể loại trừ là rất có thể
chúng còn được 'các người của Ê-xê-chia' thêm vào. Các Châm ngôn vốn có
từ trước thời của Sa-lô-môn (Dan Ds 21:27; ISa1Sm 24:13) và nhiều câu
trong sách này có lẽ là những lời khôn ngoan cổ xưa nhưng được mặc cho
phần hình thức trong sách.
Rõ ràng là toàn quyển sách như chúng ta hiện có vốn không được hoàn tất
trước thời của Ê-xê-chia. Nhiều luận cứ ngữ học đã đưa các nhà phê bình
đến chỗ kết luận rất trái ngược nhau, khiến người ta rất khó có thể tin cậy
vào đó. Chẳng hạn như Eichhorn cho rằng sách này đã có vào thế kỷ thứ
mười, Hitzig thì vào thế kỷ thứ chín, còn Edward thì tính vào thế kỷ thứ sáu
TC.
PHÂN TÍCH
ChCn 1:1-9:18.
Giá trị và kết quả của sự khôn ngoan thật.
ChCn 10:1-22:16.
'Các Châm Ngôn của Sa-lô-môn'.
ChCn 22:17-24:31.
'Lời của sự khôn ngoan'.
ChCn 25:1-29:27.
Tuyển tập của 'các người của Ê-xê-chia'.
ChCn 30:1-33.
Các Châm Ngôn của A-gu-rơ.
ChCn 31:1-31.
Các Châm Ngôn của Lê-mu-ên. Người nữ tài đức.
NỘI DUNG
Từ ngữ Hy-bá-lai cho Châm Ngôn (mashal) có nghĩa là một sự so sánh hay
tổng quát hóa. Các Châm Ngôn trong những chương 10:1-24:31 phần lớn là
những cặp mệnh đề có hình thức song đối, những châm ngôn cực ngắn chỉ
gồm một câu duy nhất hàm chứa một chân lý đạo đức hay một sự khôn
ngoan thực tiễn được minh họa bằng một số việc tương tự. Lời lẽ cũng có
thể đem ứng dụng cho một ẩn dụ (Dan Ds 23:7; Thi Tv 49:4; Exe Ed 17:2)
trong đó bài học phải rút ra từ sự việc tương tự đó đã bị bỏ ngỏ, không được
giải thích. Trong các chương chót nhiều châm ngôn dài đến hai hoặc bốn
câu. Trong chương 31:1-24 hai mươi hai câu cuối cùng được xếp mẫu tự thứ
tự (như Thi Tv 119:1-176), các câu bắt đầu bằng một chữ cái theo thứ tự
mẫu tự Hy-bá-lai.
Phần ca ngợi sự khôn ngoan trong các chương 1-9 cũng có thể xem như mở
rộng thêm phần 'Châm Ngôn'. Nó vươn tới những đỉnh cao tuyệt vời, khiến
Cơ Đốc nhân cảm thấy như tác giả của nó được mạc khải để diễn tả những
tư tưởng sẽ ứng nghiệm nơi Đấng vốn vừa là sự khôn ngoan, vừa là quyền
năng của Đức Chúa Trời (so sánh ChCn 8:22-31 với GiGa 1:1-5; 17:5; CoCl
1:15-17).
Tác giả tuyên bố rằng mục đích của ông là ban cho sự tri thức và thận trọng
trong lời nói (ChCn 1:4). Nếu Thi Thiên là sách chỉ nam cho sự cầu nguyện,
tĩnh tâm, thì sách Châm Ngôn là sách chỉ nam về đạo đức thực tiễn. Khi ứng
dụng chúng, phải nhớ rằng:
1. 'Sự kính sợ Đức Giê-hô-va' phải đứng ở hàng đầu (ChCn 1:7; 14:27;
23:17); chỉ nhờ sức lực Ngài ban, người ta mới có thể đem chúng ra thực
hành được.
2. Chúng không phải là vô giới hạn, và có thể có ngoại lệ .
3. Chúng được minh họa rõ ràng nhất bằng các thí dụ rút ra từ nhiều tài liệu
về tiểu sử mà Kinh Thánh cung cấp. Tân Ước có trích dẫn nhiều câu quan
trọng của sách này (xem RoRm 3:15; 12:16-20; Gia Gc 4:6 IPhi 1Pr 4:18;
IIPhi 2Pr 2:22).
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Giáo chức ngày nay có thể dùng những chỉ dẫn nào trong sách này để
giúp đỡ những người trẻ?
2. Nghiên cứu các khúc sách có đề cập 'Đức Giê-hô-va' (Chúa) và thu thập
sự dạy dỗ trong đó.
3. Tập họp các khúc sách đề cập (1) Sự khôn ngoan và người khôn ngoan;
(2) Kẻ ngu dại và gièm pha; (3) Kẻ lười biếng. Tóm tắt những lời dạy dỗ
liên hệ.
4. Tập họp các khúc sách, nhất là từ chương TrGv 1:1-9:18, dường như làm
hình bóng cho sự khôn ngoan được nhập thể trong Đấng Christ.
5. Đời sống và cá tính của Sa-lô-môn đã soi rọi gì cho sách này?
SÁCH TRUYỀN ĐẠO
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Tên Hy-bá-lai của sách này là Qoheleth có nghĩa là người hướng dẫn hay
diễn giả trong một hội chúng. Từ ngữ tương đương trong Hy văn là
Ecclesiastes, và Nhà Truyền Đạo (Nhà Truyền Giảng) tuy không sát lắm,
nhưng cũng lột được khá đầy đủ ý nghĩa ấy. Trong phần nhập đề, trước giả
mượn lời Sa-lô-môn, và tuy tên ông không được nêu lên người ta thấy rõ
ràng là sách ngụ ý nói đến ông (TrGv 1:1). Nhưng khảo xét kỹ hơn, người ta
có thể hoài nghi không biết Sa-lô-môn là trước giả của toàn quyển sách, hay
chỉ xuất hiện ở phần vào đề mà thôi, để làm phần trình bày lý tưởng cho
quan điểm của Sa-lô-môn, nhằm giới thiệu phần tiếp theo.
Câu 'Ta...đã làm vua' (TrGv 1:12) có thể ngụ ý chỉ một cái nhìn hồi tưởng,
mấy chữ 'tại Giê-ru-sa-lem' và nhiều câu khác (chẳng hạn 1:16) có thể được
suy diễn là vương quốc đã bị chia đôi, và một số chỗ đề cập các vua, các
quan trưởng, các nhà cầm quyền áp bức dân sự sẽ tự nhiên hơn cho thời kỳ
vương quốc đã suy tàn (4:13,14; 10:16,17). Nó thiếu hẳn những ký chú riêng
tư là điều đáng lẽ phải có nếu quả thật nó do chính vua Sa-lô-môn đã viết lúc
tuổi già và với tinh thần ăn năn thống hối, như thường có. Tuy nhiên, hai
chương mở đầu có thể được căn cứ trên một vài tập hồi ký cổ xưa nào đó,
chẳng hạn sách 'Công Vụ của Sa-lô-môn' (IVua 1V 11:41) hay các tác phẩm
của các nhà tiên tri đồng thời với ông (IISu 2Sb 9:29). Có một truyền thống
kỳ lạ theo sách Talmud đã xếp các sách Châm Ngôn, Truyền Đạo và Nhã Ca
vào với số sách do 'Ê-xê-chia và các người của vua ấy' viết ra (xem ChCn
25:1).
Vậy, nếu cùng với Hengstenberg, C.H.H.Wright và nhiều học giả bảo thủ
khác, chúng ta đi tìm một trước giả khác hơn là Sa-lô-môn, thì niên đại của
sách sẽ chỉ là một vấn đề phỏng đoán. Nó phải sớm hơn năm 200 TC, vì đã
được liệt vào Kinh điển và được sách Ecclesiasticus đề cập. Bút pháp trong
nguyên văn Hy-bá-lai giống với các văn phẩm hậu lưu đày còn giọng bi
quan xuyên suốt quyển sách, sẽ rất phù hợp với thời kỳ hồi hương.
PHÂN TÍCH
TrGv 1:1,2:26.
Sự hư không của mọi sự 'ở dưới mặt trời', kể cả chuyện mới lạ, vui thú, và
thành quả của lao khổ; nhưng Đức Chúa Trời ban sự khôn ngoan, tri thức và
niềm vui cho người thánh thiện.
TrGv 3:1-6:12.
Sự hư không càng tăng khi có áp bức, tham lam và khi bóng sự chết bao
trùm tất cả. Cần vui hưởng những gì Đức Chúa Trời ban cho, nhưng chớ lấy
đó làm mục đích của cuộc đời.
TrGv 7:1-10:20.
Sự khôn ngoan hơn sự ngu dại, và sự kính sợ Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ
được phần thưởng. Công việc của Đức Chúa Trời không thể dò lường được.
TrGv 11:1-12:14.
Tuổi thiếu niên và thời thanh xuân rồi sẽ kết thúc bằng tuổi già và sự chết.
Kết luận tối hậu: Hãy kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài.
NỘI DUNG
Muốn thấu hiểu bức thông điệp sâu nhiệm của quyển sách được (Đức Thánh
Linh) soi sáng này, cần phải hình dung ra được thật rõ ràng hướng nhìn và
phương pháp của trước giả. Có thể nhìn thấy điều đó trong lời tựa (so sánh
RoRm 8:20), trong đoạn kết (12:13,14 so sánh Mat Mt 19:17), và trong các
điệp khúc cứ được nhắc đi nhắc lại qua suốt quyển sách; sự 'hư không' của
mọi sự 'dưới mặt trời'; các bài học kinh nghiệm nhìn thấy trước mắt; và 'tìm
cho ra' các đường lối của Đức Chúa Trời trong quá khứ. Trước giả tự để tâm
suy xét từng đối tượng một đã kích thích sự ham muốn của loài người và
đem chúng ra đặt trước mặt mình, tức là sự khoái lạc, vui thú, lao khổ, tóm
thâu của cải, học thức; và ông nhận thấy rằng 'mọi sự ở dưới mặt trời', kể cả
những điều tự chúng vốn là tốt lành, khôn ngoan, cuối cùng, đều chỉ là 'hư
không và phiền muộn'. Khi nói 'ở dưới mặt trời' trước giả ngụ ý nói về tất cả
những gì người thế gian tìm kiếm trong cuộc sống ở trần gian, bất kể cuối
cùng của chúng chỉ là sự chết, và quên mất là còn có Đức Chúa Trời ở trên
cao.
Trong những cuộc thám hiểm thuộc linh ông nhận thấy có nhiều điều có vẻ
'khá hơn', 'tốt hơn', và có giá trị ở vị trí của chúng, ngay trong đời này, sự vui
hưởng cách phải chăng những điều tốt lành mà Đức Chúa Trời ban cho
(TrGv 3:13; 5:18,19; 8:15; 9:7-10), một tâm hồn bình lặng, phóng khoáng
(4:6), một đời sống công chính (3:12,22) và sự khôn ngoan, tri thức với niềm
vui vốn là phần thưởng của Đức Chúa Trời dành cho người thánh thiện
(2:24-26). Cũng như Gióp, ông nhận thấy trong đời sống có rất nhiều điều
mình không thể giải thích được, và thường thường bối rối khi tìm cách hiểu
các đường lối của Đức Chúa Trời, nhưng ông tin quyết rằng đến cuối cùng,
Đức Chúa Trời vẫn thực hiện sự công chính của Ngài.
Bên cạnh những câu vốn là tinh hoa của sự khôn ngoan trần gian, luôn luôn
có những ám chỉ được lặp đi lặp lại về Đấng không 'ở dưới mặt trời', mà là
Đức Chúa Trời tể trị trên tất cả, ngự trên ngôi cao cả và thánh khiết của
Ngài.
Cho nên, bằng phương pháp qui nạp do kinh nghiệm, được soi rọi bằng
những tia sáng của đức tin từ trên cao, ông đạt đến câu kết luận quan trọng
rằng chẳng hề có đối tượng trần gian nào có thể đem hạnh phúc đến cho con
người, rằng tất cả bổn phận của con người chỉ là kính sợ Đức Chúa Trời và
giữ gìn các điều răn Ngài, nhớ lại trách nhiệm của con người đối với Ngài.
Người ta thấy rất rõ sự nông cạn của một số nhà phê bình chống lại sách
này, kẻ thì đề cao các thú vui nhục dục người thì đề cao sự khôn ngoan, một
hạng thứ ba nữa lại đề cao lòng mộ đạo. Tất cả chỉ là một toàn thể rộng lớn,
đầy những câu đố nát óc, và chính cuộc đời vốn đầy dẫy mâu thuẫn, bối rối,
thất vọng khi người ta gạt ra ngoài 'sự kính sợ Đức Chúa Trời'. Cho dù Sa-
lô-môn có phải là trước giả sách này hay không, cuộc đời của vua và các con
trai vua là Rô-bô-am nhập chung lại, đã cung cấp một lời giải nghĩa hết sức
rõ ràng cho quyển sách có một không hai này; còn một lời giải thích khác có
thể tìm thấy trong bức tranh Chợ Hư Hoa của Bunyan trong Thiên Lộ Lịch
Trình. Nếu được đọc trong ánh sáng đích thực của nó, sách này sẽ cung ứng
cho chúng ta một bảng xếp hạng quan trọng cái hướng nhìn duy vật vốn ngự
trị đời sống và nền văn học hiện đại, và chứa đựng một bài học hết sức cần
thiết cho người làm tín đồ Đấng Christ đang bị cám dỗ đi tìm sự thỏa mãn
nơi những gì mà thế gian này có thể cung ứng cho, chớ không tìm nó nơi sự
sung mãn của đời sống mà chỉ một mình Đấng Christ mới có thể ban cho
chúng ta.
Trong ẩn dụ Người Giàu Ngu Dại, Đấng Christ đã dạy cùng một bài học về
nhu cầu phải 'giàu có nơi Đức Chúa Trời', và hầu như bằng từng chữ từng lời
của Nhà Truyền Đạo TrGv 6:2; 8:15; 12:14), Phao-lô đã khai triển thêm
trong cùng một chủ đề ở thơ RoRm 8:18-25.
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Lập một bảng liệt kê những điều 'tốt hơn' đã được kể chi tiết ở đây. Bạn
giải thích thế nào về những điều tốt hơn của HeDt 11:40
2. Giả sử đây là một quyển sách của một người già gởi cho một thanh niên,
theo nhận xét của bạn thì nó còn hợp thời đến mức độ nào cho một thanh
niên hiện đại?
3. Ghi ra tất cả những câu đề cập Đức Chúa Trời và xem xét chúng họp nhau
lại như thế nào để giải nghĩa RoRm 11:33,34; 12:1,2;
4. Tìm những điểm tương đồng giữa sách Truyền Đạo với Bài Giảng Trên
Núi.
5. Tóm tắt sự dạy dỗ chính yếu trong sách này và đối chiếu với sự mạc khải
đầy đủ hơn của Tân Ước về cách nhìn đời của Cơ Đốc nhân.
SÁCH NHÃ CA CỦA SA-LÔ-MÔN
TÁC QUYỀN, NIÊN ĐẠI VÀ HOÀN CẢNH
Nhan đề và truyền thống nhất quán cho rằng trước giả sách này là Sa-lô-
môn, còn nhan đề 'Bài Ca Của Các Bài Ca' có nghĩa rằng trong tất cả các bài
vua ấy viết (IVua 1V 4:32) thì đây là bài ca tuyệt diệu nhất.
Có lý do chính đáng để tin rằng sách này thuộc về thời của vua Sa-lô-môn.
Thi vị của nó đã được thừa nhận là tuyệt vời, và nhiều học giả có uy tín xem
ngôn ngữ và bút pháp của nó chính là của thời vàng son trong văn học Hy-
bá-lai. Trong nhiều từ ngữ hiếm hoi gặp trong sách có những tên của những
loài thảo mộc quí hiếm hoặc những mặt hàng được đưa vào do việc giao
thương với ngoại quốc dưới thời của nhà vua vĩ đại ấy. Các từ ngữ khác có
lẽ là ngôn ngữ của các tỉnh miền Bắc, vì các địa danh cho thấy trước giả rất
quen thuộc với các vùng ở phía Bắc, nhất là khu vực Li-ban. Các câu đề cập
những cái khiên trong tháp Đa-vít (Nha Dc 4:4), Hết-bôn (7:4) về sau lọt vào
tay dân Mô-áp (EsIs 15:4), và Thiệt-sa (Nha Dc 6:4) mà vinh quang bị tàn
lụi dưới thời Ôm-ri, tất cả đều hậu thuẫn cho một niên đại rất sớm.
Quan điểm của một số các nhà phê bình bảo rằng đây là một bộ sưu tập
nhiều đoản khúc có thể bị loại bỏ do chủ trương của một số các nhà phê bình
khác nhấn mạnh là rõ ràng đã có một bố cục thống nhất, thí dụ như của
những câu luôn luôn được lặp đi lặp lại (Nha Dc 2:7; 3:5; 8:4; 2:16; 6:3;
7:10; 2:6; 6:10; 8:5), và do việc đã có các phân đoạn hết sức rõ rệt. Trong
Kinh điển Hy-bá-lai, sách này được xếp vào phần Kethubim hay Sách Văn
Thơ, trước các sách Thi Thiên, Châm Ngôn và Gióp, và tiếp theo nó là sách
Ru-tơ. Điều đó cho thấy sách ấy được liệt vào các sách sớm nhất.
Khi đọc sách Nhã Ca, chúng ta thấy dường như Sa-lô-môn xuất hiện như vai
chính chớ không phải là tác giả, và có người phỏng đoán cách tế nhị rằng
sách do một nhà tiên tri dưới thời trị vì của Sa-lô-môn viết ra và dâng lên
cho nhà vua đang lầm lạc với hi vọng kéo vua trở về với nếp sống trong
sạch. Mặt khác, tình yêu đối với hoa và hương liệu, sự giống nhau rõ rệt
trong tư tưởng và cú pháp với sách Châm Ngôn, và một số đặc điểm đã nêu
ở phần trên lại hậu thuẫn cho tác quyền của Sa-lô-môn. Người Do Thái tin
rằng Sa-lô-môn đã viết bài Nhã Ca này vào thời kỳ ông còn rất trẻ, sách
Châm Ngôn vào thời trung niên còn sách Truyền Đạo vào lúc tuổi già.
PHÂN TÍCH
Nha Dc 1:2-2:7.
Trong thượng uyển của Sa-lô-môn. Tân nương đi tìm và gặp nhà vua.
Nha Dc 2:8-3:5.
Tân nương một mình, nhớ lại hai kinh nghiệm quá khứ.
Nha Dc 3:6-5:1.
Giê-ru-sa-lem. Sắp đến ngày đại hội trong triều. Đôi bạn tình và buổi dạ yến.
Nha Dc 5:2-6:9.
Trong cung điện. Tân nương mô tả cảnh (trong mơ) nàng lạc mất tân lang và
tìm lại được.
Nha Dc 6:10-8:4.
Trong vườn cây ăn trái của Sa-lô-môn tại Ê-tam. Tân nương yêu kiều nhưng
khiêm nhu được các bạn ngưỡng mộ, và được nhà vua đến thăm.
Nha Dc 8:5-14.
Ngôi nhà ở miền quê của tân nương. Đôi bạn tình ở bên nhau.
NỘI DUNG
a) Bố cục.
Nhã Ca có bố cục của một bi kịch đồng quê, và chỉ có thể hiểu trong cái nhìn
đó. Sách gồm những câu nói của nhiều diễn viên khác nhau như trong một
vở thoại kịch, mà Sa-lô-môn và tân nương là các vai chính. Các vai khác
gồm có 'các con gái Giê-ru-sa-lem', các 'anh em' của tân nương và nhiều
nhân vật bên lề. Không có đoạn nào là văn thuật sự hay miêu tả; người ta chỉ
có thể căn cứ vào chữ nghĩa để tưởng tượng ra khung cảnh và những người
phát ngôn (tiếng Hy-bá-lai có thể vạch rõ số (nhiều, ít) và giống (nam, nữ)
của các đối tượng, theo một cách thức mà các bản dịch không thể diễn đạt
nổi.
Sáu đoạn dựa theo phần phân tích quyển sách, cho thấy bố cục tổng quát, và
các tiểu mục trong bản Authorized Version ghi rõ ai là những người phát
ngôn. Chúng tôi xin nêu ra đây danh sách những người ấy, và câu khi họ bắt
đầu lên tiếng: (Nha Dc 1:2) tân nương; (1:8) các bạn; (1:9) Sa-lô-môn;
(1:12) tân nương; (1:15) Sa-lô-môn; (1:16) tân nương; (2:2) Sa-lô-môn;
(2:3) tân nương; (2:15) các anh em; (3:6,7,9) ba công dân; (4:1) Sa-lô-môn;
(4:16) tân nương; (5:1) Sa-lô-môn; (5:2) tân nương; (5:9) các bạn; (5:10) tân
nương; (6:1) các bạn; (6:2) tân nương; (6:4) Sa-lô-môn; (6:10) các bạn;
(6:11) tân nương; (6:13a) các bạn; (6:13b)tân nương; (7:1) Sa-lô-môn;
(7:10) tân nương; (8:5a) người làng; (8:5b) Sa-lô-môn; (8:6) tân nương;
(8:8) anh em; (8:10) tân nương; (8:13) Sa-lô-môn; (8:14) tân nương.
b) Giải nghĩa.
Tân nương được gọi là Su-la-mít, có thể có nghĩa là 'con gái của hòa bình'
tương ứng với Sa-lô-môn là 'vua hòa bình', hoặc cũng có thể có nghĩa là
người Su-la-mít, nói lên quê quán nàng. Hình thức diễm tình của quyển sách
chống lại cách giải nghĩa thiên về nghĩa đen. Ngay từ thời nguyên thủy
người Do Thái đã thấy rằng đó là một bức tranh mô tả mối tình của Đức
Giê-hô-va đối với dân Ngài. Hình ảnh mộc mạc của mối tình và sự tận hiến
cho nhau giữa hai người đó đã cống hiến một bức tranh tuyệt đẹp về tình yêu
con người, nhưng cũng là một hình ảnh tuyệt đẹp về tình yêu của Đức Chúa
Trời đối với loài người nữa. Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã giáng xuống
để hiện ra như một tân lang (EsIs 62:5; Gie Gr 3:1; Exe Ed 16:8) và Chúa
Giê-xu dùng cùng một hình ảnh ấy (Mat Mt 9:15; 22:2; 25:1), rồi các sứ đồ
đã trau chuốt nó trong phần dạy dỗ để nói lên mối liên hệ giữa Đấng Christ
với Hội thánh Ngài (Eph Ep 5:23-32; KhKh 21:9).
Cho nên chúng ta chỉ có thể ứng dụng sách này theo cùng một ý nghĩa như
vậy. Origen bảo rằng nội dung sách Truyền Đạo được ứng dụng trong lãnh
vực tự nhiên, còn Nhã Ca của Sa-lô-môn trong lãnh vực thần bí; và từ đó trở
đi, các Cơ Đốc nhân đã lấy làm thích thú đối với các tư tưởng mà sách này
gợi ý về Hội Thánh là cảnh vườn của Chúa, và như tân nương đã tìm và gặp
được người mình yêu, được toại nguyện với sự hiện diện của Ngài. 'Biết
được tình yêu giữa Đấng Christ và người tín đồ bằng kinh nghiệm là cách
giải nghĩa hay nhất cho toàn thể bài ca có nghĩa bóng này' (Tổng Giám Mục
Leighton).
CÁC LUẬN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Viết ra cách ứng dụng bức thông điệp đã được giải thích là ám chỉ mối
tình của Đức Giê-hô-va đối với dân Y-sơ-ra-ên, việc Ngài đã hạ mình đến
với họ, sự chung thủy và trọn vẹn của mối tình đó.
2. Lấy KhKh 22:17,20 làm nền tảng, hãy ghi nhận tất cả những lời mời gọi
'hãy đến' và ứng dụng cho Đấng Christ và Hội Thánh.
3. Tìm những điểm tương đồng của sách này với Thi Tv 45:1-17 và Eph Ep
5:23-32.