Professional Documents
Culture Documents
TỰA
Lúc quyển sách này được xuất bản lần đầu tiên, chủ ích của nó là bắc một
nhịp cầu cho chiếc hố sâu ngăn cách giữa các công trình nghiên cứu Kinh
Thánh với Đạo đức học. Bấy giờ, có rất ít tài liệu để kết nối một cách có hệ
thống hai lãnh vực này, và phần lớn chỉ có chiều dài của một bài báo.
Chỉ qua một thập niên mà thôi, khung cảnh đã thay đổi hẳn. Nhiều công
trình nghiên cứu tuyệt vời đã xuất hiện (1). Mục tiêu sơ khởi của tập sách
đầu tiên ấy, nhằm khích lệ một công trình có tính cách sửa sai cho nhau, đã
đạt được phần lớn chủ đích của nó.
Thứ hai, điều mà chúng tôi không hề dự đoán nổi, là ấn bản đầu tiên đó đã
được dùng làm sách giáo khoa. Thật là một phần thưởng lớn lao, tuy đó
không phải là chủ đích sơ khởi của tập sách ấy; sự đáp ứng đó chỉ rõ thật
đúng lúc một tình hình từ lâu đã được các giáo sư, đạo đức học thừa nhận,
tức là đã có rất ít các công trình nghiên cứu sâu rộng nhưng không chuyên
biệt, đề cập cả các ý niệm luân lý đạo đức căn bản của Cư-đốc giáo, lẫn các
nguồn gốc quan trọng của sinh hoạt Cơ Đốc nhân. Ấn bản mới này đã được
phác thảo nhằm sẽ được dùng làm một văn bản cơ bản như thế.
Những điều thay đổi và thêm vào vốn có nhiều. Nhất là chúng tôi đã mở
rộng các đoạn về các ý niệm căn bản của đạo đức học Cơ Đốc giáo. Có
nhiều chương nói về ngữ vựng của đạo đức học (“Phác họa lược đồ của đời
sốngđạo đức"), về việc đưa ra một quyết định, và về đặc tính và cơ cấu xã
hội. Chúng tôi trở lại và mở rộng thêm những phần thảo luận về uy quyền và
công dụng của Kinh điển trong sinh hoạt đạo đức và các vai trò của cộng
đồng có đạo. Chúng tôi đã bỏ đi số tài liệu có ghi ngày tháng và hiệu đính tất
cả các phần trong tập sách trước, đã bị những cuộc thảo luận và biến cố gần
đây khiến trở thành lỗi thời. Chúng tôi đã nhấn mạnh và khai triển phầnđ ề
cập cộng đồng và các năng động lực của cộng đồng, cũng như của tác nhân
(agent) đạo đức, xem đó như những luận đề chung cả cho số tài liệu rút ra từ
Kinh Thánh lẫn từ đạo đức học Cơ Đốc giáo. Chúng tôi kể ra số sách báo
gúp ích cho việc nghiên cứu sâu rộng thêm. Chúng tôi cũng thêm vào một
phụ lục cũng như một bảng liệt kê các sách tham khảo.
Vậy, ý hướng của chúng tôi là cung cấp một văn bản thích dụng cho nhiều
bối cảnh: các giáo trình căn bản về đạo đức học Cơ Đốc giáo cấp cao đẳng,
đại học hay chủng viện; các giáo trình và công trình nghiên cứu độc lập, trực
tiếp đi vào mối liên hệ giữa Kinh điển với đạo đức học; và các nhóm nghiên
cứu về sinh hoạt đạo đức của Cơ Đốc nhân trong Hội thánh.
Chúng tôi rất biết ơn nhiều ân nhân - quá nhiều để có thể liệt kê thành một
danh sách - về ấn bản mới này. Một số đông đã đóng góp bằng cách đáp ứng
từ trên 10 năm rồi với ấn bản đầu tiên, nhiều vị khác đã đọc và cho ý kiến về
số các tài liệu mới. Carla Meier, Elizabeth Bounds, và David Hopkins đã
đóng góp rất nhiều ý kiến bổ ích cho các chương sách mà các vị đã chọn.
David Gushet chẳng những đọc toàn bộ bản thảo bằng con mắt của nhà phê
bình, mà còn thực hiện nhiềj công tác sưu tầm nghiên cứu khác nữa với tư
cách một phụ tá. Martha Lindberg Mann đã sử dụng sắc bén ngòi bút trên
tập của mình để làm việc trên từng trang sách một. Lucy Fullerton thì soạn
thảo bằng thư mục tham khảo và phần phụ lục các tài liệu tham khảo trong
Kinh Thánh. Chúng tôi đã hàm ân và xin tri ân toàn thể quý vị. __
DẪN NHẬP
Ý nghĩa của một vũ điệu chỉ được ý thức khi người ta thực hiện vũ điệu ấy.
Ý nghĩa của đời sống Cơ Đốc nhân chỉ được thấu triệt khi người ta sống
cuộc đời ấy. Có rất ít lý do để bàn cãi hay nghe lời chỉ dạy về khiêu vũ, nếu
bản thân chúng ta chẳng hề tham dự chút gì vào đó, hay khi sự hiểu biết của
chúng ta về khiêu vũ không hề giúp chúng ta thưởng thức vũ điệu của tha
nhân. Cũng vậy, có rất ít lý do để chúng ta thảo luận ấy không giúp chúng ta
cải tiến nếp sống ấy, hoặc giúp chúng ta thông cảm với những người đang
làm như vậy.
Quyển sách này đề cập đời sống đạo đức của Cơ Đốc nhân. Nó không thể
thay thế cho đời sống ấy, cũng không thể thực hiện sinh hoạt ấy. Chủ đích
của quyển sách này là cải thiện sự hiểu biết về đời sống ấy, và với những ai
đã tự chọn nếp sống làm một Cơ Đốc nhân đạo đức học cho riêng mình, thì
cũng phải thực hiện nó, phải “tham gia vũ điệu” ấy nữa.
Ngay từ ban đầu, sinh hoạt đạo đức vốn là trung tâm của Do-thái giáo về Cơ
Đốc giáo. Các cộng đồng theo đạo bây giờ cũng chiến đấu với những vấn
nạn về các thành viên của mình thuộc hạng như thế nào, và phải hành động
ra sao. Họ luôn luôn tìm cách để đáp ứng thật trung tín với Thượng Đế trong
những công việc hằng ngày của mình. Họ kiên trì cố gắng tạo ra một nếp
sinh hoạt phù hợp với khải tượng mà họ cho là đáng lẽ phải như thế.
Giữa bối cảnh đó, Kinh Thánh vốn được xem là tập tài liệu dùng làm bản
hiến chương (lược đồ) cho sinh hoạt đạo đức của Cơ Đốc nhân. Nội dung
sách ấy từng được tham khảo nhiều phen để tác tạo hun đúc nên cả phần cá
tính lẫn cách ăn ở ứng xử, và để cung cấp sự chỉ dẫn lẫn uy quyền. Để được
soi sáng, nhiều thế hệ liên tiếp nhau đã tìm cách liên kết những suy tư đạo
đức của riêng họ với những cuộc chiến đấu và những câu chuyện đã được kể
lại về các cộng đồng trong Kinh Thánh. Những cuộc thảo luận về các nhiệm
vụ có tính cách bó buộc đức hạnh, giá trị, hoặc khải tượng trong sinh hoạt
Cơ Đốc nhân, rất ít khi được thực hiện sâu rộng nếu không có phần tham
khảo Kinh điển.
Với tư cách là những lãnh vực cần suy tầm khảo cứu, đạo đức học Cơ Đốc
giáo và ngành khảo học Kinh Thánh vốn có trọng trách, đặc biệt trong tư
duy của Cơ Đốc nhân. Nhất là chúng được trực tiếp cầu viện giữa các tài
liệu nguyên sơ của đạo - tức là bộ Kinh điển - với cách bộc lộ đức tin (sống
đạo) hằng ngày. Các sinh viên thuộc cả hai lãnh vực - dầu chỉ là tín hữu
thường hay cán bộ nhân viên chuyên nghiệp - đều phải khẳng định đúng đắn
tầm quan trọng của lãnh vực này đối với lãnh vực kia.
Thế nhưng, phải liên kết Kinh Thánh và đạo đức học như thế nào cho đúng,
thì không phải là mọi sự đều rõ ràng. Điều rõ ràng ấy là đây không phải là
một vấn đề đơn giản. Mục tiêu của chúng tôi trong quyển sách này là làm
sáng tỏ mối liên hệ ấy trong khi vẫn tôn trọng tính cách phức tạp của nó.
Việc thực hiện mục tiêu này ké theo nó một loạt các vấn đề cốt lõi nhất định
phải xuất hiện mỗi khi chủ đề nêu ra có liên hệ với Kinh Thánh và đạo đức
học:
- Kinh Thánh là loại uy quyền gì đối với đạo đức học Cơ Đốc giáo?
- Tại những điểm nào và nhằm các chủ đích gì trong sinh hoạt đạo đức, các
tài liệu trong Kinh Thánh có thể đóng một vai trò phù hợp và có ảnh hưởng?
- Các loại tài liệu khác nhau trong Kinh Thánh phải tác động như thế nào vài
sinh hoạt đạo đức? Làm thế nào để có được chúng để sử dụng cho phải lẽ?
- “Sinh hoạt đạo đức” gồm có những gì, và đâu là các phạm trù, yếu tố và
nhiệm vụ căn bản của đạo đức học Cơ Đốc giáo? Tại những điểm quan trọng
nào đạo đức học Cơ Đốc giáo rút tỉa các tài liệu trong Kinh Thánh, và nhằm
các chủ đích gì?
- Đâu là các vai trò của cộng đồng có đạo trong sinh hoạt đạo đức? Đặc biệt
đâu là các công dụng, nhiều mặt của Kinh điển, nhằm tác tạo, hun đúc cá
tính đạo đức và cách ăn ở ứng xử trong Hội thánh?
Tóm lại chúng tôi phấn đấu đề cập một loạt các thắc mắc chủ yếu và cứ luôn
luôn được lặp đi lặp lại về công dụng và uy quyền của Kinh Thánh trong đạo
đức học Cơ Đốc giáo. Chúng tôi hi vọng sẽ thực hiện điều đó bằng những
cách thức sẽ làm sáng tỏ được về chính sinh hoạt đạo đức, đâu là thành phần
cấu tạo ra nó và phạm vi của nó. Quyển sách này viết về sinh hoạt đạo đức
của Cơ Đốc nhân với vai trò hình thành và quy phạm của Kinh điển trong
đó.
ĐẠO ĐỨC HỌC CƠ-ĐỐC GIÁO VỚI TƯ CÁCH ĐẶO ĐỨC HỌC CỘNG
ĐỒNG
“Cộng đồng” và “tính cách tác nhân của luận lý” (moral agency) là hai luận
đề then chốt của đạo đức học Cơ Đốc học Cơ Đốc giáo xuyên suốt quyển
sách này. Cộng đồng đồng nghĩa với mối liên hệ xã hội. Còn tính cách tác
nhân của luận lý là việc chúng ta tự hiểu mình như một con người đạo đức.
Chương này bắt đầu cuộc thảo luận về cộng đồng đối với sinh hoạt đạo đức
nói chung và với đạo đức học Cơ Đốc giáo nói riêng. Chương sau sẽ bàn đến
thuật ngữ chuyên biệt hơn là “tác nhân đạo đức”.
Vai trò của cộng đồng
Những gì chúng ta có thể biện biệt và làm là kết quả của việc chúng ta đã
tham gia nhiều cộng đồng khác nhau. Nhiều thế giới có tính cách xã hội
khác nhau đã tác tạo nên chúng ta, quyết định cách ăn ở cư xử nói chung của
chúng ta trong đời sống, sản sinh ra cả đến những cách đáp ứng đặc thù của
chúng ta đối với nhiều vấn đề riêng biệt. Chúng ta không thể và không hề tự
mình thu thập được cái nhìn xuyên suốt về đạo đức cho riêng mình ngoài
các cộng đồng của mình, cũng chẳng khác chi việc chúng ta không thể là và
trở thành những con người, nếu không có tha nhân. Tất cả những gì chúng ta
được biết về đạo đức và sinh hoạt đạo đức - hoặc bất cứ điều gì khác, vì đây
chính là vấn đề - cuối cùng đều là một công trình, một thành tựa của cộng
đồng. Trong khi quả thật rằng các cá nhân vốn không phải chỉ đơn giản là
những chi những nhánh giống y nhau của cộng đồng, nhưng đều (là những
cá nhân) độc nhất vô nhị, có thể vượt cao hơn trình độ đạo đức của các cộng
đồng của họ, thì điều cũng đúng với một sức mạnh tương đương, là ngay đến
những quyết định và công trình riêng tư nhất cũng đều là kết quả cả kinh
nghiệm xã hội của chúng ta và sẽ chẳng bao giờ có thể có được hay hiểu
được ngoài cái kinh nghiệm đó. (Từ ngữ lương tâm “conscience” đã minh
họa rất hay điều này. Trong khi chúng ta vẫn tả vẽ lương tâm như một “tiếng
nói êm dịu nhỏ nhẹ” riêng từ bên trong, ý nghĩa theo ngữ nguyên của nó đã
cho thấy nguồn gốc đích thực của nó. Com + scire có nghĩa là “biết liên
quan với” hay “cùng biết với nhau”. Lương tâm là cách bộc lộ cá tính, chỉ
được hình thành trong cộng đồng mà thôi).
Địa vị trung tâm của cộng đồng trong sinh hoạt đạo đức là chuyện hẳn
nhiên, một sự kiện của đời sống. Nhưng trong những xã hội mà các cộng
đồng chú trọng vào cá nhân chủ nghĩa và nuôi dưỡng cái ảo tưởng rằng các
cá nhân tồn tại bên ngoài hay được quyền ưu tiên đối với các cộng đồng và
các ảnh hưởng của cộng đồng, chúng ta cần phải nhấn mạnh địa vị của cộng
đồng. Những xã hội như thế thường định ngĩa “tự do” là độc lập nghĩa là
không lệ thuộc, ngụ ý là được tự do đối với mọi bó buộc, ngoại trừ các bó
buộc được tùy ý chọn lựa phù hợp với các ước vọng cá nhân; và lẽ dĩ nhiên
là được tự do đối với nhu cầu của những con người khác. Dường như
(người) Bắc Mỹ đặc biệt sống một cuộc đời mà không hề đinh ninh rằng đời
sống chúng ta bị ném chung vào những mối liên hệ xã hội chằng chịt không
tránh né vào đâu được. Trái lại, một số đông dường như rất hài lòng rằng
chúng ta là những cá nhân độc lập, có thể tự chọn để muốn hay không muốn
liên hệ với tha nhân. Chúng ta nhìn xã hội theo tính cách phần lớn là như
một guồng máy, xem đó như một quyết đấu trường để đánh thăng bằng các
nhu cầu, dục vọng và đòi hỏi của nhiều nhóm người khác nhau, trong khi
vẫn chú trọng tha thiết nhất là vào các quyền tự do và quyền lợi cá nhân của
mình (1). Tả vẽ xã hội như vậy chỉ là nhấn mạnh các ảo tượng của cá nhân
chủ nghĩa. Cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên, khi chúng ta càng được nhiều
tự do bao nhiêu, thì chúng lại càng phải chịu nhiều rối loạn xã hội, như cách
ăn ở ứng xử phi ngã, mà một số là bạo động, cô lập, tha hóa, rỗng tuếch và
cô đơn; khiến chúng ta càng ao ước một “cộng đồng đích thực” và bị lôi
cuốn bởi những nhóm người hứa hẹn điều đó. (Một người đến tạm trú nhiều
tuần lễ tại Christ House, Washington D.C. từng nói: “Tôi biết cái đối lập với
sự nghèo đói. Nó không phải là sự giàu có. Nó là cộng đồng") (2).
Những khởi điểm của một sự thay đổi nảy sinh từ việc thừa nhận địa vị quan
trọng của các cộng đồng trong đời sống chúng ta. Theo nghĩa căn bản nhất
của nó, thì cộng đồng chỉ bất kỳ một tập thể xã hội nào một nhóm người nào
tập họp nhau lại để cùng chia xẻ một điều quan trọng nào đó. Theo nghĩa
này, mọi người chúng ta đều sinh hoạt trong nhiều cộng đồng, và trong
những xã hội hiện đại nhất, chúng ta tham dự vào nhiều cộng đồng khác
nhau suốt thời gian trôi qua của một ngày. Hàng xóm láng giềng của chúng
ta là một cộng đồng, gia đình và sở làm cũng vậy, các tổ chức nghiệp đoàn
và chúng ta là thành viên, nhóm bạn thân, Hội thánh, các trường học, thị
trấn, thành phố, tiểu bang, khu vực hay quốc gia dân tộc của chúng ta, cũng
như bất kỳ những tổ chức tự nguyện nào mà chúng ta gia nhập. Chúng ta
cũng được gọi là thành viên của cộng đồng các giai cấp xã hội, chủng tộc
nhân chủng giới tính, hoặc tín ngưỡng. Các cộng đồng gắn bó nhất với
chúng ta đều luôn luôn nảy sinh từ những cuộc chiến đấu chung và cùng
đồng cam cộng khổ. Những người có ý nghĩa nhất đối với chúng ta bao giờ
cũng là những người mà chúng ta có thể xem như “bản thân” nghĩa là những
mối liên hệ theo đó chúng ta tiếp nhận người khác và tự bộc lộ chính mình
vô điều kiện và không chút kiểu cách - tắt một lời là các cộng đồng của tình
yêu thương.
Vậy, cuộc sống của chúng ta nằm bên trong các cộng đồng và được các cộng
đồng đủ loại cộng đồng - tác tạo, hun đúc. Chúng ta không được sinh ra
trong một sơ đồ chẳng có gì khác nhau gồm nhiều biến cố và những mối liên
hệ rồi chẳng có liên hệ gì với nhau cả, nhưng được sinh ra trong một tập thể
sống, đã sống thành những cộng đồng cấu thành đời sống xã hội của chúng
ta. Sinh hoạt đạo đức không thể tồn tại ngoài những điều đó, và nó chỉ có thể
có bên trong các cộng đồng như thế. Cho dù ý thức đạo đức của chúng ta có
là thế nào đi chăng nữa, nó vốn không thể có trước hay bên ngoài, hoặc độc
lập đối với mối liên hệ xã hội. Các cộng đồng là các hình thức của mối liên
hệ xã hội của chúng ta, và là thực tại vật chất của sinh hoạt đạo đức.
Nếu chúng ta thừa nhận điều này như một sự kiện của đời sống con người,
chúng ta phải thừa nhận nó là đúng, là thật, với một sức mạnh còn lớn hơn
nữa đối với sinh hoạt đạo đức của Cơ Đốc nhân và đạo đức học Cơ Đốc
giáo. Lý do là thế này: cộng đồng chính là trái tim của Cơ Đốc giáo.
Một nếp sống.
Nhìn lướt qua các nguồn gốc của cả Do-thái giáo lẫn Cơ Đốc giáo, chúng ta
sẽ được dạy dỗ nhiều điều. Dầu chúng ta nhìn vào các hình thành một dân
tộc cho Thượng Đế trong khung cảnh từ xuất Ai-cập cho đến núi Si-na-i,
hay qua phần ký thuật từ thập tự giá, qua sự sống lại, cho đến lễ Ngũ tuần,
từng trải vẫn là từng trải về quyền năng của Thượng Đế, như một quyền
năng “có tính cách dân tộc”. Và đó là một từng trải cũng có chung với nhau.
Các từng trải nguyên thủy của cả đạo đức học Do-thái giáo lẫn Cơ-đoc giáo
đều là từng trải về Thượng Đế là Đấng sản sinh ra cộng đồng và là Đấng
được từng trải, được kinh nghiệm, bên trong cộng đồng như nguồn mạch và
ý nghĩa sâu nhiệm nhất của nó.
Hơn nữa, cộng đồng là chiếc nôi (nguyên văn là matrix: tử cung) ban truyền
đạo đức cho cả dân Y-sơ-ra-ên lẫn cho Hội thánh nguyên thủy. Lúc những
thành viên của cộng đồng có đạo đặt các câu hỏi về cá tính và cách ăn ở ứng
xử, học đã không đặt vấn đề một cách độc đoán như các triết gia về sau này
thỉnh thoảng vẫn đặt ra để hướng dẫn việc tra vấn tìm tòi như: “Điều thiện
phổ quát là gì? tôi phải hành động như thế nào cho phù hợp với nó?”. Thay
vào đó, họ đã đặt câu hỏi: “Một cá tính và cách ăn ở ứng xử như thế nào là
phù hợp với chúng ta, là một dân thuộc về Thượng Đế?” Tự hòa mình với
đạo (đức tin) của cộng đồng là tâm điểm của sinh hoạt đạo đức; chính cộng
đồng vốn là chiếc nôi (tử cung).
Thật ra, sinh hoạt đạo đức thậm chí cũng không phải là chủ đề của chính nó
trong Do-thái giáo và Cơ Đốc giáo nguyên thủy. Đã có rất ít sự quan tâm
chú ý đến bản thân “đạo đức tính”, như một đề tài riêng rẽ, hay theo cách
trừu tượng hóa một phần nào thì người ta gọi đó là “sinh hoạt đạo đức” - là
sống đạo. Trái lại, đạo đức và đạo đức học là những chiều kích của sinh hoạt
cộng đồng trong đó mối bận tâm là dân của Thượng Đế phải sống với nhau
như thế nào và sống như thế nào đối với số người ở ngoài cộng đồng có đạo.
Mối bận tâm càng rộng lớn hơn là tận trung với Thượng Đế là nếp sống của
một dân tộc. Đạo đức tính là một phương diện của điều đó; nó là một chiềh
kích của cộng đồng. Sở dĩ “sinh hoạt đạo đức hiện hữu là vì cớ - và như là
một thành phần - của lòng trung tín của cộng đồng.
Mấy lời giải thích của Phao-lô cho cộng đồng Tê-sa-lông-ca minh họa rất
hay điểm này. Bức thư thứ nhất của ông là văn phẩm Cơ Đốc giáo đầy đủ
nhất còn lại cho chúng ta. Đó là thư tín của lời khuyến giục về đạo đức (4).
Ông mở đầu bằng những lời cảm tạ và tri ân về cuộc đời sống chung với
nhau của họ, và về quyền năng của Thượng Đế giữa họ. ”...công việc anh em
thực hiện do tình yêu thương và nhẫn nại...” (ITe1Tx 1:3). Ông đề cập việc
họ đã giữ theo “nếp sống mà chúng tôi đã sống khi còn ở với anh em vốn
nhằm chỉ giáo cho anh em” (1:5 theo bản Anh văn) và họ đã chuyển hướng
để “theo gương chúng tôi và theo gương Chúa” (1:6;). Họ đã tăng trưởng
“trong loại sinh họat mà anh em phải theo đó mà sống, là nếp sống mà
Thượng Đế muốn...” (4:1, theo bản Anh văn). Phao-lô dùng các hình ảnh
quen thuộc trong gia đình như mẹ, vú nuôi, cha và anh em để mô tả những
sợi dây tình cảm và trách nhiệm tinh thần của chính ông, Si-la (Sin-vanh) và
Ti-mộ-thư đối với họ. Ông bảo cách ba ông đối xử với người Tê-sa-lông-ca
là trong sạch, công chính, không chỗ chê trách” (2:10) mà kết quả là việc
cộng đồng đã được gây dựng trong Thánh Linh. Ông nhấn mạnh và khuyến
khích các thành viên trong cộng đồng hãy đoàn kết, tương thân tương ái và
sống thân thiết với nhau. Điều này gồm luôn việc nhớ lại và giữ hi vọng đối
với những người đã qua đời, và ông vạch rõ rằng “trong Chúa”, người Tê-sa-
lông-ca đã được buột chặt vào với các cộng đồng theo đạo ở khắp nơi như
họ đã được buộc chặt vào nhau vậy. Hơn nữa, với tư cách một cộng đồng, họ
không nên “nhờ cậy” những người sống ngoài cộng đồng có đạo; nhưng vì
họ vẫn phải sống chung lộn với nhau tại đó, nếp sống của họ phải được thiên
hạ thấy là “đáng tôn trọng đối với những người ngoài Hội thánh” (4:12 theo
bản Anh văn). Lẽ sống của tất cả những điều vừa kể trên là “Phúc âm” (3:2)
về những gì Thượng Đế đã làm trong Chúa Cứu Thế Giê-xu Lời khuyến
giục và khích lệ đạo đức tiếp theo là “sống xứng đáng với Thượng Đế... đã
mời gọi anh em...” (2:12).
Ở đây cũng như trong toàn bộ Kinh điển, đạo đức hiện hữu như một thành
phần và vì cớ tiếng gọi cộng đồng với tư cách một cộng đồng có đạo trong
Thượng Đế. Chủ đích của đạo đức là trợ giúp và khuyến khích đời sống,
“một cuộc đời xứng đáng với Thượng Đế là Đấng đã mời gọi anh em”. Đó là
đạo đức “tập trung vào một vị thần” (Thượng Đế là Đấng đã mời gọi anh
em") mà hình thức là cộng đồng. Thượng Đế - cộng đồng - con người là
những yếu tố sinh hoạt bất khả phân ly trong sinh hoạt đạo đức.
Lòng tận trung của cộng đồng đối với Thượng Đế và tha nhân thường được
tả vẽ bằng những từ ngữ đơn giản là “đạo (của sự) sống”. Những người theo
Chúa Giê-xu vốn được gọi là “người theo (của) Đạo” (tín đồ) ngay trước khi
được gọi là “Cơ Đốc nhân” (Cong Cv 9:2) cũng như chính Chúa Giê-xu
từng tự giới thiệu Ngài là Đạo (đường đi). Ngữ căn này vốn có gốc rễ sâu xa
từ Do-thái giáo, vì trong Do-thái giáo, nhiệm vụ của cộng đồng là truyền dạy
“Đạo” bằng cách sử dụng Kinh Torah là thành văn lẫn truyền khẩu. Điều
Wayne Meeks từng nói về các văn phẩm của các sứ đồ và của thời Cơ Đốc
giáo nguyên thủy cũng phù hợp với Kinh điển Hy-bá lai: “Mục tiêu đều tiên
(mà chúng) nhằm vào là tác tạo, hun đúc sinh hoạt (đạo đức) của các cộng
đồng”. Đây là một tiến trình bao biện, sẽ được thảo luận trong những
chương sau. Giờ đây điều đáng ghi nhận là tiến trình ấy đã tự chứng minh
phần lớn như là một mẫu mực hay một phương pháp (way: có thể hiểu là
đường, đạo, lối, nếp...) sống (Phao-lô rất thường dùng câu thường được dịch
là “sống một cuộc đời xứng đáng...” nếu dịch theo nghĩa đen là “bước đi
trong một con đường xứng đáng...")
Tóm lại, cả Do-thái giáo lẫn Cơ Đốc giáo đều quan niệm sinh hoạt đạo đức
là kết quả thực tiễn của đạo của cộng đồng, như đã được chứng minh trong
những lối sống của các thành viên trong cộng đồng, và theo như toàn thể
cộng đồng đã sống. Nhiệm vụ của cộng đồng là xã hội hóa các thành viên
của mình để họ sống theo các hình thức nhằm phô bày loại ăn ở cư xử phù
hợp với từng trải về Thượng Đế trong cộng đồng. Làm một người Do-thái
thì phải học hỏi truyện tích về dân Y-sơ-ra-ên và truyền thống Do-thái giáo,
thông thạo đủ để từng trải về thế giới bên trong các truyện tích ấy, rồi hành
động phù hợp với từng trải ấy với tư cách một thành viên của một cộng đồng
có đạo đang tiến hành. Cũng vậy, làm một Cơ Đốc nhân là phải học hỏi về
truyện tích dân Y-sơ-ra-ên và Chúa Giê-xu các truyền thống của Hội thánh
đang tiến hành, thông thạo đủ để từng trải cái thế giới nằm bên trong các
truyện tích ấy, rồi hành động phù hợp với từng trải ấy, với tư cách là một
thành viên của cộng đồng đó (6)
Người của Đạo (tín đồ, theo nghĩa là người tận trung với Đạo)
Một cách nhìn rộng rãi hơn vào các nguồn gốc của đạo đức học Cơ Đốc giáo
rất cần thiết Kinh Thánh từng đề cập “người theo đạo” (tín đồ), là tên dành
cho những thành viên của phong trào chung quanh Chúa Giê-xu trong các
cộng đồng Cơ Đốc giáo nguyên thủy. “Đạo” nói lên một mẫu mực sống
riêng biệt, phần giáo huấn và đào tạo đòi hỏi phải có cho việc ấy (gọi là
“môn đệ” hay người theo Đạo), và việc phải luôn luôn ghi nhớ và kể lại các
truyện tích có tính cách hình thức, mà trên hết là chính “truyện tích về Chúa
Giê-xu” (tc Cong Cv 18:24-26).
Với một số cộng đồng nguyên thủy, phần chỉ giáo này xảy ra trong hội
trường (Do-thái) cũng như tại các tư gia, như việc từng xảy ra trước khi Cơ
Đốc giáo ly khai với Do-thái giáo. Điều này diễn ra hết sức tự nhiên, vì
những lời giáo huấn như thế vốn luôn luôn là đặc điểm của cộng đồng Do-
thái. Đối với Do-thái giáo, đạo đức là việc phải sống một cuộc đời công
chính hay ngay thẳng. Đó là một nếp sống cần phải học tập mới có thể có
được, và nó được học tập như một thành phần của sinh hoạt đang tiến hành
trong cộng đồng.
“Đạo” (the way) là một lối dùng hình ảnh để ví von rất thông thường ngay
cả trong Kinh điển Hi-văn (Tân ước của Cơ Đốc giáo) lẫn trong Kinh điển
Hy-bá lai văn (Cựu ước của Cơ Đốc giáo). Có rất nhiều câu đề cập “con
đường (đạo) của Thượng Đế” hoặc “con đường (đạo) của Đức Giê-hô-va”.
Nó thường bao gồm một thành phần cấu tạo có tính cách đạo đức đòi hỏi
phải được truyền dạy trong các nhà trường để mọi người có thể, “bước đi
trong con đường xứng đáng” của Thượng Đế, là Đấng đang mời gọi họ. Lắm
khi nhiều con đường tương phản đã được trình bày như những trường hợp
bất khả thỏa hiệp, hòa giải. PhuDnl 30:1-20 kết thúc bằng những lời lẽ sau
đây: ”...Ta đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết sự phước lành và sự rủa
sả. Vậy, hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống,
thương mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi...” (PhuDnl 30:19-20). “Bài
giảng trên Núi” của Chúa Giê-xu, nhất là trong sách Lưu-ca, đặt tương phản
hết sức rõ rệt, phước và họa (LuLc 17:17-49). Theo truyền thống đặc biệt
của các nhà hiền triết, Chúa Giê-xu thường nói về con đường rộng rãi
khoảng khoát dẫn đến chỗ bị tiêu diệt, và con đường nhỏ hẹp dẫn đến sự
sống, cũng như hai nếp sống tương phản nhau, hoặc là “phục vụ Thượng
Đế” hay “phục vụ Thần tài” (của cải, sự giàu có) (7). Sách Didache là một
sách giáo huấn chỉ nam của Hội thánh từ thế kỷ thứ hai, bắt đầu bằng câu:
“Có hai con đường có thể noi theo: một là con đường sự sống và con đường
kia là con đường chết. Có sự khác nhau sâuxa giữa hai con đường ấy” (8)
Không phải tất cả phần giáo huấn đều rõ rệt như vậy. Nhưng cho dù hình
thức có là thế nào đi chăng nữa, thì hình ảnh vẫn là một chuyến du hành mà
mục tiêu đã được định hướng, trong đó, chính cách đi là một thành phần cấu
tạo nên chuyến hành hương.
“Con đường” (Đạo) vừa ám chỉ nẻo đường vừa ám chỉ cả cách thức du hành.
Bước đi trong “con đường” (Đạo) bao gồm một lối sống đạo đức liên hệ mật
thiết với chính nơi đến, đến nỗi nếu bị lạc “Đường” thì người ta cũng bị sai
trật mục tiêu (một đời sống công chính trong một cộng đồng tận trung với
Thượng Đế). Đích đến và phương tiện vốn đan dệt chặt chẽ vào nhau đến độ
chính phương tiện cũng là cứu cánh đang ở tình trạng tiến triển. Đoạn thơ
sau đây của Lassalle phản ảnh một khái niệm của Kinh Thánh:
Xin đừng chỉ cho chúng con mục tiêu mà không chỉ con đường.
Vì cứu cánh và phương tiện trên thế gian này vốn chằng chịt rối rắm đến nỗi
Hễ thay đổi cái này cũng là đổi thay cái kia
Mỗi nẻo đường khác nhau dẫn đến những cứu cánh khác nhau ở phía trước
(9).
Chỉ dạy “con đường” (Đạo) không những chỉ là đặc điểm của Do-thái giáo
ảnh hưởng đến đạo đức học Cơ Đốc giáo nguyên thủy thật sâu sắc, mà nó
còn là nhãn hiệu cầu chứng của nhiều mẫu mực đạo đức khác nữa trong thế
giới Hi-lạp, nơi Cơ Đốc giáo đã chiếm lĩnh bằng hình thức những cộng đồng
“Hội thánh tư gia” nho nhỏ trong các làng mạc và thị trấn (10). Các tác giả
ngoài Cơ Đốc giáo thường đề cập Cơ Đốc giáo như một “trường phái triết
học”. Điều ấy có thể khiến chúng ta ngạc nhiên, cho là kỳ quặc nhất là là vì
nhiều Cơ Đốc nhân nguyên thủy mới ăn năn quy đạo vốn mù chữ và là
những thành phần chẳng có chút danh tiếng gì thuộc các giai cấp xã hội hạ
lưu. Chúng ta không hề trông mong là “trường pháo triết học” lại ám chỉ
điều mà theo cách đặt tên ngày nay có vẻ như rất gần gũi với một giáo phái
gồm những người sống ngoài lề xã hội.
Các trường phái triết học vốn là một thành phần sinh động của sinh hoạt
công cộng Hi-lạp và La-mã, nhưng họ đã được nhận diện theo một cách thế
mà chúng ta không còn sẵn sàng kết hợp được với triết học. Mỗi một trường
phái như thế đều tự xưng là một bios hay ” một đường lối sống”. Triết lý
vốn không phải chỉ là một phương pháp tư duy - một công trình theo đuổi
những vấn đề siêu hình bằng sự nhận thức. Lẽ dĩ nhiên là những theo đuổi
như thế vốn không phải là xa lạ với các trường phái cổ xưa. Nhưng chủ đích
quan trọng của họ vốn là phải biện biệt - thông qua việc tranh luận gay gắt -
phần bản chấ của cách ăn ở ứng xử phù hợp và phải lẽ để rồi biến đổi điều
đó thành hành động. Triết lý đứng đắn xoay quanh cách sống và đạo đức học
mà triết lý tìm cách thể hiện trong một đời sống có kỷ luật và đức hạnh. Vấn
đề không phải là nghiên cứu, học hỏi về triết thuyết (triết học) cho bằng thực
hành nó (askẽsis: triết lý). Người ta bảo rằng sở dĩ Socrates đã vượt trên các
bản năng tự nhiên của con người là nhờ “thực hành triết lý”.
Cách đề cậo Socrates như trên gợi ý rằng truy truyền thống về các trường
phái (triết học) vốn là một thành phần đầy sinh lực trong sinh hoạt công
cộng của người La-mã, nhưng lại có nguồn gốc tại Hi-lạp. Triết lý của cổ
Hi-lạp bao gồm việc hướng dẫn các tâm hồn hay “công nghệ tâm hồn”
(psychogogia). Một phần quan trọng trong công tác của nó là hình thành,
đào tạo phần đạo đức cho tâm hồn. Chính Aristotle hiểu việc theo đuổi triết
lý phải bao hàm việc chăm sóc cho quốc gia đô thị (polis: city: state) bằng
cách nuôi dưỡng tác nhân con người trong cộng đồng và định hướng cho nó
để biết thực thi đức hạnh. Thật vậy, Aristotle sử dụng một từ ngữ, đã trở
thành một từ ngữ then chốt cho các Cơ Đốc nhân nguyên thủy - koinõnia
(cộng đồng hay một nhóm người kết bạn với nhau bằng một mối gaio hảo tốt
đẹp - fellowship hay thông công). Theo Aristotle thì chủ đích của chính
quyền là Koinõnia và triết lý phải tạo ra và đẩy mạnh việc ấy. Các trường
phái triết lý phát triển sau đó dưới quyền cai trị của người La-mã, vẫn tiếp
tục như những cộng đồng tác tạo tâm hồn.
Các trường phái vốn rất nổi tiếng và có tinh thần trách nhiệm cao. Khi một
người (nam hoặc nữ) chuyển từ đường lối sống cũ của mình sang một đường
lối khác, thì sự thay đổi đó được gọi là một “conversion” (mà ta thừơng dịch
là ăn năn quy đạo). Có lẽ các nhà xã hội học ngày nay sẽ đặt tên cho việc
làm ấy là “tái xã hội hóa” (resocialization: hòa nhập một xã hội mới?). Cho
dù có dùng tên nào, việc thay đổi triết lý sống của người ngoại đạo, vốn
giống nhau thật rõ ràng với những phần ký thuật về việc ăn năn quy phục Cơ
Đốc giáo. Đậy là một sự thay đổi nếp sống để tham gia một cộng đồng đạo
đức riêng biệt, đồng thời cũng tiếp thu các tín ngưỡng, lời chỉ giáo và phần
đào tạo cần thiết để sống theo “đạo (con đường) mới. Đây là tái xã hội hóa -
là hòa nhập vào một cộng đồng mới, học tập cách ăn ở ứng xử phù hợp với
cộng đồng ấy. Ăn năn quy đạo thường có nghĩa là một sự thay đổi lý lịch cá
nhân, và được xem như việc ly khai rõ ràng với “thế gian”.
Điểm giống nhau giữa việc thực hành đạo lý của các trường pháo triết lý với
việc hành đạo” của các cộng đồng Cơ Đốc nhân thường rất đáng ngạc nhiên:
Như một triết lý cũng dẫn người ta đến chỗ biết sống tự chủ và kiểm soát
nghiêm khắc các vấn đề ăn uống và tình dục, theo đuổi công lý và “đấu
tranh” với cái chết, nghĩa là không sợ chết. Còn Justin Martyr, viết sách vào
đầu cùng một thế kỷ ấy, thì trình bày việc mình ăn năn quy phục Cơ Đốc
giáo như quy phục một “triết lý” cá biệt, dầu triết lý này tranh đua với cách
sống (bios) của các trường phái khác (12). Nhưng điều được nói lên là Justin
Martyr đã đồng nhất hóa Cơ Đốc giáo với một triết lý.
Có lẽ cần nói thêm bằng cách kể ra lời chứng của những người không phải là
Cơ Đốc nhân về phong trào Cơ Đốc giáo. Điều này sẽ chỉ ra một số các đức
hạnh mà các trường phái cũng đề cao như các Cơ Đốc nhân, và do đó nhấn
mạnh quan điểm của chúng tôi rằng các cộng đồng Cơ Đốc giáo nguyên
thủy vốn là những cộng đồng nhằm mục đích gây dựng tinh thần đạo đức tập
thể xoay quanh một nếp sống. Phần ký thuật sau đây là của thượng nghị sĩ
La-mã lừng danh đã cải giáo (converted) để theo một trường phái của triết
gia Plotinius (không phải là Cơ Đốc nhân). Phần ký thuật được Porphyry,
một học giả chuyên nghiên cứu về Plotinius mà cũng là một trong những
nhà phê bình Cơ Đốc giáo tài ba đầu tiên, viết lại. Porphyry làm chứng về
đời sống mới của Rogatianus trong một phần ký thuật gần như đúng y với số
người ăn năn quy phục Cơ Đốc giáo vào thời ấy.
Cũng có Rogatianus, một thượng nghị sĩ đã tiến bộ rất xa trong việc khước
từ nếp sống công cộng đến nỗi từ bỏ tất cả tài sản, cho tất cả tôi tớ được tự
do và từ chức. Lúc ông sắp phải ra mắt công chúng với tư cách thẩm phán và
các công sai đã có mặt ở đó rồi, ông ta từ chối không chịu xuất hiện để
chứng tỏ mình chẳng có liên hệ gì với chức vụ ấy cả. Ông ta cũng không
sống cả trong chính ngôi nhà riêng của mình, mà lần lượt đi từ nhà này sang
nhà khác của bạn bè và bà con mình, ăn tại một nhà này, còn ngủ thì tại một
nhà khác (mỗi ngày ông ta chỉ ăn một bữa mà thôi). Hậu quả của việc ông ta
từ chối và tỏ ra dửng dưng đối với các nhu cầu của đời sống, và tuy ông ta
mắc chứng thống phong đến nổi phải được kiệu đi, ông ta đã lại sức, và tuy
trước đó ông ta đã không thể giơ thẳng tay ra, ông ta đã có thể sử dụng
chúng còn dễ dàng hơn cả những thợ thủ công nghệ chuyên nghiệp.
Plotinius rất có thiện cảm với ông ta và khen ngợi đề cao ông ta, và thường
nêu ông lên như một tấm gương cho tất cả những ai thực hành theo triết lý
(13).
Trong khi cách ăn ở ứng xử của Cơ Đốc nhân thường rất giống một cách
đáng ngạc nhiên với cách sống của “những người thực hành theo triết lý”,
chúng tôi xin thêm ngay rằng không phải tất cả các quan sát viên ngoại giao
đều đồng ý với nhau rằng Cơ Đốc giáo là một “triết lý”. Có một số bảo rằng
nếp sống như “dân Ga-li-lê” đó là không đủ triệt để về mặt trí thức, một lời
tố cáo mà các nhà biện giải Cơ Đốc nhân đã dùng để phản bác hồi thế kỷ thứ
hai. Nhiều người bảo Cơ Đốc giáo là “mê tín dị đoan”. Họ ngụ ý nói rằng đó
là một đạo thờ cúng ngoại lai, được thực hành bên ngoài đền thờ chủ thần
Hi-lạp và La-mã và tham gia nhiều cách hành đạo nửa huyền bí nửa công
khai, khác hẳn với các tập tục tôn giáo thông thường. Hơn nữa - và đây là cơ
hội để họ kết án về mặt đạo đức - Cơ Đốc giáo tỏ ra dửng dưng và nhiều khi
còn chống lại tôn giáo dân sự của hoàng đế nữa. (Vì lý do sau này mà thỉnh
thoảng các Cơ Đốc nhân đã bị gọi là “vô thần") (14)
Điểm hiển nhiên còn lại là: Cho dù đạo đức học Cơ Đốc giáo nguyên thủy,
theo chữ nghĩa, có bị xem là một cộng đồng thuộc về Do-thái giáo và thấm
nhuần Kinh Thánh Hy-bá lai theo nghĩa rất mạnh, hay được đặt trên phần
bối cảnh là nền văn hóa cổ điển, thì Đạo - theo nghĩa là một nếp sống có
trung tâm là tôn giáo / đạo đức - vẫn là trái tim, là phần cốt lõi. “Đạo” luôn
luôn là một vấn đề của cộng đồng. Nó là nếp sống của một cộng đồng có đạo
(đức tin).
Các nhãn hiệu Do-thái.
Nếu chúng ta muốn hiểu đạo đức học Cơ Đốc giáo trong giai đoạn nguyên
thủy và ở trạng thái hình thành sớm nhất, để mô tả nó theo như các chuẩn
mực đạo đức của Do-thái giáo. Nếu chỉ ghi nhận việc nhấn mạnh trên lối
sống mà các cộng đồng Cơ Đốc nhân nguyên thủy đã cùng chia xẻ với các
trường phái triết lý La-mã mà thôi, thì chưa đủ. Các trường phái ấy đã không
chú trọng vào lý lịch tôn giáo của cộng đồng là điều phân biệt các cộng đồng
Cơ Đốc giáo, vì “Đạo” của cộng đồng sau này là nếp sống (bios) của cộng
đồng có đạo. Hơn nữa, các nhóm xã hội này của thế giới Hi-lạp vốn đều gần
nhất với hình thức hội họp Cơ Đốc giáo tức là việc thờ cúng tôn giáo - chỉ
tương đối chú ý rất ít đến những gì mà các Cơ Đốc nhân chú tâm rất nhiều -
nghĩa là tinh thần đạo đức và đạo đức học như những nhiệm vụ của cộng
đồng. Nếu muốn hiểu đạo đức học Cơ Đốc giáo trong những giai đoạn sớm
nhất chúng ta phải thừa nhận rằng luật pháp Do-thái vốn còn quan tro5ng
hơn luật pháp Hi-lạp nữa.
Hai đặc điểm nổi bật và dai dẳng nhất của quốc gia Y-sơ-ra-ên cổ thời và
hậu thuẫn của nó là Cơ Đốc giáo nguyên thủy, là ý thức về mình là một
“dân”, và địa vị cao trọng mà cuối cùng Kinh điển đã chiếm được trong cộng
đồng.
Ý niệm về dân (Peoplehood)
Đối với cả Do-thái giáo lẫn Cơ Đốc giáo, trở thành “một dân” không có
nghĩa là trở thành một cộng đồng được kết hợp vào nhau suông mà thôi. Dân
Y-sơ-ra-ên là một liên minh nhiều chi phái (bộ lạc) là một dân tộc, một cộng
đồng đang bị lưu đày và là một cộng đồng đang sống tan lạc. Vào thời của
Chúa Giê-xu, dân Y-sơ-ra-ên có quá nhiều hình thức cộng đồng: có các
phong trào cổ vũ cho Đấng Mê-si-a đang phục hưng như những phong trào
chung quanh Chúa Giê-xu và Giăng Báp-tít; có những cộng đồng theo đời
sống bán-tu-viện như cộng đồng Essenes về giao ước mới ở Qumran; các
cộng đồng bị tan lạc ở rải rác tại nhiều trung tâm trong toàn đế quốc như ở
Alexandria và Rô-ma; và vô cùng quan trọng cho Do-thái giáo về sau nà, là
các trường phái của các ra-bi đang tăng trưởng (15)
Đây mới chỉ là một phần của bảng liệt kê từ một giai đoạn cũng từng chứng
kiến thời khai sinh của tạp đa chủ nghĩa trong cộng đồng Cơ Đốc giáo (16).
Một phần của chủ nghĩa đa tạp ấy vẫn còn lưu lại trong chính bộ Tân ước.
Nếu ngay từ những thế kỷ đầu tiên của lịch sử Cơ Đốc giáo, đã không hề có
một hình thức tổ chức hay cộng đồng nào tồn tại lâu dài và đại diện cho “dân
sự”, thì từ ngữ ấy có nghĩa gì? Với Hội thánh Cơ Đốc, chẳng bao lâu nữa sẽ
có sự tham sự của một loạt các biến cố, nhân vật, truyện tích, nghi lễ, tín
ngưỡng, tập tục, luật lệ, sự khôn ngoan cả truyền khẩu lẫn thành văn và
nhiều tổ chức vô cùng phức tạp liên hệ đến đời sống. Những điều này chắc
đã xảy ra, suốt nhiều thế kỷ và trên nhiều lục địa, tuy là có nhiều sửa đổi,
thêm thắt và trau chuốt, nhưng chúng cũng không vì thế mà không được
nhìn nhận là có mối liên hệ với nhau giữa những điều dị biệt lớn lao về tập
tục, địa dư, ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc, giai cấp và nguồn gốc quốc gia.
Càng căn bản hơn đối với ý nghĩa của “một dân”, là một năng động lực thâm
nhập các yếu tố đã tham dự vào và những điểm khác nhau của chúng. Đó là
điểm nhấn mạnh của Do-thái giáo trên sự thể hiện xã hội về đức tin vào một
Thượng Đế duy nhất (17). Trở thành dân của Thượng Đế có nghĩa là tạo cho
từng trải tập thể cái hình thức chung về Thượng Đế, trước hết là trong dân
Y-sơ-ra-ên và sau đó là trong Chúa Giê-xu và Đức Thánh Linh. Các cong
đồng đều nhấn mạnh trên một xã hội có đạo hay một công xã theo đạo, một
thực tại làm chiếc nôi (tử cung) của đời sống các thành viên của chúng.
“Đơn vị căn bản của thực tại nhân loại không phải là đô thị quốc gia (polis)
như với người Hi-lạp, cũng không phải là đế quốc, như với người La-mã,
hay hiện đại. Nó phải là một dân bởi tư cách một cộng đồng xã hội có đạo.
Nét đặc trưng này mạnh mẽ như thế nào, và điểm giống nhau đầu tiên giữa
Do-thái giáo và Hội thánh vốn mạnh mẽ như thế nào, đã được phản ảnh
trong câu trả lời của La-mã. Người La-mã nhìn thấy “dân theo đạo” Cơ Đốc
như chỉ là một biến dạng của cộng đồng Do-thái mà thôi.
Đạo đức học Cơ Đốc giáo vốn chẳng bao giờ đánh mất phần ý thức của
mình về sự thể hiện đạo (đức tin) một cách tập thể vốn là một đặc điểm của
nó ngay từ khởi thuỷ, và sẽ chẳng bao giờ đánh mất nó, bao lâu nó còn giữ
lại lời chứng ngay trong Kinh điển của mình. (Có một lý do cho việc này, ấy
là hầu như tất cả các hình ảnh của Kinh Thánh về lai lịch của tôn giáo đều là
những hình ảnh có tính cách cộng đồng: dân Y-sơ-ra-ên, gia đình, vương
quốc, giao ước, một đám tiệc, một gốc nho có nhiều nhánh, một thân có
nhiều chi thể, một tuyển dân và chức vụ thầy tế lễ nhà vua v.v...) nhưng
những phát triển về sau đã làm cho ý nghĩa tôn giáo bị suy yếu đi rất nhiều:
- Một nhị nguyên chủ nghĩa và khổ hạnh chủ nghĩa có tính cách Hi-lạp hơn
là Hy-bá lai đã hiện diện ngay từ những thế kỷ đầu tiên, phân rẽ thực tại vật
chất với thực tại thuộc linh và định vị trí cho thực tại của đức tin là cõi vô
hình, thay vì ở trong, ở với và ở dưới đều vẫn được nhìn thấy về phương
diện xã hội. Thiên nhiên / siêu nhiên, tâm hồn / thân xác và tâm linh / thân
xác là những nhị nguyên chủ nghĩa đã phát triển.
- Từ Hoàng đế Constantine trở về sau (thế kỷ thứ tư SC) các biên giới của
Hội thánh đã mở rộng để trường hợp với các ranh giới dân sự và xóa đi lằn
ranh giữa nếp sống cộng đồng được tôn giáo làm thay đổi đi, với các chuẩn
mực luân lý và văn hóa của phần xã hội rộng lờn hơn. Một nếp sống phân
biệt có đặc điểm của các cộng đồng Cơ Đốc giáo đã mờ dần dưới mắt công
chúng, hay chỉ còn khoác lấy một hình thức xã hội tuy nhìn thấy được,
nhưng đã bị lắng đọng, chỉ gồm vài nhóm hay “giai cấp” Cơ Đốc nhân mà
thôi (tu viện chủ nghĩa là một thí dụ áp đảo) (18).
- Chiến thắng của cá nhân chủ nghĩa trong các vấn đề luân lý đạo đức chiếm
ưu thế nhiều nhất bên Tây phương từ thời Soi sáng (English tenment) trở đi
(thế kỷ thứ 17 và tiếp sau đó) và là mạnh mẽ nhất trong văn hóa Anh-Mỹ, đã
cất đi chính cái ý thức về tính cách cần thiết của cộng đồng đạo đức. “Công
ích” từ chỗ đã lùi bước để chỉ còn là một khái niệm căn bản về đạo đức và
đạo đức tính, cứ ngày càng trở thành một vấn đề riêng tư. Việc hình thành
(đào tạo) tinh thần đạo đức đã bị bỏ mặc cho các gia đình có khi là cho các
trường học, và cho các cộng đồng vốn tự nguyện tiếp nhận nó như hậu quả
của những lựa chọn cá nhân. Nhiều người đã xem bản thân các giá trị chỉ là
cách biểu hiện thị hiếu và sở thích cá nhân mà thôi.
Đã bị gán cho cái gánh nặng pháp lý chồng chất theo ba phương diện đó -
khắc khổ chủ nghĩa và nhị nguyên chủ nghĩa, những dàn xếp của
Constantine, và cá nhân chủ nghĩa - thiết tưởng chúng ta nên kể ra nhiều thí
dụ trong Kinh Thánh về sự đào tạo phần tinh thần, “dân sự” về phương diện
đạo đức ấy. Nếu không, sức mạnh của đạo đức học như một cái gì gắn chặt
với cộng đồng sẽ bị đánh mất Chúng tôi chọn hai thí dụ, một từ dân Y-sơ-ra-
ên, còn thí dụ kia là từ Hội thánh nguyên thủy.
Việc Xuất Ai-cập vốn là biến cố đầu tiên hình thành tinh thần “dân sự”
(Peoplehood). Chính biến cố ấy đã đưa đám nô lệ vừa được giải phóng vào
hoang mạc Si-na-i, nơi họ phải đương đầu không tránh né vào đâu được với
một câu hỏi đại khái như thế này: Bây giờ, chúng ta phải đáp ứng như thế
nào cho các nhu cầu thể xác của mình, để cùng nhau chứng minh bằng đời
sống cái quyền tự do mà chúng ta đã chiếm được nhờ vị Thượng Đế hay giải
phóng vốn biết rõ nỗi gian khổ của chúng ta, và đã nghe lời kêu cầu của
chúng ta đó? “Núi Si-na-i” đã mở màn cho câu trả lời. Nhiệm vụ xã hội
trong hoang mạc là phải tác tạo, hun đúc nên một cộng đồng trung kiên, giữa
những tình hình vô phương xoay trở ấy, đã tìm được lối thoát nhờ sự hiện
diện giữa họ của Thượng Đế đầu quyền năng. Được tự do khỏi đã trở thành
được tự do để; tự do phải tìm cho được phần hình thức xã hội trong sinh hoạt
cộng đồng. Thật vậy, cả một loạt câu hỏi đã được đặt ra, vừa trong hoang
mạc lẫn đến khi đã vào vùng đất mới. Cơ cấu kinh tế, cai trị và chính trị của
nó phải như thế nào? Còn về nghi lễ và sự thờ phượng? Về các mối giao tiếp
xã hội, các mối liên hệ giữa người láng giềng với nhau? Ai là người phải thi
hành những nhiệm vụ nào có liên hệ đến cách sinh sống, và lập ra các luật lệ
cho gia đình, chi phái (bộ tộc) và cho liên bang? Phải làm cách nào để phân
phát các lợi lộc và chia xẻ các gánh nặng? Những luật lệ nào phải chiếm
được ưu thắng? Phải đối xử thế nào với những kẻ vi phạm?
Phần mẫu mực để trả lời các câu hỏi này rất có ý nghĩa. Lẽ dĩ nhiên là cần
phải lưu ý đến các điều kiện và các nguồn tài nguyên địa phương; và ký ức
cũng như óc tưởng tượng đã phải hòa lẫn với nhiều kỹ xảo khác nữa của con
người để phác thảo một lược đồ, một bản hiến chương cho con đường sắp
vạch ra. Nhưng tất cả những việc này đều xảy ra trong niềm tin quyết rằng
cộng đồng phải phản ảnh cá tính và cách ăn ở cư xử của Thượng Đế công
chính và đầy lòng nhân từ thường xót. Chính cá tính và cách ăn ở ứng xử
của mình. Ngài là Đấng biết rõ nỗi đau khổ của họ và đã đưa họ ra khỏi xứ
Ai-cập (19). Lý luận đạo đức tập thể của các “chi phái thuộc về Đức Giê-hô-
va” đó có lẽ là như vầy: Nếu sự hiện diện uy nghiêm và hay lẩn tránh mà
chúng ta gọi là Đức Giê-hô-va đó đã cứu chuộc chúng ta vốn là những kẻ
nghèo khó đã biết rõ nỗi đau khổ của chúng ta là nỗi đau khổ của đám nô lệ,
thì chúng ta cũng phải tỏ lòng nhân từ thương xót và cứu chuộc những nạn
nhân, những kẻ bị loại bỏ. Nếu Đức Giê-hô-va toàn năng đã thăm viếng
chúng ta khi chúng ta còn là khách lạ trong xứ Ai-cập, và mở rộng lòng hiếu
khách để cứu rỗi chúng ta, thì đến lượt mình, chúng ta cũng không nên áp
bức các khách lạ, mà phải tiếp rước và cung cấp chỗ trú ẩn cho họ. Lẽ tất
nhiên, chúng ta phải yêu thương người lân cận kể cả các khách lạ, như bản
thân. Nếu Đức Giê-hô-va toàn năng còn tự đồng nhất hóa với chúng ta là
những kẻ bất năng bất lực và bị lột trần, thì chúng ta cũng phải làm như thế
với cộng đồng của Đức Giê-hô-va. Yêu thương triệt để và chuyên tâm thực
hiện công lý không phải là những hành động tùy ý chọn của người tự nguyện
sống ngoan đạo; chúng là trái tim của điều mà chúng ta là dân sự của
Thượng Đế phải làm (20)
Bí quyết của chuẩn mực đạo đức cộng đồng này là cá tính của Thượng Đế là
loài người đã được từng trải, và ở đây là một Thượng Đế của kẻ bị áp bức
(21). Hệ quả của tiến trình ấy là một cộng đồng cố ý muốn trở thành điều
khác với những gì mình đã biết tại Ai-cập. Cộng đồng của giao ước (được
ký kết) với một Thượng Đế đầy lòng thương xót và công chính đã được định
nghĩa tương phản với cộng đồng đế quốc của Pha-ra-ôn vàc ác nền văn hóa
lớn khác của Trung Đông cổ thời, nơi mà quyền thế của quốc gia (được xem
là) ngang hàng với quyền năng của các thần của nó. Khi nào Ai-cập suy yếu,
thì các thần của nó cũng suy yếu còn khi Ai-cập hùng cường, thì thiên hạ
bảo rằng các thần của nó cũng mạnh lên. Quyền năng của các thần được đo
đạc tùy theo sức mạnh của quân lực, của nền kinh tế, của các công trình văn
hóa của nước ấy, và việc đến với các thần là qua trung gian của một hệ
thống tư tế tinh vi về phe với thế lực chính trị và kinh tế đang cầm quyền
trong một xã hội mà các tầng lớp đều được sắp xếp chặt chẽ từ trên xuống
dưới. Rõ ràng là các thần gia ân cho những kẻ ngự tại trên chóp ba của chiếc
tháo xã hội; do đó cũng hậu thuẫn và củng cố thêm cho những giàn xếp đế
quốc.
Như thế, khi có vị nào trong đám các thần từng được nghe tiếng rên siết của
những kẻ bị bóc lột, lại tự do thiết lập các mối liên hệ giao ước với những
tên nô lệ chẳng hề có địa vị hay thế lực gì cả, thì đó là cả một cuộc cách
mạng giữa các thần. Đó cũng là một cuộc cách mạng trong các sắp xếp xã
hội khi các tên nô lệ ấy lại tạo ra một cộng đồng khác hẳn với một cộng
đồng của các dân các nước vào giai đoạn đó Ở đây, chúng tôi không thể vẽ
lại chi tiết tiến trình, cũng như kết quả của việc ấy nhưng có thể phác thảo
phần nỗ lực để ban cho một dân từng được từng trải về Thượng Đế cái hình
thức cộng đồng đó (22).
Quyền hành của luật pháp đầy đẫy trong các trang của sách xuất Ê-díp-tô,
Lê-vi ký và Phục truyền luật lệ ký minh họa sự pha lẫn này của những nhu
cầu thực tiễn về sự hình thành cộng đồng với những con người cố gắng ban
cho các niềm tin tôn giáo đạo đức của mình một cách cách biểu hiện cộng
đồng. Các văn bản phản ảnh một ý thức hết sức mạnh mẽ về “dân sự tính” )
peoplehood), có thể nói là một tiếng gọi tôn giáo tập thể, là “một nước của
các thầy tế lễ” (XuXh 19:6) cho toàn dân, dù đúng ra thì đó là một cộng
đồng không “giống với các dân khác” (ISa1Sm 8:5, 20). Cũng như trong tất
cả các cộng đồng, các văn bản cũng phản ảnh tính cách hiển nhiên không
nhầm lẫn vào đâu được của sự yếu đuối mong manh, sai lầm, hẹp hòi bất
công và các viễn cảnh và tập tục hư xấu của con người. Thật ra thì các
đường lối (nếp sống) đáng ghét của Pha-r-aôn về sau cũng được tìm thấy
ngay trong chính dân Y-sơ-ra-ên nữa (23). Ít nhất thì đưa “dân Ai-cập” ra
khỏi “xứ Y-sơ-ra-ên” cũng khó khăn ngang hàng với việc đưa “dân Y-sơ-ra-
ên” ra khỏi “xứ Ai-cập”. Nhưng dầu sai thì điều mửa mai đó cũng không
thay đổi được việc quyết tâm sâu xa là đi tìm một con đường (phương pháp)
để ban một hình thức xã hội cho sự từng trải về Thượng Đế với tư cách một
cộng đồng sáng tạo và một cộng đồng duy trì và lưu truyền từng trải.
Những năng động lực tương tự cũng hiện diện trong Hội thánh nguyên thủy,
như chúng ta thấy trong sách Công vụ. Một từng trải tập thể về Chúa Giê-xu
đã sống lại và việc ban Thánh Linh xuống, đã đưa đến những câu hỏi hết sức
thực tiễn: Bây giờ, chúng ta làm thế nào để thể hiện cái thực tại mãnh liệt về
một Chúa Cứu thế hằng sống đang ở giữa chúng ta, trong sinh hoạt hằng
ngày của chúng ta với nhau? Chúng ta sẽ làm gì với tài sản, nhà cửa đất đai
của mình? Chúng ta sẽ tổ chức sự giao hảo (thông công: fellowship) giữa
chúng ta nhp thế nào, ngay tại địa phương và trải qua nhiều khoảng cách thật
xa xôi, nghĩa là chúng ta sẽ “cùng ăn chung với nhau” như các chi thể của
cùng một thân thể tại nhiều địa phương khác nhau như thế nào? Hình thức
cai trị của chúng ta sẽ ra sao, và làm thế nào dùng các biện pháp nào để công
nhận các lãnh tụ của chúng ta? Việc thờ phượng sẽ được điều khiển như thế
nào? Phải đối xử ra sao với các nghi thức, lễ nghi và lễ lạc của sinh hoạt
trước kia của chúng ta? Giờ đây, chúng ta sẽ nói sao với Hoàng đế (Sê-sa),
một khi Chúa Giê-xu đã là “Hoàng đế của chúng ta” (Cong Cv 17:8); và
chúng ta phải giải quyết như thế nào vấn đề phải phục vụ cho quân đội của
hoàng đế? Bây giờ phải thay đổi như thế nào các mối liên hệ giữa cha con,
vợ chồng, chủ nô với nô lệ? Đâu là những đòi hỏi đối với người làm thành
viên của cộng đồng? Phải đối xử thế nào với những kẻ xâm phạm đến Phúc
âm mới mẻ của chúng ta và bắt bớ bách hại chúng ta?
Cũng như những câu trả lời tại núi Si-na-i, tất cả các nỗ lực này đều mang
các dấu ấn của khải tượng và sự cộng tác hạn chế của con người. Nhiều phe
đảng nảy sinh. Dầu vậy nhiều đời sống đã được biến đổi trong nhiều cộng
đồng mà không ai có thể hiểu được ngoài ra tin rằng đó là sự từng trải do
quyền phép và đạo của Chúa Giê-xu ban cho, một sự ban thưởng của
Thượng Đế khi Chúa Giê-xu sống lại, rồi được Đức Thánh Linh khiến nên
sống động. Định hướng này của Cơ Đốc giáo đã được phân biệt với các
cộng đồng Do-thái và người ngoại quốc hác ở chỗ các Cơ Đốc nhân đã quay
sang “theo Chúa Giê-xu” (theo ngôn ngữ của các sách Phúc âm) hay “mặc
lấy Chúa Cứu Thế” (theo ngôn ngữ của Phao-lô). Tuy nhiên, khi tra xét kỹ
hơn, chúng ta thấy rằng đó là cách thức mà các cộng đồng Cơ Đốc nhân đã
nói về từng trải về Thượng Đế của họ, và đây là hình thức của chuẩn mực
đạo đức Hy-bá-lai của họ, nghĩa là một tinh thần đạo đức cộng đồng đã được
suy diễn ra từ đặc tính của sự hiện diện của Thượng Đế mà họ đã từng trải
được. Trong trường hợp này, Chúa Giê-xu và Đức Thánh Linh là từng trải
về sự hiện diện của Thượng Đế của cộng đồng, và hình thức xã hội của đức
tin (đạo) của họ vốn bắt nguồn từ đó. Cho nên khi câu hỏi đặt ra là một câu
hỏi có tính cách đạo đức: “Bây giờ chúng ta phải sống như thế nào và làm
gì?”, thì các Cơ Đốc nhân nguyên thủy đã đưa Chúa Giê-xu ra làm Chuẩn
Mực, Giáo Sư và Gương Mẫu; hoặc họ đi tìm các đầu mối khác từ “câu
chuyện về Chúa Giê-xu” - mà trên hết là tấn thảm kịch về sự thương khó của
thập tự giá và về việc Chúa sống lại (24); hoặc họ rút nó ra từ sự hiện diện
cứ được tiếp tục của Giê-xu trong Thánh Linh giữa vòng họ; hoặc thường
thường là bằng một cách kết hợ nào đó giữa tất cả những điều vừa kể. Tính
cách phân biệt của các Cơ Đốc nhân nguyên thủy không phải là do cách họ
trả lời những câu hỏi về đạo đức, mà họ đã tiếp tục các giòng chính của
quyền lực của luật pháp Do-thái giáo. Chỗ phân biệt của họ là niềm quyết
rằng chính ở nơi một người Do-thái là Giê-xu ở Na-xa-rét, mà Thượng Đế
đã được nhìn thấy bằng sự sáng sủa đầy phấn khởi, và đã trở thành sự biểu
hiện đầy đủ nhất có thể có trong hình hài thể xác con người. Điểm phân biệt
không phải là các Cơ Đốc nhân đã xây khỏi cái ý thức rằng họ là “một dân”
với một tiếng gọi tôn giáo đạo đức, nhưng là trong việc họ cãi lại rằng chính
Giê-xu này mới vừa là “Thượng Đế chân chính” (một sự khám phá ra
Thượng Đế bằng đức tin) mà cũng vừa là “người thật” (một kiểu mẫu tiêu
biểu của đời sống làm người).
Chúng ta phải chen vào đây một lời chú thích về chính “phong trào Giê-xu”.
Nó tiếp tục phần mẫu mực mà chúng ta vừa nói nhưng không phải đều có
cùng những thành viên giống nhau trong nhiều Hội thánh nguyên thủy - thí
dụ như trong các hội chúng của Phao-lô. Phong trào Giê-xu ám chỉ cái cộng
đồng vây quanh sát cạnh Chúa Giê-xu ngay lúc Ngài còn tại thế cho đến khi
Đền thờ bị tàn phá vào năm 70 SC. Nó gồm có những người từng đi đây đi
đó với Chúa Giê-xu, với những người ủng hộ “Đạo” vẫn ở lại trong các làng
mạc của họ, nhất là trong xứ Ga-li-lê. Đây là một phong trào của người Do-
thái hoàn toàn nằm bên trong xứ Palestine, và là một trong số rất nhiều cơn
phục hưng, nhiều phong trào của giai đoạn ấy. C.H.Dodd từng đề cập chủ
đích của Chúa Giê-xu là nhằm tạo ra “một cộng đồng xứng đáng với cái
danh xưng là một dân của Thượng Đế” (25). Để theo đuổi chủ đích ấy, Ngài
đã tìm cách hình thành “một dân Y-sơ-ra-ên mới dưới quyền lãnh đạo của
chính Ngài; Ngài bổ nhiệm họ vào “giao ước” mới, và Ngài quy định luật lệ
mới của nó. Đó là sứ mạng của Ngài” (26).
Đây là một vấn đề của dân Do-thái. Nó đã được Marcus Borg nhấn mạnh
thật chính xác: “Chúa Giê-xu chủ tâm tạo ra một cộng đồng nằm trong lịch
sử mà sinh hoạt cộng đồng của nó phản ảnh lòng tận trung với Thượng Đế”
(27)
Tóm lại, cả hai thí dụ - thời khai sinh của nước Y-sơ-ra-ên và của Hội thánh
nguyên thủy, với phong trào Giê-xu ở giai đoạn đầu tiên - làm chứng cho
việc các cộng đồng tôn giáo vốn không phải “đã có” một tinh thần đạo đức
xã hội cho bằng là “đã trở thành” một tinh thần xã hội qua quá trình hình
thành. Tinh thần đạo đức là một chiều kích của từng trải tôn giáo mà người
ta được chia sớt cho; nó là một hình thức tập thể và hình thức tập thể đó rất
năng động. Nếu dùng từ ngữ của Tân ước, thì đạo đức học là đạo đức học
cộng đồng (koinõnia ethics) - là mối liên hệ giữa người và người do cộng
đồng tạo nên, bắt nguồn từ một từng trải đầy sức thúc đẩy về Thượng Đế
(28).
Vai trò của Kinh điển
Ý thức mạnh mẽ về “tính cách của một dân” (peoplehood) trong đạo đức học
Cơ Đốc giáo nguyên thủy là dấu hiệu đầu tiên của uy quyền của luật pháp
Do-thái giáo. Liên hệ chặt chẽ với nó là một uy quyền có tính cách pháp lý
thứ hai, uy quyền cao cả của Kinh điển đối với sinh hoạt đạo đức.
Kinh điển thủ vai trò gì trong các cộng đồng Cơ Đốc giáo sớm nhất? Nó vốn
không có và không thể có địa vị đúng y như đối với chúng ta, vì các cộng
đồng ấy vốn không có bộ Kinh Thánh như chúng ta. Chính toàn bộ Kinh
điển cũng đang ở trong giai đoạn hình thành với tư cách là các tài liệu của
cộng đồng có đạo, trước hết là do truyền khẩu, rồi sau đó mới đến hình thức
thành văn được thêm vào, đi đôi với nhau, và được bảo tồn. Kinh điển Hi-
bá-lai hay Tanak (Cựu ước của Cơ Đốc giáo) đã không được điển chế dứt
khoát trước đầu thế kỷ thứ hai sau Chúa Cứu Thế. Các sách Luật pháp, các
sách Tiên tri và nhiều quyển sách khác nữa đã được sử dụng từ 200 năm
trước, tuy nhiên bộ Ngũ kinh được gán cho Mai-sen thì đã được trích dẫn từ
lâu trong những bài thuyết giảng cộng đồng và đã có được hình thức của
Kinh điển từ rất sớm rồi (29). Các Kinh điển Hi-văn (Tân ước Cơ Đốc giáo)
là một tuyển tập các văn phẩm nguyên thủy đã được liệt vào Kinh điển vào
the7 kỷ thứ tư sau Chúa Cứu Thế. Cho đến lúc ấy, đã có nhiều bộ suy tập
các văn phẩm ấy - được sử dụng và được xem như Kinh điển Cơ Đốc giáo
(30).
Thế nhưng cả trước khi có việc quyết định hình thức điển chế, các bức thư
được lưu truyền từ các cộng đồng có đạo của tổ tiên cũng thủ một vai trò
không chi sánh kịp trong các phong trào tôn giáo và triết học của thế giới cổ
thời. Uy quyền cộng đồng của chúng là “một đặc điểm độc nhất vô nhị của
tinh thần đạo đức” (ethos) Do-thái (31). Các văn phẩm của các triết gia khai
sáng và các giáo sư danh tiếng của các trường phái Hi-lạp và La-mã vốn
chẳng bao giờ được dành cho một địa vị cao trọng như thế trong các cộng
đồng có liên hệ với họ, ngay cả đến các sách cổ điển đã có địa vị vững chắc
hẳn hoi như các tác phẩm của Homer hay các văn phẩm của Plato. Đã không
hề có một bộ sách này được địa vị một bản “hiến pháp” như bộ Kinh Torah
trong các cộng đồng Do-thái hay các quyển sách thánh trong các cộng đồng
Cơ Đốc giáo (32). Trong các cộng đồng của họ, Kinh điển là những tài liệu
có giá trị của một bản hiến chương với quyền năng sống động.
Một uy quyền như vậy vận hành như thế nào bên trong và cho sinh hoạt đạo
đức của các cộng đồng ấy, là một vấn đề dành cho các chương sách về sau.
Giờ đây, chúng ta chỉ chú ý những điểm sau đây: các cộng đồng cổ xưa, cả
Do-thái lẫn Cơ Đốc giáo, đều tin quyết rằng điều có ý nghĩa đạo đức có thể
được biện biệt qua việc nghiên cứu thật kỹ các Kinh điển ấy. Kinh điển là
một sách chỉ nam đáng tin cậy trong các vấn đề về đức tin (đạo) và sinh
sống. Tuy nhiên không phải tất cả những gì cần thiết cho việc sống một cuộc
đời đạo đức đều sẽ được tìm thấy trong các trang sách thánh thiêng ấy, và
các cộng đồng có đạo không hề rêu rao rằng Kinh điển là một hệ thống đạo
đức học đầy đủ, trọn vẹn. Lời khuyến giục trực tiếp hãy sống đạo đức hiện
diện trong đó (Mười Điều Răn, nhiều phần của Bài Giảng Trên Núi, những
lời dặn dò của Phao-lô) vốn có tác dụng như một tấm gương tốt nhằm hướng
dẫn, chớ không phải là một lời giáo huấn bao biện. Những chỉ giáo trong
“Đạo” vốn giống với những tấm bảng chỉ đường to lớn, rõ ràng, có lời lẽ
mạnh mẽ hơn là có quyền lực của một bộ luật, cả khi ngôn ngữ vốn rất giống
với ngôn ngữ của luật pháp về sự bó buộc đạo đức (33). Điều đã được cảnh
cáo và nêu gương là một loại đời sống được cộng đồng trông mong do có
hiện diện của Thượng Đế, và với những niềm hi vọng đặt nơi Thượng Đế
của mọi loài thọ tạo. Kinh điển kể lại Con Đường (phải noi theo) nhằm mục
đích tác thành, chỉ giáo, duy trì và phục hưng cộng đồng.
Điều này có thể được phát biểu khác hơn một chút. Kinh điển không phải là
một của tin đạo đức được phó thác cho các cộng đồng ấy cho bằng đó là
những điều ghi chép quý báu về điều gì là có ý nghĩa, có giá trị vào những
thời điểm và địa điểm khác nhau, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau nhằm cố
gắng để trở thành một dân Y-sơ-ra-ên hay một dân là các Cơ Đốc nhân của
Thượng Đế.
Hơn nữa, hãy còn một công dụng đạo đức bao quát hơn nữa của Kinh điển
trong các cộng đồng ấy. Theo cách hiểu Kinh điển của họ, thì cả người Do-
thái lẫn các Cơ Đốc nhân đều biện biệt được những chiều kích sâu nhiệm về
đạo đức và thần học ngay trong tấn kịch của lịch sử - không những chỉ trong
lịch sử của các cộng đồng của riêng họ thôi, mà trong toàn thể lịch sử của
nhân loại nữa. Một khi Thượng Đế đã cai trị - một Thượng Đế công chính và
đầy lòng nhân từ thương xót - thì nhân loại phải chịu trách nhiệm khai trình
phải tính sổ với Thượng Đế ấy về mọi sự cả lớn lẫn nhỏ, mà quyền lực con
người đã đụng chạm đến. Nằm ngay bên trong tấn kịch, có một mục tiêu của
Thượng Đế: toàn cõi thọ tạo phải nở rộ, phải đâm hoa kết quả thật đầy đủ,
thật trọn vẹn. Con người phải chịu trách nhiệm trước mặt Thượng Đế về
cách sống theo những đường lối nàm hầu kiện toàn chớ không phải là bị hụt
mất cái mục tiêu ấy. Kinh điển diễn tả và đẩy mạnh cách đọc sử ký này bằng
các từ ngữ thần học và đạo đức học. Bộ sách ấy đặt sinh hoạt của cộng đồng
có đạo vào bên trong bối cảnh tối cao của các chủ đích của Thượng Đế đối
với toàn cõi thọ tạo. Thượng Đế - cộng đồng - công trình sáng tạo là những
thực tại đạo đức bị buộc chặt bất khả phân ly vào nhau.
Phần tiếp theo và kết luận
Với tất cả những gì chúng tôi đã nói, hãy vẫn còn quá ít để chỉ có thể kết
luận rằng bối cảnh nguyên thủy của đạo đức học Cơ Đốc giáo là cộng đồng.
Thật hãy còn quá ít, cả khi chúng tôi nhấn mạnh sự kiện phần nội dung
nguyên thủy vốn là một nếp sống cộng đồng phân biệt. Chúngtôi sẽ bắt đầu
nói nhiều hơn khi thừa nhận các động lực nguyên thủy, nhằm mục đích tác
tạo hình thành đó, tiếp tục có ý nghĩa gì. Chúng có nghĩa rằng cộng đồng có
đạo phải cứ còn là điểm đối chiếu và là tác nhân xã hội hóa vẫn tiếp tục vì
cớ sinh hoạt đạo đức. Trong Cơ Đốc giáo, lòng tự nguyện và sự hình thành
đạo đức phải được buột chẳt vào với ký ức chung với sứ mạng và với đời
sống cứ được tiếp tục của các cộng đồng Cơ Đốc giáo.
Đời sống cứ tiếp tục đó có nghĩa rằng đạo đức học Kinh Thánh cũng như với
đạo đức học Cơ Đốc giáo, bao giờ cũng đang ở tình trạng tiến triển; nó cùng
biến đổi với các phát triển trong cộng đồng. Chính Kinh điển làm chứng cho
điều ấy. Các biến cố lịch sử đột ngột, đều kịch tính, thường là độc nhất vô
nhị, như việc Xuất Ai-cập, cuộc lưu đày, và Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào
thập tự giá, tạo ra những truyện tích, truyền thống và nghi lễ được dùng từ
thế hệ này sang thế hệ khác, làm định hướng và chỉ dẫn về tôn giáo đạo đức.
Sự thờ phương, tĩnh tâm và lễ lạc trở thành những kỷ niệm quan trọng phải
giữ, và cũng như những việc làm vì công lý và bố thí, đã giúp hun đúc nên
các loại con người mà một dân có Đạo phải trở thành. Sự khôn ngan đạo đức
và các nguồn tài liệu đến từ nhiều khu vực khác nữa, kể cả các nguồn không
phải của Do-thái giáo và Cơ Đốc giáo. Các ký thuật trong Kinh Thánh đã
phản ảnh chính cái tiến trình này. Nhưng điểm chúng tôi muốn nói ở đây, là
việc ấy vẫn tiếp tục trong đạo đức học Cơ Đốc giáo xuyên suốt nhiều thế kỷ
tiếp theo đó Vậy, trong cả hai thế giới thời Kinh Thánh và sau Kinh Thánh
nhiều nguồn tài liệu từ bên ngoài các truyền thống của đạo đã tham nhập qua
chính sự tự biết mình của cộng đồng để tác tạo, hun đúc phù hợp với tính khí
tập thể của chính nó. Cộng đồng (koinõnia) đã tự mình biến đổi trong quá
trình thâu hóa các chất liệu từ phía thế giới rộng lớn hơn. Nhiều khi nó còn
bị biến đổi rất nhiều và thật bất ngờ nữa. Ngược lại, nó cũng thường gây ảnh
hưởng trên chính cái thế giới mà nó đã chịu ảnh hưởng sâu đậm.
Tóm lại, đạo đức học Cơ Đốc giáo không những chỉ vốn là, mà vẫn còn tiếp
tục là một nền đạo đức học cộng đồng. Nó không chỉ tiếp tục là như thế
ngay từ nguyên thủy, mà vẫn tiếp tục còn là như thế. Những ảnh hưởng từ
Kinh Thánh của Do-thái giáo và của thế giới Hi-lạp đã tiếp tục sống trong
Cơ Đốc giáo, cũng như Cơ Đốc giáo đã tạo ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng
của các đế quốc La-mã và Byzance cũng như các đế quốc thừa kế chúng.
Các xã hội Bắc Phi, Trung Đông, Ấn-độ, Slave, và Tây phương đều có góp
phần tác tạo ra tinh thần, hình thức và đạo đức tính của các cộng đồng Cơ
Đốc giáo một cách quyết định, cũng như giờ đây chúng vẫn đang bị tác tạo
bởi các xã hội Phi châu, Á châu và nhiều nền văn hóa khác nữa. Cùng một
tiến trình như đã được thấy ngay trong Kinh điển vẫn cứ tiếp tục sau khi việc
điển chế Kinh Thánh đã kết thúc.
Những hàm ý về đạo đức học Cơ Đốc giáo vốn là một nền đạo đức học cộng
đồng sẽ được tiếp tục đề cập khi cần thiết. Tạm thời, thiết tưởng chúng ta đã
thảo luận đã để có thể quay trở về và xác nhận phần đóng góp của Kinh điển
vào toàn thể cuộc thảo luận về đạo đức học Cơ Đốc giáo tiếp sau đây, kể cả
nền đạo đức học Cơ Đốc giáo ngày nay nữa. Ít nhất thì điều mà Kinh Thánh
đã làm cho đạo đức học Cơ Đốc giáo cũng là điều này: Nó đặt luân lý đạo
đức rất gần với trung tâm của sinh hoạt cộng đồng, như một cách biểu hiện
thực tiễn - hay nếp sống - của chính cộng đồng có đạo. Tai hại thay, phấn
lớn các công trình nghiên cứu Kinh Thánh đến tận ngày nay vẫn không nhận
ra tiếng gọi thiết tha của Kinh điển đối với việc hình thành tinh thần đạo đức
cộng đồng. Điều cũng tai hại y như thế, là nhiều người hiểu biết về nền đạo
đức học Cơ Đốc giáo phổ thông lại không chịu sửa lại cái nhìn sơ sót rất
nghiêm trọng này.
Nhưng đời sống đạo đức đã nảy sinh như thế nào? Nó đã được duy trì và
nuôi dưỡng như thế nào? Một nếp sống đã được tác tạo ra trước, rồi được tái
tạo như thế nào? Cộng đồng có đạo tự tạo hình cho đời sống đạo đức như thế
nào? Những câu hỏi như thế giả thiết là chúng ta đã biết “đời sống đạo đức”
có nghĩa gì, và gồm có những yếu tố của đạo đức học Cơ Đốc giáo. Thế
nhưng những điều đó vốn không phải tự chúng đã hiển nhiên. Vì lý do ấy,
chương sau là một phần dẫn nhập về đời sống đạo đức và về các ý niệm thiết
yếu trong đạo đức học Cơ Đốc giáo.