Professional Documents
Culture Documents
Tổng quan
Ai là người nghiên cứu thận trọng và vừa đọc Thánh Kinh vừa suy tư đều
nhận thấy câu của vị sứ đồ viết về Kinh điển rằng “ở trong (Thánh Kinh) có
mấy khuc khó hiểu mà những kẻ dốt nát và tin không quyết đem giải sai ý
nghĩa...chuốc lấy sự hư nát riêng về mình” (IIPhi 2Pr 3:16) có nhiều phần
đúng. Có ai là người trong chúng ta chưa từng thấy trong Thánh Kinh những
điều gây lúng túng cho mình, mà lúc hãy còn là một Cơ-đốc nhân mới mẻ,
chưa từng trải, đã đưa chúng ta đến chỗ thắc mắc đặt vấn đề là chẳng hay rút
cục, Thánh Kinh có phải là Lời Đức Chúa Trời hay không?
Chúng ta thấy trong Thánh Kinh có nhiều điều dường như không thể nào
hoà giải được với những điều khác, cũng ở ngay trong Thánh Kinh. Chúng
ta nhận thấy có những điều dường như khó cũng tồn tại được với cái ý tưởng
rằng Thánh Kinh có nguồn gốc từ Đức Chúa Trời và tuyệt đối vô ngộ. Thật
là chẳng khôn ngoan khi cố tìm cách che giấu cái sự kiện rằng quả có những
chỗ khó hiểu như thế. Nhiệm vụ của người khôn ngoan mà cũng là chân
thành nữa, là phải thành thực trực diện với chúng và khảo xét chúng. Có
nhiều điều chúng ta có thể nói về những chỗ khó hiểu như thế mà tất cả
những ai nghiên cứu Thánh Kinh có suy tư cuối cùng đều phải đương đầu.
CHÚNG TA CÓ THỂ TRÔNG MONG GẶP NHỮNG CHỖ KHÓ HIỂU
Điều đầu tiên chúng ta có thể nói về những chỗ khó hiểu đó trong Thánh
Kinh, là ngay ở bản tính của sự việc, những chỗ khó hiểu là điều chúng ta
phải trông mong là sẽ gặp. Một số người tỏ vẻ ngạc nhiên và bối rối vì gặp
những chỗ khó hiểu khó giải nghĩa trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, riêng tôi
thì sẽ càng ngạc nhiên và bối rối hơn nếu mình không gặp những điều như
thế.
Thánh Kinh là gì? Bộ sách ấy là một mặc khải (revelation) phần tâm trí, ý
chí và cá tính của một Đức Chúa Trời vô hạn, vĩ đại, toàn tri và trọn vẹn
tuyệt đối (hoàn thiện). Đức Chúa Trời chính là Tác giả của sự mặc khải ấy,
nhưng mặc khải ấy được dành cho ai? Cho loài người, là những hữu thể giới
hạn, những con người có cá tính bất toàn, và do đó, cũng có khả năng biện
biệt bất toàn về lãnh vực thuộc linh (Spiritual). Nếu đem một người khôn
ngoan nhất ra đo bằng tỷ lệ xích là cõi vĩnh hằng, thì người ấy chỉ là một em
bé sơ sinh, còn người thánh khiết nhất nếu đem so với Đức Chúa Trời, thì
chỉ là một đứa trẻ con về sự phát triển đạo đức. Hệ quả là ngay từ những
điều kiện cần thiết nhất trong trường hợp này, thì trong một mặc khải như
thế nhất thiết phải có nhiều khó khăn ngay từ nguồn gốc xuất phát đối với
những con người như thế.
Khi con người giới hạn cố tìm hiểu cái vô hạn, thì bắt buộc phải gặp khó
khăn. Khi kẻ dốt nát muốn suy tưởng về lời phát biểu của Đấng Quán Thông
Trọn Vẹn, thì nhất định sẽ phải gặp nhiều điều khó hiểu và nhiều điều có vẻ
như phi lý đối với tâm trí ấu trĩ và thiếu chính xác của người ấy. Khi loài
người mà óc phê phán đạo đức liên quan đến tính cách đáng ghét của tội lỗi
và tính cách đáng sợ của sự trừng phạt mà nó đòi hỏi đã bị chính tội lỗi của
họ làm cho cùn nhụt, thì khi muốn lắng nghe các đòi hỏi của Đấng Thánh
Khiết tuyệt đối, họ bắt buộc phải lúng túng, bối rối đối với một số đòi hỏi
của Ngài, và khi suy xét về những cách đối xử của Ngài, họ bắt buộc phải
choáng váng trước một số những cách đối xử ấy. Những cách đối xử đó sẽ
có vẽ như quá nghiêm khắc, quá nghiệt ngã, quá thô bạo, quá khủng khiếp.
Rõ ràng là chúng ta phải gặp khó khăn trong một phần mặc khải như bộ
Thánh Kinh. Nếu có ai trao cho tôi một quyển sách thật đơn giản như một
bảng cửu chương và nói rằng: “Đây là Lời của Đức Chúa Trời. Trong sách
này, Ngài đã mặc khải toàn bộ ý chỉ và sự khôn ngoan của Ngài”, chắc tôi sẽ
lắc đầu và đáp: “Tôi không tin, nó quá dễ hiểu, nên không thể là sự mặc khải
trọn vẹn của một Đấng Khôn Ngoan vô hạn”. Trong bất kỳ một mặc khải
trọn vẹn nào về tâm trí, ý chỉ, cá tính cũng như sự thực hữu của Đức Chúa
Trời, đều phải có những điều khó hiểu cho những người mới bắt đầu, mà
người khôn ngoan tài giỏi nhất trong chúng ta đều chỉ là những người muốn
bắt đầu, mới học vỡ lòng về những kiến thức thuộc linh mà thôi.
KHÓ HIỂU KHÔNG ĐỒNG NGHĨA VỚI SAI TRÁI
Điều thứ hai câu nói về những khó khăn này, là một giáo lý khó hiẻu hay
một phản bác nghiêm trọng đối với một giá lý không hề chứng minh được
rằng giáo lý ấy là sai. Nhiều người hay suy nghĩ lại tưởng là như thế. Nếu họ
gặp một khó khăn nào trên con đường tin vào nguồn gốc từ Đức Chúa Trời
và tuyệt đối vô ngộ không sai chạy của Thánh Kinh, thì họ lập tức kết luận
rằng giáo lý ấy là không đáng tin. Như thế là hết sức vô lý.
Hãy dừng lại một chút và suy nghĩ, để học tập để biết suy tư cho hợp lý và
công bằng. Rất ít có lý thuyết khoa học nào được mọi người tin tưởng hiện
nay, lại chưa từng gặp một vài khó khăn quan trọng trong quá trình tiến đến
chỗ được chấp nhận. Hồi thuyết của Copernicus - hiện đã được mọi người
thừa nhận - mới được công bố, nó đã gặp rất nhiều khó khăn. Nếu lý thuyết
ấy đúng thì Kim tinh phải có những giai đoạn xuất hiện giống như mặt trăng,
nhưng chẳng hề có viễn vọng kính tốt nhất nào vào thời đó lại phát hiện
được những giai đoạn xuất hiện như thế. Dù vậy, luận cứ tích cực bênh vực
cho lý thuyết ấy đã rất vững chắc đến độ nó được chấp nhận bất chấp lời
phản bác có vẻ như không thể nào giải đáp được ấy. Khi một viễn vọng kính
“mạnh” hơn được sáng chế, người ta khám phá ra rằng dù sao thì Kim tinh
càng có các giai đoạn xuất hiện của nó. Đã có một khó khăn toàn diện nảy
sinh, cũng như hầu hết tất cả các khó khăn đã nảy sinh liên quan đến Thánh
Kinh, do sự dốt nát của con người đối với một số các sự kiện liên quan.
Lý thuyết về tinh cân cũng được giới khoa học ngày nay thừa nhận. Tuy
nhiên, hồi lý thuyết ấy mới được công bố lần đầu tiên, và một thời gian dài
tiếp theo đó, các di chuyển của Thiên vương tinh đã không thể hoà giải được
với thuyết ấy. Thiên vương tinh dường như di chuyển theo chiều trái ngược
với những gì thuyết ấy nói về nó, nhưng các luận cứ tích cực cho thuyết ấy
lại vững chắc đến độ nó vẫn được thừa nhận bất chấp việc không thể giải
thích được sự chuyển động của Thiên vương tinh.
Nếu chúng ta áp dụng lương tri lương thức mà tất cả các ngành khoa học
(ngoại trừ ngành phê bình Thánh Kinh, nếu đó quả thật là một khoa học) đều
thừa nhận vào việc nghiên cứu Thánh Kinh, thì chúng ta phải đặt vấn đề là
phần chứng cứ tích cực của một lý thuyết thì có tính cách quyết định và nó
phải được một người có lý trí tin tưởng bất chấp một số khó khăn liên quan
đến các chi tiết nhỏ nhặt. Kẻ chối bỏ một chân lý đã được chứng nghiệm hẳn
hoi chỉ vì có một vài sự kiện có vẻ như không hể hoà giải được với chính nó,
là một nhà tư tưởng nông nổi. Còn nhà học giả chối bỏ niềm tin của mình
vào nguồn gốc vốn là từ Đức Chúa Trời và tính cách vô ngộ của bộ Thánh
Kinh chỉ vì một số sự kiện được cho là không thể hoà giải với giáo lý ấy,
cũng là một học giả hết sức nông nổi. Có nhiều tư tưởng gia nông nổi thuộc
loại ấy trong thế giới thần học ngày nay.
NHIỀU KHÓ KHĂN HƠN THẾ VẪN TỒN TẠI
Điều thứ ba cần nói về những chỗ khó hiểu trong Thánh Kinh, là còn nhiều
khó khăn và nhiều khó khăn còn quan trong hơn nhiều trong cái giáo thuyết
chủ trương rằng Thánh Kinh vốn có nguồn gốc từ loài người, do đó có nhiều
ngộ nhận sai lầm hơn là trong giáo lý chủ trương rằn gThánh Kinh có nguồn
gốc từ Đức Chúa Trời, và do đó là vô ngộ. Chắc đã có nhiều lần một ai đó
đem đến cho bạn mộtchỗ khó hiểu và nói: “Nếu Thánh Kinh quả thật là Lời
Đức Chúa Trời, thì bạn giải thích điều này như thế nào?” và có lẽ bạn đã
không thể giải thích thật thoả đáng cho người ấy.
Thế là người ấy tưởng rằng mình đã thắng được bạn, nhưng không hề là như
thế. Hãy quay sang và hỏi người ấy: “Bạn đánh giá thế nào việc có nhiều lời
tiên tri trong Thánh Kinh đã ứng nghiệm, nếu bộ sách ấy có nguồn gốc từ
loài người? Bạn nói gì về nhất quán tính kỳ diệu của bộ sách ấy? Bạn giải
thích thế nào cho sự sâu nhiệm không bao giờ cạn kiệt của nó? Bạn nói thế
nào về quyền năng có một khong hai của bộ sách ấy trong việc nâng cao con
người lên để đến với Đức Chúa Trời?” và vân vân. Cứ mỗi phản bác mà
người ấy có thể đưa ra đối với quan điểm của bạn liên quan đến bộ Thánh
Kinh, bạn có thể trình bày nhiều phản bác càng có ý nghĩa sâu nhiệm hơn
liên quan đến quan điểm của người ấy về quyền Thánh Kinh. Và bất cứ một
người thật sự vô tư và thành thật nào muốn biết và vâng giữ chân lý, đều sẽ
chẳng gặp khó khăn gì trong việc quyết định giữa hai quan điểm.
Cách đây ít lâu, có một thanh niên có tâm trí minh mẫn, thích đọc loại sách
của các tác giả hoài nghi, phê bình Thánh Kinh, và thiên về thuyết bất khả tri
bảo rằng anh ra đã dành cho vấn đề ấy rất nhiều suy tư chân thành và cẩn
trọng, nhưng hậu quả là anh ta không thể nào tin rằng Thánh Kinh vốn có
nguồn gốc từ Đức Chúa Trời được. Tôi đã hỏi anh ta: “Tại sao lại không?”
Anh ta chỉ ra một lời truyền dạy trong Thánh Kinh và bảo rằng anh ta không
thể tin và sẽ chẳng bao giờ tin rằng điều đó là đúng.
Tôi đáp: “Hãy tạm giả sử rằng tôi không giải đáp được chỗ khó khăn đặc thù
ấy. Việc tôi không đủ khả năng đó không chứng minh được rằng Thánh
Kinh không có nguồn gốc từ Đức Chúa Trời. Thế nhưng tôi có thể trình bày
cho cậu nhiều điều càng khó giải thích hơn nữa về cái giả thiết bảor ằng
Thánh Kinh không có nguồn gốc từ Đức Chúa Trời, so với quan điểm chủ
trương rằng Thánh Kinh quả thật có nguồn gốc từ Đức Chúa Trời. Cậu
không thể phủ nhận sự kiện về lời tiên tri đã ứng nghiệm. Cậu giải thích thế
nào về lời tiên tri đã ứng nghiệm. Cậu giải thích thế nào cho điều đó, nếu
Thánh Kinh không phải là Lời của Đức Chúa Trời?
“Cậu không thể nhắm mắt lại đối với nhất quán tính kỳ diệu của sáu mươi
sáu quyển sách của Thánh Kinh, đã được viết ra trong những hoàn cảnh và
thời kỳ rất khác nhau. Cậu giải thích điều đó như thế nào, nếu Đức Chúa
Trời không phải là tác giả đích thực của bộ sách ấy, ẩn phía sau trên dưới
bốn mươi trước giả là con người? Cậu không thể phủ nhận là Thánh Kinh
vốn có quyền năng cứu rỗi người ta khỏi tội, đem bình an hi vọng và niềm
vui đến cho họ, nâng con người ta lên cao để đến được với Đức Chúa Trời
mà tất cả các quyển sách khác gộp chung lại vẫn không thể nào làm được.
Cậu giải thích việc đó như thế nào, nếu Thánh Kinh không phải là Lời Đức
Chúa Trời theo ý nghĩa là chẳng hề có quyển sách nào khác là Lời Đức Chúa
Trời cả?”
Kẻ phản bác đã không trả lời được. Những khó khăn mà người phủ nhận
nguồn gốc của Thánh Kinh là nguồn gốc từ Đức Chúa Trời mà chính Đức
Chúa trời là tác giả còn nhiều hơn và nặng ký hơn những khó khăn mà người
tin nó có nguồn gốc và tác giả là Đức Chúa Trời phải đương đầu.
CÁC GIẢI PHÁP KHÔNG TUỲ THUỘC VÀO CHÚNG TA
Điều thứ tư cần nói về những chỗ khó hiểu trong Thánh Kinh là thế này: Sự
kiện bạn không giải đáp được một chỗ khó hiểu không chứng minh được
rằng nó không thể giải đáp được, và sự kiện bạn không trả lời được một
phản bác không chứng minh được rằng nó không thể có câu trả lời. Cần lưu
ý rằng chúng ta rất thường bỏ qua cái sự kiện hết sức hiển nhiên này. Có rất
nhiều người, khi gặp một chỗ khó hiểu trong Thánh Kinh, suy nghĩ chút ít về
nó nhận thấy không thể có cách giải đáp nào cả, thì liền nhảy vọt ngay đến
chỗ kết luận chẳng ai có thể giải đáp được nó cả, cho nên họ đã đưa tay đầu
hàng và đánh mất niềm tin vào tính cách vô ngộ của Thánh Kinh và nguồn
gốc từ Đức Chúa Trời của bộ sách ấy.
Dường như mọi người đều cần phải có đủ khiêm tốn phù hợp với loài gnười
vốn có kiến thức hạn chế như quả thật chúng ta đều là như thế không chối
cãi vào đâu được, để bảo rằng “Tuy tôi không thấy có giải pháp nào cho chỗ
khó hiểu này, nhưng có một người nào đó khôn ngoan hơn tôi có thể dễ dàng
tìm ra được một giải pháp”. Chỉ cần chúng ta nhớ luôn rằng mình không thể
biết hết mọi sự, và rằng có rất nhiều điều mình không thể giải quyết, nhưng
rồi chúng ta sẽ có thể dễ dàng giải quyết nếu chúng ta có thêm chút ít hiểu
biết nữa, thì điều đó sẽ cứu được chúng ta khỏi tất cả những việc dại dột này.
Trên hết mọi sự, chúng ta đừng bao giờ nên quên rằng sự khôn ngoan vô hạn
có thể giải quyết được dễ dàng điều mà trí kh6n hữu hạn - hay sự dốt nát của
chúng ta - dường như hoàn toàn không thể giải thích được. Bạn sẽ nghĩ sao
về một học sinh mới làm quen với môn đại số học, khi cố tìm cách dành ra
nửa tiếng đồng hồ để giải một bài toán khó nhưng chỉ phí công vô ích mà
thôi, đã vội tuyên bố rằng chẳng hề có thể có giải đáp nào cho bài toán của
cậu ta, bởi vì cậu ta đã không tìm được?
Có một người nhiêù từng trải và tài năng một ngày nọ đã bỏ công việc của
mình và đi từ rất xa đến gặp tôi với tinh thần vô cùng bối rối, vì ông ta đã
phát giác ra được trong Thánh Kinh một điều mà đối với ông ta, có vẻ như
hoàn toàn mâu thuẫn. Ông ta đã thức trắng cả đêm để suy nghĩ về nó. Nó đã
thách thức mọi nỗ lực hoà giải của ông ta; nhưng khi ông ta trình bày mọi
việc cho tôi, thì chỉ trong mấy phút, tôi đã chỉ cho ông ta một giải pháp vô
cùng đơn giản và thoả đáng cho chỗ khó hiểu đó. Và ông ta đã ra về với tấm
lòng vui vẻ.
Tại sao nó đã không đến với ông ta ngay từ đầu và có vẻ như ông ta không
thể nào tìm được một lời đáp, nhưng rút cục thì nó lại có thể được một người
khác tìm ra một cách hết sức dễ dàng? Ông ta đã cho rằng chỗ khó hiểu đó là
hoàn toàn mới mẻ, nhưng đó là một vấn đề đã được trực diện và giải quyết
từ rất lâu rồi, ngay cả trước khi ông ta và tôi được sinh ra trên đời này.
ĐIỀU KHÓ HIỂU SO VỚI Ý NGHĨA TUYỆT VỜI
Điều thứ năm cần nói về những chỗ khó hiểu trong Thánh Kinh là những
điều thoạt trông có vẻ như sai trật trong bộ sách ấy chỉ là vô nghĩa nếu đem
so với hiều điều kỳ diệu tuyệt vời trong đó. Chắc chắn nó sẽ vạch trần chỗ
lệch lạc lớn lao của cả tấm lòng lẫn trí não của loài người đã dành quá nhiêu
thì giờ để tranh luận và viết về nhiều điểm vô nghĩa mà họ cho là những
điểm sai trật trong Thánh Kinh, trong khi có nhiều điều đẹp đẽ, diệu kỳ
không gì so sánh được vẫn trang điểm và tôn vinh hầu như là từng trang một
mà họ lại hoàn toàn bỏ qua, chẳng chú ý đến.
Ngay cả trong một vài tổ chức giáo dục nổi tiếng, nơi người ta tự cho là đã
được truyền dạy để tán thưởng và quán triệt Thánh Kinh, và là nơi họ đã
được gởi đến để được huấn luyện đào tạo để truyền giảng chân lý ấy cho
nhiều người khác, thì một số thì giờ càng nhiều hơn lại được dành cho
những điểm tỉ mỉ và vô nghĩa có vẻ như chỉ về hướng chủ trương một nguồn
gốc hoàn toàn từ loài người của bộ Thánh Kinh, chứ không phải là dành thì
giờ để nghiên cứu hầu quán triệt và chiêm ngưỡng những vinh quang không
gì sánh kịp đã khiến cho bộ Thánh Kinh chiếm được một chỗ đứng riêng
biệt so với tất cả các quyển sách khác. Chúng ta sẽ nghĩ sao về một người
mà trong khi học hỏi nghiên cứu một tuyệt phẩm về nghệ thuật, lại tập trung
tất cả sự chú ý của mình vào điều trông có vẻ như là một vết phân ruồi ở một
góc của bức tranh?
Một tỷ lệ rất lớn của điều từng được phô trương rất nhiêù của ngành được
gọi là “nghiên cứu phê bình Thánh Kinh” là một cuộc tra cứu tỉ mỉ và công
phu những điều vốn được co là các dấu vết giống như phân ruồi kia. Người
nào không chịu dành phần lớn thì giờ của mình cho việc điều tra nghiên cứu
những gì chưa từng được ai nói đến về những dấu vết giống như phân ruồi
đó, nhưng thích dành nó cho việc nghiên cứu các vẻ đẹp không gì sánh kịp
và những điều kỳ diệu uy nghiêm của bộ sách ấy, đã bị một vài giới không
cho là “những học giả biết cập nhất hoá”
ĐIỀU NÔNG CẠN SO VỚI Ý NGHĨA SÂU NHIỆM
Điều thứ sáu cần nói về những chỗ khó hiểu trong Thánh Kinh, là chúng vốn
nặng ký đối với những độc giả chỉ đọc sơ qua hơn là đôi vơí những nhà
nghiên cứu sâu sắc nhiều. Hãy lấy thí dụ về một người như cố Đại tá
Ingersoll vô hoàn toàn chẳng biết gì về nội dung và ý nghĩa đích thực của
Thánh Kinh, hay thử lấy thí dụ là giới các nhà truyền đạo tân phái, chỉ đọc
Thánh Kinh một phần lớn với chủ đích duy nhất là tìm các văn bản dùng làm
những cái móc để treo các ý kiến riêng của họ lên đó. Với những độc giả
Thánh Kinh nông nổi như thế, thì không chỗ khó khăn có vẻ như vô cùng
quan trọng.
Mặt khác, với người đã học biết là phải suy gẫm Lời Đức Chúa Trời cả ngày
lẫn đêm, thì rất ít khi họ cảm thấy có chút gì là nặng nề. George Muller con
người hiếm hoi của Đức Chúa Trời từng nghiên cứu thật cẩn trọng bộ Thánh
Kinh từ đầu chí cuối hơn một trăm lần, đã không hề bối rối khi gặp bất cứ
một chỗ khó hiểu nào; nhưng với người chỉ mới đọc qua bộ sách ấy lần thứ
nhất hoặc thứ hai mà thôi, thì có rất nhiều điều gây thắc mắc chao đảo.
VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU CẨN TRỌNG
Điều thứ bảy cần nói về các khó khăn trong Thánh Kinh là chúng sẽ nhanh
chóng biến mất sau khi được nghiên cứu kỹ lưỡng và vừa nghiên cứu vừa
cầu nguyện. Có biết bao điều trong Thánh Kinh từng gây thắc mắc choáng
váng cho chúng ta, nhưng rồi đã được làm sáng tỏ trọn vẹn và chẳng còn
thấy có gì khó hiểu nữa! Mỗi năm nghiên cứu sẽ làm tan biến ngày càng
nhiều hơn những chỗ khó hiểu đó thật nhanh chóng. Thoạt đầu, chúng biến
mất từng điểm một, rồi từng hai điểm, từng hằng tá và rút cục là hằng mấy
chục liền. Thế thì phải chăng là điều hợp lý khi cho rằng những hó khăn còn
lại rồi cũng sẽ có ngày biến mất nhờ nghiên cứu sâu rộng thêm? Vậy hãy
nhìn vào một số những điểm khó hiểu ấy với chi tiết tỉ mỉ hơn.
PHÂN LOẠI NHỮNG CHỖ KHÓ HIỂU
Tất cả những điểm khó hiểu trong Thánh Kinh đều có thể được xếp vào một
trong mười tiêu đề tổng quát dưới đây. Trong chương này, tôi xin trình tự
giải thích chi tiết bản tính của từng loại một những điểm khó hiểu ấy.
CỔ BẢN BẤT TOÀN
Loại khó khăn thứ nhất là những điểm khó điểm này sinh từ bản dịch Thánh
Kinh ra Anh (Việt văn của chúng ta. Theo điều tôi được biết, thì chẳng hề có
ai chủ trương rằng bản dịch Thánh Kinh ra Anh (Việt) văn của chúng ta là
tuyệt đối vô ngộ, chẳng có chỗ sai lầm nào. Giáo lý được nhiều người chủ
trương, là Kinh điển đã được ban cho chúng ta hồi nguyên thuỷ (trong
nguyên văn) vốn tuyệt đối vô ngộ và không có sai lầm, còn bản dịch ra Anh
(Việt) văn của chúng ta là bản dịch Kinh điển từ nguyên văn ra chỉ tương đối
chính xác về đại thể mà thôi.
Chúng ta hiện không có các bản thảo nguyên thuỷ của bộ Thánh Kinh. Các
nguyên bản đó từng được sao chép lại nhiều lần thật cẩn trọng và chính xác,
nhưng lẽ tự nhiên là nhiều sai lầm cũng đã len lỏi xâm nhập các bản sao
chép ấy. Chúng ta hiện có rất nhiều bản sao tốt, khiến khi đem đối chiếu
chúng với nhau, ta có thể nói với độ chính xác rất cao rằng đây chính là
nguyên bản. Lẽ dĩ nhiên, nhằm các chủ đích thực tiễn nguyên bản hiện đã
được quy định. Chẳng hề có một giáo lý quan trọng nào còn bị lệ thuộc vào
một bản dịch bị nghi ngờ là không đúng với nguyên văn.
Tuy nhiên khi bản dịch Authorized Version (Anh văn) được thực hiện, một
số cổ bản tốt nhấtvẫnchưa có trong tầm tay của các dịch giả, còn khoa học
phê bình văn bản vẫn chưa được hiểu đúng như ngày nay; cho nên bản dịch
ấy đã được thực hiện căn cứ vào một văn bản bất toàn. Không phải là ít
những điểm có vẻ như khó hiểu trong Thánh Kinh đã nảy sinh từ nguồn gốc
này. Thí dụ như trong GiGa 5:4 chúng ta được cho viết:
“Vì môt thiên sứ thỉnh thoảng giáng xuống trong ao làm cho nước đọng, lúc
nước đã đọng rồi, ai xuống ao trước hết, bất kỳ mắc bịnh gì, cũng được
lành”.
Vì nhiều lý do, câu này có vẻ không đúng và khó tin, nhưng sau khi tra cứu
chúng tôi nhận thấy rằng tất cả những điều đó đều do sai lầm của người sao
chép. Có một người sao chép nào đó hồi nguyên thuỷ, khi đọc đoạn ký thuật
này của sách Giăng đã thêm vào phần ghi chú bên lề một lời giải thích về
các đặc tính chữa bệnh của một dòng suối cứ liên tục chảy như là có thuốc
trong đó. Một người sao chép về sau lại đưa phần ghi chú bên lề này vào
trong văn bản (chính thức), thế là nó được truyền lại cho đời sau và được
đưa vào trong bộ Thánh Kinh của chúng ta. Nhưng nó đã không thấy có thật
phải là trong bản dịch Revised Version.
Những chỗ khác nhau về cách nói trong nhiều ký thuật về cùng những biến
cố giống nhau, chẳng hạn như những chỗ khác nhau về tuổi của một vài nhà
vua trong văn bản của các sách Các Vua và Sử ký, chắc đã nảy sinh do cùng
những sai lầm như thế trong vấn đề về các con số sẽ rất dễ nhận ra, nhất là vì
các con số trong Hy-bá-lai văn được viết bằng các mẫu tự, mà nhiều mẫu tự
trông có vẻ rất giống nhau nhưng lại có trị số rất khác nhau khi chúng được
dùng như những con số.
Thí dụ mẫu tự thứ nhất trong bảng chữ cái Hy-bá-lai văn chỉ một, nhưng với
hai chấm nhỏ trên nó, không lớn hơn hai vết phân ruồi, nó lại chỉ một ngàn.
Mẫu tự thứ hai mươi ba hay mẫu tự cuối cùng của bảng chữ cái Hy-bá-lai
văn chỉ bốn trăm, nhưng mẫu tự thứ tám trong bảng chữ cái Hy-bá-lai văn
trông rất giống nó và rất dễ bị trông lầm, lại chỉ (con số) tám. Do đó, chỉ cần
một sai lầm hết sức nhỏ nhặt của người chép sáchc ũng tạo ra một sự thay
đổi rất lớn về trịsố của các con số. Điều cần lưu ý khi khảo xét các sự kiện
như thế, là đã có rất ít những sai phạm thuộc loại này.
CÁC BẢN DỊCH KHÔNG CHÍNH XÁC
Loại khó khăn thứ hai là loại nảy sinh từ các bản dịch không chính xác. Thí
dụ trong Mat Mt 12:40 nói là Giô-na đã ở trong bụng một con cá voi
(Whale). Nhiều kẻ hoài nghi chắc đã có dịp cười to khi nghe nói về một con
cá voi, với cấu trúc cá biệt về miệng và cổ họng của nó, lại có thể nuốt được
một người; nhưng nếu kẻ hoài nghi ấy chịu khó xét kỹ lại vấn đề, thì sẽ nhận
thấy rằng từ ngữ đã được dịch ra là “cá voi” kia thật ra có nghĩa là “con quái
vật ở dưới biển” mà chẳng hề có một định nghĩa nào liên quan đến đặc tính
của con quái vật biển ấy. Chúng tôi sẽ xin trở lại với trường hợp này với
nhiêù chi tiết hơn khi xét đến câu chuyện về Giô-na.
Cho nên tất cả khó khăn đã nảy sinh từ sai lầm của dịch giả, và sự dốt nát
của kẻ hoài nghi. Ngày nay,có rất nhều kẻ hoài nghi vô cùng dốt nát trước
nhiều vấn đề mà ngay đến các trẻ con theo học Trường Chúa Nhật cũng hiểu
được thật rõ ràng, khiến họ vẫn cứ chĩa mụi dùi vào công trình khảo cứu đã
tạo ra chỗ sailầm đó trong Thánh Kinh.
CÁC LÝ GIẢI SAI
Loại hó khăn thứ ba là những chỗ khó hiểu do cách lý giải sai Thánh Kinh.
Thánh Kinh dạy một đàng, còn điều mà người ta lý giải thường lại là một
điều khác xa. Nhiều chỗ khó hiểu cho chúng a đã không nảy sinh từ những
gì Thánh Kinh thực sự truyền dạy, mà do những gì mà người ta giảng giải là
có ý nghĩa nư thế.
Một thí dụ inh hoạ nổi bật cho trường hợp này được tìm thấy trong chương
một của Sáng Thế ký. Nếu chúng ta tin cách lý giải gán cho chương này của
nhiều nhà giải kinh, thì lẽ tất nhiên là sẽ rất khó hoà giải nó với phần lớn
những gì mà khoa học hiện đại xem như đã được xác lập rồi. Tuy thế, chỗ
khó khăn không phải là với những gì chương một sách Sáng Thế ký dạy,
nhưng là với cách lý giải nó, vì thật ra, đã chẳng hề có điều mâu thuẫn nào
giữa những gì đã đươc khoa học thật sự kiểm chứng, với những gì chương
một của Sáng Thế ký đã thật sự truyền dạy.
Một khó khăn khác có cùng một đặc tính như thế là với câu nói của Chúa
Giê-xu rằng Ngài sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm (Mat Mt 12:40). Nhiều
nhà giải kinh từng bắt buộc chúng ta phải tin rằng Ngài đã chết vào đêm thứ
Sáu rồi sống lại vào sáng sớm Chúa nhật, và thời gian giữa hai điểm này thì
không phải là ba ngày và ba đêm. Sau này, chúng ta sẽ thấy đây là một vấn
đề về lý giải Thánh Kinh, và chỗ rắc rối không phải là với điều mà Thánh
Kinh thật sự truyền dạy, nhưng là với cách lý giải mà người ta áp đặt trên
Thánh Kinh.
CÁC Ý NIỆM SAI LẦM VỀ THÁNH KINH
Loại khó khăn thứ năm nảy sinh từ một quan niệm sai lầm về Thánh Kinh.
Nhiều người lầm tưởng rằng khi bạn nói Thánh Kinh là Lời Đức Chúa Trời,
có nguồn gốc và uy quyền của Đức Chúa Trời, là bạn ngụ ý bảo rằng Đức
Chúa Trời là ph1t ngôn nhân trực tiếp truyền phán từng câu một những gì
hàm chứa trong đó; nhưng sự thật không hề là như thế. Lắm khi Đức Chúa
Trời chỉ ghi lại những gì người khác nói: những gì người thiện nói, những gì
kẻ ác nói, những gì người được linh cảm nói, những gì người không được
linh cảm nói, những gì các thiêns ứ và quỉ sứ nói, thậm chí những gì chính
Ma quỉ nói nữa. Những điều ghi chép lại những gì họ nhân danh Đức Chúa
Trời mà nói thì đều tuyệt đối đúng, thật, nhưng những gì người khác nói và
cũng được ghi lại thì có thể là đúng, thật, nhưng cũng có thể là không đúng,
không thật. Quả thật là họ có nói như thế, nhưng điều họ nói đó có thể là
không đúng.
Thí dụ SaSt 3:4 ghi lại lời Ma quỉ nói: “Hai ngươi chẳng chết đâu”. Quả thật
là Ma quỉ đã nói như thế, nhưng điều nó nói đó là không đúng không thật,
mà là một lời nói dối phạm thượng khiến cả nhân loại chúng ta bị chìm đắm.
Trong Lời của Đức Chúa Trời (Thánh Kinh) có lời của Ma quỉ nói nhưng
những gì Ma quỉ nói đó không phải là Lời của Đức Chúa Trời mà là lời của
Ma quỉ. Nhiều độc giả bất cẩn đọc Thánh Kinh mà không chú ý ai là người
đang nói: Đức Chúa Trời, người thiện, kẻ ác, người được linh cảm, người
không được linh cảm, thiên sứ hay quỉ sứ. Họ chỉ xé một câu ngay từ văn
cảnh của nó ra, bất chấp người nói câu đó là ai, rồi nói: “Đây, Đức Chúa
Trời đã phán như thế”, nhưng Đức Chúa Trời chẳng bao giờ nói điều gì
thuộc loại như thế. Đức Chúa Trời bảo rằng Ma quỉ đã nói như thế, hay một
người xấu người ác đã nói như thế, hoặc một người thiện người tốt, một
người được linh cảm hay một người không được linh cảm đã nói như thế,
hoặc một thiên sứ đã nói như thế.
Những gì Đức Chúa Trời nói (Thánh Kinh chép) đều đúng, thật, nghĩa là Ma
quỉ đã nói như thế, hay một người ác, một người thiện, một người được linh
cảm, một người không được linh cảm, một vị thiên sứ đã nói như thế. Thế
nhưng điều họ nói có thể đúng thật hoặc không đúng, không thật. Có một
việc khá phổ biến là đưtợc nghe nhiều người trích dẫn lời Ê-li-pha Binh-đát,
hay Sô-pha nói với Gióp dường như đó nhất thiết phải là Lời của Đức Chúa
Trời bởi vì nó đã đươc chép trong Thánh Kinh, bất chấp sự kiện Đức Chúa
Trời đã phủ nhận lời truyền của họ và phán: “Các ngươi không nói về ta
cách đúng đắn” Giop G 42:7 theo bản diễn ý). Quả thật những người ấy đã
nói điều mà Đức Chúa Trời ghi lại là họ nói, nhưng thường thường thì họ
đưa ra một chân lý đã bị xuyên tạc và nói điều không đúng, không thật.
Một phần lớn những chỗ khó hiểu của chúng ta nảy sinh từ chô không chú ý
đến ai là người đang nói. Thánh Kinh luôn luôn nói cho chúng ta biết, và
chúng ta phải luôn luôn chú ý. Trong Thi thiên, có khi chúng ta thấy chép
những gì Đức Chúa Trời phán dạy loài người, mà điều đó có thể là đúng mà
cũng có thể là không. Nhiều khi mà thường thường là nhiều hơn các trường
hợp chúng ta nhìn thấy, đó là tiếng nói của một phát ngôn nhân nói lên ý
muốn báo thù và sự tuyệt vọng cá nhân. Sự báo thù ấy có thể - và thường
thường - có tính cách của một lời tiên tri, nhưng đó có thể là một kẻ làm điều
sai trái trình lý lẽ của mình lên cho Đấng nắm quyền báo thù (xem RoRm
12:19) nên chúng ta không bị bắt buộc phải bênh vực cho tất cả những gì
người ấy nói.
Cũng trong Thi thiên, chúng ta thấy có một câu chép điều mà kẻ ngu dại nói:
“Chẳng có Đức Chúa Trời” (Thi Tv 14:1). Nhưng quả thật là kẻ ngu dại có
nói như thế, nhưng kẻ ngu dại đã nói dối (sai) khi bảo như thế. Quả thật là
Lời Đức Chúa Trời đã chép lời của kẻ ngu dại nói như thế; tuy nhiên, những
gì mà Đức Chúa Trời thuật lại lời kẻ ngu dại đã nói thì không hề là Lời của
Đức Chúa Trời, nhưng là lời của chính kẻ ngu dại. Cho nên, khi nghiên cứu
Thánh Kinh, nếu Đức Chúa Trời là người phát ngôn, thì chúng ta phải tin
những gì Ngài phán dạy; nếu một người được linh cảm là người đang phát
ngôn, thì chúng ta phải tin những gì người ấy nói; nếu đó là một người
không được linh cảm nói, chúng ta phải tự phê phán lấy: câu ấy có thể là
đúng, là thật, mà cũng có thể là không đúng, là sai. Nếu là Ma quỉ đang nói,
thì chúng ta phải nhớ rằng nó là một kẻ nói dối ngay từ ban đầu (GiGa 8:44),
nhưng ngay đến Ma quỉ một đôi khi cũng có thể nói (sự) thật.
NGÔN NGỮ NGUYÊN THUỶ
Loại khó khăn thứ năm là những chữ khó hiểu nảy sinh từ ngôn ngữ mà
Thánh Kinh đã được viết ra. Thánh Kinh là một bộ sách dành cho mọi thời
đại và mọi loại người, do đó, nó đã đươc viết ra bằng thứ ngôn ngữ mà tất cả
mọi người đều hiểu được, ngôn ngữ của giới bình dân, của những người có
dáng vẻ bên ngoài tầm thường. Nó đã không được viết bằng ngôn ngữ khoa
học. Thí dụ, việc xảy ra trong trận đánh tại Ga-ba-ôn (Gios Gs 10:12-14) đã
được mô tả theo cách thức mà ai đọ cnó cũng có thể hiểu. Câu chuyện đã
chẳng đá động gì đến hiện tượng khúc xạ của ánh sáng mặt trời, v.v.. nhưng
chép rằng mặt trời đã “ngừng lại” (hay “đứng yên, trì hoãn”) giữa trời.
Phần ký thuật này của Thánh Kinh đã không được viết bằng ngôn ngữ của
khoa học hiện đại là một trong những ưu điểm của nó. Giả như nó đã được
viết như thế, thì sẽ chẳng có ai hiểu gì được, mà phải đợi cho đến tận thời
đại ngày nay, thậm chí mãi đến nay cũng vẫn chỉ có một số ít người là hiểu
được mà thôi. Hơn nữa, vì khoa học và ngôn ngữ của nó luôn luôn thay đổi,
nếu Thánh Kinh được viết bằng ngôn ngữ khoa học ngày nay, thì nó sẽ bị lỗi
thời chỉ vào năm sau đó, nhưng nhờ được viết ra bằng thứ ngôn ngữ như đã
chọn, nó đã được chứng minh là bộ sách dành cho mọi thời đại, mọi quốc
gia dân tộc và mọi người sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Nhiều chỗ khó hiểu khác do ngôn ngữ đã được dùng để viết Thánh Kinh
cũng nảy sinh từ sự kiện nhiêu phần trong Thánh Kinh vốn đã được viết
bằng ngôn ngữ của thi ca - là ngôn ngữ của cảm thức, đam mê, và óc tưởng
tượng. Cho nên, nếu có người chỉ biết đọc văn xuôi mà thôi, thì việc không
thể tránh né vào đâu được là người ấy sẽ gặp nhiều khó khăn với các phần
thi ca đó của Lời được linh cảm. Thí dụ trong Thi Tv 18:1-50 chúng ta có
một phần mô tả kỳ diệu về một cơn dông bão có sấm sét; nhưng hãy thuở để
cho một người thô thiển chỉ biết đọc có tản văn mà thôi “đụng đầu” với câu
thứ tám chẳng hạn, chắc chắn người ấy sẽ phải điên đầu vì nó thật khó hiểu.
Tuy nhiên, chuyện rắc rối đó vốn không phải là do Thánh Kinh, nhưng mà vì
chính sự dốt nát, thô thiển chỉ hiểu được văn xuôi của người ấy mà thôi.
SỰ THIẾU HIỂU BIẾT CỦA CHÚNG TA
Loại khó khăn thứ sáu nảy sinh từ kiến thức yếu kém của chúng ta về sử ký,
địa lý, và các phong tục tập quán vào thời đại mà Thánh Kinh đã được viết
ra. Thí dụ trong Cong Cv 13:7 Phao-lô có nói đến quan trấn thủ (bản Diễn Ý
dịch là Tổng trấn”) của đảo Chíp-rơ các tỉnh dưới quyền cai trị của người
La-mã gồm hai hạng: thuộc về hoàng đế và thuộc về thượng nghị viện. Quan
cai trị một tỉnh dưới quyền hoàng đế được gọi là “propractor” còn quan cai
trị một tỉnh thuộc quyền thượng nghị viện thì được là “trấn thủ (hay “tổng
trấn”). Mãi đến tương đối gần đây thôi, theo các thông tin chính xác nhất mà
chúng tôi được biết, thì đảo Chíp-rơ là một tỉnh thuộc quyền của hoàng đế,
do đó, vị quan cai trị nó đúng ra phải là một prapractor; nhưng Lu-ca lại gọi
ông ta là quan trấn thủ.
Sự việc này chắc chắn có vẻ như là một trường hợp rõ ràng là có sai lầm về
phía Lu-ca, nên cả đến các nhà giải kinh bảo thủ cũng bị bắt buộc phải thừa
nhận rằng Lu-ca đã phạm một sai lầm nhỏ. Nhưng các nhà phê bình phá hoại
lại lấy làm thích thú khi tìm ra được “sai lầm” ấy. Tuy nhiên, càng về sau
này và công trình sưu tầm nghiên cứu càng thấu đáo hơn đã đưa ra ánh sáng,
cái sự kiện rằng vào đúng lúc Lu-ca viết (sách Công vụ), thượng nghị viện
cũng vừa có một cuộc trao đổi với hoàng đế, do đó, Chíp-rơ đã trở thành một
tỉnh dưới quyền của thượng nghị viện, cho nên viên quan cai trị nó là một
quan trấn thủ và rút cục thì Lu-ca mới đúng, còn chính các nhà phê bình văn
học kia đã sai lầm.
Đã nhiều lần các công cuộc sưu tầm và phát giác - địa lý học, sử học và khảo
cổ học - đã đem phần thắng về cho Thánh Kinh và khiến các nhà phê bình
phải xấu hổ. Thí dụ, sách Đa-ni-ên tự nhiên là một trong những quyển sách
mà những người ngoại đạo và các nhà phê bình phá hoại thù ghét nhất. Một
trong những luận cứ mạnh mẽ nhất của họ chống lại tính cách chân thực và
thực hữu của nó là một nhân vật tên Bên-xát-sa chẳng hề được sử ký biết
đến. Họ lý luận rằng toàn thể các sử gia đều nhất trí rằng Nabonidus là nhà
vua cuối cùng của Ba-by-lôn, và rằng vua ấy đã không có mặt trong thành
phố ấy lúc nó bị đánh chiếm, cho nên Bên-xát-sa phải là một nhân vật hoàn
toàn là của thần thoại, và cả câu chuyện ấy đều là truyện truyền kỳ chứ
không phải là sử ký. Luận cứ của họ có vẻ như rất vững vàng. Thật vậy, nó
có vẻ như chẳng có thể chối cãi vào đâu được.
Tuy nhiên, Sir Henry Rawlinson đã phát giác được tại Mugheir và nhều di
chỉ khác nữa trong xứ Canh-đê nhiều khối đất nung hình trụ, trên đó Bên-
xát-sa (Belzarazar) là tên mà Nabonidus đã đặt cho trưởng nam của vua ấy.
Chẳng có gì để nghi ngờ, là vua ấy đã trị vì với cương vị nhiếp chính trong
thành phố ấy lúc cha mình vắng mặt, và một dấu chỉ cho việc ấy mà chúng
ta có được là nghị định bổ nhiệm Đa-ni-ên vào chức vụ thứ ba trong việc cai
trị vương quốc (DaDn 5:16) còn bản thân vua ấy là nhà vua thứ hai, cho nên
Đa-ni-ên chỉ đứng sau chính vua ấy mà thôi.
Thế là Thánh Kinh đã chiến thắng, và các nhà phê bình bị làm nhuc. Mới
đây chẳng bao lâu, các nhà phê bình phá hoại đã khẳng định khá quả quyết
rằng Môi-se đã không thể viết Ngũ kinh vì vào thời của ông người ta vẫn
chưa biết chữ viết, nhưng nhiều phát giác gần đây đã chứng minh chẳng chút
nghi ngờ rằng chữ viết đã có từ trước thời của Môi-se. Do đó, các nhà phê
bình phá đám đã bị bắt buộc phải từ bỏ luận cứ của họ, tuy họ từng có ác ý
là cứ ngoan cố bám chặt lấy kết luận của họ.
DỐT NÁT VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH
Loại khó khăn thứ năm nảy sinh từ sự dốt nát lliên hệ đến các điều kiện về
hoàn cảnh trong đó các quyển sách đã được viết ra và các mạng lịnh đã được
ban bố. Thí dụ, lệnh truyền của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên phải tận
diệt các dân tộc trong xứ Ca-na-an có vẻ tàn ác và khủng khiếp đối với kẻ
dốt nát về các điều kiện về hoàn cảnh, nhưng khi ta hiểu được tình hình đạo
đức mà các dân tộc ấy đã sa vào, nỗi tuyệt vong hoàn toàn nếu muốn cải
thiện họ, và nhược điểm của chính dân Y-sơ-ra-ên, thì việcphải tận diệt các
dân tộc ấy có vẻ là một hành động của lòng nhân từ thương xót đối với tất cả
các thế hệ kế tiếp và đối với chính họ. Chúng ta sẽ đi sâu hơn các dân tộc
trong xứ Ca-na-an.
TÍNH CÁCH PHIẾN DIỆN CỦA CHÚNG TA
Loại khó khăn thứ tám nảy sinh từ tính cách đa diện của Thánh Kinh. Con
người có đầu óc cởi mở, rộng rãi nhất vẫn còn phiến diện, nhưng chân lý lại
là đa diện, và Thánh Kinh thì cởi mở, rông rãi về đủ mọi phương diện. Cho
nên, đối với tâm trí hẹp hòi của chúng ta, một thành phần này của Thánh
Kinh có vẻ như mâu thuẫn với một thành phần khác. Thí dụ theo quy luật
chung thì con người ta hoặc là có tinh thần theo Calvin, hoặc là theo
Arminius, cho nên có những phần trong Thánh Kinh nhất định là phải ủng
hộ co thuyết của Calvin, gây khó khăn rất nhiều cho những người có tâm trí
thiên về Arminius, trong khi niều phần khác trong Thánh Kinh thì nhất định
là phải ủng hộ cho Armanius và gây nhiều khó khăn cho loại người có tinh
thần theo Calvin. Thế nhưng cả hai phía đều đúng cả.
Ngày nay, nhiều người trong chúng ta có tâm trí cởi mở rộng rãi đủ để đồng
thời lãnh hội cả phương diện chân lý theo Calvin lẫn phương diện chân lý
theo Arminius, nhưng một số khác thì không. Thế là họ thắc mắc, bối rối,
lúng túng vì Thánh Kinh; nhưng không phải do Thánh Kinh gây rắc rối cho
họ, mà vì chính họ thiếu khả năng lãnh hội các tư tưởng có tính cách bao
quát. Cũng vì thế mà có vẻ như Phao-lô mâu thuẫn với Gia-cơ, và lắm khi có
vẻ như Gia-cơ mâu thuẫn với Phao-lô, còn những gì Phao-lô viết ở chỗ này,
dường như lại mâu thuẫn với những gì chính ông viết ở chỗ khác. Tuy nhiên,
tất cả rắc rối đều do chính tâm trí hẹp hòi của chúng ta không nắm bắt được
phần chân lý rộng lớn của Đức Chúa Trời mà thôi.
TÂM TRÍ GIỚI HẠN CỦA CHÚNG TA
Loại khó khăn thứ chín nảy sinh từ sự kiện Thánh Kinh thì bàn về cái vô
hạn, còn tâm trí của chúng ta lại có giới hạn. Đặt các sự kiện của Đấng vô
hạn vào trong khả năng hạn chế của trí khôn bị giới hạn của ch1ng ta nhất
thiết phải là điều vô cùng khó khăn, chẳng khác gì nhét cả đại dương vào
trong một chiếc cốc tí hon. Các khó khăn thuộc loại này có liên hệ với giáo
lý của Thánh Kinh về Đức Chúa Trời Ba Ngôi, giáo lý về thần tánh và nhơn
tánh của Chúa Cứu Thế.
Với những ai quên rằng Đức Chúa Trời vốn vô hạn, thì giáo lý về Đức Chúa
Trời Ba ngôi có vẻ giống như việc làm quái dị trong Toán học là muốn biến
một thành ba. Tuy nhiên, một khi ta đã ghi khắc được vào trong tâm trí rằng
giáo lý về Đức Chúa Trời Ba Ngôi vốn là một nỗ lực nhằm nhồi nhét các sự
kiện về Đấng vô hạn vào trong các hình thức của tư tưởng hữu hạn, và các
sự kiện về Đức Thánh Linh vào trong các hình thức diễn tả vật chất, thì các
khó khăn sẽ đều tan biến cả.
TÍNH CÁCH KHÓ TRI NHẬN NHỮNG ĐIỀU THUỘC LINH CỦA
CHÚNG TA
Loại khó khăn thứ mười nảy sinh từ tính cách cứng nhắc, khó tin nhận
những điều thuộc linh của chúng ta. Người tiến bộ nhất trong lãnh vực thuộc
linh vẫn còn ấu trĩ, nên không thể trông mong nhìn thấy được mọi sự, như
một Đức Chúa Trời thánh khiết tuyệt đối nhìn thấy chúng, trừ phi khi người
ấy đặt lòng tin cậy đơn sơ của mình vào Ngài. Thuộc về loại khó khăn này là
những điều có liên quan với giáo lý của Thánh Kinh về sự hình phạt đời đời.
Nhiều khi, đối với chúng ta giáo lý này có vẻ như không thể là đúng, là thật,
nhất định không thể là đúng là thật được; nhưng tất cả sự khó khăn nảy sinh
từ sự kiện chúng ta vẫn còn đui mù thuộc linh đến nổi chưa có quan niệm
đầy đủ về tính cách đáng ghê sợ của tội lỗi, nhất là tính cách đáng sợ của cái
tội chối bỏ con quang vinh vô hạn của Đức Chúa Trời. Thế nhưng khi nào
chúng ta trở thành thánh khiết, trở nên giống như Đức Chúa Trời, chúng ta
sẽ thấy rõ tính cách lớn lao nghiêm trọng của tội lỗi y như chính Ngài nhìn
thấy nó, thì chừng đó, chúng ta sẽ chẳng còn thấy có chút khó hiểu nào trong
giáo lý về sự hình phạt đời đời cả.
Khi nhìn lại mười loại khó khăn vừa kể trên, chúng ta thấy tất cả đều nảy
sinh từ tình trạng bất toàn của chúng ta, chứ không phải là do sự bất toàn của
Thánh Kinh. Thánh Kinh vốn toàn hảo, nhưng vì chúng ta vốn bất toàn, nên
chúng ta mới gặp khó khăn với bộ Sách ấy. Dù vậy, càng tăng trưởng để đạt
đến chỗ toàn thiện toàn mỹ như Đức Chúa Trời, những điều khó hiểu cho
chúng ta sẽ cứ ngày càng giảm bớt đi; cho nên chúng tôi bị bắt buộc phải
đưa ra lời kết luận rằng khi nào chúng ta trở nên trọn vẹn như Đức Chúa
Trời, chúng ta sẽ chẳng còn gặp chỗ khó hiểu nào nữa trong Thánh Kinh.
LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ PHẢI TẬN DIỆT DÂN CA-NA-AN
Có ít điều trong Thánh Kinh mà bởi đó nhiều độc giả thông minh đã bị va
vấp, và người ngoại đạo thường thích thú bêu xấu hơn là lệnh truyền của
Đức Chúa Trời rằng phải tận diệt một số các dân tộc, chẳng chừa lại một ai
bất kể tuổi tác, giới tính. Phải giết sạch cả đàn ông, phụ nữ, lẫn trẻ con.
Thí dụ như chúng ta đọc thấy lệnh truyền ấy của Đức Chúa Trời cho dân Y-
sơ-ra-ên trong PhuDnl 20:16-17
“Nhưng trong các thành của những dân tộc này, mà Giê-hô-va Đức Chúa
Trời ngươi ban cho ngươi làm sản nghiệp, thì chớ để sống một vật nào biết
thở; khá tận diệt dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân
Hê-vít, dân Giê-bu-sít, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã phán dặn”
Đối với nhiều thành phố khác, có lệnh truyền là nếu họ cầu hoà thì nên để
cho họ bình an và tha mạng cho toàn thể cư dân; nhưng nếu họ khai chiến,
thì phải giết người trưởng thành phái nam, còn phụ nữ và trẻ con thì phải
chừa lại (20:10-15). Đó là những thành phố ở xa, còn cư dân của các thành
phố trong các xứ mà chính dân Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm làm nơi cư trú, thì phải
tận diệt đi.
Chúng ta bị chất vấn: “Làm thế nào để hoà giải các lệnh truyền đáng ghê sợ
và trắng trợn như thế, với giáo lý đã được truyền dạy rõ ràng trong Tân ước
kinh rằng “Đức Chúa Trời là sự yêu thương” (IGi1Ga 4:8). Người ta bảo
rằng những lệnh truyền như thế chắc chắn không phải là của Đức Chúa Trời,
và Cựu ươc kinh chắc chắn là đã sai lầm khi bảo rằng chúng là của Đức
Chúa Trời. Vậy chúng ta có thể trả lời cho thắc mắc này như thế nào đây?
TỘI LỖI KHIẾN VIỆC ẤY THÀNH CẦN THIẾT
Trước hết, chúng ta nên nói rằng điều ấy quả đáng sợ thật nếu bất luận dân
tộc nào cũng phải bị tận diệt bằng gươm, chẳng những là các chiến sĩ mà
thôi, nhưng cả đến người già, phụ nữ, lẫn trẻ con nữa. Thế nhưng hãy còn
một việc còn đáng sợ hơn thế nữa khi chúng ta dừng lại để suy nghĩ về vấn
đề ấy cho thật thấu đáo để thấy rằng vì tội ác mà số người đó đã phạm vốn
quá đầy dẫy, sự phản loạn của họ đối với Đức Chúa Trời vốn quá mãnh liệt
và phổ quát, sự băng hoại đạo đức và đê tiện của họ vốn đã đến mức tận
cùng và cứ tồn tại dai dẳng mãi, xuống cả đến các trẻ con sơ sinh nữa, cho
nên một cách giải quyết như thế là tuyệt đối cần thiết vì lợi ích của nhân
loại.
Đó chính là trường hợp của các dân tộc ở đây. Chúng ta được biết chẳng
những nhờ Thánh Kinh mà cả từ nhiều nguồn thông tin khác, rằng chiều sâu
của sự ô nhiễm luân lý đạo đức mà các dân tộc ấy đã sa vào, là không thể
nào dò lường được. Chúng đã trở thành một căn bệnh ung thư đạo đức đe
doạ chính sự sống của toàn thể nhân loại. Nếu muốn cho thân thể được cứu,
thì căn bệnh ung thư đó phải bị cắt bỏ khỏi từng thớ thịt. Cắt bỏ các tế bào
ung thư là một công cuộc phẫu thuật đáng sợ, một việc làm mà bất cứ một
phẫu thuật gia có lòng nào cũng phải run sợ, nhưng thường thường thì cắt bỏ
một khối ung thư là việc làm tử tế nhất mà một nhà phẫu thuật có thể làm
trong những hoàn cảnh thực tế nào đó. Cũng tương tự như thế, công việc tử
tế nhất mà Đức Chúa Trời có thể làm cho nhân loại là phải cắt bỏ đi cái khối
ung thư này khỏi mọi gốc rễ và mọi thớ thịt.
VÌ LỢI ÍCH CỦA TOÀN THỂ NHÂN LOẠI
Thứ hai, chúng tôi xin nói rằng chắc chắn là Đức Chúa Trời có quyền thăm
phạt những cá nhân và những dân tộc đã chìm đắm trong tội lỗi. Điều duy
nhất đáng ngạc nhiên khi ta chịu dừng lại một chút để suy nghĩ, ấy là Ngài
lại kiên trì nhẫn nhục đến thế, để không thăm phạt các cá nhân và các dân
tộc ấy sớm hơn. Một khi ta đã thông hiểu về sựthánh khiết của Ngài ở một
mặt, và ở mặt kia là chiều sâu của các thói tham lam, tham dục, tội lỗi, quỉ
quyệt, chẳng coi luật pháp ra gì, và sự chống nghịch với Đức Chúa Trời của
một số các thành phố thậm chí cả đến hiện nay nữa, đã sa vào, và thế nào cả
đến các thiếu nhi cũng đang lầm lạc để sa vào thói quỉ quyệt không có lời lẽ
nào mô tả được, thì hầu như ta phải ngạc nhiên là tại sao Ngài vẫn chưa xoá
hết họ đi, như Ngài từng truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên phải làm với các
dân tộc trong xứ Ca-na-an là một lệnh truyền đầy tính nhân từ thương xót và
tình yêu. Nó là sự nhân từ thương xót và tình yêu đối với dân Y-sơ-ra-ên.
Nếu dân Ca-na-an không bị tận diệt, thì chính dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị tận diệt.
Thật vậy, dân Y-sơ-ra-ên sở dĩ bị lây nhiễm tội lỗi chính vì đã không thực
hiện sắc lệnh nghiêm khắc của Đức Chúa Trời cho đến cùng. Họ đã bỏ
ngang giữa chừng điều Đức Chúa Trời đã dạy họ làm, để rồi chính họ phải
bị diệt vong.
“Nhưng còn về các phụ nữ thì thế nào; họ có thể được chừa lại không?” Câu
trả lời rất rõ ràng. Phụ nữ thường là nguồn gốc hàng đầu gây ra lây nhiễm
(Dan Ds 31:15-16). Tuy các phụ nữ chân chính có cao quí hơn đàn ông chân
chính, các phụ nữ hư hỏng lại nguy hiểm hơn đàn ông hư hỏng” Nhưng còn
trẻ con thì sao? Có thể tha thứ cho chúng không? Ai là người có kinh
nghiệm với con cái của những người hư hỏng đều biết cái thói xấu đã được
lưu truyền qua nhiêu thế hệ như thế nào; các thói xấu của ông cha cứ dai
dẳng tái hiện nơi con cháu, cả khi chúng được đưa đi khỏi các môi trường
xấu xa gian ác vây quanh để giáo dưỡng trong một môi trường thuận lợi.
Nhờ quyền năng tái sinh của Phúc âm, tất cả mọi việc ấy có thể được sửa
chữa, nhưng chúng ta đừng nên quên rằng trường hợp mà chúng ta gặp ở
đây vốn đã tồn tại từ nhiều thế kỷ trước khi Phúc âm được truyền giảng.
Tình yêu và lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời đòi hỏi dân Y-sơ-
ra-ên phải vâng theo thật đúng những gì Đức Chúa Trời đã truyền dạy họ
phải làm; tình yêu và lòng nhân từ thương xót đối với cả nhân loại đã đòi hỏi
như thế. Chủ đích của Đức Chúa Trời không phải chỉ là ban phước cho một
mình dân Y-sơ-ra-ên mà thôi. Qua trung gian của dân Y-sơ-ra-ên, Ngài đã
lập kế hoạch để ban phước cho toàn thể nhân loại. Ngài đang đào luyện một
dân tộc bằng cách biệt riêng họ ra suốt nhiều thế kỷ, để khi việc đào luyện
hoàn tất, họ có thể bước ra ngoài vòng rào đó để đem phước hạnh, sự cứu
rỗi, và sự sống cho tất cả các dân các nước.
CÁC KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VƯỢT XA TẦM XÉT NÉT
CỦA CHÚNG TA
Điều thứ ba cần nói, là các kế hoạch của Đức Chúa Trời chẳng những chỉ có
lợi, mà còn rất bao la, cần phải có nhiều thế kỷ mới hoàn thành được. Chúng
ta với tư cách những con người có đời sống hết sức ngắn ngủi, với thói tự
kiêu tự phụ của mình, chỉ thấy được một vài mảnh vụn vặt nhỏ bé của kế
hoạch vô hạn của Đức Chúa Trời mà thôi, nhưng lại tự cho mình cái quyền
dám phê phán cái kế hoạch toàn diện mà chúng ta chỉ biết rất ít hay chẳng
biết gì cả ấy. Chỉ cần chúng ta chịu học tập để biết được rằng Đức Chúa Trời
vốn vô hạn còn chúng ta lại vô cùng nhỏ bé; cho nên so với các phương tiện
khoa học và triết học, thì “sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo
của Ngài nào ai hiểu được?” (RoRm 11:33). Chẳng có sự ngu dại nào lớn
hơn đối với một đứa trẻ là dám phê bình một triết gia, còn một triết gia sẽ
chẳng có thể làm gì khác hơn để chứng tỏ mình là kẻ đại ngu ngoài việc dám
chê bai chỉ trích Đức Chúa Trời.
MỘT HÀNH ĐỘNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT ĐỐI VỚI TRẺ CON
Thứ tư, việc tận diệt các con trẻ của dâm loạn chẳng nhữnglà một hành động
nhân từ thương xót và tình yêu đối với cả thế giới nói chung, mà còn là một
hành động nhân từ thương xót và tình yêu đối với chính các trẻ con ấy nữa.
Điều gì chờ đợi đám trẻ con ấy nếu chúng được để cho sống, nếu không phải
là một điều gì đó còn vô cùng tệ hại hơn là sự chết?
Chúng ta không dám độc đoán để bàn đến điều gì chờ đợi chúng khi chúng
chết đi, nhưng nếu không chấp nhận cái giáo thuyết hoàn toàn không có cơ
sở của Thánh Kinh và khó có thể là đúng được về vấn đề tất cả các trẻ con
không chịu phép báp-tem đều sẽ bị nguyền rủa, thì chúng ta chẳng cần gì sợ
hãi. Ngày đến cả hiện nay, tôi hầu như có thể mong rằng tất cả các con trẻ
được sinh ra trong những xóm nghèo nàn đói khổ đều chết đi khi hãy còn
thơ dại, nếu không có hi vọng rằng Hội thánh của Chúa Cứu thế sẽ tỉnh thức
để đem Phúc âm của Con Đức Chúa Trời đến cho chúng.
Nhưng có người vẫn còn có thể nói: “Vâng, tôi thấy là thà xoá sạch số người
đã sa đà thậm tệ như thế bằng một hành động nhân từ thương xót còn hơn
nhưng tại sao lại không thực hiện điều đó bằng một dịch bệnh hay một nạn
đói, mà lại là bằng cách nhờ tay người Y-sơ-ra-ên tàn sát chúng?” Lời đáp
cho vấn nạn này rất đơn giản. Bản thân dân Y-sơ-ra-ên đang chịu huấn
luyện. Họ vẫn thường xuyên sa vào tội lỗi và cần được một bài học nghiêm
khắc mà họ phải học bằng cách thực thi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đối
với tội ác và thói quỉ quyệt của dân Ca-na-an. Họ sẽ có được một ấn tượng
sâu đậm về sự thánh khiết và thù ghét tội lỗi của Đức Chúa Trời.
Trước khi phải thực thi sự phán xét của Đức Chúa Trời trên người Ca-na-an,
dân Y-sơ-ra-ên đã được phán dạy rõ ràng rằng lý do khiến họ phải tận diệt
dân Ca-na-an là “để chúng nó không dạy các ngươi bắt chước làm theo
những sự gớm ghiếc chúng nó đã làm, đặng cúng thờ các thần chúng nó”
(PhuDnl 20:18). cả quá trình này là một thí dụ minh hoạ gây ấn tượng cho
việc Đức Chúa Trời vô cùng ghen ghét tội lỗi. Nó dạy cho chúng ta rằng tội
lỗi cứ tồn tại dai dẳng là một điều nghiêm trọng và tai hại nên nhất thiết phải
tận diệt cả một dân tộc gồm luôn đàn ông, đàn bà và trẻ con nữa, là những
kẻ vẫn miệt mài trong đó. Đó chỉ là một bài học đơn giản mà cả Thánh Kinh
đều dạy, cả lịch sử cũng dạy, và được viết lên bằng những chữ lửa: “Tiền
công của tội lỗi là sự chết” (RoRm 5:23)
Ý THỨC VỀ CHÍNH TỘI LỖI CỦA CHÚNG TA
Điều thứ năm cần nói, là người nào xem nhẹ tội lỗi, chưa có được một quan
niệm đầy đủ về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, thì sẽ gặp rất nhiều khó
khăn khó vượt nổi đối với lệnh truyền này của Đức Chúa Trời. Mặt khác,
những ai đa thấy được tính cách đáng sợ của tội lỗi, đã học tập để biết thù
ghét nó đúng với sự thù ghét vô hạn mà nó xứng đáng phải nhận được, đã có
được những cái nhìn thoáng qua để thấy sự thánh khiết vô hạn của Đức
Chúa Trời, và đã tham dự một phần nào đó vào sự thánh khiết ấy, thì sau khi
đã suy nghĩ chín chắn, sẽ chẳng còn gặp khó khăn gì nữa đối với lệnh truyền
này. Đó là vấn đề phải ý thức được ngay trong lòng, và đời sống chúng ta
rằng chính nó đã khiến chúng ta nổi loạn chốn glại cách đối phó nghiêm
khắc của Đức Chúa Trời với tội lỗi.
VIỆC DUNG THA CHO PHỤ NỮ
Thiết tưởng còn một việc nữa cần phải nói. Lắm khi người ngoại đạo đã đưa
ra lời phản bác ngụ ý khinh bỉ là trong một số trường hợp như phụ nữ đã
được đề cập trong PhuDnl 20:10-15 cũng như việc phải dung tha phụ nữ
trong Dan Ds 31:21-35:40 là phụ nữ phải được dung thứ vì các mục đích vô
đạo đức (tà dâm, dâm ô). Có một nhà văn từng chất vấn: “Tôi có phải hiểu là
Đức Chúa Trời đã tán thành việc nhận bồi thường chiến tranh bằng các
chiến lợi phẩm là một số trinh nữ để dùng vào một công việc đã quá rõ ràng,
hay không?” Những lời lẽ nặng nề tương tự như thế có thể được tìm thấy
trong một số các quyển sách ngoại đạo
Lẽ dĩ nihên, ngụ ý của người thắc mắc đặt vấn đề như thế là các thiếu nữ ấy
đã được thu nhận là vì các chủ đích vọ đạo đức. Đó là cách sử dụng “đã quá
rõ ràng” đối với phía người phản bác.Tuy nhiên, nó vốn chẳng có gì là “quá
rõ ràng” đối với bất cứ một người cótâm trí trong sạch nào khi đọc phần ký
thuật thực sự đó trong Kinh điển. Trong phần ký thuật đó của Kinh điển, đã
chẳng hề có chút ám chỉ xấu xa nào rằng các trinh nữ kia vốn được dành cho
cái công việc mà họ nghĩ đến. Với người có tấm lòng xấu xa bất khiết, thì lẽ
dĩ nhiên là việc bao giờ cũng rõ ràng là nếu các phụ nữ còn để cho sống và
bắt đi làm của cống nộp để bồi thường chiến tranh, thì họ đều bị bắt là vì
mục đích ấy, nhưng thậm chí, một việc như thế cũng không hề xảy ra với
người có tâm trí trong sạch, thuần khiết.
Toàn văn của khúc sách trong Dan Ds 31:1-54 mà người ta hầu như rất
thường viện dẫn liên quan đến vấn đề này của những người không tin Chúa,
là một lời cảnh cáo nghiêm trọng chống lại thói vô đạo đức thuộc loại ấy.
Cho nên, nó vốn không phải nhằm gợi ý rằng Đức Chúa Trời dung túng
những hành động dâm ô thuộc loại như thế, mà còn chứng minh rằng Ngài
vốn đối xử nghiêm khắc như thế nào đối với điều bất khiết ấy.
Trong Dan Ds 25:1-18 chúng ta được bảo cho biết thể nào đàn ông trong dân
Y-sơ-ra-ên phải tự chọn mình khỏi điều ô uế với các con gái Mô-áp như thế
nào, mà còn cho biết hậu quả của nó là “cơn giận của Đức Giê-hô-va bèn nổi
lên cùng Y-sơ-ra-ên” (25:3) và thế nào Đức Chúa Trời đã thăm phạt cách
sống bất khiết đó của họ bằng sự trừng phạt nghiêm khắc nhất (25:5,8-9).
Cũng ngay trong chương sách đó, tất cả các phụ nữ đã phạm vào thói dâm ô
đó đều bị giết đi (31:17). Và sự thật ít nhất là ở trong câu thứ mười tám cũng
gợi ý rằng chỉ có trẻ con thuộc phái nữ mới được chừa lại mà thôi.
Đây chắc chắn là một hành động nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời
nhằm giải cứu “hết thảy con gái chưa hề kết bạn cùng người nam” khỏi môi
trường sống xấu xa gian ác ấy, để giao chúng cho người Y-sơ-ra-ên trưởng
dưỡng dạy dỗ, để chúng tiếp xúc được với tôn giáo thuần khiết và được đào
tạo huấn luyện để trở thành những phụ nữ trong sạch. Cho nên, theo như
phần ký thuật, thì chúng đã không được giao cho người Y-sơ-ra-ên nhằm các
chủ đích dâm ô bất khiết, mà vốn được phó thác cho họ nhằm vào chủ đích
cao cả hơn hết.
ĐỨC CHÚA TRỜI CHÂN LÝ VÀ TÌNH YÊU CÓ SAI CÁC THẦN NÓI
DỐI VÀ TÀ THẦN ĐẾN VỚI CHÚNG TA KHÔNG?
Một trong những khúc sách gây bối rối nhất cho chúng ta trong Thánh Kinh
là ở IVua 1V 22:1-53 và trong IISu 2Sb 18:1-34. Trong hai khúc sách này,
nhà tiên tri Mi-chê đã được thuật lại là có nói rằng: “Vậy, hãy nghe lời của
Đức Giê-hô-va” (IVua 1V 22:19). Trong cùng câu ấy, ông tiếp tục kể lại thế
nào ông đã “thấy Đức Giê-hô-va ngự trên ngôi Ngài và cả cơ binh trên trời
đứng chầu Ngài bên hữu và bên tả”.
Trong khúc sách này, Đức Giê-hô-va đã được tả vẽ là đang yêu cầu cả đạo
quân đang tập họp ấy hãy thuyết phục A-háp đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át.
Rồi một thần nói dối đã được mô tả là đang tiến đến trước mặt Đức Giê-hô-
va và nói: “Tôi sẽ đi và làm một thần nói dối trong miệng những tiên tri của
Ngài” (IVua 1V 22:22). Đức Giê-hô-va được cho là đã nói với thần nói dối
ấy rằng: “Phải, ngươi sẽ dụ người được. Hãy đi, và làm như ngươi đã nói”
(c.22)
Thoạt nhìn thì dường như Đức Chúa Trời đã phê chuẩn vào dự phần vào
việc nói dối và lường gạt. Ta phải giải thích như thế nào? Nó đã được đưa ra
rõ ràng trong văn cảnh. Mi-chê nhân danh Đức Thánh Linh để nói ra đang
tìm cách thuyết phục A-háp và Giô-sa-phát đừng lên Ra-mốt trong Ga-la-át.
Tất cả các tiên tri giả đã bảo với hai vua ấy rằng họ phải ra đi và sẽ chiến
thắng. Còn Mi-chê, sứ giả của Đức Giê-hô-va lại nói với họ ngược lại, rằng
nếu họ đi lên thì sẽ bị bại trận, và A-háp chắc chắn sẽ bị tử trận, ông bảo với
họ rằng vị “thần” và các tiên tri giả, đã nhân danh để nói ra, là một vị thần
nói dối. Ông đã kể lại mọi sự bằng một phương pháp như khắc như hoạ đến
cao độ.
Tuy bức tranh ấy là vô cùng sinh động, nó không truyền dạy điều sai lầm mà
là sự thật, và truyền dạy bằng một phương pháp hầu như là có tính cách bắt
buộc, nghĩa là đã có một vị thần nói dối trên miệng các tiên tri giả. Nếu
chúng ta đọc cả phần thuật sự từ đầu chí cuối, thì rõ ràng là Đức Giê-hô-va
đã không thật sự dựphần vào việc dối gạt kia. Đã không có dự phần vào vụ
lường gạt ấy, Ngài còn sai chính nhà tiên tri của Ngài đến cảnh cáo họ rằng
vị thần mà các tiên tri giả đã nghe theo để nói, là một vị thần nói dối, và đã
nói với họ các sự kiện chính xác của trường hợp này về kết quả của trận
đánh sẽ như thế nào. Nếu họ bằng lòng chọn việc nghe lời của Đức Chúa
Trời và nhà tiên tri của Ngài, họ đã được cứu khỏi tai hoạ ấy; nhưng nếu họ
không chịu nghe Đức Chúa Trời và nhà tiên tri của Ngài, thì Đức Chúa Trời
sẽ phó mặc “cho chúng mắc phải sự lầm lạc, là sự khiến chúng nó tin đều
dối trá” (IITe 2Tx 2:11). Nhưng Ngài đã không làm như thế mà không có
cảnh cáo họ rất nhiều lần.
Đây là phương pháp phổ biến của Đức Chúa Trời, chẳng những chỉ được
truyền dạy trong Kinh Thánh, mà cả trong kinh nghiệm nữa, ấy là Ngài cho
phép mỗi người tự chọn lấy, hoặc là nghe lời Ngài để biết chân lý (sự thật),
hoặc là làm mặt ngơ tai điếc đối với Ngài để bị phó mặc cho ảo tưởng sai
lầm. Nếu họ “không chịu nhận lãnh sự yêu thương của lẽ thật để được cứu
rỗi” (IITe 2Tx 2:10) thì Đức Chúa trời sẽ phó mặc họ “mắc phải sự lầm lạc
là khiến chúng nó tin điều dối giả” (c.11). Nếu loài người muốn lời nói dối,
thì Đức Chúa Trời sẽ khiến chúng đầy dẫy họ.
Trong những khúc Thánh Kinh khác dường như có dạy rằng Đức Chúa Trời
saic ác tà thần đến với người ta, thì vấn đề được đặt ra là: “Làm thế nào để
chúng ta có thể tin rằng Đức Chúa Trời là toàn thiện, là Đức Chúa Trời của
tình yêu, nhưng lại sai các tà thần đến với loài người?” Xin chúng ta chuyển
sang một khúc sách đã dạy điều đó, để sẽ cho ngay một câu trả lời cho chỗ
khó khăn này. Chúng ta đọc thấy trong ISa1Sm 16:14 “Thần của Đức Giê-
hô-va lìa khỏi Sau-lơ; Đức Giê-hô-va bèn khiến một ác thần khuyấ khuất
người” “một thà thần” có nghĩa gì? Văn cảnh cho thấy rõ ràng rằng đó là
một vị thần khuyất khuất, bồn chồn bất an, và trầm uất. Tình hình lúc ấy như
sau: Sau-lơ đã bị tố giác là bất trung với Đức Chúa Trời, vua ấy đã cố ý bất
tuân lệnh của Đức Chúa Trời (15:4-35 và nhất là c.22-23;); và hậu quả là
Đức Chúa Trời đã rút Thần Linh Ngài khỏi nhà vua, và một vị thần bất mãn,
bất an đã “nhập” vào nhà vua.
Đây không phải là một hành động xấu từ phía Đức Chúa Trời. Ngài chẳng
bao giờ có hể làm điều gì không tử tế cả. Có một điều mà lòng nhân từ
thương xót của Cha chúng ta ở trên trời vẫn ban cho chúng ta khi chúng ta
không vâng lời và đi lạc xa khỏi Ngài, ấy là Ngài sẽ khiến cho chúng ta cảm
thấy không vui và bất mãn đối với tội lỗi mình. Nếu Đức Chúa Trời cứ bỏ
mặc cho chúng ta tiếp tục vui vẻ trong tội lỗi, thì đó mới chính là điều không
tử tế nhất mà Ngài có thể làm. Nhưng do lòng nhân từ thương xót lớn lao
của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ giành lại tất cả các tội nhân, khiến họ quay trở
lại với Ngài, nếu có thể được; và nếu chúng ta phạm tội, thì vì điều lợi ích
lớn lao nhất cho chúng ta, Đức Chúa Trời sẽ đưa chúng ta đến chỗ mất tinh
thần, bất an nghiêm trọng nhất trong tội lỗi mình. Nếu chúng ta biết lợi dụng
phải lẽ vị thần bất an và mất tinh thần mà Đức Chúa Trời đã sai đến với
chúng ta đó, thì vị ấy sẽ đưa chúng ta trở lại với Đức Chúa Trời và với niềm
vui của Đức Thánh Linh.
Sau-lơ đã sử dụng sai lầm vị thần ấy. Thay vì để cho tấm lòng bất an của
mình đưa mình trở lại với Đức Chúa Trời, nhà vua đã để cho tấm lòng bất an
ấy gây thêm nhiều cay đắng cho tâm hồn mình để chống lại con người đã
được Đức Chúa Trời ban đặc ân cho. Việc sai một tà thần đến là một hành
động do lòng nhân từ thương xót về phía Đức Chúa Trời. Việc sử dụng sai
hành động nhân từ thương xót ấy đã dẫn đến hậu quả là cảnh tàn hại cuối
cùng của Sau-lơ.
Ngày nay, có nhiều người từng có lần được biết một điều gì đó về Linh của
Đức Chúa Trời và niềm vui của Đức Thánh Linh nhưng lại sa vào tội lỗi; và
Đức Chúa Trời với lòng nhân từ thương xót và tình yêu lớn lao của Ngài,
hiện đang sai một tà thần đến với người ấy - một tinh thần bất an, bất mãn,
không hài lòng sâu xa, hoặc thậm chí là một nỗi đau khổ trừu tượng nữa.
Xin chúng ta hãy cảm tạ Ngài vì điều đó. Hãy để cho Ngài tra xét, hãy
khiêm hạ trước mặt Ngài để tìm xem mình đã phạm tội với Đức Chúa Trời ở
phương diện nào, khiến mình mất đi niềm vui của sự cứu rỗi. Hãy để cho
Ngài cắt nó đi, hãy xưng tội ấy ra và trở lại với Đức Chúa Trời để được Ngài
làm mới lại niềm vui của sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã từng ban cho bạn
(xem Thi Tv 51:12).
Một tà thần gây bồn chồn bất an và bất mãn cũng đã được sai đến với Đa-vít
nữa, lúc vua ấy phạm tội; nhưng rồi, sau khi có chống cự chút ít, Đa-vít đã
chịu xưng tội với Đức Giê-hô-va, thì Ngài đã xoá nó đi và đưa nhà vua đến
một chỗ vui vẻ mừng rỡ trong Ngài, nơi ông có thể chỉ giáo và dạy dỗ nhiều
người khác về con đường mà họ phải theo (Thi Tv 32:4-8; 51:9-13).
GIÔ-NA VÀ CON CÁ LỚN
Qua nhiêu năm, câu chuyện về Giô-na và con cá voi (theo bản Anh văn,
Whale: con cá voi) là mục tiêu đắc ý mà người không tin Chúa nhằm vào để
chế nhạo, và nó cũng từng gây nhiều lúng túng cho những kẻ “dốt nát và tin
không quyết” (IIPhi 2Pr 3:16). Nói chung thì câu chuyện ấy đã không được
các nhà phê bình phá hoại tin tưởng, và họ thắc mắc đặt vấn đề chẳng hay nó
có thật trong lịch sử hay không. Họ tìm cách giải thích đó là một dụ ngôn
hay ẩn dụ.
Những kẻ muốn không tin toàn thể phần linh cảm và tính cách có thật tuyệt
đối của Thánh kinh đã nhiều lần quả quyết với chúng tôi kèm theo sự phô
trương về kiến thức khoa học của họ, rằng cách cấu trúc của miệng con cá
voi và hình dạng của cổ họng nó sẽ không thể nào để cho qua lọt cả một con
người còn nguyên vẹn, đó là chưa kể việc người ấy lại còn có thể sống sót và
nguyên vẹn. Chúng ta có thể nói gì về tất cả những chuyện này?
Trước hết, xin lưu ý cái sự kiện rằng đã không có chỗ nào trong Thánh Kinh
bảo với chúng ta rằng Giô-na đã bị một con cá voi nuốt sống. Trong Gion
Gn 2:1 chúng ta được cho biết là “Đức Giê-hô-va sắm sửa một con cá lớn
đặng nuốt Giô-na, Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm”. Ở đây không hề
chép rằng con cá lớn đó là một con cá voi, với cấu trúc cá biệt về cái miệng
và cổ họng của nó. Đây có thể là một con cá to đã được chuẩn bị đặc biệt
cho cơ hội ấy, hoặc là một con cá đã được quyền năng thần hữu của Đức
Chúa Trời sắp xếp để có sẵn tại đó để thi hành chủ đích mà Đức Chúa
Trờiđã hoạch định.
Khi đề cập biến cố lịch sử này. Chúa Giê-xu bảo rằng Giô-na đã ở trong
bụng cá ba ngày ba đêm” (Mat Mt 12:40). Còn con cá lớn đó là cá gì thì
chúng ta không được cho biết; nhưng ai ai cũng biết cái sự kiện rằng có rất
nhiều loại cá mà người Hi-lạp xưa gọi là “những con quái vật của biển” -
danh từ đã được các học giả dùng để dịch con cá lớn trong truyện tích của
Giô-na trong bộ Bảy Mươi Dịch Giả (Septuagint) - những con cá mập, to đủ
để nuốt cả một người hay một con ngựa, và vẫn còn tồn tại mãi đến gần đây
trong Địa Trung hải, nơi mà dường như theo phần ký thuật ở đây, là biến cố
ấy đã xảy ra. Thật vậy, có tài liệu ghi lại rằng một người nọ, từ trên tàu đã
rơi xuống Địa Trung hải và bị một trong những con quái vật ấy nuốt sống,
con quái vật bị giết, và người kia được cứu mà vẫn còn sống. Người ta cũng
từng lấy từ trong bụng một con cá to khác ra cả một con ngựa nữa.
MỘT LOẠI CÁ VOI CÁ BIỆT
Hơn nữa, cho dù Thánh Kinh có chép rằng con cá lớn kia là cá voi đi chăng
nữa, phần thuật sự cũng chẳng hề gặp khó khăn gì như những người vô tín
và thiếu hiểu biết đã cho là như thế. Nếu quả thật có những loại cá voi mà
miệng và cổ họng có hình dạng khiến chúng không thể nào nuốt được trọn
vẹn một người đã trưởng thành, thì điều đó không được nghiệm đúng với tất
cả các loại cá voi.
Trong quyển sách của ông nhan đề là “Một con cá mập dài 5 mét (15 feet)
đã được tìm th61y trong bụng một con cá nhà táng “. Ông viết thêm rằng
“khi hấp hối, con cá nhà táng luôn luôn mửa những gì đang có trong dạ dày
của nó ra”. Quyển sách của ông kể lại cho chúng ta về một con cá voi đã bị
bắt và giết đi như sau:
Số thức ăn từ dạ dày ói ra đó có khối lượng rất lớn mà một vài người trong
đám họ ước lượng cỡ bằng cả một căn phòng chứa ngư cụ của chúng tp6o,
nghĩa là khoảng gần 3x2x2 mét (8x6x6 feet).
Lẽ dĩ nhiên, một con cá cỡ đó thì chẳng gặp khó khăn gì khi cần nuốt một
người, cho nên cả phần phản bác đoạn thuật sự của Thánh Kinh theo luận
điểm rằng một con cá voi không thể nào uốt được một người là vô căn cứ
đối với một người có kiến thức cao, và vốn do sự dốt nát mà ra.
Có người có thể cãi: “nhưng tác dụng của các dịch vị tiêu hoá sẽ giết chết
một người nằm trong bụng một con cá voi hay bất kỳ một con quái vật của
biển nào khác”. Thế nhưng, nói như thế là loại Đức Chúa Trời ra khỏi bức
tranh trong khi trong câu chuyện này của Thánh Kinh thì Đức Chúa Trời
chính là Đấng có quyền áp đảo đối với cả quá trình tiêu hoá. Đức Chúa Trời
đã tạo ra con quái vật, con người và các dịch vị tiêu hoá, rất có thể kiểm soát
dễ dàng các dịch vị tiêu hoá để giữ cho người ấy còn sống. Chúng tôi không
cố tìm cách vạch rõ rằng đây không phải là một phép lạ, nhưng những ai thật
sự tin vào Đức Chúa Trời và thường có một kinh nghiệm quan trọng nào với
Đức Chúa Trời cũng đều chẳng gặp rắc rối gì với một phép lạ.
Hơn nữa, thiết tưởng cần nói thêm rằng Thánh Kinh không có nói rằng Giô-
na vẫn còn sống trong thời gian ông nằm trong bụng con cá lớn kia. Có
nhiều điều trong đoạn thuật sự như đã được ghi lại trong sách Giô-na có vẻ
như cho thấy rằng ông đã không còn sống (xem Gion Gn 2:2,5-7). Dường
như rất có thể rằng Giô-na đã thật sự chết rồi, rồi được khiến từ chết sống
lại. Nếu quả thật Giô-na đã chết, thì điều đó chỉ thêm một lần nữa cho những
lần sống lại đã được chép trong Thánh Kinh mà thôi, và khiến Giô-na càng
trở thành một biểu tượng (hình bóng) đáng chú ý hơn nữa của Chúa Cứu
Thế.
Với những người tin Đức Chúa Trời, thì chẳng có khó khăn gì để tin vào sự
sống lại, nếu sự việc đã được chứng thực đầy đủ. Tại sao lại tưởng rằng việc
Đức Chúa Trời khiến người chết sống lại, lại là điều không thể tin được? Đã
có nhiều trường hợp mà Thánh Kinh đã ghi lại ít nhất là việc khiến sống lại
nhiều người nam người nữ có vẻ như đã chết đến mấy ngày rồi. Sử tính của
biến cố về Giô-na và con cá lớn này đã được chính Chúa Cứu Thế Giê-xu
chuẩn nhận (Mat Mt 12:40). Cho rằng đây chỉ là dụ ngôn hay ẩn dụ là không
tin lời của chính Chúa Giê-xu.
Cho nên sau khi xét kỹ những gì Kinh điển nói và các sử kiện, tất cả những
khó khăn được giả định là đã có trong câu chuyện của Giô-na và “con cá
voi” đều tan biến mất cả.
HAI BẢNG GIA PHẢ MÂU THUẪN NHAU CỦA CHÚA CỨU THẾ
GIÊ-XU
Một điểm trong Thánh Kinh mà những người phủ nhận nguồn gốc từ Đức
Chúa Trời và tính vô ngộ của nó thích công kích là hai bảng gia phả khác
nhau của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Chẳng những đây là một điểm mà người
không tin Chúa thích tấn công vào, mà còn là một điểm vẫn thường gây lúng
túng cho những người nghiên cứu Thánh Kinh nhiệt thành nhất nữa. Đã rõ
ràng là hai bảng gia phả ấy khác nhau rất nhiều, thế nhưng, mỗi bảng đều
được đưa ra như là gia phả của Chúa Cứu Thế. Làm thế nào để cả hai đều có
thể cùng đúng được?
Mới đây, có một người đã viết thư cho tôi về vấn đề đó với lời lẽ như sau
đây: “Có hai bảng gia phả của Chúa Giê-xu đã được đưa ra, một trong sách
Ma-thi-ơ và một trong sách Lu-ca, mà cái này lại khác hẳn cái kia. Làm thế
nào để cho cả hai cùng đúng được?” Có một câu trả lời hết sức đơn giản cho
vấn đề có vẻ như khó khăn này.
ĐƯỢC VIẾT CHO HAI ĐÁM CỬ TOẠ KHÁC NHAU
Bảng gia phả trong sách Ma-thi-ơ là bảng gia phả của ông Giô-sép, người
cha lừng danh của Chúa Giê-xu, và là cha Ngài về mặt pháp lý. Bảng gia
phả trong sách Lu-ca là bảng gia phả của bà Ma-ri, mẹ của Chúa Giê-xu, và
là bảng gia phả của Chúa Giê-xu về phương diện của loài người, là một sự
kiện có thật. Bảng gia phả trong sách Ma-thi-ơ được viết cho người Do-thái.
Trong cả bảng gia phả đó, Giô-sép là nhân vật nổi bật, còn bà Ma-ri rất ít
được đề cập. Mặt khác, trong sách Lu-ca, bà Ma-ri là nhân vật chính trong
cả phần ký thuật về việc thụ thai và ra đời của Cứu Chúa. Ông Giô-sép chỉ
được đưa vào một cách ngẫu nhiên và vì ông là chồng bà Ma-ri mà thôi. Lẽ
dĩ nhiên, trong mọi việc đó, đã có một ý nghĩa sâu sắc.
ĐẤNG CỨU CHUỘC NGƯỜI ANH EM CỦA CHÚNG TA
Trong sách Ma-thi-ơ, Chúa Giê-xu xuất hiện với cương vị Đấng Mê-si-a.
Trong sách Lu-ca, Ngài xuất hiện với tư cách “Con Người”, Người Anh Em
và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, thuộc về cả nhân loại và tự xưng là có bà
con với mọi chủng loại và mọi hoàn cảnh của con người. Cho nên bảng gia
phả trong sách Ma-thi-ơ bắt đầu từ Áp-ra-ham kể xuống đến Giô-sép rồi
Chúa Giê-xu, vì mọi lời hứa liên quan đến Đấng Mê-si đều ứng nghiệm vào
Ngài. Tuy nhiên, trong sách Lu-ca bảng gia phả được tính ngược từ Chúa
Giê-xu trở về đến A-đam, vì bảng gia phả ấy được phăng lui trở lại cho đến
tận nhân vật đứng đầu của cả nhân loại, để chứng minh mối liên hệ từ A-
đam thứ hai với A-đam thứ nhất.
MỘT VƯƠNG TRIỀU
Dòng sõi của Giô-sép đúng ra là một vương triều tính từ Đa-vít cho đến Giô-
sép. Trong sách Lu-ca, tuy dòng dõi ấy cũng từ Đa-vít được tính trở xuống,
nhưng lại không phải là một vương triều. Trong bảng gia phả này, Chúa Giê-
xu là hậu duệ của Đa-vít thông qua Na-than, dĩ nhiên cũng là con trai Đa-vít
nhưng không nềm trong vương triều, và bảng liệt kê noi theo một dòng họ
khác với vương triều.
HẬU DUỆ THEO DÒNG DÕI
Theo lời tiên tri, thì Đấng Mê-si-a phải thật sự là con cháu Đa-vít theo xác
thịt (IISa 2Sm 7:12-19; Thi Tv 89:3-4, 34-37; 132:11; Cong Cv 2:30; 13:22-
23; RoRm 1:3; IITi 2Tm 2:8). Những lời tiên tri ấy đã được Chúa Giê-xu
Con Trai bà Ma-ri làm ứng nghiệm; Ngài vốn là một hậu duệ của Đa-vít tuy
không phải là thuộc về vương triều của Giô-sép, vốn thuộc về vương triều,
nhưng lại không phải là cha Ngài về phần xác, mà chỉ là cha Ngài theo
phương diện pháp lý mà thôi.
GIÔ-SÉP, CON (TRAI) HÊ-LI
Bà Ma-ri là một hậu duệ của Đa-vít qua cha bà là Hê-li. Quả thật là LuLc
3:23 chép rằng Giô-sép là con Hê-li. Cách giải thích đơn giản cho việc này,
là vì bà Ma-ri là một phụ nữ, mà theo tập tục Do-thái thì tên phụ nữ không
được ghi vào gia phả. Chỉ có giới nam mới được dự phần nối dõi, cho nên
tên của Giô-sép đã được đưa vào thay cho tên của Ma-ri. Ông là chồng của
bà Ma-ri, mà Hê-li là cha vợ ông; cho nên Giô-sép mới được gọi là con (rể)
Hê-li, do đó bảng gia phả được hoàn tất. Trong khi Giô-sép là con rể của Hê-
li, thì thật ra theo phần xác, ông là con trai Gia-cốp (Mat Mt 1:16)
MẶT PHÁP LÝ VÀ MẶT TỰ NHIÊN
Hai bảng gia phả là cần thiết tuyệt đối để vạch rõ dòng dõi của Chúa và Cứu
Chúa chúng ta, Đấng vừa là nhà vua hợp pháp, đồng thời cũng là một con
người theo lẽ tự nhiên và nghĩa đen. Trong các sách Phúc âm, chúng ta thấy
cả hai bảng gia phả ấy: mộ là vê mặt pháp lý và hoàng gia trong sách Ma-
thi-ơ, là sách Phúc âm về luật pháp và vương quyền, và một là về mặt tự
nhiên và theo nghĩa đen trong sách Lu-ca, là sách Phúc âm về nhơn tánh của
Chúa.
HẬU DUỆ CỦA GIÊ-CÔ-NIA
Trong Gie Gr 22:30 chúng ta được cho biết là hậu duệ của Giê-cô-nia không
được nối ngôi Đa-vít, mà Giô-sép lại thuộc vê dòng dõi này. Thế nhưng, nếu
phổ hệ của Giô-sép khiến Chúa Giê-xu được kể là dòng dõi hoàng gia vì là
con cháu hợp pháp của ông, thì lời tiên của Giê-rê-mi đã ứng nghiệm đến
từng chữ từng tiếng vì nói theo nghĩa hẹp thì Chúa Giê-xu vốn không phải là
hậu duệ của Giô-sép, do đó, cũng không phải là hậu duệ của Giê-cô-nia. Nếu
Chúa Giê-xu là con trai thật của Giô-sép, Ngài đã không thể được nối ngôi.
Nhưng vì Ngài là con trai của bà Ma-ri, nên có thể nối ngôi về mặt pháp lý,
thông qua Na-than bằng việc lấy chồng là Giô-sép, nên do đó đã mở đường
cho mặt pháp lý để Ngài có thể nối ngôi.
Khi chúng ta nghiên cứu thật cẩn thận hai bảng gia phả này của Chúa Giê-xu
và đọc chúng dưới làn ánh sáng của lời tiên tri trong Cựu ước kinh, chúng ta
nhận thấy, thay vì cung cấp một lý do để nghi ngờ tính chính xác của Thánh
Kinh, chúng lại là một xác nhận cho tính chính xác từng ly từng tí cho bộ
sách ấy. Thật là tuyệt vời khi một phần này của Thánh Kinh lại khớp đúng
với một phần khác nếu chúng ta chịu khó nghiên cứu kỹ. Chúng ta không
còn bị va vấp vì sự kiện có đến hai bảng gia phả nữa, nhưng lại phát giác
được để mà vui mừng về ý nghĩa sâu nhiệm của sự kiện đã có đến hai bảng
gia phả.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHÚA GIÊ-XU LẠI CÓ THỂ KHEN NGƯỜI QUẢN
GIA BẤT TRUNG?
Một khúc sách trong Thánh Kinh từng gây lúng túng cho nhiều người, là câu
chuyện về người quản gia bất trung chép trong LuLc 16:1-14. Có lần, khi bài
học này được Hội Trường Chúa nhật Quốc tế chọn, một bà nọ đã bảo với tôi
rằng bà nhất định sẽ không dạy bài học ấy. Bà nói: “Ba điểm khó hiểu là:
thứ nhất, Chúa Giê-xu lại nêu tên vô lại bất lương ấy lên cho chúng ta bắt
chước; thứ hai, Chúa lại đi khen ngợi tên quản gia bất trung; và thứ ba, Chúa
Giê-xu dạy các môn đệ Ngài hãy dùng của bất nghĩa mà kết bạn.
Xin chúng ta nên ba điểm trên đây theo thứ tự. Bằng cách chú ý xem đúng ra
Thánh Kinh thứ tự. Bằng cách chú ý xem đúng ra Thánh kinh đã dạy gì,
chúng ta sẽ thấy ngay rằng nếu chúng ta bám thật sát vào những lời lẽ mà
chính Chúa Giê-xu đã nói ở từng điểm một, thì khó khăn sẽ biến mất, và
biến cố này, thay vì gây hoang mang cho chúng ta sẽ được nhận thấy là có
sự dạy dỗ sâu nhiệm thuộc loại nhữn glời chỉ giáo rất cần cho chúng ta hiện
nay.
Thứ nhất, tại sao Chúa Giê-xu lại nêu tên vô lại bất lương này lên cho chúng
ta bắt chước. Câu trả lời được tìm thấy ngay trong văn bản. Chúa Giê-xu đã
không nêu anh ta lên cho chúng ta bắt chước. Sở dĩ Ngài nêu anh ta ra, trước
hết, là như một lời cảnh cáo về nững gì sẽ xảy đến cho những tên quản gia
bất trung, thế nào chúng sẽ bị đòi hỏi phải khai trình công tác quản lý của
chúng, và thế nào chúng sẽ bị cất đi cái quyền quản lý ấy.
Sau khi dạy bài học vừa nghiêm khắc vừa lành mạnh ấy - một bài học rất
cần cho chúng ta ngày - Chúa Giê-xu tiếp tục chứng minh thế nào “con đời
này trong việc thông công với người đồng thời mình thì khôn khéo hơn con
sáng láng (LuLc 16:8). Chúng khôn khéo hơn ở chỗ chúng biết tận dụng sự
xảo quyệt và cố gắng hết sức mình biến các cơ hội hiện tại trở thành có giá
trị cho nhu cầu tương lai.
“Con sáng láng” thường không làm như thế. Thật vậy, hiện có bao nhiêu
người tự xưng là con sáng láng, tin rằng cõi vĩnh hằng mới là tất cả còn thì
giờ là quí báu không có gì sánh kịp, lại biết sử dụng tối đa sự khôn khéo của
họ và đặt các nỗ lực tối đa của họ nhằm biến các cơ hội của đời sống hiện tại
trở thành có giá trị nhiều nhất cho các nhu cầu của cái tương lai vĩ đại sau
này? Người tự xưng là Cơ-đốc nhân trung bình hiện nay đang sử dụng tối đa
sự khôn khéo và đầu tư tối đa các nỗ lực của họ để kinh doanh những điều
rồi đây sẽ qua đi, những công việc làm ăn buôn bán của sai thế gian hiện
hữu nhưng rất ngắn ngủi này; nhưng khi bàn đến những vấn đề liên quan
đến cõi vĩnh hằng, thì người ấy chỉ hài lòng với việc lợi dụng tối thiểu số
khôn khéo mà họ có cũng như chỉ đầu tư số nỗ lực tối thiểu vừa đủ khiến
cho lương tâm họ thoả mãn mà thôi.
Chúa Giê-xu đã không chỉ vào thói bất lương của tên quản gia bất trung để
thúc giục chúng ta phải bắt chước anh ta. Ngài đã quở trách thói bất lương
đó thật rõ ràng. Nhưng Ngài chỉ vào cái lương tri lương thức biết lợi dụng cơ
hội hiện tại để tích luỹ, dành cho những điều cần thiết trong tương lai. Đức
Chúa Trời muốn chúng ta phải học tập để biết tận dụng các cơ hội hiện nay,
để tích luỹ hầu cung ứng cho những gì là cần thiết cho tương lai - là tương
lai đời đời. Cả khi chỉ vào phần lương tri lương tthức của tên quả gia nọ,
Chúa Giê-xu cũng cẩn thận bảo vệ cho lời phát biểu của Ngài bằng cách bảo
rằng tên quản gia bất trung ấy “khôn khéo hơn người cùng thế hệ với mình”
(LuLc 16:6). Anh ta chỉ biết có cuộc đời hiện tại mà thôi; và theo quan điểm
hẹp hòi và bất toàn đó, anh ta “khôn khéo hơn con sáng láng”, vốn không đủ
khôn ngoan khéo léo để sống trọn vẹn cho cõi vĩnh hằng.
Còn có nhiều câu nói khác nữa của Chúa và Cứu Chúa chúng ta, trong đó
những kẻ gian ác, ích kỷ được đề cao nhằm tạo nét tương phản để chứng
minh thế nào những người thánh thiện hoặc thậm chí là chính Ngài nữa, đều
được trông mong phải làm theo như cách đã gợi ý càng nhiều hơn (xem
LuLc 11:5-8; 18:6-7; Mat Mt 12:11-12). vậy, điểm đầu tiên trong khúc sách
ấy sẽ tan biến sau khi xét kỹ xem đúng ra thì nó ngụ ý dạy gì. Xin chúng ta
chuyển sang điểm khó khăn thứ hai.
Tại sao Chúa lại “khen người quản gia bất trung”? Câu trả lời cho thắc mắc
này cũng rất đơn giản, nghĩa là Chúa Giê-xu đã chẳng có khen ngợi người
quản gia bất trung. Chỉ cần nhìn qua câu thứ tám là đủ thấy ngay. “Chủ bèn
khen quản gia bất nghĩa ấy”. Đây không phải là Chúa Giê-xu khen anh ta,
nhưng là chính ông chủ của anh ta, và ông ta chỉ khen thói tinh ranh của anh
ta mà thôi. Cách lý giải này là đúng, chẳng cãi vào đâu được, vì Chúa Giê-
xu chính là người kể chuyện, và Ngài gọi người đã có lời khen là “ông chủ”.
Rõ ràng là Ngài đã không tự nói về mình, mà nói về ông chủ của người quản
gia bất trung. Chỉ vì quá bất cẩn, cho nên ai đó, khi đọc khúc sách này, mới
hiểu chữ “chủ” trong khúc sách này là Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu chẳng những không khen anh ta, mà còn thẳng thắn gọi anh ta
là “người quản gia bất trung” và hơn nữa, còn cảnh cáo thói bất trung trong
công tá quản lý ngay sau đó (LuLc 16:10-11). vậy điểm khó hiểu thứ hai
hoàn toàn tan biến khi chúng ta cẩn thận chú ý xem thật ra chỗ ấy nói gì.
Trong trường hợp ở đây, chúng ta đã có thể chuyển sang điểm khó khăn thứ
ba.
CÁCH SỬ DỤNG TIỀN BẠC THẬT KHÔN NGOAN
Thứ ba, tại sao Chúa Giê-xu lại dạy các môn đệ Ngài hãy dùng của bất nghĩa
mà kết bạn? Chỗ khó khăn này tan biến ngay khi chúng ta đưa ra được câu
định nghĩa đúng và chính xác của Thánh kinh về các từ ngữ đã được dùng.
Trước hết “của bất nghĩa” là gì? Nó chẳng có ý nghĩa gì khác hơn là “tiền
bạc”. Tiền bạc sở dĩ bị gọi là “của bất nghĩa” vì chính tiền bạc luôn luôn là
một tác nhân đưa người ta đến chỗ phạm tội và ích kỷ (thí dụ như trong
trường hợp kẻ vô lại vừa kể trên), và vì “sự tham tiền bạc là cội rể mọi điều
ác” (ITi1Tm 6:10). Chúa Giê-xu đã nhân cơ hội ở đây để đưa ra một lời
cảnh cáo chống lại các nguy cơ do tiền bạc gây ra bằng cách bảo rằng nó là
“của bất nghĩa” (LuLc 16:9). Ngài vẫn thường tóm gọn cả một bài giảng
trong chỉ một câu duy nhất mà thôi.
Thứ hai “dùng của bất nghĩa” (c.9), có nghĩa gì? Chúa Giê-xu đã dạy các
môn đệ Ngài (và cả chúng ta nữa) là hãy lợi dụng tiền bạc mà Đức Chúa
Trời đã giao cho chúng ta trong đời này để kết bạn với những người thuộc
về Ngài mà đang nghèo thiếu bằng cách sử dụng tiền bạc để giúp đỡ họ.
Như văn cảnh cho thấy, chúng ta nên kết bạn với những người sẽ được” vào
nhà đời đời” (c.9) là những người sẽ sặn sàng dành cho chúng ta là những
người đã làm ơn cho họ, đã biết dùng tiền bạc của mình để đem phước hạnh
đến cho họ - một sự tiếp rước dành cho bậc đế vương khi đời sống của
chúng ta trên thế gian này kết thúc và tiền bạc của chúng ta cũng chẳng còn.
Nói khác đi, Chúa Giê-xu chỉ đặt lời truyền dạy mà Ngài vẫn thường hay
nhắc đi nhắc lại luôn vào trong một phần hình thức mới mẻ, hấp dẫn hơn là
đừng có bo bo giữ của (Mat Mt 6:19-21) đừng tự mình phung phí nó, mà
phải dùng nó để làm điều thiện (ITi1Tm 6:17-19), nhất là đối với những
người thuộc về Đức Chúa Trời đang nghèo thiếu (Mat Mt 25:40; ChCn
19:17). Làm như thế, tức là chúng ta đầu tư nó trong thiên đàng và cất giữ
nó vào nơi an toàn sẽ tồn tại mãi mãi (Mat Mt 19:21,29). Lời truyền dạy này
của Chúa Giê-xu đã được những người nghe Ngài hiểu rõ, và câu mười bốn
sau đó đã chứng minh. trong câu này, chúng ta được bảo cho biết là người
Pha-ri-si, vốn là những kẻ tham tiền, nghe mọi điều đó, bèn chê cười Ngài.
Thế là điểm khó khăn thứ ba và cuối cùng đã tan biến, và khúc sách này nổi
bật hẳn lên dưới làn ánh sáng quang vinh, truyền dạy thật mạnh mẽ một bài
học mà thời đại của chúng ta rất cần phải học hỏi, rằng sử dụng tiền bạc là
một công tác quản lý, rằng kẻ nào dùng nó để hưởng thụ cho hiện tại ngắn
ngủi này mà không sử dụng nó thế nào để nó có thể đem đến lợi ích cho
mình suốt cõi vĩnh hằng, là một kẻ vô cùng dại dột; và ngay đến “con cái đời
này” chỉ có một chút khôn khéo mà thôi, cũng quở trách kẻ ấy.