Professional Documents
Culture Documents
Tác giả: Steve Barker, Judy Johnson, Rob Malone, Ron Nicholas, Doug
Whallon
TỰA
Thượng Đế vẫn thường xuyên tân trang Hội thánh Ngài. Nếu thế gian cứ
luôn biến đổi thì các nguồn tài nguyên của công binh xưởng thuộc linh của
Thượng Đế vẫn bất biến. Cầu nguyện, đức tin, Kinh điển, tình yêu thpưng và
sự thờ phượng là những cột trụ của sự phục hưng. Trải qua mọi thời đại,
Thượng Đế vẫn tập họp dân Ngài lại để họ được từng trải sự hiện diện của
gài, tiếp nhận các ân tứ, đem Phúc âm đến cho nhiều người khác và tái
khẳng định sự hiến thân của họ. Như trước giả thư Hy-bá vạch rõ: “Hãy lưu
ý khích lệ nhau trong việc yêu thương, tương trợ và làm đủ các việc lành
Đừng xao lãng việc nhóm họp như một số người thường làm nhưng hãy
jhuyến khích nhau, nhất là lúc này, vì Chúa gần trở lại” (HeDt 10:24-25).
Quyển sách này ra đời từ sự hiến thân cá nhân và tập thể của chúng tôi để
phục vụ chi hội địa phương. Trong những năm gần đây, Hội thánh đã tái
khám phá được một trong những khối xây dựng phi thời gian của nguồn sinh
lực thuộc linh đó là các nhóm nhỏ (nhóm ít người). Cùng với giòng thủy
triều đang lên của mối quan tâm đến các nhóm nhỏ, chúng tôi xin nêu cao
ngọn cờ hướng tới điều tuyệt hảo. Những nhóm nhỏ như thế có thể là những
biểu hiện năng động của ân phúc và quyền năng của Chúa Cứu Thế Giê-xu
trong đời sống người ta. Khi nói “người ta”, chúng tôi không ngụ ý nói đến
số người hiếm hoi tưởng rằng họ đã hoàn tất đời sống thuộc linh của mình
rồi. Chúng tôi muốn đề cập tất cả những ai tự nhận mình vốn mong manh,
dễ vỡ và tội lỗi, nhưng đang tìm cách tăng trưởng để trở nên giống như Chúa
Cứu Thế.
Quyển sách này, cũng phản ảnh các từng trải của chúng tôi với tư cách một
nhóm nhỏ. Mỗi một người là một sự kết hợp của những tổn thương và những
hi vọng. Mỗi người chúng tôi đều được từng trải ân phúc thượng Đế trong
đời sống mình. Chúng tôi đã cùng nhau tăng trưởng trong quyền năng của
Chúa Cứu Thế Giê-xu được dẫn truyền qua trung gian một nhóm nhỏ năng
động. Chúng tôi đã khích lệ lẫn nhau và cùng được lợi ích nhờ tầm rộng của
các viễn cảnh và nhân cách của mình.
Thêm vào đó, mọi người chúng tôi đều tham gia các nhóm nhỏ tại các chi
hội nhà và công tác huấn luyện các nhóm nhỏ trưởng cho nhiều Hội thánh
khác nữa. Tất cả chúng tôi đều từng phục vụ trong ban tham mưu của Nhóm
Sinh Viên Cơ-đốc giáo Thông Công (Inter Varsity Christian Fellowship) ít
nhất cũng được mười năm, từ New England cho đến California.
Ron Nicholas, nhóm nhỏ trưởng của chúng tôi, là thành viên của Hội thánh
Di dân Liên hiệp (Colonial Congregational Church) tại Edima, Minnesota.
Steve Barker là mục sư cộng tác về cá nhân truyền đạo, giáo dục người đã
trưởng thành và quản trị của Hội thánh Trưởng lão Nguyên thủy (First
Presbyterian Church) tại Yakima, Washington, Rob Malone thuộc Hội thánh
trưởng lão Thống nhất Baverly Heights ở Pittsburgh, Pennsylvania. Judy
Johnson sinh sống ở Minneapolis, Minnesota và là thành viên của Hội thánh
theo truyền thống Luther Normandale, Dong Wallon giảng dạy chương trình
trường Chúa nhật cho người lớn tại Grace Chanel, Lexington,
Massachussetts.
Cách hiểu về nhóm nhỏ của chúng tôi đã bắt rễ vững chắc trong Kinh điển,
như toàn thể nội dung của quyển sách này sẽ chứng thực. Vì việc lãnh đạo
của những nhóm nhỏ như thế vốn có tính cách luân phiên, chúng tôi đã dành
nhiều chương trong phần một để giải mở các ý niệm then chốt về phương
pháp lãnh đạo thế nào cho có kết quả. Một khối gồm bốn chương (phần hai)
khải sát các thành tố trung tâm của sinh hoạt thăng bằng trong nhóm nhỏ.
Phần ba khai triển một chiến lược nhằm sát nhập các nhóm nhỏ vào sứ mạng
(truyền giáo) toàn diện của Hội thánh. Đoạn cuối cúng, tức phần bốn, cung
cấp một bảng đúc kết thực tiễn các ý niệm, các chiến lược và những trợ giúp
đặc thù.
Nguyện Thượng Đế ban cho bạn niềm vui được tham dự một nhóm nhỏ
năng động, biết hiến thân cho Chúa Cứu Thế Giê-xu của chúng ta.
BỒI DƯỠNG
Sau khi đã thảo bố cục cho một buổi huấn luyện tổ trưởng nào một tối nọ tôi
bỗng nhận ra là mình đã bỏ quên những điều ghi chú đó tại văn phòng. Tôi
trở lại để tìm vừa đi vứa càu nhàu: “Nếu có một trục trặc nào nữa, thì...” Đến
nhà thờ, thì ông mục sư đã chào tôi bằng câu: “Hôm nay, ông đến trễ!” Rõ
ràng hôm nay la2 một tối trọng đại.
Việc giảng dạy của tôi không được suông sẻ. Một số người torng tổ của tôi
giành nói quá nhiều, những người khác thì lại nói chưa đúng mức. Buổi tối
ấy đã là một trong những lần thất bại lớn. Tôi đã bỏ cả bữa ăn tối lẫn bữa ăn
trưa nên cảm thấy đói. Lúc trở về nhà, tôi bị nhức đầu. Chỉ gặm một quả táo,
tôi nghĩ lại chuyện buổi tối. Đầu tôi bớt nhức; tôi ăn mấy cái bánh bích quy,
bây giờ thì cảm thấy khỏe! Tôi đã hiểu ra tân thể tôi đã bị thiếu nhiên liệu.
Tôi cần thức ăn. Chúng ta cần các chất bổ dưỡng cho thân thể vừa để làm
việc tốt, đồng thời cũng để giữ thế quân bình về phương diện tình cảm.
Đời sống thuộc linh của chúng ta cũng vậy Thân thể thuộc linh cần thức ăn
bổ dưỡng để kết quả hầu chứng minh rằng chúng ta là môn đệ của Chúa Giê-
xu (GiGa 15:8). Nhóm nhỏ của bạn cần được nuôi dưỡng. Leland Eliason,
một giáo sư tại Chủng viện Bethel ở St.Paul có nói: “Ai hấp tấp lao vào chức
vụ mà không chịu học tập, sẽ bị khô cằn; còn ai hấp tấp lao vào học tập mà
không chịu sống chan hòa với tha nhân sẽ trở thành kẻ xa lạ”.
Chúa Giê-xu vốn thấy là các môn đệ Ngài cần đến lương thực thuộc linh.
Ngài đã tập trung dạy dỗ mười hai môn đệ, rồi sau đó, ban Đức Thánh Linh
tiếp tục dạy dỗ họ để họ cứ ở trong Ngài và kết quả (14:24, 25; 15:1-11) Các
môn đệ Chúa từ nhiều thế hệ về sau cũng tăng trưởng khi họ nhớ lại Chúa
Giê-xu và vâng lời Ngài.
Khuôn mẫu của Công vụ 2.
Chúng ta cũng muốn các môn đệ Chúa trong các Hội thánh của chúng ta
tăng trưởng và kết quả. Làm thế nào để các nhóm nhỏ có thể được bồi dưỡng
để phát triển như vậy? Cong Cv 2:42 cho chúng ta biết cách cộng đồng torng
Hội thánh nguyên thủy đã được nuôi dưỡng cho chức vụ: “Các tín hữu
chuyên tâm vâng giữ lời dạy của các sứ đồ, giao hảo (thông công) với anh
em, bẻ bánh tưởng niệm Chúa và cầu nguyện”. Tôi xin bắt đầu bằng phần
cuối của này, nghĩa là bằng sự cầu nguyện, và đi lần trở lên phần đầu.
“Các tín hữu chuyên tâm... cầu nguyện”
Sở dĩ sự cầu nguyện trở thành một phần của đời sống chúng ta, là vì Thượng
Đế đã dùng chính thần linh của Ngài chạm đến tâm linh chúng ta Ngài đã
kêu gọi chúng ta hạy bắt liên lạc với Ngài Khi cầu nguyện, chúng ta bước
vào các mối liên hệ về đặc quyền và trách nhiệm đó.
Sự cầu nguyện bồi dưỡng cho sự thờ phượng và tình yêu Thượng Đế của
chúng ta., Nó cùng nuôi dưỡng ý thức dấn thân của chúng ta vào những gì
chúng ta cầu xin. Nếu sự cầu nguyện thay đổi được nhiều sự kiện, thì có một
“điều” mà nó thay đổi nhiều nhất, đó là chính con người cầu nguyện.
Đọc những bài cầu nguyện như của Phao-lô trong thư Ê-phê-sô khiến chúng
ta có ý thức mạnh mẽ về tính cách vĩ đại của Thượng Đế và được quyền
năng cho đời sống. Bởi vì Thượng Đế vốn là tình yêu và đầy quyền năng,
cho nên chúng ta hướng về Ngài để cầu ngyuện, cầu thay và xin được tha
thứ. Chúng ta dâng lời cầu nguyện lên cho Đấng vốn là Vua của các vua,
Chúa của các Chúa, đã yêu thương và cứu chuộc chúng ta. Ngài đang chăm
lo săn sóc cho cả thế gian này. trong quá khứ, Ngài đã tận trung với Thượng
Đế. Ngài sẽ cứ tiếp tục làm như vậy. Ngài cũng mời gọi chúng ta tương giao
với Ngài. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi trong nhiều bài cầu
nguyện, có những lời thờ phượng! Và khi Thánh Linh thúc giục chúng ta
cầu nguyện chúng ta được bồi dưỡng bằng một mối liên hệ càng sâu nhiệm
hơn với Thượng Đế.
Trong tổ của bạn, hãy dành một thì giờ im lặng trước khi cầu nguyện, một
thì giờ đe9 nhận biết Thượng Đế là ai. Hạy để cho Thượng Đế phán dạy bạn
về tình yêu thương quyền năng và sự thành tín của Ngài, Ngài đang gnự
trong lòng chúng ta cho nên có thể phán dạy chúng ta khi chúng ta thưa
chuyện với Ngài. Hãy lắng nghe Ngài. Hãy để cho Ngài nuôi dưỡng tâm linh
bạn và sau đó, hãy đáp ứng lại thật trọn vẹn. Bạn sẽ thấy là tổ của bạn sẽ
nhanh chóng chuyển sang sự thờ phượng.
Trong khi cầu nguyện, Thánh Linh cũng nuôi dưỡng ý thức trách nhiệm của
chúng ta. Thật là khó dành thì giờ để cầu nguyện cho một ai đó, mà bản thân
tôi lại không đích thân trở thành lời đáp lại sự cầu nguyện ấy. nếu tôi cầu
nguyện cho một bà nào đó được nghe về Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì tôi có
sẵn sàng làm chính người sẽ nói về Ngài cho bà ta không? Nếu tôi cầu
nguyện cho nạn đói được giảm bớt trên thế gian này, tôi hà sẵn sàng làm như
mà không quyên trợ chi cả cho cứu cánh ấy hay sao? Khi tôi cầu nguyện thì
tôi phải tự vấn: Phải chăng tôi muốn Thượng Đế nhậm lời, mà bảnt hân tôi
khỏi cần phải dấn thân cống hiến gì cả? Hay tôi đang muốn thấy Thượng Đế
dùng tôi, để có thể qua tôi mà tác động vào các hoàn cảnh, vào những con
người?
“Xin nước Cha sớm thể hiện, ý Cha hoàn thành dưới đất” (Mat Mt 6:10).
Chúa CXứu Thế đang ngự trị trong một tân vương quốc. Những người theo
Ngài phải tiếp tục chứng minh, sự hiện diện của vương quốc ấy “dưới đất
như đã thực hiện trên trời”. Lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta rằng
chúng ta đang dự phần thực hiện ý chỉ Ngài, chớ không phải chỉ nói bằng
miệng mà thôi. Đức Thánh Linh nuôi dưỡng các hoài bão ấy trong lòng
chúng ta, để chúng ta có thể dâng chúng lên cho Đấng Toàn Năng, và để
chúng ta cũng có thể dự phần vào thân thể Chúa Cứu Thế để đưa vương
quốc của Ngài đến trên đất này. Lời cầu nguyện khiến chúng ta mở trọn vẹn
lòng mình ra để Thượng Đế có thể phán dạy chúng ta về các mối bận tâm
của Ngài và để chúng ta hiến thân hoàn toàn cho ý chỉ Ngài.
“Các tín hữu chuyên tâm...bẻ bánh”
Dường như việc bẻ bánh trong Hội thánh nguyên thủy vốn là một phần của
bữa ăn thân ái, bữa ăn cộng đồng. Trong hành động thônc ông với nhau này,
các tín hữu cùng kỷ niệm Chúa Giê-xu, không phải chỉ về việc Ngài cùng dự
tiệc với các sứ đồ, mà hơn nữa, là vì Ngài đã hi sinh chính mạng sống mình
để cứu chuộc chúng ta. Việc kỷ niệm này đưa chúng ta tới chỗ thờ phượng
mà đồng hời cũng nhắc nhở chúng ta rằng Đấng đã dọn bữa tiệc ấy cũng
chính là Đấng đang nuôi dưỡng đời sống chúng ta. Tiệc thánh kỷ niệm Cứu
Chúa hằng sống của chúng ta. Việc bẻ bánh là một phương tiện bởi đó
chúng ta là toàn thể thân thể để có được một đời sống sung mãn. Sự hiện
diện để cứu chuộc của Ngài nuôi dưỡng chúng ta bằng các ân tứ dồi dào,
khích lệ chúng ta hãy sống đúng với tư cách là những người theo Ngài.
Tiệc thánh cũng nhắc nhở chúng ta về đời sống và đức tin chung mà chúng
ta cùng chia xẻ trong Chúa Cứu Thế. Chúa Cứu Thế đã ràng buộc chúng ta
lại với nhau. Trong sự chết và sống lại của mình, Ngài đã nâng đợ, bảo tồn
chúng ta với tư cách một cộng đồng để hiến thân cho nhau cùng cộng tác với
nhau bất chấp mọi dị biệt, chăm lo cho các nhu cầu của nhau, cùng chiến
đấu để quán triệt chủ quyền của Chúa Cứu Thế đối với đời sống chúng ta.
Có thể tổ của bạn cũng muốn cùng ăn chung với nhau trong những buổi tông
công để được Thượng Đế nuôi dưỡng bằng việc cung cấp các thức ăn cho
chúng ta. bạn cũng có thể yêu cầu vị mục sư của các bạn đến dự buổi họp
mặt của nhóm nhỏ của các bạn để mọi người có thể cùng dự Tiệc Thánh.
Trong một số các Hội thánh, việc các bạn bẻ bánh (dự Tiệc Thánh) riêng cho
nhóm nhỏ các bạn mà thôi, là điều phải lẽ. Hoặc tổ của các bạn có thể cùng
ngồi lại với nhau trong ngày chúa nhật có Tiệc thánh để cùng ăn uống chung
trong bữa tiệc mà Chúa Cứu Thế đã dọn cho các bạn.
“Các tín hữu chuyên tâm... thờ phượng”.
Sự thờ phượng trong Hội thánh có cơ sở là sự hợp nhất của các Cơ-đốc nhân
với Chúa và với nhau. Sách Công vụ nhấn mạnh cách họ đưa tài sản cho
nhau. Tài sản riêng được cống hiến cho sự lợi ích của các tín hữu khác.
Chúng ta phải chia xẻ cho nhau những ài sản nào? Có thể là nhiều lắm. Họ
đông góp, hoặc là về phượng diện vật chất (tiền bạc, thực phẩm), tình cảm
chăm sóc, lắng nghe) hay trí thức (những cái nhìn thông tuệ, kiến thức, phản
ứng), bồi dưỡng cho sự tăng trưởng và phát triển của toàn thân thể. Các nhua
cầu vật chất mà chúng ta đáp ứng không phải chỉ có việc nuôi dưỡng thân
thể hay giảm bớt các nỗi lo âu, mà còn tạo ra một ý thức về an vui phúc lợi,
một ý thức rằng “có một ai đó đang lo lắng chăm sóc tôi”. Chúa Cứu Thế đã
đích thân đến với người ta để đáp ứng các nhua cầu.
Mọi người chúng ta đều có những nhu cầu tình cảm nữa. Khi chúng ta lắng
nghe người khác, trấn an họ, cùng tỏ ra phấn khởi với họ, tức là chúng ta lại
đem đến tình yêu thương của Chúa Cứu Thế cho họ một lần nữa. Việc làm
này làm giảm đi các nhuc ầu cận tiếp, đồng thời cùng nuôi dưỡng một sự tự
ý thức tích cực về bản thân, rằng “Thượng Đế yêu thươgn bạn như con cái
Ngài, ngay trong tình trạng hiện tại của bạn”.
Mark đến họp với nhóm nhỏ chúng tôi bằng thái độ trầm lặng và xa vắng
hơn thường lệ. Chiều nay, anh ta đã được thẩm định về công tác hằng năm.
Anh ta không bị đánh giá đặc biệt tiêu cực, nhưng chẳng bao giờ được lời
khen nào rõ rệt cả. Anh ta cảm thấy như bị thất bại. Anh ta không biết phải
làm gì khác hơn vì nghĩ rằng mình đã cố gắng hết sức cho công việc rồi. Tổ
của chúng tôi không thể làm gì được đối với việc đan1h giá công tác của
Mar hoặc thay đổi thái độ của anh ta đối với lần đánh giá này. Nhưng chúng
tôi có thể lắng nghe. Chúng tôi có thể săn sóc cho anh. Chúng tôi lắng nghe
những nỗi thất vọng và lo sợ của anh. Chúng tôi khẳng định với anh về
những gì chúng tôi đã thấy anh làm thật tốt, và những gì chúng tôi rất tán
thưởng nơi anh.Sau một chặp, ah có thể cảm thấy dễ chịu với vài tia hi vọng
rằng giá trị của con người anh không thể đem ra đánh đồng với việc người ta
muốn duyệt xét lại công tác của nah. Sau khi được các anh chị em trong
Chúa Cứu Thế an ủi, anh ta đã xóa đi được các ý nghĩ trong ngày, để được
bồi dưỡng bằng Lời Chúa. Khi nào chúng ta cảm thấy hài lòng về bản thân,
thì chúng ta rất sẵn sàng có được một sự sảng khoái mới. Chúng ta được tự
do để tăng trưởng. Chúng ta có thể chấp nhận những thách thức và những tư
tưởng mới đưa chúng ta đến chỗ tăng trưởng trong thân phận làm môn đệ
Chúa. Lắm khi các ý niệm mới có thể là khó hiểu cho chúng ta, nhưng một
nhóm nhỏ manh biết đoàn kết thì cũng biết dành thì giờ để tìm hiểu người
khác. Các cá nhâ torng nhóm nhỏ sẽ thường có nhiều cách nhìn khác nhau
vào nhiều vấn đề, ngay cả đối với Kinh Thánh nữa. và chúng ta có thể học
hỏi và tăng trưởng do các bối cảnh và từng trải dị biệt đó. Chúng ta sẽ thôi
đặt Thượng Đế và các đường lối hành động của Ngài vào một chiếc hộp.
Chúng ta tự nhận thấy mình được biết Ngài bằng những cách mới.
Có một phương pháp khác nữa để nhóm nhỏ nuôi dưỡng các tổ viên của
mình, là qua sự khẳng định và khích lệ lẫn nhau Trong khi chúng ta dành thì
giờ để cùng sinh hoạt với nhau trong nhiều bối cảnh (học hỏi, tâm sự, vui
chơi, làm việc), chúng ta sẽ thấy được các ưu khuyết điểm của nhau. Chúng
ta có thể khích lệ lẫn nhau để cứ tăng trưởng và mở rộng lãnh vực hoạt động.
Vì chúng tôi biết rõ Mark , chúng tôi có thể khẳng định các ân tứ và ưu điểm
của anh ta một cách cụ thể và chân thành, khi anh ta chán nản ngã lòng.
Nhiều khi chúng ta xem những gì chúng ta thực hiện được một cách tốt đẹp
như là chuyện hẳn nhiên mà hông thấy rằng đó chính là một ân tứ mà
Thượng Đế đã ban cho chúng ta nhằm phục vụ thân thể Chúa Cứu Thế.
Được một nhóm nhỏ bồi dưỡng cho có thể khiến chúng ta ý th1c được các
ân tứ của mình và giục giã ta sử dụng chúng cho Chúa, thoe đúng ý hướng
Ngài.
Suzanne đã bảo Bill: “Anh thật sự biết lắng nghe người khác, và dường như
nghe họ, anh nhìn thấy được lòng họ nhiều hơn là qua lời lẽ được nghe”. Bill
hỏi: “Vâng, nhưng không phải tất cả mọi người đều như thế hay sao?”
“Chúng ta thường tự cho là như thế, nhưng không phải tất cả mọi người đều
biết nghe và trả lời thật “tình cảm” như đanh đâu”. Và điều đó là đúng
Nhưng Bill đã chẳng bao giờ thấy rằng cách ăn ở ứng xử của anh ta là khác
người.
Giúp Bill nhìn thấy â tứ của mình khiến chúng tôi xem anh ta là một tổ viên
cần thiết cho tổ. Câu chúng tôi nói là: “Không, không phải tất cả mọi người
đều làm được như anh đâu, cũng không phải tất cả mọi người đều có thể là
anh Bạn vốn có một không hai, chúng tôi cần bạn, và Hội thánh thì cần bạn
thi thố các ân tứ của mình”. Nhóm nhỏ hoạt động nhằm gây dựng lẫn nhau
và vì cớ chức dịch (Eph Ep 4:12). Sữ thông công thật giữa các Cơ-đốc nhân
tạo ra sự tăng trưởng nơi người khác khi cúng ta tự đặt mình và các nguồn
tài nguyên của mình dưới quyền sử dụng của cả tổ và của Hội thánh.
“Các tín hữu chuyên tâm vâng giữ lời dạy của các sứ đồ”.
Bằng lời nói và nêu gương tốt của Ngài, Chúa Giê-xu đã dạy những người
theo Ngài phải sống như thế nào và tin gì. Các tín hữu đầu tiên của Chúa
Giê-xu đã chuyển lời truyền dạy của Ngài, để nhiều người khác cũng có thể
tin nữa (GiGa 17:20). Họ cũng nghiên cứu và truyền dạy Cựu ước, nhất là
những phần có liên quan đến Chúa Giê-xu. Ngày nay, chúng ta nhận thấy lời
truyền dạy ấy được tập trung vào Cựu và Tân ước, tức là Kinh Thánh Đó là
nguồn linh lương chủ yếu để nuôi dưỡng chúng ta. Đức tin và đời sống
chúng ta cũng được nuôi nấng và bồi dưỡng nhờ Lời Thượng Đế. Kinh điển
chỉ Chúa Cứu Thế cho chúng ta. Hễ chúng ta ở trong Ngài, thì phần kết quả
của chúng ta cũng mang lợi ích đến cho nhiều người khác.
Làm thế nào để bạn có thể hướng dẫn tổ của bạn vào việc nghiên cứu Kinh
điển hầu mọi người đến có năng lực để kết quả? Việc học hỏi nghiên cứu
Kinh Thánh gồm có 1. soạn bài, 2. giới thiệu việc học hỏi nghiên cứu, 3.
giúp việc thảo luận được dễ dàng bằng cách đặt nhiều câu hỏi, và 4. tóm tắt
phần thảo luận. Xin chúng ta hãy xem qua từng điểm một.
Soạn bài học.
Soạn bài là phần then chốt để được dễ dàng với nhóm nhỏ của bạn torng giờ
học hỏi nghiên cứu Kinh Thánh. Qua đó, chúng ta tự nuôi dưỡng mình và có
thể giảng dạy, giải nghĩa những khám phá của chúng ta, hoặc tích cực kiểm
soát được cả tổ. Chúng ta soạn bài trước để biết rõ phần tài liệu hầu hướng
dẫn những người khác thấy được các chân lý chủ yếu. Soạn bài trước giúp
chúng ta giữ cho cuộc thảo luận theo đúng hướng để nhận được các lời dạy
dỗ quan trọng của khúc sách. Các đề tài khác có thể cũng lý thú, nhưng chỉ
là những đề mục cho giờ uống cà phê mà thôi. Chuẩn bị trước giúp chúng ta
nắm vững những âu hỏi nào phải dùng để hướng chúng ta đến với các điểm
chính của việc nghiên cứu.
Nên cố gắng sử dụng một sách chỉ nam để nghiên cứu Kinh Thánh cho tổ
của bạn. Có rất nhiều sách tốt như thế hiện có sẵn (xem bảng liệt kê ở
chương mười bốn, nhan đề Các nguồn tài nguyên Bồi dưỡng). Các sách chỉ
nam định hướng và tập trung việc học hỏi nghiên cứu của các bạn. Ngoài ra,
bạn sẽ phải mất rất nhiều thì giờ nếu tự viết lấy một tập sách nghiên cứu tốt.
Một sách chỉ nam không triệt tiêu nhu cầu soạn bài. Bạn vẫn cần nắm thật
vững phần nội dung của khúc sách và chiều hướng học hỏi nghiên cứu. Các
bước sau đây sẽ giúp bạn soạn bài học Kinh Thánh cho nhóm nhỏ của mình
(cũng xem các gợi ý về việc soạn bài là hướng dẫn một buổi học Kinh
Thánh trong chương mười ba, các trang 140-141).
1. Cần thu thập các thông tin liên hệ đến bốic ảnh. Việc này có thể nhờ vào
hai nguồn: Một là quyển sách trong Kinh Thánh mà các bạn đang nghiên
cứu. Chú ý các luận đề chính, những từ ngữ được lặp đi lặp lại, các nhân vật
chính và các phần chính hoặc các trường hợp có thay đổi trong hành động,
và vân vân... hãy hình dung xem bối cảnh củ akhúc sách là gì. Hai là các
nguồn khác; Phần bối cảnh lịch sử góp nhặt được từ các sách khác trong
Kinh Thánh (thí dụ hãy đọc Công 16 khi nghiên cứu thư Phi-líp) và các bộ
Thánh Kinh Từ điển.
2. Nghiên cứu khúc sách lần đầu tiên, không cần xem sách chỉ nam. Trước
hết, chú ý số các nhân vật chủ yếu địa điểm, các nguyên nhân tạo ra hậ quả,
những từ ngữ được nhắc đi nhắc lại. Tự hỏi trong những gì bạn vừa quan sát
thấy, có điều gì là có ý nghĩa. Luận đề chính hay đề mục của khúc sách này
có thể là gì? ("Tình yêu thương của Thượng Đế là sức lực của chúng ta khi
gặp khó khăn"). Rồi hỏi: Khúc sách này có ý nghĩa gì cho con người ngày
nay? Cho nhóm nhỏ của tôi? Cho sinh hoạt của Hội thánh chúng ta? (Hãy
xem 4 dưới đây).
3. Sử dụng quyển sách chỉ nam của bạn và trả lời các câu hỏi. Bây giờ, bạn
đã khá quen biết và hiểu được khúc sách rồi, bạn có thể tìm xem các câu hỏi
giúp khám phá chân lý của khúc sách này như thế nào.
4. Soạn trước các mục tiêu của bạn. Khúc sách này có nghĩa gì cho tổ của
bạn? Nó có chân lý nào dành cho các tổ viên của bạn? Viết ra một mục tiêu
mà bạn có thể có khi nghiên cứu khúc sách này. Thí dụ “để phát triển việc
trao đổi càng cởi mở hơn trong tổ “hoặc” tìm xem Thượng Đế có thể ban
quyền năng gì cho nhóm chúng ta để chúng ta có thể bắt đầu vài công tác
hướng về phía người ngoài”
5. Dùng một loạt của câu hỏi để “khám phá, phát giác”. Thường thường, khi
nghiên cứu một khúc sách, chúng ta đặt ngay các câu h3i: “Bạn nghĩ gì về
điều này? hay “Có thể ứng dụng khúc sách này như thế nào cho chúng ta?”
Khi quá vội vàng đặt các câu hỏi về giải nghĩa và ứng dụng, chúng ta có thể
đi sai chủ điểm vì chưa khảo sát làm đủ cả khúc sách. Có ba bước trong việc
học hỏi nghiên cứu Kinh Thánh, là khảo sát, lý giải và ứng dụng. Chúng ta
phải khảo sát các sự kiện quan trọng trước khi chuyển sang việc đặt câu hỏi
tại sao điều này điều nọ là có ý nghĩa, tại sao điều này điều nọ là quan trọng
cho đời sống chúng ta.
Hãy nhìn vào các câu hỏi trong sách chỉ nam của bạn. Có những câu hỏi nào
là nhằm mục đích khảo sát? Lý giải? Ứng dụng? Có những câu hỏi then
choết nào dẫn tới chân lý chủ yếu? Nên nhớ là bạn cần đến cả ba loại câu hỏi
trên để đạt đến phần cốt lõi (trái tim) của khúc sách. Phải chắc chắn là bạn
rải đều các câu hỏi, để vừa giữ cho cuộc thảo luận được hào hứng, vừa có
thể đi đến phần ứng dụng trong trường hợp bạn bị thiếu thì giờ. Bạn có thể
nêu ra hai câu hỏi về khảo sát và lý giải và ứng dụng khác nữa (xem phần
nghiên cứu Công 2 trong chương Các nguồn tài nguyên để bồi dưỡng,
H,154-155).
6. Khai triển một phần dẫn nhập để đưa mọi người vào bài ọc, khiến họ tập
trung chú ý vào khúc sách, tình hình, các cảm thức của những người trong
cuộc (xem dưới đây).
7. Trong lúc soạn bài học, bạn nên cầu nguyện luôn cho chính mình và cho
tổ của bạn. Cầu xin Chúa giúp mọi người mở lòng ra để tiếp nhận sự dạy dỗ
của Lời Ngài. Cầu nguyện để bạn được tự do hầu hướng dẫn những người
khác và sẵn sàng mở lòng mình ra cho những cái nhìn xuyên suốt, thông tuệ
mới mẻ có thể có.
Phần dẫn nhập cho bài học.
Trong phần dẫn nhập của mình, bạn cần khiến cho mọi người phải chú ý và
giúp họ tham gia ngay vào việc học hỏi nghiên cứu. Những cách mở đầu sau
đây có thể gợi ý cho bạn:
“Trong Cơ-đốc giáo, có rất nhiều tổ. Họ thường có nhiều cách khác nhau để
thờ phượng, nhiều giáo lý khác nhau và nhiều quan điểm trái ngược nhau về
nhiều vấn đề. Tối nay, chúng ta sắp nhìn vào những điều cơ bản trong Cơ-
đốc giáo, khiến chúng ta cùng bị ràng buộc lại với nhau. Xin lật Êphêsô 1”
“Chúa Giê-xu từng can thiệp vaò mọi nếp sống của người ta. Hãy suy nghĩ
về một khu vực nào đó của cuộc đời các bạn mà các bạn không chắc chắn là
cần đến Chúa Giê-xu để Ngài nhìn bạn hành động - một công việc làm ăn,
cách bạn đối xử với các con rể, con dâu, các thái độ của bạn đối với kẻ
nghèo... hoặc người giàu. Chúa Giê-xu can thiệp như thế nào vào từng điểm
một của đời sống chúng ta? Hãy xem việc Chúa Giê-xu đã gặp gỡ một phụ
nữ có cách ăn ở không giống với cách ăn ở của Chúa Cứu Thế” (dẫn nhập
Giăng 4).
Nếu khúc sách là một cuộc đối thoại, hãy gợi ý các tổ viên thủ các vai và
đọc lớn tiếng lên. Hoặc bạn có thể dàn cảnh (bê cạnh một bờ hồ có người
câu, lưới cá hoặc làm việc gì đó) và mô tả nó cho cả tổ trong khi họ nhắm
mắt lại để tưởng tượng. (Bạn có thể sử dụng một số thông tin về bối cảnh).
Phần nhập đề của bạn phải giúp được cho mọi người nghĩ rằng: “Tôi muốn
biết nhiều hơn về câu chuyện này!”, “Hãy tiếp tục đi! “Đây là một vấn đề
hết sức quan trọng!”
Tạo dễ dàng cho phần thảo luận.
Là tổ trưởng, bạn không cần phải trả lời tất cả các câu hỏi, hoặc phải nói
thao thao suốt hai mươi phút về thế nào vấn đề giải hoà có liên hệ với việc
mua chuộc. bạn được đòi hỏi giúp những người khác khám phá ra những cái
nhìn xuyên suốt, thông tuệ trong Kinh Thánh. Muốn thế., bạn sẽ đặt các câu
hỏi, khuyến khích mọi người trả lời, thỉnh thoảng tóm tắt lại và trình bày
cách nhìn của bạn khi nào thích hợp. Lẽ dĩ nhiên bạn sẽ được cả tổ hỗ trợ
nếu mọi người đều sốt sắng cùng chia xẻ quyền lãnh đạo (hướng dẫn) của
bạn như chúng ta đã thấy ở chương 5.
Bạn sẽ thấy mình được trợ giúp nếu bắt đầu với cả tổ bằng các quy luật căn
bản sau đây:
1. Tiếp cận Kinh Thánh bằng tinh thần tươi mát sẵn sàng mở lòng mình ra
để học hỏi, như đối với một quyển sách hay nào.
2. Tránh việc dưa vào phần thông tin do các nguồn tài liệu bên ngoài, hãy để
cho chính văn bản (của Kinh Thánh) tự lên tiếng.
3. Trông tìm các câu trả lời của văn bản, chớ không phải là của người hướng
dẫn.
4. Bám sát khúc sách đang khảo sát.
5. Phấn đấu để có sự tham gia đồng đều, cân bằng.
Nhấn mạnh các quy luật hướng dẫn này cho cả tổ ngay bài học đầu tiên và
thỉnh thoảng nhắc lại trong các tuần lễ sau đó. Những điều này gợi cho cả tổ
một ý niệm về các hoài bão và cũng dùng làm nền móng nếu bạn cần trực
diện với một vấn đề sau này (như những vấn đề có bất đồng ý kiến).
Sau đây là một số các gợi ý khác gúp co phần thảo luận được dễ dàng:
1. Đặt câu hỏi, đừng thuyết giảng.
Đưa ra một vài nhận xét sâu sắc của bạn, nếu việc làm ấy có giúp ích. Tuy
nhiên, đừng trả lời chính các câu hỏi bạn đã đặt ra nếu mọi người đều im
lặng. Lặư lại một câu hỏi nếu cần. Bạn không cần phải nói hết tất cả những
gì mình đã tìmr a khi soạn bài. Mọi người sẽ không thể nào phát giác được
mọi điều chỉ sau ba mươi hoặc bốn mươi phút thảo luận trong khi bạn đã
phải bỏ ra hai tiếng đồng hồ soạn bài để khám phá ra chúng! Nên đặt những
câu hỏi vượt quá cách trả lời bằng Có hoặc Không Có thể bạn cần lặp lại
một câu hỏi y như trong sách hướng dẫn của mình.
2. Để cho nhiều người cùng trả lời một câu hỏi bằng cách mở đường cho
những người khác: “Thế các bạn khác có thấy gì khác không?” “Có bạn nào
có ý kiến gì thêm không?”
3. Chấp nhận các câu trả lời bằng cách chăm chú lắng nghe. Cần xác nhận
một câu trả lời đúng dầu bạn có nói ra thành lời hay không: “Phải!”
“Đúng!” “Cá m ơn, điều này rất bổ ích!” Gật đầu mỉm cười, nháy mắt - tất
cả các cử chỉ ấy đều khuyến khíhc mọi người tham gia.
4. Khích lệ tất cả mọi người tham gia. Có thể bạn cần yêu cầu các tổ viên ít
nói đọc một khúc sách hoặc một bảng liệt kê số người đã được đề cập. Có
một lý do cho việc học tập theo tổ, là khiến cho mọi người đều phấn khởi.
Phải chắc chắn là tất cả moị người đều hiểu điều này. Với những người nhạy
miệng hơn, thì có khi câu nói sau đây cũng có thể giúp ích: “Xin chúng ta
hãy dành cơ hội cho những bạn từ nảy đến giờ vẫn chưa có dịp bày tỏ ý
kiến” Hãy nháy mắt với những người ít nói và ít nhìn vaò số người “mau
miệng” hơn. Rất có thể họ vẫn đóng góp, bất chấp việc bạn chẳng cú ý gì
đến học.
Có lần trong một cuộc họp bạn trị sự, người hướng dẫn là Joanna yêu cầu
một người tình nguyện đứng lên chào mừng quan khách nhân một kỳ lễ sắp
đến. Một vài người trả lời với các lý do tại sao họ không thể làm việc ấy.
Cuối cùng, Marisue nói: “Tôi thấy khi đưa ra lời yêu cầu, chị Joanna đã nhìn
vào tôi, nên tôi biết là chị ấy muốn cho tôi làm công việc ấy. Nhưng vì tôi sẽ
dẫn nhiều người nữqa cùng đến, cho nên tôi nghĩ là mình không thể nhận lời
“Mọi người chúng to6i đều cười lớn khi chị Joanna nhìn nhận ý nghĩa của
cái nháy mắt của chị. Cái nháy mắt muốn nói rằng tôi đang lắng nghe hoặc
đang sẵn sàng nghe bạn nói đây.
5. Bám sát những góp ý và những câu trả lời cho vấn đề đặt ra về khúc sách
và trong hiện tại được càng nhiều bao nhiêu, càng hay bấy nhiêu (xem các
quy luật cwn bản ở trên).
6. Đẩy nhanh tốc độ đặt các câu hỏi sao cho bạn có thể kết thúc đúng giờ
cho phép. Cần chú ý trước các câu hỏi mà bạn có thể bỏ đi nếu bị thiếu thì
giờ. Giữ đúng giờ là quan trọng vì bạn sẽ cần có thì giờ cho các thành tố
khác nữa của sinh hoạt tổ, và sau đó mọi người có thể cũng cần thì giờ để
hứa nguyện cống hiến nữa.
Tóm tắt cuộc thảo luận.
Xuyên suốt cuộc thảo luận, thỉnh thoảng cần có những phần tóm tắt, Chúng
ôn lại những gì đã được nói từ trước cho đến điểm ấy. Thường thường, khi
có nhiều người cùng trả lời một câu hỏi, có những ý kiến khác nhau khiến
người ta chú ý, và điểm chính có thể bị lẫn lộn hay quên mất đi. Việc tóm tắt
giúp mọi người ôn lại và kết hợp các ý niệm chính yếu lại với nhau để nối
liền vào khúc sách đang nghiên cứu.
Các phần tóm tắt cũng giúp chuyển ý nữa “Chúng ta thấy thế nào Chúa Giê-
xu đã hầu hạ các môn đệ Ngài bằng cách rửa chân cho họ, cũng sống chan
hòa với họ để dạy bảo họ. Bây giờ chúng ta haỵ xét xem Ngài cầu nguyện
cho họ như thế nào”. Những câu nói như thế giúp chúng ta thấy các sợi dây
kết hợp các phần nhỏ lại với nhau mà vẫn giữ được sự tập trung chú ý của
chúng ta.
Một phần tóm tắt cuối cùng về những gì chúng ta đã nhận thấy và lý giải có
thể dẫn đến phần ứng dụng Việc này cũng khiến mọi người tập trung chú ý
vào luận đề chính, để phần ứng dụng của chúng ta nảy sinh từ những gì vừa
được nghiên cứu.
Trong khi chờ đợi có nhiều người khác đảm nhận các vai trò lãnh đạo (nhóm
nhỏ trưởng), bạn có thể nhận ra và khích lệ những ai mà bạn thấy là có ân tứ
đó”. Bạn Chris này, tôi thường thấy là bạn rất chăm chỉ lắng nghe. Thế bạn
có thể tóm tắt những gì bạn đã được nghe chúng ta nói về vấn đề này
không?”
Nếu bạn đã tận tụy đảm nhận một loại hành động nào đó với tư cách cá nhân
hay nhân danh cả tổ, thì đồng thời, điểm quan trọng là phải có một ai đó cắt
đặt cho từng người một phải làm một việc gì đó và nêu ra nhiều chi tiết mới
để ai nấy đều hiểu rõ các trách nhiệm và hoài bão của mình.
Cuối cùng, ở đoạn kết thúc, một phần tóm tắt, điều thường rất hữu ích là nếu
bạn có thể đưa ra một cái nhìn tổng quan vắn tắt hay một lời dẫn nhập cho
bài học tuần sau. Việc này sẽ giúp mọi người muốn lại đến với một vài trông
mong nào đó (trong chương Các nguồn tài nguyên cho người tổ trưởng có
một bố cục để soạn một bài dạy (học) Kinh Thánh).
Những phương pháp học hỏi nghiên cứu khác có thể chọn.
Phần lớn thì giờ bồi dưỡng cho nhóm nhỏ của bạn phải dành cho việc học
hỏi nghiên cứu. Nhưng tổ của bạn cũng có thể dùng sách, băng ghi âm, ghi
hình) đĩa hát, phim ảnh và vân vân. Các phương tiện này có thể xen kẽ vào
các loạt bài học Kinh Thánh để có sự thay đổi. Một tổ có thể nghiên cứu
sách Giô-na, rồi trong buổi họp mặt tuần sau thì thảo luận về một cuộn băng
(ghi hình, hoặc ghi âm) dành một tuần khác cho một vấn đề xã hội, rồi lại
bắt đầu một loạt các bài học Kinh Thánh khác (xem đoạn về Nguồn tài
nguyên bồi dưỡng để thấy nhiều ý kiến).
Sử dụng các nguồn tài nguyên ấy thì không có nghĩa là bạn khỏi cần phải
chuẩn bị trước. Cũng đọc cho nhau nghe một quyển sách nhỏ cũng có thể là
bồi dưỡng rồi. Nhưng phần thảo luận rất bổ ích, và nên bắt đầu giờ thảo luận
bằng cách đặt câuy hỏi: “Vậy các bạn nghĩ sao?”, là một cách bấm nút mà
chẳng cần gì phải giải thích dài giòng. Cũng như bạn đã làm với bài học
Kinh Thánh, cần viết ra các ý chính mà tác giả (hay diễn giả) đã trình bày.
Chúng được kết hợp lại với nhau như thế nào? Ý nào có vẻ là ý chính được
truyền thông xuyên suốt cả quyển sách (hay bài giảng)? Rồi bạn cũng cần
soạn trước các câu hỏi để kích thích cuộc thảo luận về các luận đề chính.
1. Vạch ra từng ý chính một và hỏi xem tác giả (hay diễn giả) đã trình bày và
hậu thua0n cho các ý ấy như thế nào. Những câu trả lời có thể đượcf đưa ra
nhiều nhất, sẽ là các văn bản Kinh Thánh, các tác giả khác, những công trình
sưu tầm nghiên cứu, các gương tốt và những thí dụ minh họa. Bảo tổ của
bạn hãy liệt kê chúng và bênh vực, hậu thuẫn cho một ý nào đó.
2. Lưu ý các ấy phù hợp với bức thông điệp toàn diện của Phúc âm như thế
nào. Có những ý nào được bênh vực mà bạn còn thắc mắc hay không? Ý
nào? Và tại sao?
3. Tìm luận đề của phần trình bày củ angười ấy. Có lời đáp nào cho điều mà
người ấy thắc mắc không? Nó như thế nào? Bạn muốn trả lời thế nào cho
những gì mình vừa được nghe?
4. Dùng nhiều câu hỏi đặc thù (rõ ràng) cho những tư tưởng riêng biệt mà
các bạn muốn thảo luận.
Thượng Đế đã ban cho nihều người sự khôn ngoan và tài năng để truyền
thông cho chúng ta bằng lời nói, âm nhạc hoặc sách báo; hãy chọn những đề
mục và tài liệu thật rõ ràng, phù hợp với tổ của bạn.
“Các tín hữu chuyên tâm vâng giữ lời dạy của các sứ đồ, giao hảo với anh
em, bẻ bánh tưởng niệm Chúa và cầu nguyện”.
Khi đọc câu này, có lẽ bạn tự nhủ: “Tôi hiểu việc học hỏi nghiên cứu là phần
bồi dưỡng, nhưng há không phải việc thờ phượng bằng cách cầu nguyện -
chính các thành tố mà ông gọi là “khác” - của sự giao hảo (thông công) cũng
có hiệu quả là bồi dượng hay sao?” Câu trả lời là vừa có vừa không. Có, vì
quả thật chúng là những “thành tố khác” của sinh hoạt tổ. Nhưng Không vì
chúng không phải là các phương diện cá biệt của một tổ. Sở dĩ chúng tôi
phân biệt chúng là nhằm chủ đích thảo luận, nhưng chúng vốn bất khả phân
ly trong đời sống chúng ta Ngay đến những gì chúng ta làm như chu toàn sứ
mạng đối với tha nhân, cũng bồi dưỡng cho chúng ta nữa, vì càng yêu
thương nhiều thì chúng ta càng tăng trưởng thêm.
Trong các nhóm nhỏ, mọi người đến với nhau bằng việc tác động lẫn vào
nhau một cách năng động. Chúng ta cùng tăng trưởng, cùng chia xẻ cho
nhau; chúng ta đáp ứng bằng sự thờ phượng và vâng lời Tất cả đều họp lại
để tạo thành một nếp sống của những tín hữu đang được nuôi nấng, bồi
dưỡng để noi theo Chúa Cứu thế. Các tín hữu nguyên thủy đã dấn thân sống
theo nếp sống tập thể đó.
SỰ THỜ PHƯỢNG
Trước nhất, chúng ta thờ phượng Thượng Đế vì Ngài xứng đáng cho chúng
ta ca ngợi tán tụng và tôn vinh. Thế nhưng sự thờ phượng cũng có thể thay
đổi cuộc đời của chúng ta nữa.
Phần lớn Cơ-đốc giáo là những lời dạy được nhấn mạnh bằng câu “Phải”.
Chúng ta phải yêu nhau, phải sống thành một cộng đồng, phải làm chứng
đạo, phải vâng lời Thượng Đế Nhưng điều gục giã tôi phải vâng lời, làm
chứng đạo, phải sống giao hải với nhau (thành một cộng đồng) vốn không có
nghĩa là “tôi phải” nhưng có nghĩa là “tôi muốn” một khi chúng ta đã được
giục giã từ trong lòng chớ không phải chỉ vì bổn phận, thì chúng ta sẽ nhiệt
thành trong đời sống và hành động.
Khi đọc Tân ước, tôi rất ngạc nhiên khi thấy sinh hoạt của Hội thánh một
phần lớn dường như là hậu quả tự nhiên của từng trải thờ phượng của họ.
Tôi thấy có ít lời khuyến giục hãy làm chứng đạo, làm chứng đạo, làm
chứng đạo. trái lại, sở dĩ Hội thánh tăng trưởng và tưởng hành là nhờ từng
trải thờ phượng Thượng Đế của mình.
Trong mấy chương đầu sách Công vụ, chúng ta thấy từng trải của sự phục
sinh đã dẫn đến việd thờ phượng, rồi sau đó là nhiệt tâm làm chứng đạo và
sống đạo trong thế gian. Nhận biết được Thượng Đế vĩ đại là dường nào
khiến chúng ta “muốn” làm chứng đạo và vâng lời Ngài với tư cách là Chúa,
là Chủ mình Các môn đệ của Chúa Giê-xu quá hãi hùng về sự sống lại của
Ngài, đã từ bỏ tất cả mọi sự để dành thì giờ cầu nguyện sau khi thấy Ngài đã
về trời với Đức Chúa Cha. Khi Đức Thánh Linh giáng lâm vào ngày lễ Ngũ
tuần, nhóm những người lời ca ngợi tán tụng và làm chứng về Ngài. họ vô
cùng phấn khởi về những gì Thượng Đế đã làm trong Chúa Cứu Thế. Họ tin
quyết rằng Thượng Đế của họ thật xứng đáng để được ca ngợi tán tụng và
tôn vinh và họ hăng say truyền giảng tin mừng về việc Chúa Giê-xu đã sống
lại.
Lúc con trai tôi bị mất cắp chiếc xe đạp ngay trước mặt nó (chúng tôi biết ai
đã làm việc ấy nhưng không chứng minh được), giờ thờ phượng của nhóm
nhỏ tôi đã có ý nghĩa rất nhiều cho tôi. Cùng tập trung nhìn vào Thượng Đế
với nhiều người kha1c, đã cho tôi có một cách nhìn khác hẳn. Tôi thấy rằng
trong chúng ta đang sống trong một thế giới sa bại, tin mừng được nhận biết
Thượng Đế là tốt lành hơn tất cả những gì khác mà đời sống đã đem đến. Sự
thờ phượng của tổ chúng tôi đã thay đổi hẳn thái độ của tôi đối với tên trộm
kia.
Sự thờ phượng có thể thay đổi đời sống một người. Nó có thể thay đổi sinh
hoạt của một tổ. Khi cùng nhìn chăm vào Thượng Đế chúng ta trở thành dân
Ngài trong thế gian này. Các nhóm nhỏ thành công cũng giống như Môi-se
với dân Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc Môi-se nói: “Nếu chính mình Ngài
chẳng đi xin đừng em chúng tôi lên khỏi đây” (XuXh 33:15). ông vốn biết
rằng hiện diện của Thượng Đế đã khiến họ trở thành độc nhất vô nhị (c.16).
Các tổ tốt sẽ chẳng bao giờ chịu bước tới một bước nào nếu không có sự
hiện diện của Thượng Đế.
Làm thế nào để các nhóm nhỏ ý thức và từng trải được sự hiện diện của
Thượng Đế? Cũng thờ phượng với nhau là một phương pháp thn chốt. Đó là
thì giờ để nhóm nhỏ tự trò chuyện với nhau về những hành động vĩ đại của
Thượng Đế. Sống trong một thế gian hỗn loạn, đầy đau khổ và gian ác,
chúng ta cần nhớ lại xem ai là người đang thực sự chịu trách nhiệm về vũ trụ
này. Như thế, sự thờ phượng sẽ khiến chúng ta tươi tỉnh và an ủi chúng ta.
Thờ phượng là tôn vinh Thượng Đế.
Tuy cả tổ được lợi ích nhờ sự thờ phượng, mục đích của chúng ta là tôn vinh
Chúa chúng ta và Thượng Đế. Chúa Cứu Thế phải là tâm điểm của đời sống
chúng ta với tư cách cá nhân, và Ngài cũng phải là trung tâm điểm và Ngài
cũng phải là trung tâm của đời sống chúng ta với tư cách một tổ.
Trong Giăng 4, Chúa Giê-xu giảng dạy cho một phụ nữ người Sa-ma-ri về
sự thờ phượng. Dường như bà ta muốn nói về một thứ thần học trừu tượng,
nhưng Chúa Giê-xu lại đi thẳng vào vấn đề cần thảo luận Ngài nhấn mạnh
hai điều về sự thờ phượng.
Một là, Thượng Đế đang mong có người thờ phượng Ngài (GiGa 4:23).
Chính Ngài đã chủ động đi bước trước. Ngài đang mong chúng ta đến để thờ
phượng Ngài Ngài muốn chúng ta nhận biết Ngài - và một khi đã nhận biết
Ngài rồi, thì chúng ta sẽ thờ phượng Ngài.
Hai là Thượng Đế muốn chúng ta thờ phượng Ngài với lòng chân thành và
do Thánh Linh hướng dẫn. Thượng Đế quan tâm đến tấm lòng của chúng ta
hơn là bất cứ một hình thức thờ phượng đặc trưng nào mà chúng ta tự nghĩ
ra Nhận thức được điều đó sẽ khích lệ chúng ta trong sự thờ phượng. Ngài
nhìn thấy phần tinh thần của việc chúng ta đến gần Ngài.
Cùng thờ phượng chung.
Các nhóm nhỏ trưởng cần giữ cho sự thờ phượng phù hợp với các cá nhân
và với chính tổ của mình. Có một phương pháp là giữ sao cho sự thờ phượng
trở thành một phần chính thức của các thành tố khác trong sinh hoạt của
nhóm nhỏ. Thí dụ, sự thờ phượng có thể là phần mở đầu cho giờ bồi dưỡng;
bạn có thể hướng dẫn cả tổ hát một thánh ca tập trung vào Thượng Đế để
dẫn tới bài học Kinh Thánh. Hay nếu tổ của các bạn vừa khám phá ra được
một điều mới mẻ gì đó về Thượng Đế. thì họ có thể dành ra một khoảnh
khắc để đáp lại bằng việc ca ngợi tán tụng Ngài Sự thờ phượng cũng có thể
đưa toàn tổ vào một tình trạng thông công trước lúc ra đi thực hiện một sứ
mạng nào đó. Chúng ta được thấy Hội thánh nguyên thủy cầu nguyện trong
Cong Cv 2:24-31. Sau khi họ cầu nguyện và ca ngợi tán tụng Chúa, họ đã
mạnh dạn đi vào trong thế gian. Sự thờ phượng có thể đi vào trong thế gian.
Sự thờ phượng có thể là phần tinh túy buộc chặt chúng ta ra để thi hành công
tác cho nước Trời.
Thượng Đế đã sáng tạo chúng ta như những con người tự nhiên có óc sáng
tạo, và sự thờ phượng của chúng ta phải phản ảnh tinh thần sáng tạo đó nếu
chúng ta biết lợi dụng tính cách đa dạng của nhóm nhỏ. Là người lãnh đạo
một nhóm nhỏ, bạn có thể góp phần làm cho tinh thần sáng tạo và tính cách
đa dạng đó đâm hoa kết quả bằng cách khích lệ nó. Có lẽ bạn rất cần những
gợi ý, và bạn sẽ có được khá nhiều trong đoạn về các nguồn tài nguyên cho
sự thờ phượng trong chương mười lăm, các trang 161-162. Nhiều nhóm nhỏ
đã tự sáng tác lấy những bài Thi thiên, nhiều lời ca mới cho những bài hát và
thánh ca quen thuộc được ưa chuộng, lại còn sáng tác cả những bài thơ, bài
nhạc để thờ phượng Chúa nữa. Hãy thử xem!
Lẽ dĩ nhiên là thờ phượng có thể vượt hẳn việc chỉ hát thánh ca và cầu
nguyện suông. Nhiều tổ còn khiêu vũ cả trong giờ thờ phượng nữa. Định
chuẩn cho sự “thành công” là Chúa có được tôn vinh hay không. Kinh điển
cho chúng ta biết rằng các tín hữu trong cả Cựu lẫn Tân ước lắm khi còn sử
dụng toàn thân họ để thờ phượng nữa. Họ nhảy múa, quơ tay, và quỳ gối sắp
mặt xuống trước Thượng Đế. Nhiều người trong chúng ta còn phân vân
trong việc sử dụng thân thể mình các tổ trưởng cần phải nhạy cảm đối với tất
cả các tổ viên nào gợi ý về những hình thức thờ phượng mới lạ.
Mọi người chúng ta đều quen thuộc với những cách thờ phượng Thượng Đế
đặc thù mà mình đã góp nhặt được từ nhiều bối cảnh khác nhau. Nếu chúng
ta không nghe, không thấy những gì mình đã quen nghe quen thấy thì cảm
thấy khó chịu. Càng tộ hại hơn nữa, là chúng ta có thể nghĩ rằng một lối thờ
phượng khác lạ là không thuộc linh Nếu Karen có thói quen đưa tay lên trời
khi thờ phượng mà thấy Ruth không làm như thế, thì phải chăng điều đó có
nghĩa là Ruth không cảm thấy tính cách vĩ đại của Thượng Đế như Karen?
Đối với Ruth, việc đưa tay lên của Karen có thể có vẻ như muốn trình diễn
hoặc đóng kịch, chớ không phải là thuộc linh.
Chúng ta bị lầm to khi phê phán cách thờ phượng củ amột ai đó căn cứ vào
chính các tập tục của chúng ta. Là một tổ trưởng, bạn có thể tránh được rắc
rối bằng cách đưa vấn đề này ra thảo luận. Hãy nói ra những gì bạn thích và
tìm hiểu để học hỏi những sở thích của người khác. Hãy đề nghị cả tổ thỉnh
thoảng làm thí nghiệm với nhiều cách thờ phượng khác nhau sẽ gúp các tổ
viên ca ngợi tán tụng Thượng Đế càng rộng rãi, đầy đủ hơn mà không xúc
phạm đến bất cứ một người đang tham dự nào. Thí dụ các tư thế khác nhau
của thân thể có teh là một từng trải mới mẻ và hữu ích cho tổ của bạn khi cả
tổ đều cùng nhau tăng trưởng. Nếu có ai đó trong tổ của bạn thích một kiểu
thờ phượng đặc trưng nào đó mà lại không quen mắt đối với nhiều người
khác, hãy dành cho họ một cơ hội để hướng dẫn cuộc thờ phượng. Với tinh
thần chủ động đi bước trước và sự nhạy cảm của bạn, các tổ viên trong tổ có
thể thưởng thức được nhiều phương pháp thờ phượng khác nhau, sẽ kéo các
bạn đến gần nhau hơn trong Thánh Linh của Chúa Cứu Thế.
Nếu không có sự thờ phượng, các nhóm nhỏ của chúng ta sẽ không nhận
thức được phần quyền năng lớn lao đang dành sẵn cho họ trước hiện diện
của Thượng Đế. Với Thượng Đế giữa trung tâm của tổ, nguồn sinh lực sẽ
tràn lan ra cho cả thế gian. Chúng ta đọc thấy trong Công 17 rằng các Cơ-
đốc nhân nguyên thủy đã làm đảo lộn cả thế gian. Nguyện việc đó cũng trở
thành sự thật với lòng chân thành và do Thánh Linh hướng dẫn, khi chúng ta
dâng thân thể mình lên như những sinh tế sống, là sự thờ phượng thuộc linh
của chúng ta.
TINH THẦN CỘNG ĐỒNG (COMMUNITY)
Tôi cần những người mà khi gần họ, tôi cảm thông thân thiết, có thể tâm sự
với họ, và tôi thường xuyên cần điều này. Tôi vốn dễ dàng vấp ngã trong đời
sống làm Cơ-đốc nhân. Tôi cần những người khác nâng tôi dậy và đẩy tôi
tới. Tôi không thể sống cô độc theo Cơ-đốc giáo. Thật rất khó cho tôi khi bị
thách thức bởi thói quen của lặp đi lặp lại mãi của sự thờ phượng ngày Chúa
nhật, của các lớp học trường Chúa nhật với một số những người bạn xã giao
thông thường. Tôi cần một số người khác để có thể tâm sự với nhau. Để
phấn đấu với những vấn đề minh gặp và để thách thách thức nhau trăng
trưởng.
Gia nhập một tổ đang tiến hành chắc chắn sẽ nhận được một phần thưởng -
là các mối liên hệ để tăng trưởng. Càng từng trải nhiều bước thăng trầm qua
một thời gian, chúng ta có thể xây dựng các mối liên hệ thân thiết với nhau.
Một khi tất cả mọi người trong tổ đều biết rõ chúng ta, thì chúng ta sẽ được
họ nâng đỡ bồi dưỡng. Và qua họ, chúng ta đi đến chỗ tự biết mình. Chúng
ta học biết phải sống như thế nào cho tốt đẹp hơn trong Hội thánh, với tha
nhân, phải làm việc thế nào cho hoàn hảo hơn. Chúng ta học tập để làm
được tốt nhất những việc chúng ta vẫn chưa làm được tốt lắm.
Sự sống chung
Làm thế nào để các nhóm nhỏ của chúng ta phát triển được tinh thần cộng
đồng (mối giao hải thông công) như thế?
Muốn xây dựng tinh thần cộng đồng, người ta cần nhiều hơn là việc có
chung một đạo, chung những tín ngưỡng, và cần phải có nhiều thì giờ hơn là
cùng chơi trò lái xe điện với nhau, hoặc thậm chí là trò chuyện với nhau nữa.
Như chúng tôi đã nói ở chương ba, sự thông công, giao hảo với nhau, là sự
cống hiến cho nhau trên cơ sở là từng trải chung về những gì đang làm trong
chúng ta. Nó cũng giống như một gia đình nguyên vẹn, trong đó mọi người
đều tin cậy, tận tụy với nhau do cùng một sợi dây ràng buộc họ lại với nhau.
Sợi dây ràng buộc chúng ta là công lao cớu chuộc của Chúa Cứu Thế đối với
chúng ta.
Chúa Cứu Thế đã tha tội cho chúng ta Chúng ta là một dân mới. Lý lịch và
các mối liên hệ giữa chúng ta đều bắt rễ từ đó. Chúng ta đều bất toàn; chúng
ta chẳng tốt gì hơn những người khác. Chúng ta chỉ biết tin rằng Chúa Cứu
Thế đã tha tội cho chúng ta. Khi chúng ta nhìn thấy được táh ích kỷ, ngạo
mạn và khả năng có thể gây tổn hại cho người khác, chúng ta vẫn tiếp tục
cần đếnv à bám sát vào sự tha thứ này. Tin mừng này không những ảnh
hưởng đến các mối liên hệ giữa chúng ta với Thượng Đế, mà cả với tha nhân
nữa. Vì chúng ta thuộc về Nước Trời, chúng ta được tự do “liều mạng” trong
việc kết giao với người khác. Điều đó không phải là dễ dàng. Chúng ta thậm
chí còn có thể bị tổn hại nữa. Hoặc chúng ta cũng có thể bỏ rơi người khác.
Nhưng chúng ta vẫn còn có thể cố gắng một lần nữa.
Bởi vì Thượng Đế đã tiếp nhận tôi trong Chúa Cứu Thế, tôi cũng được tự do
tiếp nhận người khác như Ngài vậy. Đây không phải là lối tiếpư nhận kèm
theo điều kiện: “Bạn là người của chúng tôi nếu luôn luôn giống như chúng
tôi, có ích lợi và chẳng bao giờ gây thiệt hại cho chúng tôi”. Nhưng là một
cách để nói rằng: “Tôi yêu thương bạn có thể bạn vẫn còn làm những điều
dại dột. Tôi không luôn luôn tán thành điều bạn làm Nhưng tôi không muốn
can thiệp vào việc riêng của bạn. Chúng ta hãy xem nhau như người torng
cùng một gia đình”.
Chúa Giê-xu đã định nghĩa cho cái gia đình này khi Ngài phán: “Tất cả
những người làm theo ý muốn Thượng Đế đều là anh em, chị em và mẹ ta”
(Mac Mc 3:35). ở trong một gia đình thì hơn hẳn là chỉ liên hệ giao tiếp với
nhau. Nó có nghĩa là gắn bó thiết thân với nhau. Đối với các Cơ-đốc nhân,
đó là sự gắn bó thiết thân tích cực trong đời sống của nhau nhân danh Nước
Trời Nhiều khi các tổ chú trọng vào việc thiết lập nếp sống cộng đồng trong
các tổ của họ - các tổ cứu trợ, các tổ lo lắng chăm sóc, các câu lạc bộ những
người có vợ có chồng, và vân vân - mà bỏ qua việc làm theo ý chỉ Thượng
Đế. Làm như thế thì tổ của họ sẽ chẳng bao giờ đạt được thế cân bằng.
Nhưng cũng có nhiều khi khác trong đời sống, chúng ta cần có những tổ chú
tor5ng vào nếp sống cộng đồng. Một qiả phụ mới mất chồng cần có một tổ
cứu trợ, một cộng đồng các tín hữu ở bên cạnh để nâng đỡ mình trong thời
gian chuyển tiếp ấy. Và như chúng ta đã thấy trong chương 6, khi một tổ
mới bắt đầu họp mặt thì thiết lập nếp sống cộng đồng phải là điểm cần thiết
phải tập trung chú ý. Người ta cần hiểu biết nhau trước khi có thể cùng dấn
thân vào một kế hoạch hành động lâu dài hơn. Do đó, lắm khi nếp sống cộng
đồng phải là thành tố chủ yếu. Nhưng chúng ta phải ghi khắc vào tâm trí
rằng cuối cùng thì chủ đích của chúng ta phải vượt khỏi việc chỉ tương trợ
lẫn nhau mà thôi.
Xây dựng nếp sống cộng đồng.
Chúng ta bảo những người cùng đi ăn điểm tâm, uống cà phê, chơi ném trái
lăn với nhau, là những người “chơi thân” với nhau. Những việc như thế có
thắt chặt thêm mối dây ràng buộc tổ của chúng ta hay không?
Nhiều tổ nhận thấy đó là những phương pháp chủ yếu để mọi người cùng
hiểu biết lẫn nhau. Tuy nhiên, con số những tách cà phê cùng uống với nhau
không phải là dấu chỉ chắc chắn cho thấy những người trong cùng một tổ
vốn thân cận và gắn bó với nhau như thế nào.
Thế thì chúng ta phải thật sự xây dựng nếp sống cộng đồng (thông công,
giao hảo) như thế nào?
1. Cần hiểu rõ nhau.
Trong một nhóm nhỏ, các bạn sẽ quen biết nhau khi cùng dự những buổi học
hỏi nghiên cứi Kinh Thánh, thờ phượng Chúa và cùng đi đến với người ngòi.
Nhưng bạn sẽ chẳng bao giờ biết được nhiều về một người nếu bạn chưa
vượt qua những câu nói xã giao như “Theo học lớp này, tôi được phước rất
nhiều”. Trình độ về tín ngưỡng, giá trị, các mối bận tâm và các cảm nghĩ
phải đi sâu hơn thế.
Trước hết, phải lập thời dụng biểu trong tổ của bạn để trong các buổi họp tổ
co1 thì giờ để các bạn cùng nói về chính mình. Lắm khi bạn quyết định làm
việc ấy giữa cả tổ. Nhiều khi khác, các bạn có thể chia nhau ra thành từng
đôi. Có một phương pháp, là thảo luận về cách ứng dụng đặc thù, cụ thể về
bài học Kinh Thánh của các bạn: Khúc sách ấy dạy tôi điều gì? Tôi sẽ phải
làm chi đây?
Các từng trải được sắp xếp có lớp lang sẽ giúp các bạn hiểu biết nhau rõ
ràng sâu sắc hơn một phần nào. Có lẽ bạn cầun bắt đầu buổi họp mặt thứ ba
hoặc thứ tư của tổ bằng cách nói: “Xin chúng ta hãy đi dạo quanh một vòng
để mỗi người 'báo cáo vể tình hình thơ2i tiết' nghĩa là mô tả điều mình đang
cảm thấy tối nay”. Các bạn có thể làm việc này theo định kỳ để biết mọi
người có cảm nghĩ như thế nào. Nó có thể thay đổi hẳn cả phần còn lại của
buổi tối của các bạn đấy!
Một ý kiến khác có thể cũng được các bạn lợi dụng mỗi tuần một lần
“Đường biểu diễn của đức tin” hay “Đường biểu diễn của sự sống”, tức là
một đổ thị cho thấy đức tin của mọi người đã tiến triển như thế nào qua một
số năm. Hãy dành mười lăm phút cho một hoặc hai tổ viên torng buổi họp
của các bạn để họ chia xẻ các đồ thị củ ahọ. Hoặc họ có thể làm chứng về
chính cuộc đời họ, về những bước thăng trầm và chuyến hành hương là cuộc
đời họ đã bị những điều đó ảnh hưởng đến như thế nào (xem Các nguồn tài
nguyên cho nếp sống Cộng đồng để có được nhiều ý kiến hơn).
Các từng trải đã được cơ cấu hóa ấy giúp các bạn được biết nhiều điều về
nhau trong một cuộc thảo luận thông thường ấy. Phải chắc chắn là mình đã
chọn các ý niệm phù hợp với giai đoạn hay trình độ dấn thân của cả tổ (xem
chương sau).
Thứ hai, hãy lập một thời biểu để gặp gỡ với các tổ viên ngoài giờ họp tổ.
Hãy gặp nhau trong một bữa ăn nhẹ hay một buổi tối nào đó. Các bạn sẽ cần
biết rõ nhau “tay đôi”, chớ không phải torng bối cảnh chung của cả tổ. Các
mối liên hệ tay đôi của các bạn càng vững chắc, thì tổ của các bạn sẽ càng
vững mạnh. Một đội (thể thao) sẽ chơi hay hơn khi các đội viên có thể chơi
tốt với từng người một (ăn ý nhua) trong đội.
Có lẽ bạn cần quyết định tìm một người bạn để cùng cầu nguyện với nhau,
một người để bạn thường xuyên tâm sự và cầu nguyện với nhau. Hãy chia tổ
của bạn ra thành những đôi bạn cùng cầu nguyện để mỗi người đều có cơ
hội được những lúc gặp gỡ tay đôi với nhau. Các bạn có thể luân phiên các
đôi cớ mỗi hai tuần một lần hoặc cùng kết đôi với một người vài tháng, rồi
sau đó mới đổi phiên.
Trong khih phần lớn thì giờ của các bạn sẽ được dùng cho buổi họp tổ
thườnt xuyên tại nhà riêng của một ai đó hoặc tại nhà thờ, tổ của các bạn sẽ
được khỏe mạnh hơn nếu các bạn thay đổi những công việc cùng làm chung
với nhau. Có thể chơi bóng chuyền. Sơn một phòng học của nhà thờ. Các
bạn cũng có thể thử cả việc cùng đi nghỉ cuối tuần với nhau. Sinh hoạt cộng
đồng cũng có thể được đẩy mạnh khi các bạn tổ chức công tác chu toàn sứ
mạng (đi ra với người ngoài, làm chứng đạo) cho tổ của mình. Tất cả các ý
kiến trên đều giúp cho các bạn hiểu biết nhau càng hơn để cảm thấy được tự
do thoải mái hơn khi cần thảo luận các ý kiến, các cảm nghĩ và các mối quan
tâm của tổ.
2. Chấp nhận và thưởng thức tính cách đa dạng.
Thiết tưởntg chẳng cần chi phải nói dài giòng để lưu ý bạn rằng mỗi người
trong tổ đều không giống y như bạn. Mọi người chẳng những chỉ “nhìn đời”
một cách khác nhau, mà còn suy nghĩ khác nhau và từng trải để diễn tả các
cảm nghĩ của mình một cách độc đáo, có một không hai nữa. Có một số
người có tài trình bày, diễn tả các ý niệm, người khác giỏi tóm tắt các ý kiến
của cả tổ. Có người khéo tiếp khách. Nhiều người khác có tài hướng dẫn
những giờ thảo luận trong việc học hỏi nghiên cứu Kinh Thánh. Có người
rất may miệng. Người khác lại phải suy nghĩ khá lâu trước khi phát biểu
Tôi đang cộng tác với Ron. Anh ta là một con người có khải tượng về ý
niệm, hằng ngày có đến nă, ý kiến mới. Anh ta muốn mỗi người chúng tôi
phải thử từng ý kiến một - ngay tức khắc. Anh ta có thể di chuyển các trang
thiết bị trong văn phòng mỗi ngày, nếu việc làm ấy giúp anh ta có được một
ý kiến mới. Còn tôi lại hay phân tích, cầu toàn, cẩn thận đến từng chi tiết.
Tôi muốn hiểu mọi ưu khuyế điểm của một ý kiến, sửa đổi lại khi có những
dữ kiện mới và phải biết trước hậu quả một khi chúng tôi bắt đầu Tôi cũng
thích xê dịch các trang thiết bị, nhưng chỉ khi nào có lý do và nếu chúng tôi
đã có kế hoạch cho việc di chuyển ấy.
Chắc các bạn sẽ bảo: “Các bạn thật là một đôi lý tưởng! Các bạn chắc phải
bổ sung thật tốt cho nhau”. Quả thật là có như thế, nhưng là phải sau vài
năm va chạm, xung khắc. Chúng tôi đã phải học tập chấp nhận các điểm dị
biệt và thấy ưu điểm của người kia trước khi có thể cộng tác êm xuôi với
nhau. Tôi hoan nghênh óc sáng tạo của Ron. Tôi rất cần đến nó. Còn Ron thì
phải học tập để làm việc theo mức độ mà tôi tán thưởng thật chi tiết các sáng
kiến của anh ta. Và điều đó phải cần có thời gian.
Tổ của bạn cần có thì giờ để những điểm dị biệt được bộc lộ và để chấp
nhận tính cách đa dạng Chẳng những chúng ta cần tán thưởng những dị biệt
mà còn phải học tập cách hòa lẫn các điểm dị biệt ấy của nhau nữa. Êphêsô
4 cho chúng ta biết các ân tứ của Đức Thánh Linh sở dĩ được ban cho là để
trang bị chúng ta cho chức vụ và xây dựng thân thể Chúa Cứu Thế. Cũng
vậy, tính khí, văn hóa và nhiều điều riêng biệt khác nữa của chúng ta có thể
góp phần để trang bị cho chúng ta. Tôi thường nghe có người bảo rằng: “Các
góc cạnh sắc nhọn của John đã bị mài mòn sau khi anh ta cưới Mary”. Sức
tương tác giữa một nhóm nhỏ có thể làm việc tương tự như thế cho mỗi
người chúng ta, nếu chúng ta sẵn sàng làm ba điều sau đây:
Một là, chấp nhận lẫn nhau trong tổ của bạn như đó là một công trình sáng
tạo của Thượng Đế, như một người đã được Thượng Đế tuyển chọn và yêu
thương. Có thể bạn va-n nghĩ rằng: “Thật là điều tốt khi Thượng Đế yêu
thương chị ấy như chính con Ngài, bởi vì tôi chẳng bao giờ có thể cảm thấy
như thế được. Chẳng hề có người nào có được những cảm nghĩ nồng hệu,
yêu thương đối với tất cả mọi người trong tổ. Bạn cần phải bắt đầu nói rằng
“Quả thật người này suy nghĩ khác hẳn tôi. Tôi rất khó đồng cảm được với
một người như thế. Nhưng dầu sao anh ta cũng là một người được Thượng
Đế sáng tạo và yêu thương, mà tất cả chúng ta đều là con cái Thượng Đế”.
Hai là, chấp nhận những điểm dị biệt. Chúng ta thường thích những người
giống mình, trong khi những người khác ta lại khiến chúng ta cảm thấy
không thoải mái. Thế nhưng những điểm dị biệt có ảnh hưởng sâu đậm các
mối liên hệ của chúng ta. Chúng đã có mặt ở đó rồi, cho nên chúng ta cần
phải chấp nhận. Có ai trong tổ các bạn hay lý thuyết dài dòng không? Phải
chăng họ rất khó liên kết Kinh điển với đời sống? Phải chăng cũng có những
người khác lại rất thực tế, cảm thấy rất khó lý giải các sự kiện trước khi ứng
du5ng vào chính tình hình của họ?
Ba là, cần thừa nhận các ưu điểm. Chúng ta rất thường sa vào phản ứng tiêu
cực đối với một ai đó, khiến chúng ta không thấy được các phương diện thật
sự hữu ích nơi con người ấy. Phyllis thêm được gì cho tổ chúng tôi? Chị đã
giúp được gì cho cả tổ, cho từng người, cho sự thăng tiến, học tập hay công
tác nhằm chu toàn sứ mạng của chúng tôi? Nếu bạn không làm được điều
đo1, hãy để cho những người khác trong tổ giúp cho bạn. Rất có thể là cả tổ
của các bạn đang cần một cuộc “Oanh tạc dữ dội” (tr.171). Hãy để mỗi lần
một người ngồi vào giữa căn phòng rồi “Oanh tạc” người ấy bằng những nét
tích cực của người ấy. “Chúng tôi thích các anh (chị) đưa tôi trở lại với
đường lối cũ khi tôi đi lạc”. “Tôi thích các anh (chị) tiếp đãi những người
mới và mọi người chúng tôi”. Đây không phải là một phương pháp để giải
quyết các ngược điểm hay các vấnđ ề khó khăn. Nó chỉ nhằm khiến mọi
người tập trung chủ ý vào người ấy. Chúng ta vẫn thường thấy rằng những
điều khiến chúng ta khó chịu lại được nhiều người khác ưa thích. Trong khi
tôi muốn chống đối không chịu học tập cách cùng làm việc với Ron ("Tại
sao hắn ta lại có quá nhiều 1 kiến để đem ra làm thử nhp thế kia chứ?"), thì
có một ai đó đã bảo tôi: “Tôi nghĩ được làm việc với Ron thì thật thú vị. Anh
ta có tinh thần sáng tạo thật phong phú”.
Thượng Đế đang tác động qua trung gian của mỗi người, và Ngài tận dụng
tất cả chúng ta sao cho mọi người chúng ta đều trở thành cần thiết cho cả tổ.
Chúng ta sẽ đánh giá những người khác cao hơn khi chúng ta thấy đựơc là
các ưu điểm của họ rất cần cho cả tổ.
3. Chăm lo cho các nhu cầu cá nhân.
Tony đến với tổ chúng tôi bằng vẻ mặt buồn hơn thường lệ. Tôi quyết định
làm một cuộc “điều tra” bằng cách hỏi xa hỏi gần và Tony đã cho thấy tình
hình thời tiết là “trời đang đầy mây”. Carey yêu cầu anh ta cho biết sự việc
ẩn đàng sau tình hình ấy. Chúng tôi lắng nghe và cầu nguyện.
Có một phương pháp để tạo lập ý thức “có nhau” và “gần gũi thiết thân” với
nhau, là phải tỏ ra mẫn cảm với các nhu cầu của các tổ viên và cùng góp sức
với nhau để giải quyết các nhu cầu ấy. Lắm khi người ta cần sự nâng đỡ về
mặt tình cảm - như những lúc cần thay đổi chỗ ở có những việc làm mới,
gặp khó khăn có chuyện trong gia đình. Việc lắng nghe và cầu nguyện cho
Tony cùng đẩy mọi người chúng tôi lại gần nhau và giải tỏa được các cảm
xúc của anh ta, để kết hợp mọi người chúng tôi lại với nhau suốt số thì giờ
còn lại của buổi tối hôm ấy.
Nhiều khhi chúng ta có thể đáp ứng những nhu cầu đặc thù - lo nấu ăn khi
gia đình của một tổ viên có thêm con, hay có người qua đời. Chúng ta phải
vừa là chính thân thể vừa trở thành thân thể của Chúa Cứu Thế cho nhau
phải là những ngón tay làm việc bếp múc, những đôi chân để chạy đi mua
sắm, lo việc nọ việc kia, những đôi vai để gánh vác, những đôi tay để nâng
đỡ và chăm sóc, những đôi tai để lằng nghe, những tấm lòng để thông cảm
và yêu thương.
4. Mở ra những con đường giao thông liên lạc.
Thông thường thì chúng ta chỉ đơn giản đến với tổ của mình vì cần một bến
đậu để tránh các áp lực của cuộc đời: “Hôm nay tôi gặp một ngày đáng ghê
tởm. Ước chi tôi tính được gánh nặgn dầu chỉ tạm vài phút thôi!” Chúng ta
không thể nào thay đổi số phận cho nhau, nhưng khi sẵn sàng lắng nghe và
cầu nguyện cho người kia, chúng ta có thể cất bớt gánh nặng để người ấy có
thể chịu đựng thêm lâu hơn nữa.
Chia xẻ nhữnggì chúng ta đang suy nghĩ và cảm thấy có thể ràng buộc chúng
ta vào nhau bằng một ý thức là có cùng những từng trải và cảm nghĩ như
nhau. Nó cũng khiến người khác có một quan điểm rộng rãi hơn về chúng ta.
Tôi rất kinh ngạc khi phát giác ra rằng nhiều người xem tôi như một con
người bộc trực Vì còn độc thân, tôi có nhiều thì giờ sống một mình hơn các
bạn đã có vợ có chồng của tôi, và torng nhữngthì giờ như thế, có lẽ tôi đã
sống tĩnh lặng để tự nhìn lại chính mình nhiều hơn. Nhưng những người
khác lại không thấy những lúc tôi sống riêng biệt như thế. Khi gặp bạn bè để
cùng chia xẻ các tư tưởng, những nỗi lo sợ, những giấc mơ và những nỗi thất
vọng của mình, tôi đều tự mở lòng mình ra cho họ một cách mới mẻ. Họ chỉ
có thể biết được bản tính nội quan của tôi nếu tôi bảo cho họ biết mà thôi.
Thật là nguy hiểm khi cho rằng người khác đã biết rõ điều chúng ta đang suy
nghĩ. Cũng là điều nguy hiểm nếu chúng ta tưởng rằng mình có thể giấu kín
các cảm nghĩ của mình.
Tôi thấy Bob đã ngáp dài đền lần thứ ba, nên nghĩ: “Chắc anh ta đagn chán
với bài học mà tôi đang hướng dẫn” Tôi cảm thấy lo lắng và bị xúc phạm.
Tôi mong nếu anh ta không muốn đến thì thà đừng đến còn hơn. Bob thì
nghĩ: “Thật là phiền! Mình đâu có muốn quá mỏi mệt đến nỗi chẳng thể nào
hấp thụ được nhiều hơn. tại sao Judy lại cứ nhìn mình nghiêm khắc đến
thế?” Sự giao tiếp thẳng thắn, cởi mở từ cả hai phía sẽ làm dịu bớt các cảm
giác khó chịu - Bon ngụ ý nói rằng: “Chị biết đó tôi rất thích tổ này, nhưng
tôi quá mệt mỏi vì chuyến đi vừa rồi đến nỗi chẳng biết chuyện gì đang xảy
ra với mình nữa... nhưng tôi sẽ cố gắng”, hoặc Judy thì ngụ ý bảo rằng:
“Anh Bob này, tôi đã thấy anh ngáp nhiều lần lắm rồi, và rất lo cho anh,
tưởng anh đang chán nản về buổi học này”.
Cách giao tiếp này có thể rất nguy hiểm. Tôi không muốn bị thấy là người
đa cảm hoặc không biết tự kìm chế. Tuy nhiên nếu chúng ta muốn hiểu rõ
nhau hơn, chúng ta phải sẵn sàng dám liều và nâng cao trình độ giao lưu tiếp
xúc của mình.
5. Phải có những hoài bão rõ ràng.
Nói ra các hoài bão cho các tổ viên cùng nghe có thể giúp tránh được sự
xung khắc và thất vọng Chúng ta bao giờ sẽ họp mặt? Tại đâu? Bao lâu một
lần? Chúng ta sẽ nghiên cứu những gì? Tôi phải hiểu Kinh Thánh đến trình
độ nào mới có thể tham gia lớp học Kinh Thánh đó?
Cần nói rõ các hoài bão ngau từ đầu Việc làm này giúp cho giai đoạn thăm
dò có tính cách cụ thể của nó, khi các tổ viên cùng đặt vấn đề “Tổ chúng ta
sẽ làm gì đây?” Sau vài buổi họp mặt, bạn có thể bắt đầu đưa ra các quyết
định của tổ. Cả tổ nhất trí về điều gì ảnh hưởng đến toàn thể các tổ viên là
một quyết định tốt cho cả tổ, hơn là chỉ có một người trong tổ quyế định.
Phần lớn các hoài bão, cho dù đã được nhất trí trong bản giao ước của tổ
(các trang 142-143), cũng cần được duyệt xét lại ít nhất mỗi ba tháng một
lần.
Một số hoài bão góp phần tạo thế cân bằng cho sinh hoạt của một nhóm nhỏ
cần được phát biểu bằng miệng theo định kỳ:
1. “Chúng tôi muốn mọi người đều tích cực dự phần vào các hoạt động và
giờ thảo luận của tổ. Điều này có thể gồm cả việc có thể có một ai đó tự
khẳng định mình vượt quá mức cho phép. Nhiều người khác có thể giữ lại
phần đóng góp của mình để nhường cho một ai đó phát biểu.
2. “Chúng tôi muốn có bao nhiêu tổ viên phải có mặt trong mỗi hoạt động
nào đó của tổ” (Có thể các bạn cần nói rõ torng bản giao ước là chúng ta sẽ
không họp trừ phi khi tất cả mọi người đều có mặt).
3. “Chúng ta sẽ noi theo bốn thành tồ kiểu mẫu cho một nhóm nhỏ, do đó,
chúng ta cũng sẽ có một hình thức chu toàn sứ mạng nào đó cho tổ của
chúng ta”.
4. “Chúng ta sẽ bắt đầu và kết thúc cuộc họp chính thức đúng giờ, tuy chúng
ta nhất trí là có thể có thì giờ trò chuyện không chính thức ngoài thời hạn đã
quy định”.
Giải quyết các vấn đề.
Ngay cả trong những tổ hoàn hảo nhất cũng có những lúc gặp khó khăn. Nếu
chúng ta thật sự tận tụy với nhau và với chủ đích của tổ mình, thì chúng ta
phải giải quyết các mối căng thẳng đó. Vấn đề then chốt là phải thẳng thắn
giao lưu tiếp xúc với nhau và có những hoài bão thật rõ ràng.
Một số vấn đề rất thường xảy ra và rất dễ dập tắt. Với nguy cơ có vẻ quá đơn
giản hóa, tôi đã lập một bản lược đồ các vấn đề ấy với các triệu chứng của
chúng và vài đề nghị để giải quyết (xem hình 9). Hãy cố gắng thử các bước
ấy trước khi bỏ cuộc hoặc cho rằng các bạn đang gặp một trường hợp tuyệt
vọng trước mắt. Trên hết mọi sự, cần tiếp cận từng trường hợp một bằng
việc thiết tha cầu nguyện.
Hãy kể cho người điều phối nhóm nhỏ của bạn hoặc vị mục sư về các vấn đề
của nhóm nhỏ của các bạn, nhất là nếu chúng cứ tồn tại dai dẳng. Cả hai vị
trên đều có thể giúp đỡ hoặc khích lệ các bạn nếu cần.
Chúa đã ban cho chúng ta có nhau để cùng củng cố nhau, hầu cùng nhau
phục vụ Ngài đắc lực hơn. Vậy chúng ta rất cần đến nhau.
Hình 9: Cách giải quyết các vấn đề khó khăn trong các nhóm nhỏ
Triệu chứng Vấn đề Các phương pháp giải quyết
Tổ viên đến trễ Cuộc họp bắt đầu trễ Ấn định thì giờ dứt khoát. Bắt
Thì giờ chính xác đầu ngay. Thảo luận với cả tổ
không rõ ràng “Chúng ta gặp rắc rối về giờ bắt
đầu. Có quá sớm không? Có ý kiến
trái ngược nhau không?” Để cho
cả tổ trả lời.
Nhất trí về phần Quá nhiều hoài bão. Phải thực tế. Có thể thay đổi chuẩn bị
không Không rõ ràng trong các hoài bão. Duyệt xét lại để chu đáo việc nó
liên hệ thế chắc chắn là tổ của bạn đã hiểu
nào với những việc rõ và nhất trí cho phần chuẩn bị
mà tổ phải làm. Thiếu
phần dấn thân đóng góp
(có thể có liên hệ với
vấn đề quá bận rộn và
nhiều việc ưu tiên phải
làm khác).
Các tổ viên im Câu hỏi quá khó hoặc Theo dõi tính cách liên tục của lặng
quá dễ; đặt câu hỏi việc quan sát trước khi lý giải
mà thiếu quan sát. Yêu cầu tổ viên ít nói đọc to
Thiếu chuẩn bị. Thiếu lên một khúc Kinh Thánh. Nhắc
cởi mở, người hướng nhở các tổ viên: “Đừng nói quá
dẫn và nhiều người khác nhiều; những người im lặng phải không giữ im
lặng. Đặt lên tiếng”. Hỏi trực tiếp người
câu hỏi quá đột ngột. ít nói (nhưng không phải là
những câu mà chẳng có ai khác có
trả lời được). Về câu hỏi ứng
dụng, buộc mọi người phải luân
phiên trả lời. Dành thì giờ cho
mọi người suy nghĩ về câu hỏi.
Tổ viên hay nói Nhạy miệng. Không im Gặp riêng để nói chuyện. Lưu ý
chuyện lặng được. Thấy sự việc người ấy nên im lặng sau một số
nhanh chóng. câu hỏi để xem và suy nghĩ. Yêu
cầu người ấy giú thu hút sự chú
ý của người khác (đề nghị người
ấy hỏi: “Số các bạn còn lại có
suy nghĩ gì không?")
Vấn đề gây bất Người nói nhiều được Ấn định các quy luật căn bản. Cố
đồng ý kiến “thắng thế”. Đi lạc gắng bám sát khúc sách hoặc chủ
đề. Không chấp nhận đề trước mắt. Đề nghị mọi người
dị biệt. thảo luận lại vấn đề sau buổi
họp. Đồng ý phải có nhiều ý kiến
khác nhau về vấn đề ấy? Chúng ta
có thể đồng ý về những điểm nào?
Tổ viên “ba phải” Biết cách giải quyết Tránh tranh luận phải, trái,
đúng mọi vấn đề. Chỉ đúng, sai với người khác. Lưu ý
biết cách cách lý giải mọi người chú trọng trở lại vào
đúng khúc sách ấy mà khúc sách để thu thập nhiều dữ
thôi. kiện hơn và tóm tắt. Để cho các
sự kiện tự làm sáng tỏ mọi việc
Giúp các tổ tìm ra những cách
trả lời khác và thấy rõ luận
điệu của người “ba phải”.
Những người bất Tiếng họ thích nhất là Hỏi vặn người bất đồng ý kiến đồng
ý kiến “Nhưng mà...”. “Bạn nói Đúng ra thì điều gì khiến bạn
đúng...nhưng mà...” Có phân vân?” Yêu cầu cả tổ quyết
thể ngăn trở cả tổ hành định hoãn lại (khỏi phải liều
động hoặc đi đến các kết lĩnh) hay cứ tiến lên (có liều
luận, khiến tổ bị trì trệ lĩnh nhưng cũng có tiến bộ
tăng trưởng nữa): “Phải giải
quyết lời phản đối này như thế
nào?”
Đi chậm hoặc Dành quá nhiều thì giờ Định trước số thì giờ cho từng nhanh
cho một vài phần nào đó. phần một. Chuyển từ phần này
Ít trao đổi. Câu hỏi quá sang phần khác thật khéo. Cùng
đơn giản (hay quá tổng thử nghiệm với các câu hỏi với
quát). Không trả lời đầy người cộng tác hướng dẫn; chúng
đủ. ứng dụng quá tổng quát có rõ ràng nhưng không quá tổng
quát chăng? Yêu cầu sự đóng góp
rõ ràng cụ thể. Thúc giục mọi
người phải trả lời: “Có ai có ý
gì khác không?”
Sự cầu nguyện Thiếu tin cậy. Quá mới mẻ Dành nhiều thì giờ để xây dựng
với tính cách đối với các tổ viên. Không tinh thần cộng đồng (thông công)
trò chuyện với biết cách cầu nguyện rõ và cầu nguyện cho các nhu cầu. Chúa
bị trở ngại ràng, cụ thể. Cầu nguyện bằng những câu nói hay
những điều cầu xin trực tiếp,
đặc thù . Thảo luận vấn đề cầu
nguyện như trò chuyện với Chúa;
cầu nguyện về một chủ đề này
trước khi chuyển sang một chủ đề
khác. Đáp ứng lại với bài học
bằng sự cầu nguyện.
Tổ hướng nội; Chủ đích không rõ ràng. Lập kế hoạch cho những hoạt động
không tăng Thiếu động cơ thúc đẩy không bị đe dọa để bạn có thể trưởng
không từ việc học hỏi nghiên mời nhiều người khác tham gia; hướng ra
ngoài. cứu. Ý thức về tăng trưởng nên hoạt động hướng ngoại, nơi có
và Nước trời bị giới hạn. thể tìm thêm tổ viên mới và chăm
Sợ. sóc cho nhóm nhỏ. Tập trung việc
học hỏi nghiên cứu Kinh Thánh và
thờ phượng vào cá tính của
Thượng Đế, chủ đích của Ngài, và
các góc cạnh của sinh hoạt trong
tổ hay của Hội thánh.
Chia xẻ hời hợt Tổ trưởng không nêu gương Lập kế hoạch thật kỹ để thực
thi
tốt. Ứng dụng không cụ thể tinh thần cộng đồng cho giai đoạn
Tinh thần cộng đồng không phát triển. Cần cởi mở và cụ thể
thách thức sự tăng trưởng trong chính phần chia xẻ của mình
theo tư cách của một tổ. Gặp mặt tay đôi với nhiều người
trong tổ để tâm sự và cầu nguyện
cho nhau.
Tổ viên gặp Sinh hoạt tổ có nhiều vấn Nói chuyện riêng với người ấy, nhiều
vấn đề đề. Các tổ viên giành độc đề nghị các nguồn tài nguyên,
quyền trong tổ về các vấn các sáng kiến để giúp đỡ (tư
đề riêng. vấn). Giúp tổ thấy rõ chủ đích
và lý lịch của mình (các tổ
trong Hội thánh không phải là
các tổ chữa bệnh). Tiếp tục cầu
nguyện và nâng đợ bằng tình yêu
thương.
SỨ MẠNG
Một nhóm nhỏ của một chi hội địa phương nọ cùng nhau họp lại để ca hát
vui vẻ sau lễ Giáng sinh. Có người hỏi: “Phải chăng như thế là lễ Giáng sinh
đã qua rồi?” Cả tổ giải thích tại sao họ còn cùng nhau ca hát vui vẻ cả sau
khi lễ giáng sinh đã kết thúc. Họ cùng phân phát các quà tặng nho nho. Cách
làm chứng đạo đó của họ đã khiến cho mọi người tò mò. Trong một thời đại
mà lễ Giáng sinh đã bị biến thành thương mại chủ nghĩa và truyền thống tình
cảm, thì tổ này đã đưa ra một cách làm khác đầy thách thức. Chúa Cứu Thế
đã được tôn cao.
Một chi hội khác yêu cầu mỗi nhóm nhỏ “thực hiện một công tác truye8n
giáo”, nhờ đó, trở thành mối dây liên lạc chính thức của Hội thánh với chức
vụ hải ngoại ấy. Tổ liên lạc thư từ hằng tháng để biết rõ nhu cầu của các giáo
sĩ, gúp đỡ họ torng phạm vi có thể làm được và cầu nguyện thường xuyên
cho họ Khi các giáo sĩ được hồi hương nghỉ phép, nhóm nhỏ đứng ra tiếp
đón và cung cấp chỗ ở tạm cho họ.
Một nhóm nhỏ khác nữa thì tình nguyện cộng tác, với một nhà trọ từ thiện
địa phương, cung cấp các tặng phẩm cứu trợ và chỗ ở cho những người
nghèo thiếu. Các tổ viên tình nguyện phục vụ mỗi tuần hai giờ tại trung tâm
ấy. Nếu các tổ viên không phải bao giờ cũng làm việc như nhau, thì việc họ
cùng dấn thân vào công tác ấy đã buộc chặt họ vào với nhau.
Cả ba nhóm nhỏ trên đã tôn trọng thành tố thứ tư của một nhóm nhỏ - cu
toàn sứ mạng của mình. Mỗi tổ đều hành động khác nhau. Họ có những cng
hiến các mối liên hệ, các cử tọa, các mục tiêu và các hoạt động khác nhau.
Nhưng mỗi tổ sẽ vững vàng mãnh mẽ hơn nhờ nỗ lực này.
Loại nhóm nhỏ mà tôi tâm đắc là nhóm nhỏ biết tạo cơ hội để chu toàn sứ
mạng đối với những người chung quanh mình. Nói khác đi, “tiếng gọi liên
kết” hay “âm hiệu tập họp” là một mối bận tâm chung, cho dù đó là công tác
cầu nguyện hay cộng tác truyền giáo cho Mỹ châu La tinh, là tiếp đãi các
sinh viên học sinh quốc tế hay một tấm lòng muốn truyền giảng Phúc âm
cho khu xóm của mình. Những tổ như thế vốn biết rõ mình phải hướng vào
đâu. Tinh thần cộng đồng, việc bồi dưỡng và thờ phượng của tổ là phần
nhiên liệu được cung cấp cho việc chu toàn sứ mạng. Các tổ ấy đã bắt đầu
như những bệ phóng hỏa tiễn. Họ là những lực lượng năng động, làm bùng
nổ được Chúa dùng. Tuy người tổ trưởng cần bảo đảm việc các nhà “siêu
hoạt động” trong tổ phải đầu tư nhiều năng lực để phát triển các mối liên hệ,
các tổ ấy rất ít khi có được một nền móng vững chắc.
Lẽ dĩ nhiên là các tổ có thể bắt đầu bằng việc chú trọng vào một thành tố
khác nhau nào đó, như nghiên cứu thư La-mã chẳng hạn. Hoặc họ có thể bắt
đầu bằng việc nhấn mạnh vào nếp sng cộng đồng. Thế nhưng, nếu các tổ
muốn tăng trưởng, thì phải phát triển một phần hiểu biết vững vàng và việc
dấn thân vào một phương diện nào đó của việc chu toàn sứ mạng nữa.
Các đỉnh cao trong sách Công vụ.
Trong sách Công vụ, chúng ta thấy một kiểu mẫu kỳ diệu về những tổ các
Cơ-đốc nhân dấn thân hướng ngoại để vượt hẳn bản thân họ, và đến với thế
gian. Trong một số các trường hợp, thật là khó xác định chẳng hay những
công tác tập trung đó là nhỏ hay lớn. Thế nhưng trong chúng, chúng ta thấy
có những gương tốt, sự linh cảm (nguồn cảm hứng) và các ý niệm về việc
hướng ngoại có hiệu quả. (Hoạt động chu toàn sứ mạng hướng ngoại mà mỗi
giai đoạn minh họa được in nghiêng).
Cong Cv 1:1-26 Sau khi được hứa ban cho quyền năng Đức Thánh Linh và
được truyền dạy phài làm chứng cho Chúa Cứu Thế ngay tại địa phương rồi
khắp thế giới, Mười Hai Sứ Đồ đã cùng nhóm nhau lại với nhiều phụ nữ và
anh em Chúa Giê-u để cầu nguyện. Lời cầu nguyện của họ đã được nhậm.
Sau khi Thánh Linh được đổ xuống và đổ đầy trong họ, họ bắt đầu giảng
đạo, châm ngòi cho một cuộc phục hưng lớn. Ba ngàn người đã được thêm
vào số họ.
4:1-37 Sinh hoạt trong Hội thánh nguyên thủy đạt đến mức trưởng thành:
“Số đông đão tín hữu ấy đều đồng tâm nhất trí, không ai coi tài sản mình của
riêng, nhưng kể mọi vật là của chung. Các sứ đồ đầy dẫy quyền năng, truyền
giảng sự sống lại của Chúa Giê-xu và được mọi người quý mến. Không một
tín hữu nào túng thiếu” (cc.32-34). Nhóm người ấy đã phát tirển một nếp
sống cộng đồng sâu xa đáng kinh ngạc. Họ cung cấp các nhu cầu lẫn cho
nhau - dĩ nhiên là trợ giúp cả những người mới ăn năn quy đạo lẫn các thành
viên đã lâu năm của Hội thánh. Nhưng họ đã không giữ lại các nguồn lợi lớn
lao của cộng đồng cho riêng họ. Lời làm chứng của họ rất mạnh bạo.
6:1-15 Rủi thay, sự vô cảm của một số đông, đồng thời với sự phát triển quá
nhanh của một số người quan trọng, đã đòi hỏi phải giải quyết một số vấn đề
về chăm sóc. Mười Hai Sứ Đồ đã quyết định thành lập một nhóm nhỏ bảy
người nhằm vào một mục tiêu đặc thù - để phân phối lương thực cho các bàn
ăn và vật phẩm cứu trợ cho các quả phụ người Do-thái theo văn hóa Hi-lạp,
đã không được chăm sóc chu đáo. Theo bản tính, thì công tác này chỉ là việc
thuộc về đời này. Nhưng ngay đến các nhiệm vụ đơn giản nhất cũng phải
mang về những kết quả thuộc linh, vì chúng ta đọc thấy “Số tín hữu tại Giê-
ru-sa-lem ngày càng gia tăng” (c.7).
13:1-52 Chúa phán với một tổ mà chúng ta không biết có bao nhiêu ngừi tại
Hội thánh An-ti-ốt, hãy phái Ba-na-ba và Sau-lơ đem Phúc âm đến cho thế
giới của người ngoại quốc. Tuy chắc họ đã rất đau lòng khi phải để cho hai
thành viên nòng cốt ấy ra đi như thế, Hội thánh vẫn ưng thuận. Ba-na-ba và
Sau-lơ đã ra đi, sau khi được trang bị sẵn sàng bằng việc kiêng ăn, cầu
nguyện và chúc phước cho.
15:1-41 Một cuộc trnah luận thần học đã đe dọa gây chia rẽ cho Hội thánh
vừa phôi thai. Để tái lập hòa bình và sự hài hòa, “các sứ đồ và trưởng lão
họp hội nghị để cứu xét việc ấy” (c.6). Hội nghị lắng nghe cả hai quan điểm
đối lập nhau và tìm cầu sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Kết quả là họ
nhận thức được rằng sự cứu rỗi của Thượng Đế đối với người ngoại quốc
vốn do đức tin và ân phúc Thượng Đế, chớ không phải là một quy luật văn
hóa và quy tắc thuộc thể. Sự biện biệt thuộc linh đó của hội nghị đã thành
công trong việc tháo gỡ một chân lý tối quan trọng khỏi các dây mơ rễ má
có tính cách văn hóa đã trói buộc nó. Thế là một vấn đề đã được giải quyết.
16:1-17:34 Các vòng lưu hành truyền giáo của Phao-lô vốn không phải là
phần độc diễn của chỉ một người Trái lại, Phao-lô đã tập họp quanh mình cả
một đội, ít nhất cũng gồm có Si-la, Ti-mộ-thư và Lưu-ca (Cong Cv 17:4, 14,
34; 16:16 chép là “chúng tôi”, rõ ràng là gồm luôn trước giả Lưu-ca trong
nhóm người này). Thật ra, chức vụ và việc đem Phúc âm ra các nước ngoài
của Phao-lô vốn được một nhóm nhỏ thực hiện, cùng cộng tác vứi nhau với
tư cách một phái đoàn các đại sứ của Thượng Đế. Nhừ các ân tứ và tài năng
của các môn đệ Chúa được điều phối, một sinh lực và những nguồn tài
nguyên mới đã được bơm vào cho Hội thánh đang bành trướng.
14:1-28 Thêm vào công tác truyền giảng Phúc âm, đội của Phao-lô khuyến
cáo các Hội thánh Cơ-đốc giáo bị tan lạc quyên trợ tài chính để giúp cho Hội
thánh đang lâm nạn tại Giê-ru-sa-lem. Kinh Thánh đã không cho chúng ta
biết vấn đề chính xác là gì; nhưng nhóm nhỏ của Phao-lô đã xem trách
nhiệm cứu trợ là nghiên trọng.
Các yếu tố cơ bản của sứ mạng của nhóm nhỏ.
Sứ mạng là chưa xẻ tin mừng của tình yêu thương của Chúa Cứu Thế cho
những người đang thiếu đói bằng cả lời nói lẫn việc làm. Các Cơ-đốc nhân,
với tư cách là những cá nhân và là một đoàn thể, phải hướng ngoại, phải
vượt ra ngoài các ranh giới là chính họ. Vì “Chúa càng dùng quyền năng ban
cho anh em mọi nhu cầu để sống cuộc đời hạnh phúc, lại còn cho anh em
được chia xẻ vinh quang, đức hạnh với Ngài” (IIPhi 2Pr 1:3), thì chúng ta
cũng có trách nhiệm phải ứng dụng quyền năng và tình yêu thương của Ngài
để biến cải các cá nhân và xã hội. Nhưng như thế nào, tại sao và cho ai?
Hươ1ng ngoại thuộc loại nào? Sứ mạng bao trùm ý niệm rộng rãi nhất của
việc chưa xẻ tình yêu thương của Thượng Đế bằng cả lời nói lễn việc làm.
Nó vượt hẳn việc chỗ đơn giản cung cấp thực phẩm cho kẻ đang đói mà thôi.
Nó cũng vượt xa việc chỉ truyền giảng suông về nhu cầu phải ăn năn tội và
tin Chúa của con người ta mà thôi. Công tác hướng ngoại bao hàm cả việc
truyền giảng Phúc âm lẫn hoạt động xã hội, cả mối bận tâm đrến từng địa
phương lẫn bận tâm đến toàn thế giới, các nỗ lực ngay bên trong nền văn
hóa của chúng ta; lẫn các nỗ lực về giao thoa văn hóa, việc trợ gúp có tính
cách thuộc linh lẫn sự trợ gúp vật chất nữa. Thành tố hướng ngoại của một
nhóm nhỏ có thể có nghĩa là bất kỳ một cuộc quyên trợ nào cho một giáo sĩ
mới đến xứ Ma-rốc để chăm sóc cho một người mẹ và đứa con không cha củ
abà ta Lời ủy nhiệm của Kinh Thánh bao gồm cả việc “truyền bá Phúc âm”
(IITi 2Tm 4:5) lẫn yêu thương “thật ...và chứng tỏ tình yêu đó bằng hành
động” (IGi1Ga 3:18). Hãy nhìn vào công tác chu toàn sứ mạng của tổ của
bạn và xết lại xem bạn có thấy nó hướng ngoại về cả hai phương diện như
vừa nói hay không? Tại sao phải hướng ngoại? Mục đích của công tác chu
toàn sứ mạng là giúp đỡ người ta về mọi phương diện thuộc thể, tình cảm,
thuộc linh và / hoặc xã hội. Công tác bắt đầu ngay tại nơi có nhóm nhỏ, và
mở rộng ra cho đến các cực địa. Đứng về phương diện loài người mà nói, thì
lời thách thức này vượt quá trí tưởng tượng và các nguồn tài nguyên của
chúng ta. nếu chúng ta chỉ chú trọng vào các giới hạn của mình, chắc chúng
ta sẽ nhanh chóng cảm thấy thất vọng. Chúng ta sẽ giống như người môn đệ
của Chúa, sau khi đếm thấy chỉ có năm ổ bánh với hai con cá, đã nhận thấy
đề nghị phải cho năm ngàn người ăn no nê là chuyện hoang tưởng. Thế
nhưng, như điều Mười Hai Sứ Đồ đã phát giác được yếu tố tối quan trọng là
hiện diện của Chúa Cứu Thế Vì lời hứa của Ngài vẫn còn đó “chắc chắn ta ở
với các con luôn luôn..” Sở dĩ chúng ta tìm cách chu toàn sứ mạng (mission)
là vì lìng thương xót của Thượng Đế, và vì cớ sự sai phái, ủy thác
(commission) của Ngài. Sở dĩ chúng ta ra đi để chu toàn sứ mạng (hoặc có
thể dịch là: đi vào các khu vực truyền giáo) là nhờ có sự hướng dẫn và hiện
diện của Ngài.
Có ba lý do chủ yếu thúc giục chúng ta chia xẻ Chúa Cứu Thế cho mọi
người. Một là Thượng Đế đã truyền lệnh cho chúng ta “Hãy đi dìu dắt tất cả
các dân tộc làm môn đệ ta" (Mat Mt 28:19). Phao-lô xác nhận mệnh lệnh ấy
khi ông viết “Chúng tôi đi đây cũng truyền giảng về Chúa Cứu Thế, khéo
léo khuyên bảo và cố gắng huấn luyện mọi người để họ đạt đến mức toàn
hảo trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” (CoCl 1:28). Nếu chúng ta muốn làm môn
đệ của Chúa Cứu Thế, thì phải tuân thủ lệnh truyền của Chúa Giê-xu.
Hai là, những người đang thiếu đói đaòi hỏi sự giúp đỡ do lòng thương xót
của chúng ta. Chúa Giê-xu đã nêu gương chung quanh Ngài. Ngài đề cập họ
như những người bị “hư vong”, “đau yếu bịnh tật”, “đói khát” và “nghèo
khó” không phải để khinh rẻ họ nhưng là do mối quan tâm sâu xa muốn lo
lắng chăm sóc họ. lắm khi Ngài ngụ ý bảo rằng họ thật sự đau ốm bệnh tật
và nghèo khó Nhiều lần khác, Ngài dùng các từ ngữ ấy theo nghĩa bóng,
nghĩa thuộc linh. Thiên hạ vào thời của Ngài cũng như ngày nay đều rất cần
được biết Thượng Đế.
Ba là, việc chúng ta dấn thân hướng ngoại tăng cường đức tin của chúng ta
và chính từng trải của chúng ta về tình yêu thương và quyền năng của Chúa
Cứu Thế. Chắc các môn đệ Chúa đã phải vô cùng kinh ngạc tuy họ rất bối
rối, khi lượm lại được mười hai giỏ bánh và cá còn thừa. Họ đã họ cbiết
được việc Chúa củ ahọ vốnc ó đầy đủ mọi sự. Khi nào chúng ta lấy đức tin
để tiến tới, khi chúng ta tận dụng đến mức tối đa các hoài bão và sức lực cá
nhân, khhi chúng ta đã thắng vượt được nỗi sợ hãi và dám liều mạng, thì
chúng ta sẽ có được những cơ hội hàng đầu để nhận thấy quyền năng và sự
hiện diện của Thượng Đế chúng ta.
Hãy còn một lợi ích khác nữa khi các nhóm nhỏ viên dám dấn thân hướng
ngoại: họ tự buộc chặt vào nhau nhanh chóng hơn và vựng chắc hơn. Các ân
tứ của nhiều tổ viên khác nhau đều được nhận diện, sử dụng và điều phối.
Việc phục vụ, truyền đạo, củng cố đức tin, công việc từ thiện và đóng góp tự
do, có thể là hững ân tứ có giá trị đặc biệt Một khi các phẩm chất bổ sung
cho nhau của cả tổ được hòa lẫn vào nhau, thì tổ cũng tập trung được một
sức mạnh lớn. Chúng ta sẽ đánh mất đi một điều gì đó vô cùng quan trọng,
nếu công tác chu toàn sứ mạng chỉ là một hoạt động cá nhân, riêng lẻ.
Hướng đến ai? Đây là một câu hỏi khó trả lời. Nó cũng giống như câu hỏi:
“Ai là người lân cận tôi?” Câu trả lời mở ra cả một thế giới trach nhiệm -
một con người, một bộ lạc, một dân tộc và cả một lục địa. Những người láng
giềng của tôi có thể ở cách tôi năm mét hoặc năm ngàn cây số. họ có thể ở
ngay torng Hội thánh của bạn hoặc trong một hội chúng khác. họ có thể là
những người chưa bao giờ được nghe đến danh Chúa Cứu Thế.
Các nhóm nhỏ có thể đến với người ngoài trên nhiều cấp bậc đồng thời với
nhau. Một tổ có thể tham gia một công tác tại địa phương, như với một gia
đình tị nạn hay một lớo học Kinh Thánh nhằm mục đích truyền đạo, mà
cũng có thể cầu nguyện và liên lạc thư từ với một gia đình giào sĩ bên hương
cảng. các quyết định cần được đưa ra với sự đồng ý của cả nhóm nhỏ để mọi
người đều tập trung chú ý vào đó.
Còn về câu hỏi: “Ai là những người đang thiếu thốn” thì lời đáp cũng bao
trùm một phạm vi vô cùng rộng lớn. Có biết bao nhiêu là nhu cầu thuộc linh,
thuộc thể, vật chất và xã hội Có lẽ bạn cần phải bắt đầu cầu nguyện cho các
nhu cầu quan trọng nhất và thiết thân nhất. Một khi cả tổ đã có được đà rồi,
thì nó có thể tự điều chỉnh lấy tấm nhìn của mình.
Khi nào thì hướng ngoại? Nguy trong các giai đoạn đầu tiên của việc phát
triển nhóm nhỏ, đang khi các tổ viên làm quen với nhau và đang lo tổ chức,
thì công tác chu toàn sứ mạng có thể phần lớn là ủng hộ cho những gì mà số
người mới nhập tổ đang làm bên ngoài tổ. Có thể đó là việc cầu nguyện cho
những bạn bè hay nhiều dân tộc khác nhau ở khắp nơi trên thế giới. Tuy
nhiên, cuối cùng thì sẽ đến lúc cần phải có việc tiếp cận có tính cách tập thể
nhiều hơn. Hãy thu thập và đánh giá các tư tưởng của các bạn ở cương vị
một tổ, rồi sau đó, hãỵ đưa ra quyết định của các bạn về một dự án đặc thù.
Thỉnh thoảng nhiều tổ không phát triển được một công tác nhằm chu toàn sứ
mạng của tổ do nhiều lý do. Có thể ngay từ đầu, người tổ trửng đã phân vân
không chịu đề cập việc hướng ngoại. Đây là một điều bất ạnh; vì buổi họp
mặt đầu tiên là tối quan trọng cho việc quy định, sắp xếp các hoài bão của
mọi người. Nếu ngay từ đầu các tổ viên đã thấy ngay được rằng chu toàn sứ
mạng là một phần của lẽ sống, của lý do để cho tổ của mình tồn tại, họ sẽ ít
có khuynh hướng muốn lẫn tránh nó hơn, khi về sau, công tác hướng ngoại
sẽ đòi hỏi càng nhiều hơn nơi họ. Hoặc có lẽ việc chu toàn sứ mạng sở dũ
đứng vững là nhờ người tổ trưởng biết chờ cho đến khi nào tất cả mọi người
trong tổ đều “nhất loạt hành động”. Xin đừng chờ đợi Sau ba hoặc bốn cuộc
họp, hãy chuyểnc ả tổ hướng ngya vaò việc hướng ngoại. Điều đó sẽ kích
thích sức tăng trưởng nơi các tổ viên.
Xây dựng kế hoạch nhằm chi toàn sứ mạng torng đời sống của một nhóm
nhỏ.
Làm thế nào để bạn chuyển tổ của mình sang công tác hướng ngoại? Sau
đây là các ý kiến, tuy không phải là công thức, nhưng có thể giúp bạn bước
đi.
1. Cần nhắc nhở các tổ viên rằng cả bốn thành tố đều có liên quan chặt chẽ
với nhau, và chúng cùng họp lại để củng cố thêm cho một nhóm nhỏ. Thí dụ
nếu một tổ đang nghiên cứu Công vụ 4, mọi người đều có thể cầu nguyện để
mình có thể mạnh dạn làm chứng đạo. Việc học hỏi nghiên cứu Kinh Thánh
cung cấp linh lương nhằm đẩy mạnh công tác truyền đạo. Thấy được cách
hành động của Thượng Đế qua trung gian dân Ngài trong quá khứ, cũng
nâng cao tinh thần thờ phượng của cả tổ. Khi các tổ viên cùng chia xẻ cho
nhau những nỗi lo sợ của họ khi làm chứng đạo và bị chống đối, họ sẽ có
được một ý thức cộng đồng. Là một tổ, bấy giờ họ có thể bắt đầu sứ mạng
nói về Chúa Cứu Thế cho một số bạn bè đặc thù - một người láng giềng một
bạn đồng nghiệp, một đồng bạn cùng chơi quần vợt hoặc một ai đó torng dân
chơi lái xe điện tử của mình. Ít lâu sao đó, họ có thể có công tác hướng
ngoại với nhiều tính cách tập thể hơn cho nhiều người qua việc pah6n phát
truyền đạo đơn và sách báo, một lớp học tìm hiểu Kinh Thánh hoặc có thể là
một dạ hội trong đó có người giải thích vắn tắt mối liên hệ của mình với
Chúa Cứu Thế.
2. Thảo luận vấn đề thế nào Tin Lành Chúa Cứu Thế Giê-xu tất nhiên là Tin
tốt lành, vui mừng cho con người hiện đại. Cần phân tích IPhi 1Pr 2:9 “Anh
em được chọn để làm chứng cho mọi người biết Chúa đã đem anh em ra
khỏi cảnh tối tăm tuyệt vọng, đưa vào trong ánh sáng phúc hạnh, kỳ diệu của
Ngài” Chúa Cứu Thế đã làm những gì Tại sao những việc làm ấy lại được
bảo là kỳ diệu? Loại bóng tối trước đây từng bao vây bạn là gì? Từng trải về
ánh sáng hiện tại của Thượng Đế đối với bạn là gì Một cuộc thảo luận như
thế giúp các tổ viên nắm vững được các đặc tính của tình yêu thương của
Thượng Đế, giúp họ tự tiếp nhận lấy cho chính mình rồi truyền thông cho
người khác.
3. Ngay từ đầu, đưa ra viễn cảnh về việc hướng ngoại là tự nhiên và cần
thiết. Hãy đưa cả tổ dấn thân ngay từ đầu vào những hình thức hướng ngoại
mà không có sự đe dọa, những dự án mà mọi người đều có thể cảm thấy
vững lòng. Những ngaỳ công tác phân phát lương thực thực phẩm tại một
trung tâm xã hội có thể là một nỗ lực bắt đầu rất tốt. Khi sự nhất trí và ý thức
chu toàn sứ mạng tăng lên, nên giúp cả tổ lao vào những hình thức chu toàn
sứ mạng rộng lớn hơn, như quyên tiền hoặc đặt một bàn bán sách đạo trên
con đường thiên hạ đi mua sắm vào thứ Bảy.
4. Giúp cả tổ phát triển các kỹ xảo cần thiết để thâm nhập kiến hiệu bất kỳ
một khu vực nào mà họ đã chọn. Trong nhiều trường hợp việc này sẽ có
nghĩa là giúp cho mọi người biết cách trình bày thông suốt về Phúc âm. hãy
cung cấp cho họ một bố cục căn bản. Thử vài cách diễn kịch. Khi các tổ viên
được trang bị đầy đủ hơn, việc họ đi ra với người ngoài sẽ được thực hiện
một cách tự nhiên trôi chảy hơn.
5. Thúc giục mọi người đồng tâm nhất trí và xem tổ là tổ của riêng mình.
Như trứơc giả thư Hy-bá-lai khuyến giục: “Cũng hãy lưu ý khích lệ nhau
trong việc yêu thương” (HeDt 10:24). Nhóm nhỏ trở thành bộ óc để suy nghĩ
và để mọi người cùng báo cáo phúc trình mọi sự cho nhau. Mỗi tổ cần đạt
đến sự nhất trí về một công tác đặc thù nào đó mà Thượng Đế muốn cho họ
làm Tự xem tổ là tổ của riêng mình sẽ giúp mọi người cộng tác như một toàn
đội, hoàn thành sứ mạng thật đến nơi đến chốn và tận tụy hơn. Các bạn cần
tin chắc rằng Thượng Đế đã đưa các bạn vào chính sứ mạng này khi gặp thất
bại, có người muốn thối lui hoặc bị chống đối.
6. Dành thì giờ cho việc đặt kế hoạch. Để giảm thiểu việc có thể gặp rắc rối
ngoài ý muốn vào phút chót, cần bắt đầu đặt kế hoạch cho tiến trình xa đủ từ
trước. Vài công tác chu toàn sứ mạng không chính thức cần phải được hoạch
định thật đầy đủ cho một tuần. Các công tác hướng ngoại chủ yếu, như tổ
chức việc truyền giảng cho cả thành phố, rõ ràng là phải cần đến cả năm
thảo hoạch hoặc hơn nữa.
7. Cần ghi khắc vào tâm trí rằng một nhóm nhỏ không luôn luôn cần phải
đắm mình vào công tác hướng ngoại. Nó có thể chọn làm hằng tuần một
công việc gì đó, hoặc có thể quyết định thực hiện các công tác cứ nửa năm
một lần. Đồng thời có thể dành quyền ưu tiên cho một thành tố khác.
8. Bao vây mọi công tác hướng ngoại bằng sự cầu nguyện. Trong khi chúng
ta cầu xin Chúa can thiệp vào các đời sống và các công tác, là chúng ta học
tập trông cậy vào sức lực của Ngài chớ không phải là của chúng ta. Nếu
chính Thượng Đế truyền dạy chúng ta phải quản lý các ân tứ năng lực và các
nguồn tài nguyên của mình, thì vấn đề khiến người ta ăn năn quy đạo không
phải là công việc của chúng ta. Chính Đức Thánh Linh sẽ làm việc ấy. Vai
trò của chúng ta là làm những cột mốc, những bảng chỉ đường để thiên hạ
đến với Chúa Cứu Thế. Sự cầu nguyện nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta
không phải là những nhân vật hàng đầu đang vật động cho việc thiết lập
Nước Trời.
Các trở ngại cho công tác hướng ngoại.
Rõ ràng là mỗi gợi ý trên đây đều có một hình thức bị đảo ngược lại, có thể
ngăn chận một tổ tích cực thực hiện công tác chu toàn sứ mạng của mình.
Xin xét đến những điều đó, để xem chúng ta có thể đối phó thế nào với các
trở ngại ấy.
1. Tổ bị sai lầm khi cho rằng bất luận thành tố nào trong số bốn thành tố, kể
cả công tác chu toàn sứ mạng, đều có tính cách tự chọn. Nếu một tổ chẳng
bao giờ chịu dấn thân phục vụ tha nhân, nó sẽ trở thành tự phục vụ, lười
biếng, tăng trửơng nội bộ. Hãy tái lập thăng bằng cho vấn đề bằng cách quay
trở lại với kiểu mẫu của Kinh Thánh về bốn thành tố.
2. Các tổ viên cảm thấy thiên hạ chẳng cần gì đến Phúc âm. vì xã hội của
chúng ta xem các giá trị và chân lý đều chỉ là tương đối mà thôi, cho nên
thật khó cho các Cơ-đốc nhân cảm thấy phấn khởi, muốn truyền bá Phúc âm.
Nhưng theo Kinh điển dạy, thì việc hướng ngoại không phải là một công tác
mà chúng ta được quyền tự chọn hay không.
3. Các chương trình với quá nhiều tham vọng có thể làm mất tinh thần cho
cả tổ. các nổ lực chu toàn sứ mạng phải làm phát triển các tổ viên, chớ
không phải khiến họ co rút lại. Cần tìm các hoạt động thực tế, khả dĩ thực
hiện được khi các bạn mới bắt đầu.
4. Công tác hướng ngoại có thể thất bại vì các thành viên không được trang
bị đầy đủ cho vai trò của mình. Phải chuẩn bị trước cho họ. Nếu việc đào tạo
huấn luyện là cần thiết phải cung cấp cho họ (xem chương về Các nguồn tài
nguyên để chu toàn sứ mạng).
5. Nếu thậm chí chỉ còn một người chưa chịu thuyết phục, thì vẫn có thể gặp
rắc rối: Sự bất hòa hay bất đồng ý kiến quyết liệt có nghĩa là các bạn vẫn
chưa nhất trí. Hãy quay trở lại với tiểu ban thảo hoạch chương trình!
6. Các nỗ lực hấp tấp hay do hoảng loạn có thể sẽ rất tai hại. Hãy dành thì
giờ đầy đủ để lập kế hoạch. Một kế hoạch tốt có thể mất nhiềj thì giờ hơn
điều các bạn tưởng. Thỉnh thoảng có thể bạn cần thay thế thì giờ bồi dưỡng.
Hoặc cả tổ có thể đồng ý về một buổi nhóm đặc biệt nào đó chỉ dành cho
việc bàn thảo kế hoạch mà thôi.
7. Hăng say hướng ngoại có thể làm suy giảm sự nhạy cảm đối với một số
nhu cầu cá biệt của các tổ viên. Đừng bỏ quên một ai cả chỉ vì một số đông
đang bị cuốn hút vào công việc Có lẽ bạn cần dành thì giờ để hỏi chuyện
một người cảm thấy là mình bị loại ra ngoài vòng bị phật ý, hoặc có những
nhu cầu nào khác.
8. Những dự án được thực hiện không có sự cầu nguyện thường chỉ làm tiêu
phú năng lực mà thôi. Như Chúa Giê-xu từng phán với các môn đệ gài:
“Ngoài ta các con chẳng làm chi được” (Giăng 15:5;). Vậy cầu nguyện!
Hai trở ngại khác thường xuất hiện khi một tổ đặc biệt hướng vào công tác
chứng đạo. Một là, một tổ viên có thể tỏ ra chống đối hoặc ngoan cố, không
chịu tham gia nỗ lực chứng đạo mà cả số còn lại đều nhất trí. Hãy thảo luận
vấnđ ề với riêng người ấy, giải thích RoRm 1:16 cho người ấy nghe. Có thể
bạn cần vạch rõ cho người ấy thấu khải tượng của toàn tổ. Có lẽ nên hỏi lý
do tại sao người ấy không chịu tham gia. Cuối cùng rất có thể người ấy cần
đi tìm một tổ khác, mà phần nhấn mạnh vào sứ mạng phù hợp hơn với người
ấy.
Một vấn đề thứ hai sẽ xảy ra khi bạn để cho những người không phải là Cơ-
đốc nhân thường xuyên dự phần vào tổ của mình, và giờ đây, cá cbạn cần
thực hiện công tác hướng ngoại bằng việc làm chứng đạo. Nếu họ chịu tham
gia trong phạm vi họ cảm thấy có thể đựơc thì hay. Có lẽ họ có thể tham dự
trong phạm vi hợp lý như sắp xếp ghế ngồi hay mang các thức tráng miệng.
Nếu không, có lẽ họ sẽ chỉ âm thầm quan sát. Họ có thể học biết rất nhiều
điều về tình yêu thương của Chúa Cứu Thế và tình yêu thương của các bạn
đối với người ta khi dự án được tiến hành. Nhưng xin đừng để cho việc họ
sợ bị xúc phạm làm tê liệt cả tổ của bạn, khiến nó chẳng hoạt động gì được.
Các bước trong việc thảo kế hoạch.
Một tổ có thể bắt đầu chu toàn sứ mạng như thế nào? Chúng tôi xin gợi ý
một tiến trình mà tổ của bạn có thể noi theo.
1. Tác xác nhận rằng chu toàn sứ mạng là thành tố căn bản của sinh hoạt và
là chủ đích mà cả tổ cần dấn thân thực hiện. Cùng cầu nguyện xin Thượng
Đế hướng dẫn.
2. Dành thì giờ cho cả tổ cùng góp ý. Liệt kê tất cả các ý kiến có thể có
nhằm hướng ngoại mà các tổ viên nghĩ ra là mình có thể cộng tác Ước lượng
số thì giờ cần thiết dành cho trong công việc.
3. Bảo toàn teh các tổ viên dành ra vài phút để liệt kê những điều mà mình
quan tâm và nhận diệm một hoặc hai ân tứ mà họ nghĩ là những tổ viên khác
có. Mọi người phải ước lượng số thì giờ mà họ sẵn sàng đều tư vào. Luân
phiên nhau đóng góp các sáng kiến của mình.
4. Lợi dụng những gì mọi người thấy được về các ân tứ và các mối bận tâm,
thảo luận xem bây giờ thì các ý kiến nào có vẻ là thích hợp nhất. người tổ
trưởng có thể giúp cả tổ thu hẹp việc lựa chọn vào ba hoặc bốn điều có thể
làm mà thôi.
5. Thảo luận về lợi, hại, ưu, khuyến điểm của ba hoặc bốn ý kiến ấy, để nhất
trí xem điều nào là thích hợp nhất. Một khi đã chọn xong, người tổ trưởng
phải tái xác nhận rằng mọi người đều đồng ý.
6. Nếu không thể nhất trí được, phải ngưng lại để cầu nguyện. Mỗi người
phải suy nghĩ và cầu nguyện riêng cho đến buổi họp mặt lần sau, nhưng
đồng ý là sẽ quyết định dứt khoát vaò lúc ấy.
7. Xác định những gì cần làm khi phải làm việc gì, và ai là người đứng ra
làm. Rồi cùng cầu nguyện và cùng cộng tác để thực hiện điều mà cả tổ đã
quan tâm!
Công tác hướng ngoại của chúng ta là tâm điểm của đời sống và chức vụ của
Chúa Giê-xu, cho nên nó cũng phải trở thành nền móng cho sinh hoạt của
một nhóm nhỏ các Cơ-đốc nhân. Tuy nó sẽ đòi hỏi nhiều thì giờ, năng lực,
tiền bạc và các ân tứ thuộc linh của tổ các kết quả của nó sẽ đem đến sự mãn
nguyện lớn lao Công tác chu toàn sứ mạng rất có teh tạo ra nhiều ký ức đẹp
đẽ nhất cho nhóm nhỏ của các bạn.
MỘT CHIẾN LƯỢC CHO CÁC NHÓM NHỎ TRONG HỘI THÁNH CỦA
BẠN
Các cấp lãnh đạo Cơ-đốc giáo thường mơ ước nhân bội chức vụ của Hội
thánh của họ lên hằng trăm lần. Các nhóm nhỏ đã cung cấp được câu trả lời
cho rất nhiều Hội thánh. Chúng đã trở thành môi trường để khai mào cho
việc vận dũng thờng xuyên các ân tứ thuộc linh, cả bên trong cộng đồng Cơ-
đốc giáo lẫn bên ngoài, hứng vào một thế gian đang bị tội lỗi chế phục.
Hãy tưởng tượng một thành phố hàm chứa hơn mười ngàn nhóm nhỏ phục
vụ như những ban chứng đạo truyền giảng Phúc âm dồn dập cho mọi ngõ
ngách của thành phố: các khu xóm, các văn phòng, hãng xưởng, trường học,
bệnh viện, cơ quan hà nước - nghĩa là khắp nơi! Một số Hội thánh đã biến
được giấc mơ ấy thành sự thật. Một Hội thánh tại Hán thành, Nam Triều
tiên, đã có hơn 100.000 thành viên, trong đó hầu hết đều nằm trong một
nhóm nhỏ. Thật vậy, chính thông qua các nhóm nhỏ ấy mà Hội thánh đã
tăng trưởng hết sức nhanh chóng, cả về số lượng người mới tin Chúa lẫn
trong sự tăng trưởng thuộc linh của họ.
Hãy xét đến chiến lược để khiến Hội thánh tăng trưởng này: Nếu một Hội
thánh có phần lớn các thành viên của mình gia nhập các nhóm nhỏ gồm mỗi
tổ sáu người, và nếu mỗi tổ chỉ thêm được một người mỗi năm mà thôi, thì
độ lớn của Hội thánh sẽ tăng lên gấp đôi trong vòng năm năm. Chắc chắn
đây là một mục tiêu thực tế cho mỗi một nhóm nhỏ, là chỉ tìm thêm được
một người mỗi năm để them vào số người trong Hội thánh.
Tổ chức Hội thánh hoạt động như một Thân thể.
Hãy tưởng tượng tiềm năng của sự chăm sóc mục vụ nếu toàn thể các thành
viên của một chi hội đều nằm trong các nhóm nhỏ biết lo lắng chăm sóc lẫn
cho nhau. Nhiều nhà tâm lý học đã khám phá ra rằng nhiều khách hàng của
họ trong cách chẩn trị theo nhóm nhỏ đã được cải thiện nhanh chóng hơn là
khi họ được chữa trị riêng. Tiềm năng để nuôi dưỡng và chữa trị cho một cơ
thể sống trong các nhóm nhỏ là vô cùng lớn lao. Qua một màng lưới các
nhóm nhỏ hoàn bị cấu thành toàn thể Hội thánh, một cú điện thoại có thể
đến ngay với các nhóm nhỏ trưởng khi có việc cấp bách xảy ra. Các tổ tiên
có thể hỗ trợ nay cho vị mục sư khi có một thân nhân trong gia đình qua đời,
khi có khủng hoảng về kinh tế, và vân vân. Họ có thể thăm viếng các tổ viên
tại bệnh viên, mang thức ăn đến cho người đau ốm, cho mượn ô-tô, giúp
chăm sóc trẻ con và cùng cầu nguyện trong những trường hợp đặc thù.
Lần đầu tiên tôi phân biệt được một Hội thánh như m5t bộ phận (body: thân
thể) các tín hữu lúc tôi học Trung học. Gia đình tôi gia nhập một Hội thánh
vừa mới thành lập. Từ nhiều năm qua, chúng tôi nhóm nhau lại trong một
trường tiểu học địa phương, rất khó khớp được với hình ảnh mà tôi hình
dung ra về một Hội thánh! Chính là số các tín hữu và những gì chúng tôi làm
trong phòng tập thể dục của nhà trừng đã biến ngôi nhà ấy thành một nơi để
thờ phượng. Các tín hữu chính là Hội thánh
Các cấu trúc của Hội thánh, dù là thuộc thể hay thuộc tổ chức, đều phải được
hoạch định sao cho phù hợp với chủ đích cua Hội thánh. Điều này cũng
được nghiệm đúng cho các tiểu ban của Hội thánh và cho các nhóm nhỏ
cũng như cho các công trình xây cất. Nếu chúng ta biến các nhóm nhỏ thành
phần nền mp1ng cho Hội thánh, thì chúng ta cần cẩn thận nghĩ đến phần
thiết kế toàn diện của toàn thể cái thân thể (body)) ấy. Các nhóm nhỏ và
những nhóm đông người hơn cần phải bổ túc và hỗ trợ lẫn cho nhau.
Đừng hấp tấp!
Một vài tổ chức đã hấp tấp lao vào một chương trình nhóm nhỏ phùhợp với
chiều hướng mà không xét đến vấn đề các nhóm nhỏ phải thích ứng dụng
được với những chương trình vốn rất phổ biến, như các lớp học trường Chúa
nhật hay những buổi nhóm cầu nguyện giữa tuần. Hoặc các tổ có thể được
bắt đầu mà không được hoạch định xem phải đào tạo và bồi dưỡng các nhóm
nhỏ trửơng như thế nào trên một cơ sở liên tục.
Những tổ như thế đang lao đầu vào rắc rối vậy.
Vậy chúng ta phải hoạch định một cơ cấu như thế nào cho hữu hiệu và tồn
tại dài hạn? Trước hết, phải biết rằng bạn chỉ có thể chọn cơ cấu cho mình
sau khi đã được Hội thánh đồng ý về chủ đích và chiến lược của nó (xem
hình 10).
Hình 10: Chủ đích, chiến lược và cơ cấu (xem trong sách)
Bắt đầu sau khi đã hiểu rõ chủ đích của Hội thánh của bạn. Chủ đích quyết
định cho chiến lược, còn chiến lược thì quyết định các cơ cấu. Chúng ta quá
thường bị lạc trong chiếc vòng lẩn quẩn này. Rất có thể là chúng ta đã được
thừa hưởng một số cấu trúc như một di sản, cho nên chúng ta cố hoạch định
một chương trình phù hợp với chúng mà không đặt vấn đề tại sao chúng ta
cần phải làm như thế. Có lẽ đã đến lúc phải lật ngược vấn đề. Thật ra chủ
đích của chúng ta là gì? Chúng ta muốn thực hiện gì?
Theo điều tôi còn nhớ được, thì trường Chúa nhật của Hội thánh chúng tôi
bắt đầu lúc 9giờ 30, và buổi nhóm thờ phượng bắt đầu vào 11 giờ sáng.
Nhưng chúng tôi gặp phải một vấn đề. Số người đi học trường Chúa nhật chỉ
bằng phân nửa số người đi nhóm lại để thờ phượng. Vì Hội thánh chúng tôi
thiết tha mong muốn đào tạo người theo như trong Kinh điển, muốn gây
dựng và trangbị đầy đủ để họ có thể phục vụ, chúng tôi nhận thấy trường
Chúa nhật có một vai trò quan trọng. Do đó, chúng tôi xét lại phần chiến
lược của mình. Chúng tôi tự hỏi: Làm thế nào để có được nhiều người đến
với các lớp học Trường Chúa nhật hơn? Làm thế nào để cúng tôi tận dụng
được đến mức tối đa phần cơ cấu chúng tôi đã có sẵn?”
Một người gợi ý một phương pháp mới là chúng tôi sẽ nhóm lại thờ phượng
từ 9giờ 30 đến 10giờ 30, tiếp thoe đó là hai mươi phút uống cà phê và thu
xếp, để bắt đầu trường Chúa nhật lúc 11giờ. Phần đông tín hữu của chúng tôi
đã cố gắng đến sớm hơn một tiếng rưỡi đồng hồ vì họ vốn trung tín nhóm lại
để thờ phượng Chúa. Một khi đã đến rồi rất có nhiều hi vọng là họ sẽ ở lại. à
kết quả đã rất tốt đẹp! Số người học trường Chúa nhật tức khắc gần bằng với
số ngườiđi nhóm thờ phượng.
Bằng một chiến lược đúng, chúng tôi có thể đảo lộn các cơ cấu hầu đạt được
chủ đích của mình dễ dàng hơn. Cơ cấu phải phục vụ cho chiến lược cũng y
như “Lễ cuối tuần (ngày sa-bát) được lập ra để giúp loài người, chớ không
phải loài người được tạo nên để phục vụ ngày lễ đó” (Mac Mc 2:27)
Làm sáng tỏ chủ đích.
Chủ đích của Hội thánh của bạn đã được làm sáng tỏ đến mức độ nào? Điều
quan trọng là can phải có một bản tuyên ngôn về chủ đích ấy. Các thành viên
phải có thể đọc thuộc lòng nó mà hầu như chẳng cần chi phải suy nghĩ.
Bản tuyên ngôn về chủ đích cho biết lý do tồn tại của Hội thánh. Thí dụ, một
Hội thánh có thể quyết định rằng chủ đích của mình là trở thành thân thể của
Chúa Cứu Thế, sẽ trang bị cho các thành viên của mình để phục vụ cả bên
trong lẫn bên ngoài cộng đồng. Hoặc chủ đích của nó có thể là mọi thành
viên đều phải phát triển ba mối liên hệ then chốt: đối với Thượng Đế là thờ
phượng, đối với các Cơ-đốc nhân bạn là giúp đỡ họ trong sự trưởng thành
thuộc linh, và đối với thế gian là đem sự cứu chuộc đến cho họ. Nên cố gắng
viết một bản tuyên ngôn chỉ bằng một câu, vạch rõ chủ đích của Hội thánh
của bạn: “Chủ đích của chúng tôi là...”
Khai triển một chiến lược.
Một khi các bạn đã có một bản tuyên ngôn vạch rõ chủ đích của mình rồi,
hãy chịu khó nhìn lại các chiến lược chủ yếu mà các bạn đang sử dụng.
Chúng có đưa các bạn đến mục tiêu của mình không? Nếu có một phần
trong chủ đích của các bạn là giúp các thành viên tăng trưởng để trở nên
giống như Chúa Cứu Thế thì Hội thánh của các bạn đang làm gì để thể hiện
việc đó? Ủy ban Cơ-đốc giáo dục đã có một chiến lược gì - hay chỉ có một
loạt các chương trình của rích mà họ nghĩ là cứ giữ cho mọi sự tiến hành?
Nếu chủ đích của Hội thánh chúng ta là giúp mọi người tăng trưởng trong
sinh hoạt cầu nguyện củ ahọ và khích lệ việc cầu nguyện theo tổ, thì rất có
thể rằng thay buổi họp cầu nguyện giữa tuần tại nhà thờ bằng một số các
nhóm nhỏ họp nhau tại các tư gia sẽ thật sự tăng thêm số người cầu nguyện
và phẩm chất của sinh hoạt cầu nguyện củ ahọ. Nhiều Hội thánh đã áp dụng
chiến thuật này Khi có người mới gia nhập Hội thánh, họ được khuyến khích
hãy tham gia một nhóm nhỏ, là nơi họ có thể kết thân với một số người, tăng
trưởng với tư cách các môn đệ của Chúa, và được huấn luyện cho công tác
hướng ngoại.
Tuy nhiên, muốn cho hệ thống này hoạt động trôi chảy, cần phải hoàn thiện
một số chiến thuật khác hậu thuẫn cho nó nữa. Thí dụ phải cómột kế hoạch
mới để bồi dưỡng cho số người mới gia nhập các nhóm nhỏ. Sau đây là cách
mà một Hội thánh đã thực hiện công tác đó:
1 Khi có người đến nhóm lại trong giờ thờ phượng tại nhà thờ, người ấy ký
tên vào một tấm thẻ dành cho khách đến viếng Hội thánh đặt ngay trên ghế
ngồi.
2. Các tấm thẻ ấy sẽ được giao cho thư ký Hội thánh để ông này gởi đến cho
vị khách một bức thư chào mừng, kèm theo một mẫu giấu in sẵn và những
thông tin khác về các nhóm nhỏ.
3. Các tấm thẻ được chuyển đến cho nhóm nhỏ ban thăm viếng.
4. Người của tiểu ban thăm viếng sẽ đi thăm người mới đến trong vòng hai
tuần lễ. Họ bắt liên lạc, kể chuyện thêm về Hội thánh, trả lời các câu hỏi và
mời họ gia nhập một nhóm nhỏ (bảo cho họ biết ở đâu, khi nào và vân vân).
5. Sau buổi thăm viếng, người của ban thăm viếng điện thoại cho một nhóm
nhỏ trưởng để kể chuyện về người mới đến và khích lệ người tổ trưởng bắt
liên lạc với người ấy.
6. Một bức thư theo dõi chăm sóc sẽ được gởi cho người mới đến một tuần
lễ sau.
Hãy nhìn lại bản tuyên ngôn về chủ đích mà các bạn vừa viết ở phần trên.
Bây giờ, hãy cố gắng thảo ra một câu để làm tuyên ngôn cho chiến lược của
Hội thánh của bạn: “Chiến lược hàng đầu của chúng tôi để thực hiện chủ
đích của chúng tôi là...”
Sắp xếp cơ cấu cho đâu vào đấy.
Một khi đã có một chiến lược rõ ràng rồi, các bạn đã sẵn sàng để thiết lập cơ
cấu. Howard Snyder viết: “Nhóm nhỏ có thể trở thành cơ cấu căn bản trong
chi hội địa phương nếu (Hội thánh địa phương) có khải tượng về nó và có
thiện chí muốn cách tân. Tuy nhiên, sự thay đổi sẽ không thể đến được nếu
không có việc duyệt xét lại các chương trình và cơ cấu theo truyền thống.
Rất có thể là buổi họp cầu nguyện giữa tuần phải bỏ đi để nhường chỗ cho
một số các buổi họp nhóm nhỏ giữa tuần, để các nhóm nhỏ khỏi phải dùng
một tối quý báu khác nữa trong tuần, hoặc để chỉ trở thành một điều gì đó đã
quá quen thuộc để trở thành chai cứng rồi? (2)
Các nhóm nhỏ phải nằm trong một màng lưới buộc chặt toàn thể cơ cấu của
Hội tah1nh lại với nhau. Hội thánh Elmbrook gần Milwaukee, Wisconsin,
trù hoạch một chương trình nhóm nhỏ để phục vụ cho ba ngàn thành viên
của mình. Họ có ba loại nhóm nhỏ: 1. Các tổ đồng trang lứa (trẻ con, thanh
thiếu niên, tuổi sinh viên), 2. các tổ có cùng một mối bận tâm (độc thân, phụ
nữ, đàn ông, truyền giáo, hợp xướng, và 3. các tổ theo địa dư (cá ckhu xóm).
Tất cả các tổ đều hoạt động dưới quyền một vị mục sư phụ trách nhóm nhỏ
(xem hình 11).
Hình 11: Thí dụ về một cơ cấu nhóm nhỏ (xem trong sách)
Các tổ theo khu xóm, được tổ chức tùy theo vị trí địa dư đặc thù có từ mười
đến mười hai người cho mỗi tổ. Những người mới đến được bồi dưỡng trong
các tổ qua một chương trình thăm viếng. Có mỗi sáu tổ trong một khu vực
địa dư cá biệt của một thành phố, thì có một điều phối viên địa phương. Các
điều phối viên địa phương này được đặt dưới quyền của vị mục sư điều phối
phụ trách (xem hình 12), là người tiếp xúc với vị mục sư của nhóm nhỏ. Và
sự việc cũng y như thế đối với cả ba loại tổ.
Hình 12: Các tổ trong khu xóm với các cấp lãnh đạo (xem trong sách)
Muốn giữ cho cơ cấu này hoạt động hữu hiệu, cần phải có việc huấn luyện,
có động cơ thúc đẩy và thông tin thường xuyên. Hội thánh Elmbrook xuất
bản một bức thư thông tin hằng tháng để gởi cho các nhóm nhỏ trưởng của
mình, hầu tiếp tay huấn luyện và gợi ý cho họ trong công tác nhóm nhỏ
trưởng, cònc ác điều phối viên địa phương thì cùng họp với họ mỗi ba tháng
một lần. Hội thánh cũng mở một lớp học mỗi ba tháng cho các tổ trưởng cho
các khu xóm mới, và hằng năm một ủy ban mục vụ huấn luyện cho các điều
phối địa phương mới qua một khóa học kéo dài mười hai tuần lễ; Và cớ mỗi
năm một lần, có một khóa tu nghiệp cho cả các cấp lãnh đạo cũ và mới,
duyệt xét lại chiến lược căn bản của chương trình cho các nhóm nhỏ và giới
thiệu các sáng kiến mới.
Kiểu mẫu của Hội thánh Elmbrook đã chứng minh nhiều loại chương trình
và cả cơ cấu có thể cùng cộng tác với nhau như thế nào để nâng đỡ cho
chiến lược của nhóm nhỏ.
Bắt đầu từ con số không làm nền móng.
Một chương trình phức tạp như của Hội thánh Elmbrook vốn không phải từ
dưới đất mọc lên trong đầu hôm sớm mai. Alain Anderson, mục sư của một
Hội thánh thuộc hạng trung bình, muốn khai triển một chiến lược nhằm đạt
bốn mục tiêu quan trọng cho Hội thánh của ông: 1. mở rộng công tác Cơ-đốc
giáo dục cho người thành viên, 2. xây dựng tinh thần cộng đồng chặt chẽ
hơn giữa các thành viên, 3. chăm sóc và bồi dưỡng nhiều hơn cho các thành
viên, và 4. phát triển một phượng pháp nhằm gia tăng việc phục vụ người
khác, cả bên trong lẫn bên ngoài chi hội. ông sẵn sàng bắt đầu từ việc thật
nhỏ, tiến hành từ từ, và xây dựng thật vững chắc sau một số nhiều năm. Ông
vốn biết rằng phải có thời gian mới phát triển được điều có phẩm chất.
Alain đã bắt đầu dự án ấy với một lãnh tụ là tín đồ thường có ảnh hưởng lớn,
là Ray. Năm đầu tiên, cứ mỗi hai tuần lễ, ông và Ray họp mặt với nhau một
lần để nghiên cứu và suy nghĩ về loại nhóm nhỏ cho chức vụ sau này của
Hội thánh họ. Đến cuối tháng thứ hai, có thêm hai vị lãnh đạo là tín đồ
thường khác cũng đến họp với họ, đò là Ann Marie và Joanne. Bốn người ấy
cùng tham dự một cyộc hội thảo đặc biệt về chức vụ của một nhóm nhỏ do
các Hội thánh Sống (Churches Alive) bảo trợ (3). Tại đây, họ được học một
số nguyên tắc, thấy kiểu mẫu của cơ cấu một nhóm nhỏ và nhận được một số
tài liệu, thành văn để sử dụng khi soạn thảo chiến lược của mình.
Trong sáu tháng bốn người ấy đã họp nhau lại để nghiên cứu các tài liệu chi
tiết hơn và soạn thảo một kế hoạch cho năm năm tiếp sau đó, vì họ muốn
cho chương trình nhóm nhỏ của họ trở thành một phần chính thức của chức
vu toàn diện của Hội thánh, phù hợp với công tác Cơ-đốc giáo dục chung
trong Hội thánh, họ soạn thảo và trình lên một đề nghị thành lập các nhóm
nhỏ cho người thành viên, yêu cầu tiểu ban Cơ-đốc giáo dục phê chuẩn Cả
Ban trị Sự của Hội thánh cũng tán thành đề nghị ấy.
Tiếp theo, bốn người ấy cố tìm trong cả Hội thánh (gồm 1.500 tín hữu) và
nhận diện khoảng sáu mươi lăm thành viên có tiềm năng trở thành các nhóm
nhỏ trư3ơng giỏi và sẵn sàng phục vụ cho chức vụ này. Tất cả sáu mươi lăm
người ấy đều được giấy mời đến dự một kỳ nghỉ cuối tuần (đêm thứ sáu và
ngày thứ bảy) để được cung cấp thông tin. Tiếp sau các thư mời, là những
lần gọi điện thoại hoặc thăm viếng cá nhân.
Có ba mươi trong số sáu mươi lăm người đến họp với Ủy ban Thông tin về
nhóm nhỏ và được học tập về khải tượng toàn diện về các nhóm nhỏ trong
Hội thánh, kế hoạch năm năm để xây dựng nó, họ có thể tham gia tiến trình
ấy như thế nào, và bốn chủ đích mà từng nhóm nhỏ đề nghị - nghiên cứu
Kinh Thánh, chia xẻ (sharing), cầu nguyện và hướng ngoại. Đến cuối cuộc
họp, họ được thách thức để vừa cầu nguyện vừa suy nghĩ xem họ có thể
tham gia kế hoạch ấy hay không. Họ phải trả lời trong vòng hai tuần lễ.
Khoảng hai mươi trong số ba mươi người ấy đã đồng ý tham gia.
Hai tổ huấn luyện đã được khai giảng, mỗi tổ có mười người có tiềm năng sẽ
trở thành nhóm nhỏ trưởng với hai thành viên của lực lượng công tác nguyên
thủy. Các tổ này họp mặt hằng tuần suốt hai năm tiếp theo đó. Các buổi họp
của họ kéo dài hai giờ, hoặc lâu hơn. Các buổi họp hằng tuần đó đã giúp họ
phát triển được một tinh thần cộng đồng mạnh mẽ, xây dựng được một tiềm
tin sâu sắc và khép mình vào một khuôn mẫu hội họp đều đặn.
Mỗi tuần, học viên điền vào một mẫu giấy nhằm đánh giá sự tiến bộ của tổ
và của các tổ viên (xem chương về Các nguồn tài nguyên về lãnh đạo). Các
học viên họp nhau lại một thời gian ngắn mỗi sáng Chúa nhật để xét duyệt
các mẫu giấy đánh giá, thảo luận với nhau, cầu nguyện và sắp xếp các hoạt
động trong tương lai.
Sau khoảng một năm rưỡi, nhiều cá nhân vượt trội trong mỗi nhóm được
chọn ra để luân phiên nhau làm tổ trưởng các tổ mới, một tiến trình sẽ thu
hút thêm hai mươi người mới, có tiềnm năng trở thành các nhóm nhỏ
trưởng. Lực lượng công tác chủ lực đích thân phỏng vấn từng người có tiềm
năng trở thành nhóm nhỏ trưởng mới gia nhập để giúp họ quán triệt chủ đích
của các nhóm nhỏ, phần cống hiến cần thiết, những công tác sẽ được giao
phó, và vân vân. Đồng thời Lực lượng cchủ công mở các lớp học khám há
bổ túc. Các lớp này học trong giờ trường Chúa nhật tại Hội thánh trong bảy
tuần lễ. Họ dạy thêm cho số các Cơ-đốc nhân mới và cũng chẳng phải là mới
mẻ gì về một số điểm căn bản trong sinh hoạt Cơ-đốc nhân : niềm tin quyết
vào sự cứu rỗi, cầu nguyện, thắng hơn sự cám dỗ, tha tội, hướng dẫn nếp
sống hằng ngày và phương pháp chứng đạo. Đến khoảng năm thứ ba của
chương trình, thêm hai nhóm nhỏ nữa có thể hoạt động về Lực lượng chủ
công nguyên thủy lo thực hiện công tác huấn luyuện trên một trình độ cao
hơn. Hình 13 cho một cái nhìn bao quát về kế hoạch năm năm của Hội
thánh.
Các nguyên tắc để theo đó mà tăng trưởng.
Tiến trình mà Hôị thánh này noi theo minh họa cho nhiều nguyên tắc quan
trọng để phát triễn bất luận một chương trình cho nhóm nhỏ nào.
Điều nghiên và thiết kế thật cẩn thận. Cả đội phải dành phần phần lớn thời
gian của năm đầu tiên chỉ để thu thập thông tin, duyệt xét các chương trình
củ anhiều Hội thánh khác và soạn thảo kế hoạch cho riêng mình. Kế hoạch
ấy là sự phát triển trong vòng năm năm.
Kiên nhẫn xây dựng về phẩm chất. Hội thánh không nên hấp tấp vào chương
trình nhóm nhỏ chỉ để theo kịp trào lưu. Phải chống lại sự cám dỗ chỉ định
tức khắc hàng mấy chục nhóm nhỏ trưởng không hề được huấn luyện rồi
giao cho họ tất cả những người thuộc về một tổ. Trái lại, phải bắt đầu từ cái
nhỏ, tuến lên từ từ và xây dựng thật vững chắc.
Năm Hoạt động (mục tiêu)
1 Điều nghiên và thiết kế
2 Nhận diện các tổ trưởng có tiềm năng; tổ chức buổi họp thông tin; lập hai
tổ huấn luyện.
3 Mở thêm hai tổ khác; huấn luyện thêm cho lực lượng chủ công.
4 Giải tán các tổ huấn luyện thêm và mở thêm năm tổ dài hạn
5 Thêm nhiều tổ khhi mọi người đều sẵn sàng.
Hình 13: Một kế hoạch ngũ niên cho các nhóm nhỏ
Huấn luyện thật kỹ các tổ trưởng. Huấn luyện là chủ điểm phải chú trọng
vào trong toàn thể chương trình. tất cả các tổ trưởng phải từng ở trong những
nhóm nhỏ tốt trên một năm trước khi cho họ tách ra để lãnh đạo các tổ của
riêng họ. Họ cần thấy rõ cách lãnh đạo mẫu mực trước khi tự mình đứng ra
lãnh đạo.
Thiết lập một hệ thống xét duyệt. Các nhóm nhỏ trưởng phải đánh giá các
buổi họp của họ và họp nhau lại đều đặn để làm công tác kiểm tra phẩm chất
họ phải duyệt xét lại các phương pháp và các mục tiêu để vượt mọi khó khăn
mà tăng trưởng.
Điều phối với các chương trình khác của Hội thánh. Các nhóm nhỏ là một
phần chính thức của chương trình Cơ-đốc giáo dục cho người thành niên,
Chúng có liên hệ với chương trình buổi sáng Chúa nhật với các lớp học
thỉnh thoảng được mở nhằm huấn luyện cho các cấp lãnh đạo, hoặc chuẩn bị
cho các tín hữu sắp tham gia công tác lãnh đạo.
Một nhóm nhỏ không phải là một tế báo cô lập trong thân thể Chúa Cứu
Thế. Nó phải được màn lưới các mối liên hệ với cá nhóm người khác trong
Hội thánh hậu thuẫn, nâng đỡ. tất cả các nhóm các tổ, dầu nhỏ, dầu lớn, đều
biểu hiện sự hợp nhất hữu cơ của Hội thánh. tất cả đều cùng họp lại để tạo
phương tiện cho chúng ta “ngày càng tăng trưởng đến mức giống Chúa Cứu
Thế về mọi phương diện (Chúa Cứu Thế là Đầu; Hội thánh là Thân thể)”
(Eph Ep 4:15).