You are on page 1of 20

NHỮNG KHÁM PHÁ KHOA HOC VÀ NIỀM TIN

KHOA HỌC VÀ KINH THÁNH


Sứ đồ Phao-lô xác chứng “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn”
(IITi 2Tm 3:16). Và Sứ đồ Phierơ cũng đã khẳng định “Thánh linh cảm
động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (IIPhi 2Pr 1:21). Thánh kinh
mang bản chất nhân tính bao gồm chữ viết, văn phạm, văn mạch, văn hoá,
văn chương, lý luận, hoàn cảnh lịch sử, địa lý, v. v… Ngoài ra Kinh thánh
còn mang bản chất thần tánh như vô ngộ, có thẩm quyền, hiệp nhất và huyền
nhiệm. Vậy giữa khoa học và Kinh thánh có hoà hợp nhau không?
Sự hoà hợp giữa khoa học và Kinh thánh là gì? Mat Mt 12:40 đề cập đến
Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Một câu chuyện mà nhiều người
nhận thấy khó tin, vậy mà Chúa Giê-su đã tin nhận câu chuyện ấy. Trước
đây người ta nghĩ rằng chẳng có con cá nào to đủ để nuốt trọn một con
người, tuy nhiên ngày nay người ta biết rằng loại cá nhà táng, loại cá mập
trắng lớn và cá voi có thể làm điều đó. Các sinh vật biển nầy có thói quen
mửa ra những thứ trong bụng nó trước khi chết.
Có những lời ký thuật, rất hết sức xác thực, về những con người trong thời
buổi hiện đại đã bị nuốt trọn bởi những loài cá lớn nầy và sau đó được giải
cứu mà vẫn sống. Một thuỷ thủ người Anh bị ngã qua mạng tàu, bị con cá
nhà táng nuốt chửng, đã sống một ngày rưỡi trong bụng con cá lớn nầy. Con
cá bị săn đuổi, bị đánh bắt và người đàn ông nầy được lấy ra khỏi bụng cá,
bất tỉnh nhưng vẫn còn sống. Câu chuyện nầy nói lên sự hoà hợp giữa khoa
học và Kinh thánh.
A. THIÊN VĂN HỌC:
Trái đất hình tròn và không có vật chống đỡ: Ê-sai đã mô tả trái đất hình tròn
“The circle of the earth: Vòng trái đất”. Trong tiếng Hê-bơ-rơ chữ “Khug”
được dịch là vòng tròn, hoặc hình cầu, giống như quả cầu, là điều chính xác
không ai chối cải được.
Dân Hê-bơ-rơ, dân tộc cổ xưa, duy nhất tin rằng trái đất hình tròn chứ không
phải hình dẹp. Cách đây 2700 năm Ê-sai đã được Đức thánh linh cảm thúc
và viết lên quả đất hình tròn: “Ngài Đấng ngự trên vòng trái đất” (EsIs
40:22). Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ các em bé học lớp ba cũng biết xác
chứng quả đất hình tròn.
Niềm tin về trái đất lơ lửng giữa khoảng không, không được chống đở bởi
một vật gì đã không được khám phá ra, cho đến thế kỷ thứ 15 mới được đề
cập đến. Tuy nhiên giới khoa học chưa chấp nhận, mãi cho đến thế kỷ thứ 17
mới nhận ra lẽ thật. Trong lúc đó Giop G 26:7 mô tả “… Ngài treo trái đất
trong khoảng không không” (He hangs the earth on nothing).
Các ngôi sao vô số không thể đếm được: Từ ngàn năm xưa có những con
người yêu mến thiên văn học, họ tìm cách đếm những ngôi sao:
- Hipparchus sống vào 150 T. C. đã đếm không tới 3000 ngôi sao.
- Ptolemy sống 150 S. C. đã đếm được 1058 ngôi sao.
- Kepler sống vào 1571-1630 đã đếm được 1005 ngôi sao.
- Galileo sống vào 1609 đã phát minh ra viễn vọng kính và khám phá ra rằng
các ngôi sao không thể đếm được.
Ngày nay chúng ta biết rằng mặt trời là một trong số 100 tỉ ngôi sao trong
dãy Ngân hà (Ngân hà: Dải sáng màu trắng nhờ vắt ngang bầu trời, do các
ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quang, Tự
điển VN), và các thiên hà khác (Thiên hà: tập hợp rất nhiều ngôi sao, hàng
trăm tỉ, trong đó Hệ Mặt Trời chỉ là một bộ phận rất nhỏ) cũng có số lượng
ngôi sao tương đương như vậy. Lời Đức Chúa Trời qua các tiên tri đã nói rất
đúng: “Người ta không thể đếm được cơ binh trên trời, và lường cát dưới
biển” (Gie Gr 33:22). Đức Chúa Trời hứa chúc phước cho Áp-ra-ham, một
con người lại là một người già yếu, sanh ra muôn vàn con cháu, đông như
sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được (HeDt 11:12).
B. KHÍ TƯỢNG HỌC
Vòng hơi nước: Cách đây gần 4000 năm, Kinh thánh đã nói về vòng hơi
nước tức sự vận hành của nước bốc hơi, ngưng tụ, thành mây, thành mưa
hoặc thành tuyết rơi xuống đất, để rồi lại bốc hơi. Dầu vậy các nhà khoa học
vẫn chưa hiểu đầy đủ quá trình nầy, cho mãi đến thế kỷ 19, kiến thức khoa
học gia tăng họ mới thấu hiểu được sự vận hành của vòng hơi nước. Trong
lúc đó, Giop G 36:27-28 đã xác chứng: “Vì Ngài thâu hấp các giọt nước: Rồi
từ sa-mù (mist) giọt nước ấy bèn hoá ra mưa. Đám mây đổ mưa ấy ra, nó từ
giọt sa xuống rất nhiều trên loài người”. Những giọt mưa nầy rơi rớt xuống
mọi nơi để rồi mọi sông đều đổ vào biển, song không hề làm cho đầy biển;
nơi mà sông thường chảy vào, nó lại chảy về đó nữa (TrGv 1:7).
Sự tuần hoàn của không khí: Luồng chuyển vận của gió và không khí không
được các nhà khoa học khám phá. Cách đây 100 năm, các nhà khoa học mới
sử dụng những quả bóng thời tiết ở độ cao để khám phá ra rằng hơi ấm bắt
đầu ở tại xích đạo, tràn xuống hai cực, nó lạnh đi và rơi xuống bề mặt của
trái đất, là nơi một lần nữa nó lại tràn về xích đạo để bắt đầu lại chu trình
nầy. Sự kiện nầy đã được Gióp và vua Sa-lô-môn đề cập đến:
Giop G 28:25 “Chúa định hướng cho các luồng gió và đặt biên giới cho các
đại dương” (Theo bản diễn ý). Một bản khác dịch “Ngài định sức nặng cho
gió”. Gióp nói tiếp “Chúa sai bão tố từ phương nam, và lạnh giá đến từ
phương bắc” (37:9 Bản diễn ý).
Sa-lô-môn cũng đồng một quan điểm như Gióp “Mặt trời mọc, mặt trời lặn,
nó lật đật trở về nơi nó mọc. Gió thổi về hướng nam, kế xây qua hướng bắc;
nó xây đi vần lại không ngừng, rồi trở về vòng cũ nó” (TrGv 1:5-6). Tiến sĩ
Lê Hoàng Phu dịch “Mặt trời mọc, lặn, xoay vần không dứt. Gió thổi nam,
thổi bắc, quanh đi vòng lại”.
Chớp: Đề cập đến vấn đề nầy Gióp đã nói nhiều năm về trước: “Ai đào kinh
cho nước mưa chảy, phóng đường cho chớp nhoáng của sấm sét” (Giop G
38:25). Hoặc “Ai đào kinh cho nước lụt, và chỉ đường cho sấm chớp” (Diễn
ý).
Vào năm 1930, các máy chụp hình với tốc độ cao đã chụp ánh sáng của
chớp. Khi chiếu lại trên màn ảnh với tốc độ chậm, các nhà khoa học đã ghi
nhận rằng: Trước khi chớp phát ra với tiếng sấm kèm theo, đã có một đường
phóng. Đường phóng nầy là việc thăm dò ban đầu của sức mạnh năng lượng
điện đến mặt đất. Khi tia phóng đến gần mặt đất nó hút một chuỗi điện tích
từ mặt đất về phía nó. Tia phóng và chuỗi điện tích gặp nhau, có một con
đường chuẩn bị cho chớp xuất hiện, lập tức ánh chớp trở thành một tia sáng
thấy rõ.
Điều nầy cho chúng ta thấy từ tia chớp, vòng hơi nước hay sự tuần hoàn của
không khí đều được Thiên Chúa dự phòng, lo liệu, tính toán để mọi sự kiện
xẩy ra trong trật tự vì Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời trật tự.
C. SINH VẬT HỌC
Tất cả các động vật tái sản sinh đều tuỳ theo loại của chúng: Từ nhiều thế kỷ
nay người ta tin rằng một loài động vật có thể giao phối với động vật khác
để cho ra đời một loài động mới. Điều nầy đã được chứng minh là không thể
được, vì mỗi loài đều có số lượng nhiểm sắc thể khác biệt và cụ thể. Chúng
là những tế bào tái sản sinh chính nó để cho ra đời con cháu. Hai loài động
vật cùng một loài có thể cho ra đời loài thứ ba. Ví như con ngựa và con lừa
có thể cho ra một con la, nhưng khi điều nầy xẩy ra thì thế hệ con cái không
có khả năng sinh sản. Chúng không tạo được một loài mới. Một lần nữa
Kinh thánh lại đúng như lời Chúa xác chứng: “… Đức Chúa Trời lại phán
rằng: Đất phải sanh các loài sống tuỳ theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú
rừng, đều tuỳ theo loại; thì có như vậy. Đức Chúa Trời làm nên các loài thú
rừng tuỳ theo loại, súc vật tuỳ theo loại, và các côn trùng trên đất tuỳ theo
loại …” (SaSt 1:21-25).
Tại sao không được kết hôn với những người bà con gần?: Loài người có
hơn 300 gien khiếm khuyết gây ra những khuyết tật như: điếc, mù loà, mù
màu, dư tứ chi, tứ chi ngắn, hay chảy máu, bạch tạng, tiểu đường v. v… Khi
những người bà con gần kết hôn lẫn lộn, những gien khuyết tật nầy có khả
năng truyền lại cho con cháu nhiều hơn. Một nan đề đặt ra con cháu của
Cain và Sết, những người nầy đã kết hôn với chị em ruột của họ thì sao? Có
thể vào thời kỳ mớ khai thiên lập địa dân số chưa đông, các gien khiếm
khuyết nầy chưa xuất hiện trong loài người.
Một bộ tộc tại Phi châu đã phải chịu một sự biến dạng khiến các ngón chân
của họ chỉ còn lại hai ngón lớn trong hình chữ “V” như bàn chân đà điểu.
Khuyết tật nầy là kết quả của việc giao phối giữa những người bà con gần
với nhau. Những người đã tái định cư và kết hôn với những người không có
mối quan hệ bà con gần thì sinh ra con cháu bình thường.
Mọi xác thịt đều không giống nhau: Từ xưa cho mãi đến thế kỷ 20, các nhà
khoa học đều tin rằng tất cả những loài xác thịt hầu như đều giống nhau. Mãi
đến năm 1930, kính hiển vi điện tử được phát minh, các nhà khoa học mới
nhận biết các tế bào đều hoàn toàn khác nhau về cấu trúc. Ngày nay ngành
khoa học hiện đại đã nhận ra bốn sự phân chia của các loài xác thịt: con
người, thú vật, loài cá và chim chóc. Sự phân chia nầy chính xác như Phao-
lô đã nhận định “Mọi xác thịt chẳng phải là đồng một xác thịt; nhưng xác
thịt loài người khác, xác thịt loài thú khác, loài chim khác, loài cá khác”
(ICo1Cr 15:39). Một lần nữa lời của Đức Chúa Trời chính xác, khiến các
nhà khoa học chống đối đành bịt miệng.
**********

TRÁI ĐẤT ĐƯỢC BAO BỌC


Theo người Do thái có ba tầng trời đều được gọi là Thiên đàng. Bầu trời bao
bọc bởi khí quyển nơi đó có sinh vật sống, người Do thái gọi đó là tầng trời
thứ nhất. Khoảng không gian có các loại tinh tú ngoài tầng khí quyển, đó là
tầng trời thứ hai. Tầng trời thứ ba được Phao-lô mô tả là Ba-ra-đi, ở đó ông
nghe những lời không cho phép nói ra (IICo 2Cr 12:2-4).
Học thuyết về trái đất được bao bọc cho biết rằng trước đây đã từng có một
bức màn hơi nước dày 8 km được giăng trên bầu khí quyển ở độ cao từ 32
đến 40 km. Người ta tin rằng bức màn đã giải thích cho nhiều sự việc được
biết là đã tồn tại trên trái đất trước khi có cơn Đại hồng thuỷ.
I. BẰNG CHỨNG KINH THÁNH VỀ BỨC MÀN HƠI NƯỚC
 Có phải bầu trời ở giữa nước và nước không?
Dựa theo Sáng thế ký 1: 6-8 Đức Chúa Trời đã tạo dựng bầu trời từ giữa
nước. Thượng đế phán: “Phải có khoảng không phân cách nước với nước”.
Vậy Thượng đế tạo ra khoảng không, phân cách nước dưới khoảng không và
nước trên khoảng không. Thượng đế gọi khoảng không là trời (BDY).
 Trước cơn Đại hồng thuỷ có bao giờ mưa trên mặt đất không?
Sáng thế ký 2: 5-6 xác chứng “Vả, lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc
ngoài đồng, và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng, vì Giê-hô-
va Đức Chúa Trời chưa có cho mưa xuống trên mặt đất, và cũng chẳng có
một người nào cày cấy đất nữa. Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp
cùng mặt đất”.
Theo khoa học ngày nay cho biết mưa là do gió và nước bốc hơi gây ra. Gió
là do sự thay đổi nhiệt độ tạo thành. Nhiệt độ thay đổi là do các tia mặt trời
chiếu thẳng vào bề mặt trái đất tạo thành.
Các tia mặt trời được lọc bởi bức màn nước vì vậy có một nhiệt độ tương đối
không thay đổi trên khắp thế giới, chỉ có những cơn gió nhẹ mà chẳng bao
giờ có những trận bão. Trái đất đã nhận được hơi ấm ban sự sống, không
phải từ mưa, mà do lớp sương đọng lại mỗi buổi tối trên các loài thực vật, do
hơi ẩm trong việc làm lạnh không khí, như lời Kinh thánh phán.
 Dưới bức màn hơi nước nầy, chúng ta có thấy cầu vồng, mặt trời, và mặt
trăng không?
Cầu vồng gây ra bởi tác dụng của lăng kính khi các tia mặt trời bị gấp khúc
xạ và phản xạ khi chúng đi qua các giọt nước nhỏ, bao gồm đủ 7 màu chính,
xuất hiện trên bầu trời, đối diện với mặt trời hay mặt trăng. Như vậy sẽ
không có cầu vồng trước khi nước lụt, bởi vì không có những tia mặt trời
trực tiếp và không có những tia nước nhỏ để chiếu qua. Cái mống hay cầu
vồng là dấu chỉ về giao ước bất diệt của Đức Chúa Trời với con dân Ngài và
muôn loài trên đất, sẽ chẳng có nước lụt huỷ diệt mọi sinh vật nữa (SaSt
9:13-17). Nô-ê chẳng hề thấy một cái mống nào suốt 600 năm ông sống trên
mặt đất.
Từ khi bức màn hơi nước không còn nữa, sau nước lụt, lần đầu tiên Kinh
thánh đề cập đến mặt trời lặn. Ngày ấy Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng
Áp-ra-ham: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ sông Ê-díp-tô cho đến sông
lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát (15:17-18). Bức màn hơi nước đã được vén khỏi
mắt muôn loài vạn vật, con dân Ngài. Con dân Ngài và muôn vật có thể thấy
được mặt trời, các ngôi sao, mùa gieo, mùa gặt, mùa hè, mùa đông, đêm và
ngày. Từ đó, họ quên đi Đấng tạo hoá, bội nghịch cùng Ngài và bắt đầu thờ
lạy các thiên thể trên trời cao sau khi có trận lụt.
Những di tích văn hoá, các nhà khảo cổ đào bới được đã chứng minh sự kiện
nầy. Ngoài ra qua tinh thần xây cất một thành phố vĩ đại Ba-bên với tháp cao
ngất trời xanh. Đức Chúa Trời không hài lòng với thái độ bội nghịch, kiêu
ngạo, Ngài đã xáo trộn tiếng nói cả thế giới, và phân tán họ khắp mặt đất.
 Con người được ăn thịt khi nào?
Ban đầu trái đất trống không, ngày thứ nhất Thượng đế tạo dựng nên sự
sáng, ngày thứ hai bầu trời, ngày thứ ba cỏ và cây cối, ngày thứ tư hai vị sao
lớn và các ngôi sao, ngày thứ năm các loài cá và chim trời, ngày thứ sáu làm
nên loài người. Ngày thứ bảy, Thượng đế làm xong các công việc Ngài làm
và nghỉ mọi công việc sáng tạo. Thế thì sau khi con người được làm nên con
người được ăn những thức ăn gì để sống sinh hoạt và tồn tại? Thượng đế
truyền rằng: “Ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất,
và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi” (1:29-
30). Tức là Thượng đế ban cho loài người thực vật để làm lương thực.
Sau cơn Đại hồng thuỷ, Nô-ê dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời
ban phước cho Nô-ê và con trai người “Hãy sinh sản, thêm nhiều, làm cho
đầy dẫy trên mặt đất”. … Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng
làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như Ta đã cho thứ cỏ xanh (9:2-
3). Có lẽ khí hậu khắc nghiệt, và những trận mưa, bão đã khiến con người
tiêu hao sức lực, con người cần thêm sức lực mà thịt là là nguồn cung cấp
sức mạnh trong môi trường mới.
Cơ Đốc giáo bị người đời bác bỏ về mặt triết học, chứ không bao giờ chối
bỏ Cơ Đốc giáo về mặt luân lý, đạo đức, khoa học và niềm tin. Tất cả những
tuyên bố ngay cả những tuyên bố mang tính cách khoa học của Kinh thánh
đều hoàn toàn chính xác cho khoa học tiên tiến ngày nay. Người đời nghĩ ra
thuyết tiến hoá vì họ đã chối bỏ Đức Chúa Trời. Thuyết tiến hoá cho rằng tất
cả động vật và thực vật đều dần dần phát triển qua hàng triệu năm từ những
hình thức đơn giản qua quá trình chọn lọc và biến đổi tự nhiên. Nói đến
khoa học là nói đến sự khảo sát thế giới hiện tại bằng cách sử dụng giác
quan của con người. Khoa học phải quan sát và lập đi lập lại nhiều lần.
Thuyết tiến hóa không phải là một ngành khoa học theo định nghĩa nầy mà
là một ngành của triết học suy luận.
Vậy, ngay cả những nhà khoa học, bác học, chính trị gia, hoàng đế có đầu óc
vĩ đại thay đổi toàn bộ cục diện nhân loại đã tin vào Kinh thánh, tin vào Đức
Chúa Trời. Nhà bác học Bacon đã xác nhận: “Khoa học nông cạn đưa con
người xa tôn giáo, khoa học uyên thâm đem con người đến gần tôn giáo”.
Còn các bạn thì sao? Hãy đến với lời Chúa qua câu gốc: “Vả, hể các lời lành
mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã phán được ứng nghiệm cho các
ngươi thế nào, thì Đức Giê-hô-va cũng sẽ làm ứng nghiệm những lời hăm
doạ của Ngài trên các ngươi thể ấy …” (Gios Gs 23:15).
**

CHIẾC TÀU CỦA NÔ Ê VÀ NƯỚC LỤT


Trong Thánh kinh LuLc 17:26 Chúa Cứu Thế Giê xu phán : “việc đã xảy
đến trong đời Noê, thì cũng sẽ xảy đến trong thời Con người ”. Điều gì khiến
Chúa Giê-xu đã chấp nhận sự kiện Đức Chúa Trời trút cơn Đại hồng thuỷ
tiêu diệt toàn thể nhân loại vì cớ sự gian ác của loài người và Ngài chỉ tìm
trong dân chúng được 8 người công bình để cứu. Chúng ta có thể đặt niềm
tin vững chắc về điều này được không?
I. CƠN ĐẠI HỒNG THUỶ XUẤT HIỆN
SaSt 7:11
Nếu không dựa vào thánh kinh, chúng ta sẽkhông chấp nhận làm sao trời có
thể tạo nên cơn mưa trong suốt 40 ngày và 40 đêm với 1 lượng nước có thể
làm chìm cả ngọn núi cao nhất thời bấy giờ khoảng 15 mét (tính từ đỉnh).
Kinh thánh SaSt 7:20 giải thích rằng chính các nguồn nước từ các vực lớn
nổ ra, từ các đập trên trời mở xuống. Chính hai nguồn nước này kết hợp với
nhau làm nên cơn lụt trong suốt 40 ngày đêm tiêu diệt toàn bộ vạn vật trên
đất.
II. CƠN ĐẠI HỒNG THUỶ XẢY RA TRÊN TOÀN THẾ GIỚI
Nước lụt đã xảy ra trên đất 1656 năm sau khi A-đam được tạo dựng. Hầu hết
người nam sống hơn 900 tuổi. Những người nam còn có thể sinh con từ độ
tuổi 65 đến 500. Nếu mỗi gia đình sinh được 20 người con thì thế hệ cuối
cùng trước cơn nạn hồng thuỷ, dân số toàn cầu đã có trên 2 tỷ người/ 200
triệu.
Nếu trận lụt xảy ra có tính địa phương thì đã không thể tiêu diệt cả nhân loại
được (7:19-23) và Đức Chúa Trời đã không bảo NÔ-Ê phải đóng tàu vì họ
có thể di chuyển gia đình đến 1 khu vực khác an toàn hơn như Ngài đã làm
về sau này với Lót khi đoán phạt thành Sôđôm.
7:24, 8:5-14 mô tả trận lụt kéo dài trong suốt 150 ngày, tất cả mọi sinh vật
đều chết (7:21-23).
XÉT VỀ KHOA HỌC
Ngày nay các bằng chứng hoá thạch đã chứng minh niềm tin này, vì chúng
được tìm thấy trong những mảnh lộn xộn trong các mồ chôn thú tập thể. Các
con thú bị dòng nước lũ cuốn đến những vùng đất thấp và bị vùi lấp bởi phù
sa, cát cùng với những thứ khác. Với sức ép có cường độ cao của hàng ngàn
mét nhanh chóng làm hoá thạch các xác chết trong điều kiện mà các nhà
khảo cổ đã tìm thấy ngày nay.
SỰ HÌNH THÀNH HOÁ THẠCH
Các yếu tố để hoá thạch hình thành bởi sự chết đột ngột và chôn lập tức của
các sinh vật. Ap lực đột ngột của sự chết và chôn tránh sự tan rửa do ôxy
hoá và các yếu tố khác tạo nên hoá thạch.
Bằng chứng: Các hoá thạch của những sinh vật biển và các đụn muối được
hình thành bởi nước được tìm thấy trên đỉnh Ararát và những ngọn núi cao
khắp thế giới. Điều này phù hợp với Kinh thánh : Đã từng có 1 trận lụt toàn
cầu bao phủ mọi ngọn núi. Các nhà thám hiểm, nhà khảo cổ cũng đã tìm
thấy 1 số lượng lớn các hoá thạch của đời sống biển. Khoảng 75% vỏ trái đất
là đá trầm tích được hình thành trong nước và bởi nước.
XÉT VỀ TRUYỀN KHẨU
Ngày nay người ta thống kê có hơn 200 ký thuật về câu chuyện trận đại
hồng thuỷ đã tiêu diệt toàn thể nhân loại. Rải rác ở các dân tộc thuộc Batư,
An độ, Inđônêsia, Tân Giêni, Tahti, Hawaii, Trung Hoa, Nhật bản, Syberia,
úc, Tân tây lan, Alaska, Aicập, Suđan, Nigiêria, Nam phi, Hi lạp, Ireland,
Lithuania, Finland, Wales, Ai Nhĩ lan cùng với những truyền thuyết, chi tiết
nhất là của các dân tộc vùng núi Ararát, miền đông nước Thổ Nhĩ Kỳ, là nơi
con tàu đã tấp vào, những lời truyền thuyết này đã được truyền khẩu trước
khi họ có được quyển Kinh thánh. Một số dân tộc ở NamPhi như dân
Hottentot tin rằng họ là con cháu của “Nah” và người Hawaii đã tường thuật
trận lụt mà sau đó chỉ có “Nu-u” và gia đình ông được cứu sống.
Chúng ta có thể hiểu được sự lan truyền của những lời truyền khẩu này vì
con trai của NÔ-Ê là Sem vẫn còn sống trong thời Apraham, Ysác, Giacốp.
Những gốc dân khác được nghe kể về nạn lụt từ Cham, sem, Giaphết trước
khi họ tan lạc khắp thế giới. Những câu chuyện dù bị sai lệch ít nhiều, nhưng
sự kiện có quá nhiều lời truyền khẩu về cơn nạn hồng thuỷ khiến cho lời ký
thuật của sáng thế ký mang giá trị đích thực.
III. CHIẾC TÀU KHÓ TIN
Chiếc tàu khổng lồ: có chiều dài ít nhất là 150 m, rộng 25m, và cao 15 m,
(SaSt 16:15, Dựa trên đơn vị cubit: 1 cube = 45cm)
* Câu hỏi được đặt ra là làm sao NÔ-Ê và các con trai có thể thực hiện được
một công trình đồ sộ như thế.
* NÔ-Ê bắt đầu thực hiện chương trình này khi ôngđã 500 tuổi, có thể ông
đã tích luỹ nhiều kiến thức và kỷ năng trong cuộc sống.
* Dựa trên cơ sở khoa học, 1 con tàu có tỉ lệ cân đối nhất trong nước phải là
6 đối 1. Trong nhiều thế kỷ qua các con tàu có tỉ lệ bình thường đều có tỉ lệ
10 đối 1. Điều này chứng minh rằng con tàu NÔ-Ê thực hiện qua sự huấn thị
của Đức Chúa Trời có tỉ lệ rất chính xác.
Con tàu có khoảng 420 ngàn mét khối không gian để chứa hàng hoá, tương
đươngvới 522 toa xe lửa, có dư chỗ để giữ tất cả các loại thú vật một cách dễ
chịu.
Đối với các sinh vật sống trong nước thì không phải vào tàu.
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu các loài động vật và đưa đến sự tính toán
như sau:
a, Động vật có vú 3500x2 (được đưa vào tàu/ 7:2)
b. Loài chim 8600x7 (được đưa vào tàu/ 7:3)
c. Các loài lưỡng cư và bò sát 5500x2 (được đưa vào tàu/ 7:2)
d. Tổng số các loài ngày nay 17600
Các loài được đưa vào tàu: khoảng : khoảng 78000?
* Đối với các loài côn trùng chiếm khoảng không gian rất nhỏ
Đức Chúa Trời bảo NÔ-Ê hãy đem mỗi cặp loại thú vào tàu. Thí dụ: chó sói,
cáo, chó rừng, sói đồng cỏ… đều có thể được sinh sản và lai giống từ cặp
chó đã vào tàu.
* Nhân loại từ đó được sản sinh từ cặp vợ chồng NÔ-Ê và gia đình 3 người
con của ông.
NÔ-Ê TẬP HỌP CÁC THÚ VÀO TÀU NHƯ THẾ NÀO?
SaSt 7:8, 9, 15 cho biết các thú vật “đến cùng NÔ-Ê ” như vậy có nghĩa là
Đức Chúa Trời đã gây một tác động trong các loài thú vật để chúng tự di
chuyển đến con tàu và đã ấn định thời gian cho chúng để chúng đến đúng
ngày.
- Trong nghĩa địa hoá thạch ở tại Mỹ, những hoá thạch thú vật như: lạc đà, tê
giác, lợn rừng khổng lồ… Những con thú này hiện nay chỉ sống ở Châu á và
Châu Phi.
- Tại anh quốc các di tích của loài gấu nâu đốm, bò rừng, tuần lộc, khổng
tượng, linh cẩu, trâu nước. Ngày nay không còn một loài nào trong các loài
đó sống ở khu vực này.
NÔ-Ê VÀ GIA ĐÌNH ÔNG ĐÃ CHĂM SÓC CHO TẤT CẢ CÁC LOÀI
THÚ NÀY BẰNG CÁCH NÀO?
Hầu hết động vật đều có khả năng ngủ đông trong suốt những thời kỳlạnh
lẽo, tối tăm. Cùng với sự chuyển động của con tàuýo lẽ cũng đã giúp cho thú
vật im lặng và ngủ đi.
Các động vật không thể đi lại nhiều trong hoàn cảnh này, chắc hẳn cũng
không cần nhiều thức ăn. Gia đình NÔ-Ê có thể nuôi dưỡng những con nào
không ngủ cũng không quá nhiều khó khăn.
IV. CHIẾC TÀU ĐÃ TẤP VÀO NÚI ARARÁT
SaSt 8:4 “Đến tháng thứ bảy, ngày 17, chiếc tàu tấp trên núi Ararát ”. Núi
Ararát là rặng núi ở phía Đông Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay thuộc địa phận biên
giới Armenia.
Những chứng nhân mô tả về con tàu.
1. Năm 475 TC, một tư tế người Babilôn (Berossus) nói rằng người ta có thể
thấy một chiếc tàu ở trên gọn núi tại Thổ Nhĩ Kì Armenia.
2. Năm 30 TC, Nicolas Damascenus đã viết về một ngọn núi Armenia mà
trên đó một con tàu đã mắc cạn sau cơn hồng thuỷ.
3. Năm 130 SC, Josephus, một sử gia người Dothái, đã viết rằng chiếc tàu
NÔ-Ê nằm trên một ngọn núi ở tại Armenia và vẫn còn nhìn thấy được.
4. Năm 130 SC, Marco polo tường thuật rằng chiếc tàu NÔ-Ê đã tấp trên cao
một ngọn núi ở tại Armenia.
5. Năm 1883, một nhóm các đại biểu chính phủ Thổ NhĩKỳ khẳng định họ
đã phát hiện chiếc tàu trong khi khảo sát một trận tuyết lỡ. Những người này
đã vào trong xác tàu và tường thuật rằng họ tìm thấy phần bên trong “vẫn
còn tốt và được ngăn chia như những căn phòng”
6. Năm 1905, một cậu bé người Armeni, Georgie Hagopian, và chú của
mình đã leo lên nơi họ nhìn thấy chiếc tàu nhô ra từ một tảng băng. Cậu bé
đã trèo lên con tàu và đã có thể mô tả con tàu một cách chi tiết. Một lời ký
thuật qua băng về lời làm chứng của cậu đã được thực hiện không lâu trước
khi cậu qua đời năm 1972 đã được đưa vào những thí nghiệm phân tích
giọng nói cho thấy không có dấu hiệu là cậu đã nói dối.
7. Năm 1925, một phi công người Nga bay qua vùng Ararát trong thế chiến
thứ nhất cho rằng ông đã nhìn thấy con tàu. Sau khi nghe lời báo cáo này,
Nga hoàng đã gởi một đội lính đến địa điểm này, là nơi họ đã xác định và
khảo sát có con tàu lớn. Nhưng trước khi họ có thể báo cáo trở về cho chỉ
huy thì cuộc cách mạng Nga nổ ra và những người lính này đã bị tản lạc.
Một số người cuối cùng đã đến tại Hoa kỳ và có một số bạn bè và bà con
khác nhau khẳng định câu chuyện của họ.
8. Thế chiến thứ hai, các phi công Nga đã chụp các bức hình từ trên không
cho thấy chiếc tàu NÔ-Ê đã nhô ra từ băng tuyết.
9. Năm 1948, một nông dân người Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố ông ta đã nhìn thấy
con tàu trong khi trèo lên vùng băng tuyết và ông nói rằng ông đã bước đi
trên sàn tàu.
10. Năm 1952, viên kỷ sư người Mỹ là George Green đã chụp các bức hình
con tàu từ chiếc trực thăng của ông trong khi lượn trên vùng núi Ararát phủ
tuyết.
11. Năm 1969, hai nhà thám hiểm khác nhau đã mang về những mảnh gỗ
được khắc nhũ bằng tay từ con tàu.
12. Năm 1973, các bức hình vệ tinh đã phát hiện địa điểm chính xác của một
vật thể khổng lồ “không nhận diện được” là thứ xa lạ đối với núi Ararát, là
nơi nó được xác định.
13. Cuối cùng phải ghi nhận rằng hầu như tất cả các dân bản xứ thuộc vùng
núi Ararát đều hoàn toàn nhất trí rằng con tàu đang ở đấy. Truyền thống dân
gian của họ thường nói về con tàu và nhiều lần họ đã quả quyết những người
chăn cừu lang thang phát hiện chúng vào mùa hè.
ĐIỀU GÌ KHIẾN CHO VIỆC KHÁM PHÁ CON TÀU TRỞ NÊN KHÓ
KHĂN?
Núi Ararát cao 5214 mét. Phần chân núi rộng 1040 km vuông. Phần đỉnh
1230m của núi bị bao phủ bằng lớp băng tuyết và có những nơi sâu đến
246m. Đây là một ngọn núi rất khó leo. Có hàng ngàn khe nứt và hốc núi có
thể đã che giấu toàn bộ con tàu. Ơ đây thường xuyên có những trận động đất
gây ra những vụ đất lỡ lớn, khí hậu đột ngột trở nên khắc nghiệt (những trận
bão tuyết đóng băng là bình thường, kể cả vào mùa hè). Đây cũng là một
khu vực nhạy cảm về chính trị. Vì Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia Hồi giáo.
Vùng biên giới núi Ararát nằm trên xứ Armenia, vốn thuộc Liên bang Xô
viết
Người ta tin rằng con tàu ở độ cao khoảng 4308m đến 4769 m, tuy nhiên
những người bản xứ tuyên bố là biết địa điểm thì từ chối không leo cao hơn
những độ cao 3692-4000m. Thường thì những đội thám hiểm không thể tìm
được người hướng dẫn, bất chấp số tiền được đề ra là bao nhiêu. Những
người địa phương rất mê tín và họ tin rằng “các tà linh” đang canh giữ chiếc
tàu. Tuy nhiên tất cả họ đều đồng ý rằng “Nuhem Genisi” (con tàu NÔ-Ê)
vẫn còn đang nằm trên núi.
Hiện nay người ta vẫn chưa biết chính xáchoàn toàn nơi con tàu toạ lạc trên
vùng núi đồ sộ ấy. Người ta tin rằng con tàu đang bị chôn chặt trong tuyết.
Từ trước đến nay các nhóm không được trang bị, không được tài trợ đầy đủ
và không đủ tiêu chuẩn đã tấn công toà đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ ở tại Hoa Kỳ tới
tấp bằng những yêu cầu để xin phép được leo lên núi Ararát để tìm kiếm con
tàu. Toà đại sứ Thổ Nhĩ Kỳhết sức chậm chạp đưa ra lời đồng ý cho phép
các đoàn thám hiểm và điều này dường như không thể thành công. Một số
người thậm chí đã trèo lên núi mà không có được sự cho phép chính thức, là
điều đã làm ngăn trở cho những nhóm hợp pháp nhận được sự cho phép từ
chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ.
**

CÓ PHẢI KHỦNG LONG VÀ CON NGƯỜI SỐNG CÙNG THỜI ĐIỂM


KHÔNG?
Thuyết tiến hoá dạy rằng loài khủng long đã tiến hoá một cách tình cờ và đã
tồn tại cách đây khoảng 2 trăm triệu năm, sau đó bị diệt chủng cách đây 65
triệu năm. Thuyết này chỉ dựa trên sự suy đoán trên vô số giả định, không
cho thấy sự chính xác nào để tin rằng khủng long đã thật sự tiến hoá hàng
triệu năm trước.
Hầu hết các Cơ Đốc nhân không gặp vấn đề khi tin rằng con người chỉ tồn
tại trong khoảng 6 ngàn năm, nhưng họ khó khăn lắm để chấp nhận việc
Đức Chúa Trời dựng nên khủng long cùng thời điểm với loài người và các
loài vật khác.
I. TRONG KINH THÁNH KHỦNG LONG ĐƯỢC MÔ TẢ NHƯ THẾ
NÀO?
A. Giop G 40:15-24 BEHEMOTH (BRACHIOSAURUS?)
(theo bản Kinh thánh Việt Nam 40:10-19)
10. Nầy, con trâu nước mà ta đã dựng nên luôn với ngươi;
Nó ăn cỏ như con bò.
11. Hãy xem: sức nó ở nơi lưng,
Mãnh lực nó ở trong gân hông nó.
12. Nó cong đuôi nó như cây bá hương;
Gân đùi nó tréo xỏ rế.
13. Các xương nó như ống đồng,
Tứ chi nó như cây sắt.
14. Nó là công việc khéo nhứt của Đức Chúa Trời;
Đấng dựng nên nó giao cho nó cây gươm của nó.
15. Các núi non sanh đồng cỏ cho nó ăn,
Là nơi các thú đồng chơi giỡn.
16. Nó nằm ngủ dưới bông sen,
Trong bụi sậy và nơi bưng.
17. Bông sen che bóng cho nó,
Và cây liễu của rạch vây quanh nó.
18. Kìa, sông tràn lên dữ tợn, nhưng nó không sợ hãi gì;
Dầu sông Giô-đanh bủa lên miệng nó, nó cũng ở vững vàng.
19. Ai bắt được nó trước mặt?
Ai hãm nó trong lưới, rồi xoi mũi nó?
Có một số bản Kinh thánh có ghi chú thêm rằng Behemoth là 1 loài voi hoặc
loài trâu nước. Thực ra, nó rất khác với lời Kinh thánh mô tả - behemoth có
đuôi “như vây bách” khác hẳn với đuôi voi. Vậy, lời miêu tả của Gíop về
Behemoth rất phù hợp với lời miêu tả loài khủng long Brachiosaurus.
B. GIÓP 41. CON RỒNG THỞ RA LỬA.
(Bản Kinh thánh Việt Nam Giop G 40:20-28, 41:1-25;)
20 Ngươi có thể câu sấu với lưỡi câu,
Và dùng dây mà xỏ lưỡi nó chăng?
21 Có thể xỏ một sợi mây qua mũi nó,
Và xoi hàm nó bằng một cái móc ư?
22 Nó há sẽ cầu ơn nhiều cùng ngươi,
Và nói với ngươi những lời êm ái sao?
23 Nó sẽ lập giao ước với ngươi,
Để ngươi bắt nó làm tôi mọi đời đời chớ?
24 Ngươi há sẽ chơi giỡn với nó như với một con chim,
Cột nó cho các con gái nhỏ mình chơi hay sao?
25 Bọn thợ câu sẽ bán nó không?
Phân phát nó cho các lái buôn chăng?
26 Ngươi có thể lấy cái đọc đâm đầy da nó,
Dùng lao phóng cá mà găm đầy đầu nó chăng?
27 Hãy thử tra tay ngươi trên mình nó:
Về sau khá nhớ việc tranh đấu, - chớ hề làm lại nữa!
28 Kìa, sự trông bắt nó được bèn mất hết;
Chỉ thấy tướng dạng nó, người ta liền rụng rời đi.
GIÓP 41
1. Chẳng ai đủ gan dám trêu chọc nó;
Vậy, ai sẽ đứng ở trước mặt ta cho nổi?
2. Ai ban cho ta trước đã, mà ta phải trả lại cho?
Phàm vật chi ở dưới trời đều thuộc về ta.
3. Ta hẳn sẽ nói về các chi thể nó,
Về sức lực nó, và sự tốt đẹp của hình trạng nó.
4. Có ai lột được áo choàng của nó không?
Có ai vào trong hàm đôi của nó được chăng?
5. Ai sẽ mở cửa họng nó ra?
Sự kinh khủng vây chung quanh răng nó.
6. Nó có oai hùng vì cớ các hàng khiên của nó,
Bằng thẳng dính khắn nhau như được niêm phong;
7. Cái nầy đụng với cái khác,
Đến đỗi gió chẳng lọt qua được.
8. Cái nầy hàng lại với cái kia,
Dính với nhau, không hề rời rã.
9. Sự nhảy mũi nó giăng ánh sáng ra,
Hai con mắt nó khác nào mí mắt của rạng đông.
10. Những ngọn lửa nhoáng từ miệng nó,
Và các đám lửa phun ra.
11. Từ lỗ mũi nó khói bay ra,
Như của một nồi sôi, có chụm sậy ở dưới.
12. Hơi thở nó làm hừng cháy than,
Một ngọn lửa ra từ miệng nó.
13. Trong cổ nó có mãnh lực,
Và sự kinh khiếp nhảy múa trước mặt nó.
14. Các yếm thịt nó dính chắc nhau,
Nó như đúc liền trên thân nó, không hề chuyển động.
15. Trái tim nó cứng như đá,
Cứng khác nào thớt cối dưới,
16. Khi nó chỗi dậy, các kẻ anh hùng đều run sợ;
Vì bắt kinh hãi nên chạy trốn đi.
17. Khi người ta lấy gươm đâm nó, gươm chẳng hiệu chi,
Dẫu cho giáo, cái đọc, hay là lao phóng cũng vậy.
18. Nó coi sắt khác nào rơm cỏ,
Và đồng như thể cây mục,
19. Mũi tên không làm cho nó chạy trốn;
Đá trành với nó khác nào cây rạ,
20. Nó cũng xem gậy như rạ,
Cười nhạo tiếng vo vo của cây giáo.
21. Dưới bụng nó có những miểng nhọn,
Nó dường như trương bừa trên đất bùn.
22. Nó làm cho vực sâu sôi như một cái nồi;
Khiến biển trở thành như hũ dầu xức,
23. Và bỏ lại sau nó đường cày đi sáng sủa;
Người ta có lẽ tưởng rằng vực sâu là tóc bạc.
24. Tại thế thượng, chẳng có vật chi giống như nó;
Nó được dựng nên để không sợ gì hết.
25. Nó nhìn xem các vật cao lớn;
Nó làm vua của các loài thú kiêu ngạo.
……………
Có nhiều truyền thuyết về những loại rồng phun lửa, những truyền thuyết đó
được nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới đều cùng tạo ra 1 câu chuyện về
các tạo vật hầu như giống nhau mà chưa thật sự trông thấy chúng.
40:20 làm cho chúng ta suy nghĩ rằng Lêviathan có phải là cá sấu không?
40:20-28 và 41:1-6 cho rằng Lêviathan rất khó bắt hoặc giết. Trong khi ngày
nay phần lớn các loài cá sấu trên thế giới được cảnh báo có nguy cơ bị tuyệt
chủng
41:21 chứng minh không phải là cá sấu. Vì Gióp mô tả phần dưới bụng của
Lêviathan được bao phủ bởi các lớp vỏ giáp tạo nên những đường cày trên
những vùng đầm lầy. Còn phần bụng của cá sấu thì rất mềm và dễ bị tổn
thương. 41:16 chép rằng những anh hùng cũng run sợ và kinh hãi khi thấy
nó “chỗi dậy”. Điều này cũng không đúng khi nó phải đối diện với tay
chuyên săn cá sấu.
Vậy Lêviathan là con gì? Voi, tê giác hay là cá mập?
Trong nguyên ngữ Hibálai, từ ngữ Lêviathan có nghĩa là “một con thú lớn
dưới nước”, ngôn ngữ Hibá có nhiều từ ngữ dành cho voi, tê giác và cá mập.
Nếu Gióp muốn miêu tả con vật ấy thì ông có thể dùng những từ đó, không
cần phải dùng từ ngữ Lêviathan.
Chúng ta có thể tin Lêviathan có thể thở ra lửa và khói?
Truyền thuyết của nhiều dân tộc trên thế giới có nói nhiều về những con
rồng phun ra lửa (Trunghoa, Tôcáchlan, Hylạp, …). Chúng ta thì chưa một
ai thực sự thấy những điều này cả, tuy nhiên Kinh thánh đã chép như vậy.
Gần đây, các nhà khoa học chứng minh có nhiều sinh vật ky lạ như: loài bọ
cánh cứng có thể trộn 2 loại hoá chất trong cơ thể để phóng ra luồng hơi độc
có nhiệt độ 100 độ C. Đom đóm cung cấp nguồn sáng có thể đọc được sách
trong đêm tối, hoặc loài cá giống lươn có thể phóng ra nguồn điện tạo nên cú
giật 650V.
Nếu Đức Chúa Trời có thể dựng nên những sinh vật nhỏ bé có khả năng như
vậy thì Ngài cũng có thể dựng nên khủng long (rồng) có thể phun lửa.
II. BẰNG CHỨNG VỀ ĐỊA CHẤT HỌC CHO THẤY KHỦNG LONG VÀ
CON NGƯỜI SỐNG CÙNG THỜI ĐIỂM.
A. Các dấu chân của khủng long và con người được phát hiện chung với
nhau.
Tại Glenrose, Texas người ta phát hiện các dấu chân khủng long chung với
dấu chân người. Các nhà địa chất học nổi tiếng đã chứng minh các dấu chân
này là thật và cũng có thể được hình thành trong cùng ngày hoặc thậm chí
cùng giờ với nhau. Thật thú vị là dấu chân người cũng rất lớn, một số dấu
chân dài đến 45-63cm, cho thấy người cổ đại rất lớn, những người trưởng
thành có thể cao từ 2,5m đến 3m.
Giả sử các dấu chân được tìm thấy có thời gian là 120 triệu năm tuổi. Vậy
thì làm thế nào các dấu chân con người lại có ở trên đó. Có phải chăng con
người và khủng long đã sống cùng thời điểm và những dấu chân được in
cùng lúc khi cả hai đang chạy trốn các dòng nước đang dâng lên tại cơn Đại
hồng thuỷ cách đây 4000-5000 năm?
III. NÔ-Ê CÓ ĐƯA KHỦNG LONG VÀO TÀU KHÔNG?
Kinh thánh SaSt 6:20, chép Đức Chúa Trời đã sai các loài động vật đến cùng
NÔ-Ê để được bảo tồn sự sống. Như vậy không nhất thiết các con vật vào
tàu là đã trưởng thành hoàn toàn. Các nhà khảo cổ cho biết chưa bao giờ
phát hiện một trứng khủng long nào lớn hơn trứng của đà điểu. Như vậy
chúng được nở ra không phải là lớn, chắc chắn sẽ không chiếm diện tích
không gian. Hơn nữa kích cỡ tàu rất lớn và mọi thú vật đều có khả năng ngủ
đông trong khoảng không gian tối, mát mẻ trong suốt thời gian chịu cơn
hồng thuỷ.
IV. KHỦNG LONG CÓ THẬT SỰ HOÀN TOÀN BỊ TIỆT CHỦNG
KHÔNG?
Khủng long có nghĩa là con thằn lằn khủng khiếp, hiện nay vẫn còn tồn tại
loài bò sát khổng lồ này ở một vài nước trên thề gới như, loài rồng Komodo
còn tồn tại ở Inđônêsia, loài Plesiosaur là 1 loài khủng long biển vẫn còn tồn
tại. Khi 1 tàu đánh cá Nhật bản đã kéo được xác 1 con Plesiosaur vào năm
1977. Một tàu đánh cá Malayisia cũng bắt một con vật tương tự vào năm
1995 và trưng bày ở tại một bến tàu trong một thành phố biển tại Malaysia,
có hàng ngàn người đến xem xác con vật tiền sử còn tồn tại này.
THAM KHẢO CHUNG
1. Ngày nay thậm chí những người theo thuyết tiến hoá cũng lập luận rằng
sự tuyệt chủng của khủng long đến đột ngột bởi một thảm hoạ xảy ra trên
toàn thế giới. Điều này được viện dẫn như một vụ saobăng xảy ra trên trái
đất cách đây hàng triệu năm và đã làm thay đổi khí hậu, giết chết loài khủng
long. Tuy nhiên chúng ta biết rằng đã từng có một thảm hoa nước lụt, chứ
không phải sao băng và điều đó xảy ra giữa khoảng 4000 năm đến 5000 năm
cách đây, chứ không phải cách đây hàng triệu năm.
2. Rõ ràng là từ các di tích hoá thạch và từ những khám phá khác chúng ta
thấy toàn trái đất có một thời hưởng được khí hậu cận nhiệt đới. Chúng ta
biết được điều này là do tìm được thấy các khổng tượng có lông mịn bị đóng
băng ở tại Siberia và Alaska, các hoá thạch khủng long tại Canada và các
quốc gia khác thuộc miền bắc, thậm chí các khu rừng nhiệt đới cũng bị hoá
thạch bên dưới lớp băng thuộc vùng bắc cực và Nam cực.
3. Loại khí hậu này rất có thể đã tồn tại trên mặt đất trước khi có trận nước
lụt NÔ-Ê (khoảng năm 2344 TC). Trái đất đã được bao phủ bởi bức màn hơi
nước dày (SaSt 1:6-7) đã tạo nên “hiệu ứng nhà kính” có khí hậu ấm áp trên
toàn thế giới. Loại khí hậu này thật là ý lưởng cho những loại bò sát sinh sôi
nảy nở. Hẳn cũng đã có dồi dào thức ăn bởi vì các điều kiện khí hậu đó.
4. Đến lúc Đức Chúa Trời huỷ diệt Trái đất bằng nước lụt, và tất nhiên tất cả
những khủng long không được vào tàu đều đã bị nước lụt huỷ diệt. Đây
chính là xương cốt của những xác chết ấy đã được tìm thấy ở những địa tầng
hoá thạch có xương lớn tai những địa điểm khai quật khắp thế giới.
5. Những con khủng long còn sống đã ra khỏi tàu và một số đã xoay sở để
sinh sản trong một thời gian lâu hơn, nhưng hầu hết đã không làm được điều
đó, vì sao vậy?
6. Lý do chính đó là thời kỳ băng hà đã bắt đầu, ở các khu vực miền bắc thế
giới, Bởi vì bức màn hơi nước bên trên trái đất (đã từng khiến cho khí hậu
ấm áp) đã rơi xuống biến thành mưa. Bấy giờ, hiệu ứng nhà kính không còn
nữa, và phần lớn nước đã rút khỏi cơn nước lụt đông đá và hình thành những
lớp băng tuyết lớn bao phủ các phần lớn ở phía Bắc. Với bức màn hơi nước
biến mất, bầu không khí được làm ấm gây nên tình trạng bốc hơi. Với khuôn
mẫu tuần hoàn của không khí, không khí ấm sẽ bốc lên ở tại xích đạo và di
chuyển đến 2 cực. Tại đó chúng đã trở nên lạnh đi, đông đá và tuyết. Với độ
ẩm lớn như vậy trong không khí và tuyết, cac lớp đất sẽ biến thành các dãy
băng tuyết.
a. Thời kỳ băng hà.
*. Những nhà khoa học theo thuyết tiến hoá tin rằng thời kỳ băng hà đã bắt
đầu cách đây 2 triệu năm và đã kéo dài đến cách đây 11 ngàn năm.
*. Những người tin vào thuyết sáng tạo thì cho rằng nó kéo dài từ 250 đến
1300 năm sau nước lụt.
*. Lớp băng tuyết không bao phủ toàn thể trái đất. Nó chỉ có ở các khu vực
miền bắc Châu Au, Châu á, và bắc Châu mĩ cũng như ở tại các khu vực
miền nam gần nam cực. Nó bao phủ khoảng 1/3 trái đất.
* Đồng thời nhiều khu vực nằm dưới băng tuyếtcũng đã có những nền văn
minh phát triển ở các khu vực khác có vĩ độ thấp hơn, như Babilon, Trung
hoa và Aicập.
*. Cuối cùng đã có sự gia tăng dần dần cacbon dioxit trong bầu khí quyển
khiến cho các nhiệt độ gia tăng và lớp băng đá đóng lại dần dần đến vị trí
hiện tại ngày nay của nó.
*. Gióp đã không sống lâu sau nước lụt. Có lẽ vào cuối thời kỳ băng hà, giữa
thời kỳ tháp Babên và thời kỳ của Apraham. Ong đã nói đến băng tuyết
trong nhiều lần ở sách Gióp.
*. Giop G 37:9-10 nói đến sương giá và nước đóng băng. Trong 38:22 nói
đến kho chứa tuyết. 38:29-30 nói đến tuyết giá và đóng băng.
*. Gióp đã từng có các bầy gia súc, vật nuôi và thú vật và ông nói đến các
vườn nho, những cánh đồng cỏ, những cây toả bóng mát, lúa mì và lúa
mạch. Ngày nay khu vưc ấy là 1 hoang mạc khô cằn. Băng đã không được
nói đến trong các xứ sở Kinh thánh nhưng hẳn nó đã có ảnh hưởng trên khí
hậu. Vì vậy khu vực ấy đã từng là 1 cánh đồng cỏ xanh trong suốt thời
kỳbăng hà.
7. Khủng long là loài máu lạnh, không thể tồn tại trong các miền lạnh lẽo
của trái đất.
8. Cũng vậy, vì cớ sự thay đổi của khí hậu lương thực dành cho loài khủng
long cũng đã giảm đi rất nhiều, Điều này có thể trở nên một nan đề nghiêm
trọng cho các sinh vật là loài ăn trung bình 900 kg thực vật mỗi ngày.
9. Con người, to lớn hơn trong quá khứ có lẽ không gặp nhiều khó khăn
trong việc giết chết các loài khủng long nhất định. Có lẽ con người đã giết
chúng, vì xem chúng là loài vật nguy hiểm, hoặc chỉ săn chúng làm thức ăn.
10. Một số loài khủng long lớn hơn có lẽ đã chết ngạt trên tàu bởi vì thế giới
trước nước lụt có được áp suất không khí 2 lần 1/4 lớn hơn nhờ bức màn hơi
nước trên trái đất. Những con vật lớn hơn đòi hỏi số lượng ôxy lớn hơn các
con vật nhỏ. Khi khủng long ngày càng to lớn, nhiều con trong số chúng có
lẽ cũng vì ngạt thở mà chết.
11. Không những khủng long đã trở nên tuyệt chủng, mà 90% tất cả hình
thức sự sống đã từng được sáng tạo (cây trồng, thú vật, côn trùng, chim
chóc…) đã biến mất! Đây là một hậu quả tội lỗi loài người đã dẫn đến các
tác hại phá hỏng cho sự rủa sả trên đất.
**

TẤT CẢ CÁC CHỦNG TỘC KHÁC NHAU ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ


GIA ĐÌNH CỦA NÔ-Ê
Thế giới ngày nay có nhiều chủng tộc khác nhau, điều rõ ràng nhất trong các
đặc trưng này là màu da. Nhiều người xem đây có thể là lý do để nghi ngờ
những bản ký thuật lịch sử của Kinh thánh vì họ tin rằng các chủng tộc đa
dạng có thể được tiến hoá riêng rẽ trong quá trình lâu dài. Điều quan trọng
nhất trong niềm tin này là; làm thế nào chúng ta có thể hoàhợp được giữa
khoa học và niềm tin Cơ Đốc?
Tất cả cá nhóm chủng tộc đến từ đâu?
A. Những khám phá của các nhà khoa học
Tạp chí Newsweek, số ra ngày 11 tháng 1 năm 1998, có tựa đề “Ê-va người
mẹ của mọi sự sống”, bài viết tường thuật một khám phá gây kinh ngạc bởi
các nhà khoa học phân tử cho thấy toàn thể nhân loại đã ra đời từ một người
phụ nữ, họ gọi là “Ê-va”. Việc nghiên cứu này đã truy được tổ tông của loài
người. Tuy nhiên họ không tin rằng “Ê-va” của họ chính là Ê-va của Kinh
thánh. Nhưng đây là một khám phá chứng tỏ toàn bộ các dân tộc trên thế
giới đều xuất phát từ một người nữ.
*Những nhà khoa học theo thuyết tiến hoá tin rằng các chủng tộc được tiến
hoá riêng rẽ qua giai đoạn khoảng 10000 năm. Ngày nay, các nhà tiến hoá
không ngừng điều chỉnh các thuyết của họ để phù hợp với những sự kiện mà
họ có được.
*Các nhà khoa học xác định dòng dõi nhân loại đã được chia thành 3 nhóm
chính: Caucasord (hầu hết là người châu âu), Mongoloid (hầu hết là người
châu á) và Negroid (hầu hết là người châu phi). Kinh thánh cũng có chép sau
sự kiện nước lụt đã có 3 nhóm chính tản lạc khắp thế giới là dòng dõi của
Sem, Cham và Gia-phết.
*Hầu như hết thảy những người theo thuyết tiến hoá đều đồng ý với những
người tin vào sự sáng tạo của Kinh thánh rằng, toàn bộ các chủng tộc đều ra
từ nhóm dân cư ban đầu.
B. QUAN ĐIỂM KINH THÁNH:
Sách Cong Cv 17:26. Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người
và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn
chỗ ở. Hết thảy chúng ta đều thuộc về một dòng dõi loài người. Tất cả chúng
ta đều là một loài người như nhau với sự đa dạng trong diện mạo thuộc thể.
Mỗi dân tộc đều có sự khác nhau về da, tóc, và những đặc điểm khác trên
khuôn mặt, cũng chưa thể nói đó là yếu tố của mỗi chủng tộc mà chỉ là sự đa
dạng giữa vòng một dòng dõi nhân loại như nhau. A-đam, Ê-va có tất cả
những đặc điểm trong gien của họ, những đặc điểm mà chúng ta thấy trong
chủng tộc ngày nay.
Có lẽ thời gian sau nước lụt một số đặc điểm đã mất đi bởi vì chúng không
thuộc nhóm gien chung của nhóm gia đình nào. Hiện nay chưa có bằng
chứng khoa học nào cho chúng ta biết được, là liệu có những đặc điểm thuộc
thể gì trước cơn đại hồng thuỷ.
Có lẽ chính sự kiện xảy ra nơi tháp babên tạo nên các ngôn ngữ khác biệt
làm chặn đứng khả năng di truyền nhất định đối với mỗi nhóm.
C. NHỮNG SỰ KHÁC BIỆT:
1. Dù dân số có thể mỗi ngày một gia tăng nhưng chúng ta khó lòng mà tìm
kiếm 2 người nào giống nhau “như đúc” kể cả 2 anh hoặc chị em sinh đôi.
2. Màu da: Loài người thực sự chỉ có 1 màu da mà thôi. Hắc tố là một chất
màu nâu đen. Bất cứ ai cũng có loại hắc tố này trong các tế bào cơ thể (ngoại
trừ người bạch tạng). Hắc tố cũng có trong tròng đen để quyết định màu của
mắt.
Nếu lượng hắc tố trong cơ thể chúng ta nhiều thì chúng ta sẽ có 1 làn da đen
đủi, còn lượng hắc tố ít sẽ cho ra 1 làn da trắng như người châu âu. Lượng
hắc tố trung bình cho ra những màu da khác. Chức năng của các lượng hắc
tố giúp cho người da màu ở các quốc gia gần dường xích đại có thể chống
lại sự ảnh hưởng xấu từ những tia tử ngoại của ánh mặt trời nên màu da của
các gốc dân này luôn có màu sậm đen.
3. Punnet Square: là loại biểu đồ tập hợp các gien từ những cặp gia đình để
nghiên cứu những khả năng chuyển biến gien của các thế hệ con cháu.
Đối với các cuộc hôn nhân pha trộn chủng tộc như lập gia đình vời ngoại
kiều ( người nước ngoài không phải dân tộc mình) sẽ sinh sản những đứa trẻ
có hệ thống gien thay đổi đa dạng.
Ví dụ 1: Một người có màu da rất đen kết hôn với 1 người rất trắng “AABB”
+“aabb” sẽ sinh ra thế hệ con cháu có màu da trung bình “AaBb”
Ví dụ 2: Nếu 2 người da màu kết hôn với nhau chúng ta sẽ thấy được toàn
bộ dãy màu như là một khả năng trong chỉ 1 thế hệ.
AABB: sẽ sinh sản cho những màu da đen
aabb: sẽ sinh sản ra những màu da trắng.
Tất cả những sự kết hợp khác là những sắc màu nâu trung bình nhưng rất đa
dạng.
Từ đây, chúng ta chú ý kỷ càng sẽ thấy được, nếu như những màu da trắng
nguyên thuỷ “aabb” kết hôn với nhau thì toàn bộ con cái của họ sẽ có nước
da trắng hoàn toàn và không có khả năng ra đời các màu da khác.
Cũng vậy, nếu “AABB” cứ tiếp tục kết hôn với nhau thì tất cả con cái của họ
cũng chỉ có màu da đen mà thôi.
Tính đa dạng của các chủng tộc, màu da, tóc, màu đồng tử của mắt cũng có
thể đến từ gia đình NÔ-Ê. Cũng có rất nhiều sự đa dạng khác bị mất đi trong
cơn nước lụt hoặc các chủng tộc của chúng ta sẽ trông giống như thế nào
nếu điều gì đó xảy ra khiến cho người Việt nam phải kết hôn với những
chủng tộc đa dạng khác.
Ví dụ: Người có tóc xoắn đen, và có đôi mắt đen kết hôn cùng người tóc
vàng có đôi mắt xanh?
Tạ ơn Đức Chúa Trời toàn năng. Ngài ban cho loài người và đầy dẫy sự lạ
lùng trong đó. Chúng ta hãy ngắm nhìn và chiêm ngưỡng một cách sâu
nhiệm để thấy dược kỳ tích này. Và nếu hiểu rõ tường tận, thâm sâu chúng
ta cũng có thể thốt lên như thi sĩ Đavít “Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được dựng
nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng lòng tôi biết rõ lắm ”.
Thi Tv 139:14
LỜI KẾT: Toàn bộ Kinh thánh đều bởi Đức Chúa Trời soi dẫn một cách
chính xác. Mặc dù tiến bộ của ngành khoa học ngày nay có phát triển thế
nào đi nữa vẫn không bao giờ phá đổ nỗi bức tường đức tin của người tin
Chúa. Khoa học có thể cho chúng ta hiểu Kinh thánh một cách rõ ràng hơn,
khiến cho người yêu mến lời Ngài tin cậy tuyệt đối vào lời hằng sống và
bước đi vững chắc trong suốt linh trình theo Chúa.
**

You might also like