You are on page 1of 10

Tính sư phạm cho một bài giảng điện tử

TÍNH SƯ PHẠM CHO MỘT BÀI GIẢNG


BẰNG POWERPOINT
PGS.TS. Lê Phước Lộc

Th.S. Nguyễn Hồng Nhung


Trường Đại học Cần Thơ
Hiện nay, việc dùng phần mềm PowerPoint (PPt) là khá phổ biến ở các cuộc hội
họp, các cuộc Hội thảo chuyên môn, các lớp huấn luyện nghề của các đơn vị kinh tế…
Đã có những cán bộ giảng Nghị quyết của Đảng cũng dùng PP. Điều này cho thấy
tính ưu việt gần như tuyệt đối hiện nay của máy tính với phần mềm PP về mọi phương
diện cho một bài báo cáo hoặc bài giảng. Tuy nhiên, tính ưu việt đó còn phụ thuộc rất
nhiều vào người báo cáo và đặc biệt là vào sự chuẩn bị các trang trình chiếu. Đối với
nghề dạy học, tiêu chí của bài học không giống như những bài thuyết trình, những
bản báo cáo. Đối tượng dạy học lại hoàn toàn không như các đối tượng Hội nghị, Hội
thảo. Cho nên, việc chuẩn bị một bài giảng bằng PPt cần đảm bảo không những tính
nội dung (khoa học) mà còn phải đặt mạnh tiêu chí về tính sư phạm. Tính sư phạm ở
đây bao gồm: sự phù hợp về mặt tâm sinh lí học sinh (HS), sinh viên (SV), tnhs thẩm
mĩ của trang trình chiếu, sự thể hiện nhuần nhuyễn các nguyên tắc dạy học và các
phương pháp dạy học (PPDH). Vì vậy, người giáo viên (GV) muốn sử dụng PPt để
dạy học có hiệu quả thì không những phải có kiến thức tối thiểu về phần mềm này
(không phải chỉ đơn thuần là “viết” chữ lên các trang trình chiếu) mà còn cần phải có
ý thức sư phạm, kiến thức về lí luận dạy học và về các PPDH tích cực, sau đó mới là
sự linh hoạt và sáng tạo trong thiết kế các trang trình chiếu sao cho hấp dẫn một cách
có ý nghĩa.
1.Những vấn đề chung:
Sử dụng máy tính để dạy học là một trong những hướng thay đổi PPDH trong nhà
trường chúng ta hiện nay, trong đó, việc giảng bằng các trang trình chiếu PPt đang
được các giảng viên đại học, thầm chí nhiều GV trường THPT bắt đầu thực hiện.
Đương nhiên, không phải và cũng không cần thiết biến mọi tiết dạy trở thành giờ học
bằng máy tính, cho dù ở trường nào đó có đủ khả năng về cơ sở vật chất cũng như các
kĩ năng thích hợp cho công việc. Mỗi giáo viên cần chọn tiết học sao cho nếu đưa nó
lên trang trình chiếu PP thì sẽ tận dụng được tối đa ưu việt của máy tính về phương
diện cung cấp thông tin cho người học, về tính hấp dẫn của của bài giảng, chí ít cũng
có hiệu quả hơn bài giảng với bảng viết thông thường. Cần tránh việc chạy theo
phong trào để rồi bài giảng thiếu chất lượng, lạm dụng các hiệu ứng trong phần mềm
PPt làm người học bị phân tán sự chú ý. Cũng không nên tầm thường hoá việc dạy
bằng PPt. Nhiều người quan niệm trang trình chiếu chẳng qua là thay bảng đen, thậm
chí không bằng bảng đen (vì họ không được viết xóa thoải mái như dùng bảng đen).
Cái “lí” của họ cũng có thể đúng, bởi vì thực tế, một số GV dạy bằng PPt nhưng cuối
cùng HS chẳng ghi được gì vào tập, không thu nhận được kiến thức gì quan trọng
ngoài sự “thú vị” một cách chung chung!
Như vậy có nghĩa là, sử dụng máy tính để dạy học phải đạt được yêu cầu cao nhất
là: hiệu quả giờ học. Trước hết ta hãy nói đế thực trạng của vấn đề này hiện nay.

a/ Khái quát các ưu, nhược điểm của việc sử dụng bài giảng bằng PPt
* Phần mềm PPt có những ưu điểm cơ bản sau:
- Các hiệu ứng, màu sắc, kiểu chữ..rất tiện lợi cho một xử lí một bài giảng linh hoạt,
hấp dẫn và sư phạm.
- Khả năng sử dụng hiệu quả các hình ảnh,.phim, các tư liệu dạy học nhanh chóng và
chất lượng
- Tiết kiệm nhiều thời gian viết, vẽ trên lớp
- Thuận lợi cho việc sử dụng các PPDH tích cực.
* Những nhược điểm khi sử dụng phần mềm :
- Tốn khá nhiều kinh phí để đào tạo GV sử dụng máy tính, cán bộ kĩ thuật đảm bảo
cho việc thực hiện của GV thông suốt, máy móc không bị hư hỏng một cách vô lí và
mua sắm máy móc trang bị cho các đơn vị giáo dục.
- Vấn đề kĩ thuật sử dụng máy tính, máy chiếu còn là một khó khăn chưa thể vượt qua
ở nhiều GV.
- Nếu không có ý thức sử dụng PPt tốt thì các ưu thế của phần mềm này có thể sẽ trở
thành nhược điểm lớn và cơ bản: HS thích học vì mới lạ nhưng tâm lí bị phân tán,
không theo dõi được bài học, không ghi được nội dung cơ bản của bài….
b/ Những điểm mạnh và yếu của giáo viên khi thiết kế bài giảng bằng PPt:
Nhiều năm trở lại đây, chúng tôi đã theo sát các hoạt động sử dụng máy tính của GV
ở các tỉnh thành thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và khái quát có những nhận xét
sau (chỉ ở những GV đã sử dụng thành thạo máy tính trong dạy học):
* Mặt mạnh của giáo viên sử dụng PPt:
- Thiết kế màn hình đẹp, da dạng
- Đã sử dụng nhiều các phần mềm chuyên dụng làm các thí nghiệm ảo, lồng ghép
phim ảnh minh họa
- Rất chịu khó thu thập tư liệu cho môn học.
Những thế mạnh này là rất cơ bản nhưng chưa đủ cho việc dạy học bằng máy tính
theo nghĩa đích thực của nó.
*Những điểm yếu của giáo viên sử dung PPt:
- Sử dụng màn hình không hợp lí trong việc bố trí chữ (viết quá nhiều – dư, viết quá
ít – phải lật trang liên tục), kích cỡ chữ, nội dung viết cũng như tính nhất quán trong
trình bày (đau là nội dung cho HS ghi chép, đau là điều khiển của GV..)
- Lạm dụng các hiều ứng làm HS mất tập trung vào bài giảng.
- Lạm dụng màu sắc, âm thanh hoặc sử dụng chúng không hợp lí, không nhất quán..
-Cỡ chữ, kiểu chữ không được qui định thống nhất làm cho bài giảng lôn xôn, khó
theo dõi
Để sử dụng có hiệu quả phần mềm PPt, có lẽ cần qui định một số vấn đề sau:
c/ Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo một bài giảng bằng PPt đạt chất lượng:
* Về nội dung trang trình chiếu
Cần:
- Đủ nội dung cơ bản của bài học
- Phải được mở rộng, cập nhật
- Nhiều thông tin có ý nghĩa và được chọn lọc.
- Trên các trang trình chiếu phải thể hiện được cả tính phương pháp.
Tránh:
- Nội dung nghèo nàn, chỉ nhằm thay thế chiếc bảng đen
- Quá nhiều thông tin làm HS bị “nhiễu”
- Sai sót các loại lỗi chính tả, lỗi văn bản
* Về hình thức trang trình chiếu:
Cần:
- Bố cục các trang trình chiếu sao cho HS dễ theo dõi, ghi được bài
- Các trang trình chiếu phải mang tính thẩm mĩ để kích thích sự hứng thú học
tập,vừa giáo dục được HS
- Cỡ chữ phù hợp với số lượng người học, quá lớn thì loãng thông tin, quá nhỏ thì
người cuối lớp không nhìn thấy. Thông thường dùng cỡ chữ 24 hoặc 28 là vừa.
- Cố gắng tận dụng kĩ thuật trong phần mềm (nhưng không cần thiết cầu kì) để thể
hiện tính sư phạm của bài giảng
Tránh:
- Lạm dụng các hiệu ứng (effect) tới mức không cần thiết
- Lạm dụng màu và dùng các màu chõi nhau trên cùng một trang (xem mục 3.1).
2. Để tập trung sự chú ý của HS trong giờ dạy bằng
PowerPoint:
Vì phong trào sử dụng PPt để dạy học đang phát triển mạnh ở Trường Phổ thông,
cho nên trong bài viết này chúng tôi cũng nói cho một bài giảng ở trường Phổ thông.
Khác với bài giảng ở Trường Đại học, một bài giảng trước HS phổ thông có những
yêu cầu nghiêm ngặt riêng của nó về nội dung bài học, về ghi chép trên bảng, về
PPDH. Mỗi bài giảng, thậm chí mỗi trang trình chiếu đều có sự hướng đích khác
nhau, thể hiện ở sự bố trí thông tin, bố cục, màu sắc… Tuy nhiên, mọi hướng đích
đều có một mục đích chung, đó là chuyển tải được thông tin một cách có hiệu quả
và thuyết phục người nghe. Vì vậy, thu hút sự chú ý có nghĩa (chúng tôi nhấn mạnh
từ này- xem đoạn e) là làm cho HS phải theo dõi bài giảng một cách tự nguyện. Đó
cũng là là nghệ thuật sư phạm của người giảng và người thiết kế các trang trình
chiếu mà trong bài này chúng tôi muốn đề cập tới.
Thông thường, trong một giờ giảng, người nghe sẽ khá tập trung chú ý ở thời
điểm bắt đầu. Tuy nhiên, sự tập trung ấy sẽ giảm dần rất nhanh. Vào cuối bài bài
giảng, nếu chúng ta cho HS biết rằng bài học sắp kết thúc, họ sẽ chú ý trở lại (biểu
đồ hình 1), trong khi nội dung chính của bài giảng lại nằm ở khoảng “giữa”. Vậy
làm thế nào để thu hút sự chú ý của người nghe trong suốt quá trình bài giảng? Bản
thân các trang trình chiếu bằng PPt (nếu soạn hợp lí) đã có một sức hút lớn đối với
học sinh. Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng tính ưu việt đó thì đôi khi bài giảng sẽ có tác
dụng ngược. Đó là tư tưởng chính của chúng tôi trong bài này. Nghệ thuật sư phạm
của người thiết kế bài giảng PPt sẽ có một sức hút riêng đối với HS trong giờ học.
Có một số thủ thuật cần thiết cho việc thiết kế bài giảng bằng PPt như sau:
Nội dung

a/ Thay vì mở đầu bằng lời (kể chuyện dẫn dắt, ra một bài tập nhỏ..) ta kèm theo
đó là một trang hình phù hợp với nội dung nói, thậm chí có thể là một đoạn trích, một câu
hỏi thảo luận đầu giờ, một hình ảnh có ý nghĩa, một đoạn phim…

b/ Hãy dành một trang nêu tên bài học (sau mở đầu) cùng các đề mục (dàn bài) và
cũng nên giới thiệu sơ qua các phần đó đề cập đến vấn đề gì, HS sẽ dễ dàng có một
tổng quan về bài giảng, gây tâm lí chờ đợi những thông tin thú vị phía sau.
c/ Mỗi nội dung nhỏ (mục) cần có “điểm nhấn” hấp dẫn: một câu chuyện để chuyển
tiếp giữa các mục, hình ảnh, một đoạn phim, một nhiệm vụ học tập cho hS làm
nhanh, một câu trích dẫn có ý nghĩa, có thể pha một ít tính hài hước …để lôi kéo
người nghe trở về bài giảng, đôi khi có ai đó bị mất tập trung (hình 2).
d/ Hãy giữ liên tục nội dung bài giảng (phần dành cho HS ghi) từ trang này sang
trang khác như một chiếc “bảng kéo”. Muốn làm điều này, cần chú ý:
- Hãy sử dụng cỡ chữ, kiểu chữ, màu chữ thống nhất theo từng loại đề mục của bài
học. Cỡ chữ ghi nội dung cụ thể nhỏ hơn các đề mục. Sự thống nhất này phải giữ từ
đầu đến cuối bài giảng, cho dù nội dung bài học phải chuyển sang trang tiếp.
- Cố gắng sắp xếp nội dung một hoặc một số mục nằm gọn trong trang, trừ trường
hợp bất khả kháng.
- Mọi nội dung khác không nhằm cho HS ghi hoặc vẽ theo, chỉ dùng tạm thời để mở
rộng hoặc làm “điểm nhấn” cho bài giảng (chuyển tiếp giữa các mục, minh họa hình
ảnh, câu hỏi thảo luận, nhiệm vụ khám phá..) đều phải dùng kĩ thuật “chèn”các ô
cửa sổ có hình hoặc chữ, sử dụng xong thoát ra, không lưu lại (dùng các hiệu ứng
xuất hiện rồi biến mất), hoặc dùng thuật Hyperlink (trong Insert)…, sao cho tồn tại
từ trang đầu đến trang cuối vẫn là nội dung chính của bài giảng (xem 3.4).
Những công việc trên còn phải được kết hợp linh hoạt với nghệ thuật trình bày của
GV. Ví dụ: Thay vì chuyển tiếp sang mục khác thì GV có thể tóm lược những ý
chính của mục vừa mới giảng. Nhờ vậy mà người nghe sẽ bắt kịp tiến độ bài giảng,
nếu vì lí do gì đó mà HS bị mất tập trung.
e/ Mỗi trang sau cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc quay về các trang trước để nội
dung bài giảng được liên tục (đôi khi cần nhắc lại cái vừa mới học ở trang trước).
Muốn vậy, cần lập File riêng cho từng trang (nhưng bỏ hết các hiệu ứng của trang
này) – chúng tôi gọi đó là “trang sạch” (xem 3.4-b) – rồi cho vào tệp của bài giảng
(Folder). Đến một chỗ nào đó trong bài giảng cần nhắc lại trang trước thì dùng
Hyper Link cho xuất hiện ngay trang đó.
f/ Một nghịch lí về sự “chú ý” thường xảy ra trong dạy học bằng các trang trình
chiếu, nhất là đối với những người mới sử dụng PPt lần đầu là: Sự lạm dụng màu
hoặc lạm dụng các effect sẽ có thể tập trung được sự chú ý của HS, song sự chú ý
đó lại không hướng vào nội dung bài học mà là vào sự sặc sỡ của màn hình, vào
những sự “nhảy múa” đủ kiểu của chữ và hình trong trang trình chiếu. Có nghĩa là,
HS vẫn chú ý, vẫn thích thú bài học nhưng khi kết thúc giờ học thì bài học cũng
biến mất trong trong đầu các em. Điều này thật dễ hiểu đối với tâm lí của HS.
Hình 4: Chọn màn hình đơn sắc

(Các kiểu chèn tư liệu minh họa sẽ được trình bày ở mục 3.4.)

3. Cụ thể một số nguyên tắc thiết kế trang trình chiếu:


Trong phần này, chúng tôi tập trung vào những vấn đề vừa mới đề cập ở trên về
hình thức trình bày trang trình chiếu. Những ý kiến dưới đây chúng tôi đưa ra từ
thực tế sử dụng và từ tham khảo một số tài liệu, không hề có ý định ghép chúng vào
thành nguyên tắc cho tất cả, bởi vì khả năng sáng tạo trong việc sử dụng PPt là rất
rộng và đa dạng cho những ai ham thích nó.
3.1. Sử dụng màu sắc trong các trang trình chiếu:
Phối màu linh hoạt, phong phú và dễ làm là ưu việt dễ thấy ở máy tính nói chung, ở
các trang trình chiếu PPt, nói riêng. Song sử dụng màu sắc thế nào cho hợp lí thì
không phải ai cũng làm được.
a) Màu sắc phản ánh nội dung:
Để có những trang trình chiếu thu hút và ấn tượng, ngoài nội dung khoa học ra,
chúng ta phải biết sử dụng màu sắc hợp lí: chọn màu, phối màu giữa nền và chữ,
phối màu giữa các dòng văn bản.
- Có 3 cách chọn màu nền:
. Màu và hình nền mặc định đã được soạn sẵn trong phầm mềm PPt (Design) nói
chung là đủ để sử dụng. Kiểu màn hình mặc định có ưu điểm là màu chữ cũng măc
định, tương phản tốt với màu nền. Tuy nhiên, Font chữ định sẵn cho từng màn hình
đôi khi không theo ý muốn. Nếu chọn kiểu màn hình nào thì mặc nhiên các trang khác
cũng được chọn Font chữ như vậy. Trường hợp muốn có màn hình màu khác xen kẽ
vào dãy các trang mặc nhiên đã chọn thì thiết kế theo hai cách dưới đây.
. Có thể chọn màu nền theo ý muốn (đơn sắc): chọn trang màu trắng, sau đó
chọn Format→ Backround. Trường hợp này chỉ có màu đơn sắc cho toàn màn hình.
Theo kiểu này, người thiết kế có thể dễ dàng thay đổi màu cho các trang khác nhau.
Chú ý, nếu chọn màu xong, quyết định Apply, nghĩa là chỉ có màn hình đó có màu
theo ý muốn, nếu click Apply to All, nghĩa là các màn hình trong File đó cũng cùng
màu chọn.
Điều này rất quan trọng, bởi vì khi cần xen kẽ một màn hình khác vào trong dãy
màn hình mặc nhiên mà chọn Apply to All thì mọi màn hình trong dãy đều thay đổi
màu, đồng nghĩa với việc ta phải đổi lại màu chữ trong các màn hình mặc nhiên cho
phù hợp. Đôi khi sự trộn màu mặc nhiên và màu đơn sắc lại không vừa ý người thiết
kế. Trường hợp xen kẽ như vậy, ta phải click Apply.
. Trường hợp nói trên (trộn màu đơn sắc và màu màn hình mặc nhiên) gợi ý cho
ta kiểu chọn màn hình phối hợp: màn hình mặc nhiên và màu đơn sắc. Kiểu này có
lợi ở chỗ, ta lấy được hình nền mặc nhiên (trong thư mục Design) theo sở thích và
màu trộn vừa ý . (Còn có cách tự thiết kế màn hình riêng cho minh nhưng phức tạp
hơn.)
Theo các công trình nghiên cứu, mỗi màu nền có mang ý nghĩa riêng của nội
dung và đối tượng nghe. Chẳng hạn, những màu trung tính như màu xám và những
màu tối hơn sẽ tạo một không khí nghề nghiệp (tất nhiên không ai chọn nền đen);
màu cam và những màu lân cận trong dãy quang phổ như vàng, hồng nhạt, nâu nhạt
sẽ tạo không khí thân thiện (màu đỏ không nên chọn vì quá chói mắt); màu tím nhạt
và hồng có thể dùng cho lứa tuổi cấp tiểu học; để tạo một bầu không khí vui tươi,
chào đón ta có thể dùng màu vàng và màu hổ phách; màu xanh nước biển và xanh lá
cây thì nhã nhặn (Nguyen, H – 2000), màu trắng rất nghiêm túc song nếu bản báo
cáo có chữ viết không được chuẩn bị kĩ trên nền trắng hoặc dùng nền trắng trong
suốt bài giảng sẽ tạo cho HS một cảm giác một bài giảng sơ sài, thiếu chuẩn bị.
Những ý nghĩa của màu nền như trên có thể dùng để tham khảo. Các hình đã
cho sẵn trong các nền ở Design cũng ảnh hưởng nhất định đối với nội dung trang
trình chiếu. Hơn nữa, việc chọn nền còn phụ thuộc nhiều vào sở thích của người
thiết kế. Cần kết hợp tất cả các yếu tố này để có một bài soạn tốt về hình thức trang
trình chiếu.
b) Màu sắc và sự tiếp nhận của mắt:
Màu chữ và hình sẽ là công cụ đắc lực phục vụ cho bài giảng nếu ta sử dụng nó
hợp lí. Ngược lại, bài giảng sẽ dễ dàng trở thành một buổi biểu diễn màu sắc loè loẹt
nhưng nhạt nhẽo, thậm chí còn gây cảm giác khó chịu cho người đọc. Để đảm bảo
việc sử dụng màu sắc hiệu quả, có một số nguyên tắc sau:
- Sử dụng nhiều nhất là 5 màu trong mỗi trang bài giảng
Nếu chữ viết trong một trang chỉ có một màu duy nhất, người đọc sẽ rất nhàm chán.
(Ngoại trừ trường hợp, trên trang đó chỉ chứa một loại nội dung duy nhất, như, nội
dung của một mục, một đoạn trích, một câu hỏi thảo luận hay nhiệm vụ khám phá.).
Ngược lại, sử dụng quá nhiều màu sắc trong một trang hoặc trong một bài giảng sẽ
làm cho HS hoặc cảm giác đẹp sặc sỡ, thích thú với màu mà không tập trung vào
nội dung bài học, hoặc có cảm giác khó chịu, dẫn đến phản tác dụng. Theo Marcus
(1992), nên dùng từ 2 đến tối đa 5 màu, phân phối hợp lí thì trang trình chiếu sẽ trở
nên hấp dẫn hơn. Ví dụ: Dùng một màu chính xuyên suốt cho nội dung khoa học
của bài học, một vài màu nổi hơn cho các đề mục và một màu khác để làm nổi bật
các ý quan trọng. Chú ý, các đề mục có vai trò ngang nhau thì phải có màu giống
nhau (cỡ chữ, kiểu chữ cũng giống nhau). Thế nhưng nên dùng màu nào để làm nổi
bật các ý quan trọng? Thông thường, người ta dùng màu đỏ (nhưng không được để
trên nền xanh và tím).
- Màu đỏ được mắt tiếp nhận tốt nhất trong số các màu cơ bản
Con người có thể thấy được màu là nhờ và các tế bào thần kinh ở võng mạc của
mắt. Khoa học đã chứng minh rằng trong 3 màu cơ bản thì số tế bào thần kinh cảm
nhận màu đỏ chiếm khoảng 64% võng mạc, số tế bào thần kinh cảm nhận màu lục
là 34% và màu xanh đậm (blue) là 2% (Thissen, F.& Title, 2004). Điều này giải
thích vì sao màu đỏ dễ đập vào mắt người đọc hơn là màu xanh. Hơn nữa, ánh sáng
đi qua thủy tinh thể cũng bị khúc xạ, do đó những màu gần với màu đỏ trên dãy
quang phổ bị khúc xạ ít hơn, ta cảm nhận chúng có vẻ “gần” hơn, những màu gần
với màu tím bị khúc xạ nhiều hơn, ta có cảm giác chúng ở “xa” hơn (hình 3). Cho
nên, dùng các màu lân cận vạch đỏ trong dãy quang phổ để làm nổi bật các điểm
cần nhấn mạnh sẽ gây ấn tượng mạnh hơn đối với mắt người và dùng các màu gần
vạch tím hơn trong dãy quang phổ cho các chỗ không quan trọng. Nhưng, nếu lạm
dụng nhiều màu đỏ sẽ gây cảm giác chói chang, làm mắt cảm nhận một sự khó chịu.
- Tránh đặt màu nền và màu chữ có bước sóng quá khác nhau (màu chõi, ví dụ: đỏ
– xanh dương; đỏ – tím) hoặc có bước sóng gần nhau (khó phân biệt, ví dụ: đỏ –
cam..):
Thủy tinh thể của mắt không thể điều chỉnh để mắt tập trung vào cùng một lúc hai
màu có bước sóng khác xa nhau (đỏ và xanh chẳng hạn). Mắt sẽ có cảm giác không
tốt khi nhìn vào trang trình chiếu có hai màu này đặt cạnh nhau (các màu nóng và
các màu lạnh sẽ “đối chọi” nhau), nhất là màu nền và màu chữ .
3.2. Chữ viết trong trang trình chiếu:
a) Kiểu chữ: Các Font chữ thường dùng là Times New Roman và Arial. Việc dùng
font nào là tùy sở thích của người thiết kế. Tuy nhiên, trong văn bản tiếng Việt có
những bất cập khi dùng các font này:
- Arial: Font chữ này biểu hiện sự nghiêm túc, thường được mặc định trong phần
mềm PP nên khi dùng nó không phải thay đổi gì. Nhưng nếu viết nghiêng thì Font
này không được đẹp mắt.
Hình 5: Phối màu

- Times New Roman: Muốn dùng font này, sau khi viết cần chuyển từ Arial sang Time
New Roman, hơi mất thời gian. Song, font chữ này đẹp, kể cả khi để nghiêng.

Chú ý: Nên dùng WordArt để viết đề bài hoặc tiêu đề lớn (xem mục d)..
b) Cỡ chữ: Mục đích của việc chiếu các slide lên màn ảnh là để người dự đọc nội
dung chính được viết trên đó, cho nên cần phải đảm bảo để người ngồi ở hàng ghế
cuối cùng cũng đọc được hết chữ. Theo tính toán, chiều cao (kích thước) chữ trên
màn hình có tỉ lệ không nhỏ hơn 1/150 (so với khoảng cách đến người xa nhất). Ví
dụ, nếu người xem ngồi cách màn hình 5 m, chữ trên màn hình phải cao ít nhất 3,3
cm. Tất nhiên, nếu đặt máy chiếu ra xa màn hình thì chữ sẽ được phóng lớn lên,
song, khi đó độ nét của hình và chữ cũng giảm theo. Đối với máy thông thường,
trong khoảng cách giữa máy chiếu và màn hình từ 2,5m dến 5m (không nên xa
hơn). Đó là nói về mặt lí thuyết. Trong thực tế, có nhiều lí do để ta có thể quyết định
cỡ chữ, như:lớp đông HS (quá 40 người), độ phân giải của máy, nội dung nhất thiết
chỉ thể hiện trong một trang nhưng lại quá nhiều chữ (hoặc ngược lại). Cho nên
người thiết kế phải tự quyết định cỡ chữ cho phù hợp để bài giảng đạt yêu cầu cả
cho người thiết kế lẫn người học. Nếu không phải là đề mục của bài thì nên dùng cỡ
chữ 24 (trường hợp bất khả kháng, phải viết nhiều chữ trên một trang thid có thể
nhỏ hơn) và lớn nhất là 28, 32. Chữ nhỏ hơn 20, đặt máy gần sẽ nhỏ, đặt máy xa thì
mờ, cả hai trường hợp đều khó đọc. Chữ lớn, tất nhiên dễ đọc song cũng không nên
dùng cỡ quá lớn. Có hai lí do: Thứ nhất, thị trường của mắt bị phân tán, cản trở nhận
thức của người đọc; Thứ hai, cũng cần sự tập trung nội dung ít nhất là của một đề
mục vào một trang PP để HS theo dõi bài được tốt (xem mục 2.d).
c) Số chữ trên một trang trình chiếu: Vấn đề này cũng cần lưu ý. Nói là dùng cỡ
chữ tối thiểu là 20 nhưng không có nghĩa là cho phép viết đầy kín trang PP. Thông
thường, chữ quá nhiều thì người ta sẽ ít tập trung đọc hoặc đọc không hết, thậm chí
có thể đọc nhầm hàng. Cho nên về nguyên tắc, không nên viết quá nhiều hàng trên
trang PP, mỗi hàng không nên quá nhiều chữ (trừ trường hợp bất khả kháng). Để
khắc phục điều đó, cũng như viết trên bảng đen, và để các trang trình chiêú phải
chứa đủ nội dung cơ bản của bài học, không nhất thiết phải viết nhiều, viết nguyên
câu, đầy đủ như trong SGK, có thể làm như sau:
- Thay vì viết nguyên câu, ta chọn từ khóa hoặc cụm từ khóa cho chính xác để đưa
lên màn hình thay cho câu ấy.
- Nếu không có gì đặc biệt, trên mỗi trang nên có khoảng từ 10 đến 15 dòng, mỗi
dòng không quá 10 chữ để trang trình chiếu được tập trung và sáng sủa.
Chú ý: Cùng một cỡ chữ nhưng chữ Arial lớn hơn Tims New Roman 1 bâc.
d/ Việc sử dụng WordArt: Phần mềm này cho phép dùng chữ để trang trí, làm đẹp
trang PP. Có một số tác dụng của WordArt như sau:
- Viết đầu đề bài học – thường dùng trang riêng biệt. Chú ý không chọn những mẫu
quá cầu kì hoặc khó đọc.
- Viết trong khuôn hình vẽ (dạng cong)
- Trang trí nền cho trang trình chiếu: Chọn mẫu chữ (WordArt) thích hợp có ý
nghiwax nào đó mà mình muốn, tô màu ít tương phản với màn hình để không hưởng
đến nội dung viết trên trang ấy, phóng to trên cả màn hình làm nền (Background-
hình 4) . Có thể trang trí chữ theo chiều dọc khi cần thiết (hình 5)
Chú ý: Giống như dùng màu hoặc các effect, khi dùng WordArt, không nên lạm
dụng và cũng không cầu kì làm phân tán sự chú ý của HS. Ngoài ra, cần chú ý, sau
khi viết chữ vào trang PP, cần chỉnh màu sao cho phù hợp và rõ (chọn đối tương,
click chuột phải, chọn Format Ojbect chọn Colors and Lines).
3.3. Việc sử dụng các hiệu ứng (Effect) trên trang trình
chiếu:
Đặc sắc của phần mềm PPt là sự phong phú của các hiệu ứng (các kiểu cho xuất
hiện trang trình chiếu – Animation Schemes, các kiểu xuất hiện chữ, hình - Custom
Animation ..). Song sử dụng chúng cũng tùy trường hợp, nhất là các kiểu xuất hiện
chữ. Có thể như sau:
Nếu là báo cáo trong Hội thảo, Hội nghị, cần hạn chế sử dụng các effect “quay lộn”,
“bay nhảy” vì chúng không thích hợp với không khí nghiêm túc, khẩn trương của hội
nghị. Đối với bài giảng lại càng phải giữ nghiêm túc như vậy. Vấn đề này đã được đề
cập ở trên. Các effect vui mắt không đúng lúc sẽ gây thích thú cho các em nhưng
không phải
với nội dung bài giảng mà là với phần mềm của máy tính! Cho nên chỉ nên sử dụng
các effect vừa phải, đảm bảo ở mức đủ sinh động:
- Nên dùng một số kiểu cho màn hình xuất hiện (Animation Schemes): Grow and
exit, Boumerang and exit, Title arc, Compress, Big title, Unfold, Rise up, Bounce,
Ellipse motion, Float. Mỗi bài giảng nên dùng một kiểu thống nhất.
Chú ý: Mỗi kiểu cho xuất hiện trang trình chiếu đều có hiệu ứng mặc nhiên cho xuất
hiện chữ của trang ấy. Nếu thích thì để, nếu muốn đổi thì sang phần Custom
Animation, xoá bỏ hiệu ứng này và thiết kế hiệu ứng theo ý muốn. Nên đề nhan đề
hoặc một vấn đề nào đó trên cùng của trang cùng xuất hiện với màn hình (không
cho hiệu ứng hàng chữ đó). Tránh tình trang khi chuyển trang thì xuất hiện màn
hình trắng một cách vô nghĩa và mất thời gian.
- Các kiểu xuất hiện chữ (Custom Animation) thì nên sử dụng hạn chế ở một vài
effect như: Box, Diamond, Rise up, Ease In hoặc những chức năng tương tự. Chú ý,
cho thực hiện nhanh để không mất thời gian và nhàm chán (chọn Fast hoặc Very
Fast trong ngăn Speed).
3.4. Sử dụng các trang PPt kết hợp các hoạt động dạy và
minh hoạ:
Đây cũng là một ưu thế tuyệt đối của PPt mà chiếc bảng thông thường không thể
làm được. Nếu có chăng thì người GV phải chuẩn bị trước các bản vẽ trên giấy khổ
lớn hoặc băng, đĩa hình (hoặc phim) để hỗ trợ thêm cho nội dung giảng.
Trong bài giảng, nhất là bài giảng có sử dụng các PPDH tích cực, giáo viên cần mở
rộng nội dung ra thực tế (bằng hình ảnh, phim), cần cập nhật thông tin hoặc chèn
các câu hỏi, hướng dẫn thảo luận…trong khi vẫn phải để nội dung bài giảng trên
trang PPt phát triển liên tục, HS dễ theo dõi và ghi được bài. Có nhiều cách để
ngườì thiết kế thực hiện điêù đó:
a/ Sử dụng “liên kết” (Hyperlink):
* Ưu điểm:
. Sử dụng tư liệu theo kiểu liên kết rất tiện lợi. Các thao tác với máy đơn giản, tư
liệu xuất hiện nhanh, rõ.
. Sử dụng thuận lợi cho các tư liệu là hình động hoặc Film
. Có thể liên kết nhiều tư liệu, nhưng khi giảng, nếu thiếu thời gian thì ta có thể bỏ
qua tư liệu đó cũng không sao, bởi vì nói chung các tư liệu không nằm trong một
logic nào của bài giảng.
* Nhược điểm:
. Khi trình chiếu tư liệu thì bài giảng bị gián đoạn
. Khi thiết kế bài giảng, tất cả các trang chủ và trang tư liệu đều phải được để trong
một Folder thì mới sử dụng các trang minh hoạ được. Nếu muốn chuyển sang máy
khác cần phải copy toàn bộ Folder ấy để chuyển đi.
. Dấu hiệu liên kết sẽ làm thay đổi màu sắc kí tự đã thống nhất trong các trang trình
chiếu (và có gạch dưới), không được thẩm mĩ.
Chú ý:
- Các tư liệu là hình động hoặc Film, cần được đóng gói với phần mềm xử lí động
(Windows Media Player, Winamp…) để phòng khi đem bài giảng sang máy
khác thiếu phần mềm xử lí ấy.
- Để tiện cho việc kiểm tra các
File tư liệu, nên đánh số trang trong bài giảng sử dụng tư liệu ấy phía sau tên File.
b/ Chèn tư liệu bằng các hiệu ứng xuất hiện và xóa đi:
Một số tư liệu không chiếm đầy trang PPt như: một hình vẽ, một trích dẫn, một câu
hỏi, một yêu cầu HS làm việc (trao đổi nhóm về nội dung nào đó..), ta có thể chèn
trực tiếp mà không cần dung liên kết. Cách làm: đưa hình hoặc khung chữ vào ngay
chỗ cần chèn. Sử dụng hiệu ứng “xuất hiện” khi cần dùng tới tư liệu đó trong bài
giảng. Khung chữ nên có một màu khác với màu nền đề HS chú ý tới nó. Sau khi
dùng xong, cho lệnh exit để rút các tư liệu ra khỏi trang PPt. Để tư liệu không che
phần nội dung đã giảng, nên chọn chỗ cho chúng xuất hiện. nội dung giảng tiếp theo
sẽ được viết ngay vào đó.
* Ưu điểm: Dễ thực hiện và khi trình chiếu thì nó làm cho màn hình sinh động,
tập trung được sự chú ý của HS (Xem mục 2)
* Nhược điểm lớn nhất của cách làm này là: nếu chèn vào một trang PPt nhiều
tư liệu hoặc có tư liệu văn bản dài (một bài thơ chẳng hạn) thì công việc thiết kế sẽ rất
phức tạp và dễ nhầm lẫn khi cho cái nào xuất hiện trước, cái nào sâu..vì tư liệu và nội
dung ghi sẽ chồng chất lên nhau. Cho nên ở mục 2(e) chúng tôi có khái niệm “trang
sạch”, nó được định nghĩa như sau: “Trang sạch” là trang chứa nội dung bài giảng
mà không có các hiệu ứng và tư liệu chèn.
c/ Sử dụng các trang có cửa sổ trong trong Slide Layouts để minh họa:
Kiểu này cho phép chúng ta đưa tư liệu minh hoạ trực tiếp vào trang trình chiếu (các
cưa sổ) khi cần. Chèn vào lúc nào là tuỳ thuộc vào người thiết kế.
* Ưu điểm:
. HS có thể theo dõi nội dung bài liên tục vì tư liệu chỉ chèn vào vào “cửa sổ”.
. Khi chuyển máy, không phải đóng gói vì mọi thông tin đều nằm trong File PPt.
. Có thể chồng chập nhiều hình trên một trang PPt để khi chiếu, các tư liệu được sử
dụng liên tục (cho xuất hiện rồi exit, xuất hiện minh họa khác…).
* Nhược điểm:
. Người thiết kế phải tốn nhiều thao tác trên máy hơn nên rất dễ nhầm lẫn hình và
thứ tự xuất hiện.
. Khi in trang trình chiếu phát cho HS (hoặc cử toạ) thì tất cả các tư liệu minh hoạ
trong một trang đều được in ra. Nếu chèn nhiều tư liệu thì chúng sẽ bị chồng lên
nhau.
. Các ô cửa sổ chiếm nhiều diện tích màn hình
. Đối với hình động hoặc Film thì các thao tác còn phức tạp hơn. Trong trường hợp
này , nên dùng Hyper Link.
Đối với những người có kĩ thuật máy tính cao, họ có thể dùng nhiều thủ thuật trình
chiếu phức tạp hơn. Ở đây, chúng tôi trình bày vài cách làm cơ bản, chủ yếu là để
phù hợp với trình độ chung của GV (những người có kiến thức tối thiểu về PPt) có
thể thiết kế một bài giảng bằng PP không cầu kì nhưng hấp dẫn và dạy học bằng
máy tính có hiệu quả, . Chắc chắn rằng, khi chúng ta đã thiết kế nhiều giáo án rồi thì
mỗi cá nhân sẽ có đòi hỏi tất yếu là làm sao cho giáo án mỗi ngày một phong phú
hơn, hay hơn. Sẽ có hai hướng để cải tiến giáo án cho hay hơn. Hướng thứ nhất phải
tích cực tìm tòi, tham khảo tài liệu để có nhiều tư liệu đưa vào giáo án, hướng thứ
hai là nghiên cứu thêm các kĩ thuật trong máy tính để ứng dụng cho những trường
hợp có ý tưởng về PPDH phức tạp hơn. Việc nghiên cứu các phần mềm mô phỏng
các thí nghiêm hoặc các hiện tượng trên máy tính cũng là vấn đề phải làm và đó
cũng là những “tư liệu” tự tạo làm cho giáo án của chúng ta hấp dẫn hơn. Chúng tôi
cũng phải nhắc lại một yêu cầu quan trong, tiêu chí cho cả bài viết này, đó là, sự hấp
dẫn của một giáo án dạy học bằng PP phải được bắt nguồn từ nội dung trình chiếu là
chủ yếu, không phải là sự hấp dẫn của những trang quảng cáo hoặc những trang tiêu
đề trên truyền hình.

You might also like