Professional Documents
Culture Documents
Hình 1- 01 : Sơ đồ cấu
tạo chung của cơ thể côn
trùng (Theo Hannemann)
Ngoài đặc điểm chung
của ngành chân đốt, khi
trưởng thành côn trùng có
các đặc điểm sau đây:
1. Sâu trưởng thành
thuộc loại phân đốt
không đều, cơ thể chúng gồm nhiều đốt xếp liền nhau và tập hợp thành ba
phần chính là đầu, ngực,bụng (Caput, Thorax, Abdomen).
2. Đầu cómang một đôi râu đầu,mắt kép, mắt đơn và bộ phận miệng.
3. Ngực mang6 chân (Hexapoda)và thường có 4 hoặc 2 cánh.
4. Bụng có nhiều nhất là 11 đốt và khúc cuối Telson. Số lượng đốt bụng thường
ít hơn do bị thoái hóa. Bụng thường không có chân mà có các phần phụ là
lông đuôi, ngạnh và cơ quan sinh dục ngoài (cơ quan đẻ trứng, ngòi độc, cơ
quan giao phối).
Cơ thể côn trùng được bao bọc bởi một lớp vỏ cứng có thành phần chủ yếu là
chitin rất bền vững.Chúngcó các lỗ thởthường nằm ở hai bên sườn.
1.2.2.Đầu côntrùng (Caput)
1 ChÊt kitin lµ polysacarit cã N c«ng thøc (C 8 H 13 O 5 ) x
7 Đầu là phần trước của cơ thể, giữ một chức năng quan trọng trong đời sống
của côn trùng, vì đầu có chứa não và các giác quan để xác định phương hướng hoạt
động, đồng thời có miệng là công cụ để ăn. Về nguồn gốc đầu là do 5-6 đốt phía
trước cơ thể gộp lại mà thành,song khôngcòn đặc trưng chia đốt. (H. 1-2).
Nếu quan sát kỹ đầu cóthể phân hoá thành nhiều khu nhỏ.
Hộp sọ của đầu côn trùng được chia thành các phân khu khác nhau với các tên
gọi như đỉnh đầu (Vertex), trán (Frons), má (Gena), ót (Occiput). Phía trước đầu từ
trên xuống có: Đỉnh đầu, trán,chân môi và lá môi trên. Hai bên đỉnh đầu có 2 mắt
kép (Oculi), và ở khu vực trán có mắt đơn (Ocelli); một cái nằm ở giữa trán; còn
hai cái nằm trên ổ chân râu gần hai mắt kép. Phía trên trán có hai lỗ hõm gọi là ổ
chân râu,từ đó mọc ra hai râu đầu.
Phía bên đầu, dưới hai mắt kép là má, dưới má là hai hàm trên, sau hàm trên là
hàm dưới và sauhàm dưới làmôi dưới.
∙ Chức năng của râu đầu: Là cơ quan cảm giác: xúc giác, khứu giác, thính giác
và một số chức năngkhác.
-Chức năng khứu giác nhưbọhung, ruồi,sâu róm chè.
-Chức năngthính giác như muỗi đực.
- Một số loài có chức năng khác như niềng niễng (Hydrophylus) dùng râu bắt
mồi, ban miêu dùng râu quặp con cái, có loài dùng râu lấy không khí trên mặt
nước,có loài dùng râu cân bằng khibơi...
Râu đầu được sử dụng để:
∙ Thu nhận tín hiệu của các cá thể cùng loài, đặc biệt giữa con đực và con
cái,thí dụ ởmuỗi,bướm.
∙ Nhận biết đường đi: Trên mỗi râu đầu của kiến rừng có 211 nút khứu giác
và 1720 lôngxúc giác.
∙ Nhận biết mùivị thức ăn.
9 ∙ Nhận biết được sự chênh lệch nhiệt độ rất nhỏdo ký chủ gây ra (nhờ có cơ
quan nhận được tia hồng ngoại có trên râu đầu của ong ký sinh) mà biết
đượcchính xácvị trí của ký chủ.
∙ Kẹp nhau khi giao phối (bọ nhảy).
∙ Nhận biết chấn độngở nước,đất.
Khi phân loại hoặc nhận dạng côn trùng người ta thường chú ý tới kiểu râu đầu,
kích thước của cả râu đầu hay của một số đốt, số lượng đốt và màu sắc của râu
đầu. Đôi khi sự khác biệt giữa râu đầu của con đực và con cái cũng là một đặc
điểm nhận dạng quan trọng.
1.2.2.2.Miệng (Mouth) côn trùng
Bộ phận miệng của côn trùng dùng để lấy thức ăn, kiểm tra, nghiền nhỏ và
tiếp nhận thức ăn. Miệng còn đảm nhận các chức năng khác như tự vệ, xây tổ,
chăm sóc con cái... Về cơ bản miệng côn trùng gồm các phần sau: Môi trên, môi
dưới,hàm trên,hàm dưới và lưỡi.
Hình 2- 02 –
Vật phụ có cấu tạo tế
bào ngoài da (Vẽ
theo Snodgrass)
A - Gai; B – Cựa; C
– Lông cứng:
1.Lông cứng;
2.Màng ổ chân lông; 3. ổ chân lông; 4.Tế bào lông nguyên thuỷ; 5.Tế bào màng
nguyên thuỷ; 6.Tế bào nội bì;
D – Lông độc: 7.Lông độc; 8.Tế bào lông nguyên thuỷ; 9.Tế bào tuyến độc.
E - Vảy: 10.Tế bào nội bì; 11.Tế bào lông
2.2.2.ý nghĩacủa việc nghiên cứu cấu tạo da côn trùng.
Khi nghiên cứu cấu tạo da côntrùng ta thấy:
- Về mặt cấu tạo và phát triển của da: lớp nội bì có ý nghĩa quan trọng vì lớp này
sinh ra lớp màng đáy và lớp biểu bì sau mỗi lần lột xác; có chứa các túi tuyến như
tuyến tơ,tuyến sáp,tuyến hôi, tuyến lột xác vàtuyến tiết phê-rô-môn
-Về mặt bảo vệ cơ thể: lớp biểu bì giữ một chức năng quan trọng vì trong lớp này
có chứa chất kitin, chất sáp, các vật phụ và màu sắc khác nhau giúp cho côn trùng
chống lại hoặc thích nghi với điều kiện môi trường.
Qua nghiên cứu cấu tạo da côn trùng ta thấy muốn cho thuốc độc thấm qua da
trước hết phải phá vỡ lớp sáp. Cho nên trong thành phần của thuốc tiếp xúc người
ta thường hoà thêm chất Pyrothrine để hoà tan các chất béo hoặc cho thêm bột trơ
(Inerte) để khi côn trùng bị nhiễm thuốc càng cựa quậy, bột trơ cọ xát làm tổn
thương lớp sáp vàthuốc độc dễ xâm nhập vào cơ thể.
Khi dùng thuốc tiếp xúc thời gian phun tốt nhất là pha sâu non tuổi nhỏ hoặc
vừa lột xáclúc dacòn mềm.
2.3. Thể xoangvà vị trí các hệcơ quan bên trong
Trước khi nghiên cứu cấu tạo và chức năng các hệ cơ quan bên trong cơ thể
côn trùng ta cần biết thế nào là thể xoangvà vị trí các hệcơ quan bên trong.
2.3.1. Thể xoang
gọi là hệ số
hô hấp (Coefficient respiratoira)
Qua nghiên cứu người ta thấy:
Khi oxy hoá gluxit thì hệ số hô hấp bằng 1 và cụ thể là cứ tiêu hao một lít oxy sẽ
sinh ra6,11 nghìn calo.
Khi oxy hoálipitthìhệ số hô hấp bằng 0,7 và oxyhoáprotitthìhệsố từ0.7-1 và cứ
tiêu hao một lít oxychỉ cho từ 4,46 -4,65nghìn calo.
Vậy hệ số hô hấp sẽ biến đổi tuỳ theo tình hình hoạt động và trạng thái sinh lý của
côn trùng,
Ví dụ về mùa đông một số loài côn trùng qua đông phải sử dụng đến chất dinh
dưỡng dự trữ như lipit thì hệ số hô hấp thấp, năng lượng sinh ra nhỏ hơn nên côn
trùng ít hoạt động.
Đa số côn trùng oxy hoá gluxit nhưngở loài rệp ống (Aphis fabae)chủ yếu oxy hoà
lipít. Loài châu chấu (Locusta migratoria) lúc bay oxy hoá lipit là chủ yếu, lúc nghỉ
lại oxyhoágluxit là chủ yếu.
Một điều kỳ lạ có một số loài côn trùng bay vượt đại dương mà không mệt vì
ở côn trùng không có hịên tượng nợ oxy, có nghĩa khi hoạt động nhờ có sắc tố hô
hấp Cytochorome đã phânhuỷ axít lactich dựtrữ ở các bắp thịt rất nhanh.
2.6.3.ý nghĩacủa việc nghiên cứu cấu tạo và chức năng hệhô hấp
Căn cứ vào cấu tạo và chức năng của hệ hô hấp, để tiêu diệt sâu hại người ta
dùng các loại thuốc xông hơi như: Cyanhydic, Cloropicrin. Các loại thuốc này
thông qua khí quản vào đến các mô, một mặt làm tê liệt các mô thần kinh, một mặt
làm mất khảnăng thẩm thấu ngượcmàng tế bào.
Hiệu lực của thuốc xông hơi phụ thuộc nhiều vào cường độ hô hấp của côn
trùng. Do đó, khi dùng thuốc diệt sâu hại ở trong các kho lâm sản, nếu cho thêm
một lượngkhí CO2 hoặc tăng nhiệt độ không khílên 35 0 C thì hiệu lực giết sâu càng
nhanh.
Ngoài ra có thể dùng một số loại thuốc dầu phun vào cơ thể côn trùng để bịt
các lỗ thở làm chonó nhiễm độc.
2.7. Hệtuần hoàn
Chức năngcủa hệtuần hoàn là lưu chuyển máu ở trong cơ thể côntrùng.
So với động vật xương sống thì hệ tuần hoàn của côn trùng là hệ tuần hoàn
hở, sở dĩ như vậy là vì máu sau khi qua hệ tuần hoàn lại trào vào xoang thân, thấm
ướt trở lại hệtuần hoàn chứkhông lưu chuyển trongmạch kín.
2.7.1.Cấu tạo của hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn của côn trùng nằm ở xoang lưng nên còn gọi là động mạch
lưng.
Hình 2-07 Cấu tạo hệ tuần hoàn và tế bào
máu
A.Cấu tạo hệ tuần hoàn
1. Đại động mạch; 2. Các buồng
tim; 3. Bắp thịt hình cánh; 4. Cửa tim; 5.
Van tim
B. Cấu tạo của tế bào máu
1.Tế bào máu của sâu non cà niễng; 2.Tế
bào máu của bướm cái; 3.Tế bào máu của
cánh cứng
Động mạch lưng phía trên nối với da
bằng các bắp thịt treo, phía bên nối với
màng ngăn lưng bằng các bắp thịt hình
cánh.
Động mạch lưng chialàm 2 phần: Phần trướclà đại độngmạch, đó là một ống
dài nằm từ đầu đến hết các đốt ngực; phần sau là các buồng tim phình to. Nói
chung côn trùng có từ 8 – 10 buồng tim. Mỗi buồng tim phía trước có van hình nếp
gấp chỉ cho máu đi về phía đầu; phía ngoài của van tim có hai cửa tim để cho máu
từxoang lưng đivào. Mỗi cửa timđều có van. Buồng tim cuối cùng,phía sau kín.
2.7.2. Sự hoạt động của buồng tim đểlưu chuyển máu.
Nhờ có sự co giãn của các bắp thịt hình thành cánh mà buồng tim co bóp được
và do sự dẫn truyền xung động 4 của thần kinh đến các bắp thịt hình cánh lần lượt từ
dưới lên trênlàm cho buồng tim cobóp theo một thứtự nhất định.
Trước hết buồng tim cuối cùng bóp lại làm cho máu đẩy cửa van phía trước
trào lên buồng tim thứ hai. Khi máu trào qua van tim làm cho áp suất ở hai bên cửa
tim của buồng tim thứ hai giảm, do đó một phần máu từ thể xoang cũng tràn qua 2
cửa tim mà vào buồng tim. Tiếp theo buồng tim thứ hai lại bóp lại, ngay khi đó 2
cửa tim vàvan tim của buồng tim thứ nhất đónglại dồn máu lên buồng tim thứ ba.
Tiếp đó, buồng tim thứ ba co bóp lại, đẩy máu lên buồng tim thứ tư. Trong
lúc đó buồng tim thứ nhất lại mở ra, máu lại từ xoang tràn qua cửa tim mà vào
buồng tim thứnhất.
Nhờ có buồng tim co bóp so le như vậy đã đẩy máu đi lên đại động mạch rồi
lại trào vào thể xoang.
Số lần co bóp của buồng tim tuỳ thuộc vào từng loài côn trùng, từng pha biến
thái vàsự hoạt độngcủa côntrùng màgiao động từ30 – 140 lần phút.
2.7.3.Máu và nhiệm vụ củamáu
Khác với động vật xương sống, máu của côn trùng không màu, nếu có màu
thường là màu hơi vàng hay xanh lá cây. Không có màu đỏ vì không có sắc tố
hémoglobin.
4 Xung ®éng thÇn kinh ®ã lµ sãng khö cùc diÔn ra däc theo sîi thÇn kinh
27 Máu côn trùng bao gồm có huyết tươngvà tế bào bạch cầu 5 .
Trong huyết tương của máu chứa gluxit, lipit, protit, axit amin, axit uric, vật
chuyển hoá hoocmon, muối vô cơ của natri, canxi, kali và magiê đôi khi còn có
đồngvà sắt.
Tế bào bạch cầu có khảnăng vận chuyển ở trong máu nhưamíp.
Nhiệm vụ chủyếu của máu là vận chuyển các chất dinh dưỡng từ cơ quan tiêu
hoá đến các mô, đồng thời tiếp nhận các sản phẩm trao đổi chất đưa đến các bộ
phận bài tiết để thải rangoài.
Riêng tế bào bạch cầu làm nhiệm vụ bảo vệ cơ thể, gạt bỏ những chất độc
ngấm trong máu, tiêu huỷ phế vật, mô hư hỏng và vi khuẩn gây bệnh xâm nhập ở
ngoài vào.
Ngoài ra máu còn tham gia vào vịêc điều hoà hàm lượng axit, bazơ, nước
trong tế bào; điều hoà nhiệt độ cơ thể và điều hoà sự hoạt động thống nhất của các
cơ quan bên trong v.v…
Một số loài côn trùng máu còn chứa độc tố như máu của sâu bao nhiêu (Meloidae)
có từ 0,25 – 0,50%chất Cantharidine độc đối với người.
Khi nghiên cứu hệ tuần hoàn của côn trùng ta thấy toàn thân côn trùng là một
xoang chứamáu.
Cho nên khi dùng thuốc độc phá vỡ lớp da và các cơ quan bên trong khác thì
lập tức thuốc sẽ thấm vào máu gây rối loạn trong cơ thể.
Thí dụ thuốc Cyanhydric làm chậm tốc độ của máu,còn thuốc nicôtin có natri
làm cho tuần hoàn củamáu hỗn loạn rất nhanh.
2.8. Hệ bài tiết
Bài tiết là khâu cuối cùng của qúa trình dinh dưỡng, có tác dụng thải các sản
phẩm củaquá trìnhtrảo đổi chất rangoài cơ thể.
Hệ bài tiết của côn trùng gồm các ống man-pi-ghi,thểmỡ, tế bào thận và các
túi tuyến,những chủyếu là các ống man-pi-ghi và cáctúi tuyến.
2.8.1.ống man-pi-ghi và quá trìnhbài tiết axit uric.
Các ống man-pi-ghi một đầu thông với hệ tiêu hoá ở giữa ruột giữa và ruột sau,
một đầu bịt kín và lơ lửng trong xoang thân.
ống man-pi-ghi thườngcó màu xanhvàng hay nâu.
Số lượngống man-pi-ghicótừ2-100 ống tuỳtheo từngloài côntrùng.
Ví dụ: Rệp sáp có2 ống,xén tóc có6 ống vàdế mèn có 100ống.
ống man-pi-ghi phía ngoài là một lớp màng mỏng, phía tronglà lớp tế bào hình
đagiác nhiều nhân xếp lôn xộn tạo nên xoangốnghìnhmúi khế.
ống man-pi-ghi bài tiết chủyếu là axit uric theophản ứng đặc trưng sau:
Phản ứng (1) xảy ra ở xoang thân, còn phản ứng (2) xảy ra trong ống man-pi-
ghi.
Sở dĩ như vậy vì axit uric không thấm qua được màngống man-pi-ghi nên phải
kết hợp với cacbonat axit kali tạo thành urat axit kali, muối này được ống của
Cácbonic,phản ứng lại xảy ra ngược lại,tạo thànhCácbonat axit kali vàaxit uric.
Chất cacbonat axit kali lại thấm qua màng ống man-pi-ghi vào xoang thân còn
axit uric đi vào ống tiêu hoá theo phân ra ngoài. Như vậy phân của côn trùng có cả
nước tiểu.
2.8.2.Các túi tuyến và sự bài tiết củachúng.
ở da côn trùng còn có nhiều túi tuyến chứa các sản phẩm bài tiết, tiết vào trong
hoặc rangoài cơ thể có tácdụngkhác nhau trong đời sống côn trùng.
Tuyến tơ ở môi dưới một số loài sâu non dùng để kết kén bảo vệ cho nhộng.
Tuyến sáp nằm ở các đốt bụng của con ong thợ dùng để xây tổ ong. Tuyến hôi ở
mặt bụng các loài bọ xít và tuyến tiết ra dịch trắng ở trán mối lính để xua đuổi kẻ
thù.
Nhưng quan trọng hơn là tuyến lột xácvà tuyến tiết phê-rô-môn
- Tuyến lột xác (Corpora allata) nằm ở cạnh não, tiết vào máu chất Ecdizon 6 để
kíchthích lớp nội bì hoạt động tiếnhành lột xác.
- Tuyến tiết phê-rô-môn tiết ra các chất có tác dụng đặc trưng đối với các cá thể
khácvà giữ vai trò nhưtín hiệu thông tin hay còn gọi làngôn ngữ của côn trùng.
Vị trí và hình dạng của các tuyến tiết phê-rô-môn khác nhau tuỳ theo từng loài
côn trùng.
Cấu tạo chung bao gồm : Lỗ tiết, túi chứa dịch thơm, nhân của tế bào tuyến,
dây thần kinh, ống khí quản. Các tuyến này còn có thêm phần phụ làm nhiệm vụ
phun hoặc bay hơi hoặc dùng để tiêm phê-rô-môn vào trong cơ thể của các cá thể
khác.
Phê-rô-môn là những nhóm hợp chất hữu cơkhác nhau như: protit,xteroit,hợp
chất rượu và hỗn hợp axít khác.
Về cấu tạo hoá học cơ bản có thể giống nhau nhưng khác nhau về hoạt tính
sinh học và ngược lại.
6 Ecdizon chÝnh lµ xteroit cã c«ng thøc C 27 H 44 O 6 –1 lo¹i hoocmon
29 Căn cứ vào hoạt tính sinh học người ta chia Phê-rô-môn thành các nhóm khác
nhau: Chất đánh dấu, chất báo động, chất biến tính sinh dục, chất kích thích sinh
dụcvàchất dẫn dụsinhdục v.v…
ở những loài côn trùng sống có tính chất xã hội như: kiến, ong, mối Phê-rô-
môn có vai trò quan trọng trong việc điều hoà nhịp nhàng các hoạt động sống của
tổ.
Đa số kiến khi bò đi kiếm ăn hoặc khi di chuyển tổ đều dùng tuyến ở đốt bụng
cuối cùng chấm chất đánh dấu lên đường đi tạo thành đường đicủa kiến.
Chất đánh dấu của kiến thường bay hơi khá nhanh, hoàn toàn mất tác dụng sau
104 giây, với thời gian đó đủ để cho kiến di chuyển được gần 40cm và vượt quá
khoảngcách đó kiến mất liên lạc với nhau.
Kiến còn dùng nồng độ chất đánh dấu để điều động kiến thợ đi kiếm ăn; nồng
độ cao có nghĩa thức ăn nhiều, kiến thợ đi nhiều; nồng độ thấp thức ăn ít, kiến thợ
đi ít.
Một số loài ong như ong mật, ong vàng, ong bò vẽ. Khi đốt kẻ thù đồng thời
cũng tiết ra chất gây phản ứng báo động chocác ong khác. Nhận được mùi của chất
báo độngcác ong khác liền laovào kẻ thù vàthường đốt vào gần vết thương do ong
trước đốt.
Vào mùa xuân trong lúc ong chúa đẻ trứng có một số ong thợ luôn luôn đi bên
cạnh gọi là những con ong “tuỳ tùng”. Chúng luôn luôn cọ râu và liếm trên mình
ong chúa một chất gọi là chất biến tính sinh dục. Chất này vừa có tác dụng kìm
hãm sự phát triển buồng trứng của ong thợ vừa ngăn cản ong thợ xây mũ chúa và
kíchthích ong thợ xâycầu ong.
Khi số lượng đàn ong quá lớn, chất biến tính sinh dục trên mình ong chúa
không đủ cung cấp cho cả đàn nên ong thợ đắp mũ chúa, ong đực ra đời và cuối
cùnglà chia đàn.
Nhiều loài côn trùng trước và trong lúc giao phối cá thể đực đã tiết ra một chất
dịch đặc biệt để cho cá thể cái ăn. Chất dịch này có tác dụng kích thích sinh dục
làm chocáthể cái ở trạngthái ít chuyển động.
Nhiều Phê-rô-môn có tác dụng sinhhọc rất cao trong không gian rộng lớn.
Ví dụ chất dẫn dụ sinh dục của bướm mắt nẻ (Saturnia pyri Schiff) thu hút
bướm đựcở xa tới 8000m.
Chất dẫn dụ sinh dục gipton của bướm cái Porthetria dispar L có khả năng tồn
tại trong tự nhiên 970 ngày và có tác dụng hấp dẫn hàng triệu bướm đực trong
phạm vi chiều dài từ 2-3 km và chiều rộng từ 150-200m
Năm 1982 Inscoe đã thống kê trên thế giới phát hiện được 674 chất Phê-rô-
môn trong đó có gần 20 loài côn trùng tiết chất dẫn dụ sinh dục. Ngày nay người ta
đã sử dụng các chất dẫn dụ sinh dục để dự tính dự báo và phòng trừ một số loài sâu
hại.
2.9. Hệthần kinh (Bộ máy thần kinh)
2.9.1: Chức năngcủa hệ thần kinh
30 Bộ máy thần kinh của côn trùng có vị trí rất quan trọng, điều khiển toàn bộ
hoạt động sống của côn trùng, đảm bảo cho côn trùng luôn thích nghi với điều kiện
sống. Bộ máy thần kinh của côn trùng là mối liên lạc giúp cho các cơ quan bên
trong và các bộ phận bên ngoài hoạt động nhịp nhàng bảo đảm cho côn trùng là
một thểthống nhất.
Khác với động vật xương sống, hệ thần kinh côn trùng cấu tạo theo chuỗi nằm
dọc xoangbụng, khôngcó xoang bên trong (đặc).
2.9.2.Cấu tạo của hệ thần kinh
Theo “Từ điển sinh học -Phần côn trùng” của W.Jacobs biến thái (Metamorphose)
được định nghĩanhư sau:
Biến thái là sự biến đổi về hình dạng, cấu trúc, chức năng của côn trùng có
44
liên quan tới sinh trưởng, phát triển, lột xác và được điều tiết bởi hệ thống hoóc
môn.
Quá trình biến thái tiến triển bởi vô số những biến đổi cho tới khi đạt được
giai đoạn trưởngthành có thể dần dần hoặc qua một giai đoạn nhộng.
Đây là quá trình biến đổi của cơ thể côn trùng trên phương diện hình
dáng cơ thể và chức năng của các cơ quan, đặc biệt thấy rõ lúc chuyển tiếp từ giai
đoạn sinh trưởng sang giai đoạn trưởng thành. Tùy theo mức độ biến dạng và
cường độ của quá trình biến dạng đó người ta phân biệt giữa biến thái không hoàn
toàn (Hemimetabola) và biến thái hoàn toàn (Holometabola). Đây là 2 kiểu biến
thái chính, mỗi kiểu biến thái chính này lại có nhiều dạng khác nhau. Có thể phân
biệt khá dễ dàng giữa 2 kiểu biến thái chính với nhau thông qua các đặc điểm được
trình bày trong bảng dưới đây:
Do có sự khác biệt về đặc điểm sống của côn trùng có các kiểu biến thái khác
nhau nên trong công tác quản lý côn trùng cũng cần chú ý lựa chọn các biện pháp
thích hợp đối với từng giai đoạnbiến tháicủa côntrùng
3.2.2.Các phaphát triển củacá thể côn trùng
3.2.2.1.Trứng
- Trứng là 1 tế bào lớn, phía ngoài cùng của trứng có vỏ trứng tương đối
cứng, được cấu tạo bởi chất protein và sáp. Bề mặt vỏ trứng có lúc có nhiều dạng
vân khía và màu sắc khác nhau.Vỏ trứng có tính không thẩm thấu cao,do đó có tác
dụngbảo vệrất tốt. Trên vỏ trứngcó một hay một số lỗ thụ tinh (H. 3-02).
- Phía trongcủa vỏ trứngcó 1 lớp màng rất mỏng gọi là mànglòng đỏ trứng.
Màng này bao bọc lấy nhân trứngvà chất tế bào.
- Trứng chưa thụ tinh thì nhân trứng ở chính giữa, sau khi thụ tinh thành hợp
tử và
phân chiathành nhiều hạch bào tử và di chuyển raphía ngoài.
- Kích thước từng quả khác nhau tùy theo từng loài côn trùng, ví dụ: Trứng
của ngài sâu đục thân lúa có kích thức 0,04 – 0,06 mm; trứng sát sành Saga 11mm;
Trứng của ong Syloco pavalga 1mm, trứng của loài ong ký sinh thường có kích
thước bénhất.
- Hình dạng trứng: Trứng hình cầu trơn hoặc có vân khía như trứng sâu hại
khoai lang,sâu bướm phượnghại cam.
+ Trứng hình bánh bao: Trứng của ngài cú
mèo, sâu cuốn là lớn hại lúa, sâu khoang.
C-Thời kỳ hình thành chi: 24-Mầm phôi trên; 25-Mầm râu đầu; 26– Mầm lỗ
miệng; 27– Mầm của hàm trên, môi trên và môi dưới; 28- Mầm các chi ngực; 29-
Tầng phôi giữa; 30- Tầng phôi trong; 31- Mầm thần kinh; 32- Mầm chi bụng; 33-
Mầm mắt kép;34-Râu đầu; 35-Lỗ thở.
- Trứng sau khi thụ tinh thì tiến hành phân chia của hợp tử thành nhiều hạch
tế bào. Số lượng và vị trí của lòng đỏ trứng có ảnh hưởng rõ rệt đến sự phân chia
trứng. Nếu số lượng lòng đỏ trứng tương đối ít và phân bố đều đặn thì sự phân
46 chia trứng hoàn toàn. Đại đa số trứng côn trùng có lòng đỏ phong phú, vì vậy sự
phân chia trứng được biểu hiện theo phương thức phân chia bề mặt,có nghĩa là các
hạch tế bào di động từ giữa trứng ra xung quanh nhập vào tế bào chất sắp xếp thành
lớp tế bào liên tục tạo thành “nhau” phôi. Trong “nhau phôi” đầy lòng đỏ, giữa các
lòng đỏ pha trộn một số nhóm tế bào chất có hạch gọi làtế bào lòng đỏ.
+ Sự hình thành dải phôi
Sau khi các tế bào “nhau phôi” hoàn toàn bao lấy trứng thì bước vào giai
đoạn phôi nang. Xoang phôi nang chứa đầy lòng đỏ trứng, tiếp theo là các tế bào
mặt bụng của nhau phôi dày dần lên để hình thành dải phôi, đó là mầm phôi thai
sau này. Những tế bào tương đối nhỏ, dẹt của nhau phôi còn lại sẽ hình thành màng
tươngmạcvàdươngmạc.
+ Sựphân chia tầng phôi và hình thànhcác cơ quan
- Bước phân chia tầng phôi đầu tiền là ở bên mặt dải phôi được cắt theo chiều
dọc chia thành 1 khu phiến giữa và khu 2 phiến bên; khu phiến bên tạo thành tâng
phôi ngoài, khu phiến giữa để tạo thành phôi trong. Phôi tiếp tục phân chia và tạo
thành 3 tầng.
+ Tầng phôi ngoài: Hình thành nên da, ruột trước, ruột sau, dây thần kinh và mầm
khí quản.
+ Tầng phôi giữa: Hình thành nên bắp thịt, mỡ, mạch máu lưng, tuyến sinh dục và
tuyến phụsinhdục.
+ Tầng phôi trong: Hình thành nên ruột giữa.
3.2.2.2.Đặc điểm sinhhọccủa pha sâu non
Sâu non là pha phát triển thứ hai của côn trùng sau pha trứng. Sâu non nhìn
chung không có cánh hoặc chỉ có mầm cánh ngắn và thường không có khả năng
sinh sản. Do sâu non của côn trùng có biến thái khônghoàn toàn có hình thái và tập
tính khá giống sâu trưởng thành nên phần này chủ yếu nói đến những đặc điểm của
sâu non các loài côn trùng có biến thái hoàn toàn. Chức năng quan trọng nhất của
pha sâu non là thu thập chất dinh dưỡng và tích luỹ năng lượng phục vụ cho quá
trình sinh trưởng và phát triển của côn trùng.
*Cấu tạo cơbản
Cơ thể sâu non thường ở dạng nhuyễn trùng, sự phân hóa cơ thể thành ba bộ
phận cơ bản là đầu, ngực, bụng nhiều khi khôngrõ ràng.Ngoài phần đầu cơ thể sâu
non có khoảng 13 đốt. Trên các đốt ngực có thể có các chi phụ được gọi là chân
ngực. ở các đốt bụng có thể mang chân bụng. Lớp da phủ bụng và ngực thường
mỏng, trên vỏ cơ thể có các dạng cấu tạo khác nhau. Pha sâu non có các dạng khác
nhauvà các cơ quan sâu non đặc trưng.
Hình 3-04: Sơ đồ cấu tạo cơ thể sâu non
côn trùngcó biến thái hoàn toàn
Các loài thuộc bộ cánh đều, trừ sâu con thuộc bộ ve sầu sống ở trong đất còn
phần lớn sống trên cây và mỗi loài thường chỉ chích hút nhựa ở mỗi bộ phận nhất
định của một vài loại cây. Cây bi chích hút nhựa thường sinh trưởng kém, cằn cỗi,
đôi khi làm cho cây chết. Một số loài chích hút tạo ra các bướu cây hoặc là vật
trung gian truyền bệnh cây.
Trong bộ này thường gặp 3 họ: Họ Ve sầu (Cicadidae), họ rệp ống (Aphididae),
họrệp sáp (Coccidae).
4.3.1.5.Bộ cánh khôngđều (Hemiptera)
Bộ này bao gồm các loài bọ xít,trên thế giới phát hiện được 23.000 loài. Hình 4-04: Ve sầu
Mogannia
63 Kích thước thân thể trungbình.Râu đầu hình sợi chỉ có 5 đốt hoặc ít hơn.
Có hai mắt đơn hoặc không có.
Miệng chích hút hơi dài, vòi có phân
đốt và mọc ra từ phần trướccủa đầu.
Có hai đôi cánh,cánh trước gần 2/3
chiều dài kitin hoá cứng, hơn 1/3 còn
lại là dạng màng. Cánh sau là cánh
dạngmàng ngắn hơn cánh trước.
Khi không bay cánh đặt trên lưng,
phía cuối hai cánh trước chồng lên
nhau. Bàn chân có từ 2-3 đốt. Có
nhiều loài thuộc bộ này có tuyến hôi.
Phần lớn các loài sống trên cạn, chích hút nhựa cây, một số loài hút máu các
động vật và các côn trùng khác. Một số loài là vật trung gian truyền bệnh cây. Có
nhiều loài sốngở nướcngọt.
Đây là một bộ lớn có nhiều họ trong đó đáng kể nhất là các họ: bọ xít ăn sâu
(Ređuviiae), họ bọ xít vải (Pentatomidae), họ bọ xít gai (Coreidae), họ bọ xít dài
(Alydidae), hị bọ xít mai rùa (Scutlelleridae).
4.3.2. Kiểu biến thái hoàn toàn.
4.3.2.1.Bộ cánh cứng (Coleoptera)
Đây là bộ côn trùng lớn nhất trong lớp côn trùng bao gồm nhiều loài nhưbọ hung
xiến tóc, bổ củi,mọt thóc…
Kích thước thân thể từ nhỏ đến lớn.Đầu thường rất phát triển, thường rụt vào đốt
ngực trước hay kéo dài thành ống dài như họ vòi voi. Râu đầu có nhiều dạng khác
nhau: hình lá lợp, hình sợi chỉ, hình răng cưa…có từ 8-11 đốt. Miệng gặm nhai. Có
hai đôi cánh rất phát triển, cánh trước kitin hoá cứng, luôn nằm sát một đường
thẳng trên lưng và che phủ cánh sau. Cánh sau là cánh màng dài hơn cánh trước và
được gấp ở dưới cánh khi không bay.
Bàn chân có từ3-5 đốt.
Sâu non có ba đôi chân ngực phát triển hoặc thoái hoá, không có chân bụng.
Nhộng là nhộng trần. Các loài của bô cánh cứng sống ở khắp các nơi, ăn cả động
vật và thực vật còn sống hoặc đã chết.
Nhiều loài có ích,chúng ăn thịt các loài sâuhại.
Bộ cánh cứng chia ralàm 2 bộ phụ chủ yếu: Bộ phụ ăn thịt vàbộ phụđa thực.
- Bộ phụ ăn thịt (Adephaga)
Những loài thuộc bộ phụ này có các đốt chậu chân sau nằm chéo qua mảnh bụng
thứ nhất và nhô sang cả mảnh bụng của đốt thứ hai. Bàn chân có 5 đốt. Bụng có từ
6-7 đốt. Thường gặp các loài thuộc họ hành trùng (Carabidae), họ hổ trùng
(Cicindelidae). Hình 4-05: Bọ xít
vải
64 -Bộ đa thực (Polyphaga)
Những loài thuộc bộ phụ này có các đốt
chậu sau không nằm chéo mảnh bụng của đốt
bụng thứ nhất. Bàn chân có từ 3-5 đốt. Bụng
có từ 5-6 đốt.
Ta thường gặp các họ: Họ xén tóc
(Cerambycidae), họ bổ củi (Elateridae), họ bọ
hung (Scarabacidae), họ vòi voi
(Curculionidae), họ bọ rùa (Coccinellidae),
Họ mặt quỷ (Histeridae), họ mọt (Ipidae,
Lyctidae, Platypodidae)…
4.3.2.2 Bộ Cánh màng (Hymenoptera)
Bộ cánh màng bao gồm các loài như
ong, kiến. Người ta biết được khoảng
105.000loài.
1 2
Hình 4-08. Một số loài ruồi thuộc bộ haicánh
1.Ruồi Hylemia antiqua meigen (Họ ruồi hoa) ; 2. Ruồi musca (Họ ruồi
nhà)
-Bộ phụ râu dài (Nematocera)
Râu đầu có 6 đốt hoặc nhiều hơn.Chân rất dài và thân thể cân đối.
Bộ phụ này gồm các họ muỗi: họ muỗi sếu (Tipulidae), họ muỗi tạo bướu
(Ceidomyziae),họ muỗi nhà(Culicidae).
-Bộ phụ râu ngắn (Brachycera)
Râu đầu ngắn có ba đốt, đốt thứ ba thường có lông cứng. Thân thể khá mập.
Chân ngắn hơn bộ trên. Bộ phụ này gồm các họ ruồi: Họ ruồi ăn cướp(Asilidae),họ
ruồi ăn rệp (Syrphidae) , ho ruồi đục lá (Agromyzidae), họ ruồi trâu (Tabanidae),
họruồinhà(Muscidae),họ ruồi ký sinh (Tachinidae)v.v…
4.3.2.4.Bộ cánh vảy (Lepidoptera)
Bộ này bao gồm cácloại bướm và ngài,người ta đãbiết khoảng 112.000 loài.
Kích thước từ nhỏ đến lớn. Râu đầu có nhiều dạng khác nhau: hình dùi đục, hình
sợi chỉ, hình răng lược,hình lông chim.
Miệng kiểu chích hút.
Râu môi dưới phát triển,khôngcó râu hàm dưới.
Có hai đôi cánh màng được bao phủ bởi các vẩy nhỏ. Cánh sau nhỏ hơn cánh
trước.Một số rất ít cánh thoái hoáhoặc khôngcó. Bàn châncó 5 đốt.
Sâu non có ba đôi chân ngực, có từ hai đến năm đôi chân ngực. Cuối chân bụng
có các dạngmóc khác nhau.
Thân thể sâu non có loài nhẵn nhụi, có loài rất nhiều lông, thậm chí có các túm
lông hoặc bướu lôngđộc.
Phần lớn sâu non có tuyến tơ ở miệng dùng
để làm kén hoặc làm nơi trú ẩn.
- Nhộng là nhộng màng, nhiều loài nhộng
nằm trong kén tơ. Bộ cánh vảy là một trong
những bộ khá lớn của lớp côn trùng, sống
chủ yếu trên cây.
- Sâu trưởng thành hút mật hoa và các
chất khoáng khác,cónhiều loài
không ặn uống. Một số loài bướm bay
thành đàn di cư rất xa.
- Sâu non của nhiều loài phá hoại
nghiêm trọng đối với cây rừng. Một số ít
phá hoại cácsản phẩm dự trữ trong kho.
Bộ cánh vảy được chia thành hai bộ phụ khác nhau chủ yếu về hệ thống mạch
cánhvà cánh liên kết cánh trước với cánh sau.
Bộ phụ Frenatae:
Mạch Rs của cánh sau không phân nhánh. Có móc cánh (Frenulum) hoặc góc vai
của cánh sau phát triển. Bộ phụ này gồm các loài bướm và ngài lớn, trong đó có
nhiều họliên quan đến sản xuất nông lâm nghiệp gồm:
Họ bướm phượng (Papilionidae); họ bướm cải (Pieridae), họ mắt công
(Attacidae); họ bướm chân chùi (Nymphalidae), họ ngài đêm (Noctuidae); họ ngài
độc (Lymantridae), Họ Ngài trời (Sphingidae), họ sâu đo (Geometridae), họ ngài
thiên xã (Notodontidae); họ ngài kén (Lasiocampidae), Họ ngài đục thân
(Coccidae),họ ngàitúi (Psychidae),họ ngài cuốn lá(Tortricidae).
Bộ phụ Jugatae
Mạch Rs ở cánh sau có nhiều nhánh. Hệ thống mạch của cánh trước và cánh sau
giống nhau. Không có móc cánh, nhưng cánh trước liên kết với cánh sau bằng một
thuỳ giống như ngón tay nằm ở góc mép sau của cánh trước (Jugum). Bộ phụ này
gồm các loàingài nhỏ và hiếm, điển hình có họ ngài bay nhanh (Hepialidae).
Dưới đây là bảng tóm tắt một số đặc điểm cơ bản của một số bộ côn trùng chủ
yếu cóliên quan tới sản xuất nông -lâm nghiệp.
Bảng 4-01:Đặc điểm chủ yếu các bộ cóliên quan đến SX nông -lâm nghiệp
A. Kiểu biến thái không hoàn toàn (Ký hiệu: CT - cánh trước; CS - cánh
sau)
5.1.Khái niệm vềsinhthái côn trùngvà sinhthái côn trùng nông lâm nghiệp
Thuật ngữ về sinh thái nói chung (Ecology) bắt nguồn từ hai từ Hy Lạp: “Oikos”
– nơi ởhoặc nơi trú ẩn và “Logos” –khoahọc.
Năm 1869 Ernest Haeckel đã sử dụng thuật ngữ này với nội dung chủ yếu là:
“Nghiên cứu mối quan hệ của động vật với môi trường hữu cơ và vô cơ ở chung
quanh, trong đó bao gồm những quan hệ thích ứng hay đối địch của động vật tiếp
xúc một cách trực tiếp haygián tiếp”
Sau này nội dung sinh thái theo quan điểm của Haeckel được nhiều nhà sinh thái
khácxác định rõ thêm.
Trong những năm gần đây người ta thường dùng định nghĩa sinh thái nói chung
như sau.
70 Sinh thái học là môn khoa học nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa hoàn cảnh
chung quanh với thểhữu cơ.
Còn môn sinh thái lấy côn trùng nông lâm nghiệp làm đối tượng nghiên cứu
đượcgọi là môn sinh thái côn trùng nông lâm nghiệp
Như vậy sinh thái côn trùng nông lâm nghiệp là một bộ phận của sinh thái học
nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa môi trường sản xuất nông lâm nghiệp và côn
trùng.
5.2.Nhiệm vụ cơ bản của sinh thái côn trùng Nông lâm nghiệp
Mối quan hệ của côn trùng với môi trường sản xuất nông lâm nghiệp thường
xảy ra rất phứctạp và phongphú đặc biệt đối với nhữngnhóm cơ thể khác nhau.
Song chúng ta có thể thống nhất những nét cơ bản về nhiệm vụ sinh thái côn
trùng như sau:
a. Nghiên cứu sự hình thành các đặc điểm hình thái sinh lý và các đặc điểm sống
của côn trùng trong mối liên hệ với điều kiện môi trường nông -lâm nghiệp.
b. Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường đến số lượng cá thể của từng loài, đến
tính chất phân bố của côn trùng theo lãnh thổ và vai trò của chúng trong quần xã
sinh vật (1) sống trongcác lãnh thổ khác nhau.
Song cần nhấn mạnh trung tâm của các nhà nghiên cứu sinh thái là sự thích
ứng của côn trùng và phức hợp sinh vật đối với môi trường sản xuất nông lâm
nghiệp ; ảnh hưởng của côn trùng đến môi trường và quan hệ tương hỗ giữa chúng
với các sinh vật khác.
Những nghiên cứu về sinh thái không giới hạn ở trong phòng thí nghiệm, mà
những dẫn liệu trong phòng thí nghiệm phải có quan hệ mật thiết với các quan sát
ngoài tự nhiên.
X.X. Svartx, 1960 đã nhấn mạnh: “Đối với các nhà sinh thái thì quan sát chỉ
chỉ có giá trị khi chúng phản ánh được một cách đúng đắn đặc tính của động vật ở
trạng thái tự nhiên”
5.3.ý nghĩacủa nghiên cứu sinh thái côn trùng
Nghiên cứu sinhthái côn trùngcó ý nghĩa quan trọng trong thực tế.
a. Kết quảnghiên cưú sinh thái làcơ sở để tiến hành hợp lý hàng loạt các biện pháp
phòng trừ sâu hại, lợi dụng động thực vật có ích, bảo vệ rừng, bảo vệ sức khoẻ con
ngườivà động vật.
Ví dụ: Một điều rất rõ muốn dự tính dự báo sự phát sinh hàng loạt của sâu
hại, trên thực tế đã ứng dụng những kết quả nghiên cứu về sinh thái, trên cơ sở đó
mà tổ chức kịp thời các biện pháp cần thiết để dập tắt trận dịch và tránh được lãng
phí vềlao động, tiền của và nguyên liệu.
Nhờ nghiên cứu mối quan hệ giữa ruồi nhà (Musca domestica L.) với các chất
thối rữa, phân động vật, thức ăn thừa mà đề ra các biện pháp vệ sinh hợp lý như: ủ
phân, hố xí hai ngăn v.v…làm giảm rõ rệt số lượng ruồi và nhờ đó đã làm giảm khả
năng truyền bệnh đường ruột nguy hiểm cho con người đặc biệt là bệnh thương
hàn.
b. Nhờ có hiểu biết về sinh thái mới nâng cao tinh thần cải tạo tự nhiên, xây dựng
71 một kế hoạch tổ chức kinh tế chính xác trên quy mô lớn, vừa phục vụ phát triển
kinh tếvừa đảm bảo môi trường sống lâu dài.
Ví dụ:
Có biết mối quan hệ giữa các loài ong thụ phấn và thực vật mới tìm được nơi
đặt tổ ong mật thích hợp, đồng thời lựa chọn được các loài cây có mật cho nghề
nuôi ong trong các điều kiện khác nhau. Do đó mà hợp lý hoá được giữa nghề nuôi
ong với việc nâng cao sản lượng cây trồng, đồng thời tạo ra các dòng tiến hoá mới
làm cho thực vật càng phongphú.
Việc chọn các loài cây trồng thích hợp với các địa phương, không thích hợp
với sâu hại; việc đề ra các biện pháp cải tạo đất đai khai hoang phục hoá;việc đề ra
các quytrình khai thác gỗ và bảo quản gỗ, nông lâm sản v.v…phải dựa trên sựhiểu
biết vềsinh thái côntrùng rừng.
5.4. Những điểm chú ý khi nghiên cứu về sinhthái côn trùng
Côn trùng là một bộ phận của động vật nên những vấn đề cơ bản và phương
pháp được thảo luận trong sinh thái côn trùng cũng giống như những vấn đề và
phương pháp được thảo luận trong sinh thái động vật nói chung. Song khi nghiên
cứu vềsinh thái côn trùng taphảichú ý một số đặc điểm sau đây.
a. Côn trùng là một lớp phong phú nhất trong giới động vật. Nó chiếm ưu thế trên
mặt đất nên cóthể gọilà “những concái của khôngkhí và ánh sáng”
Sự phong phú về số lượng và hình dạng đã chứng tỏ côn trùng sẵn có tính
mềm dẻo và khả năng thích ứng kỳ lạ với sự biến đổi của môi trường nên khi
nghiên cứu chúngphải thật tỉ mỉ và chínhxác.
b. Thân thể côn trùng nhỏ bé (từ 0.2 mm -0.3m), lượng thức ăn củabản thân không
lớn, nhưng sức sinh sản của côn trùng thường rất lớn, vòng đời lại ngắn. Khi gặp
điều kiện thời tiết thuận lợi chúng sẽ phát sinh hàng loạt gây ra sự phá hại to lớn
cho nông lâm nghiệp và làm thay đổi điều kiện môi trường nên trong sinh thái ta
phải đặc biệtchú ý nghiên cứu các vấn đề này.
c. Côn trùng phân bố rộng rãi có thể thấy côn trùng trong không khí ở độ cao 15
km, trong các tảng băng của vùng Bắc cực, trong các mạch nước nóng, trong nước,
trong đất, trong thân, rễ, lá, trong quả, dưới vỏ cây, trong những côn trùng và động
vật khác. Điều đó dẫn đến sự cần thiết vừa phải nghiên cứu các điều kiện vi khí
hậu, vừaphải nghiên cứu các điều kiện đạikhí hậu.
d. Côn trùng phải trải qua 3 hoặc 4 pha biến thái: trứng, sâu non, nhộng,sâu trưởng
thành. Mỗi pha có hình thái chức năng khác nhau và yêu cầu đối với môi trường
sống khác nhau và ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến chúng là không giống
nhau. Do đó, khi nghiên cứu phải nghiên cứu sinh thái của cả4 pha.
5.5.ảnh hưởng của yếu tố môi trườngđến đời sống côn trùng
Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến côn trùng gồm các yếu tố phi sinh vật (vô
sinh)và yếu tố sinh vật (hữu sinh).
72 Trong các yếu tố phi sinh vật chủ yếu là các yếu tố khíhậu như: nhiệt độ, độ ẩm,
lượng mưa, ánh sáng và gió; yếu tố thổ nhưỡng như: cấu tượng thành phần cơ giới
và đặc tính lý hoá của đất.
Trong các yếu tố sinh vật chủ yếu là thức ăn (cây trồng)và thiên địch; hoạt động
riêng biệt của con người đượcgọi là yếu tố nhânchủng (Anthropogenos).
Trong các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến côn trùng thì các yếu tố: nhiệt độ,
độ ẩm, dưỡng khí và thức ăn đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất
trong cơ thể côn trùng và không thể thiếu được trong quá trình sống của nó. Các
yếu tố đó được gọi là các yếu tố sinh tồn.
Nhưng ngay trong các yếu tố trên, lại ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và
phát triển của các loài thiên địch mà gián tiếp ảnh hưởng đến số lượng và phân bố
của côn trùng có hại.
Vậy trong chừng mực nào đó tất cả các yếu tố môi trường đều có quan hệ với
nhau hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc vừa trực tiếp vừa gián tiếp thành thử ra nó
có tácdụng tổng hợp đến côntrùng chứ khôngtác động riênglẻ.
Song, trong điều kiện thực nghiệm để làm sáng tỏ các yếu tố chính và vai trò
của chúng đối với đời sống từng loài côn trùng, người ta tạo nên những hoàn cảnh
mà trong đó chỉ riêng yếu tố định theo dõi được thay đổi, còn các yếu tố khác được
giữ nguyên không thay đổi. Ví dụ: Nuôi côn trùng trong tủ ấm nhiều phòng với
nhiệt độ khác nhau còn độ ẩm và thức ănthìgiống nhau v.v…
Còn trong điều kiện tự nhiên vai trò của từng yếu tố được xác định bằng cách
phân tích biến động số lượng theo chu kỳ của quần thể phụ thuộc vào sự biến đổi
của các điều kiện khí hậu và số lượng thành phần thiên địch, hoặc bằng cách đồng
thời nghiên cứu mộtloài côn trùng,trên nhiều địa điểm khác nhau.
Khi nghiên cứu tổ hợp các yếu tố chính. Ví dụ khi nghiên cứu ảnh hưởng tổng
hợp của nhiệt độ và độ ẩm đến loài cũng có thể dùng tủ ấm nhiệt nhiều phòng có
nhiều chế độ nhiệt độ và độ ẩm khác nhau (phương pháp biểu đồ thuỷ nhiệt), hoặc
bằng cách tính và quan sát trong nhiều địa điểm ở ngoài tự nhiên có tổ hợp các yếu
tố chínhkhác nhau (biểu đồ khí hậu)
Như Engels đã viết: “Để hiểu được từng hiện tượng riêng biệt, chúng ta cần tách
ra khỏi mối liên hệ chung và nghiên cứu chúng một cách biệt lập, trong trường hợp
đó chúng ta sẽ thấy sự vận động, biến đổi một cái là nguyên nhân còn cái khác là
hậu quả” 9
Đó lànhững phươngpháp cơbản khi nghiên cứu vềsinh thái.
5.5.1.Các yếu tố phi sinh vật.
Trong các yếu tố phi sinh vật có ý nghĩa to lớn đối với côn trùng trước hết
phải kể đến các yếu tố khí hậu như: nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa,ánh sáng và gió.
5.5.1.1.ảnh hưởng của nhiệt độ
a)ảnh hưởngcủa nhiệt độ đến hoạt động sốngcủa côn trùng
73 Côn trùng là động vật có thân nhiệt không cố định (biến nhiệt). Nhiệt độ cơ thể
biến đổi theo nhiệt độ môi trường. Khả năng thích ứng với nhiệt độ môi trường của
côn trùng thay đổi tuỳ theo loài, nhưng nói chung thường giới hạn trong khoảng từ
5 đến 45% theo nhiệt độ môi trường. Côn trùng chỉ có thể bắt đầu phát dục ở nhiệt
độ nhất định được gọi là ngưỡng sinh học hay khởi điểm phát dục (to) và dừng lại ở
một điểm nhiệt độ cao được gọi là giới hạn trên hay điểm nhiệt độ cao côn trùng
không hoạt động (T). Vùng nhiệt độ giới hạn bởi hai điểm to và T được gọi là
khoảng nhiệt độ côn trùnghoạt động.
Khi nhiệt độ môi trường hạthấp dưới ngưỡng sinh học của một loài côn trùng
nào đó, thì quá trình trao đổi chất trong cơ thể chúng sẽ bị đình trệ, côn trùng rơi
vào trạng thái ngất lịm (anabios). Nếu nhiệt độ môi trường hạ thấp dưới 0 o C, nước
tự do trong mô của cơ thể sẽ đóng băng làm tổn thương cơ giới cho tế bào và gây
nên những biến đổi sinh lý hoàn toàn không thể khôi phục, côn trùng sẽ chết. Sự
biến động của nhiệt độ môi trường xảy ra theo quy luật khí hậu thời tiết từng vùng
lãnh thổ, nên côn trùng có khảnăngthích ứng và vượt qua nhiệt độ thấp nhờ cơ chế
ngừng phát dục bắt buộc (Diapause obligatoire) hoặc ngừng phát dục tự do
(Diapause facultative). Các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy: sâu đục
thân ngô (Otrinia nubilalis) có thể tồn tại ở trạng thái hôn mê (diapause) hàng tháng
ở nhiệt độ -80 o C và hồi phục khi nhiệt độ trở lại thích hợp với chúng.
Khi nhiệt độ môi trường vượtquá giới hạn trên T,thần kinh côntrùngbịhưng
phấn quá mức rồi nhanh chóng rơi vào trạng thái ngất lịm vì hệ thống men bị rối
loạn. Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng cao lên trên 54 o C, protein trong tế bào bị kết tủa,
rồi côn trùng bị chết. Để chống lại hiện tượng này côn trùng cũng có cơ chế ngừng
phát dục (Diapause) vào mùa hè. Thế nhưng, khả năng chịu nhiệt độ cao của côn
trùngchỉ ởgiới hạn và thời gian nhất định.
Trong khoảng nhịêt độ từ to đến T, hoạt động sống của côn trùng có những
biểu hiện khác nhau. Tại đây người ta phát hiện thấy có ngưỡng mắn đẻ O
(oovium) và điểm cực thuận Op (optimum). Như vậy, các ngưỡng t o , O, Op và T
chia khoảng nhiệt độ côn trùng hoạt động thành 3 vùng: vùng hơi lạnh (t o -O), vùng
cực thuận (O-Op),và vùng hơinóng (Op-T).
ở vùng hơi lạnh (t0-O) côn trùng có khả năng sinh trưởng nhưng bất dục. ở
vùng cực thuận (O-Op)tốc độ phát dụcvà mắn đẻtăng dần theo chiều tăng nhiệt độ
và đạt tối đa ở điểm Op, sau đó giảm dần ở vùng hơi nóng cho đến T. Về kích
thước cơ thể thì đạt tối đa ở vùng (t0-O), không thay đổi ở vùng (O-Op), giảm dần ở
vùng (Op-T).
Song trong một phạm vi nhiệt độ nhất định ta thấy:
- Khi nhiệt độ môi trường thấp hơn nhiệt độ thích hợp của côn trùng nhiệt độ
cơ thể côntrùng thấp hơn nhiệt độ môi trường một ít.
- Ngược lại khi nhiệt độ của môi trường cao hơn nhiệt độ thích hợp của côn
trùng thì nhiệt độ cơ thểcôn trùng thấp hơn nhiệt độ môi trường một ít.
Hiện tượng này đã được thực nghiệm chứng minh bằng cách nuôi sâu róm
thông tuổi5 trongtủ ấm với thời gian nhất định.
74 Khi cho nhiệt độ giảm dần từ 25 0 C xuống đến 12 0 C trong 10 phút, dùng máy
đo nhiệt độ bằng chất bán dẫn theo dõi nhiệt độ ở da sâu non ta thấy, lúc đầu nhiệt
độ của da sâu non giảm xuống rất nhanh, nhưng khi nhiệt độ trong tủ ấm dừng lại ở
12 0 C thì nhiệt độ da sâu giảm chậm rồi dừnglại ở 13,8 0 C.
Khi cho nhiệt độ của tủ ấm tăng từ 12 0 C - 27 0 C, cũng trong 10 phút thì nhiệt
độ của da sâu non lúc đầu cũng tăng lên rất nhanh nhưng khi chiếu nhiệt độ của tủ
ấm dừnglại ởc 27 0 Cthì giảm dần rồi dừng lại ở nhiệt độ thấp hơn 27 0 C một ít.
Cũng bằng thực nghiệm với cách theo dõi nhiệt độ của da sâu non sống và da
sâu non chết khi đưa chúng ra ngoài bức xạ mặt trời và cho vào chỗ râm mát ta
thấy:
- Nhiệt độ da sâu chết, dưới bức xạ mặt trời tăng lên rất nhanh và đạt bằng
nhiệt độ bên ngoài, khi đưa vào chỗ râm mát thì giảm nhanh bằng nhiệt độ bên
ngoài, ngược lại nhiệt độ da sâu sống ở bất kỳ thời điểm nào cũng luôn luôn thấp
hơn sâu chết.
Các hiện tượng trên chứng tỏ côn trùng sống có khả năng điều tiết được nhiệt
độ cơ thểnhưng rất yếu.
Thông thường côn trùng điều tiết nhiệt độ cơ thể chủ yếu là dựa vào sự biến
đổi cường độ hô hấp và thoát hơi nước.
- Khi nhiệt độ càng lên cao, côn trùng vận động càng nhiều thì cường độ hô
hấp hay cường độ hấp thụ oxi càng tăng.
- Côn trùng cũng nhờ tác động làm lạnh do thoát hơi nước qua da và qua lỗ
thở khi hô hấp mà hạ thấp nhiệt độ cơ thể. Theo Strelnikov, 1934, dưới tác động
bức xạ mặt trời từ 1-1,2 calo/1cm 2 trong một phút thì nhiệt độ cơ thể sâu xanh
(Chloridea obsoleta F)chỉ tăng lên khôngquátừ 5-8 0 C.
Ngoài ra nhiệt độ cơ thể côn trùng còn liên quan đến tính hấp thụ và phản xạ
ánh tia sáng mặt trời do da của nó, vì mầu thẫm có khả năng hấp thụ nhiệt lượng
mặt trời nhiều hơn màu sáng nên một số loài côn trùng có hiện tượng biến đổi màu
sắc theomùa.
So sánh cánh của bướm cải vàng nở ra vào mùa xuân và mùa hè, thấy rõ các
chấm đen dưới cánhcủa bướm mùa xuân nhiều hơnở bướm mùahè…
Quá trình trao đổi chất chỉ có thể tiến hành một cách bình thường ở một nhiệt
độ nhất định.
Do đó, nhiệt độ môi trường đã ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của côn
trùng thì cũngảnh hưởngđến hàngloạt cácquá trình sinh lý khác.
Cho nên khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường đến hoạt động
sống của côn trùng đặc biệt phải chú ý đến khoảng nhiệt độ thích hợp.
Thực tế cho thấy, đối với mỗi loài côn trùng và ngay cả đối với từng pha biến
thái củanó đều thích ứng với một khoảng nhiệt độ thích hợp nhất định.
Khoảng nhiệt độ thích hợp là khoảng nhiệt độ mà trong đó mọi hoạt động
sống của côn trùng như: ăn uống, trao đổi chất, hoạt động sinh dục…đều tiến hành
một cách thuận lợi.
ở vùng nhiệt đới, khoảng hoạt động sống bình thường của đa số các loài côn
75 trùng từ10-35 0 C nhưngkhoảng nhiệt độ thích hợp thì từ 20-30 0 C.
Khi nhiệt độ môi trường cao hơn hoặc thấp hơn khoảng nhiệt độ thích hợp thì
hoạt động sống của côn trùng giảm dần và rơi vào trạng thái choáng váng rồi hôn
mêvì nóng hoặcvì lạnh.
Sau đó nhiệt độ của môi trường càng tăng cao hoặc càng giảm đến một giới
hạn cực đạicủa sự chịu đựngthì côn trùng chết.
Chẳng hạn khi nhiệt tăng lên từ 35-42 0 C thì đa số côn trùng choáng váng và
từ 42 0 -45 0 C thì hôn mêvà từ 45-50 (0 C thì côn trùng chết (maximum).
Côn trùng chết là do protit bị đông đặc. Nhưng do khả năng điều tiết nhiệt độ
và thành phần protit của các loài côn trùng khác nhau nên mức độ chịu đựng của
chúng đối với nhiệt độ cao cũngkhác nhau.
Đa số các loài côn trùng chết khi nhiệt độ môi trường tăng từ 45-50 0 C nhưng
cũng có một số loài có thể chịu đựng được nhiệt độ khá cao như sâu non của một
sóo loài ruồi thuộc họ Ephydridae vẫn sống ở nhiệt độ 65 0 C (Naumov, 1955).
Ngược lại khi nhiệt độ môi trường giảm từ 8- 0 0 C thì côn trùng cũng rơi vào trạng
thái choáng váng và từ0 0 Cđến (-10 0 C)thì cũng hôn mêvì lạnh.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ thấp đến côn trùng người ta đặc biệt
chú ý đến nhiệt độ màtừđó côn trùng bắt đầu phát dục.
Nhiệt độ đó được gọi là khởi điểm phát dục hay điểm không sinh lý. Nó có ý
nghĩa lớn trong dự tính dự báo sâu hại.
Tất nhiên,tuỳ theo các loài côn trùng khác nhau, các pha biến thái khác nhau
mà có nhiệt độ khởi điểm phát dục khác nhau. ở những loài ưa nóng thì nhiệt độ
khởi điểm phát dục cao, còn ở những loài ưa lạnh thì khởi điểm phát dục thấp
nhưngnói chung biến đổi trongkhoảng từ15 đến -7 0 C.
Khi nhiệt độ môi trường giảm xuống từ -10 0 C đến -15 0 C thì đa số côn trùng
chết Miminimum).
Côn trùng chết là do tạo thành các tinh thể nước đá ở trong mô cơ thể của
chúng nên phá vỡ cấu trúc của tế bào, nếu không thì cũng làm cho quá trình sinh lý
biến đổi hoàntoàn không hồi phục được.
Nước nguyên chất đóng băng ở 0 0 C nhưng dịch thể của côn trùng thì không
phải là nước tinh khiết mà gồm các dung dịch hoà tan keo nguyên sinh chất ở trong
tế bào và trong khoảng gian bào; các chất này có thể liên kết với nước và ngăn cản
không cho dungdịch đó đóng băng.
Thực vậy, dung dịch của bất kỳ một chất nào thì cứ 1 gam phân tử trong 1000
gam nướccũng đều làm giảm nhiệt độ đóng băngcủa chất lỏng đi -1,85 0 C.
Điều đó cho phép chúng ta giải thích được tại sao tuyệt đại đa số côn trùng
(trừ các loài ở nhiệt đới) vẫn có khả năng tồn tại được ở nhiệt độ thấp hơn 0 0 C
nhiều. Ví dụ: loài gián đen (Blatta orientalis L.) khi nhiệt độ ở -5 0 C sau một giờ là
chết, trong khi đó trứng của châu chấu á châu (Locusta migratiria L.) chịu đựng
được nhiệt độ -38 0 C, còn sâu non của loài mọt thuộc họ Scolytinae chịu đựng được
cả nhiệt độ -53 0 C.
Khả năng chịu nóng và chịu lạnh cao của từng loài côn trùng có liên quan
mật thiết với điều kiện môi trường và trạng thái sinh lý của nó. Nói chung, những
loài côn trùng nào có hàm lượng nước kết hợp ở trong cơ thể càng lớn thì khảnăng
chịu nóng và lạnh tốt hơn. Nếu trước phát dục cá thể một thời gian, đem côn trùng
nuôi dưỡng ở nhiệt độ cao thì khả năng chịu đựng nhiệt độ cao của nó cũng khá
hơn.
Nếu những loài côn trùng nào mà trước khi qua đông có sự chuẩn bị trước
như tăng hàm lượng nước kết hợp, giảm hệ số hô hấp, dự trữ năng lượng như mỡ,
glucogen,các protit béo thì nóqua đông một cách dễ dàng.
Thí dụ: Trong thí nghiệm của N.L.Xakharov, 1928 ở nhiệt độ -14 0 C, sâu non
bướm Nygmia phaeorrihoea L. trong cơ thể của nó thể mỡ chiếm 5,76% và nướccó
68,72% trọng lượng cơ thể mỡ chỉ chiếm từ 3,84 -4,91% và nước từ 79,81 -
84,03%trọng lượng cơ thểthì sâu non chỉsống tối đalà 4 giờ.
Với những thí nghiệm độc đáo mà L.K.Lozina-Lozixki 1956 * đã cho ta thấy
sứcchịu lạnh của côntrùng là kinhkhủng.
Ông đã ướp sâu non đìnhdục của loài sâuhại ngô (Pyrausta nubilalis Hb),sâu
hại quả táo (Carpocapsa pomonella L.) sâu non ngài Macrothylacia rubi L. ở -80 0 C
trong suốt một ngày đêm, những sâu non này trở nên rất cứng, khi rơi xuống kêu
nhưthuỷ tinh rơi, nhưng sau khi tan băngthì một nửa số sâu non đã sống qua hơn 1
tháng. Và năm 1964 cũng vẫn sâu non đình dục của loài sâu hại ngô vẫn có khả
năng sống khi ông ướp lạnh nó ở -253 0 C trong khí hydro loãng và ở -269 0 C trong
khí hêli loãng.
Sở dĩ sâu non sống được như vậy là vì khi ở trạng thái tiềm sinh (anabiose)bị
ướp lạnh thì sự chuyển hoá chất dịch thể khi đóng băng nhanh đã tạo nên chất rắn
dạng thủy tinh chứ không tạo thành tinh thể nước đá. Những chất vô định hình như
thế mang rất nhiều tính chất cơ bản của chất lỏng quá lạnh, trong trường hợp này
không xảy ra sự cấu trúc lại phân tử nào đáng kể và do đó các màng của tế bào
khôngbị hưhại.
b)ảnh hưởngcủa nhiệt độ đến tốc độ và thời gianphát dục của côn trùng
Khi nghiên cứu quan hệ giữa nhiệt độ và sinh trưởng phát dục của côn trùng
không những nắm được khoảng nhiệt độ thích hợp mà còn phải nắm được nhiệt độ
tối thích hay nhiệt độ cực thuận của từngloài côn trùng.
Nhiệt độ tối thích là nhiệt độ mà ởđó côn trùng:
- Tiêu phí năng lượngít nhất
- Tốc độ phát dục nhanh nhất
- Tuổi thọcao nhất
- Vàlượng sinhsản cao nhất.
Nhiệt độ tối thích chỉ có giá trị về mặt lý thuyết còn trong thực tế khó tìm vì
trong đa số trường hợp khi tốc độ phát dục cao nhất thì tuổi thọ lại ngắn. Nhiệt độ
77 tối thích thường nằm trong khoảng nhiệt độ thích hợp và có nhiều ý nghĩa trong
phòng trừ sâuhại và lợi dụng sâucó ích.
Trong cácthínghiệm với các nhiệt độ khác nhau,người taxác định rằng:
- Tốc độ phát dục trong phạm vi nhiệt độ thích hợp tỷ lệ thuận với sự tăng
nhiệt độ.
-Tốc độ phát dục và thời gian phát dục làhai đại lượngtỷlệnghịch với nhau.
Vậy tốc độ phát dục V được xác định theo phần trăm của pha phát dục hoàn
chỉnh trong một ngày đêm hay một giờ(Shelford 1929).
Theo công thức:
V = 1/N x 100
N là thời gianphát dục của một pha nào đó ởnhiệt độ trungbình đãbiết.
Sự phát dục của côn trùng chỉ diễn ra trong một giới hạn nhiệt độ nhất định
thường cao hơn khởi điểm phát dục và thấp hơn giới hạn của sự phát dục.Giới hạn
đó đượcgọi là nhiệt độ hữu hiệu.
Trường hợp cụ thể, lượng nhiệt hữu hiệu được xác định bằng hiệu số giữa
nhiệt độ thực tế của môi trườngvà khởi điểmphát dục.
Nhiều nhà khoa học đã khẳng định: Để hoàn thành một pha phát dục của một
loài côn trùng đều đòi hỏi phải có một tổng lượng nhiệt hữu hiệu nhất định và tổng
lượng nhiệt đó là một hằng số.
Năm 1923 Blunk đã đưa ra công thức xác định lượng nhiệt hữu hiệu như sau:
K = N (T -C)
Trong đó:
N -Thời gian phát dụccủa một pha tính theongày hoặc giờ.
T -Nhiệt độ trungbình trong thời gian phát dụccủa giai đoạn đó ( 0 C).
C -Nhiệt độ khởi điểm phát dụccủa pha đó ( 0 C).
K - Lượng nhiệt hữu hiệu của pha phát dục (ngày x độ).
Nhiệt độ môi trường ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục, đến mức sinh sản, đến
phân bố địa lý,đến hành vi và các hoạt động sốngkháccủa côn trùng.Vì vậy,nhiệt
độ là yếu tố quan trọng nhất trong số các yếu tố vô sinh đối với côntrùng.
5.5.1.2.Độ ẩm khôngkhí
Côn trùng có kích thước cơ thể nhỏ bé, nên bề mặt tiếp xúc với không khí tương
ứng với một đơn vị khối lượng cơ thể rất lớn so với các động vật khác có kích
thước cơ thể to hơn. Chính vì vậy độ ẩm không khí có ảnh hưởng rất lớn đến việc
giữ nước trong cơ thể côn trùng. Mỗi loài côn trùng có một giới hạn độ ẩm thích
hợp.Người ta chialàm 3nhóm chính sau đây:
- Nhóm ưaẩm, ưathích độ ẩm không khí 85-100%
- Nhóm ưaẩm trungbình, ưathích độ ẩm khôngkhí 55-75%
- Nhóm ưa khô, ưathích độ ẩm khôngkhí dưới 45%
Phần lớn sâu hại trên đồng ruộng thuộc nhóm ưa ẩm, các loài ong và mọt gỗ
thuộc nhóm ưa ẩm trung bình, các loài côn trùng sống ở vùng sa mạc thuộc nhóm
ưa khô. Trên cây trồng côn trùng cũng phân bố ở vị trí thích hợp, thí dụ ở ruộng
lúa, các loài ưa ẩm cao như rầy nâu, rầy lưng trắng thuộc họ Delphacidae phân bố
gần mặt ruộng là nơi có độ ẩm không khí cao, rầy xanh và các rầy khác thuộc họ
Jassidae lại phân bố phần trên của câylà nơicó độ ẩm ít hơn.Độ ẩm không khí ảnh
hưởng đến phân bố địa lý, đến tốc độ sinh trưởng phát dục, đến sức sinh sản, đến
hành vi và các hoạt động sống kháccủa côn trùng.
Đối với mỗi loài côn trùng hoặc từng pha biến thái của nó đều yêu cầu một khoảng
độ ẩm tương đối thích hợp nhất định đối với môi trường sống. Đa số các loài côn
trùng có thể ống được bình thường trong khoảng độ ẩm tương đối của môi trường
từ70-100% nhưngkhoảng độ ẩm tương đối thích hợp thì chỉ từ 80-90%.
Nếu độ ẩm tương đối của môi trường dao động ra khỏi phạm vi đó theo
hướng tăng hay giảm đều làm giảm sức sống của côn trùng. Nếu độ ẩm tương đối
tiếp tục dao động xa hơn nữa (với phạm vi đó) thì côn trùng cũng sẽ rơi vào trạng
thái hôn mêvà sau đó sẽ chết.
Yếu tố độ ẩm không khí và yếu tố nhiệt độ thường cùng tác động lên cơ thể
côn trùng có tính chất tổng hợp và bù trừ cho nhau. Trong điều kiện khí hậu miền
Bắc Việt Nam, mùa hè nóng ẩm, mùa đông khô lạnh, thì những loài như sâu cắn
gié lúa Mythimma separata (ưa ẩm và mát) chỉ phát sinh thuận lợi vào cuối mùa
xuân (tháng 3-4) và cuối mùa thu (tháng 9-10) là do có sự bù trừ giữa nhu cầu về
nhiệt độ và vềđộ ẩm khôngkhí.
Để biểu thị tác động tổng hợp của nhiệt độ và độ ẩm không khí đến hoạt động
sống của côn trùng như độ mắn đẻ, thời kỳ phát sinh thành dịch trong năm v.v…
người ta dùng phươngpháp biểu đồ thuỷ nhiệt và biểu đồ sinhkhí hậu.
+ Phươngpháp biểu đồ thuỷnhiệt:
Hình 5-01:
Biểu đồ thuỷ nhiệt của sâu non hại lá kim (Porthetria monacha L.)
Phương pháp này biểu thị tác động phối hợp của nhiệt độ và độ ẩm đến sức sống của côn
trùng bằng những hình elip hướng tâm hoặc gần giống với hình elip. Trong đó, trục tung biểu
thị nhiệt độ, trục hoành biểu thị độ ẩm, đường elip biểu thị tỷ lệ chết của côn trùng
theo phần trăm.
Ví dụ biểu đồ thuỷnhiệt của sâu nonhại lá kim (Porthetria monacha L.) (Xem
biểu đồ 5-01).
Nhìn vào biểu đồ thuỷ nhiệt trên ta thấy điều kiện thích hợp nhất đối với sâu
non là ở vùng tổng hợp nhiệt độ từ 17 - 23 0 C và độ ẩm từ 85 - 100% vì tỷ lệ chết
chỉ có 5% và cách xa điều kiện nói trên thì tỷ lệ chết càng cao.
+ Phương pháp sinh khí hậu đồ
Bẫy pheromon là một loại bẫy sử dụng chất dẫn dụ sinh dục để thu bắt cá thể đực
haycái của một loài rồi trên cơ sở đó tính ra mật độ quần thể (xem
hình dưới đây).
Hình 7-01: Bẫy pheromon sử dụng keo dính (Vẽ theo
Nguyễn Thế Nhã)
Bẫy lồng miệng bán nguyệt: Có thể dùng miếng Plastic khổ
A3 để uốn cong tạo ra một cái lồng có 2 cửa hình bán nguyệt. Bôi
keo dính vào mặt trong của lồng, như vậy có thể hạn chế nước
mưa, nắng làm hỏng keo dính. Pheromon nhân tạo hoặc sâu
trưởng thành có khả năng tiết pheromon được treo ở giữa đáy
lồng.Mỗi điểm điều tracó thể treo một lồng như vậy.
6.2.3.4.Biện pháp dùng nhiệt độ,phóng xạ
Nhiệt độ có ảnh hưởng kháquyết định tới sâuhại,vì thế nếu nhiệt độ quácao,
quáthấp đều có tácdụng xua đuổi hoặc diệt sâu hại.
(Hình bên) Trưởng thành có thân dài 26-35mm, rộng 10-13mm, trên lưng mầu
nâu sẫm có ánh kim loại, mặt bụng sáng. Năm có 1 vòng đời, sâu trưởng thành có
tính xu quang
và chạy rất
nhanh. Khi bị
nguy hiểm sâu
trưởng thành
thường tiết ra
một chất dịch
hôi để tự vệ.
Sâu non và sâu
trưởng thành ăn rất nhiều sâu non bộ cánh vẩy. Một sâu non có thể ăn hết 40 con
mồi, một sâu trưởngthành ăn hết 270con mồi.
Hình 7-03. Một số loài thiên địch thuộc bộ cánh
cứng
1-Hànhtrùng Calosoma maderae chinensis Kirby
2-Hành trùng Catacopus sauteri 3-Họ hổ trùng (Cicindelidae)
a.2.Họ Hổ trùng (Cicindelidae)
1
2
108 Loài Cicindela chinensis là loài côn trùng đẹp, thân màu ánh xanh, cánh cứng có
ánh xanh hay đỏ đồng. Hổ trùng thị giác đóng vai trò quan trọng trong việc săn
mồi.Chính vì lẽđó nên Hổ trùng thường có mắt kép rất to,dạnghình cầu.
+ Hổ trùng Trung Quốc (Cicindela chinensis Degeer) (Hình bên)
Trưởng thành: Thân dài 17-22 mm, rộng 7-9 mm. Đầu màu xanh, mép trước
và sau của mảnh lưng ngực trước màu xanh, còn phần giữa màu vàng hoặc màu
xanhánh vàng.
Loài này năm có 1 vòng đời. Hổ trùng trưởng thành hoạt động mạnh vào
nhữngngày nắngấm.Nó săn mồi cả ngày lẫn đêmvà xuất hiện nhiều vào tháng 10,
tháng 11 sau đó qua đông
a.3.Họ Bọ rùa (Coccinellidae)
Phần lớn các loài bọ rùa đều là các loài bắt mồi ăn thịt. Bọ rùa non và Bọ rùa
trưởng thành ăn thịt các loài rệp, nhện đỏ, rận cây và các loài côn trùng khác. Năm
1888, ở Califo rniađã nhập Bọ Châu úc (Rodolia cardinalis Mulsant), một loài Bọ rùa đỏ có
vân đen để phòng trừ rệp sáp hại Cam, chanh (Icerya purchasi Malkell).
Thân dài 26-30mm, màu đen nâu. Đầu kéo khá dài,
hai bên đầu có hai mắt kép to lồi ra. Bọ xít trưởng
thành ít bay, di chuyển chủ yếu bằng cách bò. Khi gặp
sâu non của Sâu róm thông bọ xít dùng vòi tiêm vào
con mồi một chất làm cho con mồi bị tê liệt, sau đó
mới hút các chất dinh dưỡng từ con mồi vào cơ thể.
Hình 7- 05. Bọ xít ăn sâu (Sycanus croceovittatus
Dohrn)
a.5. Kiến
Khả năng ăn thịt khá lớn, kiến có vai trò rất
quan trọng trong hệ sinh thái rừng, nhất là trong việc
khống chế cácloài sâu hại, giữcân bằng sinh thái.
Kiến vống (Oecophylla smaragdina (Fabricius))
Kiến thợ có thân dài 11-14mm,màu nâu vàng.
Kiến vống thường làm tổ trên tán cây lá rộng như: Nhãn, Vải, Mít, Sơn, Giẻ,
Lọng bàng... Tổ được kết bằng tơ, trên một cây ngoài tổ chính còn nhiều tổ phụ.
Khi kéo lá làm tổ kiến thường cắn vào đốt cuống của nhautạo thành những dây dài.
Kiến cong đuôi (Cremastogaster travancoresis Forel)
Kiến thợ thândài từ 5-9mm.
Kiến cong đuôi thường làm tổ ở trên cành cây như: Thông, Sơn, Xoan, Phi
lao... Tổ làm bằng các rác, lá khô cộng với nước bọt của nó nên trông giống như
phân trâu khô. Tổ xốp nhẹ, lỗ chỗ như tổ ong.
Phươngpháp sử dụng kiến
- Thu cảtổ cho vào các túi vải dầy, mỗi túi chứa từ 20-30 tổ tập trung vào các
ổ dịch sâu hại.
- Rung tổ một vài phút để cho kiến bò ra khỏi tổ, chờ một lúc sau phần lớn
kiến đã quay về dùng dao chặt cành có tổ kiến xuống và để yên độ 5-10 phút cho
kiến ổn định, rồi cũng cho vào túi vải mang đến thả chỗ có sâu hại. Số kiến còn lại
buộcphải xây tổ mới.
- Dùng dao bổ đôi tổ kiến và chuyển một nửa đi nơi khác, biện pháp này
thường làm với tổ Kiến cong đuôi.
- Dùng gậy đập vỡ tổ kiến thành nhiều mảnh để kiến bò ra khắp nơi, sau đó
tập trung về các tổ phụ đểxây tổ mới,thườnglàm với tổ Kiến vống.
- Tổ kiến cần đặt ở nơi thựcbì dầy,râm mát,cónhiều loài câylá rộng.
Sycanus
c
rceovittatus
Dohrn
110
- Thời gian thảtốt nhất vào các buổi sáng yên gió củamùahè.
a.6.Bọngựa
-Bọ ngựa xanh thường (Mantis religiosa Linnaeus)
Bọ ngựa trưởng thành cái có thân dài 40-80mm, màu xanh lá mạ hoặc màu
nâu. Con đực thon mảnh và nhỏ hơn (dài 40-65mm). Phía trong của đốt chậu chân
trước (chân bắt mồi) có1 chấm đen,thường với 1 điểm nâu sángở giữa.
-Bọngựa xanh bụng rộng (Hierodula patellifera Serville)
Bọngựacái thândài 50-75mm, mầu xanhlá cây hoặc mầu nâu nhạt.
-Bọngựa Trung Quốc (Tenodera sinensis Saussure)
Cơ thể dài 95-100mm,toàn thân mầu xanh hoặc nâu vàng.
Cơ thể Bọngựa đực nhỏ và mảnh hơn Bọngựacái,dài 70-75mm.
-Bọngựa cổ bành: Deroplatys sp.
Cơ thể dài 70-80mm, đầu hình tam giác đều. Do mảnh lưng ngực trước khá
lớn nên được gọi là Bọ ngựa cổ bành
b)Côn trùngký sinh
Hai nhóm côn trùng ký sinh có ý nghĩa kinh tế lớn là Ong ký sinh và Ruồi ký
sinh.Một số loài ongký sinh và ruồi ký sinh đángchú ý là:
Ký sinh trứng sâu hại: Ong mắt đỏ, Ong tấm xanh, Ong tấm đen.
Ký sinh sâu non,nhông: Ongkén, Ong đùi to, Ong cự, RuồihọTachinidae.
+ Ong mắt đỏ: (Trichogramma dendrolimi Matsumura): Ong trưởng thành vũ
hoá ở trong trứng của ký chủ, sau đó cắn thủng một hoặc hai lỗ tròn ở đỉnh trứng
chui ra, mép lỗ thường lờm xờm. Sâu non sống trong trứng ký chủ làm cho trứng
ký chủkhông nở được.
Một năm Ong mắt đỏ cótới 30 lứa một năm,mỗi nứa từ 6-30 ngày.
Ong đùi to ký sinh vào sâu non tuổi 4, tuổi 5 và nhộng của
Sâu róm thôngvà nhiều loài sâu hại khác.
Nếu ký sinh vào sâu non thì lỗ vũ hoá của Ong đùi to nằm
ở mặt lưng ký chủ, giữa đốt thứ 3 và thứ 4 của bụng tính từ dưới
lên. Nếu ký sinh vào nhộng ký chủ thì lỗ vũ hoá ở gần 1/3 thân
thể kể từ đầu. Lỗ vũ hoá rộng từ 2-2,5mm. Mỗi ký chủ có từ 3-4
ong đùi to bay ra.
Hình 7-08.Ong đùi to: (Brachymeria obscurata Walker)
Ruồi 3vạch
: (Exorista sp.)
Ruồi 3 vạch phân bố khắp nơi và thấy xuất hiện nhiều ở thế hệ 3 và thế hệ 4
của Sâu róm thông. Nó thường ký sinh vào sâu non tuổi 5, tuổi 6 và kéo dài sang
pha nhộngcủa Sâu róm thông.
Ruồi trưởng thành đẻ từ 1-8 trứng vào bên cạnh các đốt chậu chân ngực của
sâu non ký chủ ởtuổi 5,tuổi 6.Mỗi ruồi cái đẻ khoảng 400 trứng.
Để phát huy vai trò của Ruồi 3 vạch diệt Sâu róm thông ta cần bảo vệ lớp
thảm mụcở rừng thôngvà tiếp tục nghiên cứu nhân giống ruồi.
6.2.4.4. Sửdụng nấm, vi khuẩn, virus
a) Nấm
Một số loại nấm hiện được sử dụngđểdiệt sâuhại là:
- Nấm bạch cương (Beauveria bassiana V.): Diệt sâu hại thuộc bộ Cánh vẩy,
Cánh không đều... Chế phẩm nấm Beauveria bassiana V. có các tên gọi như:
Beauverine, Botani Gard, Boverin, Naturalis-L, Ostrinil. Back-off... Thuốc có tác
dụng tiếp xúc. Bào tử nấm dính vào lớp da côn trùng, nảy mầm, sợi nấm xâm nhập
vào mô tế bào và ký sinh nội chất tế bào. Quá trình lây nhiễm kéo dài 24-48 tiếng,
gây chết cho sâu hại sau 3-5 ngày. Chế phẩm Naturalis-L dùng để trừ nhiều loài
sâu hại bộ Cánh cứng (Coleoptera), Cánh đều (Homoptera), Cánh nửa cứng
(Hemiptera). Chế phẩm Ostrinil dùng trừ sâu đục thân ngô, Botani Gard dùng để
trừ bọ trĩ, ruồi,bọ xít hại rau, câycảnh…
▪ Nấm Beauveria brongniartii (Betel)diệt bọhung.
▪ Nấm Metarrhizium anisopliae(Metsch.)Sorok. 1883 diệt mối...
112 b)Vi khuẩn
Vi khuẩn Bacillus thuringiensis Berliner được chế tạo thành chế phẩm sinh
học với các tên như: BT, Thuricide, Entobacterin, Bactospeine, Biotit, Toarow CT,
VK, Delfin bằng phương pháp lên men vi khuẩn. Độc tố là một loại đạm cao phân
tử.Đâylà loại thuốc vị độc dùngđểdiệt sâu tơhại rau,sâu xanh hại rau, ngô,bông,
sâu róm thông….
c) Virus
Virus ký sinh và gây bệnh cho sâu hại là Baculovirut (họ Baculoviridae) có 2
loại là virut hạt (GV = Granulosisvirus) và virut đa diện (NPV = Nuclear
polyhidrosisvirus).Thuốc có tácdụng đường ruột.
Cydia pomonella GV (Carposin, Carpovirusine…): Được phân lập từ sâu hại
Cydia pomonella L. (họ Tortricidae) và chế biến thành dung dịch hoặc dạng huyền
phù đểtrừsâuhại cây ăn quảvới liều 10 13 GV/ha.
Mamestra brassicae NPV (Mamestrin) dùng để trừ sâu xanh, sâu tơ hại rau
với liều 4l/ha. Thuốccó tácdụng sau7 ngày.
d)Phương hướng sử dụng
▪ Thả sâu hại (nhộng, trưởng thành) bị nhiễm bệnh vào nơi có dịch sâu
hại.
▪ Đưa nguồn bệnh (chếphẩm sinh học) vào nơi cósâu hại.
6.2.4.5. Sử dụngcácloài động vật khác
Nhện, ếch nhái, bò sát, chim, thú là những loài động vật có thế góp phần diệt
sâu hại khá tốt. Việc sử dụng chúng bao gồm những giải pháp chung như bảo vệ và
những vấn đề liên quan đến từng nhóm. Ví dụ ta có thể sử dụng gia cầm, gia súc
như gà, lợn diệt sâu non, trứng, nhộng. Các loại động vật hoang dã như chuột chù,
chồn, lợn rừng, cóc nhái, thằn lằn, tắc kè, kỳ nhông, nhiều loài chim cần phải được
bảo vệ và tạo điều kiện thích hợp cho sự phát sinh,phát triển.
6.2.4.6.Ưu điểm,nhược điểm của phương pháp sinh học
Hiện nay phương pháp sinh học là một phương pháp đang được áp dụng rộng
rãi, thu được những kết quả tốt. Phương pháp sinh họccó tính chọn lọc khácao nên
không ảnh hưởng xấu tới các loài sinh vật cần bảo vệ, đảm bảo cân bằng sinh học.
Phương pháp này hầu như không làm ô nhiễm môi trường, không gây độc hại cho
người và các sinh vật khác. Phạm vi ứng dụng của phương pháp này rất rộng, ít khi
phụ thuộc vào địa hình, tuổi cây… Thực hiện tốt phương pháp sinh học có thể
khống chế được dịch sâu hại, thậm chí dập tắt dịch khi các phương pháp phòng trừ
khác không phát huy tác dụng, đặc biệt trong trường hợp phương pháp hóa học gây
ra hiện tượng nhờn thuốc,kháng thuốc.
Tuy nhiên phương pháp sinh học phát huy tác dụng chậm hơn phương pháp
hóahọcvà phụ thuộc vào điều kiện môi trường do đó khôngổn định.
6.2.5. Phươngpháp hoá học
Phương pháp hóa học là phương pháp sử dụng thuốc trừ sâu trong phòng trừ
sâu hại. Những vấn đề cơ bản trong sử dụng thuốc trừ sâu cần được chú ý là phân
113 loại thuốc, phương pháp,kỹ thuật sử dụng và các giải pháp hạn chế những tiêu cực
của thuốc trừsâu.
6.2.5.1. Phân loại thuốc trừsâu hóahọc
a) Phânloại theotác dụng
+ Thuốc tiếp xúc
Thuốc thấm qua da, gây độc cho sâu hại qua con đường tiếp xúc. Thí dụ:
Ethoprophos (Ethoprop, Mocap 10G, Prophos), Fenthion (Lebaycid 50EC, 500EC),
Boverin, Diazinon (Basudin, Kayazinon, Dianon, Diazol), Trichlorfon (Dipterex,
Chlorophos), Fenitrothion (Sumuthion, Folithion, Fentron), Fenobucarb (Bassa,
Baycarb), Karate, Sherpa, Padan, Trebon...Thích hợp để diệt sâu hại hoạt động bên
ngoài cây hoặc đối tượng cần bảo vệ.
+ Thuốcvị độc
Thuốc xâm nhập vào sâu hại qua con đường miệng (con đường tiêu hóa). Thí
dụ: Diazinon, Trichlorfon (Dipterex, Chlorophos), Fenitrothion (Sumuthion,
Folithion, Fentron), Fenobucarb (Bassa, Baycarb), Karate, Sherpa, Padan, Trebon.
Thích hợp đểdiệt sâuhại có miệng gặm nhai, gặm hút, liếm hút.
+ Thuốc xông hơi
Thuốc gây độc cho sâu hại qua con đường hô hấp. Thuốc hóa học ở nhiệt độ
và áp suất không khí thông thường biến thành thể khí, khuếch tán và xâm nhập dễ
dàng vào cơ thể sâu hại. Thí dụ: Diazinon (Basudin, Kayazinon, Dianon, Diazol),
Fenitrothion (Sumuthion, Folithion, Fentron), Flibol, Trichlorfon (Dipterex,
Chlorophos). Thích hợp để diệt sâu hại sống bên trong hang hoặc ở những nơi kín
như kho.
+ Thuốc thấm sâu (Lưu dẫn)
Thuốc có khả năng thấm sâu vào mô thực vật, gây độc cho sâu hại cư trú bên
trong cây. Thí dụ: Diazinon (Basudin, Kayazinon, Dianon, Diazol), Naled (Dibrom,
Flibol, Bromex), Carbaryl (Sevin, Car bamec).... Thích hợp để diệt sâu hại hoạt
động bên trong cây mà thuốc xông hơi không có tác dụng (ví dụ trong hang vít kín
bột gỗ...)
+ Thuốc nội hấp
Thuốc được cây hút qua rễ hoặc lá và vận chuyển trong hệ thống mạch dẫn,
thuốc không độc đối với cây nhưng có tác dụng diệt sâu hại, đặc biệt là sâu hại có
miệng chích hút. Thí dụ: Dimethoate (Bi58, Rogor, Roxion, Bitox), Omethoate
(Folimate), Methomyl (Lannate, Nudrin, sathomyl), Cartap (Padan)…
b)Phân loại theothành phẩm
Thuốc kỹ thuật (Technical grade materials, viết tắt là TG hoặc TC) là hợp
chất độc được tổng hợp ra còn chứa các phụ chất, trong đó có thành phần thuốc
nguyên chất hay còn được gọi là hoạt chất, được viết tắt là a.i (active - ingredient).
Thuốc kỹ thuật (nguyên chất kỹ thuật hoặc nguyên liệu thuốc bảo vệ thực vật) phải
114 được chế biến thành các dạng thành phẩm (còn gọi là chế phẩm) để sử dụng. Các
dạngthành phẩm được dùng phổ biến là:
1.1. Thuốc sữa, còn gọi là thuốc nhũ dầu (viết tắt là EC, hay ND), thành phần
gồm hoạt chất, dung môi, chất hoá sữa và một số chất phù trợ khác. Thuốc ở thể
lỏng, trong suốt, phân tán trong nước thành dung dịch nhũ tương (thể sữa). Thuốc
dễ bắt lửa cháy và nổ. Thuốc sữa pha với nước đểsử dụng.
1.2. Thuốc bột thấm nước, còn gọi là bột hoà nước (viết tắt là WP, BTN) gồm
hoạt chất, chất độn, chất thấm ướt và một số chất phù trợ khác. Thuốc ở dạng bột
mịn, phân tán trong nước thành dung dịch huyền phù (thể treo). Thuốc bột thấm
nước pha với nước đểsử dụng.
1.3. Thuốc phun bột (viết tắt là DP) chứa thành phần hoạt chất thấp (dưới
10%), nhưng chứa tỷ lệ chất độn hoặccòn gọi là chất tải cao, thường là đất sét hoặc
bột cao lanh. Ngoài ra thuốc còn chứa chất chống ẩm, chất dính. Thuốc ở dạng bột
mịn, không tan trong nước,dùngđểphun bột.
1.4. Thuốc dạng hạt (viết tắt là CT, GR, G hoặc H) gồm hoạt chất, chất độn,
chất bao viên và một số chất phù trợ khác. Thuốc dạng hạt dùng để bón hoặc phun.
Thuốc dạng hạt mịn, có chất bao ngoài làm từ chất dẻo, cỡ hạt 1-100 micron được
trộn với chất thấm ướt, chất phân tán. Chất dẻo bao bọc hoạt chất có tác dụng làm
cho hoạt chất giải phóng ra khỏi viên thuốc từ từ. Dạng thuốc này dùng để trừ mối
và sâu sinh sống dưới đất,hiệu lực có thể kéo dài tới 36 tháng. Thuốc cóưu điểm là
làm giảm đáng kể tác động độc của hoạt chất đối với người sử dụng thuốc và đối
với cây trồng.Ví dụ: Thuốc Diapos 10G
1.5. Các dạng thuốc khác: Thuốc dung dịch (viết tắt là SL, hoặc DD) không
chứa chất hoá sữa. Hoạt chất và dung môi của thuốc đều tan trong nước. Thuốc bột
tan trong nước (viết tắt là SP) phân tán trong nước thành dung dịch keo hoặc dung
dịch thật. Thuốc dung dịch và bột tan trong nước dùng pha với nước để sử dụng.
Thuốc phun mù nóng (HN), thuốc phun mù lạnh (KN)hoạt chất được hoà tan trong
dầu khoáng nhẹ và dung môi hữu cơ. Thuốc không tan trong nước. Thuốc phun
lượng cực nhỏ (ULV) và lượng cực cực nhỏ (UULV) hoạt chất hoà tan trong dầu
khoáng nhẹ, nước thuốc có độ nhớt ổn định, không tan trong nước. Các dạng thuốc
trên không pha với nước mà phun trực tiếp bằng các loại bơm đặc biệt.
Ngoài các dạng chế phẩm nêu trên còn có dạng thuốc nhão (Paste), thuốc bột
thô để rắc; thuốc bột và hạt tan trong nước (DF, WDG), thuốc dịch huyền phù (SC,
AS, AF), thuốcdạng viên (P,PS),thuốc dịch trắng sữa (ES) v.v...
a) Phânloại theo nguồn gốc hóa học
*Thuốc vô cơ: Hầu hết bị cấm sử dụng docó tính độc rất cao.
* Clo hữu cơ: Hầu hết thuộc loại hạn chế hoặc cấm sử dụng. Các loại clo hữu cơ
cấm sử dụng như: Camphechlor, DDT (Gesarol, Neocid), Lindan (Gama-BHC,
Gama-HCH, Gama=666), Chlordane, Aldrin, Dieldrin.
* Lân hữu cơ: Diazinon (Basudin, Kayazinon, Dianon, Diazol), Dimethoate (Bi
58, Rogor, Roxion, Bitox), Fenitrothion (Sumithion, Folithion, Fentron, Ofatox),
Trichlorfon (Dipterex, Chlorophos),
* Carbamat: Fenobucarb (Bassa, BPMC, Baycarb), Isoprocarb (Mipcin, MIPC,
Etrofolan), Methomyl (Lannate, Nudrin), Carbofuran (Furadan, Furacarb).
* Pyrethroit: Trong hoa cúc (Chrysanthemum cinerariafolium và C. roseum) có
chứa một số chất rất độc đối với sâu hại là Pyrethrin, Cinerin và Jasmolin. Tổng
hợp các dẫn xuất của Pyrethrin được gọi chung là Pyrethroit. Thuốc có tác dụng
chọn lọc cao, ít độc hại đối với thiên địch, nhưng lại rất độc đối với cá và động vật
thủy sinh. Một số loại Pyrethroit: Beta-cyfluthrin (Bulldock), Lambda-cyhalothrin
(Icon, Karate), Cypermethrin (Polytrin, Sherpa, Ambush, Cymbush, Cymerin),
Alpha-cypermethrin (Fastac, Fastox), Deltamethrin (Decis, Decamethrin,
Sadethrin), Fenvalerate (Sumicidin, Sudin).
*Dimethylaminopropandithiol DAPD: Cartap (Padan), Nereistoxin
(Shachongdan, Binhdan, Neretox, Dimehypo).
*Thuốc ức chế sinh trưởng IGR =insect growth regulator: Hiệu lực chậm nhưng
kéo dài, có tính chọn lọc cao, ít độc hại cho người và động vật máu nóng. Ví dụ:
Buprofezin (Applaud, Apolo, Butal, Butyl) ức chế tổng hợp chitin, phá cân bằng
ecdyson, Chlorfluazuron (Atabron) ức chế tổng hợp chitin, Diflubenzuron
(Dimilin)ức chếlột xáclàm sâu non chết,làm trứng ung,
* Các nhóm thuốc hóa học khác: Ethofenprox (Trebon), Fipronil (regent),
Imidacloprid (Admire, Confidor, Canon, Gaucho).
6.2.5.2.Tính độc của thuốchóahọc
1. Chất độc nồng độ (Concentrative poison): Dưới liều chí tử (subletal dosis)
chất độc nồng độ không gây chết và thuốc dần được phân giải, bài tiết ra
ngoài. Ví dụ: Pyrethroit, một số lân hữu cơ, carbamat và thuốc trừ sâu có
nguồn gốc sinh vật.
2. Chất độc tích luỹ (Cumulative poison): Ví dụ: Clo hữu cơ, thuốc chứa asen,
chì, thuỷ ngân... Do đó các loại thuốc này thường hay bị hạn chế hoặc cấm sử
dụng.
Khi thuốc vào cơ thể, gây độc tức thời, tức gây ra ngộ độc cấp tính. Độ độc
này được biểu thịqualiều gây chết trungbình:
∙ Letal dosis 50 = LD50 = mghoạt chất/kg trọng lượng cơ thể
50 = liều gây chết cho 50% cá thể vật thínghiệm là chuột haythỏ
o LD50 phụ thuộc vào cách thuốc xâm nhập:
▪ per os (or per oral): xâm nhập qua miệng
▪ per dermal (cutant, per cutaneous): xâm nhập qua da
∙ Với thuốc xông hơi chỉ số đo mức độ độc cấp tính là:
LC50 (letal concentration = mghoạt chất/m 3 khôngkhí)
❖ Maximum residue limit = MRL = Dư lượng thuốc hóa học tối đa được phép
tồn dư trong nôngsản màkhông gây độc hại cho người, vật nuôi.
❖ Thời gian cách ly (PHI = PreHarvest Interval)
Thời gian tính từ ngày cây trồng được xử lý thuốc lần cuối cho đến ngày thu
hoạch nôngsản làm thức ăn,thức uống cho người và vật nuôi màkhông gây tổn hại
đến cơ thể.
116 6.2.5.3. Phươngpháp,kỹ thuật sử dụng thuốc trừsâu
1. Phun thuốc
a. Phun bột, rắc thuốc bột và thuốc hạt: Đơn giản, tốn ít công nhưng so với
phươngpháp kháclại tốn thuốchoạt chất hơn tới 1,5 đến 3 lần.
b. Phun nước (mưa): Cỡ giọt nước thuốc phun ra có đường kính từ 150-
400m, lượng nước thuốc cần từ 600-800l/ha đối với cây nhỏ và 800-2000l/ha đối
với cây lớn.
c. Phun sương: Bằng bơm có động cơ, giọt nước thuốc có kích thước 50-
150m; lượng nước thuốc cần từ 50-100l/ha đối với cây nhỏ, 300-600l/ha đối với
cây cao trungbình.
d. Phun mù: Đường kính giọt nước thuốc: 50-60m; dưới 50m gọi là Sol-
khí. Lượng nước thuốc cần từ khoảng 5 -15l/ha. Bơm có động cơ với cấu kiện phun
mù.
e. Phun lượng cực nhỏ: Đây là cách phân chia phươngpháp sử dụng thuốc thể
lỏng:
Phun lượng lớn (HV) phun mưa
Phun lượng trungbình (MV) phun sương
Phun lượngnhỏ(LV) phun sươnghạt nhỏ
Phun lượng cực nhỏ (ULV) và cực cực nhỏ (UULV) phun sương hạt nhỏ và
phun mù lạnh (0,3-0,5l/ha).Chỉ dùng thuốc chuyên dùng.
2.Các phươngpháp sử dụngkhác
Xử lý giống cây trồng: Hạt giống được trộn khô với thuốc bột hoặc ngâm vào
nước thuốc trước khi gieo.
Xông hơi: Chủ yếu để diệt trừ sâu hại lâm sản chứa trong kho kín, sâu hại
trongnhà kính, sâu hại trong đất.
Bảđộc,vòng độc: Đối với một số sâu hại có tính xu hóa mạnh như sâu
xám, dế mèn, dế dũi, ruồi…. có thể làm bả độc để tiêu diệt. Thuốc hay được sử
dụng là Dipterex, Trichlofon. Thuốc trừ sâu được sử dụng làm vòng độc thường là
thuốc tiếp xúc.
Tưới, xử lý đất: Thuốc ở dạng lỏng hoặc thuốc nội hấp còn có thể được tưới
vào gốc cây. Xử lý đất với cácloại thuốc hạt,thuốc viên cóbao.
Quyét: Thuốc ở dạng nhão hay thuốc được pha chế thành dạng nhão có thể
dùngđể quét nhằm bảo vệlâm sản như gỗ, tre….
3.Kỹ thuật dùng thuốcbảo vệ thực vật
a.Dùng đúng thuốc
Lựa chọn thuốc trừ sâu là bước rất quan trọng. Với những loài sâu hại mới
phát dịch cần có các thử nghiệm thuốc để lựa chọn cho đúng loại thuốc cần dùng.
Thông thường phải thử nghiệm ở cảtrong phòng lẫn ngoài trời trên các pha gây hại
và đánh giá ảnh hưởngcủa thuốc trừ sâu tới các sinh vật khác….
Căn cứ vào đối tượng sinh vật hại cần diệt trừ và cây trồng cần được bảo vệ
chọn đúng loại thuốc và dạng thuốc. Loại thuốc trừ được nhiều loài sinh vật hại gọi
là thuốc có phổ tác động rộng và ngược lại là thuốc có phổ tác động hẹp hay
117 thuốccó tác dụng chọn lọc. Thuốc có tác dụng chọn lọc thường an toàn hơn đối với
các sinh vật khác. Thường xuyên thay đổi loại thuốc là cần thiết để hạn chế tốc độ
hình thành tính chống thuốc của sâu hại. Không dùng thuốc có độ độc cao hoặc
thuốckhóphân huỷđối với cây lương thực,thực phẩm, ăn quả,làm thuốc….
b.Dùng thuốc đúnglúc
Sâu non tuổi nhỏ mẫn cảm với thuốc hơn. Sâu mới lột xác mẫn cảm hơn. Vì
thế thời điểm diệt sâu thích hợp là lúc sâu hại phân bố trên diện hẹp, tuổi còn nhỏ
và mới lột xác. Nên phun thuốc vào lúc trời ấm đối với mùa đông, vào lúc trời mát
đối với mùa hè. Vào mùa hè tránh phun thuốc lúc nắng gắt và có độ ẩm cao. Vào
mùa đôngtránh phun thuốc khi nhiệt độ dưới 18 0 C,nhất là thuốc lân hữu cơ. Thuốc
nội hấp phun vào buổi sáng có tác dụng tốt nhất. Trong thời kỳ nở hoa của cây nên
phun thuốc vào buổi chiều.
c.Dùng thuốc đúng phươngpháp (liều lượng và nồng độ)
Liều lượng thuốc: được tính theo gram hay kilogram hoạt chất ai (active
ingredient)cho 1ha từđó tính ra lượng chếphẩm.
Thí dụ hoạt chất Diazinon sữa được chỉ định dùng 500g a.i./ha. Nếu là loại
thuốc sữa 50% (chế phẩm là Basudin 50EC) cần 1lít chế phẩm/ha; Nếu là loại 40%
(chếphẩm Kayaziono 40EC)cần 1,25lít chếphẩm/ha.
Nồng độ pha: Phụ thuộc vào lượng hoạt chất quy định và phương pháp phun.
Đối với các loại thuốc pha với nước để phun, tuỳ theo lượng nước thuốc quy định
dùng cho đơnvị diện tích mà xác định nồng độ pha chế.
Thí dụ: Dùng 1 lít Basudin 50EC cho 1 ha. Nếu dùng bơm tay để phun lượng
nước cần phun cho1 ha là600 lít, vậy nồng độ nước thuốc phải phalà:
Khi pha thuốc cần sử dụng nước sạch, trong ở các sông hồ lớn,không dùng
nướccó tạp chất,nước cứng,nước aotù...
d. Phun thuốc đúngkỹthuật
Khi phun thuốc trừ sâu phải đảm bảo đúng lượng nước thuốc được chỉ định
cho đơn vị diện tích cần phun sao cho thuốc phát huy tác dụng diệt sâu hại mà hạn
chế được tác hại của thuốc đối với môi trường sống. Lượng nước thuốc này phải
được rải đều trên toàn bộ diện tích cần phun. Do đó cần căn cứ vào khả năng của
máy phun (công suất đầu vòi bơm, bề rộng vạt phun mà người sử dụng máy có thể
phun được)để xác định tốc độ di chuyển của người sử dụng máy.
Nếu gọi tốc độ này là v (m/phút) thì đương nhiên tốc độ này phụ thuộc tổng
quãng đường phải đi của người sử dụngmáy phun vàtổng thời gianphun.
Độ dài quãng đường = S/b nếu S là diện tích cần phun và b là bề rộng vạt
phun.
Thời gian phun = W/p nếu W (lít) là lượng nước thuốc chỉ định cho đơn vị
118 diện tích cần phun và p (lít/phút) là công suất đầu vòi phun, tức lượng nước
thuốc phun rakhỏi máy trên 1 phút.
Như vậy tốc độ di chuyển của người sử dụng máy phun là:
Thí dụ: Muốn đảm bảo phun đúng 600 lít nước thuốc cho 1ha như hướng dẫn
khi sử dụng bơm tay có công suất 2 lít/phút (p) và bề rộng vạt phun là 1,5m (b) thì
tốc độ đi khi phun (v)phải là22,22m/phút,vì:
Có thể xác định p bằng cách cho lưu lượng nước thuốc thoát ra đầu vòi phun
trongkhoảng thời gian nhất định và từ đó tính ra số lít trong 1phút.
e.Dùng thuốc hỗn hợp
Để diệt trừnhiều loài gâyhại có thể sử dụng thuốc hỗn hợp, một số thuốc hỗn
hợp có hiệu lực cao hơn là dùng thuốc đơn. Một số thuốc hỗn hợp có sẵn như:
Mipcin + Applaud, Applaud + Bassa, Sumithion + Dipterex, Sumithion + Bassa.
Ofatox 400EC là hỗn hợp của Fenitrothion (20%=200gram/kg) với Trichlorfon
(20%=200gram/kg).
7.2.5.4. Những giải pháp hạn chế mặt tiêu cực của thuốc trừ sâu hóahọc
Thuốc trừ sâu có những mặt tiêu cực như có tính độc, tính chống thuốc, làm
suy giảm tính đa dạng, gây hiện tượng tái phát dịch,làm xuất hiện những đối tượng
sâu hại mới.
1.Tính chống thuốc
Khoảng năm 1887 con người đã phát hiện ra hiện tượng chống thuốc của sâu
hại. Năm 1946 ở Thuỵ Điển, Ruồi nhà (Musca domestica) sau 2 năm tiếp xúc với
DDT đã có thể chống chịu được loại thuốc này. Sau sự kiện ruồi nhà là phát hiện
khảnăng chống thuốc của Sâu tơhại rau (Plutella xylostella).
Tính chống thuốc hay quen thuốc (resistance) là khả năng của một quần thể
sâu hại chịu đựng được liều thuốc gây tử vong cho các cá thể khác. Tính trạng này
mang tính di truyền và còn được gọi là chống thuốc sinh lý (physiological
resistance). Tính nhờn thuốc (tolerance) thường có ở sâu non tuổi lớn hay nhộng
trong điều kiện nhất định, ví dụ khi phun thuốc dưới liều lượng quy định.Khả năng
nhờn thuốc cóthểchuyển sang chống thuốc.
Sâu hại chống một loại thuốc được gọi là chống thuốc đơn tính (monogenic
resistance) hay chống thuốc mang tính đặc hiệu (specific resistance). Chống nhiều
loại thuốc gọi là chống thuốc đa tính (multigenic hay polygenic resistance). Chống
thuốc chéo khi sâu hại có thể chống nhiều loại thuốc khác nhóm (cross resistance).
Khi sâu hại có tính chống thuốc chéo có thể hình thành tiếp tính chống thuốc nối
tiếp (sequential resistance), tức chống tất cả cácloại chất.
Chỉ số chống thuốc Ri đượctính như sau:
Khi Ri > 10: Sâu hại có tính chống thuốc; khi Ri < 10 sâu hại mới có tính
nhờn thuốc.
Nguyên nhân củatính chống thuốc
♦ Thuyết chọn lọc tự nhiên (biến dị kiểu gen) cho rằng: Chỉ các cá thể có tiền
gen chống thuốc có thể chịu được thuốc. Như vậy tính chống thuốc này là chống
chịu bẩm sinh (innate resistance) hay chống thuốc di truyền thật (truehereditary
resistance). Trong quần thể sâu hại luôn luôn có một số cá thể có gen chống thuốc.
Khi chúng ta sử dụng thuốc trừ sâu cáccá thể khôngcó gen chống thuốc bị tiêu diệt
còn các cá thể có gen này sống sót,tiếp tục sinh sản hoặc tự do giao phối với các cá
thể khác và dần dần hình thành nên một quần thểsâuhại mới có tính chống thuốc.
♦ Thuyết thích nghi môi trường (biến dị kiểu hình) cho rằng: Chống thuốc là do
khả năng thích ứng của sâu hại, ví dụ khi tiếp xúc với thuốc trừ sâu côn trùng thay
đổi hoạt độngcủa hệ men...
♦ Các yếu tố ảnh hưởng đến tính chống thuốc:
Tốc độ phát triển tính chống thuốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Những đặc
điểm di truyền và đặc điểm sinh học của sâu hại có ảnh hưởng rất lớn đến tính
chống thuốc. Những loài sâu hại có khả năng sinh sản cao, vòng đời ngắn, hẹp
thực, ít di chuyển thường dễ có khả năng hình thành tính chống thuốc. Trong lớp
côn trùng các bộ khác nhau có sự khả năng chống thuốc khác nhau: Bộ cánh cứng,
cánh nửa cứng và bộ cánh vẩy có nhiều loài có tính chống thuốc. Đây là những bộ
có nhiều loài sâu hại có ý nghĩa kinh tế. Bộ cánh thẳng và bộ cánh mànglại có rất ít
loài hình thành tính chống thuốc.
Yếu tố sinh thái như khí hậu, thức ăn, địa hình có ảnh hưởng tới tính chống
thuốc.
Nhìn chung những loại thuốc có tính độc tồn dư lâu thường dễ gây ra tình
trạng chống thuốccủa sâu hại.
Bón phân, chọn giống cây trồng không hợp lý cũng góp phần đẩy nhanh tính
chống thuốccủa sâu hại.
Biện pháp ngăn ngừa tính chống thuốc
∙ Dùng thuốc hợp lý: Điều tra dự báo là cơ sở để có biện pháp dùng thuốc hợp
lý trong hệ thốngcác phươngpháp phòng trừtổng hợp đối với từng loài sâu hại.
∙ Chiến lược thay thế thuốc (Substitution strategy): Biện pháp này có tác dụng
tốt ở nơi chưa hình thành tính chống thuốc. Tuy nhiên cũng cần phải hết sức thận
trọng trong việc thay đổi thuốc, thay thế thuốc cần phải được kết hợp với biện pháp
hạn chế sử dụng thuốc để có thể ngăn chặn được tính chống thuốc đa tính hoặc tính
chống thuốcchéo.
∙ Dùng thuốc hỗn hợp: Dùng thuốc hỗn hợp hay thuốc có thêm dầu thực vật có
thể làm chậm tốc độ hìnhthành tính chống thuốc.
2. Hiện tượngtái phát dịch sâu hại
Hiện tượng tăng nhanh số lượng sâu hại sau một thời gian ngắn sử dụng thuốc
trừ sâu được gọi là sự tái phát dịch (pest resurgene). Thường sâu hại có mật độ và mức độ gây
hại cao hơn trước khi tái phát. Phần lớn những loài có hiện tượng tái phát này là nhữngloài
sâu hại chủyếu.Tỷsố tái phát Ri được tính như sau:
Nguyên nhân gâytái phát:
∙ Sâu hại tiếp xúc với thuốc có liều lượng thấp. Nếu thuốc được dùng với liều
lượng thấp hay khi thuốc tồn tại trên cây với lượng thấp, thuốc có tác dụng dẫn dụ
hoặc kích thích các cá thể sống sót phát triển mạnh hơn. Nguyên nhân có thể là do
kỹ thuật rải thuốc không tốt khiến thuốc không bám dính được ở chỗ cần thiết, nhất
là trong các điều kiện khó khăn như cây to cao, có tán lớn, nhiều tầng lá. Theo định
luật Arndt-Schutz những hợp chất thể hiện tính độc ở liều lượng cao, có thể có tác
độngkíchthích sinh vật khi xâm nhập vào cơ thểvới liều lượng thấp.
∙ Chất lượng thức ăn của sâu hại tăng lên: Thuốc có tác dụng kích thích cây
phát triển và tạo môi trường sống thuận lợi cho sâu hại nhất là làm tăng chất lượng
thức ăn khiến sâu hại có thểsinh sản tốt hơn.
∙ Giảm tác dụng của thiên địch: Tác dụng của nhiều loại thuốc trừ sâu tới các
loài dùng đạm động vật (thiên địch ký sinh và ăn thịt)mạnh hơn so với tác động tới
các loài dùng đạm thực vật (sâuhại) nên thiên địch bịchết nhiều hơn.
Biện pháp khắcphục hiện tượngtái phát dịch
Để khắc phục hiện tượng tái phát dịch cần làm tốt công tác theo dõi diễn biến
của quần thể sâu hại ở lứa tiếp theo sau khi xử lý thuốc để kịp thời thay đổi loại
thuốc.
Cần có chế độ kiểm tra kỹ thuật sử dụng thuốc, chống hiện tuợng do khoán
mà phun ẩu và có các biện pháp bảo vệ thiên địch trong khi sử dụng thuốc. Thuốc
trừ sâu phải được sử dụng phối hợp với các phương pháp quản lý khác nhằm điều
hoàsố lượngcácloài trong rừng, vườn cây hayngoài đồng ruộng.
3. Lợi dụng tính chọn lọc trong khi sử dụng thuốc
Đặc tính chọn lọc của thuốc bảo vệ thực vật thể hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau:
)Tínhchọn lọc sinh lý (physiological selectivity)
Khi sử dụng thuốc trừ sâu thuốc thể hiện tính độc cao đối với sâu hại và ít
hoặc không độc đối với nhữngloài khôngthuộc đối tuợng phòng trừ.
Các loại thuốc trừ sâu dạng điều tiết sinh trưởng, thuốc sinh học (vi khuẩn,
virus)là thuốc có tính chọn lọc sinh lý.Thuốc được sử dụng nhằm bảo vệ côn trùng
thụ phấn,côn trùng ăn thịt và ký sinh.
)Tínhchọn lọc sinh thái (ecological selectivity)
Dựa trên hiểu biết cơ bản về sinh thái của sâu hại và của cây trồng có thể chỉ
cần sử dụng một lượng thuốc tối thiểu nhưng vẫn hạn chế được tác hại của sâu hại
đồng thời hạn chế tác hại của thuốc đối với hệsinh thái.
121 Theo dõi, phân tích tác hại của sâu hại trong từng giai đoạn phát triển của cây
để xác định thời điểm mà sâu hại có ảnh hưởng lớn đến năng suất, đây chính là thời
điểm cần tiến hành phòng trừ.
)Tínhchọn lọc thông quacải tiến biện pháp sử dụng thuốc
Thuốc trừ sâu ít bền vững nếu được sử dụng đúng lúc sẽ có tính chọn lọc, bảo
vệ được thiên địch. Ví dụ phun vào lúc thiên địch đang ở giai đoạn nhộng, có khả
năng chống chịu thuốc cao.Thường thuốc nội hấp có tác dụng với sâu miệng chích
hút và một số sâu hại miệng nhai nên ít độc đối với thiên địch và côn trùng thụ
phấn. Lựa chọn dạng thuốc thích hợp cũng tăng tính chọn lọc.Ví dụ thuốc dạng hạt
được bón vào đất có tác dụng từ từ nên bảo vệ cây lâu dài, lại hạn chế được tác hại
của thuốc đối với môi trường. Thuốc hạt có màng cao phân tử kiểu “con nhộng”
phân huỷ trong đất chậm hơn, kéo dài thời gian có tác dụng của thuốc, hạn chế tình
trạng dư thừa thuốc trong đất.
)Tính chọn lọc thông qua tập tínhcủa sinh vật hại
Hiểu biết vềtập tính của sâu hại cũng góp phần tạo ra tính chọn lọccủa thuốc.
Khi điều tra sâu hại nếu xác định sâu tập trung gây hại chủ yếu ở phần ngọn (thí dụ
sâu ăn lá Hiricoverpa assulta hại thuốc lá) thì chỉ cần tập trung phun thuốc vào
phần trên đểdiệt sâukhoẻ.
Lợi dụng xu tính của côn trùng để sử dụng thuốc, thí dụ xu hoá của sâu xám,
dế, mọt, mối dẫn đến có thể sử dụng bả chua ngọt, bả độc…bẫy pheromon đối với
sâu róm thông,sâuhọ ngài độc….
6.2.6. Phươngpháp phòng trừ tổng hợp sinh vật hại (IPM)
6.2.6.1.Quá trình hình thành và khái niệm IPM
Từ các phương pháp phòng trừ: cơ giới vật lý, sinh học, hoá học, kiểm dịch
thực vật, kỹ thuật canh tác người ta áp dụng tất cả các phương pháp đó để phòng
trừ sâu hại nói riêngvàsinh vật hạinói chung.
Kể từ khi phát hiện ra ảnh hưởng bất lợi của thuốc hoá học tới con người và
môi trường cũng như tác dụng diệt sinh vật hại giảm sút của chúng và những điểm
yếu của các phương pháp phòng trừ sinh vật hại truyền thống khiến một phương
pháp thông minh hơn, dựa trên cơ sở sinh thái trong bảo vệ thực vật được hình
thành, đó là Phương pháp tổng hợp phòng trừ sinh vật hại (IPM = Integrated Pest
Management).
Integrated (Tổng hợp)nghĩa là dùng cách tiếp cận rộng, liên ngành với sự ứng
dụng các nguyên lý khoa học bảo vệ thực vật để hợp nhất lại trong một hệ thống
nhiều phươngpháp và sách lược khác nhau.
Pest (sinh vật hại) bao gồm sâu hại, ve bét, tuyến trùng, bệnh hại, cỏ dại và
động vật có xương sống gâyảnh hưởng xấu tới năng suất và chất lượng cây trồng.
Management (Quản lý) tức là cố gắng kiểm soát quần thể sinh vật hại một
cách có kế hoạch, có hệ thống bằng cách giữ quần thể sinh vật hại hoặc tác hại của
chúng ởmức chophép.
122 IPM là một loại quản lý sinh vật hại, đây chính là quá trình đi đến quyết định
(decision-making process) ngăn chặn hoạt động cũng như phá hoại của sinh vật hại
bằng cách phối hợp một số chiến lược khác nhau nhằm giải quyết dài hạn vấn đề
dịchhại.
IPM ở Việt Nam được thể hiện dưới cácdạng khác nhau: Quản lý sinh vật hại
tổng hợp -Hệ thống biện pháp phòng chống dịch hại tổng hợp -Phòng trừ tổng hợp
dịch hại cây trồng -Phòng trừ dịch hại tổng hợp - Phương pháp phòng trừ tổng hợp
- Phương pháp tổng hợp bảo vệ thực vật.... Tất cả đều có chung mục đích và nội
dung.
Theo Liên hiệp IPM của USA (1994):
IPM là một chiến lược sử dụng phối hợp các phương pháp phòng trừ sinh vật
hại như phương pháp sinh học,kỹ thuật canh tác,hóa học một cách thích hợp nhằm
thực hiện công tác phòng trừ dịch hại có hiệu quả, bảo đảm có lợi về kinh tế và môi
trường.
Một định nghĩa khác về IPM nhấn mạnh tính chất kế hoạch hóa của phương
pháp này:
Quá trình lập kế hoạch và thực hiện các bước trừ sinh vật hại hoặc ngăn ngừa
chúng phát triển thành vấn đềđượcgọi là quản lýtổng hợp sinh vật hại (IPM).
Định nghĩa IPM với sự chútới tới ngưỡng kinh tế:
IPM bao gồm việc phối hợp một cách hợp lý các phương pháp phòng trừ
khác nhau như phương pháp: Kỹ thuật canh tác; Vật lý cơ giới; Hóa học; Sinh học
nhằm làm giảm mật độ quần thể dưới ngưỡng kinh tế (Economic Threshold Level).
Trong từ điển của trường đại học California IPM được định nghĩa như sau:
IPM là một chiến lược quản lý sinh vật hại tập trung vào việc phòng ngừa
hoặc thanh toán dài hạn vấn đề dịch hại bằng việc phối hợp các kỹ thuật phòng trừ
ví dụ khuyến khích phương pháp sinh học, sử dụng giống chống chịu dịch hại, áp
dụng các biện pháp canh tác xen kẽ nhau như cải tiến phương pháp tưới tiêu hoặc
xén tỉa làm cho môi trường sống của sinh vật hại trở nên bất lợi đối với sự phát
triển củachúng...
IPM hướng (nhấn mạnh) sinh học - BIPM (Biointensive Integrated Pest
Management): Nhấn mạnh hoặc tin vào tác dụng của các biện pháp như nâng cao
sức đề kháng của cây trồng, áp dụng phương pháp sinh học, phương pháp canh tác,
sử dụng thuốcthảo mộc...
6.2.6.2.Mục đích của IPM
IPM cố gắng phấn đấu đạt được yêu cầu hiện nay của nền kinh tế và xã hội
hiện đại:
➢ Bảo vệ thực vật với mục tiêu
∙ Năng suất cao
∙ Chất lượng tốt
➢ Vì chất lượng môi trường
∙ Bảo vệ sức khoẻcon người (tạo racác sản phẩm sạch)
∙ Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
123 IPM nhằm bảo vệ sức khoẻ và hạnh phúc của mọi người cũng nhưgiảm thiểu
đưa thuốc hoá học vào môi trường tức là vào chuỗi thức ăn, môi trường nước, môi
trường không khí, môi trường đất. Trong IPM phòng trừ dịch hại được thực hiện
bằng phươngcách hiệu quảhơn, kinh tế hơnvà bền vững hơn về mặt sinh thái.
1. Giải quyết vấn đề dịch hại và ngăn ngừa sự tái phát củachúng.
2. Cải tiến phương pháp phòng trừ: IPM cung cấp cách thức phòng trừ sinh vật
hại hiệu quảhơn nhằm bảo vệ, cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm. Ví
dụ bằng cách ứng dụng luân phiên nhằm tránh sự lệ thuộc hoàn toàn vào
thuốc bảo vệ thực vật. IPM dựa trên cơ sở sử dụng hài hòa các biện pháp
phòng trừ như biện pháp canh tác, sử dụng thiên địch, trồng cây chống chịu
dịch hại cũng như dùng thuốc hóa học. Bằng cách giảm sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật IPM nhấn mạnh phương pháp sinh học và bảo tồn các loài thiên địch
hiện có. IPM cung cấp một loại vũ khí mới cho người sản xuất để chống lại
dịchhại.
3. Quản lý tốt thuốc bảo vệ thực vật: IPM cung cấp một phương pháp hiệu quả
và khôn ngoan hơn trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Nó làm tăng hiệu
quả, tăng thời hạn tác dụng, giảm tác dụng bất lợi của thuốc như tính kháng
thuốc,ô nhiễm môi trường...
4. Bảo vệ thực vật một cách kinh tế: IPM giúp kiểm soát quần thể sinh vật hại
kinh tế hơn.Ví dụ: Chỉ xử lý cây khi thấy cần thiết thayvì xử lý định kỳ, IPM
giúp làm giảm chi phí thông qua giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật phải dùng
cũng như số lần xử lý.
5. Giảm thiểu các nguy cơ tiềm ẩn: IPM bảo vệ sức khỏe con người tốt hơn, bảo
vệ môi trường sống khỏibị tác độngcó hại của thuốc bảo vệthực vật.
Nhà sản xuất, nông dân, các công ty sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, người
tiêu dùng, cá vàđộng vật hoang dã, môi trường nước, môi trường không khí và môi
trường đất,toàn xãhộiđều được hưởng lợi từ IPM.
Các biện pháp hay được phối hợp sử dụngtrong IPM là:
∙ Chọn loài cây trồng hợp lý
∙ Phươngpháp vật lý
∙ Phươngpháp sinh học nhưsử dụng côn trùng ăn thịtvà ký sinh.
∙ Biện pháp canh tác nhằm giữ cho cây được khỏe mạnh, ví dụ tưới
tiêu,bón phân,cắt tỉa, che chắn hợp lý.
∙ Sử dụng thuốc trừ dịch truyền thống hoặc thay đổi loại thuốc hóa
học vínhưpheromon vàchất điều hòa sinh trưởng.
∙ Sử dụngxà phòng hoặc thuốc trừsâu thảo mộc
ĐểIPM có hiệu quảcần thực hiện các côngcụsau đây:
∙ Tăng khả năng đề kháng của cây trồng đối với sinh vật hại chủ yếu (ví dụ thông
qua chọn và nhân giống).
∙ Sử dụng thiên địchđểđiều chỉnh quần thể dịch hại
∙ Sử dụng bẫy pheromon đểthu thập và diệt sâu hại giống đực,đồng thời giám sát sâu hại.
∙ áp dụng các biện pháp phòng như xử lý đất (xông hơi chống tuyến trùng), dùng
đất tốt.
∙ Tránh thời kỳ cao đỉnh của quần thể sâu hại bằng cách thay đổi thời vụ hoặc
luân canh.
∙ Cải tiến ứngdụng
∙ Các biện pháp canh tác tổng hợp khác như ngâm nước, xử lý theo băng, theo
hố... (row spacing, plot spacing).
∙ Với thuốc BVTV: Thuốc hoá học chỉ được sử dụng khi thấy quần thể sinh vật
hại có số lượng lớn tới một mức ảnh hưởng xấu tới sản lượng và chất lượng của
cây trồng, khicác phươngpháp phòng trừ khác không phát huytácdụng.
7.2.6.3.Ưu khuyết điểm của phươngpháp phòng trừ tổng hợp (IPM)
Phương pháp phòng trừ tổng hợp có nhiều ưu điểm nó hạn chế được nhược
điểm của các phương pháp phòng trừ khác như: Hoá học sinh học, cơ giới vật
lý...đảm bảo cho cây trồng an toàn vềmặt sâu hại.
- Hạn chế gây ô nhiễm môi trường, ít gây ảnh hưởng đén sức khoẻ con người
và các sinh vật có ích khác.
- Tạo ra sản phẩm có chất lượng cao
Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện và quản lý phương pháp này tương đối phức
tạp và mất nhiều thời gian vì phải thường xuyên chú trọng trong mọi khâu của
quá trình canh tác.
Chương VII
Một số loài sâu hại chủ yếu cây trồng nông lâm nghiệp
7.1. Sâuhại vườn ươm
7.1.1.Nhóm sâu xám hại cây con
Nhóm sâu xám thuộc họ Ngài đêm (Noctuidae), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera).
ở nước ta thường gặp 3 loài gâyhại là:
Sâu xám nhỏ (Agrotis ypsilon Rottemberg)
Sâu xám lớn (A. tokionis Butler)
Sâu xám vàng (A. segetumSchiffermỹller)
Trong baloài trên phá hạimạnh nhất làsâu xám nhỏ (Agrotis ypsilon Rott)
Sâu xám nhỏ phân bố khắp trên Thế giới và đã được nghiên cứu từ năm 1917.
Nó là loài đa thực, phá hại cây nông, lâm nghiệp như: Ngô, khoai tây, xu hào, bắp
cải...;phi lao,thông,bạch đàn, mỡ,hồi, trẩu ,sở ở giai đạon gieo ươm...
a) Hìnhthái:
+ Sâu trưởng thành: Thân dài 16-24mm.
Toàn thân màu xám sẫm hay màu xám nhạt. Râu
đầu con cái hình sợi chỉ, râu đầu con đực có 1/2
hình răng lược kép, 1/2 hình sợi chỉ. Cánh trước
dài hẹp màu xám sẫm, mép ngoài có các vân
hình tam giác màu đen đỉnh quay vào phía thân.
ở gần giữa cánh trước có một vân hình quả thận
màu nâu nhạt, lưng hình quả thận quay vào phía
thân. ở giữa vân hình quả thận có một vân hình
tam giác màu đen đỉnh quay ra phía ngoài. Giữa
các vân hình tam giác màu đen có 2 đường gợn
sóng màu trắng xám chạy ngang cánh. Cánh sau
rộng,màu trắng xám.
+ Trứng: Hình quả bí đỏ có các đường vân chạy từ trên xuống. Trứng dài
khoảng 0,5mm, mới đẻ màu trắng sữa hoặc vàng nhạt, sau chuyển sang màu hồng,
sắp nở màu nâu.
+ Sâu non:Có 5-6 tuổi với kích thướcvà màu sắckhác nhau.
Về kích thước: Tuổi 1 dài 2-3mm
Tuổi 2 dài 3-7mm
Tuổi 3 dài 7-12mm
Tuổi 4 dài 12-25mm
Tuổi 5 dài 25-40mm
Tuổi 6 dài 40-55mm
Sâu non màu xám vàng hay màu nâu sẫm. Miệng hơi nhô về phía trước, đầu
màu nâu sẫm, có 2 điểm trắng. Giữa lưng có một đường chỉ vàng chạy dọc, hai bên
thân màu vàng sẫm hơn. Các đôi chân ngực có kích thước tăng dần về phía sau.
Trên các đốt bụng mỗi bên có 4 chấm màu nâu nhạt từ đó mọc ra một cái lôngnhỏ.
+ Nhộng màu nâu vàng dài 18-25mm. Mầm cánh dài bằng 2/3 thân thể. Phía
lưng của ngực nhô ra.Cuối bụng nhộngcó hai gai cong vềhai phía.
b)Tập tính:
Sâu xám nhỏ một năm có từ 6-7 vòng đời. Thời gian phát triển của các pha
như sau:
♦ Trứng 3 -15 ngày
♦ Sâu non 25 -31 ngày
♦ Nhộng 7 -20 ngày
♦ Sâu trưởngthành 3 -10 ngày
Nhộng sâu xám nhỏ nằm ở trong đất.Sâu trưởng thành vũ hoára khỏi đất vào
lúc chập tối,sau độ vài giờ bắt đầu giao phối và đẻtrứng. Chúng hoạt động vào ban
đêm, mạnh nhất vào lúc 20 - 23 giờ. Ban ngày nó thường đậu ở bờ bụi, kẽ đất, ban
đêm bay ra đẻ trứng vào các cây con và cỏ dại. Mỗi bướm cái đẻ trung bình 1500
trứng, đẻ riêng lẻ hoặc đẻ thành ổ nhỏ vài ba quả trên mặt lá ở gần sát đất, đôi khi
đẻ vào kẽ đất.Sâu trưởng thành có tính xu hoá mạnh, tính xu quang yếu.Mùi vị mà
bướm ưathích là dấm chua,bãrượu, tinh bột đang lên men…
- Sâu non tuổi 1, đôi khi cả tuổi 2 sống tập trung ở trên lá, xung quanh gốc
cây. Chúng gặm lá dạng nham nhở, lỗ chỗ, bên ngoài thường có màng mỏng che
phủ hoặc gặm gốc cây còn nhỏ, cây non. Từ tuổi 3 trở đi sâu non sống ở trong đất,
xung quanh gốc cây. Ban đêm, đặc biệt từ 24 giờ trở đi chúng bò lên cắn ngang
thân cây hoặc cành cây rồi rút xuống sâu từ 2-3 cm để ăn. Mỗi sâu non có thể cắn
vài cây non làm cho cây bị chết. Tuổi gây hại mạnh nhất là tuổi 4-5. Chúng chỉ phá
hại mạnh cây con hoặc cây mới trồng. Khi khan hiếm thức ăn sâu non tuổi lớn có
thể di chuyển theo đàn từ ruộng này sang ruộng khác. Sâu xám thích sống ở đất thịt
phacát,còn đất thịt và đất sét khôngthích hợp đối với chúng.Nói chung vườn ươm
đểnhiều cỏ dại,bón phân tươi thì mật độ sâu xám lớn.
Sâu non đẫy sức chui xuống đất và hóa nhộng ở độ sâu 2 - 3cm trong buồng
nhộng bằng đất.
c) Biện pháp phòng trừ
Sâu xám là loài sâu nguy hiểm đối với các vườn ươm và ruộng rau. Để hạn
chế sự phá hoại của chúng cần phải thường xuyên làm cỏ dại, bón phân hữu cơ ủ
hoai,hay phân vi sinh,khôngđểhố phân,hố rácở vườn ươm.
Khi xuất hiện sâu hại phải bắt sâu vào ban đêm hoặc sáng sớm đi theo rãnh
luống thấy cây hoặc cành bị kéo tụt xuốngthì đào đất bắt sâu.
Dựa vào tính xu hoá của sâu trưởng thành làm bả chua ngọt hoặc bả độc như
sau:
Bả chua ngọt: 4 phần dấm + 4 phần đường mật + 1 phần rượu + 1 phần nước
(có thểthay dấm bằng nướcgạo để chua hoặc khoai lang nấu chín đểlên men). Cho
mồi vào chậu hoặc nhúng rơm rạ vào mồi nhử rồi để ở nơi thoáng gió, cách mặt đất
1m đểthu bắt sâu trưởngthành.
Bả độc: Mật mía 2 phần cộng với 3 phần bỗng rượu hoặc khoai lang luộc 1
phần, bã đậu 1 phần, nước 1 phần. Các chất trên được trộn đều để 2-3 ngày cho lên
men, sau đó cho thêm 1% thuốc độc Dipterex (Trichlorfon, Chlorophos) hoặc
Vibasu 10H (Diazinon). Bả được đổ vào một cái chậu bằng sành hay thủy tinh.
Chậu có đường kính 20cm cao 15cm, dung dịch bả đổ cao 5cm. Chậu bả được đặt
trên tấm gỗ có cọc cao 1,5m. Ban ngày đậy lại ban đêm mở ra, mỗi tuần thay bả
một lần.
Khi sâu non tập trung ở trên mặt đất (tuổi 1-2) có thể dùng các loại thuốc bột
thấm nước hoặc thuốc sữa phun đậm vào nơi cư trú của sâu là phần sát gốc cây,
phun vào lúc chiều mát. Khi sâu non sống ở dưới đất dùng bả độc đểdiệt.Cứ 30 kg
rau xanh hay cỏ non băm nhỏ trộn với 1 kg thuốc Dipterex và một ít nước trộn đều
rắc cho 360m 2 . Ngoài ra có thể dùng lá dâm bụt 1 kg ngâm với 3 hoặc 5 lít nước
trong 6 hoặc 7 ngày. Sau đó lọc bỏ bã lấy nước tưới vào gốc cây bị hại. Mật độ sâu
non cần áp dụng biện pháp xử lý đất là0,5-1con/m 2 .
7.1.2.Nhóm dế hại cây con
Các loài dế thuộc hai họ: Họ dế dũi (Gryllotalpidae) và Họ dế mèn (Gryllidae)
thuộc Bộ Cánh thẳng (Orthoptera). Ba loài đáng chú ý là Dế dũi, Dế màn nâu lớn
và Dế mèn nâunhỏ.
Hình 7-02: Các loài dế (1.Dế dũi;
2.Dế mèn nâu lớn; 3.Dế mèn nâunhỏ)
+ Dế mèn nâu lớn (Brachytrupes
portentosus Lichtenstein)
+ Dế mèn nâu nhỏ (Gryllus
testaceus Walker)
+ Dế dũi (Gryllotalpa orientalis
Burmeister
* Các biện pháp phòng trừ dế
- Thường xuyên làm vệ sinh xung
quanh vườn ươm... khi nhổ cỏ mang xa
vườn ươm không nên chất đống trong vườn ươm.
128 - Phải bón phân hữu cơ ủ hoai hoặc bón phân vi sinh, không để hố phân, hố
rácở trong vườn ươm.
- Khi thấy xuất hiện nhiều hang dế mèn nâu lớn thì đào hang hoặc đổ nước xà
phòng bắt dế hoặc dùng thuốc Basudin 10H 20kg/ha hoặc có thể dùng thuốc Broma
methane (CH3Br)chovào hang rồi lấp lại.
-Khi thấy xuất hiện nhiều cảba loài dế thì làm bả độc: Dùng 40 phần rau tươi
băm nhỏ, trộn với 1 phần cám rang và một ít phân ngựa, sau đó cho thêm 1% thuốc
độc Dipterex hay Vibasu 10H.
Mỗi hecta đào từ 5-6 hố và hố có kích thước 40 40 40 cm. Mỗi hố cho 1 kg
bảđộc trên phủ cỏ. Ban đêm dế ra ăn bả sẽchết.
Trước khi gieo ươm xử lý đất cục bộ với lượng 20kg/ha thuốc Diazinon 10H,
cày bừakỹrồi mới đánh luống. Trước khi gieo cần xử lý hạt.
7.2.Nhóm sâu hại rừng trồng
7.2.1. Sâu hại các loài thông
Chi Pinus (thông) ở nước ta bao gồm các loài như Thông nhựa (Pinus
merkusii), Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana), Thông balá (Pinus kesiya), Thông
Caribê (Pinus caribaea)… Sâu hại thông bao gồm các loài hại lá như Sâu róm
thông, Ong ăn lá, Sâu đục lá, Sâu đo, Sâu kèn, Sâu cuốn lá; các loài hại chồi ngọn
như Sâu đục ngọn thông, Rệp và Xén tóc hại thân cành. Trong số các loài sâu hại
thông những loài sau đây là những loài gây nhiều khó khăn cho công tác gây trồng
rừng:
-Sâu róm thông đuôi ngựa -Sâu róm 4 túm lông
-Ong ăn lá thông -Xén tóc
7.2.1.1. Sâuróm thông đuôi ngựa (Dendrolimus punctatus Walker)
1. Vị trí phân loại
Sâu róm thông đuôi ngựa (Dendrolimus punctatus Walker) thuộc họ Ngài kén
hay Ngài khô lá (Lasiocampidae), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera). Sâu này thường
đượcgọi ngắn gọn làSâu róm thông.
2. Phân bố và tình hình phá hại
Theo tài liệu Trung Quốc Sâu róm thông đuôi ngựa phân bố từ sông Hoàng
Hà trở xuống. ở nước ta loài này phân bố hầu hết các vùng trồng thông ở miền Bắc
và miền Trung.
Sâu róm thông đuôi ngựa là loài sâu nguy hiểm nhất đối với các rừng Thông
đuôi ngựa và Thông nhựa. Từ khoảng những năm 60 cho đến nay, hàng năm chúng
đã gây ra các trận dịch ở nhiều nơi, ăn trụi hàng nghìn hecta rừng thông. Trong
những năm gần đây có xu thế phát dịch với quy mô ngày càng lớn, chu kỳ dịch
không ổn định. Các tỉnh thường xuyên có dịch là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Thiệt hại do Sâu róm thông đuôi ngựa gây ra khá lớn. Sau mỗi trận dịch có nhiều
cây bị chết hoặc sinh trưởng kém khiến việc khai thác nhựa phải dừng lại, ảnh
hưởng xấu đến kế hoạch kinh doanh.
3.Hình thái và tập tính
a)Hìnhthái:
129 + Sâu trưởng thành: Ngài cái dài 25-35mm, ngài đực nhỏ hơn một chút, màu
sắc biến đổi từ màu trắng xám, màu nâu vàng hay màu nâu sẫm tùy theo mùa. Râu
đầu con cái hình răng lược đơn, con đực hình răng lược kép. Cánh trước lớn hơn
cánh sau. ở giữa cánh trước có một chấm trắng nhỏ. Từ gốc đến mép ngoài của
cánh có 4 đường vân cong, màu nâu sẫm nằm ngang cánh. Đặc biệt ở gần mép
ngoài củacánh trước có8 chấm đen xếp thànhhình số 3.
khác xếp hướng ra sau kiểu nan quạt. Ngoài ra mép cánh sau của con cái còn có
nhiều vân trăng khuyết màu đỏ -da cam.
Trứng hình cầu, đường kính 1,2mm, màu trắng xanh đến vàng sẫm được đẻ rải rác
trên các lá non. Sâu non có 5 tuổi, tuổi nhỏ có màu nâu đậm, sau có màu xanh, tuổi
cuối cùng dài 45mm. Mép trước ngực sau có vân đen dạng gai, giữa có 4 đốm tím.
Khi bị tấn công sâu non chìa ra tuyến hôi màu đỏ tím về phía trước. Nhộng dài 32-
35mm, màu sắc có thể biến đổi tùy theo điều kiện: màu vàng xám, nâu xám hoặc
màu xanh. Bụng nhộng đính vào giá thể là lá hoặc cành, thân hơi nghiêng được
vòng giữ bằng một sợi tơ mảnh (nhộng thắt lưng). Thân nhộng có mặt bụng uốn
cong, lưng ngực giữa lồi lên, đỉnh đầu lõm vào giữa. Mỗi nămcó 6 lứa, qua đông ở
pha nhộng. sâu non có thể ăn hại khá mạnh. Khi mật độ cao làm trụi lá khiến cây
chậm phát triển. Thiên địch đáng chú ý là 2 loài ong ký sinh là Ong vàng nhỏ
(Pteromalus puparum L.) và Ong đùi to (Brachimeria lasus Walker).
Bướm phượng cam có thân dài 30mm, lưng màu nâu đen, bụng màu trắng
vàng, sườn có hai chỉ nhỏ màu vàng chạy từ ngực đến bụng. Cánh trước hình tam
giác, mặt trên cánh nền màu đen, mép ngoài gợn sóng. Tại những điểm lõm ở mép
cánh đều có vân màu vàng hình bán nguyệt. Phía trong giáp phần mép ngoài là 8
chấm hình tròn và hình bán nguyệt màu vàng xếp dọc theo mép ngoài. Phần giữa
cánh có nhiều chấm màu vàng với nhiều hình dạng kích thước khác nhau. Mặt sau
cánh tương tự mặt trước nhưngmàu sắcnhạt hơn.
Cánh sau mặt trên màu nền cũng là màu đen. Mép ngoài gợn sóng, ở những
phần lõm của mép cánh có những chấm hình bán nguyệt màu vàng, phía trong là
một hàng gồm 5 chấm dạng hạt đậu quay ra phía ngoài, màu vàng. Góc dưới có
một chấm tròn màu đỏ gạch, phía gần mép trên cánh có một chấm tròn màu đen
ánh xanh, ở giữa cánh là một đám lớn màu vàng.Các phakhác tương tự Bướm cam
đa hình.