You are on page 1of 24

CÁI MỚI TRONG TRUYỆN NGẮN A.

SÊKHỐP
GS. Nguyễn Hải Hà (ĐHSPHà Nội)
Chỉ hoạt động văn học trong ngót một phần tư thế kỷ mà lại phải chống
chọi với bệnh tật trong hàng chục năm, Antôn Paplôvich Sêkhốp (1860-1904) đã
trở thành nhà cách tân nghệ thuật kịch và bậc thầy truyện ngắn của Nga và thế
giới. Hơn trăm năm qua, bạn đọc toàn cầu vẫn nồng nhiệt đón đọc truyện ngắn
của ông. Vậy bí mật nghệ thuật nào tạo nên sức hấp dẫn lâu bền của các truyện
ngắn Sêkhốp?
Sêkhốp không được giới phê bình am hiểu, nhất là thời kỳ đầu. Bởi vậy
năm 1888 nhà văn phàn nàn về “sự hoàn toàn thiếu vắng phê bình”. Một vài nhà
phê bình trách Sêkhốp “coi thường trường phái văn học và những mẫu mực văn
học của các uy tín lớn”, “bất kỳ chi tiết nào cũng chiếm bao nhiêu chỗ tuỳ
thích”, “không nghiền ngẫm về hình thức các tác phẩm của mình”, “chìm vào
hàng đống cái vô ích” trong những truyện như Thảo nguyên, Câu chuyện tẻ nhạt,
bạ đâu viết đây. Nhà phê bình nổi tiếng N. Mikhailôpxki viết: “Ông Sêkhốp (...)
dạo chơi bên cuộc đời và khi đi dạo ông túm lấy khi thì cái này khi thì cái kia”,
“bất kỳ cái gì lọt vào mắt, ông đều mô tả “bằng máu lạnh” như nhau”. Cũng như
một số người, lúc đầu Mikhailôpxki coi Sêkhốp là ca sĩ của “những con người
cau có” (Những con người cau có là nhan đề tuyển tập truyện ngắn của Sêkhốp in
năm 1889) “nhà văn phi tư tưởng”, “lý tưởng hoá sự thiếu lý tưởng”. Tuy nhiên
về sau cách đánh giá của Mikhailôpxki có khác. Ông khen ngợi Câu chuyện tẻ
nhạt “buồn nhớ lý tưởng”, Phòng số 6 và Người trong bao.
Nói cho công bằng, một số nhà phê bình đã c¶m nhËn ®îc tầm vóc của
nhà văn: “ông Sêkhốp là tài năng nghệ thuật lớn” (1889), “trong số các đại biểu
còn sống của thể loại châm biếm ở nước ta thì A.P.Sêkhôp là vĩ đại nhất, tài
năng đẹp đẽ và mãnh liệt của ông là niềm kiêu hãnh của nước Nga”. (1893)Nhà
văn lão thành Đ.V.Grigôrôvich (1822-1899) đã hân hoan chào đón Sêkhôp trong
bức thư nồng nhiệt khiến nhà văn trẻ mới 26 tuổi vô cùng xúc động. Grigôrôvich
phát hiện tài năng Sêkhốp qua “khả năng phân tích nội tâm rất sâu, tài tả cảnh
điêu luyện (...), khả năng tạo hình...” và chân tình khuyên Sêkhốp “phải biết quý
trọng tài năng” hiếm hoi của mình. Sêkhôp coi Grigôrôvich là “người thức tỉnh”,
giúp mình nghiêm chỉnh tiếp tục sự nghiệp văn chương bởi vì “cho đến nay tôi
đã coi công việc viết văn của mình là một việc hời hợt, qua quýt, vô tích sự. Tôi
chưa viết một truyện ngắn nào mất quá một ngày đêm”. Có thể nói năm 1886 là
cột mốc quan trọng trong đời văn Sêkhốp.
Hầu như tất cả các nhà văn đàn anh nổi tiếng đương thời đều đánh giá cao tài
năng và quý mến Sêkhốp. Đó là L.Tônxtôi, N.X.Lexcôp, V.G.Kôrôlencô. Sêkhôp
gọi L.Tônxtôi là “người khổng lồ, thần Giupite” và khẳng định “trên đời này tôi
không yêu ai hơn Tônxtôi”. Sêkhôp có dịp gặp gỡ Tônxtôi ở Krưm nhiều lần.
M.Gorki cho biết Tônxtôi “rất yêu Sêkhốp” và từng nói với Sêkhốp: “anh
thì đặc Nga! Phải rất Nga, rất Nga”. Điều lạ là Tônxtôi không thích kịch Sêkhốp.
Còn truyện ngắn Sêkhốp thì Tônxtôi rất thích và đọc đi đọc lại nhiều lần (đặc
biệt thích Đusesca mà ông đã biên tập lại) chọn xuất bản một số. Ông coi
Sêkhốp là “người vô thần hoàn toàn nhưng đôn hậu”. Tônxtôi viết trong thư
năm 1895: “Sêkhốp ở chơi nhà ta và ba thích anh ấy. Anh ấy rất có tài và trái
tim anh chắc hẳn phải đôn hậu, nhưng cho đến nay anh vẫn chưa có quan điểm
xác định”. Ai nghĩ khác Tônxtôi đều bị ông coi là tư tưởng bấp bênh như thế.
Tônxtôi đánh giá rất cao cống hiến của Sêkhốp cho văn học Nga: “Cũng như
Puskin, anh đã đẩy hình thức tiến lên phía trước” (Nhật ký ngày 3 tháng 9 năm
1903. Do chúng tôi nhấn mạnh. N.H.H). Ông coi Sêkhôp là “nghệ sĩ – nhà thơ
chân chính”.
Có một sự kiện tiếp nhận văn học đầy ý nghĩa: Tônxtôi coi Đusesca của
Sêkhốp là “truyện ngắn mê hồn” khiến ông rơi lệ khi đọc nhưng theo ông hiệu
quả của truyện này trái ngược ý đồ của tác giả, Sêkhốp định phê phán nữ nhân
vật nhưng Tônxtôi coi đây là mẫu phụ nữ lý tưởng. Năm 1905 Tôxtôi cho in
Đusesca và viết lời bạt ca ngợi.
Các nhà văn cùng thời như V.M.Garsin (1855-1888), M.Gorki cũng rất
khâm phục tài năng Sêkhốp. Garsin coi tác giả Thảo nguyên là “nhà văn mới
hạng nhất”. Gorki viết trong thư gửi Sêkhốp năm 1898: “Tài năng của ông thật
là vĩ đại (…) Người ta khen ông rất nhiều, thế nhưng lại chưa đánh giá ông đúng
mức và hình như hiểu ông rất ít”, “trong văn học Nga chưa có nhà viết truyện
ngắn nào giống như ông, còn giờ đây ở nước ta ông là gương mặt vĩ đại sáng giá
nhất. Môpatxăng rất hay và tôi rất yêu ông ấy, nhng t«i thÝch ông hơn (…)Ông
là một tài năng mãnh liệt”. Gorki ca ngợi nhiều truyện ngắn tuyệt vời của
Sêkhốp, coi ông là “một con người lớn lao, thông minh” mong muốn dùng văn
chương thức tỉnh mọi người đang kéo lê cuộc sống tồi tệ và buồn tẻ. Gorki dành
riêng một bài nói về Trong khe núi của Sêkhốp mà ông coi là một truyện ngắn
hay, lời chật ý rộng. Trong bài này Gorki đã nêu nhiều nhận xét rất sắc sảo, tinh
tế về nghệ thuật truyện ngắn Sêkhốp.
Liên Xô đã in nhiều tư liệu quý về A.Sêkhốp như 3 tập Thư từ trao đổi giữa
vợ chồng Sêkhốp (1934-1936), Toàn tập 20 tập (1944-1951), Biên niên sử về
cuộc đời và sáng tác (1955), Di sản văn học Tập 68 (1960). Trong nửa đầu thế kỷ
XX các nhà nghiên cứu Xô viết thiên về tiếp cận xã hội học khi tìm hiểu sáng tác
Sêkhốp. Từ nửa sau thế kỷ, tiếp cận thi pháp học mới được chú ý. Tiêu biểu cho
khuynh hướng này là Thi pháp Sêkhốp (1971) của A.P.Truđacốp, một công trình
nghiên cứu nghiêm túc, sâu sắc. Tuy không tán thành một số luận điểm cơ bản
của Truđacốp nhưng chúng tôi vẫn đánh giá rất cao công trình của ông vì nguồn
tư liệu quý, cách đặt vấn đề khá lý thú và sức gợi ý khoa học rất bổ ích.
Ở ta cho đến nay chưa có chuyên luận về sáng tác của Sêkhốp và tiếp cận
thi pháp học đối với truyện ngắn của ông cũng mới chập chững bước đầu.
Trở lại vấn đề đã nêu, đâu là cái mới trong truyện ngắn Sêkhốp?
Sêkhốp khiêm tốn nói “Tôi là nhà phê bình tồi” không biết diễn tả ý kiến
phê phán của mình. Thực ra Sêkhốp có những quan điểm rất sắc sảo, rành mạch
về văn học mµ «ng thÓ hiÖn ®©y ®ã trong s¸ng t¸c vµ chñ
yÕu lµ qua th tõ. Sêkhốp từng coi các nhà phê bình là dân ăn bám còn phê
bình là ruồi trâu quấy rầy ngựa cầy. Lại có lúc ông cho rằng “Thà phê bình tồi
còn hơn là không có…”. Theo ông, điều quan trọng trong phê bình không chỉ là
“những quan điểm nhất định, xác tín, thế giới quan mà còn phải chú trọng tới
phương pháp vì phương pháp tạo ra một nửa tài năng”. Ông trách các nhà phê
bình xu nịnh, hèn nhát vì “họ sợ cả khen lẫn chê và quay tròn ở một quãng giữa
lập lờ thảm hại”. Từ năm 28 tuổi, năm 1888, Sêkhốp đã nâng “phương pháp
khoa học” trong phê bình lên thành “triết học sáng tạo”. Theo ông, “có thể tập
hợp tất cả những gì ưu tú do các nghệ sĩ sáng tạo ra trong mọi thời đại và vận
dụng phương pháp khoa học nắm bắt cái chung làm cho chúng giống nhau và
quyết định giá trị của chúng. Cái chung đó chính là quy luật. Ở những tác phẩm
mà người ta coi là bất tử có nhiều cái chung; nếu như từ mỗi tác phẩm ta vứt bỏ
cái chung đó đi thì tác phẩm mất giá trị và sự hấp dẫn. Nghĩa là cái chung đó có
tính tất yếu, tạo ra conditio sine qua non (điều kiện tiên quyết) của mỗi tác giả,
tác phẩm muốn được bất tử.”.
Vậy cái chung nào làm nên sự bất tử của truyện ngắn Sêkhốp?
Puskin khẳng định trong một bức thư: “Thiên tài chỉ liếc mắt là phát hiện
ra sự thật, mà sự thật mạnh hơn nhà vua, kinh thánh nói vậy”. Đôxtôiepxki quả
quyết: “Sự thật cao hơn Nêcraxôp, cao hơn Puskin, cao hơn nhân dân, cao hơn
nước Nga, cao hơn tất cả, bởi vậy cần phải mong ước độc có sự thật và đi tìm
nó, bất chấp tất cả những lợi lộc mà chúng ta có thể bị mất vì nó và thậm chí bất
chấp tất cả mọi truy nã và săn lùng mà chúng ta có thể phải chịu đựng vì nó.”
L.Tônxtôi tâm sự: “Nhân vật chính trong truyện của tôi, nhân vật mà tôi mến
yêu với tất cả sức mạnh tâm hồn, cố gắng dựng lại trong tất cả vẻ đẹp của nó,
nhân vật luôn luôn đã đẹp, đang đẹp và sẽ đẹp, nhân vật đó là sự thật”.
(Xêvaxtôpôn tháng Năm 1855).
Ngay từ năm 27 tuổi, Sêkhốp đã ý thức rất rõ về sứ mạng ngòi bút của
mình: “Văn học được coi là có tính nghệ thuật vì nó vẽ tả cuộc sống như vốn có
trong thực tế. Mục tiêu của văn học là sự thật tuyệt đối và trung thực (…) Đối
với các nhà hoá học thì trên trái đất không có gì bẩn. Nhà văn cũng phải khách
quan như nhà hoá học; anh ta phải từ bỏ tính chủ quan trong đời và biết rằng
những đống phân trong phong cảnh cũng đóng vai trò rất đáng nể, còn các dục
vọng xấu xa cũng gần gũi cuộc sống như các dục vọng tốt lành”. Từ lúc 28 tuổi,
ông đã đau đầu trước câu hỏi: “Tôi viết cho ai và viết để làm gì?”.
Như vậy, Sêkhốp nối gót các nhà văn lớn chân chính dũng cảm đi theo
con đường khám phá sự thật, vươn tới cái đẹp gập ghềnh, đầy chông gai.
Tính chân thực là nét nổi bật mà mọi người nhận thấy trong truyện
Sêkhốp. Một người cùng thời ghi lại lời Tônxtôi: “Sêkhốp và các nhà văn đương
thời nói chung phát triển kỹ thuật phi thường của chủ nghĩa hiện thực. Ở Sêkhôp
tất cả đều chân thực đến độ ảo giác, các tác phẩm của anh ấy gây ấn tượng như
một kính vạn hoa”. Năm 1886 N.X.Lexcôp (1831-1895) coi nhà văn trẻ Sêkhốp
là người đi theo “khuynh hướng hiện thực lành mạnh” của L.Tônxtôi, “tài năng
văn học đương thời vĩ đại nhất trên toàn thế giới”. V.G.Kôrôlencô (1853-1921)
viết trong một bức thư: “tôi nghĩ rằng phẩm chất của Sêkhốp chủ yếu là ở chỗ
anh ấy nói chung biết mô tả một cách chân thực chứ không phải ở việc lựa chọn
đề tài” (1888). M.Gorki nhận xét: “Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng như
người tốt, đều sống trong câu chuyện của Sêkhốp đúng như họ sống trong hiện
thực. Trong các truyện ngắn của Sêkhốp không hề có mét c¸i g× mµ l¹i kh«ng cã
thật trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp của tài năng Sêkhốp chính là ở
chỗ ông không bao giờ tự tiện bịa đặt ra một cái gì, không bao giờ mô tả một
cái gì “không có trên đời này”, tuy có thể là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước.
Ông không bao giờ tô vẽ cho con người…”.
Bản thân Sêkhốp từng coi “tính chủ quan là vật kinh khủng” (1883) và
khẳng định rằng: “càng khách quan ấn tượng càng mãnh liệt hơn” (1892). Ông
đề cao cộng đồng sáng tạo: “khi viết tôi hoàn toàn tin cậy vào bạn đọc vì cho
rằng những yếu tố chủ quan còn thiếu, bạn đọc sẽ thêm vào” (1890).
Vậy Sêkhốp khám phá sự thật gì ở nước Nga cuối thế kỷ XIX mà ông coi
là “thời buổi ốm đau”? Đôxtôiepxki đi tìm con người trong con người, phơi bầy
những ung nhọt của đại đô thị trong các tiểu thuyết phức điệu. L.Tônxtôi nắm
bắt con người bên trong qua con người hữu hình và mô tả sâu sắc việc chiếm
hữu ruộng đất cùng quan hệ địa chủ - nông dân trong các tiểu thuyết tâm lý – xã
hội. Sêkhốp có nói đến ách áp bức tư bản (Một chuyến đi khám bệnh), cảnh
nông thôn cùng khốn (Nông dân, Trong khe núi), tìm đường giải phóng quần
chúng bị áp bức (Ngôi nhà có căn gác nhỏ, §êi t«i) nhưng trung tâm chú ý của
ông không phải là quan hệ sản xuất và các vấn đề kinh tế mà là mong muốn
khám phá và mô tả thân phận nô lệ, đầu óc nô lệ của con người biểu hiện qua vô
vàn dạng thức. Đó là thói quỵ luỵ trước quyền uy, chức tước (Anh béo và anh
gầy, Lão quản Prisibêep, Con kỳ nhông, Các bà, Vở kịch vui, Người trong bao),
thói nô lệ đồng tiền, của cải (Mặt nạ, Iônưts, Vé trúng số, Xalômôn ném tiền vào
lò sưởi và Varlamôp thích tiền trong Thảo nguyên), sự tác oai tác quái của hoàn
cảnh vô nhân đạo (Vanca, Nỗi nhớ, Buồn ngủ) sự khuất phục hoàn cảnh, tâm lý
bạc nhược, ngôy biện (Phòng số 6, Người tu sĩ vận đồ đen, Iônưts). Sêkhốp mô
tả tình yêu, hôn nhân và thân phận nô lệ của người phụ nữ trong rất nhiều truyện
(Người đàn bà phù phiếm, Huân chương Anna nhị đẳng, Vôlôđia lớn và Vôlôđia
bé, Một chuyện tình yêu, Đêm Noel, Câu chuyện của phu nhân N.N, Một chuyện
đùa nho nhỏ, Que diêm Thuỵ Điển, Vªrơsca, Vận xấu, Chị bếp đi lấy chồng,
Người vợ chưa cưới). Nhức nhối chuyện gái điếm trong Cơn bệnh thần kinh. Có
những cô gái trẻ bị ép duyên hoặc vì tiền phải lấy chồng già. Không ai có hạnh
phúc: “có tất cả mọi thứ, duy chỉ có tình yêu là chưa đến” (Người đàn bà có con
chó nhỏ). Con người vẫn chưa được tự do trong tình yêu và hôn nhân.
Có thể nói thói nô lệ ngấm s©u và đầu độc người lớn, trẻ em, đàn ông,
đàn bà, trí thức, viên chức, quân nhân, thương gia, sinh viên, nông dân, “những
con người không biết kính trọng cái phẩm giá làm người của mình, đành tâm
ngoan ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những kẻ nô lệ”. Sêkhốp muốn giúp
con người “chắt lọc, loại bỏ khỏi con người mình từng giọt nô lệ.” Gorki nhận
xét rất đúng về đầu óc nô lệ trong thế giới nhân vật Sêkhốp: “trước mắt ta diễu
qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ và nô tỳ của tình yêu, của sự ngu dại
và của thói lười biếng, của sự tham lam đối với những lạc thú trần gian; đó là
những kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi tối tăm trước cuộc sống, họ quằn quại trong
một nỗi lo âu mơ hồ và trút ra những lời lẽ đầu Ngô mình Sở về tương lai vì cảm
thấy trong hiện tại không có chỗ cho mình đứng…”.
Sêkhốp thấu hiểu sự phức tạp của con người: “Đúng là thế giới “đầy rẫy
bọn nam vô lại và nữ vô lại”. Bản chất con người không hoàn thiện, bởi vậy thật
kỳ cục nếu chỉ nhìn thấy trên trái đất những người công chính”. Sêkhốp bị xem
là ca sĩ của “những người cau có” (tên một tập truyện ngắn của Ông. Có người
dịch là Những người u ám hoặc Những người rầu rĩ). Xuyên suốt nhiều tác
phẩm của Sêkhốp là sự đối lập quyết liệt giữa vĩ nhân, con người phi thường,
siêu nhân với con người bình thường (Người đàn bà phù phiếm, Tu sĩ vận đồ
đen, Câu chuyện tẻ nhạt, §øc gi¸m môc). X«lômôn không hám tiền cho rằng
mình “giống con người hơn” (Thảo nguyên). Ông chủ nhà bảo cô gia sư: “Cô đi
rồi thì khắp nhà này không còn có cái mặt nào ra mặt người nữa” (Rối ren). Ông
bác sĩ già phê phán bà quý tộc: “bà không bao giờ coi những kẻ nghèo hèn là
con người cả” (Nữ hầu tước). Người vợ nhận ra người chồng bình thường mà vĩ
đại của mình quá muộn (Người đàn bà phù phiếm). Vị giáo sư nổi tiếng mong
muốn người ta yêu quý mình như “một con người bình thường” chứ không phải
vì danh tiếng, chức vị, nhãn hiệu bề ngoài (Câu chuyện tẻ nhạt).
Năm 1888, Sêkhốp viết bài ca ngợi nhà địa chất Nga N.M.Prơgiêvanxki
(1839-1888) bỏ mình tại vùng núi Trung Á khi đi nghiên cứu khoa học: “Trong
thời buổi ốm đau của chúng ta, khi mà các xã hội châu Âu sinh ra lười biếng,
sầu đời và mất lòng tin, khi mà ở khắp nơi ngự trị sự kết hợp kỳ quặc giữa thói
chán đời và nỗi sợ chết, khi mà thậm chí những người ưu tú khoanh tay, bào
chữa cho thói lười biếng và truỵ lạc của mình bằng sự thiếu vắng mục đích sống
rõ ràng thì các chiến sĩ đấu tranh quên mình cần thiết như mặt trời”. Sêkhốp ca
ngợi: “những con người của chiến công, niềm tin và mục đích được nhận thức rõ
ràng” Nhà văn cho rằng: “Nếu như những điển hình tích cực do văn học sáng
tạo ra là tài liệu giáo dục quý giá thì chính những điển hình do cuộc sống tạo ra
trở thành vô giá”.
Nằm ở trung tâm quan niệm nghệ thuật về con người của Sêkhốp là người
lao động giản dị, trung thực, thuộc đủ ngành nghề. Nhưng cuộc sống thật phức
tạp. Ông lão đánh xe Panchêlây nhận xét: “Những bậc thánh và những người
trung hậu tôi gặp cũng đã nhiều, nhưng những người tội lỗi thì đếm không xuể
nữa” (Thảo nguyên). Nhân vật đầy thăng trầm với một cuộc đời vô cùng phức
tạp vẫn tr©n trọng con người: “Số phận tôi thật may mắn biết bao nhiêu, tôi
được gặp toàn những con người tuyệt diệu (…) Trên đời này những người tốt
đông hơn người xấu rất nhiều” (Dọc đường). Anh sinh viên Vaxiliep nghĩ về các
cô gái điếm và nhạc công, đầy tớ trong các nhà chứa: “Tất cả họ đều giống loài
vật hơn là loài người, nhưng họ vẫn là con người, ở họ vẫn có tâm hồn. Cần phải
hiểu, sau đó sẽ đánh giá họ” (Cơn bệnh thần kinh). Xôphia Lơvôpna, 23 tuổi,
buộc phải lấy ông chồng hơn tuổi bố mình chua xót thừa nhận: “Tôi là một đứa
con gái ngu muội, hèn hạ, thiển cận đáng bỏ đi…” nhưng vẫn ước ao “làm lại
cuộc đời” để trở thành “con người chân chính” ; “Tôi muốn được làm một người
trung thực, trong trắng, không biết đến lừa dối, sống có mục đích.” (Vôlôđia lớn
và Vôlôđia bé). §îc gÆp nhiÒu ngêi tèt anh viªn chøc trÎ nghÜ:
“Trong cuéc ®êi kh«ng cã g× quý h¬n con ngêi.” (Vªr¬sca).
Anh hoạ sĩ tâm sự với người yêu: “Con người phải nhận thức được mình cao
hơn những sư tử, hổ báo, ngôi sao, cao hơn hết thẩy mọi cái trong thiên nhiên,
thậm chí phải thấy mình cao hơn cả những điều mình không hiểu và cảm thấy
kỳ lạ” (Ngôi nhà có căn gác nhỏ). Nhân vật của Sêkhốp dường như luôn bị co
kéo giữa không gian hẹp tù túng (Phòng số 6) và không gian bát ngát (Thảo
nguyên). Nhà văn hình dung tầm vóc lớn lao của con người: “Con người không
phải chỉ cần ba thước đất, không phải chỉ cần một trang ấp nhỏ mà là tất cả trái
đất, tất cả thiên nhiên, trên cả miền đất bao la ấy con người mới có thể bộc lộ
được hết phẩm chất và đặc điểm tinh thần tự do của mình” (Khóm phúc bồn tử).
Hàng loạt nhân vật của Sêkhốp từ anh sinh viên, thầy giáo trẻ đến vị giáo
sư già, «ng b¸c sü bừng tỉnh, đốn ngộ, nhận ra cuộc sống tồi tệ, tẻ nhạt của mình
và muối rời bỏ nó (Sinh viên, Ba năm, Câu chuyện tẻ nhạt, Thày giáo dậy văn,
I«nts). Giáo sư Nicôlai Xtêpanôvich “thấy thiếu cái mà các ông bạn hiền triết
gọi là tư tưởng chủ đạo trong người…” Sêkhốp nói về kết thúc truyện này trong
một bức thư viết năm 1888: “nghiền ngẫm cuộc sống mà thiếu thế giới quan thì
đó không phải là cuộc sống mà là gánh nặng, nỗi khủng khiếp”.
Người kể chuyện trong Thảo nguyên cảm thấy cảnh vật đều thể hiện rõ
“sự toàn thắng của cái đẹp, của sù trẻ trung, của sức mạnh tràn trề và sự khát
khao tha thiết đối với cuộc sống”. Các nhân vật trong Sinh viên, Trong khe núi
đều tin rằng sự thật và cái đẹp tồn tại và sẽ ngù trÞ cuéc sèng. Sêkhốp đã vẽ
chân dung những cô gái trẻ đẹp, đầy sức xuân (Hai vẻ đẹp, Vêrơsca, Iônưtsơ)
Trong truyện ngắn Sêkhốp không chỉ có thời gian hiện tại xám xịt, ngưng đọng
trong đó cuộc đời các nhân vật han rỉ, mòn mỏi, tàn lôi. Càng về cuối đời ông,
thời gian tương lai càng rõ nét trong tác phẩm. Tuy phải chống chọi với bệnh tật,
Sêkhốp vẫn lạc quan. Sêkhốp mong muốn “trong con người mọi cái đều phải
đẹp, cả khuôn mặt, áo quần, cả tâm hồn và ý nghĩ” (Kịch Cậu Vania). Các nhân
vật trẻ tuổi vĩnh biệt cuộc sống cũ và chào mừng cuộc sống mới trong vở kịch
nổi tiếng Vườn anh đào. Cô Nađia quyÕt ra ®i t×m kiếm “cuộc đời mới
trong sáng…rộng rãi, phóng khoáng” (Ngêi vî cha cíi). Trước cảnh đời đen tối,
Sêkhốp vẫn vững tin: “Cho dù cái ác lớn đến đâu thì đêm vẫn cứ lặng lẽ, đẹp đẽ
và trên thế gian rộng lớn này sự thật vẫn tồn tại và sẽ tồn tại cũng lặng lẽ và đẹp
đẽ như thế và tất cả trên trái đất chỉ chờ đợi hoà hợp với sự thật như ánh trăng
hoà với bóng đêm” (Trong khe núi).
Tiếng còi và những tấn bi hài trong truyện ngắn Sê khôp nẩy sinh từ mâu
thuẫn giữa đầu óc nô lệ và ước mơ về con người đẹp, cuộc sống tự do
Sêkhốp đã giành được vị trí xứng đáng cho truyện ngắn trong thời buổi
toả sáng tên tuổi Đôxtôiepxki, L.Tônxtôi, Turghênhep với các pho tiểu thuyết đồ
sộ. Sêkhốp không thực hiện được ý định viết tiểu thuyết. Một vài truyện khá dài
của ông như Thảo nguyên, Câu chuyện tẻ nhạt, Phòng số 6, Người tu sĩ vận đồ
đen… được đánh giá cao. Tuy vậy Sêkhốp vẫn tỉnh táo và khiêm tốn cho rằng
trong Thảo nguyên “mỗi chương riêng rẽ tạo ra một truyện ngắn đặc biệt”, toàn
truyện là “bản liệt kê chi tiết các ấn tượng”, “cuốn bách khoa thư về thảo
nguyên” bởi vì: “tôi còn chưa biết cách viết các tác phẩm lớn” (Thư 1888).
Sức mạnh của Sêkhốp là do tài viết ngắn. Sêkhốp nói: “Ngắn gọn là chị
em của tài năng”, “tôi biết nói ngắn về những cái phải nói dài”, “điều kỳ quặc là
giờ đây tôi mê tất cả những gì ngắn gọn. Dù đọc gì, của mình hay của người, tôi
thấy tất cả đều chưa đủ ngắn gọn”, “Chỉ một mình tôi nổi dậy, chống những sự
dài dòng”. Muốn ngắn gọn phải chọn lọc chi tiết. Sêkhốp góp ý nhận xét truyện
của các nữ văn sĩ: “chị chồng chất cả núi chi tiết và quả núi đó đã che lấp mặt
trời”, “phải hi sinh các chi tiết vì cái toàn thể”. Từ năm 28 tuổi, Sêkhốp đã tin
rằng “trong các truyện ngắn thì nói lửng hay hơn là nói đi nói lại…”.
Năm 1891, một người cùng thời là I.L.Sêglốp đã hạ một câu khá cực
đoan: “Trong một truyện ngắn nhỏ của Sêkhốp ta cảm nhận được nước Nga
nhiều hơn trong toàn bộ tiểu thuyết của Bôbôrưkin”. Còn nhà văn Lexcôp khái
quát: “khắp nơi là phòng số 6. Đó là nước Nga”.
Khi viết Câu chuyện tẻ nhạt Sêkhốp phải luyện cách “truyền đạt thoải mái
tư tưởng trong hình thức tự sự”. Ông nhắc nhở ta chớ đồng nhất nhà văn và nhân
vật: “Nếu người ta đưa cà phê ra thì Anh đừng cố tìm bia trong đó. Nếu tôi đưa
tới cho Anh các tư tưởng của vị giáo sư thì hãy tin tôi và đừng tìm trong đó các
tư tưởng của Sêkhốp”. Muốn tăng hiệu quả nghệ thuật của “hình thức tự sự”
ngắn Sêkhốp phải cải tiến từng yếu tố tự sự và cách kết hợp chúng. Ranh giới
giữa ba yếu tố tự sự là kể lại, mô tả và phán đoán gần như khá nhạt nhoà trong
truyện ngắn Sêkhốp. Kể xen với tả, phán đoán nhiều khi được tiềm ẩn dưới bức
tranh phong cảnh hoặc chân dung. Tất cả phải ngắn gọn. Mô tả giữ vai trò quan
trọng trong nghệ thuật tự sự, tạo hiệu quả sự có mặt, tăng ảo giác như thật, nâng
tính biểu cảm. Sêkhốp hé lộ cách viết: “Tôi biết cách viết chỉ dựa theo hồi ức và
không bao giờ tôi viết từ mẫu tự nhiên trực tiếp. Tôi phải làm thế nào để ký ức
của tôi lọc cốt truyện và để cho, cũng như trong máy lọc, trong ký ức tôi chỉ còn
đọng lại cái quan trọng hoặc điển hình” (Thư 1897). Nhưng nhà nghiên cứu Xô
viết Truđacôp nhận xét ngược hẳn với điều nhà văn vừa nói. Theo Truđacôp,
Sêkhốp tiếp nối truyền thống không xây dựng các điển hình của Puskin và
L.Tônxtôi: “Nhân vật của Sêkhốp về nguyên tắc không có tính điển hình”,
Sêkhốp chú trọng cái cá nhân, ngẫu nhiên. Truđacôp coi truyện Người trong bao
có xây dựng điển hình là không tiêu biểu cho thi pháp Sêkhốp. Theo ý chúng tôi
Sêkhốp đã sáng tạo nhiều điển hình bất hủ trong những truyện ngắn bao quát cả
một đời người (Vận xấu, Người đàn bà phù phiếm, Iônưts, Câu chuyện tẻ nhạt,
Người trong bao, Khóm phúc bồn tử, Tu sĩ vận đồ đen, Phòng số 6). Có nhiều
truyện chỉ tả một khoảnh khắc, một quãng đời nhưng đã phát hiện ra tính cách
điển hình của nhân vật: sự vô cảm trước sắc đẹp và tình yêu của anh viên chức
trẻ (Vêrơsca) sự xa lầy quá sớm vào lối sống tầm thường và sự bừng ngộ của
chàng trai 26 tuổi (Thầy giáo dậy văn).
Truđacôp cũng đối lập hoàn toàn với Sêkhốp khi nói về cái ngẫu nhiên.
Theo Truđacôp, trong truyện Sêkhôp “Cái ngẫu nhiên tồn tại bên cạnh cái chủ
yếu và cùng với nó như một cái độc lập, ngang hàng. Cái ngẫu nhiên là bộ phận
không tách rời trong bức tranh thế giới của Sêkhốp”, cái ngẫu nhiên là cơ sở của
nguyên tắc kết cấu, xây dựng cốt truyện, “nguyên tắc ngẫu nhiên của miêu tả”,
Truđacôp coi ngẫu nhiên là dấu hiệu đặc trưng của thi pháp Sêkhốp: “đặc điểm
cơ bản của tự sự Sêkhốp là sự mô tả thế giới xung quanh thông qua ý thức tiếp
nhận cụ thể. Đặc điểm này trực tiếp gắn với nguyên tắc ngẫu nhiên của hệ thống
nghệ thuật Sêkhốp” .
Nhưng nhân vật của Sêkhốp nghĩ khác. Viên dự thẩm trẻ tuổi về làng quê
điều tra một vụ tự tử và suy nghĩ: “trong cuộc đời này, ngay ở nơi xa xôi, hiu
quạnh này, không có gì là tình cờ cả, tất cả đều có chung một ý nghĩa, tất cả đều
có chung một mục tiêu thế giới bên trong và để hiểu được điều đó, chỉ suy nghĩ,
luận bàn thôi không đủ, mà chắc là cần phải có biệt tài đi sâu vào nhận biết cuộc
sống mà không phải ai cũng có. Và cả “con bệnh thần kinh” bất hạnh tự hại
mình như lời Xtarsencô đã gọi, cả ông mõ già suốt đời ngày lại ngày, đi khắp
mọi nơi đều sẽ là những sự tình cờ, những mảnh xé rời của cuộc sống đối với ai
coi sự tồn tại của mình là tình cờ, nhưng lại sẽ là những bộ phận hợp thành của
một cơ cấu diệu kỳ, hợp lý đối với những ai coi cuộc đời mình là một bộ phận
của cái toàn thể và hiểu rõ điều đó” (Một chuyến công vụ 1898). Có thể nói suy
nghĩ của nhân vật trong truyện ngắn này rất gần với quan điểm của chính
Sêkhốp: “Nói chung hành vi của các nhân vật của Anh thường thiếu lô gích, ấy
vậy mà trong nghệ thuật cũng như trong cuộc sống chẳng có gì tình cờ cả”
(Thư gửi B.A.Xađôpxki, 1904).
Sêkhốp hiểu rõ sự gần gũi và ảnh hưởng qua lại tốt đẹp giữa văn học và
khoa học: “Tôi không nghi ngờ gì rằng công việc của khoa y học đã có ảnh
hưởng đáng kể tới hoạt động văn học của tôi; các công việc đó đã mở rộng đáng
kể lĩnh vực quan sát của tôi, làm cho kiến thức của tôi phong phú, giá trị của các
kiến thức đó đối với tôi ra sao, với tư cách một nhà văn, thì chỉ có chính bác sĩ
mới có thể hiểu hết được; các công việc đó cũng có ảnh hưởng định hướng và có
lẽ, nhờ gần gũi y học tôi đã tránh được nhiều sai lầm. Sự làm quen với các khoa
học tự nhiên, với phương pháp khoa học luôn luôn giúp tôi cảnh giác và tôi đã
cố gắng ở chỗ nào có thể, lưu tâm tới các dữ liệu khoa học, còn ở chỗ nào không
thể thì thà hoàn toàn không viết gì cả còn hơn. Nhân tiện cũng xin lưu ý rằng
điều kiện của sáng tạo nghệ thuật không phải bao giờ cũng phù hợp hoàn toàn
với những dữ liệu khoa học. Không thể miêu tả trên sân khấu cái chết vì thuốc
độc như nó xẩy ra trên thực tế. Nhưng ta vẫn phải cảm thấy sự phù hợp với các
dữ liệu khoa học ngay trong tính ước lệ đó, nghĩa là cần phải làm thế nào để bạn
đọc hoặc khán giả hiểu rõ rằng đây chỉ là ước lệ và họ đang tiếp xúc với một nhà
văn hiểu biết. Tôi không thuộc vào số các nhà văn phủ nhận khoa học, nhưng tôi
cũng không muốn thuộc vào số người dùng lý trí của mình để thâm nhập tất cả”
(Thư 1899). Như vậy nhà văn phải khéo vận dụng, kết hợp cả phương pháp khoa
học và cách sử dụng ước lệ, cả lý trí và linh cảm: “linh cảm của nghệ sĩ đôi khi
có giá trị như trÝ óc nhà bác học, cả hai đều có một mục đích, một bản chất và
có lẽ với thời gian, khi các phương pháp được hoàn thiện, chúng sẽ hoà hợp
thành sức mạnh khổng lồ khủng khiếp, khó hình dung nổi lúc này…”.
Giới y học, thầy thuốc, bệnh viện, bệnh tật là đối tượng quan trọng trong
thế giới nghệ thuật Sêkhốp. Ông miêu tả tài tình diễn biến nhiều căn bệnh phức
tạp như tâm thần phân liệt (Phòng số 6, Người tu sĩ vận đồ đen) Nhiều bác sĩ là
nhân vật trung tâm trong truyện ngắn (Người đàn bà phù phiếm, Hai kẻ thù,
Phòng số 6, Iônưts…) Sêkhốp luôn xác định chính xác tuổi của các nhân vật và
đó là cơ sở giúp bạn đọc hình dung ra tâm sinh lý nhân vật. Cách viết ngắn gọn
của Sêkhốp chắc hẳn cũng gắn với phương pháp khoa học của ông.
Sêkhốp bị coi là “ca sĩ của những cái vặt vãnh”, “ca sĩ của đời thường”.
Gạt bỏ hàm ý mỉa mai, chê trách, đó là những cảm nhận đúng, về đặc điểm tự sự
Sêkhốp. Công lao của Sêkhốp trong truyện ngắn cũng như trong kịch là ở chỗ ông
đưa nghệ thuật xích gần lại cuộc sống. Ông từng nói: “Hãy làm sao cho trên sân
khấu tất cả sẽ vừa phức tạp và cũng vừa đơn giản như trong cuộc sống. Người ta
ăn, chỉ ăn thôi, ấy vậy mà trong lúc đó hạnh phúc của họ hình thành và cuộc đời
của họ tan vỡ”. Trong truyện ngắn Sêkhốp không có cuộc sống cô đọng, căng
thẳng, gấp gáp, tất cả đều bàng bạc, rời rạc, chậm rãi, có cả chi tiết thừa thãi, tình
cờ. M.Gorki đã tinh tường nhận thấy: “Không ai hiểu được một cách rõ ràng và
tinh tế cho bằng Antôn Paplôvích cái chất bi kịch của những chuyện vặt vãnh trong
cuộc sống, trước anh chưa hề có ai vẽ ra được trước mắt người đời một cách chân
xác đến tàn nhẫn như vậy cái cảnh nhục nhã đáng buồn của đời họ trong cõi hỗn
mang tối tăm của cuộc sống trưởng giả hàng ngày”.
Sêkhốp chủ trương “cốt truyện càng đơn giản càng tốt” Ông không nhấn
mạnh các biến cố. Ngay ở những truyện có biến cố lớn, gay cấn, Sêkhốp cũng
không dùng giọng điệu gay gắt và mầu sắc đậm để gây ấn tượng (Hai kẻ thù,
Phòng số 6, Trong khe núi). Sêkhốp không chú trọng vào xung đột nổi trong
truyện mà dụng công xây dựng xung đột chìm bằng cách tăng ý nghĩa tượng
trưng của từng chi tiết, tạo dòng chảy ngầm, mạch ngầm văn bản, chất trữ tình
của văn tự sự. Nhà văn A.Belưi cho rằng chủ nghĩa hiện thực của Sêkhốp gần
chủ nghĩa tượng trưng và nhận xét: “Trong các chi tiết vặt vãnh của Sêkhốp có
một bí số gì đó”. Câu đầu của truyện thường đi thẳng vào việc, nêu thời gian, địa
điểm. Có những câu cực ngắn: “Đêm đã khuya” (Buồn ngủ), “Bữa tiệc kết thúc”
(Vở kịch vui), “Lúc ấy đã nhọ mặt người” (Nỗi nhớ). Với câu kết Sêkhốp muốn
tập trung trong bạn đọc ấn tượng về toàn truyện và để làm được điều đó nên
nhắc lại dù là thoảng qua, đôi chút về những người trước đó đã nói tới”. Có
những kết thúc nói lên sự bế tắc, thúc đẩy tìm một cuộc sống khác: “Bỏ nhà mà
đi rồi treo cổ lên cành dương nào cho xong!” (Vé trúng số), “Không, không thể
sống như thế mãi được” (Người trong bao), “Phải trốn khỏi nơi đây, trốn ngay
hôm nay nếu không tôi sẽ phát điên lên mất” (Thầy giáo d¹y văn). Có những kết
thúc gợi hy vọng về một cuộc sống mới: “Cuộc sống ấy rồi sẽ ra sao?” (Thảo
nguyên), “Có cảm giác rằng chỉ một lát nữa thôi, không cần nhiều lắm, là lối
thoát sẽ được tìm ra và lúc ấy, một cuộc đời hoàn toàn mới, thật đẹp đẽ sẽ đến,
nhưng cả hai người đều thấy rõ rằng, còn xa lắm xa lắm mới đến ngày kết cục và
những gì rắc rối nhất, khó khăn nhất chỉ vừa mới bắt đầu” (Người đàn bà có con
chó nhỏ) Đây là một kết thúc mở rât tiêu biểu cho truyện ngắn Sêkhốp. Cuộc đời
còn dài và đòi hỏi rất nhiều nghị lực và ý chí vươn lên của con người. Sêkhốp
cho biết: “Tôi luôn luôn làm phần kết trong bản in thử” (Thư 1896) và ông rất
chú ý đến nhạc điệu của phần kết.
Miêu tả nhân vật chiếm vị trí quan trọng trong truyện Sêkhốp và nghệ
thuật tả người của ông rất độc đáo: “Trong tâm lý cũng có những tiểu tiết. Cầu
Chúa giúp tránh khỏi những lối nói chung chung. Tốt hơn hết là tránh miêu tả
tâm trạng các nhân vật; cần phải cố làm sao để tâm trạng đó được hiểu qua hành
động của các nhân vật. Không nên chạy theo việc có nhiều nhân vật…” Sêkhốp
không trực tiếp miêu tả tâm lý nhân vật như Đôxtôiepxki, L.Tônxtôi nhưng ông
vẫn rất quan tâm thể hiện tâm lý nhân vật theo cách riêng của mình, qua hành
động, đối thoại, cảm nhận thiên nhiên và qua cả chân dung nữa. Ông rất chú
trọng dựng chân dung nhân vật và thường không vẽ ngay một lúc. Chân dung
giúp ta hình dung rõ nhân vật, nắm bắt tâm lý của nó. Nhà văn luôn đứng cao
hơn nhân vât: “Chị cho rằng các nhân vật của tôi ảm đạm. Chao ôi, đó không
phải là lỗi của tôi! Cái đó bất giác xảy ra ở tôi và khi viết dường như tôi không
viết một cách ảm đạm. Trong bất kỳ trường hợp nào, khi làm việc, tôi luôn luôn
có tâm trạng tốt” và “Khi viết Tu sĩ vận đồ đen tôi không có bất kỳ ý nghĩ buồn
bã nào, mà viết theo suy nghĩ lạnh lùng; Đơn giản là tôi muốn tả bệnh vĩ cuồng”.
Sêkhốp là họa sĩ vẽ phong cảnh rất giỏi và độc đáo. Không rộng lớn như
phong cảnh của Turghênhep, đặc biệt là của L.Tônxtôi, phong cảnh của Sêkhốp
được vẽ ra chỉ bằng vài chi tiết rất sắc nét. Ông chống khuôn sáo và mong ước
sau khi đọc, bạn đọc nhắm mắt lại vẫn hình dung được phong cảnh đó. Phương
châm của ông là: “Tả thiên nhiên phải sinh động, đúng chỗ, ngắn”, “Vẻ đẹp và
tính biểu cảm trong tả thiên nhiên đạt được nhờ sự giản dị”. Sêkhốp cho biết
nhiều người khen truyện Cơn bệnh thần kinh, nhưng chỉ có nhà văn lão thành
Grigôrôvich “để ý tới việc miêu tả tuyết đầu mùa”. Phong cảnh trong truyện
Sêkhốp thường được cảm nhận qua tâm trạng nhân vật và thể hiện cái nhìn của
người kể chuyện. Đó là một phong cảnh có hồn. Tuy vậy vẫn có phong cảnh chỉ
để tạo dựng không khí chân thực và cả phong cảnh thư giãn: “Đôi khi phải cho
bạn đọc nghỉ ngơi xa nhân vật và xa tác giả. Phong cảnh, cái gì đó vui nhộn, một
mở nút mới, những nhân vật mới có ích cho việc nghỉ ngơi đó”.
M.Gorki coi Sêkhốp là bậc thầy về ngôn ngữ: “Về phong cách, Sêkhốp là
một nhà văn không ai vượt nổi và nhà văn học sử đời sau khi nói đến sự phát
triển của tiếng Nga sẽ nói rằng ngôn ngữ này là do Puskin, Turghênhep và
Sêkhốp xây dựng nên”. Sêkhốp cho rằng “văn hoá càng cao, ngôn ngữ càng
phong phú”, “Ngôn ngữ phải giản dị và đẹp”, có “tình họ hàng bền chặt giữa câu
thơ Nga đậm đà và văn xuôi đẹp”. Ông để nhiều công sức trau dồi ngôn ngữ:
“Phải làm sao để mỗi câu trước khi nằm trên giấy thì đã nằm trong óc mình hai
ngày và trơn chu”, “chị không chăm lo câu văn, phải chăm lo chứ, vì đó là nghệ
thuật.” Sêkhốp khuyên Gorki không nên dùng câu phức hợp mà dùng câu ngắn.
Nhà văn Xô viết A.Tônxtôi nhận ra sức mạnh của ngôn ngữ Sêkhốp: “Tôi đã
đọc lại Sêkhốp. Bí mật những từ ngữ sinh động của ông nằm ở đâu? Đằng sau
mỗi câu là một con người sinh động, hơn thế, một điển hình, hơn thế, một thời
đại…”.
Người kể chuyện có vai trò rất quan trọng trong nghệ thuật tự sự vì nó
gắn với giọng điệu, điểm nhìn và cách dẫn chuyện. Mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm
đều có kiểu người kể chuyện riêng của mình. Là một thủ pháp nghệ thuật, người
kể chuyện được xác định theo ngôi kể chuyện (ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba)
tương quan giữa tính chủ quan và tính khách quan trong miêu tả và tương quan
giữa ba yếu tố: quan điểm nhân vật, thái độ người kể chuyện và lập trường nhà
văn.
Sêkhốp có tiêu chuẩn của mình về đánh giá tác phẩm văn học: “Tôi chia
tất cả các tác phẩm thành hai loại: những tác phẩm tôi thích và những tác phẩm
tôi không thích” tuy ông chưa cắt nghĩa được vì sao mình thích Sêcxpia. Năm 26
tuổi, trong thư gửi anh trai, Sêkhốp nói về sáu tiêu chuẩn tác phẩm hay: “1)
Không tuôn ra những từ ngữ dài dòng về chính trị - kinh tế - xã hội; 2) Tính
khách quan hoàn toàn; 3) Tính chân thực trong miêu tả các nhân vật và sự vật;
4) Ngắn gọn, cô đọng; 5) Táo bạo và độc đáo, tránh khuôn sáo; 6) Chân thành”.
Trong một bức thư khác Sêkhốp viết: “Tính độc đáo của tác giả không chỉ nằm
trong phong cách mà cả trong tư duy trong các quan điểm và những cái khác”.
Có thể thấy Sêkhốp nhấn mạnh tính khách quan, tính chân thực trong mô tả và
cách mô tả độc đáo, ngắn gọn, chân thành, không khuôn sáo. Ông coi trọng cả
cái tâm và cái tài của nhà văn.
Trong thời kỳ sáng tác đầu, vào nhữn năm 80 thế kỷ XIX, Sêkhốp bị chê
trách là khách quan đến lạnh lùng, thiếu thế giới quan. Nghệ thuật tự sự độc đáo
của ông chưa được hiểu đúng. Đây là quan điểm của Sêkhốp về tính khách quan
chân chính, đúng đắn trong nghệ thuật: “Anh xỉ vả tôi vì tính khách quan, coi đó
là sự thờ ơ trước Thiện, Ác, thiếu lý tưởng và tư tưởng… Anh muốn rằng khi
miêu tả bọn ăn trộm ngựa tôi phải nói: trộm cắp ngựa là xấu(…) Cố nhiên thật
thích thú nếu kết hợp được nghệ thuật và thuyết giáo, nhưng đối với cá nhân tôi
điều này cực kỳ khó và hầu như không thể làm được do điều kiện kỹ thuật. Bởi
vì để mô tả bọn trộm ngựa trong 700 dòng, tôi luôn luôn phải nói và nghĩ theo
giọng điệu và cảm xúc theo tinh thần của chúng, nói một cách khác, nếu như tôi
đưa thêm tính chủ quan vào thì các hình tượng sẽ mờ nhạt và truyện ngắn sẽ
không cô đọng như tất cả các truyện ngắn gọn cần phải thế. Khi viết tôi hoàn
toàn tin cậy ở bạn đọc, những yếu tố chủ quan còn thiếu trong truyện, chính họ
sẽ thêm vào.” (Thư gửi A.X.Xuvôrin năm 1890) Như vậy nhà văn không được
tuỳ tiện, áp đặt đối với các nhân vật trong tác phẩm mà “luôn luôn phải nói và
nghĩ theo giọng điệu của chúng, cảm xúc theo tinh thần của chúng”.
Một phương diện quan trọng nữa trong nghệ thuật tự sự là lập trường của
nhà văn: “Trong các cuộc trò chuyện với anh em viết văn, tôi luôn nhấn mạnh
rằng công việc của nghệ sĩ không phải là giải quyết những vấn đề chuyên môn
hẹp. Đối với những vấn đề chuyên môn, ở ta có các chuyên gia; công việc của
họ là xét đoán về công xã, về số phận của tư bản, về cái hại của nạn nghiện
rượu, về giầy dép, về bệnh tật phụ nữ… Nghệ sĩ chỉ nên xét đoán về điều gì anh
ta hiểu biết; phạm vi của anh ta cũng có hạn như phạm vi của bất kỳ chuyên gia
nào (…), Anh đúng khi đòi hỏi nghệ sĩ phải có ý thức đối với công việc, nhưng
Anh nhầm lẫn hai khái niệm: giải quyết vấn đề và đặt đúng vấn đề. Chỉ có điểm
sau là bắt buộc đối với nghệ sĩ. Trong Anna Karênina và trong Ônêghin không
giải quyết vấn đề gì cả, nhưng chúng vẫn hoàn toàn làm Anh vừa lòng chỉ bởi vì
mọi vấn đề trong đó đều đước đặt đúng. Toà án buộc phải đặt vấn đề cho đúng
còn hãy để các dự thẩm giải quyết vấn đề mỗi người theo ý riêng” (Thư gửi
A.Xuvôrin, 1888).
Sêkhốp còn bày tỏ quan điểm một cách quyết liệt hơn khi bàn về câu nói
của nhân vật trong truyện Những ngọn lửa in năm 1888: “Nghệ sĩ không nên là
quan toà đối với các nhân vật của mình và những điều chúng nói mà chỉ nên là
người chứng kiến vô tư (…) Sêglôp Lêônchiep trách móc tôi đã kết thúc truyện
ngắn bằng câu: “Ta chẳng hiểu quái gì trên thế gian này!” Theo ý anh ấy thì
nghệ sĩ – nhà tâm lý phải hiểu, có thế mới là nhà tâm lý. Nhưng tôi không đồng
ý với anh ấy. Những người viết, đặc biệt là các nhà văn, đã đến lúc phải thừa
nhận rằng trên thế gian này anh chả hiểu quái gì cả như có lúc Xocrat đã thừa
nhận và như Vônte đã thừa nhận. Đám đông nghĩ rằng họ biết hết mọi thứ, hiểu
hết mọi thứ; và họ càng ngu xuẩn thì dường như tầm nhìn của họ càng rộng hơn.
Nếu như nghệ sĩ mà đám đông tin tưởng quyết định tuyên bố rằng anh ta chẳng
hiểu gì về những điều nhìn thấy, thì chỉ riêng điều đó tạo ra sự hiểu biết lớn lao
trong lĩnh vực tư tưởng và là bước tiến lớn về phía trước” (Thư gửi A.Xuvôrin,
1888). Như thế là Sêkhốp hoàn toàn tán thành tư tưởng của nhân vật trong
truyện Những ngọn lửa và vì thế mà bị phê phán: “Nhưng ông tỏ ra không triệt
để khi cho rằng không thể lĩnh hội bản chất các hiện tượng”. Nhưng sang thế kỷ
XX và đầu thế kỷ XXI, khi nghệ thuật đề cao đối thoại và tinh thần dân chủ thì
quan điểm của Sêkhốp lại tỏ ra vô cùng sáng suốt và có tính tiên tri. Sêkhốp
không tuyệt đối hoá một tư tưởng nào. Từ năm 27 tuổi, Sêkhốp đã cho rằng:
“Mọi cái trên thế gian này đều tương đối và gần đúng” (Thư gửi M.B.Kixêlêva,
1887). Nhân vật trong Quyết đấu nói: “Không ai biết được sự thật đích thực”.
Đọc Sêkhốp cần chú ý tới sự đối thoại cởi mở giữa quan điểm của nhân vật, thái
độ người kể chuyện (nói và nghĩ theo giọng điệu nhân vật, cảm xúc theo tinh
thần nhân vật) và tư tưởng của tác giả. Sêkhốp luôn tin chắc rằng Mà trong lẽ
phải có người cã ta (Nguyễn Du). Vì thế Truđacôp đưa ra nhận xét rất đáng chú
ý về “tính chất không hoàn tất, dao động, phi giáo điều của tư tưởng trong hệ
thống nghệ thuật của Sêkhốp”.
Rất yêu cái đẹp, mong ước tả các điển hình tích cực, nhưng trong “Thời
buổi ốm đau” khi “nhà văn không phải là thợ làm bánh kẹo, người trang điểm,
kẻ mua vui”, Sêkhốp buộc phải khuấy bút vào “vũng bùn cuộc đời”. Tuy tả cái
tiêu cực nhưng Sêkhốp tin rằng “các nhà văn hiện thực thường có đạo đức hơn
cả các đại giáo chủ” bởi vì “có những người càng làm quen với vũng bùn cuộc
đời càng trở nên trong sạch hơn” (Thư gửi A.Xuvôrin, 1888).
Ngòi bút Sêkhốp luôn hưóng về tương lai và có sức thức tỉnh, dự báo rất
lớn: “Anh hãy nhớ rằng các nhà văn mà chúng ta gọi là vĩnh cửu hay chỉ đơn
giản là những người viết hay và những người làm ta say mê đều có một dÊu
hiệu chung rất quan trọng: họ đi đâu đó và kêu gọi Anh đi theo và Anh cảm thấy
không phải bằng lý trí mà bằng toàn bộ con người mình rằng họ có một mục
đích nào đấy (…) Những người ưu tú trong bọn họ có tính hiện thực và họ viết
về cuộc sống như nó vốn có nhưng vì mỗi dòng đều thấm đẫm mục đích như
thấm nhựa, nên ngoài cuộc sống như nó vốn có, Anh còn cảm thấy cuộc sống
như nó cần phải có và điều đó quyến rũ Anh” (Thư gửi A.Xuvôrin, 1892).
Sức sống của truyện ngắn Sêkhốp hàng trăm năm qua chứng tỏ cái mới
của nó. Sêkhốp “đã đẩy hình thức tiến lên phía trước” (L.Tônxtôi). Còn Sêkhốp
có phải là nhà cách tân truyện ngắn không – đó là vấn đề còn bỏ ngỏ dành cho
các đối thoại và khám phá trong tương lai.
Bài viết nhân dịp kỷ niệm
100 năm ngày mất A.P.Sêkhốp
Hà Nội - 2004

Anton Pavlovich ChekhovI. Tiểu sử

Chekhov sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 (lịch Julian: 17 tháng 1 năm 1860) ở
thị trấn Taganrog miền nam nước Nga, nơi cha ông
làm chủ một cửa hiệu tạp hóa nhỏ. Năm 1879, ông
theo học ngành y tại Đại học Quốc gia Moskva. Ở
đây, ông bắt đầu vẽ biếm họa cho một số tạp chí hài
để hỗ trợ gia đình. Sau khi tốt nghiệp năm 1884,
Chekhov hành nghề y nhưng vẫn tiếp tục sáng tác.
Đến năm 1887, văn tài của ông đã được chấp nhận
rộng rãi, và việc sáng tác không cho phép ông dành
nhiều thì giờ cho y khoa.

Thời kỳ từ 1886 đến 1888 là giai đoạn Chekhov


chuyển tiếp từ thể loại truyện ngắn khôi hài dưới
1.000 chữ qua những truyện ngắn dài hơn, có chủ đề nghiêm túc hơn và văn
phong chững chạc hơn. Những truyện ngắn trong thập niên 1890 đem lại một cái
nhìn rộng lớn về xã hội nước Nga cuối thế kỷ 19, miêu tả sự chính xác về xã hội
của cuộc đời những nông dân, trí thức, tư thương, giáo sĩ, phụ nữ và trẻ em
trong những bối cảnh có tính phổ cập và bất biến với thời gian.

Chekhov bị bệnh lao, và năm 1897 phải dời đến cư ngụ ở vùng ấm áp Yalta,
nằm kề Biển Đen. Năm 1901, ông kết hôn với nữ diễn viên Olga Leonardovna
Knipper. Trong thời gian này, sức khỏe của ông đi xuống dần. Ông qua đời năm
1904
ở khu nghỉ mát Badenweiler tại Đức trong khi đang tìm cách chữa trị.

II. Tác phẩm

Ông ngồi với Maxim Gorkyở Yalta năm 1900

Mộ của ông ở Nghĩa trang Novodevichy, MoskvaHải


âuChekhov bắt đầu được biết đến ở Anh Quốc qua những bản dịch xuất bản
trong thời gian 1916–1926. Đặc biệt, các vở kịch của ông rất được ưa thích
trong thập niên 1920, và đã trở nên những dàn dựng kinh điển trên sân khấu Anh
quốc. Ảnh hưởng của ông sau đấy lan đến Mỹ. Những kịch tác gia Mỹ, như
Tennessee Williams, Arthur Miller và Clifford Odets, đã sử dụng thuật tạo dựng
kịch nghệ của ông. Có thể nói có rất ít nhà văn truyện ngắn trong thế kỷ 20 hoàn
toàn thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Chekhov.

Người đàn bà và con chó nhỏNhận định tổng quát

Chekhov được xem như là người đã nâng thể loại truyện ngắn lên một tầm cao
mới trong nền văn học Nga, và dần dần trong nền văn học của thế giới. Với cái
nhìn trầm tĩnh, trung thực về những nhân vật, Chekhov thể hiện nội tâm và cảm
nghĩ của họ một cách gián tiếp, qua ẩn dụ thay vì miêu tả trực tiếp. Những cấu
kết trong truyện của ông thường giản dị, và kết cục thường được để ngỏ thay vì
là chung quyết. Những tác phẩm của Chekhov biểu hiện sâu xa ẩn lấp dưới bề
mặt cuộc đời thường của những con người bình thường.

Về mặt nghệ thuật truyện ngắn của Chekhov có chiều sâu tâm lý rất lớn, lột tả
rất xác thực các tinh tế nội tâm đặc trưng của các tầng lớp người Nga thế kỷ 19
nhất là thành phần thị dân, trí thức trung lưu và thợ thuyền trong các thành phố
đang hình thành của nước Nga, nên có thể nói Chekhov là nhà văn của tầng lớp
thành thị Nga. Ngôn ngữ của truyện ngắn Chekhov rất tinh tế đã nâng tiếng Nga
lên tầm hiện đại và làm giàu rất nhiều cho loại ngôn ngữ này. Ông là nhà văn đã
để lại ảnh hưởng rất lớn lên văn học và văn hoá Nga cũng như trong văn học thế
giới.

Một số truyện ngắn

• Phòng bệnh số 6 (Палата № 6)


• Dấu chấm than
• Một chuyện đùa
• Con kỳ nhông (Хамелеон)
• Cái chết của một viên chức (Смерть чиновника)
• Anh béo anh gầy (Толстый и тонкuй)
• Một chuyến đi
• Người đàn bà và con chó nhỏ
• Vôlôđia
• Phẫu thuật
• Vé trúng số
• Những buổi học đắt tiền
• Người trong bao (Человек в футляре)
• Một tấn kịch
• Hai người đẹp
• Thảo nguyên (Степь)
• Công nương (Княгиня)
• Những đốm lửa
• Mặt nạ (Маска)
• Câu chuyện buồn tẻ (Скучная история), truyện ngắn
• Nỗi khổ (Горе), truyện ngắn
• Người đàn bà nông nổi (Попрыгунья), truyện ngắn
• Những người nông dân (Мужики), truyện ngắn
• Trong khe núi (В овраге) truyện ngắn

Các vở kịch

• Ba chị em (Три сестры), kịch


• Vườn anh đào (Вишневый сад), kịch
• Hải âu (Чайка), kịch
• Cậu Vania (Дядя Ваня), kịch
• Mồ côi cha (Безотцовщина), kịch
• Cầu hôn (Предложение), kịch
• Con gấu (Медведь), kịch

III. Tư liệu tham khảo

Antôn Pavlôvits Sêkhôp: Người nghệ sĩ của cuộc sốngAntôn Pavlôvits


Sêkhôp là một trong những nhà văn đại diện vĩ đại của chủ nghĩa hiện thực phê
phán văn học Nga. Ông là cây bút thiên tài về truyện ngắn và kịch. Đến nay,
nhân loại vẫn gọi ông là "nhà văn làm ta muôn thuở say mê".
Với 24 năm lao động nghệ thuật cần mẫn, Sêkhôp đã để lại một di sản văn học
phong phú, độc đáo, lột tả sâu sắc, chân thực cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của
nhân dân Nga với bút pháp chủ nghĩa hiện thực phê phán, làm cho mọi người
thấy được tất cả sự khủng khiếp của cuộc sống cũ nhỏ nhen, trì trệ và thức dậy
trong lòng người đọc khát vọng về một sự thay đổi lớn lao cần phải có.

Có thể nói Sêkhôp là bậc thầy của thể loại truyện ngắn, một thể loại tưởng
chừng như đơn giản nhưng đã làm nản lòng không ít nhà văn. Hiếm nhà văn nào
có khối lượng truyện ngắn đồ sộ và đặc sắc như Sêkhốp với gần 500 truyện
ngắn, chính ông là người đã nâng thể loại truyện ngắn tới mức hoàn thiện, mở
lối khơi đường với cách viết độc đáo, sáng tạo. Toàn bộ truyện ngắn của Sêkhốp
là bức tranh liên hoàn gồm nhiều mảng nhỏ hợp lại dựng lên chân dung xã hội
Nga những năm cuối thế kỷ XIX. Truyện của Sêkhốp nhìn chung thường đơn
giản về phương diện kết cấu, ngắn gọn, trau chuốt về phương diện ngôn ngữ.
Người đọc nhận ra trên những trang viết của ông giọng khách quan lạnh lùng
xen lẫn đồng cảm, sẻ chia, giọng trữ tình đầy chất thơ xen lẫn chất hài hước.
Sêkhốp chủ trương miêt tả cuộc sống một cách chân thực khách quan song ông
hoàn toàn không dửng dưng đối với những gì ông viết. Bàng bạc khắp truyện là
một tâm sự âm thầm, một ước mong khắc khoải, một khát vọng lay chuyển cuộc
sống. Thái độ tình cảm của Sêkhôp bộc lộ một cách kín đáo, nhiều khi không thể
bộc lên bằng âm thanh, từ ngữ mà chỉ “cảm” thấy qua toàn bộ những gì làm nên
tác phẩm. M.Gorki đã nhận xét rất có lý rằng: Đọc Sêkhôp, chúng ta thấy
“phảng phất đâu đây nụ cười buồn buồn của một tâm hồn biết yêu thương”,
“tiếng thở dài khẽ mà sâu của một trái tim trong sạch”.

Antôn Sêkhôp là một nghệ sĩ lớn, giữa ranh giới hai thế kỷ, đã góp phần mở ra
một thời kỳ mới trong sự phát triển của văn học Nga. Sáng tác của Sêkhôp đã
vươn tới những giá trị nhân đạo cao cả và trở thành di sản quý báu trong nền văn
hóa nhân loại. Các tác phẩm của ông gợi lên dòng phản kháng đầy căm hờn đối
với xã hội Nga đương thời, thức tỉnh tư tưởng xã hội, nêu lên khát vọng của một
bộ phận tiên tiến trong xã hội Nga trước cách mạng, niềm dự cảm say sưa về
trận bão táp tương lai sẽ quét sạch cuộc sống cũ, mở đường cho cuộc sống mới
đi lên. Cảm hứng lạc quan cách mạng trong tác phẩm Sêkhôp đã chuẩn bị cho
bước chuyển hướng mạnh mẽ qua nền văn học vô sản tràn ngập sức sống mãnh
liệt.

Sêkhôp không chỉ là nhà cách tân trong truyện ngắn mà còn cống hiến lớn lao
vào ngành kịch Nga. Bước vào lãnh vực này, Sêkhôp đã tiếp tục những truyền
thống ưu tú nhất về kịch theo chủ nghĩa hiện thực phê phán, đồng thời nâng kịch
Nga lên một chất lượng mới. Tình yêu sân khấu từ những năm tuổi trẻ và khát
vọng khái quát hóa về mặt nghệ thuật toàn bộ cuộc sống đã thôi thúc ông say
mê, gắn bó với kịch.

Nói về Sêkhốp, nhà văn Nguyễn Tuân bộc bạch: " Sêkhốp là con chim linh điểu
của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại nước Nga xưa, Sêkhốp là cánh diều sáo vĩ
đại, trên đôi cánh âm vang tiếng nói của hiện thực và nhịp thơ của lãng mạn.
Sêkhốp là bậc thầy của tiếng Nga, tên tuổi ông sáng chói trong lâu đài của Chủ
nghĩa nhân đạo."
Sêkhôp xứng đáng là “một nghệ sĩ vô song”, "nghệ sĩ của cuộc sống”
(L.Tônxtôi).

N.B2.

Câu chuyện tình hay nhất của văn hào Sêkhốp


qua 800 bức thư

Văn hào Antôn Sêkhốp và Onga Kníppe800 bức thư


trong 5 năm trời.Họ đề cập đến những gì trong các bức thư?(“Hôm nay anh
ăn súp và trứng, anh không thể chịu nổi thịt cừu nữa”).(“Em cảm thấy thật xấu
hổ khi dám tự gọi mình là vợ anh”).“anh yêu”, “anh thương mến”,“Con mèo
nhỏ của anh”, “Con ngựa nhỏ của anh”)“Tài năng viết kịch của anh đã
cạn”.“Được, tôi sẽ lấy vợ nếu anh muốn thế”“Tôi không có khả năng làm một
việc phức tạp và khó hiểu như hôn nhân, và vai trò người chồng khiến tôi hoảng
sợ”Vũ Việt -Theo Guardian3.

Thầy giáo Bê-li-cốp đáng thương!Người trong baoThe man in a caseNgười


trong baoTruyện có một cốt truyện lồng : truyện của thầy giáo Bu-rơ-kin kể về
thầy giáo Bê-li-cốp được lồng trong câu chuyện của nhà văn. Nhà văn giới thiệu
với chúng ta hai nhân vật : bác sĩ I-van I-va-nứt và thầy giáo Bu-rơ-kin đi săn,
về trễ, phải ngủ lại trong một nhà kho ở cuối làng. Vì nóng nực, không ngủ
được, hai người kể cho nhau nghe hết chuyện này sang chuyện khác. Và, thầy
giáo Bu-rơ-kin đã kể cho bác sĩ I-van I-va-nứt nghe chuyện về thầy giáo Bê-li-
cốp. Câu chuyện, vì thế, có tính khả tín cao, có tính chân thật nghệ thuật cao :
thầy giáo kể về thầy giáo, họ lại dạy cùng trường, ở cùng căn hộ, hai phòng ở
đối diện nhau.

Qua lời kể trầm buồn của thầy giáo Bu-rơ-kin, hình tượng nhân vật thầy giáo
Bê-li-cốp dần dần hiện ra. Cần lưu ý là lúc này thầy giáo Bê-li-cốp đã qua đời
hai tháng. Dân gian ta nói : "Nghĩa tử là nghĩa tận". Người Nga chắc cũng như
thế.

Thầy giáo Bê-li-cốp có cái vẻ bề ngoài không giống ai. Lúc nào thầy cũng đi
giày cao su, mặc áo bành tô, đeo kính râm, đội mũ, hai lỗ tai nhét bông, tay cầm
dù,... Các vật dụng của thầy đều được để trong bao. Thầy giáo Bu-rơ-kin cho
rằng cuộc sống làm cho thầy giáo Bê-li-cốp sợ hãi, khó chịu, thường xuyên lo âu
nên thầy giáo Bê-li-cốp phải che chắn mình kĩ lưỡng như thế.

Thầy giáo Bê-li-cốp không thích nghi được với hiện thực xã hội, với cuộc sống
đang diễn ra. Thầy giáo Bê-li-cốp đã trốn vào quá khứ, trốn vào tiếng Hi Lạp mà
thầy giảng dạy. Cả những ý nghĩ của mình, thầy giáo Bê-li-cốp cũng cố giấu vào
"bao". Đối với thầy giáo Bê-li-cốp,chỉ có những chỉ thị, thông tư, những cấm
đoán ... mới là điều đáng quan tâm.

Với cung cách sống như thế, thầy giáo Bê-li-cốp đã khiến mọi người e ngại, sợ
sệt, xa lánh. Và cuối cùng, có thể vì chấn thương khi bị Cô-va-len-cô xô ngã
xuống cầu thang, có thể vì đói khát, có thể vì u uất ... mà thầy giáo Bê-li-cốp đã
qua đời một cách lặng lẽ.

Người trong baochủ yếu làNgười trong baoCăn bệnh phổ biến của giới trí
thức là hèn. Họ biết tất cả, họ hiểu tất cả nhưng để sống còn, để tồn tại, để gia
đình, vợ con được yên ổn, họ làm như không biết, họ hèn. Trừ những kẻ xu nịnh
nhà nghề, người trí thức còn có lương tâm, họ biết tên vua đó là ngu dốt nhưng
đôi khi họ vẫn phải nói : "Bệ hạ thật anh minh !", họ biết tên vua đó là ác độc
nhưng đôi khi họ vẫn phải nói : "Bệ hạ thật nhân từ !". Có thể sau đó họ chửi
thầm : "Thằng vua ngu !", "Thằng vua độc ác !".

Người trong baoĐọc truyện, chúng ta thấy thầy giáo Bê-li-cốp vừa đáng trách
nhưng cũng vừa đáng thương. Cái đáng thương có lẽ nhiều hơn cái đáng trách
bởi vì thầy giáo Bê-li-cốp vừa là sản phẩm vừa là nạn nhân, một nạn nhân bi
thảm, của cái xã hội ngột ngạt, ngu xuẩn ấy.

Người trong baoCác chế độ đoán, chuyên quyền thường có xu hướng làm cho
nhân dân của nó trở nên hèn nhát. Bởi vì sự ươn hèn, bạc nhược ấy "giúp" nó dễ
dàng thống trị, dễ dàng ức hiếp, đễ dàng chà đạp.

Và, thầy giáo Bê-li-cốp, vì thế, thật đáng thương !

Phan Thành KhươngCách thức tổ chức mạch ngầm trong văn bản qua truyện
ngắn Iônứts của A. Sêkhôv

A.Sêkhốp là đại diện cuối cùng cho nền văn học Nga thế kỷ XIX. Ông sống
một cuộc đời thật ngắn ngủi và ra đi lúc đương độ tài năng. Với khoảng 25 năm
cầm bút Sêkhốp đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và làm được những
việc mà nhiều nhà văn cầm bút lâu hơn chưa hẳn đã thành công. Sêkhốp. Đó là
cách tân kịch và là một cây bút truyện ngắn thiên tài. “Sự xuất hiện truyện ngắn
Sêkhốp đã dần dần làm thay đổi quan niệm về truyện ngắn, nâng truyện ngắn từ
thể loại hèn mọn, lên ngang tầm những thể loại cao quý như thơ, trường ca, tiểu
thuyết. Sêkhốp được tôn vinh là một trong những bậc thầy truyện ngắn thể giới
cùng với Edgar Poe ở Mĩ, Mopatxăng ở Pháp. Cuộc đời lao động sáng tạo của
Sêkhốp là một quá trình vươn lên không ngừng để chiếm lĩnh đỉnh cao nghệ
thuật. Từ những truyện kí bút danh Antonsa Chikhôntê (kẻ chọc cười), Sêkhốp
đã đạt tới thứ văn xuôi giản dị, “ trong suốt ”, một thứ “truyện ngắn lớn hơn
truyện ngắn” mà đến nay bạn đọc trên khắp thế giới vẫn trầm trồ, thán phục.
Nhiều người đã nói đến những truyện được đánh giá xuất sắc của ông như : “Cái
chết của một công chức”, “Con kì nhông”, “Phòng 6”, “Ngôi nhà có căn gác
nhỏ”, “Người trong bao”… Trong phạm vi bài viết ngắn này, người viết đề cập
đến tác phẩm “Iônứts” để làm sáng tỏ những vấn đề mang tính cốt tử trong
truyện ngắn Sêkhốp như cách thức tổ chức mạch ngầm trong văn bản, khuynh
hướng phá hủy yếu tố cốt truyện, phi trung tâm hóa nhân vật cùng mối quan hệ
giữa cái vỏ vật chất và yếu tố tinh thần trong cách xây dựng biểu tượng trong
truyện ngắn của ông. Trong một tác phẩm truyền thống thì sự kiện, biến cố là
chất liệu chính để tổ chức cốt truyện. Ở đó chúng được tổ chức theo quan hệ
nhân quả và tạo nên tính “cố sự”. Chức năng lớn nhất của cốt truyện là bộc lộ
các mâu thuẫn trong đời sống. Nhưng cũng có nhiều truyện ngắn thì những sự
kiện thuần túy bên ngoài được đưa xuống hàng thứ yếu, đó là những truyện
không có tình tiết. Sê khôp chọn cho mình những tình tiết hết sức đời thường
giản dị, những chuyện vặt vãnh, vụn nhỏ của đời sống nên đôi lúc chúng ta cảm
thấy câu truyện không có cốt truyện hay phê bình văn học hiện đại gọi đó là sự
phá hủy vai trò của cốt truyện. Nhà nghiên cứu Parpernưi đã nhận xét “Nếu
truyện của Puskin kể về chuyện vừa xảy ra: Một cơn mưa bão, một cuộc chia
tay, một phát súng, thì ở Sêkhôp đó là sự mệt mỏi của câu truyện, đó là nỗi buồn
bã vì đáng lẽ phải có một sự tiến triển rồi lại không có. Cốt truyện ở Sêkhôp là
cái gì đó có thể xảy ra, nên xảy ra rồi lại không xảy ra”.
Tác phẩm viết về một chuyện nhỏ nhặt có thể xảy ra trong cuộc sống
thường nhật mà có thể gặp đâu đó trong sáng tác của tác giả này hay tác giả
khác. Thế nhưng đọc Iônứts vẫn thấy nhiều điều lạ lùng, mới mẻ. Trong câu
chuyện đơn giản lại truyển tải được nhiều ý tưởng có tính triết lý của tác giả về
cuộc đời. Nhân vật chính trong truyện ngắn là bác sĩ Xtarxép Đơmitơri Iônứts,
sau khi tốt nghiệp ra trường anh ta được bổ nhiệm làm việc ở trường Đialigiơ.
Tại thành phố X nhàm chán và tẻ nhạt, anh ta làm quen với gia đình Turkin và
đem lòng yêu cô con gái Êkatêrina với hi vọng “của hồi môn họ cho cô ấy chắc
cũng khá đấy”. Tình yêu và đau khổ khiến cho Iônứts trở nên bối rối, hồi hộp,
cầu xin van nài nhưng Xtarxép vẫn bị cô gái từ chối. Anh ta cảm thấy ngỡ
ngàng, lòng tự trọng không thể xúc phạm, không thể tin được rằng tất cả mơ
ước, đau khổ, hi vọng của mình lại dẫn đến một kết cục ngu xuẩn như vậy. Mấy
năm sau gặp lại, Xtarxep đã khác hẳn, không chỉ về mặt hình thức mà cả tâm
hồn. Anh phát phì, đi lại khó nhọc, luôn cảm thấy bực bội, khó nhọc, Iônứts có
thú vui duy nhất là tối tối rút từ túi ra những tờ giấy bạc kiếm được nhờ khám
bệnh. Anh ít đến nhà Turkin mặc dù cô gái đã trở về từ Pêtécbua và bây giờ hối
hận, day dứt và dành tình cảm cho anh. Cuối cùng anh sống cô đơn, một mình
buồn tẻ, không quan tâm đến ai ngoài chăm lo hạnh phúc cho riêng mình.
Nếu như Léptônxtôi và Đôxtôiepxki thường dẫn người đọc theo những
đại lộ mênh mông nhằm kiếm tìm chân lí và hạnh phúc cao đẹp không dễ gì
vươn tới, thì Sêkhốp không phải là người thiết kế những đại lộ mênh mông,
quanh co, khúc khuỷu. Nhà văn nói những điều luôn hiển hiện đâu đó trong
cuộc sống thường ngày. Nhân vật không phải là những người khổng lồ, quá
khổ triền miên trong những suy nghĩ trăn trở như Raxcônhicốp của
Đôxtôiepxki hay Andrây, Pie của Leptônxtôi. Có lúc ta bắt gặp Iônứts suy tư,
băn khoăn về cuộc sống nhạt nhẽo, tầm thường, tồn tại hai con người đối lập
trong anh. Tuy nhiên đó không phải là đầu mối để triển khai thành những
cuộc giằng xé, đấu tranh nội tâm. Điều đó chỉ thoáng qua trong tâm trí Iônứts
và bị gián cách bởi những mối quan hệ, những cuộc đối thoại trong môi
trường sống. Và như nhiều câu chuyện khác, ngay phần mở đầu nhà văn đã
nhập thẳng vào câu chuyện không cần giới thiệu dài dòng, hoa mĩ. Không
gian truyện cũng không phải xa lạ với người đọc, một tỉnh lị X bình thường:
có thư viện, nhà hát, câu lạc bộ, có dạ hội khiêu vũ, có những gia đình dễ
chịu, thông minh, thú vị để làm quen… nghĩa là có tất cả những gì thông
thường nhất mà một tỉnh lị cần phải có. Trong bầu không gian yên tĩnh và
bình lặng ấy cuộc sống cứ đều đều diễn ra mà có lẽ chỉ có những người
khách đến mới cảm nhận được cuộc sống ở đây buồn tẻ, đơn điệu. Gia đình
Turkin được giới thiệu như một gia đình có học thức và tài năng nhất. Chủ
nhân là một người đàn ông to béo, thường tự mình tổ chức những buổi biểu
diễn nghiệp dư và thường sắm vai luôn trong vở kịch đó với kiểu ho buồn
cười, giọng bông đùa mà nhìn vẻ mặt thì không thể hiểu được rằng ông ta nói
đùa hay nói thật. Bà vợ là Vêra Iôxipốpna – có viết truyện, tiểu thuyết và
thường thích thú đem ra đọc cho khách khứa nghe như một món thực đơn đãi
khách tuyệt vời. Còn cô con gái trẻ, biết chơi đàn dương cầm… Nói tóm lại,
thật là một gia đình mẫu mực hết sức, hứa hẹn sự thú vị khi giao du và có
mối quan hệ thân thiết. Sau những lời giới thiệu như thế Sêkhốp cho người
đọc tiếp cận với Xtarxep Đơmitơri Iônứts – một bác sĩ trẻ mới ra trường –
vừa được bổ nhiệm về làm việc ở Đialigiơ, cách X chín vecxta. Ngoài giờ
làm việc anh hay đi bộ (không có xe ngựa riêng) và thường vừa đi vừa hát
khe khẽ những bản tình ca Nga yêu thích. Vào một buổi sáng mùa xuân, sau
khi tiếp nhận bệnh nhân, ăn trưa ngoài phố, dạo chơi ngoài công viên Iônứts
“bỗng dưng” nhớ tới lời mời của Ivan Pêtơrơvits. Anh quyết định đến thăm
nhà Turkin xem họ là người thế nào. Một sự việc bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên
nhưng như một ý kiến đã nhận xét đã nhận xét về truyện ngắn Sêkhôp thì
nhàn rỗi, bực bội mà không có lối thoát, đấy là một trạng thái tâm lí chung
của đại đa số các nhân vật của Sêkhốp. Tâm trạng cô đơn ấy khiến cho các
nhân vật thường hay lang thang, du ngoạn hoặc thăm viếng một ai đó… Nếu
sự nhàn rỗi trong “Người đàn bà và con chó nhỏ” được giới thiệu bằng cách
“Mọi người kháo nhau rằng ngoài bãi biển mới có người đến nghỉ…” thì
trong Iônứts, nhân vật quyết định thăm gia đình Turkin bề ngoài có vẻ hợp lí,
tất nhiên, là lẽ thường. Nhưng mọi sự lại bắt đầu từ cái lúc nhàn rỗi, bỗng
dưng nảy ra ý định ấy. Và tất nhiên cuộc gặp gỡ làm quen này còn tốt hơn cả
mong muốn vì ít ra gia đình Turkin ứng xử một cách lịch thiệp hay ít nhất “
chúng ta sẽ xử sự ra sao cho… ông ta không nhận thấy điều gì cả”. Mọi
người đều vui vẻ “ngồi uống nước chè với mật ong, mứt, kẹo và thứ bánh
quy thượng hảo hạng”. Cách giao tiếp của chủ nhân nhà Turkin vui vẻ đến
mức “vớ được người nào cũng hồ hởi, đôi mắt sáng lên: Xin chào quý
khách”. Món thết đãi khách của bà chủ nhà Vêra Iôxipốpna cũng hết sức
quen thuộc, trang nhã : Đọc tiểu thuyết của mình viết cho mọi người nghe
làm giải trí mà không đem in ra vì “chúng tôi đủ tiền tiêu rồi mà”. Gia đình
Turkin tiếp tục “trưng bày” những thứ đặc sản của mình. Kôchich con gái
nhà Turkin, biểu diễn đàn dương cầm trước mặt mọi người. “Hai tay gõ
mạnh xuống phím đàn, sau đó nàng lại đập mạnh xuống phím đàn lần nữa,
lần nữa, rồi lần nữa…” “nàng cố sức gõ đi gõ lại vào một chỗ tưởng chừng
như chỉ dừng lại khi phím đàn bên trong bị đứt”. Cả phòng khách vang lên
tiếng đàn: sàn nhà, trần nhà, bàn ghế dường như rung lên…” Sêkhốp miêu tả
hiện thực đúng như nó tự có, trong cả những điều vặt vãnh, tầm thường nhất.
Nghe bản nhạc ấy bác sĩ Iônứts “tưởng tượng ra cảnh nhiều hòn đá từ trên
núi cao không ngừng theo nhau ào ào lăn xuống và anh chỉ muốn lập tức
những hòn đá ấy không lăn nữa”. Và thật “ tình cờ, ngẫu nhiên chính vào lúc
này anh thấy thích Kôchich (Êkatêrina).
Sau mùa đông sống ở Đialigiơ bên cạnh những bệnh nhân và nông dân thì
giờ đây ngồi trong phòng khách với cô gái trẻ chơi bản nhạc ồn ào chẳng lấy
gì làm cao siêu này thì thích cô gái – quả là thú vị và mới mẻ. Quả đúng là “
tinh thần không chiếm ưu thế so với vật chất”. Nhà văn không khai thác
những tình cảm lãng mạn bay bổng nảy sinh trong lòng Iônứts khi “bỗng
nhiên” chính và lúc ấy “có tình cảm với cô gái”. Tinh thần chỉ toát lên từ
những điều “ vặt vãnh” tưởng như “tình cờ” của cuộc sống vật chất mà thôi.
Mặc dù thấy “buồn cười thật” khi ra khỏi nhà hay nghĩ tới câu tán thưởng
của Ivan Pêtơrơvits với vợ “không đến nỗi nào” mà Iônứts chợt nhớ lại rồi
bật cười thành tiếng khi cảm thấy buồn ngủ. Nhưng Xtarxep vẫn cứ đến nhà
Turkin chơi thường xuyên dù công việc bận đến tối mắt tối mũi, mục đích
chữa bệnh đau đầu cho Vêra Iôxipốpna nhưng chủ yếu vì tình cảm với cô con
gái. Trong Tiểu thuyết của bà chủ nhà mà bác sĩ Iônứts và mọi người nghe
được mở đầu bằng cấu: “Trời lạnh buốt và mặt trời đang lan tỏa những tia
nắng yếu ớt lên cánh đồng phủ đầy tuyết trắng và người bộ hành đơn độc
lang thang trên đường…” Trong khi đó thì “trong phòng khách: những chiếc
ghế bành êm, sâu thật bình yên”, “tiếng cười nói lao xao từ ngoài phố vọng
vào và hoa tử đinh hương ngoài sân đưa mùi vào thơm ngào ngạt”. Đối lập
với câu chuyện mà bà chủ nhà đọc thì “ tiếng dao thớt lách cách trong bếp,
mùi phi hành thơm nức bay lên”. Đây là những chi tiết sắp xếp tưởng như rất
ngầu nhiên đặt cùng nhau vì đều miêu tả lại hoàn cảnh không – thời gian và
việc đọc tiểu thuyết của Vêra. Nhưng chính những “chi tiết ” được tác giả cố
ý sắp đặt dường như rời rạc, tình cờ trên bề mặt văn bản thực nhất lại có khả
năng kết hợp thành một dòng chảy ngữ nghĩa, ngữ cảm ngầm dưới văn bản.
Hóa ra Vêra đang đọc thứ vô bổ về những điều không tồn tại trong cuộc đời.
Thật là khó hiểu khi phải nghe câu chuyện tầm phào, nhạt thếch đó. Chẳng
có gì ăn nhập giữa “ trời lạnh buốt” và “ tiếng dao thớt”. “mùi thức ăn bay
lên…” nhưng thứ dễ dãi bằng phẳng ấy kể cũng “thú vị, dễ chịu, nảy ra toàn
những ý muốn tốt đẹp bình yên trong lòng mọi người”. Nó là sản phẩm trong
khi người ta nhãn rỗi, không có việc gì để làm nên đi làm những thứ vô bổ để
giết thời gian. Tán thưởng nhiệt liệt trong khi bản thân thì “vừa nghe vừa lơ
đãng nghĩ tới một nơi nào xa, thật xa” của một vị khách cũng nằm trong
trường liên tưởng ấy. Miêu tả cuộc sống đời thường như nó đang có trong
thực tế, tất cả những chi tiết nhỏ đều được quan tâm nhà văn chú ý cả những
điều mơ hồ mong manh nhất: âm thanh vọng lại phòng khách của tiếng nhạc
và dàn đồng ca. Bài hát của dàn đồng ca ấy cũng nói tới cái gì không có
trong cuốn tiểu thuyết vừa đọc, những gì tồn tại trong cuộc đời.
Mùa thu đang dần đến, thời gian như in lên cảnh vật “ khu vườn cây cổ thụ
vắng vẻ buồn buồn, những chiếc lá khô sẫm màu nằm trên con đường giữa hai
hàng cây. Hoàng hôn đã xuống…”. Đó là cơ hội Iônứts biểu hiện tình cảm với
Êkatêrina. “Hai người ngồi ở một chiếc ghế đặt dưới tán cây phong lâu năm xòe
rộng” chi tiết này được lặp lại một lần nữa vào phần cuối của tác phẩm nhưng
trong một hoàn cảnh khác. Thế nhưng đáp lại sự say mê trìu mến của anh thì cô
gái lại hỏi “Anh cần gì kia?” với một giọng khô khan như đang bàn chuyện công
việc. Anh nói với cô đủ thứ chuyện về văn học nghệ thuật nhưng khi anh đang
nói thì nàng phá lên cười không đúng chỗ hay chạy luôn vào nhà. Những thứ
tầm thường vặt vãnh cũng trở nên đáng yêu trong con mắt si tình của Iônứts, lần
nào anh cũng cảm thấy xúc động khi kể cho cô gái nghe những thứ mình đọc
được. Còn đối với cô thì cái gì cũng “buồn cười lắm cơ”. Dường như cô gái
không hiểu được sự nhiệt tình của Iônứts nhưng trò chơi vụng về mà cô giành
cho anh cũng thật đặc biệt: 11 giờ đêm họ sẽ hẹn nhau ở đài tưởng niệm ngoài
nghĩa trang… với Iônứts đó là một thử thách chăng? Và khi tỉnh táo trở lại anh
thấy việc hẹn hò như thể thật chẳng nghiêm chỉnh chút nào. Người ta hẹn hò
ngoài công viên hay trên phố chứ ai lại ra nghĩa trang bao giờ. Vả lại điều này
có thích hợp với anh không khi anh là một bác sĩ thông minh, một người đường
hoàng lai phải lòng một cô gái, nhận thư từ, loanh quanh, phạm phải những điều
sai lầm mà đến cả học sinh cũng chế giễu. Cuộc tình này sẽ đi đến đâu, bạn bè
anh sẽ nghĩ thế nào? Những câu hỏi như thế cứ thiêu đốt lòng anh không ngớt.
Thế nhưng đên 10 giờ 30 anh “bất chợt” quyết định đi ra nghĩa địa. Những cái
“bất chợt”, “bỗng dưng” như thế bắt gặp khá nhiều trong truyện ngắn của
Sêkhốp. Cuộc sống cứ như thường ngày diễn ra không phải thêm bớt. Cứ để tự
nó nói lên bản chất của chính nó. Nhưng chính những thứ tường chừng như
hoàn toàn “ngẫu nhiên” ấy lại làm nên sự sống sinh động và vĩnh hằng. “Tính
nết ai thì cũng có những điểm kì dị. Kôchich cũng là người kì dị thì biết đâu
nàng có thể không đùa và đi ra đấy thật”. Một chút hi vọng mong manh trống
rỗng ấy làm anh say sưa trong khi đang đi bộ tới nghĩa trang. Nhà văn tạo ra một
đoạn văn khá dài để miêu tả phong cảnh nghĩa địa như một cách tạo ra tình trữ
tình mỉa mai nước đôi. “Từ xa nghĩa địa hiện lên thành một dải đen sẫm trông
như một cánh rừng hay một khu vườn lớn”. Đặc biệt hình ảnh hàng rào của
nghĩa địa thì đầy sức ám gợi: xung quanh xây bằng đá, cánh cổng thì ở dưới ánh
trăng của mùa thu có thể đọc được những dòng chữ kẻ trên cổng “ Sẽ điểm cái
giờ ở nơi ấy”. Hàng rào ngăn như một đường ranh giới giữa nơi dành cho người
chết và người đang sống. Nhưng trong cái đêm thu yên lặng này dường như nó
là quê hương. “Nơi không còn sự sống nhưng trong từng cây bạch dương đen
thẫm kia, trong từng ngôi mộ đều toát ra vẻ gì huyền bí hứa hẹn một cuộc sống
kì diệu, vĩnh viễn, êm đềm. Có chút gì buồn buồn độ lượng tỏa ra từ những tấm
bia mộ cũng với mùi hương của những chiếc lá mùa thu”. Một nỗi buôn da diết
của hư vô, một niềm tuyệt vọng đau đớn tràn ngập trong lòng Iônứts. Có lẽ
chính trong giây phút này, anh cảm nhận được thành phố mà anh đang sống là
một thành phố chết. Sự sống đang bị bào mòn, đang han gỉ. Anh tiếp tục đi dọc
theo những con đường sát hàng rào ngăn cách với nơi chôn vùi con người dưới
lớp đất sâu. Một cảm giác khao khát tình người ghê ghớm. Iônứts như muốn hét
lên, gào thật to với trời đất để xóa đi bầu không khí tĩnh lặng đến đáng sợ này…
Sau trò đùa nghịch ngợm của Kôchich và hành động “đi chệch khỏi quỹ đạo”
của mình đã làm cho Iônứts suốt một đêm mất ngủ, anh trong một trạng thái
thảng thốt nhưng trong lòng ấm áp vui vui, dịu ngọt, đê mê. Nhưng Sêkhôp
không phải là nhà văn đi khai thác những tình cảm lãng mạn của những chàng
trai, cô gái thuần túy. Ông là một nhà văn của chủ nghĩa hiện thực theo đúng
nghĩa của nó. Ngay sáng hôm sau, đồng thời tâm trí anh lại thoáng hiện ra
những câu hỏi nặng nề lạnh lùng. Iônứts phân vân tính toán xem tình yêu của
mình vào việc lấy cô gái: liệu nàng và anh có xứng đôi không khi nàng được
chiều chuộng còn anh chỉ là một bác sĩ ăn lương. Ý nghĩ lạnh lùng tiếp tục truy
đuổi anh ráo riết buộc anh phải đưa ra những giả định cần thiết: “Nếu lấy cô
ta…” và thật mỉa mai cay đắng khi anh tìm ra lí do cho việc làm của mình: “Thế
thì sao… cô ta có của hồi môn, rồi mình sẽ lo liệu được tất”, những suy nghĩ đó
càng thúc đẩy anh biểu lộ tình cảm, thậm chí van nài. Anh thắt chiếc cà vạt màu
trắng, chiếc áo đuôi tôm mượn của người khác và say sưa nói về tình yêu.
Những chi tiết như thế chính là những tín hiệu tạo nên mạch ngầm của văn bản
mang hàm ý của nhà văn. Thế nhưng cũng giống như hàng rào nơi nghĩa địa âm
u nhăn cách giữa hai người. Kôchich không đáp lại tình cảm của anh. Nàng
muốn giành vinh quanh trong nghệ thuật, không muốn trói buộc cuộc đời trong
sự bình yên trống rỗng. Khi bị từ chối tình cảm, Iônứts cảm thấy lòng tự ái của
mình bị xúc phạm, anh không ngờ mình bị từ chối như thế. Anh thương cho tình
cảm của mình, tình yêu của mình, thương đến mức tưởng chừng có thể òa khóc
ngay được. Chiếc cà vạt trở nên khó chịu, vướng víu, chiếc áo đuôi tôm anh
mượn cả thành phố mới có nay chỉ muốn giật phăng ra. Ba ngày liền anh không
làm được việc gì, không ăn, không ngủ nhưng khi nghe nói cô gái đã lên
Maxcơva thì anh thấy yên lòng trở lại và lại sống như xưa. Có lẽ tình cảm với cô
gái chỉ là một cơn sóng lòng trỗi dậy bừng lên rồi vụt tắt, anh trở về với tư thế
của một bác sĩ làm công ăn lương với sức ỳ còn đáng sợ hơn xưa. Mấy năm
cuộc sống trôi qua bình yên, đều đặn, anh đã có chiếc xe tam mã có chuông rung
để đi lại. Anh không còn thích đi bộ và khe khẽ hát. Iônứts cũng không gần gũi
đặc biệt với ai. Đám người phàm tục ấy làm cho anh thấy phát ngán, anh không
sao nghĩ ra được chuyện gì khi giao tiếp với họ và thường tránh bắt chuyện, anh
chỉ ăn và đánh bài. Nếu tình cờ có ghé vào nhà một ai đó và gặp bữa ăn thì anh
cũng ngồi xuống ăn uống một cách lặng lẽ mắt nhìn xuống đĩa thức ăn bởi lẽ tất
cả những gì họ nói anh đều thấy vô bổ tẻ nhạt, ngu xuẩn. Iônứts trở thành kẻ hay
khó chịu, bực bội, một “Người Ba Lan khó đăm đăm” trong mắt của mọi người.
“Người anh thì béo ra, phát phì lên không còn thích hợp đi bộ vì khó thở”. “Vài
năm sau nữa Xtarxep ngày càng béo ra, càng phệ ra, thở nặng nhọc, khi đi đầu
hơi ngả về phía sau, mặt mày đỏ gay, mặt béo phệ”. Ở đây nhà văn đã dùng thủ
pháp miêu tả bên ngoài nhằm phản ánh thế giới bên trong nhân vật để rồi đưa ra
những ý kiến phán xét khách quan Lúc này ta không còn thấy đâu một vị bác sĩ
trẻ tuổi và nhiệt huyết, chán ghét cuộc sống nơi tỉnh lẻ tầm thường đơn điệu mà
là một con người đã thoái hóa cả về hình thức lẫn tâm hồn. Chân dung miêu tả
tự nó mang một giá trị biểu hiện chứ không cần tác giả phải chen vào lời bình
luận của mình. Iônứts thành người giàu có, đi xe tam mã có gắn chuông nhưng
thực chất đã trở thành con người chết. Không phải nhà văn phê phán ước muốn
được đi xe tam mã có chuông rung thay vì đi xe song mã hay đi bộ. Trong ước
muốn bình thường đó nhà văn nhìn thấy sự thoái hóa về nhân cách con người.
Thú vui duy nhất mà anh cảm thấy say sưa là cứ tối tối rút ra từ trong túi những
tờ giấy bạc kiếm được do khám bệnh…Những tờ giấy bạc màu vàng, màu xanh,
tỏa ra đủ các thứ mùi: mùi nước hoa, mùi giấm, mùi dầu cá hay mùi trầm
hương…Tất cả những đồng bạc đó anh gom góp lại và gửi vào ngân hàng tiết
kiệm. Mải mê chăm lo cho cuộc sống vật chất của riêng mình, anh quên hết
những người xung quanh.
Trong thời gian dài anh chỉ đến thăm nhà Turkin 2 lần, để chữa bệnh đau đầu
với tư cách một bác sĩ cho bà chủ nhà Vêra. Nếu như trước đây mặc dù cảm
nhận thấy sự nhàm chán, bình thường trong phòng khách nhà Turkin nhưng anh
vẫn viếng thăm như một việc làm thú vị, có ích thì nay cảm giác ấm áp dễ chịu
của anh đã hoàn toàn nguội lạnh. Cả việc tưởng chừng như hệ trọng vô cùng
với anh là Kôchich trở về sống cùng gia đình sau những ngày tháng không tìm
thấy vinh quang ở Maxcơva thì với Iônứts cũng không phải là điều hệ trọng. Lúc
này chính cô gái đã tha thiết mong anh đến, hơn thế nữa thời gian trước anh
cũng đã từng phải đau khổ vì cô. Nhưng khi quay trở lại phòng khách anh thấy
lại tất cả những khug cảnh trước đây là quen thuộc với anh: Bà Vêra lại đọc tiểu
thuyết của mình; bà đọc lên những điều chẳng hề liên quan gì đến cuộc đời. Mọi
người lại ngồi uống nước chè và ăn bánh ngọt thượng hảo hạng. Cô con gái lại
chơi đàn mà tiếng đàn thì ầm ĩ rồi khi nàng kết thúc mọi người lại tán thưởng
nhiệt liệt bày tỏ với nàng sự thán phục hồi lâu. Những hiện tượng trong thế giới
sinh hoạt hàng ngày lặp lại như thế tạo thành tín hiệu nghệ thuật của mạch ngầm
văn bản. Những cảnh đọc tiểu thuyết, diễn trò hài hước, chơi đàn trong phòng
khách nhà Turkin mang tiếng là danh giá, thú vị vui vẻ tự nó đã chỉ ra sự quẩn
quanh, bất biến trong cuộc sống của con người nơi tỉnh lị này. Đồng thời vẫn
trong khung cảnh cũ đó lại kết hợp với cảnh tỏ tình không thành trước đây, sự
tráo đổi vị trí giữa Xtarxep và Kôchich, bây giờ không phải là anh bộc lộ và cầu
xin tình cảm nữa là đến lượt cô gái. Nó cho thấy sự biến đổi trong tâm trạng của
theo xu hướng tha hóa của Iônứts. Lúc này anh thấy bà chủ nhà đúng là một kẻ
bất tài, không những không biết viết tiểu thuyết mà viết xong rồi lại không biết
giấu đi đâu. Song, anh vẫn tán thưởng cùng với mọi người: “Không đến nỗi
nào”. Đó vốn là câu nói của chủ nhân nhà Turkin khi tán thưởng vợ mình. Câu
nói mà có lần khi về nhà và buồn ngủ anh lặp lại rồi bật cười thành tiếng. Nhưng
“Không đến nỗi nào” lúc này lại khác, nó hàm chứa sự xuống cấp trong nhân
cách của Iônứts. Anh không còn là con người nhiệt huyết quan tâm đến xung
quanh nữa, anh như một cái máy, dập khuôn lại những điều người khác nói một
cách vô nghĩa lí. Còn nghe cô gái chơi đàn thì anh nghĩ “Cũng may mà dạo ấy
mình không lấy cô ta”. Cô gái mà trước đây anh van nài, đau khổ, làm những
điều mà trẻ con cũng còn chế giễu thì giờ đây trước cô đang rất cần tình yêu thì
anh nguội lạnh. Tiếng dương cầm trở nên ầm ĩ, chói tai. Cảnh vật xung quanh
cũng mang tính ấn tượng. Hiện tượng tự nhiên cũng trở thành tín hiệu trong
mạch ngầm văn bản. “Họ vào vườn và ngồi xuống chiếc ghế dưới cây phong già
xòa tán rộng như bốn năm về trước”. Cảnh vật cũng nói lên sự ngưng đọng,
không hề thay đổi gì trong khi năm tháng vẫn qua đi và lòng người biết bao
thay đổi. Những cảnh vật giống nhau liên kết với nhau trong một văn bản tạo
gợi ấn tượng chung tạo nên những tín hiệu mạch ngầm. Iônứts cảm thấy rõ ràng
sự vô vị, nhạt thếch này. Họ không biết phải nói gì với nhau, hai người là hai thế
giới không có tiếng nói chung. Vẻ đẹp của cô gái, những tình cảm xưa kia trong
một khung cảnh thiên nhiên vẫn nguyên như xưa cũ làm anh có đôi chút bối rối.
Nhưng liền sau đó nhà văn lạnh lùng chỉ ra: Xtarxep chợt nghĩ đến những tờ
giấy bạc mà tối tối anh vẫn thích thú lôi ra từ các túi, và cảm giác ấm áp trong
lòng anh vụt tắt”. Luôn luôn quay trở về với thực tại, cho dù nó có tàn nhẫn hay
trần trụi như thế nào, đó là một đặc trưng trong truyện ngắn của Sêkhôp. Anh
thấy đôi mắt cô gái buồn buồn, đầy vẻ biết ơn và dò hỏi đang nhìn anh, anh cảm
thấy chút ái ngại, băn khoăn, nhưng liền sau đó anh nghĩ ngay “Cũng may mà
dạo ấy mình không lấy cô ta”. Những hiện tượng, câu nói, ngữ cảnh như thế lặp
lại trong câu truyện tạo nên mạch ngầm trong văn bản. Đó là cách thức tổ chức
mạch ngầm trong truyện ngắn của Sêkhôp.
Không còn đâu một Xtarxep, bác sĩ nhiệt huyết của ngày xưa. Bây giờ là một
Iônứts như mọi người vẫn quen gọi như thế. Mải mê xây dựng bức tường kiên
cố xung quanh mình, cuối cùng anh ta không thoát ra khỏi nó. Đầy đủ về vật
chất nhưng anh trở thành kẻ cằn cỗi về tâm hồn, tham lam và thô lỗ. Đó là một
cái chết về tâm hồn, chết trong khi đang sống nhưng không thấy ý nghĩa thực sự
của nó. Câu chuyện của Iônứts gợi cho chúng ta một dư vị xa xót về cuộc sống
con người.
Nguyễn Thị Hưởng

You might also like