Professional Documents
Culture Documents
Trang 1
Hình 8.4 Xử lý ghép kênh FDM theo thời gian
Hình 8.5 minh họa về mặt tần số khái niệm FDM (lưu ý rằng trong trường
hợp này trục hoành biểu diễn tần số chứ không phải biểu diễn thời gian, và tại
mỗi thời điểm có 3 tần số tồn tại trong băng thông). Trong FDM, các tín hiệu
được điều chế thành các tần số mang riêng biệt (f1, f2 và f3) sử dụng kỹ thuật
điều chế AM hoặc FM.
Hình 8.5 Xử lý ghép kênh FDM (biểu diễn theo tần số)
Cần lưu ý rằng, để sử dụng liên kết vật lý hiệu quả, chúng ta cần thêm
băng thông mở rộng (gọi là dải bảo vệ) để phân tách các kênh.
Phân kênh
Bộ phân kênh sử dụng các bộ lọc để phân tích các tín hiệu đã được ghép
kênh thành các tín hiệu đã cấu thành nó, sau đó các tín hiệu này được truyền
tới bộ giải điều chế để thực hiện việc phân tách thành tín hiệu gửi và truyền
tới các thiết bị nhận.
Hình 8.6 minh họa về mặt thời gian kỹ thuật ghép kênh FDM, xem 3 điện
thoại như là các thiết bị truyền thông. Hình 8.7 minh họa về tần số kỹ thuật
ghép kênh FDM.
Trang 2
Hình 8.5 Xử lý phân kênh FDM (biểu diễn theo thời gian)
Hình 8.7 Xử lý phân kênh FDM (biểu diễn theo tần số)
Trang 3
Hình 8.10 Phương pháp ghép kênh TDM
Trang 4
Hình 8.11 Ghép kênh phân thời đồng bộ TDM
Trang 5
Hình 8.12 Đồng bộ TDM, quá trình dồn kênh
Ở bộ nhận, bộ phân kênh sẽ phân rã từng frame bằng cách rút trích lần
lượt các ký tự. Khi ký tự được lấy ra khỏi frame nó sẽ được chuyển tới thiết
bị nhận tương ứng (xem hình 8.13).
Trang 6
Hình 8.14 Khuân dạng bít
Ví dụ về TDM đồng bộ
Giả sử chúng ta có 4 nguồn vào trong một liên kết TDM đồng bộ, quá
trình truyền dẫn sẽ truyền các ký tự được thực hiện theo cách dịch chuyển
luân phiên. Nếu mỗi nguồn tạo ra 250 ký tự/giây và mỗi một frame mang
một ký tự từ mỗi nguồn thì đường truyền dẫn (path) phải có khả năng mang
250 frame/giây (xem hình 8.15).
Nếu chúng ta giả sử rằng mỗ một ký tự gồm 8bits thì mỗi frame sẽ có 33
bits (32 bits dùng cho 4 ký tự + 1 framing bit). Như vậy mỗi thiết bị tạo ra
2000bps (250 ký tự x 8bps), do đó đường truyền (line) phải có khả năng
mang 8250bps (250 frame x 33bit/frame).
Bit Stuffing – Nhồi bit
Như đã đề cập trong mục trước, chúng ta có thể kết nối các thiết bị có tốc
độ truyền khác nhau để truyền dẫn theo kỹ thuật TDM đồng bộ. Ví dụ, thiết
Trang 7
bị A sử dụng một khe thời gian, trong khi tốc độ truyền của thiết bị B sử
dụng 2 khe thời gian. Số khe trong frame và các đường vào (input line) sẽ
được gán cố định trong hệ thống, nhưng các thiết bị có tốc độ truyền khác
nhau có thể kiểm soát số lượng khe khác nhau. Cần nhớ rằng chiều dài của
khe thời gian là cố định. Do đó, về lý thuyết, để kỹ thuật này làm việc, tốc
độ truyền dữ liệu khác nhau phải là bội số của nhau. Ví dụ, chúng ta có thể
điều chỉnh một thiết bị truyền nhanh hơn các thiết bị khác 5 lần bằng cách
gán cho nó 5 khe và gán cho các thiết bị khác 1 khe. Tuy nhiên chúng ta
không thể điều chỉnh một thiết bị truyền nhanh hơn các thiết bị khác 5,5 lần
bằng phương pháp này bởi vì chúng ta không thể đưa ½ khe vào trong
frame.
Khi tốc độ truyền giữa các thiết bị không phải là bội số của nhau, chúng
ta vẫn có thể thực hiện việc truyền dẫn như cách chúng ta đã thực hiện bằng
kỹ thuật “bit stuffing”. Trong kỹ thuật bit stuffing, bộ ghép kênh sẽ bổ sung
các bit mở rộng (extra bit) vào dòng dữ liệu nguồn của thiết bị để đảm bảo
mối quan hệ về mặt tốc độ giữa các thiết bị là bội số (nguyên) của nhau. Ví
dụ, giả sử thiết bị A có tốc độ truyền nhanh hơn thiết bị B 2.75 lần, chúng ta
có thể thêm một số bit để đảm bảo tỷ lệ về tốc độ truyền giữa 2 thiết bị là 3.
Các bít mở rộng (extra) sẽ được loại bỏ bởi bộ phân kênh.
Ghép kênh phân thời không đồng bộ
Như chúng ta đã nghiên cứ ở phần trước, kỹ thuật TDM đồng bộ không
bảo đảm tận dụng hết khả năng của liên kết (link) được sử dụng. Bởi vì các
khe thời gian được gán trước một cách cố định nên mỗi khi có thiết bị kết
nối không truyền dẫn thì khe tương ứng của nó sẽ rỗng và do đó có nhiều
đường dẫn (path) không sử dụng. Ví dụ, giả sử chúng có 20 máy tính ở đầu
ra đã được ghép kênh trên một đường truyền đơn (single line). Sử dụng
TDM đồng bộ, tốc độ của mỗi đường như vậy ít nhất cũng phải bằng 20 lần
tốc độ của mỗi một đường vào (input line). Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như
chỉ có 10 máy tính được sử dụng cùng lúc? Một nửa dung lượng đường
truyền không được sử dụng!
TDM không đồng bộ (TDM thống kê) được thiết kế nhằm tránh sự lã phí
đã đề cập ở trên. Thuật ngữ “không đồng bộ” có nghĩa một cái gì đó khác
trong kỹ thuật ghép kênh nghĩa là nó đề cập đến một lĩnh vực truyền thông
khác. Ở đây có nghĩa là linh hoạt và không cố định.
Trang 8
Giống như TDM đồng bộ, TDM không đồng bộ cho phép một số các
đường vào (input line) có tốc độ truyền thấp ghép kênh thành một đường có
tốc độ truyền cao hơn. Không giống như kỹ thuật TDM đồng bộ, trong kỹ
thuật TDM không đồng bộ tốc độ truyền tổng thể của các đường vào có thể
lớn hơn khả năng của đường truyền (path). Trong hệ thống đồng bộ, nếu có
n đường vào, số khe thời gian trong frame là cố định và ít nhất bằng n.
Trong hệ thống không đồng bộ, nếu chúng ta có n đường vào, mỗi frame sẽ
chứa không quá m khe, m<n (xem hình 8.16).
Theo cách này, TDM không đồng bộ hỗ trợ số đường vào giống như
TDM đồng bộ với khả năng liên kết thấp hơn (link). Như vậy, với liên kết
như nhau, TDM không đồng bộ hỗ trợ nhiều thiết bị hơn TDM đồng bộ.
Số khe thời gian trong TDM không đồng bộ (m) dựa trên sự phân tích
thống kê số lượng đường vào tham gia truyền dẫn tại thời điểm bất kỳ một
cách hợp lý. Thay vì việc gán cố định trước các khe cho các đường vào, mỗi
một khe sẽ khả dụng để các đường vào có dữ liệu gửi đi gắn vào. Bộ ghép
kênh quét các đường vào và chấp nhận các khối dữ liệu cho đến khi frame
đầy, sau đó nó truyền các frame qua liên kết. Nếu không có đủ dữ liệu để
điền đầy các khe của frame, frame được truyền đi sẽ chỉ có một phần được
lấp đầy, vì vậy khả năng liên kết đầy có thể không thể đạt 100%. Nhưng có
thể phân phối các khe thời gian một cách linh hoạt (động), theo cặp với tỷ lệ
số khe thời gian/số đường vào thấp hơn, điều này sẽ giảm đi sự lãng phí về
khả năng của đường truyền rất lớn.
Hình 8.17 minh họa hệ thống có 5 máy tính chia sẻ một liên kết dữ liệu
sử dụng kỹ thuật TDM không đồng bộ. trong ví dụ này, kích thước frame có
Trang 9
3 khe. Hình vẽ cũng chỉ ra cách kiểm soát 3 mức truyền dẫn khác nhau.
Trong trường hợp thứ nhất, chỉ có 3 trong 5 máy tính có dữ liệu gửi đi.
Trong trường hợp thứ hai, có 4 đường gửi dữ liệu, nhiều hơn so với số
khe/frame là 1. Trong trường hợp thứ 3 (về mặt thống kê hiếm khi xảy ra),
tất cả các đường đều gửi dữ liệu. trong mỗi trường hợp, bôh ghép kênh quét
các thiết bị theo thứ tự từ 1 đến 5, đổ dữ liệu vào các khe khi nó gặp dữ liệu
cần gửi đi.
Trong trường hợp thứ nhất, có 3 đường vào hoạt động tương ứng với 3
khe trong mỗi frame. Đối với frame thứ tư đầu tiên, đầu vào được phân bố
đối xứng giữa tất cả các thiết bị truyền thông. Tuy nhiên, ở frame thứ 5, thiết
bị 3 và 5 hoàn tất quá trình truyền của nó, nhưng thiết bị 1 vẫn còn 2 ký tự
cần truyền đi. Bộ ghép kênh sẽ lấy ký tự A từ thiết bị 1, bỏ qua các thiết bị
không truyền dẫn khác và quay trở lại thiết bị 1 để lấy nốt ký tự A cuối
cùng. Không có đử dữ liệu để lấp đầy khe cuối cùng trong frame, bộ ghép
kênh sẽ truyền frame thứ 5 chỉ có 2 khe có dữ liệu. Hệ thống TDM đồng bộ
sẽ cần 6 frame (mỗi frame chứ 5 khe) để truyền tất cả dữ liệu, như vậy tổng
số frame cần là 30. Nhưng thực tế chỉ có 14 khe có dữ liệu, do đó bỏ phí
không sử dụng đường truyền mất hơn nửa thời gian. Với DTM không đồng
bộ, chỉ có 1 khe rỗng trong frame cuối khi truyền, do đó tận dụng được hết
khả năng của đường truyền.
Case 1: Only three lines sending data
Trang 10
Hình 8.17 Ví dụ về khung đồng bộ TDM
Trang 11
các trường có chiều dài thay đổi yêu cầu kiểm soát các bits được bổ sung
vào phần đầu của mỗi khe thời gian để chỉ ra chiều dài của phần dữ liệu đến.
Các bits mở rộng này cũng làm gia tăng overhead của hệ thống và nó chỉ
cũng chỉ hiệu quả đối với các khe thời gian có kích thước lớn.
Invert Multiplexing – Ghép kênh đảo
Invert Multiplexing nghĩa là ngược lại với ghép kênh, nó nhận dòng dữ
liệu từ một đường truyền có tốc độ cao và chia thành các phần để có thể
đồng thời truyền đi trên các đường truyền có tốc độ thấp hơn mà không làm
giảm đi tốc độ truyền tổng thể (chung).
Vậy tại sao chúng ta cần ghép kênh đảo? Bạn hãy xem xét trường hợp
một công ty muốn gửi dữ liệu, âm thanh, video, mỗi loại sẽ yêu cầu tốc độ
truyền khác nhau. Để gửi âm thanh, nó có thể cần đường truyền có tốc độ
64Kbps; Để gửi dữ liệu, nó có thể cần đường truyền có tốc độ 128Kbps; Để
gửi video, nó có thể cần đường truyền có tốc độ 1.544Mbps. Để đáp ứng tất
cả các nhu cầu này, công ty đó cần phải có một kênh thuê bao riêng có tốc
độ 1.544Mbps và họ chỉ đôi khi mới sử dụng hết khả năng truyền của kênh.
Xây dựng một hệ thống như vậy sẽ rất lã phí! Tuy nhiên, công ty có thể thuê
một vài kênh có tốc độ truyền thấp hơn. Sử dụng can kết có tên là “băng
thông theo nhu cầu” (bandwith on demand), công ty có thể sử dụng các kênh
này bất cứ khi nào và bao nhiêu kênh theo nhu cầu của họ. Truyền dẫn âm
Trang 12
thanh có thể truyền qua một kênh bất kỳ mà không có bất cứ ảnh hưởng nào.
Truyền dữ liệu và video có thể chia nhỏ ra và truyền qua 2 hoặc nhiều
đường. Nói cách khác, dữ liệu và âm thanh có thể sử dụng kỹ thuật truyền
ghép kênh đảo thông qua nhiều đường ghép.
Trang 13