You are on page 1of 13

Đề Phần 1

1) Qui luật ra đời của đảng cộng sản việt nam


2) Tại sao lại nói sự ra đời của DCSVN là điều tất của lịch sử
3) Tại sao nói sự ra đời của DCSVN là bước ngoặt quan trong trong lịch sử CMVN

Mở bài

1. Tình hình thế giới

Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị
trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương
Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức
lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc.

Chủ nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc,
trước hết là tư bản lũng đoạn; làm cho quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản. Các nước
thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường tư bản thực dân. Sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng
tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa
càng quyết liệt. Và chính bản thân chủ nghĩa đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc địa lại tạo cho các dân tộc bị
chinh phục những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu
tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu
sắc của chính sách xâm lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối
với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước cách
mạng "nước Nga là nhà tù của các dân tộc". Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công, các dân tộc thuộc địa
của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các
quốc gia độc lập và quyền liên hợp, dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết (1922) làm
cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
đế quốc.

Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin được công bố. Luận cương đã chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra
đời của Quốc tế Cộng sản, nhiều đảng cộng sản trên thế giới đã được thành lập.

Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.

2. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam

Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công
quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân
và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công và mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hóa.

Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư
trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân
mới. Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn
duy trì quan hệ kinh tế phong kiến.Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách
bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.

Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề.. Chúng bóp nghẹt tự do,
dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng gây chia rẽ và thù
hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân
tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.

Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt
động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi
cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách
ngu dân để dễ bề thống trị.

Kết luận mở bài trong tập.

Thân bài :

Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản
động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn: Từ chế độ phong kiến
chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến; hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày càng gay gắt. Đó
là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược và giữa nhân dân ta chủ yếu là nông dân với bọn
địa chủ, phong kiến tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp.

Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai là không tách rời nhau. Đó là
yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống
thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai ở khắp mọi nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và các nhà yêu
nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Song các phong trào đấu tranh đó đều thất bại, nguyên nhân
chủ yếu là chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, chưa có một lực lượng xã hội, một giai cấp tiên tiến và
một tổ chức cách mạng chặt chẽ đủ sức lãnh đạo phong trào. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế tắc và khủng
hoảng về đường lối cứu nước.

Giữa lúc đó, Nguyễn ái Quốc - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm bôn
ba khắp năm châu bốn bể đã bắt gặp được chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm được con đường cứu nước đúng đắn, Người
nói: "Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản". Đây là
bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến quyết định mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nguyễn ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách Mệnh để tuyên truyền, giáo dục bồi
dưỡng, đào tạo cán bộ tiếp tục chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.

Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, tại Quảng Châu - Trung Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản
được triệu tập dưới sự chủ trì và lãnh đạo của Bác Hồ. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt do
Nguyễn ái Quốc khởi thảo. Đó là cương lĩnh và điều lệ đầu tiên của Đảng...Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân
tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của quá trình
chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của
chúng ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa
học và sáng tạo là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.

Kết Luận phần ý nghĩa sự ra đời của DCSVN. (3.3 Trang 9)

Đề Phần 2

Phân tích vai trò của NAQ đối với :


1) Tìm đường cứu nước (1911-1920)
2) Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mac –LN vào VN (1911 - 1929)
3) Thành lập DCSVN (1911 - 1930)
1)Tìm đường cứu nước (1911-1929)

Mở bài :

Hồ Chí Minh, sinh ra và lớn lên được sự giáo dục của ông bà, cha mẹ, anh chị; được sống trong gia đình giàu lòng
nhân ái, yêu nước sâu đậm .

Nguyễn Tất Thành đã nhận được sự giáo dục và nuôi dưỡng truyền thống nhân ái của dân tộc: thương người,
thương dân, là khát vọng có được một cuộc sống tự do, no ấm, hạnh phúc. Chính chủ nghĩa yêu nước dạt dào tình
nhân ái đó, đã đưa Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng đi sang Pháp và các nước phương Tây để "xem xét họ làm
như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta". Với ý chí và lòng quyết tâm, chỉ với hai bàn tay trắng, Nguyễn
Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, tìm ra những gì ẩn giấu đằng sau những từ "tự do - bình đẳng - bác ái".

Thân bài :

Từ ngày 05-06-1911, rời bến cảng Nhà Rồng qua Pháp cho đến lúc đọc được bản luận cương của Lênin, Nguyễn
Tất Thành phải mất 09 năm đầy vất vả. Trong

9 năm đó, Người đã đến nhiều nước: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angieri, Tuynidi,..., vừa làm thuê để
kiếm sống, vừa hoạt động, vừa khảo sát tình hình xã hội các nước, tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ của
mình.

Thật đau xót, đến đâu, Nguyễn tất Thành cũng thấy cảnh khổ cực của nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột dã man.
Người từng kể và đã được tác giả Trần Dật Tiên ghi lại trong quyển "Những mẫu chuyện về Đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch" (Trang 25 & 25): "Đến Đaca, bể nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ, cũng không thể thả canô xuống
vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn
người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi".

Đến nước Mỹ (12/1912), sau này khi nói chuyện với nhà báo Mỹ Đevit Đen_linh_giơ, Bác đã kể: Tôi đã đi ở cho
người ta tại Bruc_lin với lương tháng 40 đôla,...tôi dùng một số thời gian rảnh rỗi để học tập và đi thăm những khu
vực trong thành phố. Người còn nhắc đến chuyện đi xe điện ngầm tới khu vực Hác_lem và rất xúc động trước điều
kiện sống của người da đen. Người cũng đã đến tham quan tượng Thần Tự do và đã ghi cảm tưởng: Ánh sáng trên
đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng Thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp, số
phận người phụ nữ bị chà đạp.

Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành đến nước Anh và sống bằng nghề cào tuyết cho một trường học, rồi đốt lò, phụ
việc cho khách sạn,...Người đã tranh thủ thời gian để học tiếng Anh, theo dõi tình hình thế giới, tham gia các sinh
hoạt công đoàn, chính trị ở Luân Đôn.
Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp và hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện tiếp
xúc với những nhà hoạt động chính trị, văn hóa nổi tiếng như Mác_xen_Ca_sanh, Lêông Blum, hay Mông
Lơ_phe_bơ_rơ,... Cũng tại Pháp, Người đã học viết báo, đi thăm các viện bảo tàng và thường đến thư viện để đọc
sách, rèn luyện kỹ năng học ngoại ngữ. 06/1919, Nguyễn Tất Thành ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách
của nhân dân An Nam tới Hội nghị Véc xây (Pháp). "Đó là đòn tiến công đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đánh thẳng
vào đế quốc Pháp và đó cũng là sự kiện chính trị "gây xáo động trong thế giới thuộc địa"". Đến tháng 7/1920,
Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đọc được "sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa"
của Lênin. Người đã sáng tỏ nhiều điều về con đường giải phóng dân tộc. Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng mười
Nga và những tư tưởng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã làm cho Người hoàn toàn tin theo Lênin và
Người đã tin và đứng về phía Quốc tế 3. Tại sao khi kể lại sự kiện này, Bác Hồ đã nói: Luận cương của Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"? Đó là vì, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy được trong
bản luận cương này, Lênin đã đề cập đến quyền bình đẳng giữa các dân tộc dựa trên lội ích thiết thực về kinh tế,
chính trị,... Lênin cũng đã nêu rõ nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản trên thế giới phải giúp đỡ
phong trào Giải phóng Dân tộc, trong đó có phong trào nông dân ở các nước chậm phát triển chống bọn địa chủ,
chống mọi biểu hiện và tàn dư của chế độ phong kiến. Đồng thời, Lênin cũng nhấn mạnh là cần phải đòan kết giữa
giai cấp vô sản ở các nước Tư bản với quần chúng lao động của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới mới có thể
chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa Tư bản thế giới.

Đây là sự kiện quan trọng làm biến đổi nhận thức, khẳng định con đường lựa chọn để cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc. Từ đó, Người cho rằng: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản,vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Kết luận :

Ngày nay, nhiệm vụ chính của dân tộc ta không còn là đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc mà là xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chống lại những âm mưu "Diễn biến hòa bình" của các thế lực phản
động trong và ngoài nước; khắc phục những nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm đạt cho được mục tiêu cả nước đang phấn đấu vì một nước Việt Nam: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh" như Bác Hồ đã từng dặn dò chúng ta trong bản di chúc: "Điều mong muốn cuối cùng của
tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đòan kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp Cách mạng Thế giới.

2) Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mac –LN vào VN (1911 - 1929)

Mở bài :
Chép ngắn gọn quá trình tìm được cứu nước .
Thân bài :
Trong QTTB, Người đã tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để sử dụng các loại PTTB khác nhau, nội dung
khác nhau nhằm đạt mục đích đề ra.
Thời kỳ Pari.
Đây là thời kỳ “nặn bệ” cho QTTB của Nguyễn Ái Quốc. Sau khi gia nhập ĐCS Pháp (12-1920), những
PTTB được Người sử dụng ở thời kỳ này chủ yếu là báo chí. Hai bài đăng trên Tạp chí Cộng sản số 14,15 (1921)
là phát súng mở đầu cho QTTB chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam.. Đây là những văn kiện có tính tranh thủ
sự ủng hộ của ĐCS Pháp trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào Việt Nam của Người.
Người đã triệt để tận dụng một số tờ báo cánh tả ở Pháp như tờ Nhân Đạo (L’Humanité), tờ Lavie của
Công đoàn Pháp, là những tờ báo có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng lao động ở Pháp. Nội dung những bài
báo đó đã vạch mặt thực dân Pháp dùng thủ đoạn lừa bịp nhân dân Đông Dương và nhân dân Pháp. Chúng đã bóc
lột, bòn rút, bắt nhân dân ta làm bia đỡ đạn..., nhưng vẫn rêu rao là “khai hoá văn minh”, “giúp đỡ” các nước
thuộc địa, với bài Dưới cuộc khai hoá cao cả, Bình Đẳng, đã vạch rõ bộ mặt thật của thực dân Pháp. Ngoài ra bài
Quyền của những người lính chiến, đã phơi bày thủ đoạn xấu xa của thực dân Pháp đối với những gia đình lính
Pháp chết trận trong Thế chiến I (Người viết khoảng 20 bài cho 2 tờ báo này).
Để thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào các thuộc địa của Pháp, Nguyễn Ái Quốc tập
hợp những nhóm người yêu nước của các nước thuộc địa tại Pháp, thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa và ra một tờ
báo riêng của Hội lấy tên là Người cùng khổ (Leparia), nhằm mục đích tuyên truyền trực tiếp đến các thuộc địa
của Pháp trong đó có Việt Nam, kêu gọi các dân tộc đó đoàn kết lại, đánh thức họ, hướng cho họ một con đường
để lật đổ ách thống trị của Pháp.
Báo Người cùng khổ là PTTB chủ yếu của Người tại Pháp, đã giúp Người tuyên truyền sâu rộng hơn, trực
tiếp hơn cho các dân tộc bị áp bức trong đó có Việt Nam. Bản thân Người là cây viết chủ lực, với những bài Thù
ghét chủng tộc, Những kẻ đi khai hoá đã lên án ách cai trị dã man tàn bạo, bóc trần bộ mặt cái gọi là “khai hoá”
giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp với các dân tộc thuộc địa.
Ngoài sử dụng báo chí, Người còn diễn thuyết, viết kịch để cho nhân dân Pháp hiểu rõ bản sắc dân tộc và
con người Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ, thông cảm của nhân dân tiến bộ Pháp và vạch mặt bọn vua quan bán
nước,nhưvở Con rồng tre, Vi hành...
Như vậy, PTTB mà Nguyễn Ái Quốc sử dụng ở Pari chủ yếu là báo chí, đã đặt “nền móng” cho toàn bộ
QTTB, tạo tiền đề cho thời kỳ Matxcơva - định hướng con đường giải phóng dân tộc.
Thời kỳ Matxcơva.
Nghệ thuật kết hợp, sử dụng các loại PTTB cả mới và cũ của Người ở thời kỳ Matxcơva là khá toàn diện,
chĩa mũi dùi sắc bén hơn vào thực dân Pháp và từ thức tỉnh nâng lên giác ngộ nhân dân Việt Nam về con đường
GPDT:
- Vẫn tiếp tục sử dụng một số tờ báo ở Pháp như LHumanite’, Lavie, Leparia, bước đầu giác ngộ nhân dân Việt
Nam đến với tư tưởng cộng sản như bài “Lê nin và các dân tộc phương Đông” đăng trên Leparia số 27 năm 1924,
bài “Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa” đăng trên Lavie số 20 năm 1924. Nếu như ở Pari, những bài báo
của Người tập trung vào lên án thực dân Pháp, thì ở đây Người vẫn tiếp tục lên án mạnh mẽ, toàn diện hơn và
bước đầu giác ngộ nhân dân Việt Nam đến gần hơn với tư tưởng cộng sản.
- Truyền đơn là PTTB mới có tác dụng, hiệu quả sâu rộng trong QTTB, tác động đến phong trào yêu nước, phong
trào công nhân ở trong nước phát triển mạnh mẽ. Những bài phát biểu, tham luận của Người đã tranh thủ được sự
hỗ trợ, ủng hộ của bạn bè yêu chuộng hoà bình trên thế giới trong cuộc đấu tranh GPDT của nhân dân Việt Nam.
Những PTTB tư tưởng cộng sản vào Việt Nam thời kỳ Matxcơva đã hoàn tất những mục đích, yêu cầu của
Người đặt ra, đó là tiếp tục tố cáo thực dân Pháp một cách có hệ thống, hoàn chỉnh hơn; bước đầu giác ngộ chủ
nghĩa Mác - Lê nin cho nhân dân Việt Nam; tìm được sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới. Do vậy, trước khi rời
Pháp năm 1923, Thời kỳ Matcơva đã tạo tiền đề vững chắc cho QTTB chủ nghĩa Mác vào Việt Nam ở thời kỳ
Quảng Châu lên đến đỉnh cao.
Thời kỳ Quảng Châu - Đông Bắc Xiêm.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế cộng sản cử về Quảng Châu với nhiệm vụ chính là xúc tiến
kế hoạch xây dựng một tổ chức cộng sản ở Đông Dương. QTTB chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam của
Người đã đến lúc đơm hoa kết trái.
Nếu như ở Pari và Matxcơva, những PTTB mà Người sử dụng đã giúp cho nhân dân Việt Nam thức tỉnh,
giác ngộ tư tưởng cộng sản. Thì ở Quảng Châu, yêu cầu đặt ra với Người là phải tạo ra những điều kiện cần thiết
để xây dựng một đảng mác xít ở Việt Nam.
PTTB mà Người sử dụng ở thời kỳ này đã đạt đến “đỉnh cao” về nghệ thuật sử dụng. Nếu như hai thời kỳ
trước, Người sử dụng những PTTB sách, báo, truyền đơn, diễn thuyết..., thì ở Quảng Châu Người đã sử dụng
PTTB mới có tính quyết định cho việc ra đời tổ chức tiền thân của Đảng: thành lập Cộng sản đoàn làm hạt nhân,
mở các lớp huấn luyện chính trị, thành lập Việt Nam cách mạng Thanh niên( VNCMTN), gửi người đi học nước
ngoài.
Quá trình đào tạo, huấn luyện những thanh niên yêu nước kéo dài từ 1925-1927, tất cả có 10 lớp. Học xong
đại đa số được kết nạp vào VNCMTN và được cử về nước hoặc sang Xiêm hoạt động. Thực chất những học viên
này vừa là hạt nhân lãnh đạo cách mạng sau này, vừa là PTTB sống có vai trò quyết định trong QTTB chủ nghĩa
Mác vào Việt Nam.
Như vậy, thời kỳ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc truyền bá tư tưởng cộng sản thông qua một tổ chức thanh
niên theo khuynh hướng mác xít. Qua những PTTB sống này, tư tưởng cộng sản đã len lỏi đến các tầng lớp nhân
dân, chủ yếu là nông dân, công nhân, thanh niên, học sinh... PTTB này có ưu thế hơn hẳn các PTTB khác ở chỗ:
tiếp cận trực tiếp với mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả người không biết chữ; có thể giải thích ngay những thắc
mắc cho đối tượng được tuyên truyền; có thể tổ chức ngay những nhóm cách mạng ở trong nước...
QTTB chủ nghĩa Mác-Lê nin ở Quảng Châu-Đông Bắc Xiêm của Người vẫn là sự kết hợp, phát huy cả
PTTB mới và cũ một cách toàn diện, qui mô hơn.
Tiếp tục sử dụng sách, báo chí, nhưng khác hai thời kỳ trước ở chỗ là tập trung vào mục đích duy nhất:
truyền bá tư tưởng cộng sản vào trong nước. Người và học trò đã cho ra nhiều tờ báo tiếng Việt, nhằm vào nhiều
đối tượng khác nhau, như tờ Thanh Niên, Công Nông, Tiền Phong, Nguyệt san lính cách mạng..., nhưng tiêu biểu
nhất vẫn là tờ Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của VNCMTN. Tờ này đã phân tích, chứng minh những luận điểm
về chủ nghĩa cộng sản khoa học, Đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp vô sản: “Hỡi đồng bào thân mến, như
vậy chỉ có một con đường chân chính là phải theo cái đảng duy nhất kiên quyết trong hành động, đó là Đảng cộng
sản” . Ngoài ra, tờ Công Nông nhằm vào công nhân và nông dân, tờ Lính cách mạng chuyên dành cho binh sĩ
người Việt trong quân đội Pháp.
Ngoài báo chí, còn phải kể đến cuốn Đường cách mệnh của Người được xuất bản năm 1927. Nếu như cuốn
Bản án chế độ thực dân tập trung vào vạch mặt, tố cáo và làm cho đồng bào hiểu rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa
của thực dân Pháp, thì Đường cách mệnh đã vạch ra con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Sau Quảng châu, tại Xiêm Người tiếp tục mở các lớp huấn luyện chính trị, đổi tên tờ báo Đồng Thanh
thành tờ Thân ái, dịch một loạt tác phẩm kinh điển nhằm truyền bá sâu rộng hơn nữa tư tưởng cộng sản: Nhân
loại tiến sử hoá, Chủ nghĩa cộng sản ABC; Tuyên ngôn Đảng cộng sản... Ở đây thể hiện trình độ, nhận thức lớp
học trò của Người đã tiến bộ rõ rệt.
Tóm lại, QTTB chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc là cả một quá trình, có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, có hệ thống, tổ chức và phát triển từ đơn giản đến phức tạp, liên tục từ 1921 đến
khi ĐCSVN ra đời 3/2/1930.

Kết luận đánh giá :


Qua những PTTB tư tưởng cộng sản vào Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc sử dụng từ 1921- 1930, có thể rút
ra một số nhận xét sau:
Một là, triệt để khai thác các loại PTTB của các thời kỳ một cách toàn diện nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong
QTTB chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam. Trong mỗi thời kỳ, Nguyễn Ái Quốc đều kết hợp nhuần nhuyễn các
PTTB cũ, mới một cách hợp lý, khoa học và phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Trong sử dụng, Người đã nắm bắt
thấu đáo vai trò, ảnh hưởng của từng loại phương tiện trong QTTB. Ví dụ thời kỳ Pa ri, các báo cánh tả Pháp
nhằm mục đích tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Pháp; với Tạp chí cộng sản, Người đã gióng hồi chuông
báo động để phong trào cộng sản quốc tế chú ý, quan tâm đến Đông Dương hơn nữa trong việc truyền bá tư
tưởng cộng sản đến đây.
Hai là, nội dung truyền bá phù hợp với nhận thức của nhân dân Việt Nam qua từng thời kỳ. Có thể nói, phương
thức truyền bá tư tưởng cộng sản của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam là khác với các nước Châu Âu, đó là sự
cách biệt về trình độ nhận thức giữa Á và Âu. Do vậy, QTTB vào Việt Nam phải có trình tự, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp: ở Pa ri là quá trình nhận thức, ở Matxcơva là quá trình giác ngộ, ở Quảng Châu - Đông
Bắc Xiêm là quá trình hành động. Nếu thiếu một trong ba trình tự trên thì QTTB tư tưởng cộng sản vào Việt Nam
sẽ bị khập khiễng, thiếu hụt và có thể sẽ thất bại.
Sự đánh giá chính xác trình độ nhận thức của Nguyễn Ái Quốc với đối tượng được truyền bá qua từng thời
kỳ trong QTTB chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam đã giúp Người thành công viên mãn.
Ba là, qua các thời kỳ trong QTTB, Người đều đưa vào những loại PTTB mới cho phù hợp với thực tiễn khách
quan và nâng cao chất lượng truyền bá, như truyền đơn ở Matxcova, phương tiện tuyên truyền sống ở Quảng
Châu...Đối với PTTB cũ, không những Người vẫn tiếp tục sử dụng mà còn tăng thêm “ liều lượng” nhằm tạo sức
mạnh tổng hợp cho QTTB chủ nghĩa Mác- Lê nin vào Việt Nam.
Bốn là, đối tượng truyền bá chủ yếu là thanh niên yêu nước. Hiểu rõ trình độ dân trí ở nước ta rất thấp do chính
sách ngu dân của thực dân Pháp, cộng với tư tưởng phong kiến cổ hủ và trì trệ - đây là thách thức lớn với QTTB tư
tưởng cộng sản vào nước ta. Nhưng với sự mẫn cảm tuyệt vời, Nguyễn Ái Quốc đã thấu được sức mạnh to lớn của
lớp trẻ trong sự nghiệp cách mạng: họ là những thanh niên yêu nước, đầy lòng quả cảm và nhiệt huyết, có trình độ
nhận thức nhất định sẵn sàng tiếp thu những tư tưởng mới. Chính vì vậy, Người đã mở hàng loạt lớp huấn luyện tại
Quảng Châu, thành lập VNCMTN, ra Báo Thanh niên nhằm mục đích tập hợp, giáo dục, rèn luyện họ đi theo con
đường mà Người lựa chọn. Lực lượng thanh niên đó, qua “ trường học của Người” đã trưởng thành nhanh chóng,
trở thành những PTTB sống đem những tư tưởng tiên tiến của thời đại gieo mầm ở Việt Nam bất chấp sự kiểm soát
gắt gao của thực dân Pháp, nhằm chuẩn bị những tiền đề căn bản để tiến tới thành lập chính Đảng của giai cấp vô
sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930

3) Thành Lập DCSVN (1911-1930)

Mở bài :

Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người tham gia những hoạt
động chính trị sôi nổi ngay trên đất Pháp như : tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919,
Người tham gia Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “ Bản yêu sách 8
điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do,
dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “ Bản yêu sách” đã gây tiếng vang lớn đối với nhân dân Pháp và nhân dân
các nước thuộc địa của Pháp. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc từ đó được nhiều người biết đến.
- Tháng 7-1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa
của Lênin. Người vô cùng phấn khởi và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải
phóng dân tộc mình. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đi theo Quốc tế thứ III.
- Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu
tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản Việt
Nam đầu tiên.
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển
sang lập trường Cộng sản.
- 1921: Người sáng Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp để tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế
quốc.
- 1922 : Ra báo “ Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc,
góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.
- 1923 : Sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó làm việc ở Quốc tế Cộngsản.
- 1924 : Dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V.
Ngoài ra, Người còn viết nhiều bài cho báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân và viết cuốn sách nổi tiếng “ Bản án
chế độ thực dân Pháp” - đòn tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân Pháp-
- Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc (chủ yếu trên mặt trận tư tưởng chính trị) nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào nước ta. Thời gian này tuy chưa thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam, nhưng những tư
tưởng Người truyền bá sẽ làm nền tảng tư tưởng của Đảng sau này. Đó là :
* Chủ nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và nhân dân các thuộc địa. Đó là mối
quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và thuộc địa.
* Xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
* Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
- Tháng 6-1925 :Người thành lập “ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” và cho xuất bản tuần báo “ Thanh niên”
làm cơ quan ngôn luận của Hội.
- Tháng 7-1925 : Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Quốc tế, lập ra “Hội các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông”, có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
- Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày để đào tạo,
bồi dưỡng cách mạng.
- Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó đã
được xuất bản thành sách “Đường Kách Mệnh.
- Từ năm 1928 : Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở của mình ở khắp nơi. Hoạt động của
Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lênin, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô
sản. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị , tổ chức và đội ngũ
cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
- Giữa năm 1927-1930 : Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan ) về Trung Quốc, với danh nghĩa đại diện Quốc tế
Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Thân bài :

Cuối thế kỷ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc
biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến .

Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào
yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là
phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội
Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo...Các cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng
đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.

Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con
đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê
nin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước
ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn
bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ
nghĩa Mác-Lê nin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong
trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.

Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung,
Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương
Hạc Đính.

Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc
Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị dó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929,
những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày
25-7-1929 An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.

Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu
thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.

Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu
cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng
lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất
các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc)
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức
Cảnh (đại biểu DDCSD); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu (ANCSĐ). Đại biểu ĐDCSLĐ không đến kịp.
Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là
Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta
trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình
chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn
Ái Quốc.

Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,chấm dứt cuộc khủng hoảng
về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn
Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng
duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, người sáng lập và
rèn luyện Đảng ta.

Kết Luận phần ý nghĩa sự ra đời của DCSVN. (3.3 Trang 9)

Phần III(Mở bài )

Phân tích sự chuyển biến của PTCNVN trước khi CSVN ra đời :

Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch
máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân
Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước
ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đã hình thành. Đến cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên
hơn 22 vạn (năm 1929)

Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số dân, trình độ học vấn, kỹ thuật
thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền.

Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời còn có những
điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn
vừa mới từ nông dân bị bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức
mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước
chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô
sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.

Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có
ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách
mạng mạnh mẽ và khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho khối
đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức lại và hình thành được một đảng tiên
phong cách mạng được vũ trang bằng một học thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công
nhân trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc

Thần bài :

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác thuộc địa lần II ồ ạt, nó đã
tác động mạnh mẽ đến giai cấp công nhân Việt Nam, với các đặc điểm sau:

Phong trào đấu tranh của công nhân diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh mới.
Số lượng giai cấp công nhân công nghiệp tăng lên từ 10 vạn lên 22 vạn
Sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam 1919 – 1925, có tính chất từ tự phát chuyển sang tự giác,
So với thời kì trước, từ 1919 trở đi, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng.
Từ 1920 đến 1925 đã có 25 cuộc bãi công của công nhân.
Năm 1919, công nhân, thủy thủ tàu Sác-nơ đậu ở cảng Hải Phòng đòi tăng lương. Năm 1920, hơn 200 thủy
thủ Pháp ở cảng Sài Gòn bãi công đòi phụ cấp đắt đỏ. Cuộc đấu tranh này ảnh hưởng tích cực tới phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân Việt Nam.
Năm 1921, một số công nhân, thủy thủ Việt Nam làm việc trên các hãng tàu Pháp gia nhập Liên đoàn công
nhân tàu biển ở Viễn Đông.
Năn 1922, công nhân, viên chức các sở công thương tư nhân ở Bắc Kì, đấu tranh đòi nghỉ chủ nhật có
lương. Cuối năm này, 600 công nhân thợ nhuộm Sài Gòn - Chợ Lớn bãi công. Cuộc bãi công này trở thành một
“dấu hiệu của thời đại” mới, “lần đầu tiên một phong trào như thế nhóm lên ở thuộc địa” [17;446]
Năm 1923 – 1924, nhiều cuộc bãi công nổ ra ở các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn, như xi măng Hải
Phòng, mỏ than Cẩm Phả, nhà máy điện, xay xát gạo, dệt,... ở Hà Nội, Hải Dương, Nam Định...
Năm 1925, phong trào công nhân có bước phát triển nhảy vọt, xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh có quy mô
lớn, bước đầu có tổ chức, lãnh đạo. Tiêu biểu là cuộc bãi công của một công nhân Ba Son (Sài Gòn) vào tháng 8
năm 1925. Cuộc bãi công này do Công hội đỏ của Tôn Đức Thắng tổ chức, lãnh đạo với yêu sách “đòi tăng lương
20% lương, đòi thợ bị đuổi trở lại làm việc, và giữ lệ nghỉ trước nửa giờ vào ngày lĩnh lương”. Cuộc bãi công này
được công nhân, viên chức các nhà máy, công sở toàn thành phố hưởng ứng, ủng hộ. Kết quả, bọn chủ phải tăng
10% lương và thỏa mãn các yêu sách khác của công nhân. Nhưng công nhân Ba Son vẫn tiếp tục bãi công kéo dài
thời hạn sữa chữa tàu Mi-sơ-lê, không cho tàu thủy này chở binh lính và vũ khí sang đàn áp cách mạng Trung
Quốc.
Cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son (Sài Gòn) năm 1925, là mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển biến
mới trong phong trào công nhân Việt Nam, chuyển dần từ “tự phát” lên trình độ “tự giác”. Vì cuộc đấu tranh này có
tổ chức, lãnh đạo thống nhất, liên kết với phong trào đấu tranh khác và đấu tranh không chỉ có mục đích kinh tế mà
vì mục đích chính trị, thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam.

Từ 1926-1929 : Phong trào công nhân phát triển mạnh trên con đường tự giác.

-Điều kiện mới:

Từ 1925 trở đi phong trào có những bước phát triển,các điều kiện mới nhờ hoạt động truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lê Nin và con đường cách mạng vô sản, sự trở về của lãnh tụ HỒ CHÍ MINH và các nhà cm VN.

Từ 1925 có những chuyển biến mới tác động đến nhận thức của cnVN như:

+Sự phát triển của ptdtdc ở Trung Quốc

+đại hội lần V của Quốc Tế CS đã có những quyết định về con đường phát triển của cm thuộc địa.

+Sự phản biến của Tưởng Giới Thạch và sự đàn áp công xã Quảng Châu đã khiến cho nhân dân VN thấy rõ
bản chất của giai cấp tư sản và yêu cầu cấp thiết sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cm giải phóng dt
ở thuộc địa.

- Các phong trào tiêu biểu :

1926-1927 có nhiều cuộc bãi công quy mô lớn của 1000 cn nhà máy sợi Nam Định,500 cn đồn điền cao su
Cam Tiên - Phú Riềng.

1928 có cuộc bãi công của cn mỏ Mạo Khê

1929 có cuộc bãi công của cn sửa chữa xe lửa Tràng Thi - Vinh

-Các cuộc đấu tranh đã vượt ngoài phạm vi 1 xưởng,1địa phương,một ngành mà liên kết tạo thành pt
chung.Trình độ giác ngộ ý thức đấu tranh tự giác của cn đc nâng cao rõ rệt

-Một số thắng lợi lúc bấy h là những cán bộ đc Nguyễn Ái Quốc đào tạo ở Quảng Châu ( Trung Quốc ) đã
về nước lãnh đạo làm phong trào lớn mạnh hơn cả về chất lượng và số lượng.Số công nhân tham gia nhiều
gấp 2 lần so với 1919-1925.Đã có khoảng 30 cuộc bãi công của cn trong thời kì 1926-1929.

Kết Luận phần ý nghĩa sự ra đời của DCSVN. (3.3 Trang 9)

Câu 5 bài học kinh nghiệm

Để làm rõ bài học này, cần phải phân tích một số nội, dung cơ bản. Trước hết, phải xác định cho rõ Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của ai? Điều Lệ Đảng đã ghi rõ: ''Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc''. Thực tế đã chứng minh
điều đó không chỉ ghi trong Điều lệ, cũng không phải chỉ là những lời tuyên bố nhằm phủ dụ nhân dân mà Đảng ta
đã và đang hành động đúng như vậy. Đảng sinh ra trong lòng cuộc đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc. Đảng
lãnh đạo nhân dân và dân tộc được nhân dân và dân tộc đùm bọc, nuôi dưỡng, chở che. Đảng - Giai cấp công nhân -
Nhân dân lao động và cả dân tộc đã thực sự kết thành một khối vững chắc. Khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng là bền vững, không gì phá vỡ nổi. Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất
yếu lịch sử, phản ánh điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi trong dòng vận động lịch sử của dân tộc cũng
như trào lưu chung của cách mạng thế giới. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội là tất yếu khách quan. Không phải
ngẫu nhiên mà lịch sử trao cho Đảng sứ mệnh thiêng liêng đó. Trước năm 1930, ở Việt Nam có nhiều Đảng và
phong trào yêu nước ra đời và đã từng thử nghiệm là vai trò của quần chúng. Các tổ chức này và lãnh tụ của họ
không thiếu gì đức tính dũng cảm, hy sinh quên mình, nhưng do có hạn chế về thế giới quan và hệ tư tưởng cho nên
rút cuộc bị thất bại và tan rã.
Từ năm 1930 trở đi, trên vũ đài chính trị nước ta cũng xuất hiện một số đảng phái khác như Việt quốc, Việt cách,
Đại Việt... Song những đảng này đã phản bội lại lợi ích dân tộc, cam tâm làm tay sai cho đế quốc thống trị nước ta.
Như vậy, khác với tình hình nhiều nước trên thế giới, ở nước ta ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản đã là lực lượng
duy nhất lãnh đạo cách mạng. Đó hoàn toàn không phải là sự áp đặt ý muốn chủ quan của Đảng mà là sự giao phó
của lịch sử thông qua quá trình sàng lọc hết sức nghiêm khắc. Thứ ba, thực tế lich sử cách mạng Việt Nam cho thấy
Đảng Cộng sản đã rất xứng đáng với sự tin cậy, sự giao phó của lịch sử, của nhân dân, của dân tộc. Trên thực tế, từ
ngày có Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, cách mạng nước ta đã giành hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ 20. Đó là thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 lật
đổ ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp và triều đình phong kiến, lập nên Nhà nước Công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á, chọc thủng hệ thống thuộc địa cùa Chủ nghĩa đế quốc; là thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giải phóng miền Nam, chôn vùi thực dân cũ; là thắng lợi của cuộc kháng
chiến 22 năm chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đánh sập chủ nghĩa thực dân mới; là
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước trong gần 20 năm gần đây, vượt mọi khó khăn bao vây cấm vận, đưa nước
ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đứng vững và tiếp tục đi lên trong cơn động đất chính trị dữ dội trên thế
giới (năm l989- 1991) và cơn bão táp khủng hoảng tài chính, kinh tế ở khu vực (năm 1997 - 1998).
Những thành tựu trên đây không những được nhân dân trong nước mà cả thế giới thừa nhận. Từ người dân nô lệ trở
thành người chủ của đất nước độc lập, tự do, đó là giá trị dân chủ lớn nhất Đảng đã giành lại cho nhân dân. Trong
giai đoạn hiện nay, dân chủ của nhân dân đã được phát huy trên nhiều lĩnh vực và được thề chế hoá trong nhiều văn
bản pháp luật. Trước hết phải kể đến lĩnh vực kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã có những cơ chế, chính sách khuyến
khích phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đời sống dân chủ của toàn xã hội đã có những bước tiến rõ
rệt. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra” được các ngành, các cấp, các địa phương và cơ sở
tích cực thực hiện, mặc dù kết quả vẫn còn hạn chế, chưa được như mong muốn. Từ năm 1999, Bộ Chính trị đã có
Chỉ thị ''Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở'' với mục tiêu mở rộng hơn nữa dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Đảng là một cơ thể sống, do đó không thể tránh khỏi những
sai lầm. Điều quan trọng là Đảng không bảo thủ. Khi có sai lầm, Đảng công khai thừa nhận sai lầm trước nhân dân
và quyết tâm sửa chữa. Thí dụ, với phương châm ''nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại
hội lần thứ VI của Đảng, trong khi khẳng định những thành tựu đạt được, đã dũng cảm tự phê bình về những sai
lầm trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách lớn, trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, từ đó đề ra
đường lối đổi mới đúng đắn.
Từ thực tiễn đổi mới thành công từ năm 1986 đến nay, chúng ta nhận thấy trên lĩnh vực xây dựng Đảng đã đạt được
những thành tựu rất quan trọng:
Một là, thành tựu cơ bản và quan trọng nhất là Đảng đã đề ra được và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối
đổi mới một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là, Đảng đã khẳng định Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng. Ở những bước ngoặt của cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình
hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống những
luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Ba là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có tiến bộ về thực hiện dân chủ
trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội, nhất là sau khi có “Quy chế dân chủ ở cơ sở''.
Bốn là, đổi mới một bước tổ chức và cán bộ, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên; ngăn chặn
được sự sa sút, yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng; bước đầu cải tiến phương thức lãnh đạo và phong cách công
tác có tiến bộ trong công tác kiểm tra.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, công tác xây dựng Đảng vừa qua cũng còn không ít thiếu sót và khuyết điểm.
Hiện nay đang nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Thứ nhất, trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa giao lưu với các nước, trước những
tác động tiêu cực của các nhân tố tư bản và sự tiến công của các thế lực thù địch, một bộ phận cán bộ, đảng viên có
biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính tri, đạo đức và lối sống; Thứ hai, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của
Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới; Thứ ba, tổ chức cơ sở đảng ở một số nơi yếu kém, thậm
chí có nơi rệu rã, tê liệt; phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa kém dân chủ, vừa thiếu kỷ
luật, kỷ cương; Thứ tư, công tác kiểm tra chưa được chú trọng đúng mức và vẫn là một khâu yếu, nhất là việc kiểm
tra chấp hành đường lối, nghị quyết của Đảng, kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Đảng.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin vào quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước
vượt qua bao khó khăn thử thách, tiếp tục đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng cùng với khẳng định điều
đó, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII) và kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX) cũng nghiêm túc chỉ
ra tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên về nhận thức tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và sự
yếu kém của công tác tổ chức, hiệu lực và hiệu quả thấp của bộ máy quản lý. Do vậy trong tình hình ấy, nếu Đảng
ta không kiên định, vững vàng, trước hết là về chính trị tư tưởng và ý chí hành động; không trong sạch về đạo đức
lối sống thì sẽ không được nhân dân ủng hộ để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính vì vậy, tại Đại hội IX của Đảng, Trung ương quyết định phải tiếp tục thực hiện Cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng một cách có hiệu quả nhằm ngăn chặn và đẩy lùi một bước quan trọng tình trạng suy thoái, củng cố
sự kiên định về mục tiêu lý tưởng cách mạng, tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động, củng cố tổ chức chặt
chẽ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, coi đây là vấn đề sống còn của
Đảng, của chế độ ta.

Vận dụng :
Hiện nay có một số tài liệu phát tán đòi đa nguyên, đa đảng.Từ thực tiễn đất nước ta và từ những vấn đề lý luận đặt
ra, chúng ta khẳng định: Yếu tố quyết định dân chủ không phải do một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo. Một đảng
vẫn có thể bảo đảm được dân chủ. Đa đảng vẫn có thề mất dân chủ. Nhìn nhận vấn đề dân chủ ở một nước, phải
xem đảng cầm quyền ở đó họ thực thi dân chủ như thế nào chứ không thể căn cứ việc họ nói như thế nào về dân
chủ. Ví dụ Mỹ là một nước rất hay nói, thậm chí còn lên mặt dạy người khác về dân chủ, nhân quyền, nhưng trên
thực tế Mỹ lại là nước vi phạm dân chủ và nhân quyền ghê gớm nhất. 20% số dân nước Mỹ là những người giàu.
Số dân còn lại (80%) chia nhau 15% tài sản quốc gia. Như thế sao có thể gọi là một xã hội dân chủ được?! Trong số
80% những người không thuộc diện giàu có của nước Mỹ, có rất nhiều người bị chết đói vì thiếu cái ăn, chết rét, vì
thiếu cái mặc, chết bệnh vì không có thuốc và không có bảo hiểm y tế, lang thang cơ nhỡ vì không có chỗ ở...
Từ thực tiễn lãnh đạo đất nước 75 năm qua, Đảng ta chỉ rõ phải kiên định vấn đề có tính nguyên tắc là lấy chủ nghĩa
Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động, trong khi chúng ta
tăng cường sinh hoạt dân chủ, cởi mở, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới ở nước ta.
Nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng và hưởng tới kỷ niệm 115 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Mính vĩ
đại, dưới sự lãnh đạo cùa Đảng và được vũ trang bởi Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta tin
tưởng rằng mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, đân chủ, văn minh nhất định sẽ được thực hiện thắng
lợi

You might also like