You are on page 1of 7

Để thảo luận về dung dịch polymer, bạn có thể tham khảo sách

- Hóa Lý Polymer của Tager , NXB Mir 1978 .


- Cơ sở hóa học và hóa lý các hợp chất cao phân tử của Strekhepedev

--> Sách được dịch ra tiếng Việt và có ở thư viện Tổng hợp Lý Tự Trọng-tp HCM, mục D78 - Các hợp
chất cao phân tử

Để tiếp cận tốt , bạn cần nắm rõ:

Dung dịch thực là gì?


Dung dịch polymer khác các dung dịch chất tan thấp phân tử ở chổ:
- Xảy ra quá trình trương trước khi tan
- Độ nhớt cao ở nồng độ phân tán thấp
- Quá trình phân tán / di chuyển cấu tử (phân tử polymer) trong pha liên tục (dung môi) chậm
- Chịu ảnh hưởng nhiều về liên kết ngang của các cấu tử phân tán ( mạch polymer), khối lượng phân
tử, tính mềm dẻo của mạch
- Có các kiểu hệ : gel loại 1, gel loại 2, dung dịch đa điện ly

- Ứng dụng từ dung dịch polymer: hóa dẻo polymer, hệ dung môi cho sơn phủ, chất hấp phụ
polymer,...

Như vậy polymer có khả phân hủy sinh học không chỉ nằm gói gọn trong các ứng dụng có tính xanh như
vật liệu nông nghiệp, phân bón, chúng còn có ứng dụng trong y học như đã nêu trong bài viết của bạn
hoaquynh.

Thế theo các bạn, tại sao vật liệu này vẫn còn chưa được triển khai áp dụng rộng rãi tại VN dù rằng
đầy là vật liệu có tiềm năng và như cầu cao? ( xin chỉ bàn về khía cạnh kỹ thuật và hóa học)

Sự giảm cấp sinh học của chất dẻo dùng trong nông nghiệp

Lời giới thiệu

Polymer là các đại phân tử tổng hợp và tự nhiên cấu thành từ các đơn vị nhỏ hơn monomers kết nối
với nhau. Polymer tự nhiên bao gồm protein, polysaccharides, và nucleic acid. Polymers tổng hợp đã
được phát triển có độ bền và kháng chịu với tất cả các hình thức giảm cấp. Những đặc điểm này và
những đặc tính khác, chẳng hạn như độ cứng, tính thấm khí và độ trong suốt có thể được kiểm soát
bằng những thay đổi trong tổng hợp polymer, trọng lượng phân tử và / hoặc từ sử dụng các phụ gia.Vì
chúng được sử dụng rộng rãi, các vấn đề với việc tiêu hủy rác thải nhựa nông nghiệp ngày càng trở
nên trầm trọng.Mặc dù có gia tăng không ngừng việc tái chế rác thải, một số lớn chất thải vẫn còn phải
đem đi tiêu hủy. Các phương pháp phổ biến nhất cho việc tiêu hủy rác thải rắn là chôn đất. Sự kết hợp
việc giảm nguồn thải, tái chế, thiêu và làm mũn đang được phát triển ngày càng nhiều ở Tây Âu, Hoa
Kỳ và các nơi khác như là một cách thay thế cho việc chôn chất thải rắn trong đất. các polymer tổng
hợp được chế tạo và sử dụng vì chúng có tính kháng chịu giảm cấp. Tuy nhiên, khi chúng không còn
hữu dụng thì việc tiêu hủy chúng trở thành một vấn đề.Sự giảm cấp nhựa thải không phải là một quá
trình đơn giản, nhất là khi xét đến trong giảm cấp do tác động của môi trường. Cơ chế chi tiết của sự
giảm cấp nhựa thải trong các điều kiện môi trường vẫn chưa được hiểu thấu đáo và vẫn đang là đề tài
nghiên cứu chuyên sâu trong nhiều thập niên qua. Sự giảm cấp nhựa trong các chế độ khắc nghiệt như
thiêu đốt chỉ là một quá trình vật lý ( một trong những lựa chọn tiêu hủy chất thải) và không được coi
là liên quan đến giảm cấp do tác động môi trường tự nhiên.

Đặc biệt trong trường hợp chất thải nhựa nông nghiệp, một trong những cách thức sử dụng thay thế
việc tiêu hủy là sự giảm cấp sinh học. Sự giảm cấp sinh học liên quan đặc biệt đến polymer được thiết
kế cấu trúc mà ta gọi là polymer có thể phân hủy sinh học (polymer tự hoại). Hầu hết các chuyên gia và
các tiêu chuẩn đo lường hiện hành định nghĩa một polymer tự hoại hoàn toàn là một polymer được
chuyển đổi hoàn toàn thành khí carbon dioxide, nước, khoáng vô cơ và sinh khối do vi sinh (hoặc trong
trường hợp giảm cấp sinh học yếm khí thì sẽ nhựa sẽ chuyển đổi thành khí carbon dioxide, methane và
mùn) mà không có tạo chất độc hại. Tuy vậy, câu hỏi gây tranh cãi là thời gian đạt đến độ giảm cấp
như trên là bao lâu thì chấp nhận được và đo lường như thế nà. Thời gian cần đủ để chất liệu gốc
carbon phân hủy có thể kéo dài đến hàng ngàn năm. Do vậy, không phải mọi chất liệu gốc carbon có
thể giảm cấp sinh học. Chỉ có những vật liệu đạt mức độ giảm cấp sinh học chấp nhận được trong một
khoảng thời gian hạn định thì mới có thể gọi là vật liệu có khả năng phân hủy sinh học. Mức độ giảm
cấp sinh học chấp nhận được và thời gian hạn định của sự giảm cấp sinh học được định rõ trong các
tiêu chuẩn đo lường quốc tế và sẽ được nói rõ trong các phần tới.

Phương cách tiêu hủy polymer tự hoại là việc làm mũn. Tuy nhiên, quá trình làm mũn đòi hỏi cơ sở hạ
tầng quy mô bao gồm hệ thống thu lượm và trang thiết bị làm mũn chúng. Nó không là giải pháp thực
tế cho chất thải dẻo trong nông nghiệp khi so sánh với việc giảm cấp sinh học trong đất.

Sử dụng chất dẻo trong nông nghiệp

Tầm quan trọng của việc sử dụng chất dẻo trong nông nghiệp
Polymer được dùng trong nông nghiệp và chăn nuôi từ giữa thế kỷ 20. Sự phát triển chất dẻo trong
nông nghiệp đã cho phép các nhà nông gia tăng sản lượng mùa màng. Chất dẻo dùng trong nông
nghiệp ngày nay làm tăng hiệu suất , giúp thu hoạch sớm hơn, giảm sự lệ thuộc thuốc trừ sâu diệt côn
trùng, và bảo vệ thực phẩm tốt hơn cũng như giữ nước hiệu quả hơn. Các màng nhựa được dùng làm
vật liệu phủ nhà kiếng, lót kênh dẫn cũng như là màng ủ đất. Màng chất dẻo có thể cải thiện chất
lượng sản phẩm và cánh đồng khỏi sự khắc nghiệt của thời tiết, tối ưu hóa các điều kiện sinh trưởng,
tăng thời vụ và giảm nhiểm bệnh cây trồng. Thể tích màng phim dùng cho những ứng dụng nói trên
ước tính khoảng 2 triệu đến 3 triệu tấn /năm. Chất dẻo dùng rộng rải và chủ yếu trong thâm canh là
nhựa LDPE vì nó có cơ tính tốt, trong suốt và giá thành cạnh tranh.
Tiêu hủy chất dẻo nông nghiệp

Bởi chất dẻo dùng lượng lớn chủ yếu trong nông nghiệp và tăng theo mỗi năm, bài toán thu gom và
làm sạch cũng như tiêu hủy lượng rác thải chất dẻo nông nghiệp tích tụ dần là một bài toán lớn và khó.
Do vậy, các lựa chọn làm giảm cấp và tiêu hủy, hoặc khả năng giảm cấp sinh học của polymer được
dùng là chủ đề tâm điểm quan trọng trong các khía cạnh cả kinh tế lẫn môi trường.

Sự giảm cấp của chất dẻo dùng trong nông nghiệp

Sự giảm cấp trong suốt thời gian hữu dụng

Sự giảm cấp của một chất dẻo được định nghĩa là sự biến đổi gây hủy hoại trong diện thể, cấu trúc
hóa học, cơ lý tính. Điều này là quan trọng để phân biệt giữa sự khởi đầu của quá trình giảm cấp ( hình
thành trong máy đùn ở nhiệt độ 2000C nhưng có kiểm soát) và sự xuống cấp của nó trong quá trình sử
dụng. Quá trình giảm cấp dẫn đế sự hư hỏng được trì hoãn nhờ các chất ức chế chuyên biệt. Chất ức
chế giúp kéo dài tuổi thọ của chất dẻo. Nhiệt độ, bức xạ tia cực tím là các yếu tố xúc tiến làm giảm cấp
vật liệu. Sự giảm cấp của chất dẻo nông nghiệp trong quá trình sử dụng là do sự kết hợp của các yếu
tố trên mà chủ yếu là bức xạ cực tím. Sự giảm cấp này có thể kiểm soát có mực độ bằng việc sử dụng
các phụ gia phù hợp.

Sự giảm cấp sau khi sử dụng

Sự giảm cấp của chất dẻo thải sau khi sử dụng trong nông nghiệp liên quan trực tiếp đến các lựa chọn
tiêu hủy. Trong bất kỳ trường hợp, sự giảm cấp chất dẻo thải nông nghiệp không được gây ra ô nhiễm
đất và môi trường tính cả cảnh quan. Việc mô tả sự giảm cấp của chất dẻo, đo lường và kiểm soát sự
giảm cấp bị phức tạp bởi 3 yếu tố chính.

- Các cơ chế: Chất dẻo có thể giảm cấp theo nhiều hướng một cách liên tiếp hay cùng một lúc. Chất
dẻo bị phân mảnh bằng lực cơ học. Sự phân mảnh đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của sự
giảm cấp. Các thay đổi hóa học có thể xảy ra và bắt đầu với sự giảm cấp vô sinh. Sự giảm cấp hóa học
xảy ra thông qua các phản ứng của chất dẻo với hóa chất nông nghiệp hoặc các hóa chất khác. Sự
giảm cấp đi từ các phản ứng hóa thường liên quan đến sự cắt mạch- sự phân mảnh của các mạch
polymer. Sự bào mòn bề mặt là kết quả của sự cách mạch thông qua phản ứng thủy phân. Ở điểm nào
đó, một số chất dẻo có thể bị tấn công hiệu quả bởi vi sinh vật - điểm khởi đầu của giảm cấp sinh học.
Sự giảm cấp sinh học thường được xem bao gồm sự thủy phân có xúc tác men và thủy phân không có
xúc tác men. Sự giảm cấp do men có thể xảy ra bởi men ngoại bào và cả bởi men nội bào. Cả hai cho
kết quả cắt mạch polymer thành những phân đoạn ngắn và nhỏ hơn. Các men có thể vừa là men nội
bào mà nó có thể tách các liên kết trong mạch hoặc vừa là men ngoại bào mà nó có thể tách các liên
kết giữa các đơn vị monomer một cách tuần tự. Men nội bào tách liên kết trên mạch một cách ngẫu
nhiên đưa đến sự giảm trọng lượng phân tử một cách nhanh chóng. Sự tách tuần tự các phân đoạn
bởi men ngoại bào làm giảm trọng lượng phân tử ít thấy rõ hơn. Dưới một số điều kiện môi trường, vi
sinh vật giúp cho sự giảm cấp polymer thông qua sự tiêu hóa, nhai và bài tiết. Tất cả những cơ chế trên
là những hướng tiềm năng cho sự giàm cấp polymer.

- Các điều kiện môi trường: Sự giảm cấp polymer phụ thuộc vào môi trường mà chất dẻo đang ở
trong đó trong suốt quá trình sử dụng hoặc trong quá trình tiêu hủy sau đó. Động học giảm cấp
polymer tùy thuộc vào môi trường là không khí khô hay ẩm, đất trồng, đất xây dựng, mùn, nước cống,
nước ngọt hay nước biển. Mỗi môi trường đều có tính đặc thù riêng biệt theo sự khác biệt nồng độ
oxy, nước, hóa chất khác, ánh sáng ngày, và hệ vi sinh vật gây giảm cấp. Tùy theo bản chất môi trường
mà cơ chế giảm cấp cho hiệu quả cao hoặc thấp . các yếu tố môi trường được tìm thấy có ảnh hưởng
đến sự giảm cấp gây ra bởi vi sinh vật bao gồm nhiệt độ, hàm lượng ẩm, áp suất không khí, áp suất
oxy, nồng độ acid và kim loại, và mức độ phơi sáng. Các yếu tố liên quan đến vi sinh là nồng độ vi sinh,
có hay không có mặt men có thể thủy giải polymer, nồng độ men, sự hiện diên dinh dưỡng dạng vết
cho vi sinh vật và sự hiện diện chất ức chế. Nếu thiếu bất kỳ yếu tố được đòi hỏi nào, hoặc sự hiện
diện của yếu tố thấp dưới mức chuẩn , sự giảm cấp sinh học sẽkhông những bị chậm lại mà còn
ngưng toàn bộ cho đến khi gặp điều kiện thuận lợi.

-Thành phần trong polymer: Bên cạnh yếu tố môi trường, cơ chế và tốc độ giảm cấp cũng phụ thuộc
vào thành phần hóa học trong polymer. Đặc biệt tốc độ giảm cấp sinh học phụ thuộc vào đặc tính
polymer bởi vì chúng là cơ chất cho men. Một yếu tố xác định chúng có thể khả năng tự hoại hay giảm
cấp sinh học của một polymer là bản chất của liên kết hóa học hiện diện trong mạch polymer. Cấu trúc
hóa học của polyolefin là các nối đơn carbon-carbon trong mạch chính. Các nối đơn carbon-carbon làm
cho polyolefin mang tính kỵ nước. Do đó chúng không thể bị thủy phân. Chúng có thể được giảm cấp
thông qua cơ chế oxy hóa nhưng không dễ thực hiện vì quá trình gia công vật liệu đã làm tăng khả
năng kháng chịu oxy hóa. Chúng ta biết là các chất chống oxy hóa được cho vào để làm tăng khả năng
bền chịu các cơ chế giảm cấp. Bên cạnh bản chất liên kết hóa học trong polymer, sự phân nhánh và
hóa học lập thể cũng có vai trò quan trọng vì men có phản ứng chọn lọc lên các vị trí đặc biệt trong
mạch polymer. Trọng lượng phân tử và độ mềm dẻo của mạch polymer cũng quan trọng không kém vì
nó liên quan đến độ kết tinh. Mức độ kết tinh trong polyolefin ảnh hưởng đến sự thâm nhập oxy . Sự
oxy hóa chủ yếu chỉ xảy ra trong vùng vô định hình của polyolefin.

Sự giảm cấp sinh học của chất dẻo dùng trong nông nghiệp (tiếp theo)

Phân loại chất dẻo

Nguyên nhân chính làm giảm cấp các chất dẻo dùng trong nông nghiệp khi sử dụng là sự giảm cấp
quang học và bị oxy hóa.

Chất dẻo có thể được thành 4 nhóm chính thể theo mức độ dễ giảm cấp trong suốt thời gian phơi
trong điều kiện mội trường cụ thể và bản chất của sự giảm cấp mà chất dẻo được chế tạo để trải qua.
- Chất dẻo không tự hoại được
- Chất dẻo dễ tự hoại
- Chất dẻo tự hoại có kiểm soát ( chất dẻo có thể tự giảm cấp với các mức độ theo chương trình đã
định)
- Chất dẻo tự hoại nhờ môi trường ( chất dẻo của nhóm này có thể xếp vào một trong hai nhóm trên)

Chất dẻo không thể tự hoại

Chất dẻo thương mại thường bền trong thời gian sử dụng và chỉ giảm cấp nhẹ sau đó. Trong một số
môi trường, các đồ vật làm từ chất dẻo loại này nếu bị giảm cấp vẫn giữ nguyên thù hình của chúng
sau đó hàng chục năm. Sự bền dai của chất dẻo ( bền cơ học, chịu nước và chịu vi sinh tấn công) đã
làm chúng hữu ích trong nhiều ứng dụng hơn 40 năm qua.

Chất dẻo dễ tự hoại

Chất dẻo dễ tự hoại là loại chất dẻo sau khi hết thời gian sử dụng là nó "tự hủy". Tuy nhiên sự giảm
cấp dần dần của vật liệu này không thể kiểm soát được. Sau khi đạt tới tuổi thọ sử dụng, vật liệu này
hoặc bị rã ra hoặc bị tiêu hóa. Nó có thể được vi sinh vật tiêu hóa tiếp .Còn nếu không thì chất dẻo trở
thành bụi phân tán gây ô nhiễm. Khi được vi sinh tiêu hóa , chất dẻo này trở lại hệ sinh thái với
phương cách an toàn, không gây ô nhiễm. Điều này giúp định ra rõ trong các tiêu chuẩn đo lường về
đánh giá giảm cấp sinh học cho chất dẻo sẽ được bàn rõ ở phần sau.

Chất dẻo tự hoại có kiểm soát

Sự giảm cấp có kiểm soát là ý tưởng được đưa ra từ cách đây 30 năm. Mục đích là giúp chất dẻo được
sử dụng linh hoạt hơn, nghĩa là tạo sản phẩm có tuổi thọ sử dụng xác định và đa dạng hóa sản phẩm
với thời gian tuổi thọ khác nhau tùy theo ứng dụng. Sự khác biệt giữa chất dẻo loại này với loại dễ tự
hoại là mức độ kiểm soát sự giảm cấp theo thời gian và dạng đường cong giảm cấp. Chất dẻo tự hoại
có kiểm soát biểu lộ sự giảm cấp theo từng bậc và tốc độ giảm cấp lớn ở thời điểm định trước chứ
không xày ra từ từ đều đều như loại dễ tự hoại.

Chất dẻo tự hoại nhờ môi trường

Một số polymer được gọi là có thể tự hoại hay giảm cấp sinh học thì thực ra mang tính chất là có thể
bị bào mòn bởi sự thủy giải nhờ men hoặc hoặc giảm cấp do quang hóa hoặc tự hoại một phần. Các
polymer khác nhau này được xếp trong nhóm phân loại rộng hơn gọi là polymer tự hoại được nhờ môi
trường. Tất nhiên việc sử dụng thuật từ “ Nhờ môi trường” có thể bị hiểu sai trong một số trường
hợp. Ngay cả khi thuật từ này dùng rộng rãi trong các tài liệu tham khảo kỹ thuật và cả trong tiêu
chuẩn ASTM D6002-96 ( Các hướng dẫn chuẩn cho việc đánh giá khả năng phân hóa của các chất dẻo
tự hoại nhờ môi trường) , người ta vẫn chưa có thể tìm ra được một định nghĩa chính thức cho họ
polymer này.
Các chất dẻo tự hoại nhờ môi trường, dựa vào sử dụng thuật từ hơn là sự định nghĩa cụ thể , có thể
được coi là một nhóm rộng các vật liệu polymer tự nhiên và tổng hợp. Các polymer trong nhóm này
thực hiện sự thay đổi hóa học dưới tác động của các yếu tố môi trừơng . Các thay đổi hóa học phải
được theo tiếp bằng sự tiêu hóa hoàn toàn các sản phẩm giảm cấp bời vi sinh tạo ra khí CO2 và nước.
Đặc biệt, quá trình giảm cấp của chất dẻo tự hoại nhờ môi trường trải qua hai giai đoạn: phân rã và
khoáng hoá. Trong giai đoạn khởi đầu, sự phân rã liên quan rõ nét đến sự suy giảm tính chất vật lý như
biến màu, trở nên giòn và vỡ vụn. Giai đoạn thứ hai được cho là sự chuyển hóa sâu của các mảnh vụn
chất dẻo thành khí CO2 và nước, sinh khối ( trong điều kiện hiếu khí) hoặc CH4, CO2 và sinh khối tế bào
( trong điều kiện yếm khí). Sự giảm cấp và tiêu hóa chất dẻo tự hoại nhờ môi trường phải kết thúc
hoàn toàn và xảy ra ở tốc độ nhanh đủ hiệu quả để tránh sự tích tụ chất thải trong môi trường. Đã có
nhiều câu hỏi được đưa ra xoay quanh tính hợp lệ và các điều kiện cần và đủ về giai đoạn thứ hai này.

Các chất dẻo tự hoại nhờ môi trường có thể là loại nguyên liệu có thể tái chê1h hoặc không thể tái
chế. Các loại chất dẻo tự hoại nhờ môi trường có thể tái chế là cellulose, tinh bột, các ester của tinh
bột, collagen, nhựa visco, cellulose acetate ( có DS <2), các polyhydroxy alkanoate, polylactic acid (PLA).
Loại không thể tái chế được như polyvinyl alcohol, polycaprolactone, các copolyester aliphatic và
aromatic, blend của tinh bột với các polyester tự hoại, v.v… Nguyên liệu tái chế dùng cho sản xuất chất
dẻo tự hoại nhờ môi trường là có thể là các hợp chất thiên nhiên đơn giản ( như các amino acid,
đường, nguồn sinh dưỡng thủy sản và động vật) hoặc là các dẫn xuất từ các hợp chất thiên nhiên đã
được chuyển sang hóa học để xây dựng các thành tố cho chất dẻo tự hoại nhờ môi trường. Chất dẻo
tự hoại nhờ môi trường cũng có thể dược sản xuất từ các nguyên liệu không tái chế được, thông dụng
nhất là từ dầu mỏ và khí thiên nhiên. Các chất dẻo tự hoại nhờ môi trường thường được dùng ở dạng
blend hoặc composite mà trong đó có nhiều hơn hai loại vật liệu tự hoại kết hợp lại để đáp ứng các
yếu cầu tối ưu về tính năng phục vụ trong khi vẫn duy trì hay cải thiện khả năng tự hoại hoàn toàn.

Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc , trong phần hướng dẫn về áp dụng khoa học
kỹ thuật công nghệ cao và xanh ICS EDP-2003 dành cho chất dẻo tự hoại nhờ môi trường, các tính chất
cần có ở loại chất dẻo tự hoại nhờ môi trường như sau:
- Giảm cấp nhanh chóng kèm theo hoặc có sự giảm cấp sinh học
- Sản phẩm giảm cấp phải có thể sau đó tiêu hóa được nhờ vi sinh ( nghĩa là có thể được tiêu hóa và
chuyển hóa thành CO2 và nước bằng con đường sinh học)
-Dễ gia công
Tính đang dụng cao
Tính năng phục vụ chấp nhận được
Giá thành họp lý
Theo Bộ môi trường và tài nguyên của Úc, các phân loại chất dẻo tự hoại nhờ môi trường được định
ra như sau:
- Các polyester tự hoại
- các polymer gốc tinh bột tự hoại
- Các polyerm tan được trong nước
- Các polymer giảm cấp nhờ quang hóa
- Các bã màu giảm cấp có kiểm soát
Sự giảm cấp sinh học

Sự giảm cấp sinh học là sự giảm cấp hóa học của vật liệu gây ra bởi hoạt động của vi sinh vật diễn ra
trong tự nhiên. Các vi sinh vật gây giảm cấp hóa học là các vi khuẩn, nấm và tảo. Khi sự giảm cấp sinh
học diễn ra, quá trình này tạo ra khí CO2 hoặc CH4 (mê tan) và nước. Nếu có sự hiện diện oxy, quá
trình được gọi là sự tự hoại hiếu khí. Nếu quá trình xảy ra trong điều kiện không có oxy , nó được gọi
là quá trình tự hoại yếm khí. Sản phẩm của quá trình yếm khí là khí CH4 (mê tan) và nước. Trong vài
trường hợp, cả hai loại sản phẩm khí ( CO2, CH4) đều có mặt.
Sự khoáng hóa được định nghĩa như là sự chuyển hóa của các vật liệu tữ hoại hoặc sinh khối thành khí
( như CO2, CH4 và hợp chất nitơ), nước , muối vô cơ, và các khoáng chất. Sự khoáng hóa hoàn tất khi
tất cả phần vật liệu tự hoại hoặc sinh khối được tiêu thụ hết cũng như tất cả phần carbon được
chuyển thành khí CO2.

Có hai bước liên quan đến sự giảm cấp sinh học của polymer:
- Cơ học ( nghiền), hóa học ( bức xạ tia cực tím gây giảm cấp nhờ quang hóa hoặc giảm cấp do nhiệt).
Trong suốt bước này, vi nấm và vi khuẩn , hoặc các tác nhân sinh học khác ( sâu, mối, giun,rễ cây) cũng
có thể phân mảnh sản phẩm (phân hóa sinh học tạo mùn). Bước tạo mùn đầu tiên rất quan trọng và
hũu ích vì nó làm tăng bề mặt tiếp của vật liệu giảm cấp giúp thuận tiện cho bước kế tiếp xảy ra.

- Bước này liên quan đến sự giảm cấp sinh học gọi là Sensu Structo. Vi sinh vật tấn công và tiêu hóa sản
phẩm mùn. Chúng chuyển mùn thành các sản phẩm phụ và dần thành khí CO2 hoặc CH4 , nước và sinh
khối.

You might also like