You are on page 1of 64

CHƯƠNG 1

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ GIÁM SÁT (MONITORING)


CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
1. CHIẾN LƯỢC GIÁM SÁT MÔI TRƯỜNG
1.1. MỤC TIÊU GIÁM SÁT
Việc thu thập thông tin về sự tồn tại và nồng độ các chất trong môi trường phát sinh ra
từ nguồn thiên nhiên hay nhân tạo phải được thực hiện bằng đo lường các chất đó.
Nhưng các phép đo lường đơn (đo lường một lần) hoặc cách quãng thời gian một chất
nào đó thì chưa đủ giá trị để có thể đưa ra các phân bố không gian và thời gian. Hơn
thế nữa, sự giám sát (monitoring) các thông số môi trường cũng tương tự như các phép
đo trong một số ngành là sự đo đạc hay quan trắc nhắc lại các phép đo thực hiện với
mật độ mẫu đủ dày, về cả không gian và thời gian để từ đó có thể thực hiện được đánh
giá có hiệu quả các biến đổi và xu thế. Giám sát môi trường là phức hợp các biện pháp
khoa học công nghệ và tổ chức nhằm bảo đảm thu nhận được các thông tin mức độ
hiện trạng hay xu thế biến đổi các chất ô nhiễm phát thải vào môi trường hay nhiễm
vào các cơ thể sống của hệ sinh thái trên mặt đất. Hay nói một cách khác giám sát
được lập kế hoạch để kiểm soát môi trường một cách có hệ thống trạng thái và xu thế
phát triển của các quá trình tự nhiên trong đó có bàn tay của con người. Do vậy, thuật
ngữ giám sát chất lượng môi trường, ở đây cần được hiểu là quan trắc, đo lường, ghi
nhận một cách thường xuyên, liên tục và đồng bộ chất lượng môi trường và các yếu tố
có liên quan đến chúng.
Theo UNEP, giám sát môi trường có thể được tiến hành để nhằm một số mục tiêu sau
đây:
(1) Để đánh giá các hậu quả ô nhiễm đến sức khỏe và môi trường sống của con người,
như vậy sẽ xác định được mối quan hệ nguyên nhân và hậu quả của nồng độ chất ô
nhiễm, ví dụ như giữa sức khỏe và biến đổi khí hậu.
(2) Để đảm bảo an toàn việc sử dụng tài nguyên (không khí, nước, đất, sinh thái …)
vào các mục đích kinh tế.
(3) Để thu được các số liệu hệ thống dưới dạng điều tra cơ bản (hay còn gọi là đo đạc
thường xuyên) chất lượng môi trường và cung cấp ngân hàng dữ liệu cho sử dụng tài
nguyên trong tương lai.
(4) Để nghiên cứu và đánh giá các chất ô nhiễm và hệ tiếp nhận chúng (xu thế tiềm
năng ô nhiễm).
(5) Để đánh giá các biện pháp kiểm soát luật pháp về phát thải.
(6) Để tiến hành các biện pháp khẩn cấp tại những vùng có ô nhiễm đặc biệt.
Một vấn đề khác nhưng rất cơ bản của giám sát chất lượng môi trường là thiết kế
chương trình giám sát theo một hay nhiều mục tiêu đã nêu ở trên. Mỗi mục tiêu tự bản
thân đã đòi hỏi rất nhiều các yếu tố cần và đủ để có một chương trình giám sát. Ví dụ,
số lượng của lưới điểm lấy mẫu, độ dài của giám sát, tần suất lấy mẫu, kỹ thuật lấy
mẫu và phân tích mẫu và đồng thời nó cũng là các số liệu đầu ra của chương trình
giám sát. Sự quyết định giám sát cái gì, khi nào, ở đâu, và như thế nào được vạch ra
chỉ khi mục tiêu giám sát đã được xác định. Do vậy, điều quan trọng nhất của thiết kế
một chương trình giám sát là phải thiết lập được mục tiêu giám sát. Đây là bước cần
thiết để qui định loại thông tin mà chương trình giám sát (hệ thống chỉ tiêu chất ô
nhiễm quan trắc) phải cung cấp và quyết định thể loại giám sát (thể loại quan trắc).
Trong hình 1.1, 1.2, 1.3 là các sơ đồ khối các xem xét được đưa ra để quyết định thiết
kế một chương trình giám sát.
Mục tiêu

Vị trí và số lượng điểm đo Thông số giám sát Độ dài giám sát

Phương pháp lấy mẫu

Lựa chọn thiết bị

Kỹ thuật phân tích

Phương pháp hiệu chuẩn

Phương pháp ghi số liệu

Phương pháp trình bày


kết quả

Công bố kết quả

Hình 1.1. Sơ đồ giới thiệu các bước thiết kế chương trình giám sát môi trường
Chất lượng môi
trường

Thu thập mẫu

Phân tích trong phòng


thí nghiệm

Xử lý số liệu

Phân tích số liệu

Lập báo cáo

Sử dụng thông tin

Hiểu biết chính xác về


chất lượng môi trường

Hình 1.2. Sơ đồ giới thiệu đường đi của thông tin cho một hệ thống giám sát
môi trường
Từ các sơ đồ, ta thấy rằng các thành phần của một chương trình giám sát mà sản phẩm
cuối cùng của nó là một báo cáo đầy đủ về chiến lược giám sát phải được các nhà
hoạch định chiến lược phê duyệt. Báo cáo này cần phải bao gồm các cơ sở và luận cứ
xác đáng, ví dụ như cơ sở thiết lập hệ thống giám sát và phân tích, thông số đo, tần
suất đo, hệ thống đánh giá bao gồm các tiêu chuẩn đánh giá, công cụ đánh giá, công cụ
trình bày số liệu v.v. Ngoài ra, một số vấn đề quan trọng khác như tổ chức thực hiện
chương trình giám sát liên quan đến nhân sự, trách nhiệm và vấn đề tài chính v.v.
Tóm lại, một thiết kế chương trình giám sát phải bao gồm các tiêu đề sau:
(1) Chiến lược giám sát.
(2) Mạng lưới giám sát bao gồm cả hệ thống điểm đo, thông số đo và phân tích, việc
sử dụng các tiêu chuẩn v.v.
(3) Hình thức trình bày và thể hiện kết quả.
(4) Hệ thống tổ chức về nhân lực và vật lực của từng công đoạn trong toàn bộ hệ
thống.
(5) Kế hoạch chi phí – hiệu quả.
(6) Phân tích rủi ro (nếu có).

Quản lý môi trường

Yêu cầu về thông tin Sử dụng thông tin

Chiến lược giám sát Báo cáo

Thiết kế mạng lưới Phân tích số liệu

Thu thập mẫu Xử lý số liệu

Phân tích trong phòng


thí nghiệm

Hình 1.3. Sơ đồ giới thiệu các hoạt động của vòng giám sát và đánh giá
chất lượng môi trường
1.2. THỂ LOẠI GIÁM SÁT
Các nguồn gốc phát thải ô nhiễm có thể do hoạt động con người hoặc có thể do các
hoạt động thiên nhiên làm tổn hại đến môi trường cũng như đến chất lượng cuộc sống
của con người. Sự phân loại thể loại giám sát môi trường cũng vì thế được chia ra làm
hai loại khác nhau, đó là:
• Giám sát nguồn thải.
• Giám sát chất lượng môi trường.
Mục tiêu chính của chương trình giám sát chất lượng môi trường không bao gồm kiểm
soát các nguồn thải do đó trong cuốn sách này chương trình giám sát nguồn thải chỉ
liệt kê một số thông tin chính để tham khảo.
1.2.1. Giám sát nguồn thải
Mục tiêu
• Để xác định lượng thải hoặc tốc độ thải của các chất ô nhiễm vào môi trường từ
những nguồn thải cụ thể nhằm phục vụ cho một hay nhiều mục đích đã nêu ở các
sơ đồ nói trên.
• Để đánh giá hiệu quả xử lý của trạm xử lý chất thải.
• Để đánh giá sự tuân thủ pháp luật hoặc tiêu chuẩn thải vào môi trường v.v.
Để phục vụ mục đích này người ta có thể giám sát bằng hệ thống giám sát cố định
hoặc di động cho cả ba loại chất thải: rắn, lỏng và khí. Một số thể loại giám sát này
được vắn tắt như sau:
- Giám sát cố định nguồn thải điểm (ví dụ như ống khói nhà máy).
- Giám sát lưu động nguồn thải khí, lỏng trên một diện rộng.
- Giám sát cố định nguồn thải lỏng.
1.2.2. Giám sát chất lượng môi trường
Môi trường nước và môi trường không khí đều thuộc loại môi trường chất lưu (chất
chảy), do vậy sự lan truyền các chất trong hai môi trường này có những nét giống
nhau, quá trình vận chuyển vật chất dưới hai môi trường này đều xảy ra do quá trình
khuyếch tán và vận tải. Điều khác nhau chỉ ở chỗ cường độ của các quá trình trên
không như nhau. Thông thường quá trình lan truyền trong môi trường không khí rất
mạnh mẽ còn trong môi trường nước xảy ra chậm hơn nhiều. Do vậy, các chất ô nhiễm
trong nước chỉ tồn tại trong khu vực gần nguồn thải chỉ trừ các chất bền vững và tồn
tại lơ lửng trong nước lâu dài như bụi phóng xạ của các nguyên tố có chu kỳ bán phân
hủy lớn.
Mục tiêu giám sát chất lượng môi trường bao gồm sáu mục tiêu như đã trình bày ở
phần mục tiêu chiến lược giám sát môi trường. Nhưng mục đích các xem xét khi thiết
kế mạng lưới giám sát bao giờ cũng phải đảm bảo các kết quả đo lường đưa ra chính
xác. Có nghĩa là các mẫu phải là đại diện cho các điều kiện chủ đạo của môi trường về
thời gian và không gian. Như vậy, không chỉ không gian chọn đo đạc mà còn cả vị trí
lấy mẫu tại không gian đã lựa chọn cũng có tầm quan trọng. Để phục vụ mục tiêu đã
lựa chọn của cả hệ thống giám sát, sự lựa chọn một mạng lưới vị trí đo đặc thù, việc
xác định thể loại giám sát, sự xác định không gian địa lý nơi sẽ đặt vị trí điểm đo và
cuối cùng là vị trí sẽ lấy mẫu hoặc đo đạc đòi hỏi phải được kiểm tra qua bốn bước:
(1) Xác định mục đích phục vụ hệ thống lưới trạm giám sát.
(2) Xác định thể loại giám sát tốt nhất để đáp ứng mục tiêu.
(3) Xác định vị trí tổng thể để đặt vị trí điểm đo.
(4) Xác định lưới giám sát cụ thể.
Như vậy, chọn số lượng vị trí điểm đo đạc trong một hệ thống trạm đo đạc phụ thuộc
rất nhiều vào các thông số đo đạc và vào mục tiêu đo đạc. Ví dụ, để đo đạc được chất
lượng không khí (cho thông số SO2 và khói) tại Liên hiệp Anh, người ta đã phải dùng
một hệ thống bao gồm 1.200 trạm, mặc dù cho đến nay con số này đã được giảm đi
nhiều. Khi hệ thống trạm bao gồm quá ít số lượng trạm thì các vận chuyển chất thải
thông qua các điều kiện thủy văn và khí tượng xảy ra ở giữa các trạm sẽ không được
thể hiện ở dãy số liệu của hệ thống trạm và như vậy hệ thống trạm đó sẽ không phục
vụ được mục tiêu đặt ra là hệ thống giám sát chất lượng môi trường.
1.2.2.1. Giám sát chất lượng không khí
Các vấn đề ô nhiễm không khí biến động rất lớn từ vùng này sang vùng khác và từ
chất thải khí này sang chất khác. Sự khác nhau về địa hình, khí hậu, đặc thù nguồn
thải, bản chất nguồn thải, các qui chế hành chính và luật pháp khiến cho chương trình
giám sát cũng sẽ thay đổi về mục đích, nội dung, độ dài và do đó sẽ thay đổi về cả thể
lọai trạm giám sát. Một số chuyên gia cho rằng vẫn có thể phân loại về các hệ thống
giám sát chất lượng không khí như sau:
(1) Hệ thống trạm giám sát cho một nguồn hay một nhóm nguồn phát thải. Loại này có
thể coi như giám sát phát thải địa phương.
(2) Hệ thống trạm có thể được thiết lập bao gồm số lượng trạm rất lớn trên một diện
tích rất lớn bao gồm cả vùng có ô nhiễm cao nhất đến vùng có ô nhiễm ít nhất (như ở
nông thôn) nhằm có một bức tranh toàn diện và dữ liệu rất cơ bản về thông số ô nhiễm
cần quan tâm ví dụ như dự án đã nêu trên ở Anh.
(3) Các hệ thống trạm cơ bản để theo dõi mức nền ô nhiễm thường được thiết lập ở các
vị trí tiêu biểu cho đặc trưng điều kiện tự nhiên và ít có sự gia nhập trực tiếp các nguồn
thải.
A. Hệ thống trạm giám sát địa phương
Loại hệ thống này thường đặt ra nhiệm vụ cụ thể theo dõi hoặc kiểm tra mức độ ô
nhiễm do một hay nhiều nguồn thải khí. Mức độ ô nhiễm tại mặt đất được giám sát và
sau đó được tính toán và dự báo bằng các mô hình dự báo. Trong trường hợp này
thông thường các vị trí đo đạc được phác thảo bằng các mô hình tính toán nồng độ ô
nhiễm.
B. Hệ thống trạm giám sát phạm vi lãnh thổ rộng
Các chất ô nhiễm sau khi được phát ra từ nguồn sẽ được lan truyền hoặc khuyếch tán
đến các vị trí xa hơn nhiều so với nguồn phát ra chúng. Để nhận biết mức độ lan bao
xa các chất ô nhiễm, mức độ biến đổi về nồng độ giữa phát thải và nơi tiếp nhận,
người ta cần phải thiết lập một hệ thống trạm giám sát trên phạm vi diện tích rất rộng
để theo dõi. Như đã nêu, tại nước Anh, một hệ thống có tên là Khảo sát Quốc gia về ô
nhiễm không khí (National Survey of Air Pollution – NSAP) đã được triển khai với
1.200 trạm năm 1961, giám sát hàng ngày cho cả đô thị và nông thôn. Năm 1981 hệ
thống này được phê duyệt lại với 150 trạm cho mục tiêu giám sát dài hạn (long-term)
và 400 trạm cho mục đích ngắn hạn tập trung ở các thành phố. Các trạm thành phố
hiện vẫn đang hoạt động ngoài mục đích phục vụ Quốc gia còn cho cả khu vực khối
Cộng đồng chung châu Âu.
C. Hệ thống trạm giám sát phạm vi vùng và Quốc tế
Các trạm này được thiết lập với mục đích theo dõi dài hạn các biến đổi ô nhiễm nền
trong phạm vi Quốc tế. Loại trạm này được đặt ở vùng xa xôi hoặc vùng không có ảnh
hưởng trực tiếp của nguồn thải. Đại diện cho hạng trạm này là của Hệ thóng trạm giám
sát ô nhiễm nền không khí (Background Air Pollution Monitoring Network –
BAPMoN) và của Hệ thống trạm giám sát môi trường không khí toàn cầu (Global
Environmental Monitoring System/ Air – GEMS/AIR).
1.2.2.2. Giám sát chất lượng nước
Các chất ô nhiễm trong môi trường nước luôn luôn biến đổi cả về chất lẫn về lượng.
Trong môi trường không khí chúng biến đổi chủ yếu là do hai quá trình cơ học như
ngưng tụ, lắng đọng và quá trình hóa học dưới tác động của các yếu tố vật lý và hóa
học như nhiệt độ, độ ẩm và bức xạ Mặt trời. Trong môi trường nước, quá trình biến đổi
của các chất phức tạp hơn nhiều. Ngoài các quá trình biến đổi dưới tác dụng của các
nhân tố vật lý và hóa học còn có biến đổi do các sinh vật gây ra mà sự biến đổi này của
các chất ô nhiễm lại phụ thuộc vào các yếu tố khác ví dụ như nhiệt độ nước. Người ta
thấy rằng, quá trình phân hủy dầu và các sản phẩm dầu do sinh vật sẽ tăng cường độ
lên khoảng hai lần khi nhiệt độ nước tăng lên 10oC. Quá trình biến đổi các chất trong
môi trường nước có thể xảy ra theo hai chiều ngược nhau tùy theo các điều kiện cụ
thể.
Ô nhiễm nước bắt nguồn từ các chất ô nhiễm khí, ô nhiễm đất và trực tiếp từ các
nguồn thải lỏng (đô thị, công, nông nghiệp). Các hậu quả của ô nhiễm nước sẽ dẫn
đến:
• Kích thích sự phát triển của thủy thực vật dẫn đến phú dưỡng mà hậu quả của
nó là dẫn đến sự phân hủy oxy sẽ mang lại sự thay đổi về sinh thái nước.
• Các hậu quả trực tiếp hay gián tiếp về độc chất đến thủy sinh vật.
• Làm biến mất giá trị thực tiễn của nước.
Giám sát chất lượng nước thiên nhiên có thể phục vụ cho mục đích sau:
• Thu thập các thông tin chung về chất lượng nước sông, hồ, cửa sông và biển.
• Để đánh giá ảnh hưởng sự tham gia làm biến đổi chất lượng nước từ các nguồn
thải khi chúng gia nhập.
• Để kiểm tra chất lượng nước tại nơi mà chúng được khai thác sử dụng là nguồn
nước cấp.
• Để đánh giá như một chỉ thị ô nhiễm tích lũy (sử dụng trầm tích và sinh học).
Có hai lý do gây sự phân bố không đồng nhất chất lượng nước, đó là:
a) Nếu hệ thống nước được cấu tạo từ hai hoặc nhiều hơn loại nước làm cho chúng
không xáo trộn được hoàn toàn, ví dụ như phân tầng nhiệt tại các hồ hay tại vị trí
thấp hơn nguồn xả nước thải ra sông.
b) Nếu như chất ô nhiễm phân bố không đồng đều trong một hệ thống nước không
đồng nhất (đa hệ), ví dụ như dầu mỡ có xu thế luôn nổi trong khi chất rắn lơ lửng
luôn có xu thế chìm. Những phản ứng hóa học hay sinh học cũng có thể xảy ra
không đồng nhất tại những phần khác nhau ngay trong một hệ thống nước làm thay
đổi hoặc biến đổi nồng độ chất ô nhiễm. Khi mức độ xáo trộn là chưa biết, một
khảo sát ngắn có thể cần phải tiến hành trước khi ra quyết định vị trí trạm lấy mẫu.
Các số đo cần trong khảo sát này là: pH, độ dẫn điện, nhiệt độ, DO và một số chất
ô nhiễm khác đặc thù của cửa thải.
Tầm quan trọng của vị trí trạm lấy mẫu là rất lớn. Nếu vị trí trạm lấy mẫu ở hạ lưu
sông có nguồn thải đi qua, dãy số liệu lấy mẫu và đo lường cần phải thể hiện đủ cho
chiều dài, chiều ngang và độ sâu của nơi lấy mẫu. Nếu chất lượng nước trung bình
được thiết lập cho mục tiêu dài hạn, trạm lấy mẫu nên lấy mẫu ở những nơi cuối nguồn
(hạ lưu) để các khuyếch tán theo chiều dài và các xáo trộn đã diễn ra tương đối hoàn
toàn. Lấy mẫu vùng cửa sông có vai trò đưa ra những biến thiên không gian và thời
gian cho toàn bộ dòng sông trước khi đổ ra biển. Vị trí trạm lấy mẫu cửa sông phụ
thuộc vào độ lớn và tầm quan trọng của cửa sông cũng như vào các thông số quan tâm.
Xác định nồng độ hay giám sát các kim loại vết trong chất lượng nước thiên nhiên là
khâu cơ bản để tính toán trữ lượng hoặc chu trình của chúng.
1.3. QUI PHẠM ĐẶT VỊ TRÍ ĐIỂM ĐO (HAY TRẠM) GIÁM SÁT CHẤT
LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
1.3.1. Đặt vấn đề
Sự lựa chọn số lượng trạm (vị trí điểm đo) trong một chương trình giám sát phụ thuộc
chủ yếu vào mục tiêu của chiến lược giám sát và các thông số dự kiến đo lường. Sự
lựa chọn các mục tiêu phụ thuộc vào mục đích chức năng và nhiệm vụ mà cơ quan
quản lý trực tiếp yêu cầu và đòi hỏi mà bốn bước như đã liệt kê ở trên là các bước căn
bản để thiết kế một hệ thống giám sát.
Một trong những mục tiêu chính của hệ thống trạm giám sát chất lượng môi trường là
theo dõi xu thế dài hạn (theo mùa hoặc theo năm) chất lượng các thành phần chủ yếu
của môi trường (nước và không khí). Do đó, để đánh giá được xu thế biến đổi dài hạn
này, việc so sánh số liệu từ trạm này sang trạm khác là rất quan trọng. Phục vụ tiêu chí
số liệu hay kết quả đo lường này, kỹ thuật đo lường và vị trí điểm đo đều mang tính
quan trọng như nhau. Mặc dù rất khó khăn trong việc tìm được đúng vị trí cần giám sát
đáp ứng được mọi yêu cầu đảm bảo về kinh tế và kỹ thuật, nhưng việc đưa ra một qui
phạm hay còn gọi như là các tiêu chí để đặt vị trí trạm là cần thiết.
1.3.2. Nguyên tắc chung để thiết lập một hệ thống giám sát chất lượng môi trường
Giám sát chất lượng môi trường bao giờ cũng kéo theo nhiều chi phí về thời gian, tiền
của và nhân lực. Nhưng do tầm quan trọng của nó (vì đã xảy ra nhiều thảm họa môi
trường) nên việc giám sát cần phải được lập kế hoạch rất cẩn thận, trong đó có hai vấn
đề rất đáng quan tâm là thiết lập mục tiêu giám sát và kế hoạch sử dụng số liệu giám
sát.
Để có thể thiết lập một hệ thống giám sát, người ta cần phải giải đáp những vấn đề lớn
sau đây:
(1) Mục tiêu giám sát và kế hoạch sử dụng số liệu giám sát.
(2) Số lượng và vị trí mạng lưới đo đạc và lấy mẫu. Thể loại chất ô nhiễm cần phải đo
đạc và lấy mẫu. Xử lý số liệu đã đo đạc và phân tích (kết quả giám sát) bằng giá trị
nào (cực đại, trung bình hay cả hai) của từng vị trí đo đạc và lấy mẫu. Tần suất, độ
dài chu kỳ lấy mẫu.
(3) Các vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng.
Giám sát chất lượng môi trường không khí và nước là một trong những nhiệm vụ cơ
bản của kế hoạch bảo vệ và quản lý tài nguyên. Các thông tin về biến đổi và dao động
của nồng độ các chất gây ô nhiễm theo không gian và thời gian là những thông tin đầu
vào của một kế hoạch kiếm soát và quản lý môi trường. Các yêu cầu theo thời gian bao
gồm: sự so sánh các nồng độ này theo phân bố thẳng đứng và nằm ngang. Theo các
công trình đã báo cáo từ nước ngoài, khi tiến hành một kế hoạch giám sát chất lượng
môi trường, nhất thiết phải sử dụng một mạng lưới điểm lấy mẫu nằm trong và ngoài
khu vực quan tâm, thiết kế một mạng lưới như vậy phụ thuộc vào nhiều yếu tố và ít
nhất là bốn yếu tố:
• Điều kiện tự nhiên (địa hình, khí tượng, thủy văn…).
• Điều kiện nguồn thải.
• Điều kiện các hệ chịu tác động các chất ô nhiễm (người, động vật, công trình
…).
• Điều kiện chi phí (điều kiện này tuy không phụ thuộc vào ba điều kiện trên).
Nhìn chung, mạng lưới trạm thường khác nhau. Một ví dụ cho nguyên tắc đặt trạm
giám sát chất lượng không khí: các điểm lựa chọn căn bản dựa trên quỹ đạo gió và
nguồn thải trong thời kỳ nghiên cứu, có thể là một mạng trạm kiểu đối xứng như trên
các vòng tròn đồng tâm hoặc cũng có thể các điểm đặt trên các đầu mút hoặc tâm một
mạng lưới ô vuông. Thông thường trong các nghiên cứu đều có phối hợp một mạng
lưới cố định được bổ sung bằng những trạm di động để có thể lấy được nhiều mẫu hơn
trong thời kỳ có quan tâm đặc biệt. Để thu được những mẫu theo chiều thẳng đứng
trong không khí người ta sử dụng các tháp đo, máy bay, bóng bay v.v. Các trạm đặt
trên mặt đất phải được chuẩn hóa về mọi mặt (vị trí, địa hình, phương pháp lấy mẫu và
phân tích, trang thiết bị) sao cho các mẫu lấy được phải mang tính đặc trưng, đủ độ tin
cậy để có khả năng so sánh.
Ngoài ra một số vấn đề quan trọng khác liên quan đến kinh tế kỹ thuật cần xem xét và
cân nhắc khi hoạch định vị trí mạng lưới trạm giám sát:
(1) Khả năng kinh phí đầu tư.
(2) Yêu cầu về nhân lực, thiết bị và đánh giá số liệu.
(3) Khả năng về sự thành thạo của nhân viên.
(4) Lưu trữ số liệu.
1.3.3. Một số phân loại hệ thống giám sát chất lượng môi trường
Hệ thống giám sát chất lượng môi trường bao gổm vị trí giám sát, đo đạc, lấy mẫu
(mạng lưới trạm giám sát), các phương tiện kỹ thuật (nhà xưởng, máy móc thiết bị đo
đạc, phân tích và các phòng thí nghiệm) và nhân lực để vận hành, giám sát đo đạc, xử
lý, phân tích, thông tin và phục vụ báo cáo chất lượng môi trường. Nó là công cụ cơ
bản để kiểm soát chất lượng và ô nhiễm môi trường và là cơ sở để quản lý và phát
triển hệ thống giám sát môi trường.
Dựa vào qui mô không gian người ta phân các hệ thống trạm giám sát môi trường
thành các hệ thống sau:
• Qui mô địa phương: có các hệ thống giám sát môi trường của một tỉnh, một
thành phố, thậm chí của một nhà máy hoặc khu công nghiệp (Local Environmental
Monitoring System).
• Qui mô quốc gia: hệ thống giám sát môi trường Quốc gia (National
Environmental Monitoring System).
• Qui mô khu vực (vùng): hệ thống giám sát môi trường cho một vùng có diện
tích rộng lớn ví dụ như mạng lưới lắng axit vùng Đông Á.
• Qui mô toàn cầu: có hệ thống giám sát môi trường toàn cầu (Global
Environmental Monitoring System - GEMS).
Phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là tổ chức hệ thống giám sát theo thành phần của
môi trường. Hệ thống GEMS thực hiện giám sát theo thành phần của môi trường bao
gồm:
• Hệ thống giám sát chất lượng nước mặt.
• Hệ thống giám sát chất lượng nước ngầm.
• Hệ thống giám sát chất lượng đất.
• Hệ thống giám sát chất lượng không khí.
• Hệ thống giám sát môi trường biển.
Ngoài ra, dựa vào tính chất, qui mô của trang thiết bị người ta còn phân loại các trạm
giám sát môi trường thành các trạm liên tục hay gián đoạn, trạm cố định hay lưu động.
1.4. PHƯƠNG PHÁP, THIẾT BỊ VÀ KỸ THUẬT LẤY MẪU
Lấy mẫu môi trường là điểm xuất phát của việc thực hiện chương trình giám sát chất
lượng môi trường. Sai sót trong lấy mẫu sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống thông tin
(kết quả) giám sát chất lượng môi trường sau này. Thiết bị lấy mẫu phải được thiết kế
phù hợp và cụ thể. Sau khi xác định được phương pháp lấy mẫu phù hợp bước tiếp
theo là lựa chọn thiết bị lấy mẫu hoặc đo lường. Sự tiếp xúc giữa người lấy mẫu và
mẫu phải được giảm đến nhỏ nhất.
Trong tài liệu này các phương pháp lấy mẫu tập trung vào môi trường không khí và
nước, bao gồm cả nước biển. Các phương pháp đưa ra mang tính liệt kê để tham khảo
và có tác dụng lựa chọn sau này cho thiết kế chương trình giám sát chất lượng môi
trường.
1.4.1. Lấy mẫu không khí
Hệ thống lấy mẫu không khí bao gồm bốn bộ phận: bộ phận lấy không khí vào, bộ
phận thu mẫu hoặc đầu dò (cảm biến – sensor), bộ phận đo tốc độ dòng và thiết bị hút
khí. Các bộ phận này được thiết kế bằng vật liệu sao cho không làm ảnh hưởng hóa
học hay lý học đến mẫu không khí.
• Bộ phận lấy không khí vào: bản chất của bộ phận này được thiết kế theo mục tiêu
của kỹ thuật lấy mẫu. Chúng có thể được thiết kế để hút không khí theo chiều thẳng
đứng hoặc thụ động để tự rơi vào.
• Bộ phận thu mẫu: bộ phận này được phân loại riêng rẽ cho chất hạt và chất khí.
Chất hạt
- Lọc.
- Sục ướt hoặc sục khô.
- Lắng đọng.
- Ly tâm hoặc cyclon.
Chất khí
- Hấp phụ.
- Hấp thụ.
- Ngưng tụ.
- Tức thời.
1.4.2. Lấy mẫu nước
Đối với môi trường nước, không có hệ thống lấy mẫu đặc thù do mức độ quan tâm về
chất lượng môi trường nước rất khác nhau. Một qui định rất chung cho việc lấy mẫu
nước là sao cho thể tích mẫu phải đủ nhỏ để vận chuyển được và phải đủ lớn để mẫu
có thể đại diện cho khu vực lấy mẫu. Thông thường thể tích mẫu dao động từ 500 –
1.000 ml là vừa. Trên một mặt cắt người ta có thể lấy mẫu theo chiều rộng và chiều
sâu. Đối với mẫu lấy theo chiều sâu việc lấy mẫu phức tạp hơn. Có hai loại thiết bị để
lấy mẫu, một loại thiết bị để lấy mẫu chất lượng nước và loại thứ hai sử dụng để lấy
mẫu cho các chất vết như kim loại nặng. Các bộ phận của thiết bị được thiết kế sao cho
mẫu lấy được không bị ảnh hưởng của các tầng nước khác nhau và không bị ảnh
hưởng của chính thiết bị lấy mẫu. Các thiết bị lấy mẫu tầng sâu luôn phải kèm theo
thiết bị đo áp lực nước. Ngoài các thiết bị lấy mẫu đơn lẻ này ra còn có thiết bị lấy
mẫu tự động theo trình tự đã được đặt trước (lấy mẫu tự động).
1.5. ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH GIÁM SÁT
CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
Sau khi đã thiết lập mục tiêu và thể loại giám sát chất lượng môi trường, trong thiết kế
chương trình giám sát luôn phải xem xét các khía cạnh khác đặc biệt quan trọng mà nó
được xem như các điều kiện quyết định để lựa chọn vị trí cũng như các thông số đo
đạc. Đó là các điều kiện tự nhiên về địa hình, khí hậu, chế độ dòng chảy cũng như các
điều kiện kinh tế hay nói một cách khác là các nguồn thải gia nhập là thay đổi chất
lượng môi trường.
Một số vấn đề sau cần phải xem xét kỹ khi triển khai thiết kế hệ thổng trạm, bao gồm:
(1) Thu thập và xử lý số liệu khí tượng, thủy hải văn có sẵn từ các trạm.
(2) Thu thập và xử lý các số liệu thải.
(3) Thu thập và phân tích điều kiện về cơ sở vật chất cho giám sát môi trường hiện có.
(4) Dự kiến chất lượng môi trường sẽ giám sát thông qua các nồng độ chất ô nhiễm.
(5) Điều kiện phù hợp về độ chính xác và độ nhạy của trang thiết bị sẽ trang bị.
(6) Các qui định pháp luật và các hướng dẫn kỹ thuật cũng như các chuẩn chất lượng
môi trường.
(7) Các vấn đề liên quan đến khả năng kinh phí (đầu tư, nhân lực).
Nồng độ các chất ô nhiễm có mặt trong môi trường không khí và nước phụ thuộc vào
sự khuyếch tán của chúng từ các nguồn phát thải và các chuyển hóa của chúng trong
môi trường. Nói một cách khác, nồng độ các chất ô nhiễm còn phụ thuộc vào khả năng
tự làm sạch của môi trường, ví dụ như trong môi trường không khí sự tự làm sạch
thông qua các quá trình như lắng khô, lắng ướt và các chuyển hóa hóa học trong đó
chuyển hóa hóa học giữ vai trò chủ đạo trong việc loại bỏ các chất ô nhiễm. Sự tạo
thành hạt hoặc giữ nguyên trạng thái khí, tiếp đó quá trình loại bỏ từng phần hay hoàn
toàn phụ thuộc vào bản chất hóa học và điều kiện khí tượng hay thời tiết cũng như bề
mặt tại nơi xảy ra các quá trình này. Cũng tương tự cho môi trường nước, các đặc điểm
về dòng chảy, về địa hình (độ dốc) và đặc biệt là về bản chất và vị trí nơi xả thải và
dòng nước hay hồ chứa v.v là những điều kiện rất quan trọng quyết định đến chất
lượng lý, hóa hay sinh học của chất lượng nước.
Thu thập các số liệu khí tượng, thủy văn, hải văn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng
trong giám sát chất lượng môi trường không khí và nước (bao gồm cả nước biển). Các
giám sát có hệ thống các thông số này giúp cho ta phân tích các biến đổi, các xu thế
cũng như các đột biến của chất lượng môi trường. Ngoài ra, trong dự báo xu thế chất
lượng môi trường, các biến số khí tượng thủy văn là một trong những yếu tố quyết
định.
Để thiết lập một hệ thống giám sát chất lượng không khí và nước, việc tính toán ước
lượng nồng độ các chất ô nhiễm tại nơi dự kiến đặt điểm đo là quan trọng. Thông
thường người ta tiến hành theo hai cách. Một trong hai cách đó là tính toán lượng thải
gia nhập vào môi trường. Để có được các kết quả tính toán tin cậy, các số liệu phát thải
từ các nguồn chủ yếu cần được thu thập. Đối với mỗi môi trường các nguồn thải đặc
thù cần phân loại, ví dụ đối với môi trường không khí các loại hoạt động kinh tế có
liên quan đến tiêu thụ nguyên nhiên liệu hóa thạch, tương tự cho thải nước các đặc thù
công nghiệp lại là công nghiệp thực phẩm, dệt, háo chất v.v. Dựa vào các nguồn thải
gia nhập này, người ta có thể dự kiến các vị trí giám sát và các thông số đo lường. Hai
là đo lường thử nghiệm các thông số dự kiến để có một khái niệm tổng hợp giữa nguồn
thải và ô nhiễm nền môi trường từ đó vị trí giám sát và thông số đo lường cũng như
chế độ đo và kỹ thuật đo được diễn giải một cách hợp lý.
1.6. THU THẬP XỬ LÝ VÀ BIỂU DIỄN KẾT QUẢ
1.6.1. Yêu cầu khoa học của số liệu giám sát môi trường
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác giám sát chất lượng mà nước ta đôi khi
còn gọi là công tác điều tra cơ bản môi trường không khí và nước là thu thập các thông
tin chất lượng về môi trường không khí, nước và các thông tin khác có liên quan để
phục vụ cho các mục đích sau đây:
• Đánh giá hiện trạng môi trường trong toàn lãnh thổ đang diễn ra giám sát, đặc biệt
là các khu vực quan trọng về kinh tế và xã hội.
• Xác định xu thế biến đổi chất lượng môi trường nhằm tìm ra các phương án hạn
chế các diễn biến bất lợi.
• Dự báo và cảnh báo xu thế giảm sút hoặc cải thiện chất lượng môi trường không
khí và nước.
• Cung cấp các số liệu về chất lượng môi trường không khí và nước cho các nhà
lãnh đạo và quản lý để lập kế hoạch và chính sách phát triển bền vững v.v.
Chất lượng của số liệu về môi trường được đánh giá bằng khả năng tiếp cận với các
mục tiêu nói trên, số liệu chất lượng môi trường phải bảo đảm các thuộc tính cơ bản
dưới đây.
1.6.2. Độ chính xác của số liệu
Độ chính xác của số liệu được đánh giá bằng khả năng tương đồng giữa số liệu và
hiện thực. Sự sai khác nhau này càng ít càng tốt. Để đạt được độ chính xác cao, trong
công tác mạng lưới cần phải giải quyết một loạt các vấn đề khác nhau như trang thiết
bị, giám sát, thu thập, bảo quản mẫu, quy trình, quy phạm, trình độ và khả năng thành
thạo của người giám sát và phương pháp phân tích.
1.6.3. Tính đồng nhất của số liệu
Để nghiên cứu cấu trúc các yếu tố môi trường trong không gian và sự diễn biến theo
thời gian, các số liệu thu thập ở các địa điểm khác nhau vào các thời kỳ khác nhau
phải có khả năng so sánh được với nhau. Nói cách khác, các số liệu đó được đo cùng
một đơn vị chuẩn. Khả năng so sánh được của số liệu còn gọi là tính đồng nhất của số
liệu. Để đảm bảo tính đồng nhất, trong công tác mạng lưới cần quan tâm đến các vấn
đề sau đây:
• Để xác định một yếu tố không được sử dụng quá nhiều chủng loại máy móc khác
nhau, khi thay đổi máy móc, thiết bị, bắt buộc phải so sánh giữa kết quả xác định
theo máy móc mới và máy móc cũ từ đó tìm ra số liệu chính tương quan giữa
chúng. Hiện nay chúng ta chưa có nguồn cung cấp máy móc về môi trường ổn
định, nên phải nhập từ nhiều nguồn khác nhau, do vậy rất khó khăn trong việc so
sánh giữa chúng, đó là chưa nói đến những sai lệch do khí hậu nóng ẩm tạo ra.
• Việc giám sát, thu thập, bảo quản mẫu phải tuân theo một qui trình chặt chẽ, thống
nhất, trong trường hợp vì một lý do nào đó buộc phải thay đổi thì nhất thiết phải có
sự so sánh giữa các kết quả đo theo qui trình cũ và qui trình mới.
• Các yếu tố của môi trường không khí không những biến đổi theo thời gian và còn
thay đổi từ nơi này đến nơi khác. Do vậy vị trí giám sát lấy mẫu có liên quan chặt
chẽ đến kết quả. Một dãy số liệu liên tục về thời gian chỉ có thể so sánh được với
nhau khi vị trí trạm không thay đổi. Điều này buộc phải giữ cố định vị trí trạm.
Trong trường hợp vì điều kiện khách quan như vị trí hiện tại trong thời gian sắp tới
không đủ tiêu chuẩn đặt trạm như do có các thay đổi về điều kiện tự nhiên, về
nguồn thải v.v. buộc phải thay đổi vị trí, thì phải đồng thời giám sát song song ở vị
trí trạm cũ và trạm mới trong một thời gian để so sánh kết quả giữa chúng trước
khi chuyển hẳn sang vị trí mới.
1.6.4. Tính đại diện theo không gian của số liệu
Nhiệm vụ của công tác mạng lưới giám sát môi trường là thu thập các số liệu môi
trường cho phép đánh giá được chất lượng môi trường tại mọi điểm trong khu vực
quản lý. Do không đủ khả năng để xác lập một hệ thống các điểm đo dày đặc trên toàn
khu vực, chỉ có khả năng đo ở một số điểm nhất định mà chúng ta gọi là các trạm
giám sát môi trường (gọi tắt là trạm). Vì vậy mỗi trạm phải đặc trưng cho một khu
vực nhất định. Muốn vậy trong toàn bộ khu vực mà trạm làm đại diện, các yếu tố môi
trường giữa điểm này với điểm kia khác nhau không nhiều.
Vấn đề là tìm ra một mạng lưới với số trạm là ít nhất mà đảm bảo được khả năng quản
lý chất lượng môi trường trong toàn phạm vi được giao. Đây là một vấn đề thuộc lĩnh
vực “bài toán tối ưu”. Về nguyên lý chung, thì mật độ trạm phụ thuộc vào tính phức
tạp của sự phân bố các yếu tố môi trường theo không gian. Để xác định giá trị (các
yếu tố môi trường) tại một điểm nào đó không có số liệu đo đạc thì phải tiến hành nội
suy từ các số liệu đo đạc ở các trạm lân cận. Sai số của phép nội suy phụ thuộc vào
khoảng các giữa các trạm và tính phức tạp trong cấu trúc không gian của yếu tố đang
nghiên cứu. Sai số càng nhiều khi khoảng cách giữa các trạm càng lớn và yếu tố đó
biến thiên theo không gian càng lớn.
Để bảo đảm thu được giá trị, với sai số nằm trong giới hạn cho phép, thì ở những nơi
có cấu trúc phức tạp khoảng cách giữa các trạm buộc phải rút ngắn, ngược lại các nơi
có cấu trúc đơn giản khoảng cách giữa các trạm cho phép được nâng lên. Ví dụ, các
yếu tố môi trường không khí quanh ống khói nhà máy, của môi trường nước quanh
các cửa kênh thải rất phức tạp, trong trường hợp này cần phải tổ chức nhiều điểm đo.
Nếu yếu tố môi trường theo một hướng nào đó biến đổi không nhiều (ví dụ, các chất
thải của ôtô dọc theo hướng của đường) thì khoảng cách giữa các điểm đo theo hướng
đó cho phép lớn, ngược lại theo hướng có sự biến đổi nhiều (ví dụ, theo hướng vuông
góc với tuyến đường) khoảng cách phải được rút ngắn. Như vậy về phương diện hợp
lý, tối ưu, khoảng cách giữa các trạm không nhất thiết phải như nhau. Tính phức tạp
trong cấu trúc không gian của các yếu tô môi trường lại phụ thuộc rất nhiều các thông
số khác như đặc điểm nguồn thải, điều kiện địa hình, đặc điểm khí tượng thủy văn,
hình thức lan truyền và biến đổi của các chất thải.
1.6.5. Khả năng theo dõi liên tục về thời gian
Bất kỳ một hiện tượng tự nhiên nào cũng tồn tại trong một qui mô không gian và một
khoảng thời gian nhất định. Dãy số liệu phải có khả năng theo dõi sự diễn biến theo
thời gian. Điều đó có nghĩa là từ dãy số liệu đã có cho phép xác định các yếu tố môi
trường vào bất kỳ thời điểm nào trong quá khứ, kể cả những thời điểm không có số
liệu.
Trong thực tế chúng ta chưa có khả năng giám sát liên tục, mà chỉ có thể quan trắc
vào một số thời điểm nhất định mà người ta gọi là “ốp” quan trắc. Theo phương pháp
thông thường, để xác định giá trị vào một thời điểm nào đó không trùng ốp quan trăds
buộc phải nội suy từ các số liệu thu được ở các ốp gần đó. Cũng như trong phép nội
suy không gian, sai số trong phép nội suy của dãy số liệu thời gian phụ thuộc vào độ
dài thời gian giữa hai ốp quan trắc và tính phức tạp trong quá trình biến đổi của nó.
Với một sai số cho phép định trước, các yếu tố biến đổi nhanh và phức tạp buộc phải
rút ngắn khoảng cách giữa các ốp quan trắc. Đây là cơ sở để lựa chọn các ốp quan trắc
trong công tác mạng lưới giám sát môi trường.
Trong thực tế, các đo lường chất lượng môi trường đặc biệt là môi trường không khí,
các phép đo thời gian thực (real-time) đã được triển khai tương đổi phổ biến. Vì vậy,
việc phân định các ốp quan trắc cần phải quan tâm khi phân hạng các trạm cụ thể.
1.6.6. Tính hoàn chỉnh của số liệu
Tính hoàn chỉnh của số liệu có nghĩa là số liệu phải bao gồm một lượng đủ lớn các
thông tin. Vấn đề đặt ra là phải chọn các thông tin nào và số lượng thông tin là bao
nhiêu. Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải chú ý đến các điểm sau đây:
• Môi trường tác động lên một đối tượng nào đó không chỉ do một yếu tố mà do
nhiều yếu tố tác động đồng thời. Mỗi một yếu tố chỉ tác động đến một chừng mực
nhất định, vì đồng thời có nhiều yếu tố cùng tác động, do đó kết quả sẽ hoàn toàn
khác. Ví dụ các công trình kiến trúc bị phá hủy bởi bụi, các chất khí như CO 2,
NOx, SO2, độ ẩm. Nếu chỉ đánh giá qua tác động qua từng nhân tố riêng rẽ không
thể đánh giá đúng mức độ phá hủy công trình do môi trường. Trong trường hợp
này người ta dùng chỉ tiêu tổng hợp P:
Ci
P =∑
i =1 C 0i

trong đó: Ci - hàm lượng của yếu tố i;


C 0i - nồng độ giới hạn cho phép của yếu tố i.
P > 1 , là đã ô nhiễm (nguy hại cho công trình).
P < 1 , là chưa ô nhiễm.
• Một trong những mục đích của công tác giám sát môi trường là sử dụng hệ thống
số liệu đã có để dự báo xu thế biến đổi của môi trường trong tương lai. Trong khi
đó sự biến đổi của môi trường chính nó lại phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên về khí
tượng thủy văn, địa chất, thổ nhưỡng, hệ sinh thái.
• Tất cả các điều trên đã chứng tỏ rằng chất lượng của số liệu cần phải được xét về
tính hoàn chỉnh đồng bộ của chúng. Nghĩa là trong công tác giám sát môi trường,
đồng thời với việc thu thập các số liệu về chất lượng môi trường còn thu thập số
liệu các yếu tố tự nhiên khác có liên quan.
1.6.7. Tính đặc trưng của số liệu
Tính đặc trưng của số liệu thể hiện ở hai mặt sau đây.
1.6.7.1. Đặc trưng không gian
Một số liệu thu thập được ở một điểm nào đó không có nghĩa là số liệu đó chỉ có giá
trị khi nghiên cứu tại chính điểm đó mà còn có giá trị khi nghiên cứu tại một điểm
khác nữa trong khu vực mà trạm được chọn là đại biểu. Để làm được điều đó, vị trí
đặt trạm phải mang tính chất chung nhất cho cả khu vực, loại bỏ được ảnh hưởng của
các dị biệt địa phương. Ví dụ, trạm môi trường ở vùng đồi núi trọc, nhất thiết không
được chọn điểm đặt trạm mà xung quanh cây cối tốt tươi. Nếu điều này không được
thỏa mãn thì số liệu không còn giá trị. Trong trường hợp các trạm nền, nơi nồng độ
của các chất bẩn thường rất nhỏ, ảnh hưởng của các nguồn thải tại chỗ trong nhiều
trường hợp sẽ lấn át hẳn môi trường nền mà chúng ta đang quan tâm. Do đó cần phải
quan tâm đến tất cả những vấn này khi đặt trạm.
1.6.7.2. Đặc trưng cho đối tượng
Mỗi một nguồn thải đưa vào môi trường không khí và nước có một số chất đặc trưng
cho loại nguồn thải đó. Muốn xác định vai trò của nguồn thải đối với môi trường cần
phải chọn một cách chính xác các yếu tố được đo.
Thiết kế mạng lưới giám sát môi trường đạt đến mức độ tiêu chuẩn trong điều kiện
nước ta hiện nay là một điều khó khăn vì thiếu số liệu, thiếu các hiểu biết cần thiết về
đặc điểm môi trường hiện nay của nước ta.
1.6.8. Biểu diễn kết quả số liệu
Biểu diễn kết quả là quá trình phân tích số liệu để chuyển số liệu thô thành số liệu có
thể sử dụng hoặc trao đổi được. Những kết quả phân tích số liệu này cần phải tuân
theo một qui trình đã được thiết lập vì dựa trên cơ sở này các kết quả từ các trạm khác
nhau mới có thể so sánh được. Thiết lập qui trình phân tích số liệu này người ta
thường sử dụng các phương pháp thống kê. Biểu diễn các kết quả đã được phân tích
này có thể sử dụng các phương pháp khác nhau như sơ đồ, đồ thị, bảng, biểu v.v. Các
giá trị như trung bình và các giá trị cực cho ngày, tháng, năm thường được sử dụng.
Sau mỗi lần phân tích số liệu, các giá trị giới hạn của số liệu cũng được thiết lập để
thống nhất chung trong toàn mạng lưới.
1.7. QUI TRÌNH VÀ CHÍNH SÁCH VẬN HÀNH
1.7.1. Phương thức vận hành
Do điều kiện tự nhiên và xã hội của từng trạm rất khác nhau, do đó phải thiết lập một
qui trình vận hành thống nhất cho toàn bộ hệ thống trạm. Các qui chế vận hành thiết
lập trong hệ thống phụ thuộc vào mức chất lượng môi trường dự định giám sát, ví dụ
như kiểu vận hành cho giám sát xu thế ô nhiễm thành phố khác với kiểu vận hành cho
giám sát chất lượng môi trường nông thôn. Do vậy, các kiểu vận hành được thiết lập
sao cho phù hợp với mục tiêu của chương trình giám sát. Mức ô nhiễm nền môi
trường lại thay đổi hay phụ thuộc vào rất nhiều vào các thông số khí tượng hay thủy
hải văn, nguồn thải và nhiều yếu tố khác, do đó mức độ ô nhiễm cần quan tâm (nếu ở
đây đề cập đến mức độ ô nhiễm nền) có khi không phát hiện được trong một chu kỳ
thời gian theo tần suất đo đạc đã qui định (ví dụ trong trường hợp giám sát chất lượng
nước). Để giải quyết tồn tại này chỉ có một cách phân tích số liệu rất cẩn thận và phân
bố các giá trị đo được kết hợp với một phân tích đúng về các điều kiện lan truyền như
khí tượng, thủy hải văn và các quan trắc khác mới có thể xác định được một cách
trung thực hiện trạng chất lượng môi trường đã diễn ra tại nơi đo đạc. Ở đây không đề
cập đến hệ thống trang thiết bị và nhân lực trong phương thức vận hành vì coi những
vấn đề này sẽ được giải quyết đúng đắn một khi đã xác định được đúng chiến lược và
trong đó bao hàm cả mục tiêu giám sát.
1.7.2. Hệ thống đo đạc khí tượng, thủy hải văn
Hệ thống trạm giám sát chất lượng môi trường thiên nhiên luôn đi kèm với các đo
lường thông số khí tượng, thủy hải văn. Trong trường hợp hệ thống là trạm môi
trường nền thì đo đạc các thông số khí tượng và thủy hải văn là chương trình đầy đủ.
Khi các trạm đã được thiết lập theo một hệ thống thống nhất thì không còn bất cứ vấn
đề nào liên quan đến độ nhạy của phương pháp đo lường, đến sự thành thạo phân tích
viên hay giám sát viên, đến thiết bị sử dụng đo lường bất cứ một thông số nào trong
hệ thống có hiện đại hay không mà chỉ còn có vấn đề diễn giải số liệu chất lượng môi
trường đòi hỏi sự phù hợp và thỏa đáng của các quan trắc khí tượng thủy hải văn. Sự
tương ứng số liệu khí tượng thủy văn này không chỉ theo chế độ đo như tần suất mà
còn cả độ chính xác của phép đo.
1.8. CHƯƠNG TRÌNH ĐẢM BẢO VÀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TRONG
GIÁM SÁT MÔI TRƯỜNG
1.8.1. Giới thiệu về đảm bảo chất lượng (Quality Assurance – QA) và kiểm soát
chất lượng (Quality Control – QC)
1.8.1.1. Chất lượng
A. Định nghĩa 1: Chất lượng là đáp ứng với các yêu cầu
Cuộc sống phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm và nhu cầu dịch vụ. Lịch sử về tiến
hóa và phát triển loài người là một ví dụ sinh động cho vấn đề này.
Các đặc tính của chất lượng sản phẩm và dịch vụ bao gồm:
- Cấu trúc.
- Cảm giác.
- Độ bền.
- Thẩm mỹ.
Như vậy chất lượng phải đáp ứng các yêu cầu, nếu không đáp ứng được yêu cầu trong
bất cứ bộ phận nào của một dây chuyền sản xuất ra chất lượng sản phẩm thì sẽ dẫn
đến những sai sót. Hay nói một cách khác chất lượng là một quá trình mà chúng ta sử
dụng để đáp ứng với một qui trình chuẩn. Nếu đảm bảo được yêu cầu thì lợi ích thực
sự là tăng sức mạnh cạnh tranh và tăng năng suất.
B. Định nghĩa 2: Chất lượng đồng nghĩa với độ tin cậy
Độ tin cậy là khả năng của một sản phẩm hay dịch vụ có thể tiếp tục đáp ứng với các
yêu cầu của khách hàng. Nếu đặt vấn đề chất lượng là được xem xét như một mối
giao diện giữa hai tổ chức (hoặc hai cá nhân) sẽ dẫn đến là một là khách hàng một bên
là cung ứng và ngược lại, thì bên cung ứng phải đáp ứng nhu cầu của một khách hàng.
Như vậy để có thể đạt được chất lương sản phẩm và dịch vụ cho một công đoạn, cần
phải xem xét hai vấn đề liên quan đến chất lượng:
- Chất lượng thiết kế.
- Chất lượng trong việc tuân thủ thiết kế.
B1. Chất lượng thiết kế
Muốn có một sản phẩm phải có thiết kế. Chất lượng thiết kế được thể hiện ở chỗ sản
phẩm hoặc dịch vụ được thiết kế như thế nào để đạt được mục tiêu. Đặc trưng nhất
của chất lượng thiết kế là qui cách. Trong một công ty, một tổ chức, một đơn vị nhỏ
nhất qui cách là ở các giao diện bên cung ứng và khách hàng. Từ đó suy diễn ra các
qui cách để hoạt động.
B2. Chất lượng tuân thủ thiết kế
Đó là mức độ đạt tới chất lượng thiết kế của một sản phẩm hay một dịch vụ. Cái mà
khách hàng thực sự nhận phải phù hợp với thiết kế và những chi phí hoạt động có liên
quan chặt chẽ với mức độ tuân thủ. Ghi chép và phân tích các thông tin và dữ liệu có
vai trò quan trọng đối với tuân thủ thiết kế của chất lượng. Ở đây các phương pháp
thống kê góp phần rất quan trọng và phải được sử dụng có hiệu quả.
Tóm lại ta thấy rằng:
- Muốn có chất lượng trong mọi công việc ta phải xác định rõ được khách hàng của
từng cá nhân trong mọi tổ chức (hay nói một cách khác phải có được kết quả của từng
cá nhân).
- Chất lượng không tự nhiên sinh ra mà phải được quản lý.
- Chất lượng phải được hiểu trong toàn bộ tổ chức (vấn đề này liên quan đến quá trình
toàn bộ).
1.8.1.2. Quản lý chất lượng
Có một câu hỏi thường đặt ra cho tất cả chúng ta khi làm việc: liệu chúng ta đã làm
công việc một cách đúng đắn chưa?
Câu hỏi này chưa đủ vì để trả lời cho câu hỏi này liên quan đến rất nhiều yếu tố để đưa
đến hoàn thành công việc. Cách đặt câu hỏi này nhưng dưới dạng sau đây sẽ làm sáng
tỏ cho kết quả công việc mà chúng ta cần phải làm sẽ là:
Câu hỏi thứ nhất
Liệu chúng ta có đủ khả năng để làm công việc một cách đúng đắn chưa?
Chúng ta chỉ có thể trả lời là có chỉ khi chúng ta làm việc bằng sử dụng những biện
pháp, vật liệu, thiết bị, khả năng tay nghề, và sự chỉ dẫn thích hợp và một “qui trình”
thỏa đáng.
A. Qui trình
Một qui trình là biến một tập hợp đầu vào – có thể bao gồm các hành động, phương
pháp và công đoạn thành những đầu ra mong muốn dưới hình thức các sản phẩm,
thông tin, dịch vụ - hay nói một cách khác là những kết quả. Có nhiều qui trình trong
mọi lĩnh vực hoặc chức năng của một tổ chức. Mỗi qui trình trong mọi lĩnh vực đều có
thể được phân tích bằng việc xem xét các đầu vào và đầu ra. Điều này sẽ quyết định
các hoạt động cần thiết để nâng cao chất lượng.
Mô hình khái quát của qui trình:

Vật liệu
Thủ tục - Sản phẩm
Các phương pháp
Thông tin (qui cách) - Dịch vụ
Con người Qui trình
Kỹ năng - Thông tin
Kiến thức
Đào tạo - Giấy tờ
Thiết bị

Như vậy mỗi một nhiệm vụ trong toàn bộ tổ chức cần được coi như là một qui trình
mà mỗi đầu ra được trao cho một người hoặc một địa chỉ nào đó.
B. Biện pháp quản lý qui trình
Câu hỏi thứ hai
Liệu chúng ta có thể tiếp tục làm công việc một cách đúng đắn hay không?
Muốn sản xuất một đầu ra đáp ứng được yêu cầu, phải xác định, theo dõi và kiểm soát
các đầu vào của qui trình mà đầu vào của ta có thể là đầu ra của người khác, bộ phận
khác hoặc đầu ra của ta lại là đầu vào của người khác, bộ phận khác. Để trả lời cho câu
hỏi này nảy sinh ra vấn đề là cần phải theo dõi qui trình và có những biện pháp quản lý
qui trình đó. Nếu có thể trả lời cho hai câu hỏi nêu trên là có thì chắc chắn là chúng ta
đã làm công việc một cách đúng đắn rồi. Như vậy, phân tích câu hỏi tổng quát đầu tiên
chúng ta có hai câu hỏi cụ thể cần phải trả lời đó là khả năng thực thi và khả năng quản
lý công việc. Hay nói một cách khác trả lời được hai câu hỏi trên là chúng ta đã đảm
bảo chất lượng – tức là đảm bảo rằng sản phẩm của chúng ta thể hiện đầu ra của một
hệ thống có hiệu quả nhằm đảm bảo khả năng và quản lý.
Như vậy, Quản lý chất lượng (QC) là những hoạt động về kỹ thuật được sử dụng
nhằm đạt được và duy trì chất lượng của một sản phẩm, một qui trình hay một dịch vụ.
Nó bao gồm theo dõi và loại trừ các nguyên nhân xảy ra những trục trặc về chất lượng
để các yêu cầu của khách hàng có thể liên tục được đáp ứng.
Rộng hơn, Đảm bảo chất lượng (QA) là ngăn ngừa những trục trặc về chất lượng
bằng các hoạt động có kế hoạch và có hệ thống. Những hoạt động bao gồm việc thiết
lập một hệ thống quản lý chất lượng tốt và đánh giá tình hình thích hợp, tính thẩm tra
về hoạt động và kiểm điểm rà soát lại bản thân hệ thống đó.
1.8.2. QA/QC trong giám sát môi trường
1.8.2.1. Đặt vấn đề
Trong xã hội hiện đại ngày nay, ngoài ba nguồn lực tự nhiên như: nguồn vốn, lao động
và nguyên liệu sản xuất người ta còn thêm một nguồn lực nữa, một nguồn lực thứ tư
đó là nguồn lực thông tin. Bốn nguồn lực này được xem là nền tảng của nền kinh tế
động. Thông tin tự bản thân nó có những đặc thù riêng khi xem xét như một nguồn
lực:
• Sự chính xác: thông tin phải là chính xác nếu không sẽ có ít giá trị sử dụng.
• Có tính cập nhật theo thời gian: thông tin được thu nhận kịp thời để đưa ra những
quyết định đúng, nếu không thông tin sẽ mất giá trị sử dụng.
• Giá thành: thông tin ít khi cho không. Thông tin phải thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng, nếu không không có giá trị.
• Có thể được chuyển giao dễ dàng và không tốn kém.
Giám sát môi trường bao gồm lấy mẫu, phân tích mẫu, xử lý số liệu và cuối cùng là
cung cấp thông tin đến khách hàng. Như vậy nó cũng là một lĩnh vực cung cấp dịch vụ
trong mọi công đoạn của xã hội vì nó cung cấp các thông tin liên quan đến khía cạnh
xác định, nhận biết và thành phần hóa, lý, sinh học v.v của các thành phần môi trường.
Do vậy thông tin phát ra từ hệ thống giám sát là các kết quả phân tích được xem như
một thứ hàng hóa. Các kết quả giám sát này cũng phải đảm bảo các tính chất cơ bản đã
nêu trên của nguồn lực thông tin. Nó cũng phải đảm bảo tính chất chính xác, hợp thời,
có thể đáng giá nhưng phải thỏa mãn yêu cầu của người sử dụng, có thể bán (hoặc cho
không), có thể chuyển giao nhanh và không tốn kém.
Hơn thế, các kết quả giám sát sau khi được xử lý khi được xem như thông tin cần phải
có những đặc thù riêng, ở đây nói đến sự chính xác của một kết quả giám sát đi theo
nó là sự an toàn (hay đảm bảo) của chất lượng số liệu khi công bố. Điều này rất quan
trọng bởi vì:
• Số liệu giám sát là chuẩn mực cho chi phí tiền. Quyết định của các chính sách về
môi trường hoặc các sử dụng số liệu về sau trong nghiên cứu phần lớn đều phải dựa
vào kết quả giám sát này.
• Số liệu giám sát chính xác có tầm quan trọng cho sức khỏe và an toàn của cộng
đồng.
• Số liệu giám sát chính xác có tầm quan trọng trong đánh giá, giám sát, theo dõi và
bảo vệ môi trường.
• Số liệu giám sát là chuẩn mực cho tranh chấp mà trong xã hội hiện đại ngày nay
việc tranh chấp luôn xảy ra.
• Số liệu giám sát thường tốn kém do trang thiết bị ngày một hiện đại do đó kéo theo
giá cả của vật chất trong đó có giá cả của số liệu giám sát.
1.8.2.2. Địa chỉ cúa số liệu giám sát
Cơ quan sở hữu mạng lưới giám sát cần phải biết những ai quan tâm đến số liệu của
mình, nếu không giá trị của số liệu giám sát sẽ được coi như không có giá trị sủ dụng.
Sau đây liệt kê những địa chỉ của những pháp nhân có liên quan đến số liệu giám sát:
• Là những người sử dụng số liệu giám sát (khách hàng) hay là những người trả chi
phí cho số liệu giám sát.
• Là những người đứng bên ngoài hệ thống giám sát, nhưng là những người đánh giá
hệ thống giám sát, ví dụ, các cơ quan hữu trách của Nhà nước, các pháp nhân có
thẩm quyền theo dõi, thẩm định hệ thống giám sát theo các qui định của Nhà nước.
• Là các lãnh đạo cấp trên trực tiếp và gián tiếp của số liệu giám sát (ví dụ, cơ quan
cấp trên trực tiếp trong tổ chức, cơ quan của hệ thống giám sát) là những người liên
quan hợp pháp đến vận hành hệ thống giám sát, là những người trả chi phí hoạt
động cho hệ thống giám sát.
• Là nhân viên nằm trong hệ thống giám sát, tự họ nhận thức rằng công việc của họ
là công việc có chất lượng nghề nghiệp cao nhất.
1.8.2.3. Chất lượng và kiểm soát chất lượng
A. Chất lượng
Như trên đã trình bày chất lượng là thỏa mãn nhu cầu sử dụng (fits for use). Nhưng
trong kết quả giám sát, chất lượng được định nghĩa như sau: chất lượng của một số
liệu giám sát được sánh ngang bằng sự chính xác của nó. Vậy thì, mức độ số liệu giám
sát cần phải là tiệm cận với giá trị thực của thành phần môi trường cần đo hoặc xác
định. Rất tiếc, giá trị thực của thành phần môi trường cần đo hoặc phân tích lại không
bao giờ được biết hay nói một cách khác rất ít khi được biết. Nhưng bằng sự tương tự
(sự giống nhau) của các kết quả nhận được từ một vật chất có thành phần đã biết
chúng ta ít nhất cũng có thể đánh giá được sự chính xác của một kết quả của một vật
không biết.
Từ đây lại phải xem xét đến khía cạnh thuật ngữ của “độ chính xác” (accuracy). Thuật
ngữ accuracy thường ứng với các điểm trên đường chéo hoặc sai số không đổi. Trong
khi đó thuật ngữ độ tập trung (precise) được sử dụng trong trường hợp các kết quả
tương tự nhau hay gần nhau nhưng có thể không gần với giá trị thực của vật đo. Nói
một cách hình tượng, ta có thể suy diễn như người bắn bia, nếu như các kết quả bắn
tán ra một vùng rộng nhưng vẫn hội tụ trong vùng điểm đen, ta có thể nói là đã bắn
chính xác (accurate), nhưng nếu bắn với một dãy kết quả giống nhau tập hợp thành
một mảng nhưng xa điểm đen ta nói rằng kết quả là tập trung nhưng không chính xác.
Trong phạm vi kết quả ta chỉ đề cập đến sự chính xác (accuracy) như một mức mà các
kết quả giám sát tiệm cận với giá trị thực.
B. Kiểm soát chất lượng
Nếu như chất lượng số liệu giám sát được hiểu bằng giá trị chính xác của số liệu đo
lường hoặc phân tích mẫu môi trường, như vậy các điều hành hệ thống giám sát cho
mục tiêu là đảm bảo số liệu giám sát phát ra từ hệ thống giám sát có độ chính xác đã
biết, đã được công bố, về khả năng chắc chắn cho mức độ định lượng đó chính là kiểm
soát chất lượng hệ thống giám sát. Do đó, hệ thống giám sát phải có khả năng đạt được
mọi kết quả trong cùng một khoảng giá trị mà trong khoảng này giá trị thực của đối
tượng môi trường cần được công bố phải nằm trong khả năng có thể điều chỉnh được
với độ tin cậy chắc chắn (còn được gọi là confidence limits of analysis). Điều đó dẫn
đến các khả năng nhằm đảm bảo độ tin cậy của phép giám sát cần được xem xét là:
(1) Chiến lược giám sát.
(2) Mạng lưới giám sát bao gồm cả hệ thống điểm đo, thông số đo và phân tích, việc
sử dụng các tiêu chuẩn v.v.
(3) Hình thức trình bày và thể hiện kết quả.
(4) Hệ thống tổ chức về nhân lực và vật lực của từng công đoạn trong toàn bộ hệ
thống.
(5) Kế hoạch chi phí – hiệu quả.
(6) Phân tích rủi ro (nếu có).
Kiểm soát chất lượng (QC) cho một hệ thống giám sát có nghĩa là hệ thống giám sát
cần phải được xem xét như một hệ thống sản xuất ra số liệu giám sát. Hệ thống này
bao gồm những gì mà nó có thể ảnh hưởng đến số liệu giám sát: người, phương pháp,
máy móc thiết bị v.v. và cả môi trường làm việc. Đối tượng của QC không phải là loại
trừ hoặc giảm sai số mà chỉ để đo đạc đánh giá chúng là những gì trong toàn bộ hệ
thống đang tồn tại.
C. Đảm bảo chất lượng
Thuật ngữ “đảm bảo” có ngụ ý đến khả năng chứng minh một vật nào đó đến với một
người nào đó. Như vậy đảm bảo chất lương (QA) là khả năng của một hệ thống giám
sát có thể chứng minh rằng số liệu giám sát hay chất lượng của hệ thống giám sát là
những gì mà họ đã công bố là đúng. Cá nhân được đảm bảo là các khách hàng, là
những người sử dụng số liệu giám sát, là những chủ của hệ thống giám sát v.v.
Dưới hình thức các văn bản, những hoạt động sau đây là nội dung của một QA:
• Qui trình QC được đưa vào hoạt động trong hệ thống giám sát.
• Đảm bảo tính chắc chắn – số liệu giám sát đã được báo cáo phản ánh đúng chất
lượng thành phần môi trường đã được giám sát.
• Hỗ trợ tính dẫn xuất chuẩn của số liệu giám sát.
• Đảm bảo rằng đã có các biện pháp ngăn ngừa để số liệu thô không bị mất, hỏng, ăn
cắp, sửa chữa v.v.
1.8.2.4. Công tác tổ chức cho đảm bảo chất lượng
A. Cam kết và chính sách
QA và QC là một kiểu quản lý nhằm cải tiến và đạt được tính hiệu quả và linh hoạt
cho toàn bộ mọi tổ chức. Do đó vấn đề là cách tổ chức sao cho liên kết toàn tổ chức
lại: mọi bộ phận, mọi cá nhân, mọi cấp.
B. Cam kết chất lượng
Thực hiện chất lượng trong mọi công việc và tất cả mọi người đều có thái độ nghiêm
túc cho công tác chất lượng. Do đó phải cam kết chất lượng từ các cấp đến từng cá
nhân.
C. Chính sách chất lượng
Phải có một chính sách chất lượng đúng đắn và có một tổ chức và phương tiện để thực
thi. Mọi tổ chức cần xây dựng và vạch rõ chính sách chất lượng của mình và có những
biện pháp để thực hiện. Có nhiều loại chính sách chất lượng với các phương châm và
biện pháp thực hiện khác nhau (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Các loại chính sách chất lượng và nội dung chủ yếu
Loại chính sách Nội dung chủ yếu của chính sách chất lượng
chất lượng Phương châm Tổ chức và biện pháp thực hiện
Chính sách Cải tiến chất lượng là chủ yếu - Cải tiến chất lượng là quá trình
chất lượng “A” liên tục
Coi chất lượng là tầm quan - Soạn thảo chính xác và đầy đủ
Chính sách trọng lớn sổ tay hướng dẫn về chất lượng
chất lượng “B” để mô tả việc áp dụng chương
trình chất lượng
Coi sự hài lòng của khách - Ngăn không có trục trặc
Chính sách hàng bên trong và bên ngoài - Mỗi hoạt động phải có trách
chất lượng “C” là chất lượng nhiệm kiểm điểm và sữa chữa các
hệ thống thủ tục hiện có
Cung cấp sản phẩm và dịch vụ Lập cơ cấu chất lượng theo: Tổ
Chính sách chất lượng cao để đáp ứng chức chất lượng-Marketing-Qui
chất lượng “D” hoàn toàn yêu cầu của khách cách-Bộ phận mua-Công tác tư
hàng liệu-Kiểm soát qui trình
Chính sách chất Đảm bảo sản phẩm và dịch vụ - Chất lượng là phù hợp với các
lượng “E” mãi mãi đáp ứng yêu cầu của yêu cầu
khách hàng để trở thành và - Hệ thống chất lượng là phòng
tiếp tục người đứng đầu trong ngừa và xác định các khả năng
thị trường do chất lượng sản gây sai hỏng và có biện pháp để
phẩm/dịch vụ của mình loại bỏ
- Đo lường được chất lượng qua
tổn phí của việc không tuân thủ
và tổn phí của việc sửa sai
Chất lượng đồng bộ là đáp - Tuân thủ các yêu cầu
ứng yêu cầu của khách hàng: - Phòng ngừa chứ không phát
Chính sách chất cho cả bên trong và bên ngoài, hiện
lượng “F” cho từng sản phẩm/dịch vụ - Làm tốt ngay từ đầu
- Đo lường chất lượng các hoạt
động

D. Trách nhiệm của đảm bảo chất lượng


D.1. Xác định trách nhiệm
Trước đây ta thường quan niệm công việc được giao và trách nhiệm hoàn thành là do
lãnh đạo và khả năng của cá nhân hoặc chức năng của bộ phận, như vậy hình thành hai
tuyến một là họ - lãnh đạo hoặc các bộ phận chức năng, hai là chúng ta – nhân viên.
Để tránh sự hiểu nhầm này giữa lãnh đạo và nhân viên trong việc thực hiện đảm bảo
chất lượng trong một tổ chức là đưa công tác chất lượng vào mọi chốn và đến với mọi
người, điều đó có nghĩa là phải xác định rõ ràng trách nhiệm của cơ cấu lãnh đạo và
nhân viên. Các bước của cơ cấu tổ chức nhằm giúp xây dựng một hệ thống quản lý
chất lượng mà trên thực tế mọi chức năng đều chịu trách nhiệm về chất lượng để đạt
được và duy trì những tiêu chuẩn hoạt động nên có.
D.2. Qui trình quản lý sự hoạt động
• Làm rõ trách nhiệm
- Bản mô tả nội dung công việc là xuất phát điểm để xác định vai trò của từng cá
nhân.
- Xây dựng một đồ thị cho tổ chức hay còn gọi biểu đồ trách nhiệm cho từng cá
nhân.
• Xây dựng các tiêu chí và mục tiêu hoạt động
Đã giao trách nhiệm cho từng cá nhân, nhưng muốn hoàn thành tốt cần xây dựng tiếp
tiêu chí hoạt động, mà các tiêu chí này cần phải:
- Đo lường được (định lượng được – ghi chép – kiểm tra được).
- Có liên quan (phải mô tả được vai trò mà người ta mong đợi).
- Quan trọng (là quan trọng đối với cá nhân).
D.3. Chức năng chất lượng và cán bộ phụ trách chất lượng
• Vai trò của chức năng chất lượng là làm cho chất lượng trở thành một phương diện
không tách rời khỏi hoạt động và trách nhiệm của mỗi nhân viên.
• Việc chọn cán bộ phụ trách chất lượng cần được tiến hành cẩn thận theo các chỉ
tiêu sau:
- Đào tạo cơ bản và kinh nghiệm nghề nghiệp: người được bổ nhiệm bắt buộ phải
tốt nghiệp đại học, hơn nữa còn phải là có thâm niên và kinh nghiệm trong lĩnh vực
giám sát môi trường.
- Có hiểu biết về thống kê.
- Phẩm chất chung: tương đối lớn tuổi có khả năng giao tiếp với mọi người trong và
ngoài hệ thống giám sát. Có tính cách quả quyết nhưng không hung hăng.
- Trách nhiệm và quyền hạn: tạo lập và soạn thảo các qui trình để đạt được các mục
tiêu đảm bảo chất lượng. Theo dõi và duy trì ghi chép các số liệu phát ra từ hệ
thống giám sát theo chương trình đảm bảo chất lượng (Quality Asurrance Program
– QAP). Hướng dẫn kiểm toán để truy nhập tuân thủ theo QAP. Tư vấn cùng với
nhân viên kỹ thuật về qui trình đảm bảo chất lượng, số liệu, đánh giá phương pháp
v.v. Viết và duy trì sổ tay chất lượng. Phối hợp và giám sát tại chỗ khi các cơ quan
chứng nhận thanh tra.
E. Thiết lập chương trình đảm bảo chất lượng
E.1. Sơ đồ lưu trình
Trong việc hoạch định có hệ thống hoặc xem xét bất cứ qui trình nào cần phải ghi lại
các loạt sự kiện và hoạt động công đoạn và quyết định dưới một hình thức dễ hiểu và
dễ thông báo cho tất cả. Phương pháp thông thường để ghi lại các sự kiện là viết ra
giấy và để khắc phục sự phức tạp, người ta sử dụng phương pháp lập sơ đồ lưu trình
hay còn gọi là sơ đồ khối. Như vậy một đồ thị lưu trình là một bức tranh về những biện
pháp đã được sử dụng để thực hiện một chức năng.
E.2. Thiết lập một chương trình đảm bảo chất lượng trong hệ thống giám sát
Sau khi xác định chương trình đảm bảo chất lượng của hệ thống giám sát mà nội dung
là cần phải xem xét các yêu cẩu về khách hàng, thiết bị, mức độ của số liệu giám sát
v.v. Một chương trình đảm bảo chất lượng phù hợp sẽ được xây dựng và phải được
viết thành văn bản. Một kỹ thuật sử dụng để thiết lập các văn bản sử dụng trong
chương trình đảm bảo chất lượng này là thiết lập các qui trình vận hành chuẩn
(Standard Operating Procedures – SOP). Một SOP là rất đơn giản, nó sẽ dẫn người đọc
từng bước thông qua các bước vận hành qui định để đạt được các kết quả mong muốn
hoặc cần phải có. Khi viết các SOP không được nhầm với viết chính sách.
Tạo lập các SOP
Bảng 1.2. Hướng dẫn cách tạo lập một SOP
Các bước Nội dung viết
Số thứ tự Đánh số theo mã, ví dụ QA-1 cho SOP đầu tiên
Tên qui trình Yêu cầu đặt tên ngắn gọn nhưng có tính mô tả để dễ tìm
Thông tin cơ bản Bước này không bắt buộc
Phạm vi áp dụng Phạm vi áp dụng của SOP
Mục đích Mục đích
Định nghĩa Bước này không bắt buộc
Vận hành Đây là phần cốt lõi của SOP bao gồm các công đoạn được
viết và đánh số theo thứ tự để người đọc có thể từng bước
tiến hành theo và đạt được kết quả như đã viết. Lưu ý khi viết
các công đoạn tránh dùng lối viết mơ hồ để mô tả các bước
và không được cho rằng những người đọc cũng hiểu biết như
người viết.

Các SOP sẽ là các tài liệu bắt buộc để chỉ dẫn thực hiện chứ không phải là các hướng
dẫn và như vậy theo các SOP này người vận hành cần phải làm đúng theo chỉ dẫn chứ
không phải để lựa chọn hoặc tham khảo.
1.8.3. Một số qui định đặc biệt về QA/QC trong hệ thống giám sát môi trường
1.8.3.1. Nhân viên
• Hệ thống giám sát phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo của một cấp trưởng có kinh
nghiệm trong lĩnh vực giám sát môi trường. Các nhân viên hoặc quan trắc viên phải
có ít nhất hai năm kinh nghiệm trước khi công nhận là quan trắc viên có kinh
nghiệm, nếu không đủ tiêu chuẩn này, các nhân viên hoặc quan trắc viên này phải
làm việc dưới sự giám sát.
• Hệ thống giám sát phải đảm bảo rằng nhân viên hoặc quan trắc viên đã được đào
tạo để tiển hành thành thạo các phép giám sát nhất là vận hành thiết bị. Các quan
trắc viên chỉ được tiến hành các phép giám sát khi đã được công nhận là đã thành
thạo, nếu chưa cần phải giám sát và trong trường hợp này có thể giám sát bằng sử
dụng kỹ thuật kiểm soát chất lượng. Định kỳ đào tạo lại nhân viên.
• Hệ thống giám sát phải cập nhật được hồ sơ đào tạo của nhân viên trong Hệ thống
giám sát. Mục đích để chứng minh được rằng mọi cá nhân đều được đào tạo thích
hợp và họ có khả năng tiến hành thành thạo các phép giám sát đã đăng ký trong
chương trình giám sát. Hồ sơ lưu giữ bao gồm: chứng chỉ tốt nghiệp chính qui,
chứng chỉ các khóa học do trong và ngoài cơ quan chủ quản đào tạo, các khóa đào
tạo tác nghiệp (có thể là khóa học đào tạo lại).
1.8.3.2. Tiện nghi làm việc trong hệ thống giám sát
Hệ thống giám sát phải có các điều kiện về môi trường và biện pháp kiểm soát cần
thiết cho việc giám sát chất lượng môi trường như phòng ốc, tiện nghi cá nhân, tiện
nghi làm việc, tiện nghi giám sát.
1.8.3.3. Thiết bị
Là một trong các phần chủ yếu trong hệ thống chất lượng, Hệ thống giám sát phải có
chương trình bảo dưỡng và kiểm chuẩn thiết bị. Các thiết bị được phân hạng như sau:
• Thiết bị và tiện nghi lấy mẫu.
• Thiết bị hệ thống đo đạc chất lượng môi trường tự động (nếu có).
• Thiết bị phòng thí nghiệm phân tích.
• Máy tính và phần mềm xử lý số liệu.
2. CƠ SỞ KHOA HỌC THIẾT KẾ MẠNG LƯỚI GIÁM SÁT MÔI
TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
2.1. MỤC TIÊU GIÁM SÁT
Một trong những bước đầu tiên của thiết kế một mạng lưới giám sát chất lượng không
khí là phải xác định được mục tiêu tổng thể cho toàn hệ thống mạng trạm. Và như vậy,
chính xác là xác định mục tiêu tổng thể cho hệ thống số liệu giám sát mà tự bản thân
nó là một trong những chức năng và nhiệm vụ của cả hệ thống giám sát. Các mục tiêu
của hệ thống giám sát chất lượng không khí này thường được đặt ra là:
(1) Định lượng và diễn biến chất lượng không khí theo thời gian.
(2) Cung cấp số liệu chất lượng không khí để kiểm soát theo luật pháp.
(3) Thông báo định kỳ số liệu chất lượng không khí.
(4) Xác định hiệu quả kiểm soát đối với chất lượng không khí.
(5) Cung cấp số liệu chất lượng không khí cho các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
(6) Xác định mối quan hệ giữa phát thải và hệ tiếp nhận.
(7) Cung cấp xu thế ô nhiễm của chất lượng không khí.
(8) Cung cấp số liệu đầu vào cho mô hình hóa.
(9) Cung cấp số liệu để trao đổi thông tin.
(10) Phối hợp cùng với các hệ thống giám sát khác.
2.2. NGUYÊN TẮC THIẾT LẬP HỆ THỐNG TRẠM NỀN Ô NHIỄM KHÔNG
KHÍ
Nhìn chung các tiêu chí để đặt trạm nền ô nhiễm không khí tại các tổ chức thế giới hay
quốc gia như sau:
(1) Vị trí trạm không được đặt ở những nơi có sự biến động lớn về qui hoạch về độ
dài của thời gian và về mọi hướng của vị trí (ví dụ như phải cách xa nhà máy
nhiệt điện khoảng 60 km, khoảng cách có thể ngắn hơn cho các nguồn thải nhỏ
hơn khác).
(2) Vị trí trạm phải cách xa các trung tâm đô thị, công nghiệp, giao thông vận thải.
Đối với nguồn thải nhỏ tại chỗ cần phải cách xa với khoảng cách vài nghìn mét,
nhưng vị trí đặt trạm không được đặt tại nơi có gió quá lớn.
(3) Vị trí trạm không được đặt ở những nơi có nhạy cảm về thiên tai như núi lửa,
cháy rừng, bão cát v.v.
(4) Địa hình là một điều kiện để xem xét vị trí đặt trạm (ví dụ không đặt trạm ở
những nơi như thung lũng, đỉnh núi v.v nếu như vị trí đó không đại diện cho điều
kiện trung bình toàn vùng).
(5) Thiết lập đo đạc các thông số khí tượng như một trạm khí tượng đầy đủ nhất cùng
với trạm giám sát môi trường.
Trong phạm vi hẹp hơn, mạng lưới giám sát chất lượng không khí cho một lãnh thổ, sự
phân loại trạm và vị trí đặt trạm phải đảm bảo các đòi hỏi sau đây:
(1) Đối với trạm nền vùng đối tượng kiểm soát là chất ô nhiễm từ các khu vực lân
cận chuyển tới. Do vậy phải đặt xa các nguồn thải địa phương.
(2) Đối với trạm nên Quốc gia đối tượng kiểm soát là các chất nhiễm bẩn thường
xuyên biên giới lãnh thổ và được mang đến từ dòng không khí trên cao.
Như trên đã nói thành phần này thường không lớn do vậy phải loại trừ được các nhiễm
bẩn địa phương xa các khu vực có nguồn thải lớn, ví dụ các ống khói ximăng hay nhiệt
điện. Phân định ranh giới của các khu vực trong mạng lưới nền Quốc gia phải dựa trên
các hoàn lưu lớn. Nước ta nằm trong khu vực ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và gió
mùa tây nam. Mức độ ảnh hưởng của chúng không giống nhau. Phần phía bắc chịu ảnh
hưởng mạnh có gió mùa đông bắc còn phần phía nam là gió mùa tây nam. Như vậy
trong lưới nền Quốc gia có hai trạm là hợp lý.
2.3. CÁC YẾU TỐ KHÍ TƯỢNG VÀ GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ
Các yếu tố khí tượng quan trọng nhất trong giám sát chất lượng không khí là gió, nhiệt
độ, độ ẩm, giáng thủy, bức xạ Mặt trời v.v. Số liệu quan trắc khí tượng tại trạm nhất
thiết phải được chuyên gia khí tượng xử lý.
Các thành phần không khí chuyển động theo hướng gió chính và dao động theo
khuyếch tán rối. Hướng gió chủ đạo chi phối trực tiếp đến phân bố thành phần ô nhiễm
do đó cần một nghiên cứu kỹ lưỡng và thông tin liên quan đến gió, số liệu gió phải lấy
ít nhất là 5 năm số liệu liên tục của một trạm giám sát khí tượng (thông thường là 10
năm hoặc nhiều hơn). Các xoáy được tạo ra do vật cản như núi đồi, công trình cao v.v
làm thay đổi ngẫu nhiên hướng gió và do đó làm thay đổi ngẫu nhiên sự lan truyền
chất ô nhiễm.
Độ ổn định và không ổn định khí quyển ảnh hưởng đến khả năng lan truyền của vật
chất trong khí quyển theo phương nằm ngang và thẳng đứng.
Hàm lượng độ ẩm và giáng thủy của khí quyển ảnh hưởng lớn các hiệu quả ăn mòn và
độ nhìn thấy. Độ ẩm là nguyên nhân quan trọng trong việc tạo mây, nước mây và
giáng thủy.
2.4. ĐỘ CAO ĐO ĐẠC CÁC CHẤT Ô NHIỄM
Xét theo quan điểm khí tượng học, số đo biểu diễn trung bình hóa thời gian là chìa
khóa để mô tả các dao động, các biến thiên trung bình của các hiện tượng. Các thông
số chất lượng không khí phụ thuộc vào các yếu tố khí tượng rất nhiều, do đó các yếu tố
khí tượng thông thường được tính bằng trung bình hóa thì các thông số chất lượng
không khí cũng vì vậy cũng phải được đo liên tục và dài hạn mới biểu thị được xu thế
theo không gian và thời gian như các thông số khí tượng tại các trạm quan trắc. Các
chất gây ô nhiễm không khí thường là các chất hóa học mà bản chất của chúng liên
quan rất nhiều đến điểu kiện khí tượng. Các chất hạt thì ngoài nhiệt độ không khí ra
chúng còn phụ thuộc các yếu tố khí tượng khác như độ ẩm, tốc độ và hướng gió. Các
quá trình hóa học xảy ra cho các chất hạt phức tạp hơn nhiều so với các chất khí. Các
biến đổi theo phân bố kích cỡ hạt, tính chất lý, hóa học của các chất hạt xảy ra không
ngừng và do vậy nguồn phát thải và nguồn tiêu hủy các chất hạt ít được biết đến.
Chúng thường ở dạng lơ lửng, đặc biệt là ở trong không khí khu vực thành phố, nơi có
những bề mặt gồ ghề không thể xuyên qua được, đó là lý do để các chất hạt quay trở
lại trong khí quyển và ít có khả năng tiêu hủy chất hạt.
Các chất ô nhiễm khác như SO2, NOx, CnHm, CO đều có nguồn gốc từ thiên nhiên
nhưng chúng cũng là các sản phẩm của quá trình đốt cháy của nhiên liệu. Nhưng tầm
quan trọng của các chất này là chúng là tiền chất của một số chất có khả năng gây hại
rất lớn. Hơn nữa sự gia tăng nguồn thải, các chất ô nhiễm ngày càng tăng, mối liên hệ
này càng cần phải được kiểm soát và đó chính là mục tiêu của chương trình giám sát
dài hạn. Do vậy giám sát dài hạn các chất ô nhiễm là cần thiết cho bất kỳ một dự án
giám sát chất lượng không khí cho mọi lĩnh vực quan tâm dù là không khí ô nhiễm
như tại các đô thị và khu công nghiệp hay là chương trình giám sát không khí nền. Chỉ
có đo đạc dài hạn mới có thể diễn giải được mối tương quan giữa nguồn thải và chất
lượng không khí khi đánh giá ô nhiễm không khí đến hệ chịu tác động ô nhiễm, ví dụ
như sức khỏe cộng đồng. Thời gian tối thiểu để có những số liệu cơ bản có thể đánh
giá chất lượng không khí phải là một năm với một chương trình đo liên tục. Thông
thường ở các mạng lưới giám sát trên thế giới đo đạc diến ra hàng chục năm.
Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên, cần xác định chiều cao đo đạc ô nhiễm như thế
nào là tốt và đại diện cho trạng thái của môi trường không khí. Thông thường đối với
không khí đô thị, nồng độ các chất ô nhiễm được đo từ độ cao từ 1,5 m – 3 m là độ cao
các chất có khả năng gây hại cho con người. Nhưng cũng không phải tác giả nào cũng
cho rằng chất nào cũng vậy. Ví dụ như CO chẳng hạn, họ cho rằng đo ở 30 cm là tốt
nhất vì khí thải của các ôtô được thải ra từ độ cao này. Nhưng sau đó các nhà khoa học
lại chứng minh rằng rối cơ học sau các ôtô và các đặc tính lan truyền của các nguồn
thải sát mặt đất này sẽ đại diện cho phân bố nồng độ là độ cao từ 2 – 3 m. Đối với các
chất CnHm, cũng không phải chỉ do giao thông vận tải thải ra mà còn do nhiều công
nghệ sản xuất sử dụng các chất hữu cơ dễ bay hơi hay các lò đốt công nghiệp sử dụng
nhiên liệu lỏng và khí đốt.
Tại hệ thống trạm nông thôn hay trạm nền, độ cao đo đạc là một vấn đề quan trọng.
Nếu độ cao đo đạc như đô thị từ 1,5 – 3 m thì xảy ra vấn đề là các chất ô nhiễm có
nguồn gốc tại chỗ liệu có làm ảnh hưởng đến chất lượng mẫu hay không? Một trong
những qui phạm đặt trạm là phải cách xa nguồn thải do con người, vậy thì việc giám
sát chất lượng môi trường này có ý nghĩa như thế nào để có thể giám sát được các vận
chuyển chất thải từ nơi khác đến và chất thải ngay tại chỗ. Tại hệ thống trạm nền quốc
tế, việc đo đạc các chất khí được lấy ở độ cao trùng với đo đạc gió (10 m), còn chất hạt
lơ lửng được lấy ở độ cao từ 1,5 – 3m. Đó cũng là lý do tại sao chiều cao đo đạc rất
khác nhau cho mỗi hệ thống giám sát.
2.5. KỸ THUẬT VÀ THIẾT BỊ LẤY MẪU
2.5.1. Các nguyên tắc chung cho kỹ thuật lấy mẫu
Có năm nguyên tắc áp dụng trong kỹ thuật lấy mẫu môi trường không khí xung quanh
nhằm giảm thiểu sai số và tối ưu hóa hiệu quả lấy mẫu trong không khí đó là:
(1) Mẫu khí phải có tính đại diện được về thời gian, địa điểm và điều kiện lấy mẫu.
(2) Thể tích lấy mẫu đủ lớn để tiến hành phân tích chính xác, điều này phụ thuộc các
chất ô nhiễm và các phương pháp phân tích.
(3) Tốc độ lấy mẫu phải thể hiện hiểu quả cao nhất trong thu thập.
(4) Độ dài thời gian lấy mẫu và tần số lấy mẫu phải phản ánh chính xác mức độ ô
nhiễm. Ví dụ bốn mẫu – 6 h/ngày cho nhiều thông tin về các biến đổi nồng độ
chất ô nhiễm hơn là một mẫu 24 h/ngày. Hiện nay các phương pháp lấy mẫu và
phân tích liên tục trong 24 h được ưa chuộng hơn.
(5) Các chất gây ô nhiễm không được thay đổi hay biến đổi trong quá trình thu thập
mẫu.
2.5.2. Các nguyên tắc chung cho tính năng thiết bị lấy mẫu
Các thiết bị lấy mẫu cần được chế tạo phù hợp với các đặc điểm sau:
(1) Khoảng thời gian lấy mẫu:
• Lấy mẫu từng lần (hay lấy mẫu gián đoạn): Thiết bị lấy mẫu từng lần phải đảm bảo
khả năng làm việc liên tục trong 20 phút (không được nhỏ hơn) và người vận hành
luôn phải có mặt trong thời gian lấy mẫu.
• Lấy mẫu trung bình ngày đêm: Thiết bị lấy mẫu này phải đảm bảo:
- Khả năng làm việc trong vòng 24 h liên tục có thể không có mặt người vận hành.
- Khả năng dừng tức thời để người vận hành thay phin lọc hoặc các dụng cụ hấp
thụ.
- Khả năng làm việc trong chế độ tự động khi không có mặt người vận hành và
thiết bị được tự động theo kiểu liên tục hoặc chu kỳ.
(2) Lưu lượng không khí trong khi lấy mẫu:
• Lưu lượng nhỏ : không lớn hơn 10 l/phút đối với lưu lượng nhỏ.
• Lưu lượng trung bình : từ 10 – 500 l/phút đối với lưu lượng trung bình.
• Lưu lượng cao : không nhỏ hơn 500 l/phút đối với lưu lượng cao.
(3) Các máy lấy mẫu khí phải được trang bị bộ phận đo thể tích mẫu:
Lưu lượng kế hoặc một cụm chi tiết máy có khả năng duy trì một giá trị đã định
trước của lưu lượng.
(4) Chức năng thiết bị:
Một kênh lấy mẫu hoặc nhiều kênh lấy mẫu: Có khả năng thay đổi lưu lượng
không khí trong mỗi kênh riêng biệt.
2.5.3. Thiết bị lấy mẫu
Từ những nguyên tắc trên có rất nhiều kỹ thuật và thiết bị khác nhau về lấy mẫu các
chất gây ô nhiễm không khí. Các tiêu chuẩn thường qui định rất nghiêm ngặt trong
việc lấy mẫu hay cụ thể hơn về thiết bị lấy mẫu theo từng chất gây ô nhiễm không khí.
2.5.3.1. Lấy mẫu các chất hạt
Chất hạt được lấy mẫu làm hai loại: hạt lơ lửng và hạt lắng. Như đã biết hạt lơ lửng
(bụi lơ lửng ) có kích thước rất nhỏ từ 1 – 40 µm, còn các hạt lớn hơn gọi là bụi có khả
năng lắng đọng.
A.Lấy mẫu bụi lơ lửng
Có rất nhiều phương pháp để lấy mẫu bụi lơ lững, thông dụng nhất cho thu thập loại
hạt này là phương pháp màng lọc. Nguyên lý là dùng bơm hút một lượng không khí đi
qua một phin lọc có tính năng giữ được các hạt bụi này lại. Các cơ chế giữ các hạt bụi
này là trên các cái lọc là các lực trọng trường, ma sát, lực cản và khuếch tán. Thiết bị
High – Volume (Hi – Vol) được sử dụng rộng rãi tại các nước trên thế giới để lấy bụi
tổng số (Total Suspended Pảticulate – TSP) còn các loại khác có tốc độ út thấp hơn
như từ 20 – 50 l/phút dùng để lấy mẫu PM10 (Particulate Matte 10 µm). Nhật Bản có
23 trạm để lấy mẫu 24 h bụi lơ lửng tổng số. Số liệu phân tích về sau của loại mẫu bụi
24h này là: tổng lượng bụi, các chất chứa bezen hòa tan, benzo(a)pyren , sunfat, nitrat
hòa tn và các kim loại nặng. Hiện nay theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) mới chỉ có
hai chỉ tiêu qui định cho bụi lơ lửng là nồg độ bụi tổng số (TSP) và chì trong bụi.
B.Giấy lọc
Có hai loại được sử dụng cho mục đích này đó là loại phin lọc màng làm từ vật liệu
sợi xenluloza, còn loại kia làm bằng vật liệu sợi thủy tinh. Cả hai loại đều có thuộc
tính bền với tốc độ cao của khối không khí đi qua (>1000 l/phút) và vẫn giữ được cấu
trúc mạng của lưới lọc.
C. Bơm hút lấy mẫu bụi
Bơm hút lấy mẫu bụi cần đạt được các thông số sau: có bộ phận chỉnh tốc độ dòng hút
sao cho khi lấy mẫu tốc dộ hút không phụ thuộc vào nguồn điện
có nghĩa là tốc độ không được đổi trong thời gian lấy mẫu. Các
bộ phận được nối từ bơm lấy mẫu đến bộ phận lấy mẫu phải kín,
không rò rỉ để cho mẫu có giá trị trung thực như lượng chất ô
nhiễm có mặt mà mẫu thu thập được.
2.5.3.2. Lấy mẫu các chất khí và hơi
Kỹ thuật lấy mẫu được chia làm bốn loại:
• Loại 1: Lấy mẫu tức thời: sử dụng bình đã hút hết không khí, bình có thể làm bằng
thủy tinh hoặc thép không gỉ có gắn các van hoặc đồng hồ chỉ áp lực.
• Loại 2: Lấy mẫu bằng tay: là các thiết bị bao gồm bơm hút chân không và bộ phận
thu mẫu. Theo phương pháp hấp thụ thì bộ thu mẫu này là bình chứa sẵn dung dịch
cố định chất ô nhiễm. Theo phương pháp hấp phụ thì bộ thu mẫu bao gồm các ống
nhồi các chất có khả năng hấp phụ như than hoạt tính, silicagen, v.v..Phải có một
bộ phận đo lưu tốc dòng khí đi qua các chất hấp thụ hoặc hấp phụ để ghi lại thể
tích khí đã lấy. Các mẫu này được giải hấp và phân tích trên máy sắc ký hay máy
sắc ký – khối phổ.
• Loại 3: Lấy mẫu tự động: là các thiết bị có thể lấy mẫu tự động theo trình tự. Thiết
bị bao gồm bơm hút chân không và chương trình do người sử dụng đặt chế độ thời
gian và lưu lượng khí không khí cho lấy mẫu. mỗi cửa lấy mẫ cho một mẫu, số cửa
có thể lên đến 12. Nếu đặt sẵn 12 mẫu, các mẫu sẽ được lấy theo trình tự từ 1 -12
theo thời gian và lưu lượng đã đặt trước.
• Loại 4: Lấy mẫu tự động và phân tích liên tục: là các thiết bị lấy mẫu hiện đại sử
dụng các phương pháp vật lý để phân tích hóa học như tia tử ngoại, tia tử ngoại
huỳnh quang, phát quang hóa học để phát hiện và đo nồng độ chất ô nhiễm trong
không khí xung quanh. Các thiết bị này cho kết quả theo thời gian thực và không
cần lấy mẫu như các phương pháp nêu trên. Hiện nay các phương pháp này được
Mỹ và EC (Liên minh châu Âu) phê duyệt sử dụng trong đo đạc môi trường không
khí xung quanh thay các phương pháp cổ điển trước kia.
2.5.4. Thiết bị sử dụng trong giám sát môi trường không khí hiện nay
Theo TCVN hiện nay các dạng đo đạc được xác định như sau:
• Đo đạc liên tục trực tiếp các chất ô nhiễm môi trường thông thường như bụi lơ
lửng (TSP), các chất khí như SO2, NOx, CO…
• Đo đạc các chất ô nhiễm có độc tính đặc thù đòi hỏi hệ thống phân tích phức tạp,
đó là hệ thống AAS (hệ thống quang phổ hấp thụ nguyên tử) dùng để định lượng
kim lọai nặng và sắc khí hoặc khối phổ (thông thường dùng ghép nối với khối phổ
gọi là sắc ký – khối phổ (GC-MS), hoặc sắc ký lỏng – khối phổ (LC-MS) dùng để
phân tích độc chất.
2.5.4.1. Thiết bị xách tay
Thiết bị xách tay được sử dụng nhiều trong đo đạc khảo sát chất lượng môi trường tại
Việt Nam cũng như trên thế giới. Các thiết bị này có ưu điểm gọn nhẹ mà vẫn mang
hiệu quả và tính khoa học. Muốn lắp đặt một chương trình giám sát chất lượng không
khí (hệ thống mạng lưới điểm đo) người ta bắt buộc phải tiến hành một khảo sát mang
tính khả thi các điểm đo dự kiến. Trong trường hợp này nếu không sử dụng các thiết bị
xách tay thì sẽ không có kết quả tốt. Mặt khác trong một mạng lưới điểm đo cố định,
người ta sẽ tiến hành các cuộc đo đạc định kỳ nhằm bổ sung số liệu, lúc này vai trò các
thiết bị xách tay là rất quan trọng.
2.5.4.2. Thiết bị lắp đặt cố định
Trạm giám sát môi trường được đặt ra để theo dõi thường xuyên chất lượng không khí
tại những điểm đã được qui hoạch sẵn. Các trạm này thường có các thiết bị đồng bộ đo
các thông số môi trường và các yếu tố liên quan đến chất lượng môi trường cụ thể là
các thông số khí tượng. Một trạm bao gồm các thiết bị đã nêu trên được lắp đặt đồng
bộ trong nhà hoặc trong một côngtennơ hoặc nhà trạm. Các phụ kiện bảo đảm cho thiết
bị đo hoạt động tự động là hệ thống điện, hệ thống điều hòa không khí, hệ thống điều
khiển thiết bị, hệ thống ghi chép số liệu và truyền tín hiệu (truyền tin), thiết bị văn
phòng đảm bảo cho nhân viên làm việc như bàn ghế máy tính. Côngtennơ này nếu lắp
trên một xe ôtô sẽ là một trạm di động đo đạc chất lượng môi trường.
2.6. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÁC CHẤT Ô NHIỄM SỬ DỤNG TRONG
GIÁM SÁT
Mỗi quốc gia khi xây dựng cho mình hệ thống tiêu chuẩn chất lượng không khí xung
quanh bao giờ cũng đi kèm theo hệ thống tiêu chuẩn lấy mẫu và phương pháp phân
tích các chất ô nhiễm. Các tiêu chuẩn này nhìn chung là mang tính quốc tế về phương
pháp. Tiêu chuẩn các nước thường tham khảo các tiêu chuẩn nổi tiếng như: tiêu chuẩn
quốc tế ISO, tiêu chuẩn Mỹ như EPA, ASTM, APHA, tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế
Thế giới WHO, tiêu chuẩn Anh như BS, tiêu chuẩn Nhật Bản như JIS. Sau đây là bảng
tổng hợp các tiêu chuẩn của một số quốc gia về đo lường chất lượng không khí.
Bảng 1.3.Bảng tổng hợp các phương pháp phân tích qui chuẩn của một số quốc gia
Phương pháp
Chất Mỹ Singapo Thái
Indônêxia Srilanka Việt Nam
phântích (USEPA) (USEPA) Lan
ô nhiễm
Chất hạt
- TSP
- Trung bình năm Hi-Vol Hi-Vol Hi-Vol Hi-Vol
- 24 h Hi-Vol Hi-Vol Hi-Vol Hi-Vol Hi-Vol Không qui định
-8h Hi-Vol
-3h Hi-Vol Không qui định
-1h Hi-Vol
Chì trong TSP
- Trung bình năm ASS
- 3 tháng ASS ASS
- 24 h ASS ASS ASS ASS
Chất khí
SO2
- Trung bình năm PRA PRA PRA
- 24 h Xung H.Q PRA Xung H.Q PRA PRA PRA
-8h PRA
-1h PRA PRA
CO
- Trung bình năm
- 24 h GC
-8h NDIR NDIR NDIR NDIR NDIR GC
-1h NDIR NDIR NDIR NDIR GC
- Bất kỳ NDIR GC
O3
- Trung bình năm
- 24 h C hưa có tiêu chuẩn
-8h TQTN TQTN
- Max. 1 h TQTN PQHH TQTN PQHH PQHH
NOx
- Trung bình năm PQHH PQHH
- 24 h Saltzman Saltzma C hưa có tiêu chuẩn
-8h n
-1h PQHH Saltzma C hưa có tiêu chuẩn
n
Saltzma
n
Ghi chú:
Hi-Vol : Lấy mẫu phân tích lớn và cân khối lượng.
ASS : Lấy mẫu thể tích lớn và phân tích Pb bằng máy quang phổ hấp
thụ nguyên tử.
PRA : Phân tích SO2 bằng phương pháp Pararosanilin-Manual = phân
tích không tự động.
Xung H.Q : Xác định nồng độ SO2 trực tiếp bằng phương pháp xung huỳnh quang.
NDIR : Xác định nồng độ CO bằng phương pháp hồng ngoại không khuyếch tán.
GC : Phân tích CO bằng phương pháp sắc ký khí.
TQTN : Xác định trực tiếp O3 bằng phương pháp trắc quang tử ngoại.
PQHH : Xác định trực tiếp O3 bằng phương pháp phát quang hóa học.
PQHH : Xác định trực tiếp NO2 bằng phương pháp phát quang hóa học.
Saltzman : Phân tích NO2 bằng phương pháp Saltzman.
2.7. QUI TRÌNH VÀ CHÍNH SÁCH VẬN HÀNH
2.7.1. Các cơ sỏ điểu hành mạng lưới trạm giám sát môi trường không khí
2.7.1.1. Các loại mạng hiện hành
Hiện có hai loại mạng trạm:
• Một là mạng trạm vận hành thủ công (manual) sử dụng loại thiết bị phin lọc, bơm
hút, ống sục, bình hứng bụi lắng... Các mẫu này cần được chuẩn bị, xử lý trước bà
sau khi lấy mẫu. Kỹ thuật viên phải mang chúng đến điểm lấy mẫu xác định thời
gian lấy mẫu và xử lý chúng theo phương pháp chuẩn. Ưu điểm của qui trình này là
các qui trình lấy mẫu và phân tích rất chi tiết, dễ hiểu do đó giúp các kỹ thuật viên
dễ dàng thực hiện. Nhược điểm của qui trình là tiêu tốn thời gian, nhân lực và tiền
của. Giá trị kinh tế hao tổn do tốn quá nhiều công đoạn cơ học. Hơn nữa nếu có
một sai sót nào đó trong một công đoạn nào đó, thời gian phát hiện ra sai sót đó là
khá lớn, thông thường ít khi có thể tìm ra được.
• Loại thứ hai là loại có thể hoạt động liên tục theo thời gian thực (real-time) được
xem như rất thuận tiện theo kiểu trạm điều khiển từ xa. Trạm này được quan trắc
rất phù hợp, theo giờ làm việc. Sai số và các việc nảy sinh có thể hiệu chỉnh nhanh
chóng trong giờ là việc của các kỹ thuật viên. Các phép hiệu chuẩn và khí zero
được các kỹ thuật viên kiểm soát theo tần suất giám sát nhưng các thiết bị này đắt
tiền, do tính năng kỹ thuật rất cao của chúng. Thông thường chúng là các thiết bị tự
động và bán tự động hoặc tự ghi và được truyền về trung tâm xử lý (ví dụ, một
người có thể theo dõi vài trạm).
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng loại trạm hoạt động liên tục theo
thời gian, chỉ có một số rất ít các nước đang phát triển vẫn áp dụng loại trạm thủ công.
Tại Việt Nam, hiện cũng đang có hai hệ thống trạm kiểu này: một của Cục Môi trường
và một của ngành Khí tượng thủy văn.
2.7.1.2. Trạm cố định
Trạm cố định là loại trạm đo đạc thường xuyên các yếu tố môi trường, lắp đặt cố định
các thiết bị dùng đo đạc các chất đại diện cho môi trường. Loại trạm này thường gặp
tại các mạng trạm của các tổ chức môi trường quốc tế như của WMO, WHO, hay tại
các trạm quốc gia của các nước phát triển. Trong khu vực Đông Nam Á, các nước như
Thái Lan, Singapo, Đài Loan, Philipin, Malaysia... đều có các trạm này bao gồm các
trạm quốc gia hoặc các trạm thành phố. Như đã nêu ở trên, tùy theo mức độ phát triển
kinh tế, xã hội (lưu ý phần phát triển công nghiệp và mức sống dân cư) theo điều kiện
gió và địa hình, đặt các trạm cố định. Do tính chất cố định nên việc lựa chọn địa điểm
đặt trạm cũng có vai trò quan trọng như kỹ thuật đo lường. Mặc dù rất khó có thể định
vị chính xác các điểm trạm cố định có khả năng đáp ứng được các yêu cầu cần và đủ
của một trạm, nhưng có thể đưa ra một số các nguyên tắc để xem xét lựa chọn như sau:
• Trong phạm vi 1 km xung quanh trạm, vị trí đặt trạm sẽ không có sự thay đổi nào
đáng kể về phát triển trong khoảng thời gian 5 năm (xây dựng, qui hoạch...).
• Không được đặt trạm tại nơi có nguồn thải cục bộ, để các số liệu đo đạc mang tính
đại diện cho cả khu. Thông thường vị trí đặt trạm là vị trí mà ở đó thiết bị đo không
“nhìn thấy“ bất cứ một nguồn phát thải nào trong khi thiết bị làm việc. Hay nói một
cách khác, vị trí đặt trạm phải càng xa càng tốt đối với nguồn thải gần nhất theo
phương nằm ngang. Do đó, có thể đặt ở bãi trống, cánh đồng hoặc trên mái nhà
bằng phẳng.
• Hạn chế tối đa nhân viên làm việc trong một trạm và
• Tạo điều kiện tối đa cho nhân viên quan trắc.
2.7.1.3. Trạm lưu động
Để có số liệu đầy đủ hơn về chất lượng môi trường không khí, người ta có thể bổ sung
và hệ thống trạm cố định bằng các trạm lưu động. Các nguyên tắc chọn vị trí trạm này
cũng như đối với trạm cố định đã nêu trên. Theo kinh nghiệm của các dự ánh đã được
triển hai, người ta chia khu vực thành các ô vuông và quan trắc đo đạc tại các nút hoặc
tâm ô vuông tạo thành một mạng lưới giám sát chất lượng không khí. Khoảng cách có
thể là 100 m hoặc hơn, để khảo sát kỹ lưỡng về nguồn thải hoặc để khẳng định tính
khả thi của mô hình toán đánh giá chất lượng không khí.
Để tính toán và đánh giá nguồn thải SO2 trên toàn châu Âu, EEC và OECD thiết lập
một dự án LRTAP (Long Range Transmission Air Program) trong đó lưới ô vuông
trên toàn châu Âu có chiều dài mỗi cạnh là 127 km. Dự án này thực hiện trong hai
năm.
2.7.2. Các chương trình quan trắc sử dụng trong giám sát môi trường không khí
Chương trình này quan trắc sáu hoặc bảy thông số liên quan đến tiềm năng gây ô
nhiễm không khí. Quyết định dẫn đến đo đạc thường xuyên các thông số này dựa trên
cơ sở tác động của những hợp chất này đến sức khỏe con người, động vật, thực vật và
các vật chất của cải của xã hội. Các chất ô nhiễm được quan trắc liên tục và thường
xuyên đó là:
1. Chất hạt lơ lửng tổng số (TSP).
2. Các chất hạt lơ lửng có đường kính nhỏ hơn hoặc bằng 10 μm (PM10).
3. Các nitơ oxyt (NOx).
4. Lưu huỳnh đioxyt (SO2).
5. Cacbon monoxyt (CO).
6. Chất oxy quang hóa (qui về O3).
7. Các hydrocacbon (HC).
8. Và một số hợp chất khác như NH3, một số chất hữu cơ độc hại v.v.
3. CƠ SỞ KHOA HỌC THIẾT KẾ MẠNG LƯỚI GIÁM SÁT CHẤT
LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
3.1. PHÂN LOẠI HẠNG TRẠM GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG NƯỚC ĐỂ THIẾT
KẾ MẠNG LƯỚI GIÁM SÁT
Để có được hệ thống số liệu chính xác và tin cậy phục vụ các mục đích kinh tế và xã
hội về chất lượng nước cần phải được thực hiện thông qua một chương trình giám sát.
Việc giám sát chất lượng nước không thể làm qua loa mà nó phải có các căn cứ khoa
học và đi theo nó là tính kinh tế. Chính vì vậy, đầu tư cho giám sát chất lượng nước
không thể là một con số kinh phí rẻ tiền mà ngược lại cần phải có một xem xét xứng
đáng trong việc phân tích các nguồn lực làm sao đáp ứng được yêu cầu của việc giám
sát này đặt ra. Chiến lược giám sát chất lượng nước cũng như giám sát môi trường
không khí cũng bao gồm bốn bước. Mục tiêu giám sát cũng như trong phần chất lượng
môi trường không khí đã nêu, đó chính là mục tiêu sử dụng số liệu của giám sát, bao
gồm 9 mục tiêu (xem phần 2.1). Ngoài ra mục tiêu giám sát chất lượng nước thiên
nhiên cần phải được thể hiện qua các tiêu chí cụ thể như sau:
(1) Xác định chất lượng nước thiên nhiên khi không có nguồn thải gia nhập đáng
kể.
(2) Xác định xu thế dài hạn của các chỉ thị cơ bản về ô nhiễm môi trường nhất là
đối với nguồn nước ngọt.
(3) Xác định thông lượng độc chất của các chất hóa học, dinh dưỡng và chất lơ
lửng từ thủy vực cửa sông đến giao diện giữa lục địa và biển.
Hiện nay trên thế giới dựa vào các cơ sở ở trên tiến hành đồng thời ba loại hệ thống
giám sát chất lượng nước.
3.1.1. Hệ thống trạm giám sát chất lượng nước cơ bản
Bao gồm các trạm được đặt ở hồ chính hoặc đầu nguồn sông khi sông chưa bị phân
nhánh. Vị trí trạm được đặt tại khu vực không bị ảnh hưởng trực tiếp sự khuyếch tán
hay nguồn điểm xả thải. Các nhiệm vụ của hạng trạm này bao gồm:
(1) Thiết lập hiện trạng chất lượng nước tự nhiên.
(2) Cung cấp cơ sở để so sánh chất lượng nước cơ bản của những nơi không có
nguồn thải gia nhập trực tiếp và những trạm chất lượng nước có tác động của
nguồn thải.
(3) Thông qua phân tích xu thế, xác định mức độ ảnh hưởng của vận chuyển xa các
chất gây ô nhiễm hoặc của biến đổi khí hậu. Số lượng của hạng trạm này đại diện
cho các bề mặt hợp lý (ví dụ như đại diện cho khí hậu, chế độ thủy văn, địa lý, thực
vật của vùng v.v.).
3.1.2. Hệ thống trạm giám sát xu thế chất lượng nước
Bao gồm các trạm được đặt ở hồ hoặc thủy vực sông hoặc tầng chứa nước lớn. Nhiệm
vụ thứ nhất của chúng ta là theo dõi dài hạn chất lượng nước có liên quan đến các
nguồn ô nhiễm và sử dụng đất. Nhiệm vụ thứ hai là cung cấp cơ sở để xác định nguyên
nhân hay ảnh hưởng đến hiện trạng chất lượng nước đã đo lường được hay xu thế đã
tính toán được. Số lượng của hạng trạm này đủ để đại diện được cho vùng có các tác
động của con người đến chất lượng nước cơ bản và phụ thuộc vào nguồn nước của cả
vùng.
3.1.3. Hệ thống trạm giám sát thông lượng nước
Bao gồm các trạm được đặt tại các cửa sông. Nhiệm vụ của chúng ta là xác định tổng
thể thông lượng các chất ô nhiễm cơ bản này từ thủy vực sông đến biển. Các chất được
xem xét trong dòng thông lượng này có thể là hữu cơ và vô cơ hay các thông số cơ bản
khác của chất lượng nước như cacbon, nitơ, phospho được bổ sung vào chất lượng
nước từ các yếu tố địa hóa. Để tính toán được dòng thông lượng chất này, đo đạc dòng
chảy nước là rất quan trọng.
3.2. NGUYÊN TẮC THIẾT LẬP TRẠM GIÁM SÁT MÔI TRƯỜNG NƯỚC
3.2.1. Nguyên tắc chung thiết lập hệ thống mạng lưới trạm giám sát
Khác với môi trường không khí và biển (đại dương), đối với chất lượng nước, phần
liên thông của môi trường mang tính cục bộ hơn nhiều. Do vậy với mỗi đối tượng
nước riêng biệt, tiêu chí để thiết lập trạm cũng khác nhau. Sau đây là những xem xét
khoa học về độ lớn của thủy vực khi thiết lập hệ thống trạm giám sát.
3.2.1.1. Thủy vực lớn
Thủy vực lớn được xem xét cho các đầu nguồn hoặc thượng lưu sông hoặc các hồ lớn
(kể cả hồ chứa) có thời gian lưu nước từ 0,5 – 2 năm, vị trí đặt trạm nền cơ bản cần
phải:
• Ở những thủy vực ít có biến động.
• Không có nguồn thải gia nhập trực tiếp.
• Không có hoạt động trực tiếp của con người.
• Tránh xa những thủy vực có thành phần khoáng kim loại cao.
• Cách xa các trung tâm đô thị và công nghiệp có nguồn thải khí lớn.
3.2.1.2. Thủy vực trung bình
Thủy vực trung bình được xem xét cho các loại sông hoặc các hồ có thời gian lưu
nước từ 1- 3 năm, vị trí đặt trạm nền theo dõi xu thế cần phải:
• Ở những thủy vực kích thước trung bình.
• Độ nhạy cảm trung bình về ô nhiễm và sử dụng đất.
• Mức độ gây ô nhiễm từ nguồn có thể kiểm soát được (ví dụ như từ một nguồn:
công nghiệp, đô thị, nông nghiệp, mỏ khai thác v.v).
3.2.1.3. Các loại sông
Đối với các loại sông, vị trí đặt trạm nền theo dõi thông lượng chất lượng nước cần
phải:
• Ở những thủy vực có kế hoạch ưu tiên cho thoát nước, khu dân cư, các hoạt
động chính của con người, vùng cửa sông.
• Nếu đặt ở vùng hạ lưu thì không được đặt ở vị trí có ảnh hưởng triều.
• Trạm cần phải đại diện cho những vùng sông có đặc điểm phân lưu hoặc nhập
lưu.
• Phải có sẵn số liệu dòng chảy tại các trạm giám sát chất lượng nước.
3.2.2. Các yêu cầu chung cho đặt vị trí điểm đo chất lượng môi trường nước
3.2.2.1. Các vấn đề về chất lượng nước
Sự lựa chọn vị trí đặt trạm phụ thuộc vào loại hình ô nhiễm cần giám sát. Bản thân loại
hình ô nhiễm mà ta quan tâm lại phụ thuộc vào vấn đề mục đích sử dụng nước. Do vậy
một số vấn đề về chất lượng nước cần quan tâm đến được liệt kê như sau:
• Chất thải hữu cơ từ hệ thống thoát nước thải đô thị và công nghiệp hóa nông
nghiệp.
• Sự phú dưỡng của các loại nước mặt được coi như kết quả nguồn thải điểm và
diện các chất hữu cơ và dinh dưỡng.
• Sự đe dọa mặn hóa và ô nhiễm nước ở các vùng có nước tưới tiêu tuần hoàn.
• Sử dụng hóa chất nông nghiệp, phân hóa học, thuốc trừ sâu dẫn đến nhiễm độc
nguồn nước mặt và nước ngầm.
• Chất thải công nghiệp có chứa các chất độc hữu cơ và vô cơ.
• Nước thải và nước rò rỉ từ khai thác mỏ.
• Sự axit hóa các hồ và sông thậm chí cả nước ngầm từ các vận chuyển lan truyền
xa các chất ô nhiễm không khí.
Bảng 1.4. Tiêu chí và mục đích sử dụng nước
STT Tiêu chí sử dụng nước Mục đích sử dụng
A Các loại nước ngọt
1 Nước uống và sinh hoạt Phục vụ cộng đồng
2 Tưới tiêu nông nghiệp Giá trị hàng năm mùa màng
3 Chăn nuôi Số lượng gia súc và giá trị thương mại
4 Nước sử dụng cho công nghiệp: Sản lượng công nghiệp hàng năm
- Nước làm lạnh
- Nước sử dụng trong công nghiệp
thực phẩm
- Và các loại nước khác
B Nước mặt
1 Nước nuôi trồng thủy sản Chất lượng thủy sản đánh bắt nuôi trồng
2 Giải trí Số lượng người, tần suất sử dụng v.v.
3 Giao thông thủy Số lượng và chất lượng hàng hóa chuyên
chở
4 Thoát nước Tiềm năng nguy hại, giá thành xử lý
Sự lựa chọn các hạng trạm vì thế phụ thuộc vào mục đích sử dụng nước và vào vị trí
địa lý của từng trạm. Ví dụ nếu đặt vị trí trạm vào khu vực hạ lưu nguồn thải có đô thị
hoặc công nghiệp lớn sẽ có chất lượng nước khác hơn so với vị trí đặt ở thượng lưu
nguồn thải.
3.2.2.2. Sử dụng số liệu
Số liệu được chia thành hai loại: vận hành – kiểm soát và lập kế hoạch thực hiện các
mục tiêu sử dụng nước.
A. Số liệu vận hành – kiểm soát
Mục đích số liệu loại này bao gồm:
(1) Xác định khu vực cần thiết phải tăng cường và đánh giá khi có khẩn cấp.
(2) Bảo vệ sử dụng nước bằng cách xác định hiệu quả các biện pháp kiểm soát dể duy
trì hoặc nâng cao chất lượng nước.
(3) Đo lường các xu thế biến đổi chất lượng nước để phát hiện và khắc phục.
(4) Đánh giá các tác động làm biến đổi chất lượng nước do đầu vào của hệ thống nước.
(5) Xác định chất lượng nước tại khu vực nguồn nước biên giới.
(6) Đánh giá tải lượng chất ô nhiễm từ sông xả vào biển theo triều.
Bốn mục tiêu đầu tiên nhằm mục đích vận hành và kiểm soát chất lượng nước tại địa
phương hay vùng, trong khi mục tiêu 5 và 6 phục vụ mục đích chất lượng nước quốc
tế.
B. Lập kế hoạch
Lập kế hoạch sử dụng số liệu bao gồm:
(1) Cung cấp thông tin về chất lượng nước phục vụ yêu cầu sử dụng nước trong
tương lai.
(2) Dự báo các biến đổi chất lượng nước theo số liệu đầu vào.
(3) Trợ giúp việc ước tính có thay đổi về thủy lực trong chế độ nước (ngăn sông,
thay đổi độ sâu của một hồ v.v).
(4) Xem xét sử dụng mô hình toán học.
(5) Thông báo phạm vi và xu thế của các chất nguy hại đặc biệt.
3.3. LẬP KẾ HOẠCH LỰA CHỌN VỊ TRÍ GIÁM SÁT
3.3.1. Xem xét vị trí trạm
Việc lấy mẫu phân tích trên toàn bộ hệ thống kéo theo kinh phí khá lớn do đó việc lập
kế hoạch trước khi tiến hành lấy mẫu và phân tích cho cả hệ thống giám sát là rất quan
trọng. Lựa chọn vị trí giám sát cần phải được tiến hành rất cẩn thận và theo một quá
trình logic với đầy đủ các chứng cứ khoa học. Thông thường trước khi hệ thống hoạt
động, một khảo sát sơ bộ là bước cần thiết để lựa chọn vị trí trạm. Ngoài việc số liệu
khảo sát này để kiểm chứng lại chất lượng nước tại nơi dự định trạm giám sát còn ý
nghĩa về việc vị trí trạm có thuận tiện cho việc lấy mẫu và chuyên chở mẫu từ nơi lấy
đến phòng thí nghiệm và giá cả cho toàn bộ các việc phụ trợ này.
3.3.2. Tổ hợp các thông tin
Các thông tin cho việc thiết lập một trạm cần phải được liệt kê như sau:
Tiến hành một nghiên cứu nhỏ bao gồm các xem xét và thống kê về số liệu chất lượng
nước đã có sẵn. Trong nghiên cứu này các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội cần phải
được xem xét và kỹ càng tốt kể cả trong qui hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn. Các điều
kiện này bao gồm:
• Các nguồn thải dù là nguồn điểm hay nguồn phân tán.
• Các đặc điểm địa lý, địa hình, khí hậu và thời tiết, thủy văn, địa chất thủy văn.
• Các đặc điểm về sử dụng đất, đô thị hóa, công nghiệp hóa và nông nghiệp.
• Thu thập và thống kê các số liệu có sẵn về đặc điểm, mức độ và tầm quan trọng của
việc sử dụng nước. Các số liệu này yêu cầu cả về chất và lượng.
• Nguồn ô nhiễm tiềm năng trong tương lai cần phải liệt kê và mô tả kỹ. Các trạm xử
lý nước hiện có trong hiện tại và trong tương lai cần phải được mô tả nhằm xác
định khả năng tái sử dụng hoặc tái chế.
• Thu thập các số liệu về chất lượng nước. Các số liệu này cần phải được xử lý và
xác định được chất lượng và tuổi của số liệu.
• Sử dụng bản đồ để minh họa các khía cạnh quan trọng của các vấn đề liên quan đến
chất lượng nước hiện tại và tương lai.
3.3.3. Thẩm định các số liệu
Các số liệu sau khi đã thu thập được cần phải được thẩm định theo các yêu cầu sau:
• Thẩm định tầm quan trọng liên quan giữa các loại ô nhiễm và sử dụng đất.
• Thẩm định tầm quan trọng liên quan giữa các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
nước và sử dụng nước.
• Quyết định các thông tin nào để đáp ứng được yêu cầu kiểm soát, lập kế hoạch
giám sát trong đó bao gồm cả các thông tin chất ô nhiễm nguy hại đặc thù.
• Lựa chọn trạm hay vị trí đặt trạm có tiềm năng cung cấp các thông tin đã khẳng
định.
3.3.4. Khảo sát sơ bộ
Sau khi đã đưa ra một mạng lưới vị trí đo sơ bộ, cần phải tiến hành các khảo sát trên
hệ thống này. Các số đo này sẽ trợ giúp xác minh rõ các vị trí dự định có thỏa mãn hay
không hệ thống thông tin cần thiết của từng trạm hay vị trí đặt trạm. Các khảo sát
không chỉ được tiến hành tại hệ thống dự kiến mà còn cần phải được mở rộng ra cả
ngoài hệ thống dự kiến. Hơn nữa, các khảo sát này có thể được tiến hành theo qui
phạm thông thường như đại diện cho mùa hay một chu kỳ hoặc có thể tiến hành thậm
chí một lần.
Đối với hệ thống sông, khảo sát có thể bao gồm một mặt cắt sông để kiểm tra độ xáo
trộn theo chiều ngang của từng trạm. Các khảo sát này cần tiến hành cho cả hai mùa:
khô và mưa.
Đối với các hồ, các khảo sát cần tiến hành theo profil thẳng đứng và vào mùa tảo phát
triển cực đại và trước khi mùa đông kết thúc.
3.3.5. Đánh giá số liệu
Sau khi bắt đầu lấy mẫ và phân tích, số liệu được đưa về cho những chuyên gia có
trách nhiệm soát xét và phân tích số liệu chất lượng nước. Sau một chu kỳ nhất định
những số liệu này cần được thẩm tra xem chúng có còn đáp ứng yêu cầu sử dụng hay
không. Sự xem xét này rất cần thiết vì nó có thể đưa ra những kiến nghị về thay đổi về
vị trí đo đạc hoặc thông số đo đạc.
3.3.6. Lưu trữ số liệu tại trạm
Các thông tin cơ bản yêu cầu cho hệ thống sông, hồ là rất quan trọng cho từng trạm.
Các thông tin này bao gồm rất cụ thể về tên vị trí, tọa độ, địa lý của từng trạm, về các
điều kiện dòng chảy và vật lý, các ảnh hưởng đến chất lượng, đến sử dụng nước, và
mọi thông tin cụ thể về lấy mẫu và phân tích. Các phiếu kết quả này được tổ hợp lại
thành một hồ sơ cho từng trạm. Các thông tin này sẽ cho ở mục sau.
3.4. YÊU CẦU CẦN THIẾT CHO MỘT TRẠM GIÁM SÁT NƯỚC SÔNG
3.4.1. Tính đại diện
Vị trí đặt trạm được thể hiện thông qua chất lượng nước tại khu vực lấy mẫu. Nói một
cách khác mẫu phải được đại diện cho vị trí lấy mẫu, có nghĩa là trong mẫu phải chứa
các giá trị chất lượng của loại hình nước được lấy tại vị trí và thời gian lấy mẫu. Ví dụ
mẫu nước là đại diện chỉ khi loại hình nước này đã được xáo trộn hoàn toàn cho vị trí
lấy mẫu. Phục vụ cho mục đích xáo trộn này tại vị trí lấy mẫu các mặt cắt của sông
phải được kiểm tra và lấy mẫu theo bảng dưới đây.
Bảng 1.5. Vị trí lấy mẫu các mặt cắt sông
Lưu lượng trung bình năm Loại hình Số lượng điểm Số lượng mẫu lấy
(m3/s) nước lấy mẫu theo độ sâu
Nhỏ hơn 5 Suối nhỏ 2 1
5 – 150 Suối 4 2
150 – 1.000 Sông 6 3
Lớn hơn 1.000 Sông lớn Tối thiểu là 6 4
Thống kê sử dụng nước
hiện tại và trong tương lai

Thống kê các yếu tố ảnh


hưởng đến chất lượng nước
trong hiện tại và tương lai

Đánh giá tiềm năng nguồn:


sử dụng và chưa sử dụng

Thu thập số liệu chất lượng


nước sẵn có

Xử lý số liệu chất lượng và


các bản đồ

Thẩm định yêu cầu Thẩm định các ảnh


sử dụng hưởng đến chất lượng

Lập kế hoạch kiểm soát các


thông tin đã xác định

Các vị trí trạm có khả năng

Các trạm dự kiến

Đánh giá Vòng phản hồi

Khảo sát

Trạm phù hợp với yêu cầu

Trạm được chọn lọc

Lấy mẫu và phân tích

Hình 1.4. Sơ đồ nguyên tắc lựa chọn vị trí giám sát chất lượng nước
3.4.2. Tốc độ dòng chảy
Khi lấy mẫu nước sông đặc biệt cho các trạm giám sát thông lượng nước, việc tính
toán tổng lưu lượng đi qua của từng thông số quan trắc là đặc biệt quan trọng. Trong
việc lựa chọn trạm giám sát chất lượng nước sông, nếu không có đo đạc thông số tốc
độ dòng chảy thì cũng cần phải đặt trạm gần với trạm đang quan trắc tốc độ dòng chảy.
Trong trường hợp không có cả hai như trên, trạm phải được đặt ở vị trí thượng nguồn
hoặc hạ lưu nơi mà không có thay đổi về dòng chảy.
3.4.3. Điều kiện làm việc của quan trắc viên
Quan trắc viên thường phải mang một khối lượng lớn các đồ nghề (trang thiết bị cần
thiết) và mẫu nước trong khi làm nhiệm vụ. Do vậy, điều kiện để quan trắc viên có thể
làm việc được trong mọi thời tiết cũng như phương tiện để hoàn thành việc lấy mẫu
hoặc đo đạc là rất cần thiết.
3.4.4. Khoảng cách từ trạm đến phòng thí nghiệm
Mẫu nước bao gồm ba loại phân loại theo các phân tích sau này tại phòng thí nghiệm.
Loại thứ nhất là loại mẫu không cho gì, bảo tồn nguyên xi cho đến khi phân tích, loại
thứ hai là loại bảo tồn nhưng cho thêm chất bảo quản còn loại thứ ba là loại không bảo
tồn được và cũng cho thêm chất bảo quản mà phải phân tích ngay như các thông số
liên quan đến oxy (DO, BOD, COD). Do vậy khoảng cách từ trạm lấy mẫu đến phòng
thí nghiệm sao cho phù hợp để kết quả phân tích mẫu có ý nghĩa. Thông thường vận
chuyển mẫu từ trạm đến phòng thí nghiệm không quá 24 h.
3.4.5. Tính an toàn
Người lấy mẫu tại các trạm sông, hồ sẽ phải lấy mẫu kể cả khi xảy thời tiết xấu (mưa,
bão, lũ v.v). Các thiết bị an toàn cần phải được lưu ý trong trường hợp khẩn cấp.
3.4.6. Tiện nghi cho người lấy mẫu
Lưu ý đến các tiện nghi cho quan trắc viên, nhất là những điểm lấy mẫu đặc biệt, ví dụ
như áo phao, thuyền v.v.
3.4.7. Dữ liệu cơ sở cho một trạm giám sát chất lượng nước sông
3.4.7.1. Thông tin cơ sở
(1) Tên trạm.
(2) Vị trí địa lý: tỉnh/thành phố, huyện, xã.
(3) Tọa độ: kinh độ và vĩ độ.
(4) Độ cao (m) so với mực nước biển.
(5) Cảnh quan xung quanh vị trí lấy mẫu: tên làng gần nhất, cầu hoặc đặc điểm nào
đó.
(6) Khoảng cách theo độ dài sông bao gồm: từ nguồn ... km, trên giới hạn triều ...
km.
(7) Thủy vực chính tiêu thoát nước của sông.
(8) Các quốc gia có sông chảy qua:
- Thượng nguồn.
- Hạ lưu.
(9) Loại trạm: cơ bản, xu thế, thông lượng.
(10) Mã số trạm.
3.4.7.2. Thông tin Sông
(11) Chiều rộng của khúc sông tại vị trí lấy mẫu:
- Trung bình.
- Lớn nhất.
- Nhỏ nhất.
(12) Độ sâu của khúc sông tại vị trí lấy mẫu:
- Trung binh.
- Lớn nhất.
- Nhỏ nhất.
(13) Đặc điểm của bờ sông: điều kiện đi lại.
(14) Bản chất của đáy sông.
(15) Thủy thực vật.
(16) Tốc độ sông (tại giữa sông) (cm/s):
- Trung binh.
- Lớn nhất.
- Nhỏ nhất.
(17) Trạm đo tốc độ dòng chảy gần nhất: địa điểm, vị trí và khoảng cách từ trạm đo đến
trạm chất lượng nước.
(18) Phương tiện tốt nhất có thể có để đánh giá dòng tại vị trí và thời gian lấy mẫu.
(19) Tốc độ dòng (m3/s):
- Trung binh.
- Lớn nhất.
- Nhỏ nhất.
(20) Tốc độ dòng khi tràn bờ (đỉnh lũ) (m3/s).
(21) Phạm vị và tính qui tắc theo mùa của sự biến thiên dòng (tự nhiên hoặc có điều
chỉnh).
(22) Thành phần nước (độ cứng, pH, độ muối, chất lơ lửng, chất hữu cơ v.v.).
3.4.7.3. Lưu vực thoát nước
(23) Diện tích lưu vực thoát nước thượng lưu (km2).
(24) Đặc điểm khí hậu.
(25) Đặc điểm địa chất (lưu vực thượng lưu).
(26) Đặc điểm đất, lưu vực thượng lưu (thực vật tự nhiên, rừng, nông nghiệp, đô thị
v.v).
(27) Dân số trong lưu vực thượng lưu (năm tham khảo).
(28) Những thành phố chính nằm ở thượng lưu của vị trí lấy mẫu.
3.4.7.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến con người
(29) Sự sử dụng nước chính (uống và sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, giải trí,
hàng hải và đánh bắt thủy sản v.v.).
(30) Nguồn ô nhiễm lớn gần nhất (loại, khoảng cách, biện pháp kiểm soát).
(31) Các kiểu ô nhiễm khác (ghi rõ), tính chất, xu hướng và biện pháp kiểm soát.
(32) Sự lấy nước (vị trí, loại sử dụng, thể tích, số lượng người phục vụ, bề mặt tưới
v.v.).
(33) Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến chất lượng nước.
(34) Các thông tin giải thích có liên quan khác (dạng bài viết, không tính toán).
3.4.7.5. Lấy mẫu và phân tích
(35) Sự biến động của chất lượng nước trên mặt cắt (kiểm soát tính đồng nhất).
(36) Vị trí của điểm lấy mẫu trên sông.
(37) Độ sâu của vị trí lấy mẫu trên sông.
(38) Phương pháp lấy mẫu (từ thuyền, cầu).
(39) Thiết bị lấy mẫu.
(40) Sự khó khăn trong lấy mẫu do dòng chảy quá lớn (tần số và mùa).
(41) Sự dễ bị ảnh hưởng của trạm lấy mẫu.
(42) Tần số của việc lấy mẫu thường xuyên.
(43) Phòng thí nghiệm tiến hành phân tích.
(44) Khoảng cách đến phòng thí nghiệm, phương tiện và thời gian vận chuyển.
(45) Danh sách của các yếu tố đã được tiến hành tại điểm lấy mẫu và phương pháp sử
dụng.
(46) Thời gian trung bình giữa lúc lấy mẫu và bắt đầu phân tích trong phòng thí
nghiệm.
(47) Điều kiện bảo quản mẫu.
(48) Danh sách các yếu tố được phân tích thường xuyên và phương pháp sử dụng.
(49) Danh sách các yếu tố được phân tích không thường xuyên và phương pháp sử
dụng.
(50) Các xu hướng và thay đổi quan trọng của các thông số chất lượng nước trong
năm qua.
(51) Người thực hiện lấy mẫu.
(52) Ngày, tháng, năm lấy mẫu và phân tích.
3.5. YÊU CẦU CẦN THIẾT CHO TRẠM GIÁM SÁT NƯỚC HỒ
3.5.1. Các đặc điểm chung
Hồ được định nghĩa như là một khối nước ngọt được bao quanh bằng đất liền, có thể là
tự nhiên hay nhân tạo. Hồ được đặc trưng bởi các thông số về hình thái hồ, chế độ thủy
lực, hóa học, sinh học và bồi lắng. Các thông số này phụ thuộc vào tuổi hồ, lịch sử, khí
hậu và trữ lượng nước.
3.5.2. Trữ lượng nước
Thành phần nước trong hồ luôn bị ảnh hưởng bởi trữ lượng nước trong hồ, điều đó có
nghĩa là phụ thuộc vào sự cân bằng của toàn bộ lượng nước vào và ra của hồ. Lượng
nước chủ yếu vào của hồ thường là nước sông, suối mang theo một khối lượng lớn vật
chất có thể là thiên nhiên hoặc do con người hoặc cũng có thể là loại nước được xả
trực tiếp từ nước thải đô thị, công nghiệp, nông nghiệp. Đo lường lượng và chất lượng
nước vào hồ gặp nhiều khó khăn cũng vì lý do đa nguồn này. Lượng nước đầu ra của
hồ cũng tương tự như lượng nước vào, có thể là sông hoặc các sử dụng cho mục đích
kinh tế như công, nông nghiệp. Quá trình bốc hơi luôn được xem xét khi nghiên cứu
về hồ.
Thời gian lưu nước lý thuyết của hồ sẽ bằng thể tích của hồ chia cho tổng lượng nước
vào. Thời gian này rất khác nhau, có thể từ vài tháng đối với các hồ nông, đến hàng
chục năm và thời gian này càng tăng khi các hồ càng rộng và sâu. Thời gian lưu nước
là thời gian nhỏ nhất cần thiết để đạt cân bằng sau khi có một sự thay đổi lớn ở đầu
vào. Trong thực tế điều này hiếm khi xảy ra trừ khi hồ được trộn hoàn toàn. Mức độ
trộn sẽ khác nhau phụ thuộc vào hình dạng của hồ và vị trí của các kênh (sông) vào và
ra. Khi hồ dài hoặc có dạng hình cây với nhiều nhánh hoặc gồm nhiều lưu vực thì sự
hòa trộn ven bờ sẽ kém và sự biến đổi chất lượng nước sẽ xảy ra.
3.5.3. Phân loại về mặt dinh dưỡng của các hồ
Người ta có thể chia hồ làm bốn loại sau khi xét đến các sản phẩm quan trọng:
• Nghèo dinh dưỡng: Chất dinh dưỡng (chủ yếu là nitơ và phốt pho) có nồng độ
thấp và hạn chế. Sinh khối của nước ở mức độ thấp. Tốc độ phân hủy các chất hữu
cơ cân bằng với sự tạo thành chúng
• Dinh dưỡng trung bình: Có sự gia tăng trong việc cung cấp các chất dinh dưỡng
và có sự gia tăng tương ứng sinh khối và các chất hữu cơ. Những chất này bắt đầu
có sự tích lũy. Oxy ở đáy thường không trong tình trạnh bão hòa.
• Giàu dinh dưỡng: hồ chứa nhiều dinh dưỡng, sinh khối rất nhiều và chất hữu cơ
tích lũy với tốc độ cao cùng vói sự lắng đọng xuống đáy. Điều này dẫn đến sự tiêu
thụ oxy ở đáy, đôi khi đến hết.
• Rất giàu dinh dưỡng: có sự tích lũy quá mức các chất hữu cơ, chủ yếu dạng humic
và nó hạn chế hoạt động sinh học. Đa số các hồ này là các hồ nông và nước có tính
axit và trong quá trình chuyển thành đầm.
Bốn loại hồ này có thể xảy ra tự nhiên và đôi khi có khuynh hướng chuyển chậm từ
dạng nghèo dinh dưỡng sang dạng giàu dinh dưỡng bởi các quá trình tự nhiên do kết
quả của sự bồi lắng và thời gian.
Khi các chất dinh dưỡng đầu vào tăng lên – thông qua mưa, sông, nước ngầm, nước
thải, các hoạt độg của con người, thì có sự biến đổi nhanh chóng dể chuyển về trạng
thái giàu dinh dưỡng. Sự thay đổi phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ của các chất dinh dưỡng
trên một đơn vị diện tích hồ và thời gian lưu nước. Sự thúc đẩy này của quá trình tự
nhiên có thể cũng được xem như là sự ô nhiễm hữu cơ. Các tác động của nó là sự loại
oxy trong nước ở đáy hồ, giảm dộ trong, tăng chất hữu cơ lơ lững trong nước ở bề
mặt, thay đổi sinh vật phù du và các loài cá.
3.5.4. Sự phân tầng và độ xáo trộn nước
Một đặc tính khác của hồ cần quan tâm khi lấy mẫu là sự phân tầng nhiệt do ảnh hưởng
của nhiệt với khối lượng riêng của nước (khối lượng riêng của nước lớn nhất ở 40 C).
Lớp nước ấm trên bề mặt được gọi là tầng mặt và lớp nước lạnh hơn ở dưới là tầng
đáy. Giữa hai lớp nước là khu vực mà nhiệt độ thay đổi từ nhiệt độ của tầng mặt tới
nhiệt độ của tầng đáy. Khu vực này được gọi là tầng giữa hoặc tầng biến nhiệt. Tầng
đáy không có sự cấp khí trực tiếp từ khí quyển và có thể trở nên cạn kiệt oxy nếu có
chứa nhiều chất hữu cơ. Dưới điều kiện yếm khí, sự giảm các hợp chất khác nhau
trong trầm tích có thể xảy ra, một phần của chúng chuyển sang dạng có thể hòa tan và
phân tán vào trong lớp tầng đáy. Các chất tạo ra theo cách này gồm amoni, nitrat,
phosphate, sunfua, silicat, các hợp chất của sắt và mangan.
Khi thời tiết trở nên lạnh hơn, nhiệt độ của tầng mặt và tầng giữa còn hạ xuống thấp
hơn. Khi tầng mặt đạt đến nhiệt độ mà tại đó khối lượng riêng của nó lớn hơn khối
lượng riêng của tầng đáy thì có sự "nghịch đảo nhiệt" của nước hồ. Điều này xảy ra
tương đối nhanh và dẫn đến sự đảo trộn theo phương thẳng dứng trong nước hồ.
Sự phân tầng nhiệt thường không xảy ra với các hồ lớn trừ khi độ sâu của hồ lớn hơn
10 m. Nó cũng không thường xuất hiện với các hồ nhỏ, nông, đặc biệt ở những nơi có
tốc độ dòng mạnh.
Trong các vùng nhiệt đới và gần xích đạo, các hồ sâu thường phân tầng trong suốt
năm. Sợ phân tầng lâu dài này dẫn đến sự yếm khí liên tục của nước ở đáy hồ.
Tần suất của độ xáo trộn phụ thuộc vào khí hậu địa phương và các hồ có thể được
phân loại như sau:
• Đơn chu kỳ: 1 lần/ năm, hồ ôn đới, không đóng băng.
• Hai chu kỳ: 2 lần/ năm, hồ ôn đới, đóng băng.
• Đa chu kỳ: nhiều lần / năm, hồ ôn đới hoặc nhiệt đới nông.
• Không chu kỳ: ít trộn, hồ nhiệt đới sâu.
• Bán chu kỳ: trộn không hoàn toàn, chủ yếu các hồ không chu kỳ nhưng đôi khi là
hồ đơn chu kỳ và hai chu kỳ.
Độ xáo trộn gần bờ có thể bị ảnh hưởng do gió nhưng hiệu quả thường giới hạn ở các
lớp bề mặt.
3.5.5. Sự biến đổi theo mùa và theo hướng thẳng đứng của các hoạt động sinh học
Sinh khối của hồ sẽ ảnh hưởng nhiều đến chất lượng nước, các ảnh hưởng của chúng
sẽ khác nhau phụ thuộc theo tuổi của hồ. Các hoạt động có kết quả trực tiếp nhất là sự
quang hợp, chủ yếu do sinh vật trôi nổi tự dưỡng trên lớp nước phía trên của hồ (khu
vực dinh dưỡng tương ứng với lớp nước ấm tầng mặt). Điều này dẫn đến sự hấp thụ
các chất dinh dưỡng như nitơ, photpho và silic để tạo ra oxy và hấp thụ CO2 ở dạng tự
do hay kết hợp, và dẫn đến sự tăng giá trị pH.
Ở tầng đáy hồ, sự giảm sút về mặt vi sinh của các mảnh vụn tảo gây hiệu ứng "mưa"
từ khu vực dinh dưỡng phía trên dẫn đến sự tái sinh phosphor, nitơ vô cơ, tăng CO2,
chuyển theo hướng axit hóa nước và quan trọng hơn cả là sự giảm oxy. Ở các chu kỳ
nghịch đảo, chất lượng nước của hồ là đồng nhất từ đáy tới bề mặt hồ, trừ trường hợp
với hồ đơn chu kỳ - loại hồ này chỉ đồng nhất trong lớp bề mặt được trộn. Hóa học hồ
phức tạp hơn sông và nước ngầm là do quá trình bên ngoài (nước vào, hóa học, cân
bằng nước, bay hơi) và quá trình bên trong (hoạt động sinh học, trộn nước) mà dẫn đến
biến động chất lượng nước theo thời gian và phương thẳng đứng.
3.5.6. Lựa chọn vị trí
Khi lựa chọn vị trí giám sát chất lượng nước hồ/hồ chứa, nên thu thập các thông tin
một cách toàn diện như dung tích, diện tích bề mặt, độ sâu trung bình, thời gian thay
nước mới và các thông tin có thể có được như về đặc điểm nhiệt động, thủy lực và sinh
thái. Vị trí lấy mẫu nên đặt gần với điểm vào và ra các chất thải vào hồ. Nếu có sự xáo
trộn gián tiếp tốt và khối lượng lớn của nước gia nhạp thì một vị trí gần giữa hồ là đủ
để quan trắc tình trạng nền và xu thế. Nếu hồ được chia thành nhiều vịnh hay lưu vực
thì cần nhiều vị trí hơn. Theo các tài liệu, số lượng các điểm lấy mẫu sẽ bằng với giá
trị làm tròn của lôgarit diện tích hồ (theo kilômét vuông).
Nghiên cứu ban đầu giám sát chất lượng nước nên dựa trên hệ thống ô lưới và đường
cắt ngang để đưa ra mạng lưới điểm đo. Các thông tin từ nghiên cứu này sẽ đưa ra
những hướng dẫn hoặc xác định các vị trí thích hợp nhất cho việc lấy mẫu theo các
mục tiêu đã xác định. Trong ccá điểm lựa chọn, thời gian và nhân lực cho lấy mẫu tại
các điểm trên hồ thường lớn hơn so với lấy mẫu trên sông và nước ngầm.
3.5.7. Lấy mẫu theo các độ sâu của mặt cắt tại hồ
Vị trí lấy mẫu thường được xác định từ sự kết hợp của các mốc trên bờ và các độ sâu
của mặt cắt. Cố định chính xác về điểm lấy mẫu vào mỗi thời điểm không dễ dàng
nhưng điều này không quan trọng bởi vì có độ xáo trộn tốt. Tại mỗi mặt cắt, mẫu nước
sẽ được lấy ở những khoảng cách khác nhau và theo chiều thẳng đứng (độ sâu). Một
chương trình tối thiểu về lấy mẫu theo độ sâu như sau:
• Hai độ sâu (bề mặt và đáy) nếu độ sâu hồ nhỏ hơn 10 m.
• Ba độ sâu (bề mặt, tầng biến nhiệt và đáy) nếu độ sâu hồ nhỏ hơn 30 m.
• Bốn độ sâu (bề mặt, tầng biến nhiệt, phía trên của tầng đáy và đáy) nếu độ sâu hồ
nhỏ hơn 100 m.
• Nếu hồ sâu lớn hơn 100 m, các độ sâu hơn nữa sẽ được xem xét.
3.5.8. Thông tin cơ sở
(1) Tên trạm.
(2) Vị trí địa lý: tỉnh/ thành phố, huyện, xã.
(3) Kinh độ và vĩ độ (với các hồ chứa lớn).
(4) Độ cao (m) so với mặt biển.
(5) Cảnh quan xung quanh vị trí lấy mẫu: tên làng gần nhất, cầu hoặc địa điểm nào đó.
(6) Vị trí của điểm lấy mẫu trên hồ có liên quan đến bờ của hồ.
(7) Các vùng tiếp giáp với hồ.
(8) Hồ thuộc lưu vực sông.
(9) Nguồn gốc.
(10) Loại hồ (với các hồ chứa: loại và năm xây dựng).
(11) Loại trạm: cơ bản, xu thế, thông lượng.
(12) Mã số trạm.
3.5.8.2. Thông tin hồ chứa
(13) Diện tích bề mặt(km2)
(14) Chiều dài lớn nhất (km).
(15) Chiều rộng lớn nhất (km).
(16) Chu vi của hồ (km).
(17) Thể tích (km3).
(18) Độ sâu lớn nhất (m).
(19) Độ sâu trung bình (m).
(20) Thời gian đổ đầy lý thuyết (thể tích nước /dòng vào một năm).
(21) Tên (tốc độ thải trung bình) của các sông nhánh nhập vào và kênh (sông) ra:
- Sông nhánh (m3/s).
- Kênh (sông) ra (m3/s).
(22) Dao động mức nước hàng năm (m):
- Tự hiên.
- Điều tiết.
(23) Số lượng nước ở thượng lưu và hạ lưu chính (trong trường hợp có chuỗi hồ):
- Thượng lưu.
- Hạ lưu.
(24) Kiểu và chu kỳ phân tầng.
(25) Đặc điểm của nước (độ cứng, pH, muối, chất lơ lửng, đục v.v…).
(26) Tính trong suốt:
- Cao.
- Thấp.
- Trung bình.
(27) Đặc điểm dinh dưỡng:
- Nghèo dinh dưỡng.
- Dinh dưỡng trung bình.
- Giàu dinh dưỡng.
- Khá giàu dinh dưỡng.
- Rất giàu dinh dưỡng.
- Khác.
(28) Xu hướng (số liệu tự chọn về thành phần P, N và clorophyl trung bình) được đưa
ra.
3.5.8.3. Lưu vực thoát nước
(29) Diện tích lưu vựcthoát nước (km2).
(30) Độ cao lớn nhất (m).
(31) Độ cao trung trung bình (m).
(32) Đặc điểm khí hậu.
(33) Đặc điiểm địa chất.
(34) Đặc điểm đất (thực vật tự nhiên chính, rừng, nông nghiệp, đô thị…).
(35) Dân số trong lưu vực (năm tham khảo).
(36) Các thành phố chính gần hồ.
3.5.8.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến con người
(37) Sự sử dụng nước chính (uống và sinh hoạt, nông nghiệp, công ngjhiệp, giải trí,
hàng hải và đánh bắt thủy sản v.v.).
(38) Kiểu ô nhiễm (đặc tính và sử lý) và biện pháp kiểm soát.
(39) Mục đích sử dụng nước (vị trí, kiểu sử dụng, thể tích, số lượng người phục vụ, bề
mặt tưới v. v.).
(40) Các thông tin giải thích liên quan khác (dạng bài tiết, không tính toán).
3.5.8.5. Lấy mẫu và phân tích
(41) Các độ sâu đã lấy mẫu (m).
(42) Phương oháp lấy mẫu (dùng thuyền, cầu).
(43) Thiết bị sử dụng lấy mẫu.
(44) Sự khó khăn khi lấy mẫu (do thời tiết…).
(45) Sự dễ bị ảnh hưởng của trạm lấy mẫu.
(46) Tần suất của việc lấy mẫu thường xuyên.
(47) Danh sách các yếu tố đã được tiến hành tại điểm lấy mẫu và phương pháp sử
dụng.
(48) Phòng thí nghiệm phân tích mẫu.
(49) Khoảng cách đến phòng thí nghiệm, phương tiện và thời gian vận chuyển.
(50) Thời gian trung bình giữa lúc lấy mẫu và bắt đầu phân tích trong phòng thí
nghiệm.
(51) Điều kiện bảo quản mẫu.
(52) Danh sách các yếu tố được phân tích thường xuyên và phương pháp sử dụng.
(53) Danh sách các yếu tố được phân tích không thường xuyên và phương pháp sử
dụng.
(54) Các xu hướng và thay đổi quan trọng của các thông số chất lượng nước trong
năm qua.
(55) Người thực hiện.
(56) Ngày, tháng, năm lấy mẫu.
4. QA/QC TRONG HỆ THỐNG GIÁM SÁT
4.1. MỤC ĐÍCH
Các tính toán chính xác xu thế chất lượng môi trường đòi hỏi dãy số liệu đo đạc được
phải chính xác theo chuỗi thời gian đo đạc. Chương trình đảm bảo và kiểm tra chất
lượng (QA/QC) không chỉ áp dụng cho số liệu chương trình giám sát chất lượng môi
trường mà còn được áp dụng cho cả các chương trình quan trắc phụ trợ khác như hệ
thống số liệu khí tượng thủy hải văn.
4.1.1. Đặc trưng của chương trình QA
• Sử dụng những phương pháp đã được chấp nhận.
• Trang thiết bị được bảo dưỡng và hiệu chuẩn thích hợp.
• Sử dụng mẫu chuẩn đã được chứng nhận, ngày hiệu chuẩn, kiểm định thiết bị và
phương pháp.
• Kiểm tra chất lượng nội bộ một cách có hiệu quả.
• Thiết lập chương trình đánh giá chất lượng liên trạm.
• Đánh giá độc lập các thủ tục kiểm soát.
• Đánh giá bên ngoài thông qua các chương trình phù hợp.
• Đội ngũ cán bộ được đào tạo thích hợp.
4.1.2. Đặc trưng của chương trình QC
QC là một chương trình đánh giá nằm trong chương trình QA của một tổ chức có hệ
thống kiểm soát chất lượng. Chương trình QC bao gồm các mẫu kiểm soát chất lượng
để đánh giá độ chính xác và độ tập trung các phép lấy hoặc thu thập mẫu, phép đo
lường và phân tích tại hiện trường (tại trạm) và tại phòng thí nghiệm.
4.1.2.1. Các mẫu kiểm soát chất lượng
• Mẫu QC hiện trường
Thủ tục lấy mẫu bao gồm kế hoạch lấy mẫu và thủ tục lấy mẫu.
Mẫu QC hiện trường bao gồm mẫu trắng, mẫu trắng vận chuyển, mẫu thêm vào hiện
trường và mẫu lặp hiện trường v.v.
• Mẫu QC phòng thí nghiệm
Mẫu QC phương pháp.
Mẫu QC thiết bị.
4.1.2.2. Tiêu chuẩn chấp nhận kiểm soát chất lượng và hành động khắc phục
• Tiêu chuẩn chấp nhận QC là sử dụng một số giới hạn để cảnh báo và kiểm soát
nhằm mục đích nhận dạng nguồn các sai số.
• Kế hoạch khắc phục các sai sót của QC.
4.1.2.3. So sánh liên trạm và liên phòng thí nghiệm
• Kế hoạch so sánh
- Chương trình so sánh sự thành thạo.
- Chương trình so sánh đo lường (đo đạc và phân tích phòng thí nghiệm).
• Tổ chức và thực hiện kế hoạch so sánh.
• Chương trình về mẫu môi trường để so sánh.
4.1.3. Nội dung hệ thống QA/QC
Nội dung của hệ thống QA/QC trong chương trình giám sát bao gồm hai phần chính.
4.1.3.1. Những yêu cầu về hệ thống quản lý
• Tổ chức và quản lý.
• Hệ thống chất lượng.
• Kiểm soát tài liệu.
• Xem xét các yêu cầu, khả năng.
• Kiểm soát việc đo đạc, phân tích không phù hợp.
• Hoạt động khắc phục.
• Hồ sơ.
• Đánh giá nội bộ.
• Xem xét của lãnh đạo.
4.1.3.2. Những yêu cầu về kỹ thuật
• Cán bộ.
• Tiện nghi và môi trường làm việc.
• Các phương pháp, thiết bị đo lường.
• Tính liên kết chuẩn đo lường.
• Lấy mẫu.
• Xử lý và vận chuyển các mẫu.
• Đảm bảo chất lượng các kết quả đo lường.
• Báo cáo kết quả.
5. CƠ SỞ QUI HOẠCH HỆ THỐNG TRẠM GIÁM SÁT Ô NHIỄM NỀN
QUỐC GIA (MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ VÀ NƯỚC)
Toàn bộ các phần từ mục một đến mục bốn là lý luận cơ sở để xây dựng một chương
trình giám sát ô nhiễm nền môi trường không khí và nước. Ở đây, một chương trình
giám sát chất lượng môi trường bao gồm toàn bộ thiết kế hệ thống trạm giám sát, qui
trình giám sát và tổ chức thực hiện vận hành giám sát. Trong tài liệu này các nội dung
nhằm mục đích xây dựng một chương trình giám sát chất lượng môi trường bao gồm:
(1) Xây dựng mục tiêu giám sát.
(2) Phân tích điều kiện tự nhiên của Việt Nam.
(3) Phân tích điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam đến 2010.
(4) Đánh giá hiện trạng các hệ thống trạm giám sát chất lượng môi trường ở Việt Nam
và Quốc tế.
(5) Đánh giá hiện trạng môi trường không khí và nước ở Việt Nam.
(6) Thiết kế dự kiến hệ thống giám sát ô nhiễm nền cần có của Quốc gia.
- Hệ thống trạm dự kiến.
- Kết quả đo đạc khảo sát.
- Kết quả vị trí trạm bằng phương pháp mô hình hóa.
(7) Qui hoạch tổng thể chương trình giám sát chất lượng môi trường.
(8) Trang thiết bị cho từng hệ thống trạm.

You might also like